You are on page 1of 95

Trình bày những chuyển biến mới của tình hình thế giới và Việt Nam cuối thế

kỷ XIX đầu thế kỷ XX tác động đến sự ra đời


của Đảng Cộng sản Việt Nam?...............................................................................................................................................3
Trình bày vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam?............................................4
Bằng những sự kiện lịch sử có chọn lọc, hãy chứng minh: Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời là một tất yếu?........................7
Vì sao nói Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố cơ bản quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam?........................8
Trình bày khái quát chính sách cai trị của thực dân Pháp và tác động của chính sách đó đến xã hội Việt Nam?................10
Phân tích nội dung đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp. Qua đó làm rõ sự sáng tạo của Đảng............................10
Những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam? Tại sao phải tiếp tục hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường định hướng XHCN?..........................................................................................................................13
Phân tích đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thể hiện trong Chính cương Đảng lao động Việt Nam được
thông qua tai Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng.............................................................................................13
Cương lĩnh chính trị đầu tiên tại Việt Nam. Liên hệ thực tiễn.............................................................................................14
Trình bày sự phát triển phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam 1919-1930 và giải thích tại sao giai cấp
công nhân trở thành giai cấp lãnh đạo của cách mạng Việt Nam?......................................................................................20
Giải thích tại sao giai cấp công nhân trở thành giai cấp lãnh đạo của cách mạng Việt Nam...............................................23
Phân tích đường lối cách mạng thể hiện trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 2 năm
1930)? Ý nghĩa của Cương lĩnh đối với tiến trình cách mạng Việt Nam?.............................................................................23
Phân tích quá trình chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức của Nguyễn Ái Quốc cho việc thành lập Đảng năm 1930.. 24
Phân tích nội dung cơ bản về đường lối cách mạng Việt Nam của Đảng nêu trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt
được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng tháng 2 năm 1930.........................................................................................25
Trình bày nội dung, làm rõ bước phát triển và hạn chế trong nhận thức của Đảng về đường lối cách mạng Việt Nam thể
hiện trong Luận cương chính trị tháng 10/1930.................................................................................................................25
Phân tích nội dung cơ bản của Luận cương chính trị tháng 10 năm 1930 và rút ra nhận xét?............................................26
Nêu những điểm giống và khác nhau về nhiệm vụ cách mạng tư sản dân quyền được xác định trong Cương lĩnh chính trị
đầu tiên và Luận cương chính trị tháng 10 năm 1930 của Đảng?.......................................................................................27
Phân tích nội dung cơ bản của đường lối đấu tranh đòi dân sinh dân chủ thể hiện trong các Nghị quyết BCHTW Đảng
(1936- 1939)........................................................................................................................................................................29
Phân tích nội dung cơ bản của đường lối đấu tranh giành chính quyền của Đảng được thể hiện trong các Nghị quyết TW
6, 7 và 8 (1939- 1941)..........................................................................................................................................................30
Vì sao Đảng Cộng sản Đông Dương chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược trong giai đoạn 1939-1945? Nội dung
chủ trương chiến lược mới của Đảng được thông qua tại Hội nghị BCHTW 8 (tháng 5 năm 1941)?..................................31
Làm rõ nguyên nhân Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945)? Đảng Cộng sản Đông Dương đã có chủ trương như thế nào? Ý
nghĩa của chủ trương?........................................................................................................................................................32
Phân tích chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền của Đảng trong cách mạng tháng Tám năm 1945?. 33
Tại sao nói: Sau cách mạng tháng Tám nước ta lâm vào tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”? Để giải quyết tình thế trên,
Trung ương Đảng và Chính phủ đã có những chủ trương như thế nào?.............................................................................34
Phân tích chủ trương giai đoạn 45-46. Rút ra bài học kinh nghiệm.....................................................................................35

1
Trình bày khái quát chính sách cai trị của thực dân Pháp và tác động của chính sách đó đến xã hội Việt Nam?................35
Phân tích đường lối xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng của Đảng (1945- 1946)..................................................38
Trình bày chủ trương của Đảng về xây dựng, phát triển văn hoá trong thời kì 1945- 1975. Qua đó làm rõ vai trò của văn
hoá trong kháng chiến.........................................................................................................................................................39
Sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược 1939-1945. Ý nghĩa của Cách mạng Tháng Tám.......................................................40
Đảng đã lãnh đạo đấu tranh và khởi nghĩa giành chính quyền Tháng Tám năm 1945 như thế nào?..................................42
Đảng lãnh đạo nhân dân tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược và đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược (1954-1975)
như thế nào? ý nghĩa lịch sử?.............................................................................................................................................42
Phân tích nội dung cơ bản về đường lối cách mạng miền Nam của Đảng do Hội nghị lần thứ 15 (Tháng 1/1959)?...........43
Công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa từ năm 1975 đến nay đã thu được những thành tựu như thế
nào? ý nghĩa lịch sử?...........................................................................................................................................................44
Quan điểm của đảng về công nghiệp hoá - hiện đại hoá.....................................................................................................45
Mục tiêu CNH-HĐH đến năm 2020:.....................................................................................................................................46
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa............................................................................................................................................46
Trình bày mục tiêu, quan điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng thời kỳ đổi mới. Kết quả, ý nghĩa, hạn chế,
nguyên nhân?......................................................................................................................................................................47
Phân tích, làm rõ quan điểm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa được thông qua tại Đại hội VIII 1996 của Đảng................48
Phân tích quan điểm của Đảng về công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thời kì đổi mới....................................................54
Phân tích định hướng đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn của Đảng..................................................................54
Trình bày các quan điểm chỉ đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
tại Hội nghị Trung ương 7, khóa X (7-2008).........................................................................................................................55
Trình bày quá trình thống nhất đất nước về mặt nhà nước sau ngày 30-04-1975?............................................................55
Trình bày nội dung cơ bản, ý nghĩa và hạn chế của Đại hội IV của Đảng (12-1976)?...........................................................57
Trình bày những quan điểm mới được đề ra tại Đại hội V của Đảng (3-1982). Nêu ý nghĩa và hạn chế của Đại hội...........58
Làm rõ yêu cầu khách quan của công cuộc đổi mới............................................................................................................59
Trình bày ba bước đột phá kinh tế của Đảng thời kỳ trước đổi mới? Nêu ý nghĩa?............................................................60
Trình bày những chủ trương đổi mới được đề ra tại Đại hội VI của Đảng (12-1986). Ý nghĩa của Đại hội VI......................63
Phân tích những đặc điểm của cơ chế quản lý kinh tế thời kì trước đổi mới, những bước đột phá trong đổi mới tư duy
của Đảng về cơ chế quản lý kinh tế trước đổi mới..............................................................................................................64
Trình bày khái quát quá trình đổi mới tư duy của Đảng về kinh tế thị trường định hướng XHCN từ 1986 đến nay...........65
Phân tích chủ trương xây dựng hệ thống chuyên chính vô sản trước thời kì đổi mới của Đảng.........................................66
Phân tích chủ trương xây dựng hệ thống chính trị trong thời kì đổi mới của Đảng............................................................66
Phân tích đường lối đối ngoại thời kì đổi mới từ năm 86 đến nay......................................................................................68
Phân tích những hạn chế trong việc giải quyết các vấn đề xã hội trong thời kì đổi mới.....................................................70
Phân tích những đổi mới của Đảng trong nhận thức về chính sách ngoại giao trong thời kì đổi mới.................................71
Chứng minh độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy nhất đúng. Đặc điểm miền Bắc khi bước vào
thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.................................................................................................................................73

2
Nội dung đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Miền Bắc..............................................................................................77
Phân tích nhiệm vụ, vị trí và mối quan hệ của chiến lược cách mạng XHCN ở miền Bắc và chiến lược cách mạng dân tộc
dân chủ ở miền Nam trong đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước được xác định tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ III của Đảng................................................................................................................................................................... 79
Trình bày nội dung và ý nghĩa đường lối chiến lược chung được Đảng ta thông qua tại Đại hội lần thứ III (tháng 9-1960)?
............................................................................................................................................................................................ 79
Ý nghĩa thắng lợi của kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở Miền Nam.................................................................................83
Trình bày đường lối kháng chiến chống Mỹ của Đảng được đề ra trong Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ 11 và lần thứ
12 năm 1965 và ý nghĩa của Nghị quyết?............................................................................................................................85
Đặc điểm cả nước khi bước vào thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội..............................................................................86
Trình bày sáu đặc trưng cơ bản xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội VII (6-1991)? Làm rõ đặc trưng về nền văn hóa
Việt Nam............................................................................................................................................................................. 88
Trình bày nội dung cơ bản và ý nghĩa lịch sử của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(gọi tắt là Cương lĩnh 1991) được thông qua tại Đại hội VII (6-1991)..................................................................................89
Trình bày những nhận thức mới về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được xác định tại Đại hội IX của Đảng
(4-2001). Ý nghĩa của Đại hội IX...........................................................................................................................................90
Trình bày những điểm bổ sung, phát triển chủ yếu của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) so với Cương lĩnh năm 1991...................................................................................91
Trình bày các quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát
triển bền vững đất nước, tại Hội nghị Trung ương 9, khóa XI (5-2014)...............................................................................93
Trình bày các quan điểm chỉ đạo của Đảng nhằm đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, được
thông qua tại Hội nghị Trung ương 8, khóa XI (11-2013)....................................................................................................93
Trình bày các quan điểm chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam
đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, được thông qua tại Hội nghị Trung ương 9, khóa XII (10-2018).........................94

Trình bày những chuyển biến mới của tình hình thế giới và Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX tác động đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam?

Tình hình trong nước:

Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Việt Nam đã có sự biến đổi rất quan trọng cả về chính trị, kinh tế, xã
hội. Chính sách cai trị và khai thác bóc lột của thực dân Pháp đã làm phân hóa những giai cấp vốn là
của chế độ phong kiến (địa chủ, nông dân) đồng thời tạo nên những giai cấp, tầng lớp mới (công nhân,
tư sản dân tộc, tiểu tư sản) với thái độ khác nhau. Những mâu thuẫn mới trong xã hội Việt Nam xuất
hiện. Trong đó, mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và phong kiến phản động
trở thành mâu thuẫn chủ yếu nhất và ngày càng gay gắt.

Tình hình thế giới:

3
Từ nửa sau thế kỷ XIX, Chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển nhanh từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang
giai đoạn độc quyền, đẩy mạnh xâm chiếm và nô dịch các nước nhỏ, yếu ở châu Á, châu Phi và khu
vực Mỹ-Latinh, biến các quốc gia này thành thuộc địa của các nước đế quốc. Trước bối cảnh đó, phong
trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa, tác động mạnh mẽ đến phong
trào yêu nước Việt Nam.

Vào giữa thế kỉ XIX, chủ nghĩa Mác ra đời, về sau được Lênin phát triển trở thành chủ nghĩa Mác-Lê
nin, chỉ rõ sự ra đời đảng cộng sản là yêu cầu khách quan đáp ứng cuộc đấu tranh của giai cấp công
nhân chống áp bức, bóc lột. Sự thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 và những hoạt
động cách mạng của Quốc tế Cộng sản đã làm biến đổi sâu sắc tình hình thế giới, có ý nghĩa to lớn đối
với cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản đối với các nước tư bản và có ảnh hưởng mạnh mẽ và thức tỉnh
phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam và Đông Dương.

Trình bày vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam?
Năm 1911, Nguyễn Tất Thành quyết định ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Qua
trải nghiệm thực tế qua nhiều nước.
Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng Xã hội Pháp, một chính đảng tiến bộ nhất lúc
đó ở Pháp. Tháng 6-1919, tại Hội nghị của các nước thắng trận trong Chiến tranh thế giới thứ nhất họp
ở Vécxây (Versailles), Tổng thống Mỹ Uynxơn tuyên bố bảo đảm về quyền dân tộc tự quyết cho các
nước nhược tiểu. Nguyễn Tất Thành lấy tên là Nguyễn Ái Quốc thay mặt Hội những người An Nam
yêu nước ở Pháp gửi tới Hội nghị bản Yêu sách của nhân dân An Nam (gồm tám điểm đòi quyền tự do
cho nhân dân Việt Nam) ngày 18-6-1919. Những yêu sách đó không được Hội nghị đáp ứng, những sự
kiện này đã tạo nên tiếng vang lớn trong dư luận quốc tế và Nguyễn Ái Quốc càng hiểu rõ hơn bản chất
của đế quốc, thực dân.
Tháng 7-1920, Người đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn
đề thuộc địa của V.I.Lênin đăng trên báo L’Humanité (Nhân đạo), số ra ngày 16 và 17-7-1920. Những
luận điểm của V.I.Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa đã giải đáp những vấn đề cơ bản và chỉ dẫn
hướng phát triển của sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc. Lý luận của V.I.Lênin và lập trường đúng
đắn của Quốc tế Cộng sản về cách mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa là cơ sở để Nguyễn Ái Quốc
xác định thái độ ủng hộ việc gia nhập Quốc tế Cộng sản tại Đại học lần thứ XVIII của Đảng Xã hội
Pháp (12-1920) tại thành phố Tua (Tour). Tại Đại hội này, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành
Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản do V.I.Lênin thành lập).
Ngay sau đó, Nguyễn Ái Quốc cùng với những người vừa bỏ phiếu tán thành Quốc tế Cộng sản
đã tuyên bố thành lập Phân bộ Pháp của Quốc tế Cộng sản - tức là Đảng Cộng sản Pháp. Với sự kiện
này, Nguyễn Ái Quốc trở thành một trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp và là người
cộng sản đầu tiên của Việt Nam, đánh dấu bước chuyển biến quyết định trong tư tưởng và lập trường
chính trị của Nguyễn Ái Quốc. Ngày 30-6-1923, Nguyễn Ái Quốc tới Liên Xô và làm việc tại Quốc tế
Cộng sản ở Mátxcơva, tham gia nhiều hoạt động, đặc biệt là dự và đọc tham luận tại Đại hội V Quốc tế
Cộng sản (17-6 - 8-7-1924), làm việc trực tiếp ở Ban Phương Đông của Quốc tế Cộng sản.
Sau khi xác định được con đường cách mạng đúng đắn, Nguyễn Ái Quốc tiếp tục khảo sát, tìm
hiểu để hoàn thiện nhận thức về đường lối cách mạng vô sản, đồng thời tích cực truyền bá chủ nghĩa
Mác-Lênin về Việt Nam.
Chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của Đảng.
4
Về tư tưởng. Từ giữa năm 1921, tại Pháp, cùng một số nhà cách mạng của các nước thuộc địa
khác, Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập Hội liên hiệp thuộc địa, sau đó sáng lập tờ báo Le Paria
(Người cùng khổ). Người viết nhiều bài trên các báo Nhân đạo, Đời sống công nhân, Tạp chí Cộng
sản, Tập san Thư tín quốc tế,...
Năm 1922, Ban Nghiên cứu thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp được thành lập, Nguyễn Ái Quốc
được cử làm Trưởng Tiểu ban Nghiên cứu về Đông Dương. Vừa nghiên cứu lý luận, vừa tham gia hoạt
động thực tiễn trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, dưới nhiều phương thức phong phú,
Nguyễn Ái Quốc tích cực tố cáo, lên án bản chất áp bức, bóc lột, nô dịch của chủ nghĩa thực dân đối
với nhân dân các nước thuộc địa và kêu gọi, thức tỉnh nhân dân bị áp bức đấu tranh giải phóng. Người
chỉ rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân, xác định chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của các dân tộc thể
hiện, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới. Đồng thời, Người tiến hành tuyên
truyền tư tưởng về con đường cách mạng vô sản, con đường cách mạng theo lý luận Mác-Lênin, xây
dựng mối quan hệ gắn bó giữa những người cộng sản và nhân dân lao động Pháp với các nước thuộc
địa và phụ thuộc.
Năm 1927, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa làm cốt, trong
đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy”14. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng giống
như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Phải truyền bá tư tưởng vô sản, lý luận Mác-
Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
Về chính trị. Nguyễn Ái Quốc đưa ra những luận điểm quan trọng về cách mạng giải phóng dân
tộc. Người khẳng định rằng, con đường cách mạng của các dân tộc bị áp bức là giải phóng giai cấp,
giải phóng dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản. Đường
lối chính trị của Đảng cách mạng phải hướng tới giành độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho đồng
bào.
Nguyễn Ái Quốc xác định cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa là một bộ phận của
cách mạng vô sản thế giới; giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa với cách mạng vô
sản ở “chính quốc” có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau, nhưng cách mạng giải phóng
dân tộc ở nước thuộc địa không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở “chính quốc” mà có thể thành công
trước cách mạng vô sản ở “chính quốc”, góp phần tích cực thúc đẩy cách mạng vô sản ở “chính quốc”.
Đối với các dân tộc thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ: trong nước nông nghiệp lạc hậu, nông dân
là lực lượng đông đảo nhất, bị đế quốc, phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề, vì vậy phải thu phục và lôi
cuốn được nông dân, phải xây dựng khối liên minh công nông làm động lực cách mạng: “công nông là
gốc của cách mệnh; còn học trò nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ... là bầu bạn cách mệnh của công nông”15.
Do vậy, Người xác định rằng, cách mạng “là việc chung của cả dân chúng chứ không phải là việc của
một hai người”16.
Về vấn đề Đảng Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Cách mạng trước hết phải có đảng cách
mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản
giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền
mới chạy.
Phong trào “Vô sản hóa” do Kỳ bộ Bắc kỳ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên phát động từ
ngày 29-9-1928 đã góp phần truyền bá tư tưởng vô sản, rèn luyện cán bộ và xây dựng phát triển tổ
chức của công nhân.
Về tổ chức. Sau khi lựa chọn con đường cứu nước - con đường cách mạng vô sản - cho dân tộc
Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc thực hiện “lộ trình” “đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết
5
họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”17. Vì vậy, sau một thời gian hoạt động ở Liên Xô để tìm
hiểu, khảo sát thực tế về cách mạng vô sản, tháng 11-1924, Người đến Quảng Châu (Trung Quốc) - nơi
có đông người Việt Nam yêu nước hoạt động - để xúc tiến các công việc tổ chức thành lập Đảng Cộng
sản. Tháng 2-1925, Người lựa chọn một số thanh niên tích cực trong Tâm tâm xã, lập ra nhóm Cộng
sản đoàn.
Tháng 6-1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tại Quảng Châu
(Trung Quốc), nòng cốt là Cộng sản đoàn. Hội đã công bố chương trình, điều lệ của Hội, mục đích: để
làm cách mệnh dân tộc (đập tan bọn Pháp và giành độc lập cho xứ sở) rồi sau đó làm cách mạng thế
giới (lật đổ chủ nghĩa đế quốc và thực hiện chủ nghĩa cộng sản). Hệ thống tổ chức của Hội gồm 5 cấp:
trung ương bộ, kỳ bộ, tỉnh bộ hay thành bộ, huyện bộ và chi bộ. Tổng bộ là cơ quan lãnh đạo cao nhất
giữa hai kỳ đại hội. Trụ sở đặt tại Quảng Châu.
Hội xuất bản tờ báo Thanh niên (do Nguyễn Ái Quốc sáng lập và trực tiếp chỉ đạo), tuyên truyền
tôn chỉ, mục đích của Hội, tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin và về phương hướng phát triển của cuộc
vận động giải phóng dân tộc Việt Nam. Báo in bằng tiếng Việt và ra hằng tuần, mỗi số in khoảng 100
bản. Ngày 21-6-1925 ra số đầu tiên, đến tháng 4-1927, báo do Nguyễn Ái Quốc phụ trách và ra được
88 số. Sau khi Nguyễn Ái Quốc rời Quảng Châu (4-1927) đi Liên Xô, những đồng chí khác trong Tổng
bộ đã tiếp tục việc xuất bản và hoạt động cho đến tháng 2-1930 với 202 số (từ số 89 trở đi, trụ sở báo
chuyển về Thượng Hải). Một số lượng lớn báo Thanh niên được bí mật đưa về nước và tới các trung
tâm phong trào yêu nước của người Việt Nam ở nước ngoài. Báo Thanh niên đánh dấu sự ra đời của
báo chí cách mạng Việt Nam.
Sau khi thành lập, Hội tổ chức các lớp huấn luyện chính trị do Nguyễn Ái Quốc trực tiếp phụ
trách, phái người về nước vận động, lựa chọn và đưa một số thanh niên tích cực sang Quảng Châu để
đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị. Từ giữa năm 1925 đến tháng 4-1927, Hội đã tổ chức được trên
10 lớp huấn luyện tại nhà số 13 và 13 B đường Văn Minh, Quảng Châu (nay là nhà số 248 và 250). Sau
khi được đào tạo, các hội viên được cử về nước xây dựng và phát triển phong trào cách mạng theo
khuynh hướng vô sản. Trong số học viên được đào tạo ở Quảng Châu, có nhiều đồng chí được cử đi
học trường Đại học Cộng sản phương Đông (Liên Xô) và trường Quân chính Hoàng Phố (Trung Quốc).
Sau sự biến chính trị ở Quảng Châu (4-1927), Nguyễn Ái Quốc trở lại Mátxcơva và sau đó được
Quốc tế Cộng sản cử đi công tác ở nhiều nước Châu Âu. Năm 1928, Người trở về châu Á và hoạt động
ở Xiêm (tức Thái Lan).
Các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc trong các lớp đào tạo, bồi dưỡng cho những người Việt Nam
yêu nước tại Quảng Châu, được Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông xuất bản thành cuốn
Đường Cách mệnh. Đây là cuốn sách chính trị đầu tiên của cách mạng Việt Nam, trong đó tầm quan
trọng của lý luận cách mạng được đặt ở vị trí hàng đầu đối với cuộc vận động cách mạng và đối với
đảng cách mạng tiên phong. Đường Cách mệnh xác định rõ con đường, mục tiêu, lực lượng và phương
pháp đấu tranh của cách mạng. Tác phẩm thể hiện tư tưởng nổi bật của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc dựa
trên cơ sở vấn đề sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào đặc điểm của Việt Nam. Những điều kiện về tư
tưởng, lý luận, chính trị và tổ chức để thành lập Đảng đã được thể hiện rõ trong tác phẩm.
Ở trong nước, từ đầu năm 1926, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã bắt đầu phát triển cơ sở
ở trong nước, đến đầu năm 1927 các kỳ bộ được thành lập. Hội còn chú trọng xây dựng cơ sở trong
Việt kiều ở Xiêm (Thái Lan). Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên chưa phải là chính đảng cộng sản,
nhưng chương trình hành động đã thể hiện quan điểm, lập trường của giai cấp công nhân, là tổ chức
tiền thân dẫn tới ra đời các tổ chức cộng sản ở Việt Nam. Hội là tổ chức trực tiếp truyền bá chủ nghĩa

6
Mác-Lênin vào Việt Nam và cũng là sự chuẩn bị quan trọng về tổ chức để tiến tới thành lập chính đảng
của giai cấp công nhân ở Việt Nam. Những hoạt động của Hội có ảnh hưởng và thúc đẩy mạnh mẽ sự
chuyển biến của phong trào công nhân, phong trào yêu nước Việt Nam những năm 1928-1929 theo xu
hướng cách mạng vô sản. Đó là tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Bằng những sự kiện lịch sử có chọn lọc, hãy chứng minh: Đảng Cộng Sản Việt Nam ra
đời là một tất yếu?

- Nói ĐCSVN ra đời là 1 tất yếu lịch sử vì tại thời điểm đó, Việt Nam ta đã có những điều kiện
cần và đủ cho sự ra đời của Đảng đã xuất hiện

o Điều kiện cần:

Sự du nhập của CN Mác – Lênin: Tháng 7-1920, Bác Hồ đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những
luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin đăng trên báo L’Humanité (Nhân đạo),
số ra ngày 16 và 17-7-1920. Sau khi đọc và hiểu được bản đề cương ấy, Nguyễn Ái Quốc đã rút ra kết
luận: “Muốn cứu nước và GPDT, ko còn con đường nào khác ngoài con đường CMVS”. Từ đó Người
tin theo CNCS, tin theo CN Mác - Lênin và tin theo Quốc tế III. Tháng 12/1920, Nguyễn Ái Quốc là 1
trong số 200 Đảng viên Đảng XH Pháp đã giơ tay biểu quyết lập ĐCS Pháp và đồng ý gia nhập Quốc
tế CS. Đây là 1 mốc son quan trọng trong lịch sử VN, ghi dấu lần đầu tiên lịch sử VN có 1 người chấp
nhận CNCS, tiếp thu CNCS và trở thành người CS. Từ đó, Người tìm mọi cách truyền bá CN Mác -
Lênin về VN và các nước thuộc địa thông qua làm báo, viết báo, truyền bá sách báo yêu nước, mang tư
tưởng CS về VN và Đông Dương. 1921 – 1924 là thời kỳ Nguyễn Ái Quốc truyền bá gián tiếp CN Mác
- Lênin về VN. 1925 trở đi, Nguyễn Ái Quốc truyền bá trực tiếp CN Mác - Lênin về VN thông qua Hội
VNCM thanh niên với phong trào “Vô sản hóa” do Kỳ bộ Bắc kỳ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh
niên phát động từ ngày 29-9-1928. CN Mác - Lênin và tư tưởng yêu nước của Nguyễn Ái Quốc đã tạo
nên đường CM mới ở VN. Nó góp phần quan trọng giải quyết khủng hoảng về đường lối cứu nước ở
VN.

Phong trào CN: CN VN ra đời gắn liền với sự du nhập CNTB kiểu Pháp vào VN. Từ cuối thế kỷ
XIX, đặc biệt là trải qua 2 cuộc khai thác thuộc địa đầu thế kỷ XX, CN VN cho đến đầu 1939 đã có 22
vạn người. Từ cuối chiến tranh thế giới I, nó đã thật sự trở thành 1 giai cấp mới, thật sự trở thành 1 lực
lượng chính trị mới nổi lên ở VN. Cho tới 1925, sau khi tổ chức Công hội đỏ ra đời, sau khi Hội
VNCM thanh niên ra đời và phát triển về VN, phong trào CN ở VN đã có bước phát triển nhảy vọt.
Đặc biệt sau phong trào VS hóa năm 1928 của tổ chức Hội VNCM thanh niên, CMVN đã thật sự tiếp
thu CN Mác và cho tới đầu 1929, phong trào CN VN đã chuyển hẳn từ đấu tranh từ phát sang đấu tranh
tự giác. Điều này được thể hiện qua việc trong hai năm 1928-1929, số lượng các cuộc đấu tranh của
công nhân đã lên tới 40 cuộc, tăng gấp 2,5 lần so với hai năm 1926-1927, điển hình là các cuộc bãi
công ở nhà máy xi măng Hải Phòng, nhà máy sợi Nam Định, diêm cưa Bến Thủy, xe lửa Trường Thi
(Vinh), mỏ than Mạo Khê, Hòn Gai (Quảng Ninh), cuộc bãi công của 200 công nhân xưởng sửa chữa
ôtô Avia (Hà Nội, 5/1929),…

o Điều kiện đủ: Phong trào yêu nước ở VN: Từ 1884 -1885 đi theo ngọn cờ Cần Vương mà đứng
đầu là vua Hàm Nghi nhưng cũng chỉ đến 1897 thì ngọn cờ phong kiến VN đã gãy đổ hoàn toàn. Sang
đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước VN đã hướng theo các tư tưởng DCTS được du nhập từ bên ngoài
vào, tiêu biểu là xu hướng bạo động của Phan Bội Châu, xu hướng cải cách của Phan Châu Trinh và
sau đó là phong trào tiểu tư sản trí thức của tổ chức Việt Nam Quốc dân đảng (12-1927 - 2-1930) đã
7
tiếp tục diễn ra rộng khắp các tỉnh Bắc kỳ, nhưng tất cả đều không thành công Phong trào yêu nước VN
đang gặp khủng hoảng về đường lối cứu nước và tổ chức lãnh đạo, đòi hỏi phải có 1 tổ chức CM tiên
tiến với đường lối CM đúng đắn và khoa học để giải quyết cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước và
tổ chức lãnh đạo của CMVN.

- 3 điều kiện cần và đủ đã nêu ở trên từ cuối 1929 đến đầu 1930 được kết hợp nhuần nhuyễn với
nhau trong thực tiễn CMVN và nó dẫn đến sự ra đời 3 tổ chức CS ở VN: Đông Dương CS Đảng
(17/6/1929, chủ yếu ở miền Bắc) – An Nam CS Đảng (8/1929) – Đông Dương CS Liên đoàn
(9/1929) ..Sự xuất hiện của 3 tổ chức CS này chứng tỏ phong trào CMVN đã đòi hỏi phải có Đảng lãnh
đạo nhưng sự tồn tại cùng lúc 3 tổ chức CS có nguy cơ kìm hãm sự phát triển và gây chia rẽ phong trào
CMVN. Bản thân phong trào CMVN lúc này có 1 đòi hỏi khách quan là phải thống nhất 3 tổ chức CS,
phải đi đến một ĐCS thống nhất ở VN.

Vì sao nói Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố cơ bản quyết định mọi thắng lợi của cách
mạng Việt Nam?
Trả lời:
1. Những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Hơn 7 thập kỷ qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã vượt qua một
chặng đường đấu tranh cách mạng cực kỳ khó khăn, gian khổ nhưng đã giành được những thắng lợi rất
vẻ vang:
Một là, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và việc thành lập nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã mở ra một kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Hai là, thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, góp
phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội.
Ba là, thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và từng bước đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Trải qua nhiều tìm tòi, khảo nghiệm, tổng kết sáng kiến của nhân dân, Đảng ta đã đề ra và lãnh đạo
thực hiện đường lối đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc phù hợp với thực tiễn Việt
Nam và bối cảnh quốc tế mới.
Với những thắng lợi giành được trong thế kỷ XX, nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến
đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển kinh tế theo con đường xã hội chủ nghĩa, có quan hệ
quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Nhân dân ta từ thân
phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Đất nước ta từ một nền kinh tế nghèo
nàn, lạc hậu đã bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Những thắng lợi to lớn có ý nghĩa chiến lược của cách mạng Việt Nam giành được trong hơn 7
thập kỷ qua bắt nguồn từ nhiều nhân tố, trong đó nhân tố hàng đầu quyết định là sự lãnh đạo đúng đắn
và sáng suốt của Đảng ta- Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện -
một Đảng cách mạng thực sự vì nước, vì dân, ngoài lợi ích đó Đảng không có lợi ích nào khác. Giành
độc lập cho dân tộc, tự do hạnh phúc cho nhân dân là mục tiêu lý tưởng của Đảng. Vì vậy, vượt lên mọi
thách thức, trong phong ba bão táp, Đảng ta vẫn kiên định vững vàng không xa rời mục tiêu lý tưởng,
không run sợ trước kẻ thù, không nhụt chí trước những khó khăn chồng chất, không hạ thấp vị trí tiên
phong chiến đấu và trách nhiệm của người lãnh đạo, người tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng, một
lòng một dạ phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
2. Đường lối cách mạng đúng đắn và sáng tạo của Đảng - nhân tố hàng đầu bảo đảm vai trò
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
8
Đảng lãnh đạo trước hết và chủ yếu bằng cương lĩnh, đường lối, bằng chủ trương, chính sách của
Đảng. Đường lối chính trị đúng là cơ sở để đoàn kết thống nhất ý chí và hành động của toàn Đảng, toàn
dân, tạo nên sức mạnh của Đảng và của cách mạng.
Đường lối chính trị đúng đắn nghĩa là đường lối đó phải phản ánh được xu thế vận động của lịch
sử, đồng thời phù hợp với nguyện vọng và lợi ích chân chính của đa số nhân dân. Sức mạnh của Đảng
chính là sự đồng tình ủng hộ của nhân dân, mà sự đồng tình và tin cậy của nhân dân đối với Đảng trước
hết nhờ có đường lối đúng đắn của Đảng.
Đường lối cách mạng của Đảng có vai trò to lớn trong việc thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ
chức, củng cố niềm tin vào Đảng, ngăn chặn và đẩy lùi những khuynh hướng sai lầm về chính trị và tư
tưởng làm cho Đảng ngày càng vững mạnh.
Sở dĩ Đảng ta có đường lối chính trị đúng đắn vì: Đảng có một nền tảng lý luận vững chắc, một lý
luận tiên phong dẫn đường, đó là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh như Lênin đã nói:
"Không có lý luận cách mạng không có phong trào cách mạng..." Chỉ Đảng nào có được một lý luận
tiên phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong. Trong suốt quá trình
lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã nắm vững, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh vào thực tiễn của cách mạng Việt Nam để đề ra đường lối đúng đắn phù hợp với sự phát triển
của lịch sử, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.
Hơn thế nữa, Đảng ta luôn quán triệt sâu sắc quan điểm cách mạng là sáng tạo, chân lý là cụ thể.
Vì vậy, trong lãnh đạo Đảng ta luôn ý thức vận dụng một cách độc lập, sáng tạo vào thực tiễn Việt
Nam. Một trong những bài học được Đảng ta rút ra là phải luôn luôn xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng
thực tế, kết hợp nhuần nhuyễn sự kiên định về nguyên tắc với sự linh hoạt, sáng tạo về phương pháp,
đó là điều kiện đảm bảo sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Mọi sự giáo điều, chủ quan duy ý chí, xa rời
thực tiễn cũng như xa rời các nguyên tắc, mục tiêu cơ bản của cách mạng thì sẽ dẫn đến nguy cơ sai
lầm, làm mất sự lãnh đạo của Đảng.
Để đảm bảo vai trò lãnh đạo của mình, Đảng luôn quan tâm tới việc xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng
viên của Đảng có phẩm chất, đạo đức cách mạng và năng lực công tác, thật sự là những chiến sĩ cách
mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân.
Mỗi đảng viên của Đảng phải luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và bảo vệ lợi ích chính
đáng, hợp pháp của nhân dân, trung thành với lợi ích của giai cấp và của dân tộc, một đời hy sinh phấn
đấu vì lý tưởng của cách mạng và lợi ích của nhân dân.
Để giữ vững vai trò lãnh đạo, phải xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức,
thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, lấy tự phê bình và phê bình làm vũ khí đấu tranh để làm cho
Đảng ngày càng vững mạnh. Đồng thời, luôn củng cố, giữ vững và tăng cường sự đoàn kết trong Đảng,
đảm bảo sự nhất trí cao về mục tiêu lý tưởng của Đảng, để làm cho Đảng ngày càng vững mạnh, đủ sức
lãnh đạo cách mạng. Trong quá trình lãnh đạo, bên cạnh những ưu điểm, trong Đảng cũng còn những
yếu kém, thậm chí có lúc sai lầm, khuyết điểm, song điều quan trọng, Đảng đã sớm phát hiện ra những
yếu kém của mình. Đảng công khai tự phê bình nhận khuyết điểm trước nhân dân, quyết tâm sửa chữa
và sửa chữa có kết quả. Vì vậy, Đảng vẫn được nhân dân tin yêu, thừa nhận là đội tiên phong chính trị,
người lãnh đạo duy nhất của dân tộc. Thực tiễn lịch sử đã khẳng định rằng: ở nước ta, ngoài Đảng
Cộng sản Việt Nam, không có lực lượng nào khác có đủ sức mạnh lãnh đạo cách mạng. Với tất cả tinh
thần khiêm tốn của người cách mạng, chúng ta vẫn có quyền tự hào nói rằng: Đảng ta thật vĩ đại.
Học tập, nghiên cứu để hiểu biết về quá trình đấu tranh cách mạng và truyền thống của Đảng
không phải chỉ để tự hào về Đảng, mà quan trọng hơn là thanh niên cần nâng cao hơn nữa niềm tin vào
sự lãnh đạo của Đảng, ra sức phấn đấu thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, để công cuộc đổi
mới giành thắng lợi to lớn hơn. Trên những vị trí công tác, lao động và học tập của mình, thanh niên
phải góp phần tích cực vào công tác xây dựng, bảo vệ Đảng, góp phần làm cho Đảng ngày càng trong
9
sạch, vững mạnh; ra sức học tập, rèn luyện phấn đấu để trở thành những đảng viên của Đảng, đem tài
năng và sức trẻ cống hiến cho sự nghiệp của Đảng, làm cho những thành tựu và truyền thống của Đảng
ngày càng phát triển và phong phú hơn.

Trình bày khái quát chính sách cai trị của thực dân Pháp và tác động của chính sách đó
đến xã hội Việt Nam?
-Mưu đồ của thực dân Pháp nhằm biến Việt Nam nói riêng và Đông Dương nói chung thành thị trường
tiêu thụ hàng hóa của “chính quốc”, đồng thời ra sức vơ vét tài nguyên, bóc lột sức lao động rẻ mạt của
người bản xứ, cùng nhiều hình thức thuế khóa nặng nề
Chế độ cai trị, bóc lột hà khắc của thực dân Pháp đối với nhân dân Việt Nam là “chế độ độc tài chuyên
chế nhất, nó vô cùng khả ố và khủng khiếp hơn cả chế độ chuyên chế của nhà nước quân chủ châu Á
đời xưa”
Kinh tế: Pháp đẩy mạnh việc cướp đoạt ruộng đất, lập các đồn điền, tập trung khai thác than và kim
loại.
Pháp độc chiếm thị trường Việt Nam, hàng hoá của Pháp nhập vào Việt Nam chỉ bị đánh thuế rất nhẹ
hoặc được miễn thuế, nhưng đánh thuế cao hàng hoá các nước khác, hàng hóa của Việt Nam chủ yếu là
xuất sang Pháp
Chính trị: Chia Việt Nam thành ba xứ với ba chế độ cai trị khác nhau: Bắc Kì là xứ nửa bảo hộ, Trung
Kì theo chế độ bảo hộ, Nam Kì theo chế độ thuộc địa.
Tổ chức bộ máy chính quyền từ trung ương đến địa phương đều do thực dân Pháp chi phối
Văn hóa xã hội: thực hiện chính sách “ngu dân” để dễ cai trị, lập nhà tù nhiều hơn trường học, đồng
thời du nhập những giá trị phản văn hóa, duy trì tệ nạn xã hội vốn có của chế độ phong kiến và tạo nên
nhiều tệ nạn xã hội mới, dùng rượu cồn và thuốc phiện để đầu độc các thế hệ người Việt Nam, ra sức
tuyên truyền tư tưởng “khai hóa văn minh” của nước “Đại Pháp”
-Việt Nam đã biến đổi từ một xã hội phong kiến thành một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, mất hẳn
quyền độc lập, phụ thuộc vào nước Pháp về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hoá. Chính sách cai trị và
khai thác bóc lột của thực dân Pháp đã làm phân hóa những giai cấp vốn là của chế độ phong kiến (địa
chủ, nông dân) đồng thời tạo nên những giai cấp, tầng lớp mới (công nhân, tư sản dân tộc, tiểu tư sản)
với thái độ khác nhau. Những mâu thuẫn mới trong xã hội Việt Nam xuất hiện. Trong đó, mâu thuẫn
giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và phong kiến phản động trở thành mâu thuẫn chủ
yếu nhất và ngày càng gay gắt

Phân tích nội dung đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp. Qua đó làm rõ sự sáng
tạo của Đảng.
Trả lời:
. Hoàn cảnh lịch sử
- Tháng 11/1946, quân Pháp mở cuộc tấn công chiếm đóng cả thành phố Hải Phòng và thị xã Lạng
Sơn, đổ bộ lên Đà Nẵng và gây nhiều cuộc khiêu khích, tàn sát đồng bào ta ở phố Yên Ninh - Hàng
Bún (Hà Nội). Đồng thời Pháp gửi tối hậu thư cho chính phủ ta, đòi phải tước hết vũ khí của tự vệ Hà
Nội, đòi kiểm soát an ninh trật tự ở Thủ đô.
- Trước tình hình đó, từ ngày 13 đến ngày 22/12/1946 Ban thường vụ trung ương Đảng ta đã họp tại
Vạn Phúc, Hà Đông dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh để hoạch định chủ trương đối phó. Hội
nghị đã cử phái viên đi gặp phía Pháp để đàm phán, song không có kết quả. Hội nghị cho rằng khả
năng hoà hoãn không còn. Hoà hoãn nữa sẽ dẫn đến hoạ mất nước, nhân dân sẽ trở lại cuộc đời nô lệ.
Do đó, hội nghị đã quyết định hạ quyết tâm phát động cuộc kháng chiến trong cả nước và chủ động tiến
10
công trước khi thực dân Pháp thực hiện màn kịch đảo chính quân sự ở Hà Nội. Mệnh lệnh kháng chiến
được phát đi. Vào lúc 20h ngày 19/12/1946, tất cả các chiến trường trong cả nước đã đồng loạt nổ
súng. Rạng sáng ngày 20/12/1946, lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh được phát đi
trên Đài tiếng nói Việt Nam.

· Thuận lợi của nhân dân ta bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược là: cuộc
chiến tranh của ta là cuộc chiến tranh chính nghĩa bảo vệ nền độc lập tự do của dân tộc, ta đã có sự
chuẩn bị cần thiết về mọi mặt, nên về lâu dài, ta sẽ có khả năng đánh thắng quân xâm lược.
· Khó khăn của ta là: Tương quan lực lượng quân sự yếu hơn địch. Ta bị bao vây bốn phía, chưa
được nước nào công nhận, giúp đỡ. Còn quân Pháp lại có vũ khí tối tân, đã chiếm đóng được hai
nước Lào, Campuchia và một số nơi ở Nam Bộ Việt Nam, có quân đội đứng chân trong các thành
thị lớn ở Miền Bắc.
b. Quá trình hình thành và nội dung đường lối kháng chiến
- Ngay sau cách mạng tháng Tám, trong chỉ thị "Kháng chiến kiến quốc" Đảng ta đã khẳng định kẻ thù
chính của dân tộc ta là thực dân Pháp xâm lược. Trong quá trình chỉ đạo cuộc kháng chiến ở Nam Bộ,
trung ương Đảng và Hồ Chí Minh đã chỉ đạo kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự với ngoại giao để làm
thất bại âm mưu của Pháp định tách Nam Bộ ra khỏi Việt Nam.
- Ngày 19/10/1946 thường vụ trung ương Đảng mở Hội nghị Quân sự toàn quốc lần thứ nhất, do Tổng
Bí thư Trường Chinh chủ trì. Xuất phát từ nhận định "không sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình
cũng nhất định phải đánh Pháp". Hội nghị đã đề ra những chủ trương, biện pháp cụ thể cả về tư tưởng
và tổ chức để quân dân cả nước sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu mới. Trong chỉ thị Công việc khẩn
cấp bây giờ ra ngày 5/11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên những việc có tầm chiến lược, toàn
cục khi bước vào cuộc kháng chiến và khẳng định lòng tin vào thắng lợi cuối cùng.
- Đường lối toàn quốc kháng chiến của Đảng được thể hiện qua 3 văn kiện chính là: Lời kêu gọi toàn
quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh (20/12/1946), Chỉ thị "Toàn dân kháng chiến" của trung ương
Đảng (22/12/1946) và tác phẩm "Kháng chiến nhất định thắng lợi" của đồng chí Trường Chinh
(9/1947).
Nội dung:
Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng ta được hình thành, bổ sung, phát triển qua thực
tiễn cách mạng Việt Nam trong những năm 1945 đến 1947. Nội dung cơ bản của đường lối là: dựa trên
sức mạnh toàn dân, tiến hành kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính .
Đường lối đó được thể hiện trong nhiều văn kiện quan trọng của Đảng, lời kêu gọi, bài viết, bài nói của
Chủ tịch Hồ Chí Minh và đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh, trong đó tập trung ở các văn bản: Chỉ
thị Kháng chiến kiến quốc (25-11-1945), Chỉ thị Tình hình và chủ trương (3-3-1946), Chỉ thị Hòa để
tiến (9-3-1946), Chỉ thị Toàn dân kháng chiến (12-12-1946), Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của
Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-12-1946), tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của đồng chí Trường
Chinh (8-1947),...
Mục tiêu của cuộc kháng chiến là đánh đổ thực dân Pháp xâm lược, giành nền độc lập, tự do, thống
nhất hoàn toàn; vì nền tự do dân chủ và góp phần bảo vệ hòa bình thế giới...
Kháng chiến toàn dân là đem toàn bộ sức dân, tài dân, lực dân; động viên toàn dân tích cực tham gia
kháng chiến. Xây dựng sự đồng thuận, nhất trí của cả nước, đánh địch ở mọi nơi, mọi lúc, “mỗi người
dân là một chiến sĩ, mỗi làng xã là một pháo đài, mỗi đường phố là một mặt trận”. Trong đó Quân đội
nhân dân làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc.

11
Kháng chiến toàn diện là đánh địch trên mọi lĩnh vực, mọi mặt trận không chỉ bằng quân sự mà cả về
chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng, ngoại giao, trong đó mặt trận quân sự, đấu tranh vũ trang giữ vai
trò mũi nhọn, mang tính quyết định. Động viên và phát huy cho được mọi tiềm năng, sức mạnh của dân
tộc, mọi nguồn lực vật chất, tinh thần trong nhân dân phục vụ kháng chiến thắng lợi.
Kháng chiến lâu dài là tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Đảng. Trường kỳ kháng chiến là một quá trình
vừa đánh tiêu hao lực lượng địch vừa xây dựng, phát triển lực lượng ta, từng bước làm chuyển biến so
sánh lực lượng trên chiến trường có lợi cho ta; lấy thời gian là lực lượng vật chất để chuyển hóa yếu
thành mạnh. Kháng chiến lâu dài nhưng không có nghĩa là kéo dài vô thời hạn mà phải luôn tranh thủ,
chớp thời cơ thúc đẩy cuộc kháng chiến có bước nhảy vọt về chất, thắng từng bước để đi đến thắng lợi
cuối cùng.
Kháng chiến dựa vào sức mình là chính, là sự kế thừa tư tưởng chiến lược trong chỉ đạo sự nghiệp cách
mạng giải phóng dân tộc, giành chính quyền của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Phải lấy nguồn nội lực của dân
tộc, phát huy nguồn sức mạnh vật chất, tinh thần vốn của trong nhân dân ta làm chỗ dựa chủ yếu,
nguồn lực chủ yếu của cuộc chiến tranh nhân dân. Trên cơ sở đó, để tìm kiếm, phát huy cao độ và có
hiệu quả sự ủng hộ, giúp đỡ tinh thần và vật chất của quốc tế khi có điều kiện. Lấy độc lập, tự chủ về
đường lối là yếu tố quan trọng hàng đầu.
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến và đường lối kháng chiến của Đảng là hoàn toàn đúng đắn, trở
thành ngọn cờ dẫn đường, chỉ lối, động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta tiến lên. Đường lối đó
được nhân dân ủng hộ, hưởng ứng trong suốt quá trình kháng chiến và trở thành một nhân tố quan
trọng hàng đầu quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Ý nghĩa:
- Việt Nam: Thực hiện thắng lợi đường lối kháng chiến buộc Pháp và Mỹ công nhận độc lâp chủ quyền
giải phóng Miền Bắc
- Quốc Tế: Cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới và mở đầu cho sự sụp đổ Chủ
Nghĩa Thực Dân cũ trên thế giới, trươc tiên là hệ thống thuộc địa của thực dân Pháp.
Bài học kinh nghiệm:
- Đảng ta xây dựng đường lối kháng chiến đúng đắn quán triệt sâu sắc.
- Kết hợp đúng đắn nhiêm vụ chống đế quốc và phong kiến, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân để gây
mầm móng cho Chủ Nghĩa Xã Hội.
- Thực hiện phương châm vừa kháng chiến vừa xây dựng chế độ mới, xây dựng hâu phương vững
mạng.
- Quán triệt tư tưởng chiến lược kháng chiến gian khổ lâu dài nhất định thắng lợi.
Ý nghĩa lịch sử
Đối với nước ta, việc đề ra và thực hiện thắng lợi đường lối kháng chiến, xây dựng chế độ dân chủ
nhân dân đã làm thất bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp được đế quốc Mỹ giúp sức ở
mức độ cao, buộc chúng phải công nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các nước Đông
Dương; đã làm thất bại âm mưu mở rộng và kéo dài chiến tranh của đế quốc Mỹ, kết thúc chiến tranh
lập lại hoà bình ở Đông Dương; giải phóng hoàn toàn miền Bắc, tạo điều kiện để miền Bắc tiến lên chủ
nghĩa xã hội làm căn cứ địa, hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh ở miền Nam; tăng thêm niềm tự hào dân tộc
cho nhân dân ta và nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Đối với quốc tế, thắng lợi đó đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, mở rộng
địa bàn, tăng thêm lực lượng cho chủ nghĩa xã hội và cách mạng thế giới; cùng với nhân dân Lào và
Campuchia đập tan ách thống trị của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới, trước hết là hệ thống thuộc
địa của thực phân Pháp.
12
Đánh giá về ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Hồ Chí Minh nói:
"Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh.
Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng
hoà bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế giới".

Những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam? Tại
sao phải tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN?
Trả lời:
a, Đặc trưng cơ bản:
- Nền kinh tế có mức tăng trưởng cao, bền vững, lực lượng sản xuất phát triển trên cơ sở sử dụng
những thành tựu của khoa học công nghệ, cùng với đội ngũ lao động có trình độ, chuyên môn cao.
- Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là nhằm thành công mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.
- Mục tiêu còn nhằm nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo công bằng xã hội, hạn chế những bất bình
đẳng trong thu nhập, bảo vệ môi trường, giữu gìn bản sắc văn hóa dân tộc, ổn định chính trị xã hội,
quốc phòng và an ninh.
- Là một nền kinh tế mở, mang tính chất quốc tế hóa, khu vực hóa, phát triển kinh tế thị trường định
hướng XHCN nhằm phát huy vị thế của đất nước trên trường quốc tế, đồng thời đảm bảo độc lập tự
chủ về kinh tế.
- Các yếu tố: vốn, vật tư, nguyên liệu và các sản phẩm do sản xuất làm ra đều trở thành hàng hóa được
lưu thông tự do trên thị trường.
- Hệ thống thị trường với các quy luật cung cầu, giá trị cạnh tranh là yếu tố trực tiếp tác động điều tiết
các hoạt động doanh nghiệp, các chủ thể kinh tế.
- Nhà nước quản lý nền kinh tế, điều tiết, tác động tới hoạt động của doanh nghiệp, của chủ thể kinh tế
bằng luật pháp, cơ chế chính sách.
b, Lý do phải tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN là:
- Làm các thể chế phù hợp với nguyên tắc cơ bản của kinh tế thị trường, thúc đẩy kinh tế thị trường
định hướng XHCN phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả, hội nhập kinh tế quốc tế thành công, giữ vững
định hướng XHCn.
- Để phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ văn minh.

Phân tích đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thể hiện trong Chính cương
Đảng lao động Việt Nam được thông qua tai Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của
Đảng
Trả lời:
a, Hoàn cảnh lịch sử triệu tập Đại Hội;
- Bước sang những năm 50 Liên xô và các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa vươn lên phát triển
mạnh mẽ, tạo hậu thuẫn cho cách mạng việt nam.
- năm 1950: ta thiết lập đặt quan hệ ngoại giao với liên xô, Trung Quốc và triều tiên.
- Pháp ngày càng gặp khó khăn trong việc tiếp tục duy trì cuộc chiến tranh ở Đông Dương.
- Mỹ tăng cường giúp Pháp bằng cách viện trợ cho pháp.
- năm 1951: 17% ngân sách chi phí chiến tranh của Pháp ở Đông Dương do mỹ viện trợ, tới năm 1953
thì con số này lên tới 70%.

13
- Trong nước nhân dân ta đã giành được nhiều thắng lợi lớn trong cuộc kháng chiến, uy tín của Đảng
và Chính phủ được nâng cao trên trường quốc tế.
- Yêu cầu mới của cuộc kháng chiến đặt ra cho Đảng là có nhiệm vụ phải bổ sung hoàn chỉnh đường lối
cách mạng đưa cuộc kháng chiến đi tới thắng lợi. Đòi hỏi Đảng ta phải ra hoạt động công khai, lãnh
đạo cách mạng với tư cách là đảng cầm quyền.
b, Đại hội ĐBTQ lần thứ 2 của Đảng diễn ra từ 11=>19/02.1951 tại xã Vinh Quang- Chiêm Hóa-
Trung Quốc
*) Nội dung của Đại Hội là:
- Căn cứ vào tình hình thực tiễn và nhu cầu kháng chiến của từng nước Đôg Dương, Đại hội quyết định
ở mỗi nước thành lập một Đảng cách mạng riêng có cương lĩnh, đường lối riêng thích hợp với đặc điểm
từng dân tộc. Ở việt nam Đảng ra đời và hoạt động công khai lấy tên gọi là Đảng liên đoàn Việt nam.
- Đại hội thông qua chính cương của Đảng liên đoàn việt nam. Chính cương trình bày toàn bộ đường
lối cách mạng việt nam là đường lối cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân tiến lên CNXH. Nội dung
chính của chính cương là:
+ Xác định tính chất của xã hội: Xã hội việt nam trong giai đoạn hiện thời mang trong mình 3 tính chất:
tính dân chủ nhân dân, một phần thuộc địa và nửa phong kiến.
Mâu thuẫn trong xã hội là mâu thuẫn giữa tính dân chủ nhân dân với tính chất thuộc địa, mâu thuẫn này
chính là mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân việt nam với đế quốc xâm lược.
+ Đối tượng đấu tranh của cách mạng: Đối tượng chính là đế quốc xâm lược cụ thể là thực dân Pháp
xâm lược và can thiệp Mỹ. Đối tượng phụ là địa chủ, phong kiến mà cụ thể là địa chủ và phong kiến
phản động.
+ Nhiệm vụ của cách mạng: cách mạng việt nam trong giai đoạn mới có 3 nhiệm vụ cơ bản: Đánh đuổi
đế quốc xâm lược để giành độc lập thống nhất, xóa bỏ các di tích phong kiến và nửa phong kiến, thực
hiện người cày có ruộng. Phát triển chế độ dân chủ nhân dân gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội.
+ lực lượng cách mạng: công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và các nhân sĩ yêu nước tiến
bộ. Những tầng lớp đó sẽ hợp thành nhân dân mà nền tảng là khối liên minh công nhân, nông dân, lao
động trí thức.

Cương lĩnh chính trị đầu tiên tại Việt Nam. Liên hệ thực tiễn.
Hoàn cảnh ra đời
Từ ngày 06/06 - 07/02/1930 diễn ra hội nghị họp bí mật ở nhiều địa điểm khác nhau trên bán đảo
Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc) do đồng chí Nguyễn Ái Quốc, đại biểu Quốc tế Cộng sản triệu
tập và chủ trì để hợp nhất của tổ chức cộng sản trong nước thành một chính đảng duy nhất, định tên là
Đảng Cộng sản Việt Nam. Với sự tham dự chính thức của hai đại biểu Đông Dương Cộng sản Đảng
(06/1929); 02 đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng (10/1929) và một số đồng chí Việt Nam hoạt động
ngoài nước. Hội nghị đã thảo luận quyết định thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và nhất trí thông qua
07 tài liệu, văn kiện, trong đó có 04 văn bản:
- Chính cương vắn tắt của Đảng.
- Sách lược vắn tắt của Đảng.
- Chương trình tóm tắt của Đảng
- Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Hợp thành nội dung Cương lĩnh chính trị của Đảng. Tất cả các tài liệu, văn kiện nói trên đều do
Nguyễn Ái Quốc khởi thảo dựa trên cơ sở vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin, đường lối Đại hội VI (1928)
của Quốc tế Cộng sản; nghiên cứu các Cương lĩnh chính trị của những tổ chức cộng sản trong nước,
14
tình hình cách mạng thế giới và Đông Dương. Dù là vắn tắt, tóm tắt, song nội dung các tài liệu, văn
kiện chủ yếu của Hội nghị được sắp xếp theo một logic hợp lý của một Cương lĩnh chính trị của Đảng.
Nội dung
Nội dung cơ bản trong Cương lĩnh đã xác định rõ về đường lối, nhiệm vụ, lực lượng và mối quan
hệ của cách mạng Việt Nam trong bối cảnh sau khi thành lập Đảng. Cụ thể, về đường lối chiến lược là
làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Cương lĩnh xác định
ba nhiệm vụ trước mắt của cách mạng Việt Nam, bao gồm cả hai nội dung dân tộc và dân chủ, chống
đế quốc và chống phong kiến, song nổi lên hàng đầu là nhiệm vụ chống đế quốc, giành độc lập dân tộc.
Cụ thể:
- Về chính trị: đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến làm cho nước Việt Nam được
hoàn toàn độc lập, lập Chính phủ công - nông - binh và tổ chức quân đội công nông.
- Về kinh tế: thủ tiêu hết các thứ Quốc trái; tịch thu toàn bộ sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận
tải, ngân hàng,…) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho chính phủ công nông binh
quản lý; tịch thu toàn bộ ruộng đất của bọn đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày
nghèo; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo; mở mang công nghiệp và nông nghiệp; thi hành luật
ngày làm tám giờ.
- Về văn hóa – xã hội: dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ thông giáo dục
theo hướng công nông hóa.
- Về lực lượng cách mạng: Cương lĩnh xác định lực lượng cách mạng phải đoàn kết công nhân,
nông dân - đây là lực lượng cơ bản, trong đó giai cấp công nhân lãnh đạo; đồng thời phải đoàn
kết tất cả các giai cấp, lực lượng tiến bộ yêu nước để tập trung chống đế quốc và tay sai. Thu
phục tiểu tư sản, trí thức, trung nông… đi vào phe vô sản giai cấp. Đối với phú nông, trung tiểu
địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít nhất cũng làm
cho họ đứng trung lập, bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ.
- Về đoàn kết quốc tế: xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng vô sản thế
giới, phải liên kết với những dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản trên thế giới, nhất là với
giai cấp vô sản Pháp.
- Về lãnh đạo: giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo Việt Nam. Đảng là đội tiên phong của giai
cấp vô sản, phải thu phục cho được đại bộ phận của giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình
lãnh đạo được dân chúng.
- Phương pháp cách mạng: sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng để đánh đổ đế quốc,
phong kiến.
Phương hướng chiến lược: Luận cương nêu rõ tính chất của cuộc cách mạng Đông Dương lúc đầu là
“cách mạng tư sản dân quyền có tính chất phản đế và điền địa. Cách mạng tư sản dân quyền là thời kì
dự bị để làm xã hội cách mạng”, sau khi cách mạng tư sản dan quyền giành thắng lợi sẽ tiếp tục “phát
triển bỏ qua thời kì tư bản chủ nghĩa để tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa”

Nhiệm vụ cách mạng: 2 nhiệm vụ của cách mạng là:


- Chống đế quốc giành độc lập cho dân tộc.
- Chống phong kiến đem lại ruộng đất cho nông dân cày. Trong đó luận cương nhấn mạnh đề cao đến
cách mạng ruộng đất đấu tranh giai cấp, coi cách mạng ruộng đất là cái cốt yếu của cách mạng tư sản
dân quyền, chỉ có thực hiện cách mạng ruộng đất mới đoàn kết tập hợp được đông đảo lực lượng nông
dân tham gia.

Ưu điểm
15
-Luận cương một lần nữa khẳng định tính đúng đắn về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng.
-Khẳng định nhiều vấn đề căn bản thuộc về chiến lược cách mạng mà Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã
nêu ra như nhấn mạnh vai trò lãnh đạo của Đảng, tầm quan trọng trong quan hệ với cách mạng vô sản
thế giới và lực lượng cách mạng chủ yếu là công nhân và nông dân.
-Đã phát triển và hoàn chỉnh hóa “Chính cương và sách lược vắn tắt” của Nguyễn Ái Quốc.
-Luận cương là kết quả của sự vận dụng đúng đắn và sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác –
Lênin, đường lối uốc tế cộng sản với thực tiễn cách mạng Việt Nam và cách mạng Đông Dương.
Nhược điểm
-Đề cao việc đấu tranh giành độc lập cho toàn cõi Đông Dương nhưng bỏ qua sự khác biệt về lịch sử,
văn hóa… giữa các nước, chính vì thế không thể tập hợp sức mạnh, chung sức chung lòng cùng làm
cách mạng được.
-không nêu ra được mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và đế quốc Pháp mà chỉ
nhấn mạnh vào mâu thuẫn giai cấp, không đặt nhiệm vụ chống đế quốc lên hàng đầu nên không xác
định được đâu là mâu thuẫn cốt lõi cần giải quyết trước.
-Đánh giá không đúng vai trò cách mạng của tầng lớp tiểu tư sản, khả năng chống đế quốc của tư sản
dân tộc, khả năng lôi kéo của một bộ phận trung và tiểu địa chủ.
-không đề ra được chiến lược liên minh dân tộc và giai cấp rộng rãi trong đấu tranh chống đế quốc và
tay sai.
-Phủ nhận quan điểm đúng đắn trong Chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt.
-Đề cao việc đấu tranh giành độc lập cho toàn cõi Đông Dương nhưng bỏ qua sự khác biệt về lịch sử,
văn hóa… giữa các nước, chính vì thế không thể tập hợp sức mạnh, chung sức chung lòng cùng làm
cách mạng được.
Ý nghĩa và giá trị
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là một cương lĩnh đúng đắn và sáng tạo theo con đường cách
mạng Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới, đáp ứng yêu cầu khách quan của
lịch sử, nhuần nhuyễn quan điểm giai cấp và thấm nhuần tinh thần dân tộc.

Tiến hành cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng ruộng đất để giành chính quyền về tay chân
dân đi tới xã hội cộng sản, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng cốt lõi của Cương
lĩnh này.

Nội dung Cương lĩnh vẫn còn một vài vấn đề về sau không hoàn toàn phù hợp với thực tế Việt Nam
hoặc có một số từ ngữ có thể dẫn tới sự giải thích khác nhau, song với sự bổ sung của Luận cương
Chính trị được thông qua tại Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành trung ương Đảng, Cương lĩnh chính
trị của Đảng đã được hoàn thiện hơn.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Trong bản Cương lĩnh cách mạng tư sản dân quyền năm 1930,
Đảng đã nêu rõ nhiệm vụ chống đế quốc và chống kiến, thực hiện dân tộc lập, người cày ruộng. Cương
lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đại đa số nhân dân ra là nông dân. Vì vậy, Đảng đã
16
đoàn kết được những lực lượng cách mạng to lớn xung quanh giai cấp mình, còn các đảng phái của các
giai cấp khác thì hoặc bị phá sản hoặc bị cô lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta – Đảng của giai
cấp công nhân không ngừng củng cố và tăng cường.

Liên hệ thực tiễn

Sự ra đời của Cương lĩnh mang ý nghĩa vô cùng to lớn đối với toàn dân tộc, được ví như một ngọn đèn
soi sáng con đường cách mạng Việt Nam. Bên cạnh đó còn hiện hữu như một minh chứng cho việc
trưởng thành của cách mạng Việt Nam. Với Cương lĩnh chính trị đúng đắn, Đảng đã lãnh đạo dân tộc
Việt Nam giành từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đã 92 năm trôi qua, nhưng những ý nghĩa lịch sử
trọng đại và giá trị chỉ đạo thực tiễn to lớn của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng vẫn luôn định
hướng cho sự phát triển của đất nước và chỉ đường cho mọi hoạt động của Đảng ta, Nhân dân ta. Cho
đến nay, Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng vẫn giữ nguyên giá trị, vẫn là ngọn cờ dẫn lối cho cách
mạng Việt Nam tiến bước trên con đường mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và dân tộc đã lựa chọn. Thể
hiện rõ qua các nhiệm vụ sau:

1. Nhiệm vụ chính trị


Đây luôn là một trong những nhiệm vụ mà Đảng và nước ta đặt lên hàng đầu. Nhiệm vụ này đã chỉ
đạo Cách Mạng Việt Nam trong đấu tranh chống Đế Quốc, giành và bảo vệ chính quyền; ngày nay vẫn
còn tiếp tục chỉ đạo cả nước thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược (xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc); hoàn
thiện Nhà Nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân…
Nhận thấy tầm quan trọng của nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tố quốc, Đại hội XVIII của Đảng Cộng
sản Việt Nam khẳng định: Trong nhận thức và giải quyết các mối quan hệ lớn, phản ánh các quy luật
mang tính biện chứng, những vấn đề lý luận cốt lõi trong đường lối đổi mới của Đảng, cần tiếp tục nắm
vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn, trong đó có mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam XHCN.
Bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ được mới có đất nước để xây dựng; có giữ
vững được môi trường hòa bình, ổn định mới có điều kiện để xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã
hội đất nước; bảo vệ được Đảng, Nhà nước, chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa, bảo vệ nhân dân, bảo vệ lợi ích
quốc gia, bảo vệ nền văn hóa dân tộc mới có tiền đề, điều kiện để xây dựng và phát triển đất nước theo
con đường Xã Hội Chủ Nghĩa. Đồng thời, có xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nâng cao
sức mạnh tổng hợp, thế và lực của đất nước, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân mới có
nguồn lực để đầu tư củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh của đất nước; tăng cường được
sức mạnh của khối đoàn kết dân tộc, thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững
chắc; tạo được sự ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế... Đây là những yếu tố có vai trò và ý nghĩa quyết
định đối với việc bảo vệ Tổ quốc Xã Hội Chủ Nghĩa.
Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở nước ta hiện nay đang diễn ra trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Trước
hết và cơ bản là hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời là hội nhập trên tất cả lĩnh vực khác của đời sống
xã hội. Hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta đã và đang phát triển sâu, rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng
về hình thức,bằng việc ký kết nhiều hiệp định thương mại song phương, đa phương thế hệ mới; xuất,
nhập khẩu, thu hút vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế và sự

17
phát triển của đất nước.Trong hội nhập quốc tế thì hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập các lĩnh vực
khác tạo điều kiện thuận lợi cho hội nhập kinh tế và góp phần tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội,
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc gia.
Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế nhằm củng cố môi trường hòa bình, tranh thủ tối đa các điều
kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước nhanh và bền vững, nâng cao đời sống nhân dân; giữ vững
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam Xã Hội Chủ
Nghĩa; bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc; tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao vị thế,
uy tín quốc tế của đất nước; góp phần tích cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội trên thế giới.
2. Nhiệm vụ văn hóa - xã hội - giáo dục
Từ khi Đảng thành lập đến nay, nước ta luôn gìn giữ và phát huy những giá trị cốt lõi trong Cương
lĩnh chính trị đã nêu ra. Phương hướng cơ bản đầu tiên luôn là xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa,
nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Ðảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ
của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ
quốc và của nhân dân.
Ngày nay, dưới sự giám sát của pháp luật có rất nhiều những tổ chức về văn hóa, kinh tế được lập ra.
Điều này góp phần thể hiện rõ ràng quyền tự do tổ chức các hoạt động cá nhân, tập thể của công dân
Việt Nam là rất lớn. Đường lối mà Cương lĩnh chỉ ra đã và đang đưa chúng ta thực hiện đúng hướng vì
nó đã đem đến lợi ích lớn lao trong công cuộc xây dựng đất nước dân chủ, văn minh
Trong thời kỳ phong kiến Việt Nam và thời kỳ bị Đế quốc, Thực dân xâm lược có thể nói giá trị con
người đã bị hạ thấp và chà đạp đến mức tận cùng, đặc biệt là người phụ nữ. Người phụ nữ trong xã hội
đó không có tiếng nói, không được trân trọng, bị tước mất quyền bình đẳng mà họ vốn được hưởng.
Chính vì vậy, việc xác định rõ trong Cương lĩnh chính trị về “Nam nữ bình quyền” như một bước ngoặt
to lớn cho sự tiến bộ về tư duy văn hóa sau này. Người phụ nữ hiện đại đã có tiếng nói trong xã hội, có
không ít phụ nữ trở thành người lãnh đạo, người cầm quyền tài giỏi trong bộ máy nhà nước cũng như là
xã hội Việt Nam.
Đất nước ta, từ khi có Đảng đã luôn tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và
văn hóa làm cho thế giới quan Mác - Lê-nin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chỉ đạo trong
đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân
tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì
lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng
cao. Chống tư tưởng, văn hóa phản tiến bộ, trái với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những
giá trị cao quý của loài người, trái với phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.
Dù là thời kỳ nào của đất nước thì vẫn luôn phải huy động được mọi nguồn lực và sức mạnh tổng
hợp của tất cả các tầng lớp nhân dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức, bởi
chính nhân dân là người làm nên lịch sử. Sức mạnh của Ðảng là ở sự gắn bó máu thịt với nhân dân;
toàn bộ hoạt động của Ðảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Không
ngừng củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết: đoàn kết toàn Ðảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân
tộc; đó là truyền thống quý báu và là nguồn sức mạnh, một động lực chủ yếu của cách mạng nước ta.
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, phát huy
cao độ nội lực đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống của dân tộc với tiếp thu tinh
hoa văn hóa thế giới.
18
3. Nhiệm vụ kinh tế
Trước những thách thức của thời kỳ mới, Đảng ta đã tổng kết sáng kiến từ thực tiễn của nhân dân,
tìm tòi, hoạch định đường lối đổi mới. Tại Đại hội VI (1986 ) đặc biệt là sau Hội nghị TW 6, khóa VI,
với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, Đảng ta đã phê phán triệt để cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp và
khẳng định việc thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần; đẩy mạnh sản xuất hàng hóa;
đảm bảo cho các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế được tự do kinh doanh hợp pháp; thừa nhận nền
kinh tế nước ta có 2 đặc trưng là tính kế hoạch và quan hệ hàng hóa - tiền tệ. Sau Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI năm 1987-1988, tình hình kinh tế-xã hội nước ta vẫn trong tình trạng khủng hoảng
trầm trọng, giá cả leo thang, lạm phát vẫn ở mức cao, lương thực và hàng tiêu dùng thiếu nghiêm trọng,
đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Để khắc phục tình trạng đó, vấn đề cấp bách đặt ra là phải thể
chế hóa, cụ thể hoá đường lối đổi mới thành pháp luật và các chính sách, chủ trương, giải pháp cụ thể
để hiện thực hóa đường lối, quan điểm của Đảng. Ngày 14/11/1987, Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định
số 217/HĐBT về quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh của các đơn vị kinh tế quốc doanh. Ngày
29/12/1987, Quốc hội khóa VIII thông qua Luật Đầu tư nước ngoài hiệu lực từ ngày 01/01/1988. Bộ
Chính trị ra Nghị quyết số 10/NQ-TW ngày 05/4/1988 (khoán 10) về đối mới quản lý kinh tế nông
nghiệp, giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho nông dân và xác định vai trò kinh tế hộ nông dân.
Cuối năm 1988, thực hiện bù giá vào lương, xoá bỏ chế độ phân phối bao cấp, tem phiếu. Ngày
29/3/1989, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khoá VI đề ra 12 chủ trương chính sách
lớn, cụ thể hoá những quan điểm của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, giải quyết nhiều vấn đề
bức bách về kinh tế, xã hội thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển, chống lạm phát, đề ra những
nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới, giữ vững con đường và mục tiêu XHCN, giữ vững sự lãnh đạo
của Đảng và vai trò quản lý của Nhà nước.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, qua hơn 25 năm đổi mới, đất nước ta đã giành được những thắng lợi to
lớn và có ý nghĩa lịch sử. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN tiếp tục phát triển. Đất nước thoát
khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội (1996); vượt qua khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực (1997-1998);
khắc phục có hiệu quả ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu hiện nay;
thực hiện các Kết luận của Bộ Chính trị, nghị quyết của Quốc hội và Chính phủ, bước đầu thực hiện
được mục tiêu: kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, duy trì tăng trưởng ở
mức hợp lý; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân
được cải thiện rõ rệt, vượt qua ngưỡng nước nghèo chậm phát triển, đứng vào nhóm các nước có thu
nhập trung bình.
Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản
Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Vì thế cần phát huy việc nghiên cứu, vận dụng sáng tạo Cương
lĩnh của Đảng trong từng giai đoạn cách mạng để Cương lĩnh của Đảng thực sự là ngọn cờ chiến đấu
của Đảng ta nhất là trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa hiện nay ở nước ta.
Liên hệ học sinh sinh viên
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh: “Tăng cường giáo dục thế hệ trẻ về lý
tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa, nâng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc, nuôi dưỡng ước
mơ, hoài bão, khát vọng vươn lên; nêu cao tinh thần trách nhiệm đối với đất nước, với xã hội”. Để
thực hiện nhiệm vụ đó, bản thân thanh niên chúng ta phải không ngừng phấn đấu trong học tập và rèn
luyện, tích cực tham gia các hoạt động xã hội, tiếp tục xây dựng thế hệ thanh niên Việt Nam giàu lòng
yêu nước, có sức khỏe, có tri thức, có kỹ năng, đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn và đặc biệt là phải có bản
lĩnh chính trị vững vàng trước mọi biến động của hoàn cảnh. Rèn luyện bản lĩnh chính trị là yêu cầu và
19
nhiệm vụ quan trọng của thanh niên trong bối cảnh Đảng, Nhà nước và toàn xã hội đang đẩy mạnh giáo
dục bản lĩnh chính trị cho thế hệ trẻ.
Học sinh, sinh viên chính là trường cột của nước nhà, có sứ mệnh kế tục sự nghiệp cách mạng vẻ
vang của Đảng, của dân tộc, gánh vác nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Nhiệm vụ đó chỉ được hoàn thành khi thế hệ thanh niên Việt Nam được chăm lo và tự rèn luyện
để có trình độ, đạo đức và bản lĩnh chính trị. Đó là vấn đề mang tính sống còn của cách mạng Việt
Nam.

Trình bày sự phát triển phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam 1919-1930
và giải thích tại sao giai cấp công nhân trở thành giai cấp lãnh đạo của cách mạng Việt
Nam?

Trình bày sự phát triển phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam 1919-1930

* Thời kỳ 1919-1925:

Để bù đắp những thiệt hại, tổn thất nặng nề trong chiến tranh, thực dân Pháp đẩy mạnh cuộc
khai thác thuộc địa lần thứ hai (1919-1929) ở Việt Nam cả về quy mô và mức độ, nên số lượng công
nhân tăng lên nhanh chóng. Do đó, phong trào đấu tranh của công nhân cũng mạnh lên.

Đời sống của công nhân Việt Nam dưới ách thống trị của thực dân Pháp vô cùng cực khổ: ngày
làm việc thường kéo dài từ 9h đến 10h trong một ngày. “Có nơi như khu dệt Nam Định, ngày công của
công nhân trong năm 1924 được quy định bình quân là 12 giờ, công nhân không được hưởng bất kỳ
một chế độ bảo hiểm thân thể nào. Tiền lương rất thấp”. Ngoài đồng lương rẻ mạt, chết đói, điều kiện
làm việc cực khổ, công nhân còn bị đánh đập, cúp phạt, ngược đãi như nô lệ! Ở nhiều đồn điền, hầm
mỏ, bọn chủ tư bản còn lập nhà lao, xà lim riêng để đàn áp các cuộc phản kháng của công nhân. Tình
trạng bị áp bức, đói khổ, cộng với lòng yêu nước và truyền thống dân tộc đã thúc đẩy giai cấp công
nhân hăng hái đứng lên đấu tranh chống cường quyền.

Vào thời kỳ đầu, do số lượng còn ít, trình độ giác ngộ còn thấp nên những cuộc đấu tranh của
công nhân chỉ diễn ra lẻ tẻ, rời rạc ở từng xí nghiệp, từng kíp thợ, xưởng mộc,… Mục đích đấu tranh
chủ yếu là đòi quyền lợi kinh tế như tăng lương, giảm giờ làm. Hình thức đấu tranh chủ yếu là đập phá
máy móc, đánh cai ký, chủ thầu, phá giao kèo, bỏ trốn tập thể,… “Trong thời gian những năm 1919-
1925, số lượng công nhân bỏ trốn, phá giao kèo với chủ đã lên tới 4877 người. Càng ngày, công nhân
đã biết sử dụng hình thức đấu tranh đặc thù của mình là bãi công, mặc dù hình thức này bị ghép vào tội
“phá rối trị an” và bị kết án tù”. Một sự kiện có ảnh hưởng lớn tới sự phát triển của phong trào công
nhân Việt Nam, đó là năm 1921“Liên đoàn công nhân tàu biển ở Viễn Đông” đã được thành lập và
phát triển các cơ sở ở Ma Cao, Thượng Hải (Trung Quốc). Một số công nhân, thủy thủ Việt Nam làm
việc trên các hãng tàu của Pháp đã gia nhập liên đoàn này. Họ đã có nhiều đóng góp trong việc đưa đón
cán bộ, vận chuyển các sách báo cách mạng từ Pháp về trong nước.

Từ năm 1922, phong trào công nhân bắt đầu có nét khởi sắc mới. Đáng chú ý nhất là cuộc bãi
công của 600 công nhân thợ nhuộm Sài Gòn-Chợ Lớn. Nguyễn Ái Quốc đánh giá đây là một “dấu hiệu
của thời đại mới”, “lần đầu tiên một phong trào như thế đã nhóm lên ở thuộc địa”.

Năm 1924, có nhiều cuộc bãi công của công nhân nhà máy dệt, rượu, xay gạo ở Nam Định, Hà
Nội, Hải Dương,.. Năm 1925, phong trào công nhân đã xuất hiện nhiều cuộc bãi công có quy mô lớn và
20
có tổ chức lãnh đạo ở một mức độ nhất định. Trong đó, điển hình nhất là cuộc bãi công của 1000 công
nhân Ba Son (Sài Gòn) vào tháng 8/1925 để ngăn không cho tàu chiến Pháp chở lính sang tham gia đàn
áp phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân và thủy thủ Trung Quốc. Gắn liền với cuộc bãi công
này là vai trò tổ chức của đồng chí Tôn Đức Thắng. Sau khi tham gia cuộc binh biến ở Hắc Hải, năm
1920 đồng chí Tôn Đức Thắng về nước, xin vào làm công nhân ở Sài Gòn. Tại đây, ông đã bí mật
thành lập tổ chức “Công hội” đầu tiên của giai cấp công nhân Việt Nam.

Đặc điểm chung của phong trào công nhân Việt Nam thời kỳ này còn ở mức độ thấp, phụ thuộc
vào phong trào yêu nước nói chung, mang tính chất tự phát, chưa tỏ rõ được sức mạnh của một lực
lượng chính trị độc lập, chưa có ý thức rõ rệt về sứ mệnh lịch sử của giai cấp mình. Cuộc bãi công Ba
Son kết thúc thắng lợi đánh dấu một bước tiến mới của phong trào công nhân Việt Nam: không chỉ
nhằm vào mục tiêu đấu tranh kinh tế mà cao hơn nữa còn nhằm vào mục đích chính trị, thể hiện tình
đoàn kết giai cấp, đoàn kết quốc tế của công nhân Việt Nam. Có thể khẳng định rằng, cuộc bãi công Ba
Son là một mốc son rất quan trọng trong phong trào công nhân - giai đoạn công nhân Việt Nam bắt đầu
đi vào đấu tranh có tổ chức và có mục đích chính trị rõ ràng.

* Thời kỳ 1926-1930:

Trên thế giới, cách mạng dân tộc, dân chủ ở Trung Quốc phát triển mạnh mẽ với những bài học kinh
nghiệm về sự thất bại của Công xã Quảng Châu 1927. Đại hội V của Quốc tế cộng sản với những nghị
quyết quan trọng về phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa.

Trong nước, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên và Tân Việt đã đẩy mạnh hoạt động trong phong
trào công nhân (mở lớp huấn luyện cán bộ), ra báo "Thanh niên", Nguyễn Ái Quốc viết cuốn "Đường
cách mệnh", phong trào "Vô sản hoá"...

Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, thông qua những hoạt động của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và nhiều
người Việt Nam yêu nước khác, các sách báo cách mạng đã được truyền bá vào nước ta. Nhờ đó, giai
cấp công nhân Việt Nam bước đầu biết tới Cách mạng tháng Mười Nga, biết đến chủ nghĩa Mác-Lênin,
trên cơ sở đó dần dần tiếp thu ánh sáng của chủ nghĩa cộng sản để từng bước thấm sâu hơn vào tinh
thần giác ngộ lý tưởng và đã bắt đầu biến thành hành động cách mạng!

Nhờ sự ra đời và hoạt động tích cực của Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên, các tư tưởng của
Cách mạng tháng Mười Nga và chủ nghĩa Mác-Lênin đã được truyền bá rộng rãi trong công nhân và
nhân dân lao động. Trên cơ sở đó, phong trào công nhân ngày càng phát triển mạnh mẽ và chuyển biến
nhanh chóng về chất. Các cuộc đình công, bãi công liên tiếp nổ ra ở nhiều nơi. Trong hai năm 1926-
1927, đã nổ ra 27 cuộc đấu tranh của công nhân, tiêu biểu là cuộc bãi công của 1000 công nhân nhà
máy sợi Nam Định, của 500 công nhân đồn điền cao su Cam Tiêm, công nhân cao su Phú Riềng,…
Các cuộc đấu tranh này đều nhằm hai mục tiêu chung là đòi tăng lương từ 20% đến 40% và đòi thực
hiện ngày làm 8h như công nhân bên Pháp.

Điều đó chứng tỏ, công nhân không còn bị chi phối, lệ thuộc nặng nề vào các yêu sách lợi ích cục
bộ, địa phương mà đã biết chú ý tới lợi ích chung của giai cấp bằng cách đề ra các yêu sách phù hợp
với nguyện vọng chung của đông đảo công nhân. Một điều kiện thuận lợi quan trọng lúc bấy giờ là một
số cán bộ được Nguyễn Ái Quốc đào tạo tại Quảng Châu được đưa về nước, trực tiếp tham gia lãnh đạo
đấu tranh. Họ tham gia vào phong trào “vô sản hóa”, cụ thể là đi vào các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền,
xí nghiệp, thành thị, nông thôn,… Một mặt, để tự rèn luyện, mặt khác để truyền bá chủ nghĩa Mác-
21
Lênin cho công nhân, nông dân và những người yêu nước khác ở Việt Nam. Phong trào “vô sản hóa”
phát triển mạnh nhất vào những năm 1928-1929, làm cho phong trào công nhân lớn mạnh cả về số
lượng và chất lượng. Trong hai năm 1928-1929, số lượng các cuộc đấu tranh của công nhân đã lên tới
40 cuộc, tăng gấp 2,5 lần so với hai năm 1926-1927. Lớn nhất là các cuộc bãi công ở nhà máy xi măng
Hải Phòng, nhà máy sợi Nam Định, diêm cưa Bến Thủy, xe lửa Trường Thi (Vinh), mỏ than Mạo Khê,
Hòn Gai (Quảng Ninh),… Các cuộc đấu tranh đó đã mang tính chất chính trị, vượt ra ngoài phạm vi
một xưởng, bước đầu liên kết được nhiều ngành, nhiều địa phương. Tình hình đó chứng tỏ, trình độ
giác ngộ của giai cấp công nhân đã được nâng lên rõ rệt.

Đặc biệt, trong cuộc bãi công của 200 công nhân xưởng sửa chữa ôtô Avia (Hà Nội) tháng 5/1929 đã
có sự lãnh đạo của Kỳ bộ Hội Việt Nam cách mạng thanh niên và Chi bộ cộng sản đầu tiên, mà người
đóng vai trò chỉ đạo trực tiếp là đồng chí Ngô Gia Tự. Để chỉ đạo công nhân đấu tranh, một Ủy ban bãi
công đã được thành lập, phát truyền đơn kêu gọi công nhân và nhân dân lao động Hà Nội hưởng ứng và
ủng hộ cuộc bãi công của công nhân Avia. Cuộc bãi công đã nhận được sự hỗ trợ, giúp đỡ tích cực của
công nhân nhiều nhà máy, xí nghiệp trên địa bàn Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Nam Định.

Tháng 7/1929, Tổng công hội đỏ Bắc Kỳ được thành lập, đã đề ra chương trình, điều lệ và quyết định
xuất bản tờ báo Lao động làm cơ quan ngôn luận. Sự kiện đó vừa thể hiện bước trưởng thành của
phong trào công nhân, vừa tạo điều kiện thúc đẩy giai cấp công nhân đi dần vào đấu tranh có tổ chức,
có lãnh đạo thống nhất.

Nhìn chung, trong thời kỳ 1926-1929, phong trào công nhân đã có những bước tiến bộ mới, thay đổi
về chất từ có chủ nghĩa, đấu tranh mục tiêu rõ ràng, có tổ chức thống nhất. Những cuộc đấu tranh tự
phát đã giảm đi và thay vào đó là những cuộc đấu tranh có ý thức nổ ra liên tục, rầm rộ, rộng khắp, sôi
nổi và quyết liệt hơn với số lượng người tham gia đông, có sự phối kết hợp giữa các địa phương, đơn vị
đấu tranh, có sự lãnh đạo chặt chẽ của tổ chức công hội hay thanh niên với quy mô ngày càng lớn.
Khẩu hiệu đấu tranh không chỉ giới hạn ở mục đích kinh tế mà đã mang tính chất chính trị. Điều đó cho
thấy, quá trình đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam đang chuyển dần từ đấu tranh tự phát lên
đấu tranh tự giác.

Cùng với phong trào công nhân, phong trào nông dân, tiểu tư sản và các tầng lớp nhân dân yêu nước
khác cũng phát triển, tạo thành một làn sóng cách mạng dân tộc dân chủ rộng khắp cả nước. Trong đó,
giai cấp công nhân đã trở thành một lực lượng chính trị độc lập, đi đầu và trực tiếp lãnh đạo phong trào
đấu tranh cách mạng.

Trước sự chuyển biến mạnh mẽ trong các phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, các tầng lớp
nhân dân ngày càng lên cao, “Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên” không còn đủ sức lãnh đạo. Yêu
cầu phải thành lập một chính đảng cách mạng có đủ khả năng tập hợp lực lượng toàn dân tộc, đảm
nhiệm vai trò lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc đang trở nên bức thiết đối với cách
mạng Việt Nam lúc bấy giờ. Từ đó, dẫn tới sự tan rã của các tổ chức Thanh niên vàTân Việt, xuất hiện
ba tổ chức cộng sản “Đông Dương Cộng sản Đảng”(17/06/1929), “An Nam Cộng sản Đảng”
(11/1929), “Đông Dương Cộng sản Liên đoàn” (01/01/1930). Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản đã
khẳng định bước nhảy vọt của cách mạng Việt Nam: nó chứng tỏ hệ tư tưởng cộng sản đã giành được
ưu thế trong phong trào dân tộc và những điều kiện để thành lập Đảng Cộng sản đã hoàn toàn chín
muồi trong phạm vi cả nước.

22
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (03/02/1930) là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-Lênin
với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
chứng tỏ “rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng”. Từ đây, giai cấp
công nhân Việt Nam thực sự trở thành một lực lượng chính trị độc lập, thống nhất trong cả nước.
Thông qua chính đảng của mình, giai cấp công nhân Việt Nam có sứ mệnh lãnh đạo toàn thể dân tộc
vượt qua mọi thác ghềnh hiểm trở để đưa con thuyền cách mạng Việt Nam cập bến bờ thắng
lợi.

Giải thích tại sao giai cấp công nhân trở thành giai cấp lãnh đạo của cách mạng Việt Nam

Thứ nhất, quan niệm về giai cấp công nhân và đặc điểm giai cấp công nhân Việt Nam. Trong tác phẩm
“Thường thức chính trị”, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Tất cả những người không có tư liệu sản
xuất, phải bán sức lao động mà sống, là công nhân. Bất kỳ họ lao động trong công nghệ hay là trong
nông nghiệp, bất kỳ họ làm nghề gì, cũng đều thuộc về giai cấp công nhân”. Tuy nhiên, trong số đó,
không phải tất cả họ đều là giai cấp công nhân và chỉ ra tiêu chí căn bản để xác định đó là giai cấp công
nhân đúng nghĩa mang đầy đủ “đặc tính” của giai cấp công nhân quốc tế theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, Người viết: “Chủ chốt của giai cấp ấy, là những công nhân ở các xí nghiệp như: nhà máy,
hầm mỏ, xe lửa, vân vân... Những công nhân thủ công nghệ, những người làm thuê ở các cửa hàng,
những cố nông, vân vân..., cũng thuộc về giai cấp công nhân. Nhưng chỉ công nhân công nghệ là hoàn
toàn đại biểu cho cái đặc tính của giai cấp công nhân”. Về đặc điểm giai cấp công nhân Việt Nam, theo
Hồ Chí Minh, giai cấp công nhân Việt Nam mang đầy đủ đặc điểm của giai cấp công nhân quốc tế, đó
là: “Đặc tính cách mạng của giai cấp công nhân là: kiên quyết, triệt để, tập thể, có tổ chức, có kỷ luật.
Lại vì là giai cấp tiên tiến nhất trong sức sản xuất, gánh trách nhiệm đánh đổ chế độ tư bản và đế quốc,
để xây dựng một xã hội mới, giai cấp công nhân có thể thấm nhuần một tư tưởng cách mạng nhất, tức
là chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng thời, tinh thần đấu tranh của họ ảnh hưởng và giáo dục các tầng lớp
khác”.

Thứ hai,giai cấp công nhân Việt Nam được hình thành gắn với các cuộc khai thác thuộc địa, với việc
thực dân Pháp thiết lập các nhà máy, xí nghiệp, công xưởng, khu đồn điền... Ngoài những đặc điểm của
giai cấp công nhân quốc tế, giai cấp công nhân Việt Nam có những đặc điểm riêng vì ra đời trong hoàn
cảnh một nước thuộc địa nửa phong kiến, chủ yếu xuất thân từ nông dân- là người bạn tự nhiên của
nông dân, cơ cấu chủ yếu là công nhân khai thác mỏ, đồn điền, lực lượng còn nhỏ bé, nhưng sớm vươn
lên tiếp nhận tư tưởng tiên tiến của thời đại, nhanh chóng phát triển từ “tự phát” đến “tự giác”, thể hiện
là giai cấp có năng lực lãnh đạo cách mạng.

Phân tích đường lối cách mạng thể hiện trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Cộng sản Việt Nam (tháng 2 năm 1930)? Ý nghĩa của Cương lĩnh đối với tiến trình cách
mạng Việt Nam?

Cương lĩnh chính trị đầu tiên xác định mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt Nam: phân tích thực
trạng và mâu thuẫn trong xã hội Việt, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam trong đó có công nhân, nông
dân với đế quốc ngày càng gay gắt cần phải giải quyết, đi đến xác định đường lối chiến lược của cách
mạng Việt Nam “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội

23
cộng sản”. Như vậy, mục tiêu chiến lược được nêu ra trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã làm rõ
nội dung của cách mạng thuộc địa nằm trong phạm trù của cách mạng vô sản.

Xác định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng Việt Nam: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và
bọn phong kiến”, “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”. Cương lĩnh đã xác định: Chống đế
quốc và chống phong kiến là nhiệm vụ cơ bản để giành độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho dân cày,
trong đó chống đế quốc, giành độc lập cho dân tộc được đặt ở vị trí hàng đầu.

- Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam là một cương lĩnh giải phóng dân tộc
đúng đắn và sáng tạo theo con đường cách mạng HCM, phản ánh được quy luật khách quan của xã hội
Việt Nam, phải đáp ứng những nhu cầu cơ bản và cấp bách của xã hội Việt Nam, phù hợp với xu thế
của thời đại.

Phân tích quá trình chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức của Nguyễn Ái Quốc cho
việc thành lập Đảng năm 1930.
Trả lời
a, thời kì Bác hoạt động ở Pháp (1921-1923)
- 12/1920: Tại đại hội của đảng xã hội Pháp họp ở Tua, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành gia
nhập quốc tế cộng sản và tham gia thành lập đảng cộng sản Pháp. Từ đây người đã trở thành người
cộng sản đầu tiên của dân tộc, biến tư tưởng nhận thức thành hành động cụ thể. Người xác định rằng:
muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không còn con đường nào khác ngoài cách mạng vô sản.
- 1921: Bác tham gia sáng lập hội Liên hiệp thuộc địa. Bác viết bài cho các tờ báo, viết một số tác
phẩm (tờ báo người cùng khổ, nhân đạo, đời sống công nhân…)
-1922: Bác viết tác phẩm “Bản án chế độ thực dân pháp”. Nhằm tuyên truyền bằng hiện thực phê
phán, vở kịch “con rồng tre” đả kích chế độ phong kiến nhà Nguyễn. Người cũng chủ nhiệm tờ báo
“người cùng khổ” của hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa nhằm hướng tới những người lao động của
các nước thuộc địa.
b, thời kì Bác hoạt động ở liên xô (1923-1924)
- Bác tham dự hội nghị quốc tế nông dân, phụ nữ. Bác dự đại hội V của quốc tế cộng sản.
- Tiếp tục viết bài cho các tờ báo: sự thật, viết bài cho tạp chí thư tín quốc tế.
c, thời kì Bác hoạt động ở Trung Quốc (1925-1927)
- 11/1924 người rời liên xô trở về Quảng Châu Trung Quốc (vì gần Việt Nam, là môi trường thuận lợi
cho hoạt động cách mạng vô sản, ở đây khuynh hướng cách mạng vô sản phát triển mạnh mẽ, ở đây
người việt nam yêu nước có rất nhiều nhưng họ hoạt động riêng rẽ)
- 6/1925 người sáng lập ra tổ chức mang tên “Hội Việt Nam cách mạng thanh niên” với nhiệm vụ của
hội là tuyên truyền CN Mác-Leenin, đào tạo đội ngũ cán bộ CM VN, chuẩn bị các điều kiện để thành
lập đảng cộng sản Việt Nam.
- 1928 Người đến Thái Lan. Hội Việt Nam thanh niên thực hiện “Vô sản hóa” đưa hội viên vào nhà
máy, hầm mỏ, đồn điền để rèn luyện lập trường, quan điểm giai cấp Công nhân, truyền bá CN Mác-
Leenin…tác động mạnh vào phong trào yêu nước ở việt nam với những việc làm đó Nguyễn Ái Quốc
đã chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho việc thành lập một chính đảng ở việt nam.
- Tham gia giảng dạy tại các lớp đào tạo cán bộ Cách mạng
- 1927 Tập hợp bài giảng của Nguyễn Ái Quốc ở lớp huấn luyện chính trị của Hội Việt Nam cách
mạng thanh niên tại Quảng Châu được in thành sách gọi là “Đường Cách Mệnh” (Đường cách mệnh
chỉ rõ tính chất và nhiệm vụ của cách mạng VN là cách mạng giải phóng dân tộc mở đường tiến lên
chủ nghĩa xã hội).
24
Phân tích nội dung cơ bản về đường lối cách mạng Việt Nam của Đảng nêu trong Chánh
cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng tháng 2 năm
1930.
Trả lời
Chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt hợp thành cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng được thông
qua tại hội nghị thành lập Đảng (2/1930) chỉ rõ những nội dung cơ bản về đường lối cách mạng Việt
Nam của Đảng là:
a, Phướng hướng chiến lược: Chủ trương làm tư sản dân quyền Cách mạng và thổ địa Cách mạng để đi
tới xã hội cộng sản.
- Tư sản dân quyền Cách mạng là cuộc Cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới với nhiệm vụ chống đế
quốc.
- Thổ địa cách mạng là cuộc cách mạng ruộng đất.
b, Nhiệm vụ của cách mạng. Nêu nhiệm vu cụ thể hiện các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, văn
hóa… Các nhiệm vụ này đều bao hàm nội dung dân tộc, dân chủ trong đó:
- Chính trị: nổi bật lên nhiệm vụ đánh đổ đế quốc Pháp và bọn phong kiến tay sai để giành độc lập dân
tộc, thành lập chính quyền quân đội cách mạng việt nam làm cho VN hoàn toàn độc lập.
- Kinh tế: tịch thu ruộng đất tài sản của đế quốc để làm của công chia lại ruộng đất cho dân cày nghèo.
Đây là một điểm sáng tạo của NAQ: chủ trương chỉ chống đế quốc, tận dụng giai cấp phong kiến tham
cách mạng.
- Xã hội: Quyền tự do tổ chức, nam nữ bình đẳng và giáo dục phổ thông theo hướng công-nông hóa mà
đối tượng là những người lao động.
c, Lực lượng cách mạng: Công nhân, nông dân là động lực chính của cách mạng, đây là lực lượng
quyết định sự thành công của cách mạng, phải hết sức liên lạc với tri thức, với trung nông để lôi kéo họ
về phía vô sản giai cấp. Đối với phú nông, trung tiểu địa chủ tư bản VN mà chưa ra mặt phản cách
mạng thì cần phải lợi dụng trung lập, bộ phận nào ra mặt phản cách mạng thì cần phải đánh đổ.
d, Lãnh đạo cách mạng: g/c Vô sản là giai cấp lãnh đạo cách mạng ĐCS, là đội tiên phong của g/c công
nhân. Đảng phải thu phục được đại bộ phận g/c mình làm cho g/c mình lãnh đạo được đông đảo quần
chúng. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố đầu tiên quyết định sự thắng lợi của cuộc cách mạng.
e, Đoàn kết quốc tế: Cách mạng VN là một bộ phận của cách mạng thế giới phải hết sức liên lạc đoàn
kết với giai cấp vô sản quốc tế, với các ĐCS trên thế giới nhất là liên lạc với ĐCS pháp và vô sản Pháp.
=> Nhận xét: Đây là cương lĩnh đúng đắn. sáng tạo phù hợp với điều kiện thực tiễn của một nước
thuộc địa như việt nam. Độc lập tự do là tư tưởng cốt lõi của bản cương lĩnh và “Độc lập tự do là viên
ngọc quý được khảm trong cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.

Trình bày nội dung, làm rõ bước phát triển và hạn chế trong nhận thức của Đảng về
đường lối cách mạng Việt Nam thể hiện trong Luận cương chính trị tháng 10/1930.
Trả lời:
14/10/1930 đến 31/10/1930 Hội nghị ban chấp hành TW Đảng được triệu tập tại Hương Cảng Trung
Quốc với sự chủ trì của Đ/c Trần Phú:
a, Nội Dung: Hội nghị đi đến quyết định đổi tên ĐCSVN thành ĐCS Đông Dương.
- Thông qua các văn kiện: luận cương chính trị của Đảng
- Bầu ban chấp hành TW Đảng chính thức. Đ/c Trần Phú được bầu làm tổng bí thư.
- Luận cương phân tích đặc điểm tình hình xã hội thuộc đại nửa phong kiến và nêu những vấn đề cơ
bản của cách mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương do giai cấp công nhân lãnh đạo.

25
- Luận cương chỉ rõ mâu thuẫn giai cấp diễn ra gay gắt giữa một bên là thợ thuyền dân cày và các phần
tử lao khổ với một bên là địa chủ phong kiến và tư bản đế quốc.
b, Phương hướng chiến lược: Luận cương nêu rõ tính chất của cuộc cách mạng Đông Dương lúc đầu là
“cách mạng tư sản dân quyền có tính chất phản đế và điền địa. Cách mạng tư sản dân quyền là thời kì
dự bị để làm xã hội cách mạng”, sau khi cách mạng tư sản dan quyền giành thắng lợi sẽ tiếp tục “phát
triển bỏ qua thời kì tư bản chủ nghĩa để tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa”
c, Nhiệm vụ cách mạng: 2 nhiệm vụ của cách mạng là:
- Chống đế quốc giành độc lập cho dân tộc.
- Chống phong kiến đem lại ruộng đất cho nông dân cày. Trong đó luận cương nhấn mạnh đề cao đến
cách mạng ruộng đất đấu tranh giai cấp, coi cách mạng ruộng đất là cái cốt yếu của cách mạng tư sản
dân quyền, chỉ có thực hiện cách mạng ruộng đất mới đoàn kết tập hợp được đông đảo lực lượng nông
dân tham gia.
*) Hạn chế; Đề cao nhiệm vụ đấu tranh giai cấp, đề cao cách mạng ruộng đất.
d, Lực lượng cách mạng: Công nhân, nông dân là động lực chính của cách mạng. Luận cương không
đưa ra chủ trương tập hợp các g/c tầng lớp khác tham gia đấu tranh. Ngoài ra cần nhấn mạnh đến điểm
hạn chế tiêu cực của các bộ phận này.
*) Nguyên nhân của hạn chế:
- Chủ quan: Đ/c Trần phú chưa nghiên cứu đầy đủ đặc điểm tình hình cách mạng việt nam, Đông
Dương để nhận thấy mâu thuẫn dân tộc là mâu thuẫn cơ bản. Nhiệm vụ chống đế quốc giành độc lập
cho dân tộc là nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng. Trần Phú đã vận dụng một cách máy móc vấn đề dân
tộc, vấn đề giai cấp áp dụng vào tình hình thực tiễn của VN.
- Khách quan: Chịu ảnh hưởng của khuynh hướng tả trong quôc tế cộng sản, đề cao vấn đề đấu tranh
giai cấp.
e, Đoàn kết quốc tế: Khẳng định cách mạng việt nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, phải hết
sức liên lạc với g/c vô sản quốc tế, với ĐCS, với các dân tộc bị áp bức trên thế giới nhất là Đảng cống
sản Pháp, TQ, Ấn Độ…
f, Lãnh đạo cách mạng: Khẳng định vai trò lãnh đạo của g/c vô sản. Luận cương khẳng định điều kiện
cốt yếu cho thắng lợi của cuộc cách mạng ở Đông Dương là có một ĐCS lãnh đạo với đường lối đúng
đắn phải hết sức liên lach mật thiết với quần chúng, phải lấy CN Mác-Lênin làm nền tảng.
g, Phương pháp cách mạng; Con đường để thực hiện thắng lợi của cuộc cách mạng ở Đông Dương là
vũ trang lao động chuẩn bị cho quần chúng con đường vũ trang bạo động. Đây là một điểm mới và phát
triển của luận cương tháng 10/1930 mà cương lĩnh tháng 2 chưa nêu ra. Luận cương khẳng định phải
chuẩn bị cho quần chúng con đường vũ trang bạo động khi thời cơ cách mạng chưa đến thì đưa ra các
khẩu hiệu đấu tranh phần ít, khi thời cơ cách mạng đến thì đưa ra khẩu hiệu đấu tranh phần nhiều.

Phân tích nội dung cơ bản của Luận cương chính trị tháng 10 năm 1930 và rút ra nhận
xét?
Thay cho Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam là Luận cương
chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương với các nội dung chính 39:
Xác định mâu thuẫn giai cấp ngày càng diễn ra gay gắt ở Việt Nam, Lào và Cao Miên là “một bên
thì thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ; một bên thì địa chủ, phong kiến, tư bản và đế quốc chủ
nghĩa”.
Về phương hướng chiến lược của cách mạng, Luận cương nêu rõ tính chất của cách mạng Đông
Dương lúc đầu là một cuộc “cách mạng tư sản dân quyền”, “có tính chất thổ địa và phản đế”. Sau đó
sẽ tiếp tục “phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bổn mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa”.
26
Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là phải “tranh đấu để đánh đổ các di tích
phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tiền tiền tư bổn và để thực hành thổ địa cách mạng cho
triệt để” và “đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập”. Hai nhiệm
vụ chiến lược đó có quan hệ khăng khít với nhau: “... có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mới phá được cái
giai cấp địa chủ và làm cách mạng thổ địa được thắng lợi; mà có phá tan chế độ phong kiến thì mới
đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa”. Luận cương nhấn mạnh: “Vấn đề thổ địa là cái cốt của cách mạng
tư sản dân quyền”, là cơ sở để Đảng giành quyền lãnh đạo dân cày.
Giai cấp vô sản là nông dân là hai động lực chính của cách mạng tư sản dân quyền, trong đó giai
cấp vô sản là động lực chính và mạnh.
Về lãnh đạo cách mạng, Luận cương khẳng định: “Điều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi của cách
mạng ở Đông Dương là cần phải có một Đảng Cộng sản có một đường lối chánh trị đúng có kỷ luật
tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng, và từng trải tranh đấu mà trưởng thành”.
Về phương pháp cách mạng, Luận cương nêu rõ phải ra sức chuẩn bị cho quần chúng về con
đường “võ trang bạo động”. Đến lúc có tình thế cách mạng, “Đảng phải lập tức lãnh đạo quần chúng để
đánh đổ chánh phủ của địch nhân và giành lấy chánh quyền cho công nông”. Võ trang bạo động để
giành chính quyền là một nghệ thuật, “phải tuân theo khuôn phép nhà binh”.
Cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, vì thế giai cấp vô sản
Đông Dương phải đoàn kết gắn bó với giai cấp vô sản thế giới, trước hết là giai cấp vô sản Pháp, và
phải mật thiết liên hệ với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa.

Nhận xét:

Luận cương chính trị tháng 10-1930 đã xác định nhiều vấn đề cơ bản về chiến lược cách mạng.
Tuy nhiên, Luận cương đã không vạch rõ mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam thuộc địa, không
nhấn mạnh nhiệm vụ giải phóng dân tộc, mà nặng về đấu tranh giai cấp và cách mạng ruộng đất; không
đề ra được một chiến lược liên minh dân tộc và giai cấp rộng rãi trong cuộc đấu tranh chống đế quốc
xâm lược và tay sai. Nguyên nhân của những hạn chế đó là do nhận thức chưa đầy đủ về thực tiễn cách
mạng thuộc địa và chịu ảnh hưởng của tư tưởng tả khuynh, nhấn mạnh một chiều đấu tranh giai cấp
đang tồn tại trong Quốc tế Cộng sản và một số Đảng Cộng sản anh em trong thời gian đó.
Những hạn chế của Đảng trong việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề giai cấp và vấn đề dân
tộc, giữa hai nhiệm vụ giải phóng dân tộc và cách mạng ruộng đất, cũng như trong việc tập hợp lực
lượng cách mạng còn tiếp tục kéo dài trong nhiều năm sau.

Nêu những điểm giống và khác nhau về nhiệm vụ cách mạng tư sản dân quyền được xác
định trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên và Luận cương chính trị tháng 10 năm 1930 của
Đảng?
 Giống nhau:
- Về phương hướng chiến lược của cách mạng, cả 2 văn kiện đều xác định được tích chất của cách
mạng Việt Nam là: Cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ
nghĩa để đi tới xã hội cộng sản, đây là 2 nhiệm vụ cách mạng nối tiếp nhau không có bức tường ngăn
cách. Phương hướng chiến lược đã phản ánh xu thế của thời đại và nguyện vọng đông đảo của nhân
dân Việt Nam.

27
- Về nhiệm vụ cách mạng, đều là chống đế quốc, phong kiến để lấy lại ruộng đất và giành độc lập dân
tộc.
- Về lực lượng cách mạng, chủ yếu là công nhân và nông dân. Đây là hai lực lượng nòng cốt và cơ bản
đông đảo trong xã hội góp phần to lớn vào công cuộc giải phóng dân tộc nước ta.
- Về phương pháp cách mạng, sử dụng sức mạnh của số đông dân chúng Việt Nam cả về chính trị và
vũ trang nhằm đạt mục tiêu cơ bản của cuộc cách mạng là đánh đổ đế quốc và phong kiến, giành chính
quyền về tay công nông.
- Về vị trí quốc tế, cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít với cách mạng thế giới đã thể hiện
sự mở rộng quan hệ bên ngoài, tìm đồng minh cho mình.
- Lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân thông qua Đảng cộng sản.
 Khác nhau:

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Luận cương chính trị của Trần Phú

Xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa nửa phong kiến, bao Xã hội Đông Dương gồm 2 mâu thuẫn dân tộc
gồm 2 mâu thuẫn, đó là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc và giai cấp, trong đó mâu thuẫn giai cấp là cơ
Tính Việt Nam với đế quốc Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa bản nhất.
chất xã nhân dân lao động (chủ yếu là nông dân) với địa chủ
hội phong kiến, trong đó, mâu thuẫn cơ bản nhất, gay gắt nhất
là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc
Pháp và bọn tay sai.
Cách mạng trải qua 2 giai đoạn: cách mạng tư sản dân Cách mạng Đông Dương lúc đầu là cách
Tính quyền và cách mạng thổ địa để tiến lên chủ nghĩa cộng mạng tư sản dân quyền, sau khi thắng lợi tiến
chất cách sản. Hai giai đoạn kế tiếp nhau, không bức tường nào thẳng lên XHCN không qua giai đoạn phát
mạng ngăn cách. triển TBCN. Hoàn thành thắng lợi của giai
đoạn này mới làm tiếp giai đoạn khác.
Đế quốc Pháp, vua quan phong kiến và tư sản phản cách Đế quốc và phong kiến, luận cương không
Kẻ thù mạng. Cương lĩnh đã xác định rõ kẻ thù không phải toàn phân biệt rõ trong hàng ngũ giai cấp phong
cách bộ là phong kiến và tư sản kiến còn có bộ phận tiến bộ, Luận cương cũng
mạng không đề cập đến bộ phận tư sản mại bản.
Đánh đổ đế quốc Pháp, bọn phong kiến và tư sản phản Đánh đổ thế lực phong kiến, đánh đổ ách áp
Nhiệm cách mạng, làm cho nước Việt Nam độc lập. Dựng lên bức bóc lột tư bản, thực hành cách mạng thổ
vụ cách chính phủ công nông binh, tổ chức ra quân đội công nông, địa và đánh đổ đế quốc Pháp, làm cho Đông
mạng tịch thu hết sản nghiệp của đế quốc, tịch thu ruộng đất,… Dương hoàn toàn độc lập.
chia cho dân nghèo, tiến hành cải cách ruộng đất.
Vai trò Giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong là Đảng Giai cấp vô sản với đội tiên phong là Đảng
lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam. Cộng sản Đông Dương.

Lực Giai cấp công nhân, nông dân là động lực là gốc của cách Công nhân và nông dân, không đề cập tới các
lượng mạng cần phải liên minh với giai cấp tiểu tư sản, tư sản giai cấp khác.
cách dân tộc, trung và tiểu địa chủ.
mạng.

 Nhận xét:
- Về phương pháp cách mạng và mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam và thế giới, cả Cương lĩnh
chính trị đầu tiên và Luận cương chính trị 10/1930 đều xác định giống nhau.

28
- Sự giống nhau trên là do cả hai văn kiện đều thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin và cách mạng vô sản
chịu ảnh hưởng của cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917.
- Song hạn chế lớn nhất của Luận cương chính trị 10/1930 chưa vạch rõ được mâu thuẫn chủ yếu của 1
xã hội thuộc địa nên k nêu cao được vấn đề dân tộc lên hàng đầu mà nặng về vấn đề đấu tranh giai cấp,
chưa xác định được mâu thuẫn dân tộc hay mâu thuẫn giai cấp là chủ yếu, kẻ thù nào là chủ yếu. Đánh
giá k đúng khả năng cách mạng của giai cấp tiểu tư sản, trung và tiểu địa chủ…. và khả năng liên minh
với giai cấp tư sản dân tộc; không thấy được khả năng phân hóa và lôi kéo 1 bộ phận giai cấp địa chủ
trong cách mạng giải phóng dân tộc.
- Sự đúng đắn của Cương lĩnh chính trị đầu tiên thể hiện ở việc xác định đúng đắn mối quan hệ giữa
dân tộc và giai cấp, xác định đúng lực lượng và kẻ thù cách mạng, đây là 1 cương lĩnh cách giải phóng
dân tộc đúng đắn và sáng tạo của Đảng đã soi đường chỉ lối cho cách mạng Việt Nam trong cuộc đấu
tranh cho độc lập tự do.

Phân tích nội dung cơ bản của đường lối đấu tranh đòi dân sinh dân chủ thể hiện trong
các Nghị quyết BCHTW Đảng (1936- 1939).
Trả lời:
a, Hoàn cảnh lịch sử
*) hoàn cảnh thế giới:
- CN phát xít xuất hiện =>Nguy cơ chiến tranh thế giới xảy ra đe dọa hòa bình an ninh thế giới.
- 7/1935 Đại hội lần VII quốc tế cộng sản được triệu tập xác định kẻ thù đấu tranh là CN phát xít.
- Chủ trương mỗi một nước thành lập mặt trận dân tộc thống nhất chống đế quốc, chống phát xít.
- Nhiệm vụ trước mắt chủ yếu của nhân dân là đấu tranh chống CN phát xít, chống chiến tranh bảo vệ
nền dân chủ trên thế giới.
- 1936 Chính phủ và mặt trận nhân dân Pháp lên nắm quyền ban hành một số cải cách đan chủ đối với
người dân ở các nước thuộc địa.
*) hoàn cảnh trong nước:
- cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 tác động ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi giai cấp tầng lớp trong
xã hội, ảnh hưởng đến đời sống của mọi g/c, tầng lớp. Yêu cầu cải thiện đời sống nhân dân là yêu cầu
bức thiết của mọi g/c tầng lớp trong xã hội.
- Phong trào cách mạng trong nước sau một thời gian bị khủng bố, đàn áp đã được khôi phục trở lại. Hệ
thống tổ chức của Đảng được gây dựng trở lại. Đây là cơ sở quan trọng để phát triển đổi mới.
b, Chủ trương mới của Đảng giai đoạn 1936-1939
- Tại hội nghị xác định nhiệm vụ chống đế quốc, chống phong kiến mầ Đảng ta đề ra từ khi thành lập
đảng đến nay không hề thay đổi. Tuy nhiên căn cứ vào tình hình mới hội nghị xác định những vấn đề
trước mắt là:
+ Kẻ thù trước mắt là đấu tranh chống lại lực lượng phản động thuộc địa và tay sai.
+ Mục tiêu đấu tranh: đấu tranh chống pháp xít, chống chiến tranh đòi tự do dân chủ, hòa bình
+ Khẩu hiệu đấu tranh là tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình.
+ Hình thức đấu tranh, phương pháp tổ chức đấu tranh; chuyển từ đấu tranh bí mật hợp pháp =>đấu
tranh công khai hợp pháp, nửa công khai nửa hợp pháp.
+ Về đoàn kết quốc tế: hội nghị xác định phải liên kết chặt chẽ với g/c công nhân, với đảng cộng sản
đặc biệt đấu tranh chống lại lực lượng phản động thuộc địa ở Đông Dương.
+ Chủ trương thành lập mặt trận nhân dân thống nhất phản đế Đông Dương để đoàn kết mọi lực lượng
chống chủ nghĩa phát xít đòi tự do dân chủ hòa bình.

29
 Cái mới đó là đã tạm gác cách mạng ruộng đất, nhiệm vụ trước mắt là thực hiện tự do, dân chủ,
cơm áo, hòa bình, chống chủ nghĩa phát xít.
*) Ý Nghĩa: Với những nội dung cơ bản trên ĐCSVN đã giải quyết được hai vấn đề; chiến lược và sách
lược, cách mạng việt nam đã bắt kịp cách mạng thế giới, chống phát xít, chống chiến tranh đòi hòa
bình.

Phân tích nội dung cơ bản của đường lối đấu tranh giành chính quyền của Đảng được thể
hiện trong các Nghị quyết TW 6, 7 và 8 (1939- 1941).
Trả lời:
a, hoàn cảnh lịch sử:
*) hoàn cảnh lịch sử thế giới:
- 1/3/1939 chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Ngay khi chiến tranh nổ ra chính phủ pháp tham chiến.
- 1940 Đức tấn công pháp, pháp bại trận chính phủ mặt trận nhân dân pháp bị tan vỡ, ĐCS pháp chịu
nhiều tổn thất.
*) hoàn cảnh lịch sử trong nước
- Ngay khi chiến tranh nổ ra lực lượng pháp thống trị ở Đông Dương đã thủ tiêu mọi quyền tự do dân
chủ của người dân mở ra các cuộc tấn công vào ĐCS, tăng cường bóc lột về kinh tế, đàn áp về chính
trị.
- 22/9/1940 Nhật tấn công Đông Dương. Nhật-Pháp bắt tay với nhau để thống trị nhân dân Đông
Dương. Chính sách thống trị của Pháp Nhật đè nặng lên vai nhân dân Đông Dương, thúc đẩy mâu
thuẫn dân tộc phát triển gay gắt ở Đông Dương đòi hỏi phải giải quyết
b, Chủ trương mới của Đảng 1939-1941
Thể hiện tập trung trong 3 hội nghị TW Đảng ( lần VI- 11/1939; lần VII- 11/1940; lần VIII- 5/1941)
*) Lần VI-11/1939: họp tại Bà Điểm- Hóc Môn(Gia Định) phân tích tình hình thế giới, tình hình Đông
Dương hội nghị khẳng định mâu thuẫn giữa các dân tộc ở Đông Dương với các nước đế quốc phát xít
đã phát triển gay gắt cao độ, trở thành mâu thuẫn chủ yếu nhất, yêu cầu bức thiết là giải phóng dân tộc.
Hội nghị quyết định tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất thay bằng các khẩu hiệu tịch thu ruộng đất
của đế quốc, cảu việt gian chia cho dân nghèo, thực hiện giảm tô, giảm tức.
+ hội nghị chủ trương thành lập mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương
+ hội nghị xác định con đường đấu tranh của cách mạng Đông Dương là con đường đấu tranh vũ trang
giành chính quyền về tay nhân dân.
*) Lần VII-11/1940: họp tại Đình Bảng- Bắc Ninh, tán thành chủ trương lần VI tuy nhiên có bổ sung
mới.
+ xác định đối tượng đâu tranh: Nhật- Pháp
+ khẩu hiệu đấu tranh: đánh đuổi đế quốc phát xít, Pháp, Nhật thành lập chính quyền cách mạng của
nhân dân Đông Dương.
+ ra quyết định: duy trì củng cố đội du kích Bắc Sơn quyết dịnh đình chỉ cuộc cách mạng Nam Kì
*) Lần VIII-5/1941: Là hội nghị phát triển hoàn chỉnh chủ trương mới của Đảng có sự tham gia chủ trì
của Nguyễn Ái Quốc.
+ 2/1941: NAQ trở về nước hoạt động ở Pắc pó- Cao Bằng
+ 10/5/1941 =>19/5/1941: Hội nghị VIII được triệu tập tại Pắc pó- Cao Bằng dưới sự chủ trì của NAQ.
+ Phát triển dương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, hội nghị nhấn mạnh hơn nữa vấn đề giải pháp dân
tộc, khẳng định hơn nữa vấn đề giải phóng dân tộc là vấn đề bức thiết nhất.
+ Hội nghị chủ trương giải pháp vấn đề giải phóng dân tộc trong khuôn khổ từng nước Đông Dương ở
mỗi một nước Đông Dương sẽ thành lập một mặt trận riêng, có đường lối riêng ở việt nam sẽ thành lập
một mặt trận lấy tên gọi là Việt nam độc lập Đồng minh hay mặt trận Việt Minh.
30
+ Các tổ chức chính trị của quần chúng đứng trong hàng ngũ của Mặt trận việt minh đều được lấy tên
gọi là cứu quốc.
+ Hội nghị đã dự đoán thời cơ Cách mạng xã hội
 khi liên xô đại thắng
 khi mặt trận cứu quốc đã phát triển thống nhất trong cả nước
 khi nông dân không thể sống hơn được nữa dưới ách thống trị của đế quốc phát xít.
+ Khi lực lượng ở Đông Dương lâm vào cuộc khủng hoảng sâu sắc toàn dân không thể thống trị nhân
dân thêm được nữa
+ Hình thái cuộc khởi nghĩa vũ trang, đi từ khởi nghĩa từng phần ở từng địa phương tiến lên tổng khởi
nghĩa giành chính quyền trong cả nước.

Vì sao Đảng Cộng sản Đông Dương chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược trong
giai đoạn 1939-1945? Nội dung chủ trương chiến lược mới của Đảng được thông qua tại
Hội nghị BCHTW 8 (tháng 5 năm 1941)?
a)Đảng Cộng sản Đông Dương chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược trong giai đoạn 1939-
1945 vì:

-Chiến tranh thế giới lần thứ 2 bùng nổ (1-9-1939) tác động sâu sắc đến tình hình chính trị thế giới. Để
phục vụ cho chiến tranh, thực dân Pháp thực hiện nhiều chính sách cực kỳ phản động, giải tán Đảng
Cộng sản ở Pháp, ở Đông Dương, chúng thực thi chính sách cai trị tàn bạo, điên cuồng tấn công nhằm
tiêu diệt Đảng Cộng sản và các đoàn thể do Đảng lãnh đạo, thực hiện chính sách khủng bố, ban bố lệnh
tổng động viên, ra sức bắt người, cướp của tại chỗ phục vụ cuộc chiến tranh đế quốc của chúng.

-Chính sách phát xít hóa bộ máy chính quyền thực dân đế quốc ở Đông Dương không làm Đảng ta bất
ngờ, vì Đảng đã sớm dự báo vấn đề này. Khi chiến tranh thế giới lần thứ 2 bùng nổ, Đảng cho rằng nếu
cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918) làm xuất hiện tình thế cách mạng ở Nga, dẫn tới
cuộc Cách mạng Tháng Mười năm 1917 nổ ra, thì cuộc chiến tranh thế giới lần này sẽ làm xuất hiện
tình thế cách mạng. Nắm vững và vận dụng sáng tạo tư tưởng cách mạng của V.I.Lênin : “giai cấp vô
sản nắm lấy ngọn cờ dân tộc, tự mình trở thành dân tộc”, dựa trên cơ sở phân tích diễn biến tình hình ở
Đông Dương lúc này, Đảng kịp thời đề ra chủ trương cách mạng mới.
b)Nội dung chủ trương chiến lược mới của Đảng được thông qua tại Hội nghị BCHTW 8 (tháng 5 năm
1941)?
-Hội nghị đề ra nhiều chủ trương, chính sách cụ thể, nhấn mạnh tầm quan trọng của vấn đề dân tộc,
nhấn mạnh Đảng của giai cấp công nhân, nếu muốn tập hợp lực lượng toàn dân thì phải giương
cao ngọn cờ dân tộc, phải đoàn kết hết sức rộng rãi “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai
cấp, phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này, nếu không giải quyết
được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng những
toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm
cũng không đòi lại được”.
-Theo đề nghị của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam
độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh). Các tổ chức quần chúng yêu nước chống đế quốc trong
Mặt trận đều lấy tên là Hội Cứu quốc như Hội Công nhân Cứu quốc, Hội Nông dân Cứu quốc, Hội Phụ
nữ Cứu quốc, Hội Thanh niên Cứu quốc, Hội Phụ lão Cứu quốc, Hội Nhi đồng Cứu vong, Hội Quân
nhân Cứu quốc... Với các dân tộc Lào, Cao Miên, Đảng chủ trương thành lập Mặt trận ở mỗi nước, tiến
tới thành lập một Mặt trận chung Đông Dương.
31
-Nhằm triệt để phát huy yếu tố dân tộc, phân hoá hàng ngũ giai cấp địa chủ, Hội nghị tiếp tục thực
hiện chủ trương tạm gác khẩu hiệu đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày thay bằng khẩu
hiệu tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng công,
giảm tô, giảm tức.
-Hội nghị xác định: phương pháp cách mạng là "cuộc cách mạng Đông Dương kết liễu bằng một
cuộc khởi nghĩa vũ trang".Hội nghị quyết định phải xúc tiến công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang,
khi thời cơ đến “với lực lượng sẵn có ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa
phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn".
-Hội nghị quyết định đặt vấn đề dân tộc trong khuôn khổ của một nước Việt Nam, Lào, Khơ me,
thi hành đúng quyền “dân tộc tự quyết", với tinh thần liên hệ mật thiết, giúp đỡ nhau giành thắng lợi...
-Hội nghị đề ra nhiệm vụ xây dựng Đảng, làm cho Đảng đủ năng lực lãnh đạo sự nghiệp cách
mạng của dân tộc. Nghị quyết Hội nghị đề ra gấp rút đào tạo cán bộ và tăng thêm thành phần vô sản
trong Đảng.
Hội nghị bầu Ban Chấp hành Trung ương chính thức gồm các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn
Thụ, Hạ Bá Cang, Phùng Chí Kiên, đồng chí Trường Chinh làm Tổng Bí thư của Đảng. Ban Thường
vụ Trung ương Đảng gồm các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hạ Bá Cang.
Hội nghị lần thứ tám của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã hoàn chỉnh chủ trương thay đổi chiến
lược cách mạng được đề ra từ Hội nghị tháng 11-1939, có ý nghĩa quyết định thắng lợi Cách mạng
Tháng Tám năm 1945.

Làm rõ nguyên nhân Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945)? Đảng Cộng sản Đông Dương đã có
chủ trương như thế nào? Ý nghĩa của chủ trương?

-Tháng 6/1940, Pháp bị phát xít Đức chiếm đóng. Lợi dụng cơ hội đó, chính quyền phát xít Nhật tăng
sức ép lên chính quyền Pháp tại Đông Dương nhằm thế chân Pháp. Ngay từ năm 1940, Pháp đã có
những động thái khiến Đế quốc Nhật Bản xúc tiến từng bước để dần kiểm soát toàn Đông Dương. Theo
Hiệp ước Tokyo 1940 thì Pháp chấp nhận hầu hết các yêu sách của Nhật, trong đó có các điều khoản
liên quan đến việc Nhật có quyền chi phối nền kinh tế Đông Dương để thâu tóm miền Hoa Nam. Ngày
25 tháng 9 năm 1940, dù chỉ huy lực lượng võ trang khá hùng hậu Pháp tỏ ra bất lực khi Nhật tấn công
biên giới Việt - Hoa. Pháp tiếp tục phải nhượng bộ Nhật. Hiệp ước Tokyo 1941, ấn định Nhật là nước
hưởng những ưu đãi đặc biệt tại Đông Dương.

-Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc, nước Pháp được giải phóng.
Chính phủ Đờ-Gôn trở về Pa-ri. Ở mặt trận Thái Bình Dương, phát xít Nhật khốn đốn trước các đòn tấn
công dồn dập của quân Anh - Mĩ cả ở trên biển và trên bộ. Quân Pháp ở Đông Dương ráo riết chuẩn bị,
chờ thời cơ để giành lại địa vị thống trị cũ, làm cho mâu thuẫn Nhật - Pháp trở nên gay gắt. Tình thế
trên buộc Nhật phải đảo chính Pháp, nhằm độc chiếm Đông Dương.

-Ngay sau khi Nhật đảo chính Pháp, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp hội nghị mở rộng và đề
ra chủ trương: Ra chỉ thị ”Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” chỉ rõ bản chất hành động
của Nhật ngày 9-3-1945 là một cuộc đảo chính tranh giành lợi ích giữa Nhật và Pháp; xác định kẻ thù
cụ thể, trước mắt và duy nhất của nhân dân Đông Dương sau cuộc đảo chính là phát xít Nhật; thay khẩu
hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật - Pháp” bằng khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật”, nêu khẩu hiệu “thành
lập chính quyền cách mạng của nhân dân Đông Dương” để chống lại chính phủ thân Nhật, làm tiền đề
cho cuộc tổng khởi nghĩa với hình thức đấu tranh: từ bất hợp tác, bãi công, bãi thị đến biểu tình thị uy,
vũ trang du kích và sẵn sàng chuyển qua tổng khởi nghĩa khi có điều kiện.
32
Phân tích chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền của Đảng trong cách
mạng tháng Tám năm 1945?
Điểm đặc sắc trước hết là Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh kịp thời nắm bắt và chủ động tận
dụng triệt để thời cơ thuận lợi của cách mạng để lãnh đạo các lực lượng tiến hành tổng khởi nghĩa. Đến
đầu tháng 8-1945, tình hình thế giới và trong nước có những chuyển biến hết sức mau lẹ, trực tiếp tạo
thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Đó là sau khi phát-xít Nhật đầu hàng Đồng minh, quân Nhật ở Việt
Nam cũng như ở Lào và Cam-pu-chia rất hoang mang, tinh thần chiến đấu rệu rã; đồng thời, chính
quyền tay sai và bọn Việt gian thân Nhật cũng hoảng sợ, dao động. Trong khi đó, cao trào kháng Nhật,
cứu nước của nhân dân ta và lực lượng vũ trang cách mạng đang dâng lên rất mạnh mẽ trên khắp cả
nước; một số tầng lớp trung gian do dự, lừng khừng đã ngả theo cách mạng.

Tận dụng thời cơ, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh tập trung chỉ đạo thực hành tổng khởi
nghĩa; chủ động tổ chức, phát huy sức mạnh của toàn dân ở từng vùng, miền và trên quy mô cả nước.
Quán triệt và chấp hành Lệnh tổng khởi nghĩa của Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc, từ ngày 14-8-1945,
các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, tôn giáo… được huy động tổ chức thành những đội quân chính trị
đông đảo và đội quân vũ trang, trong đó có Việt Nam Giải phóng quân và lực lượng vũ trang các địa
phương làm nòng cốt, xung kích ở khắp ba miền Bắc, Trung, Nam, do Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc và
các đảng bộ địa phương lãnh đạo. Toàn bộ lực lượng chính trị và lực lượng quân sự tham gia tổng khởi
nghĩa quán triệt và thực hiện theo 3 nguyên tắc do Hội nghị toàn quốc của Đảng đề ra. Một là, tập trung
lực lượng vào những mục tiêu chính. Hai là, thống nhất các mặt chính trị, quân sự, hành động và chỉ
huy. Ba là, kịp thời tổ chức hành động đồng loạt, không bỏ lỡ cơ hội.

Nhờ phát động kịp thời, nhanh chóng tổ chức được những đạo quân chính trị đông đảo và đội quân vũ
trang làm nòng cốt, tiến hành tổng khởi nghĩa đúng thời cơ và vận dụng theo 3 nguyên tắc chỉ đạo,
Đảng ta đã phát huy được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, tạo nên sức mạnh áp đảo kẻ thù, nhanh
chóng giành thắng lợi.

Cuộc cách mạng tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 thành công là do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh
lãnh đạo, chủ động kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng chính trị với lực lượng quân sự, tiến hành khởi
nghĩa từng phần, tiến lên tổng khởi nghĩa trên quy mô cả nước. Tận dụng thời cơ thuận lợi và thực hiện
Lệnh tổng khởi nghĩa của Trung ương, đông đảo nhân dân ở nhiều địa phương có đội quân vũ trang (tổ,
đội) hỗ trợ đã đồng loạt nổi dậy, giành chính quyền. Ở một số địa phương, tuy chưa nhận được Lệnh
tổng khởi nghĩa, nhưng thực hiện Chỉ thị “Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, các đảng
bộ đã lãnh đạo quần chúng nhân dân, có các đội tự vệ xung kích nổi dậy, giành chính quyền ở địa
phương.

Dưới sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, cuộc tổng khởi nghĩa do các đảng bộ tỉnh, thành phố trực tiếp
lãnh đạo diễn ra trên cả nước rất đa dạng, phong phú. Hầu hết các tỉnh, thành phố đều tổ chức khởi
nghĩa dưới hình thức kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, giữa đấu tranh
chính trị với đòn tiến công quân sự, trong đó lực lượng chính trị tiến hành đấu tranh chính trị đóng vai
trò quyết định, lực lượng vũ trang thực hiện đấu tranh vũ trang đóng vai trò chế áp lực lượng địch, kết
hợp với sách lược mềm dẻo, cô lập và vô hiệu hóa quân thù nên giành được thắng lợi nhanh gọn, ít đổ
máu. Trong tất cả các tỉnh, thành phố, đặc khu trong cả nước tiến hành khởi nghĩa, có 36 tỉnh, thành
phố về cơ bản ta tổ chức lực lượng khởi nghĩa bắt đầu từ xã, huyện, phát triển lên tỉnh lỵ, từ ngoại

33
thành vào nội thành, rồi kết thúc ở một số huyện, xã còn lại; 15 tỉnh tổ chức lực lượng tiến hành khởi
nghĩa ở tỉnh lỵ trước rồi lan về các huyện và 11 tỉnh, đặc khu tổ chức lực lượng cùng khởi nghĩa cả ở
tỉnh lỵ và nông thôn trong một ngày.

Thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa ở các tỉnh, thành phố, đặc biệt là thắng lợi ở Hà Nội (19-8), Huế
(23-8) và Sài Gòn (25-8) đã tác động mạnh tới phong trào nổi dậy ở các địa phương trong cả nước.
Nhờ tổ chức kịp thời các đòn đấu tranh chính trị, nổi dậy của quần chúng có tự vệ vũ trang xung kích
hỗ trợ, kết hợp chặt chẽ đòn tiến công quân sự của lực lượng vũ trang, chỉ trong nửa tháng (từ ngày 14-
8 đến 28-8-1945), cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên phạm vi cả nước đã giành thắng lợi, để
ngày 2-9-1945, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc và đặt cơ sở
để xây dựng, phát triển toàn diện đất nước.

Tại sao nói: Sau cách mạng tháng Tám nước ta lâm vào tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”?
Để giải quyết tình thế trên, Trung ương Đảng và Chính phủ đã có những chủ trương như
thế nào?
Trả lời:
*Chính quyền cách mạng non trẻ của ta phải đối phó với muôn vàn khó khăn, đứng trước tình thế
“Ngàn cân treo sợi tóc”. Từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc, 20 vạn quân Tưởng kéo vào, theo chúng là bọn tay
sai thuộc các tổ chức phản động, âm mưu cướp chính quyền mà nhân dân ta đã giành được. Từ vĩ tuyến
16 trở vào Nam, hơn 1 vạn quân Anh kéo vào, dọn đường cho thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta.
Ngoài ra, trên cả nước còn hơn 6 vạn quân Nhật đang chờ giải giáp. Bọn phản động trong nước ngóc
đầu dậy, làm tay sai cho Pháp, chống phá cách mạng. Chính quyền cách mạng còn non trẻ; lực lượng
vũ trang còn yếu. Nạn đói vẫn chưa khắc phục. Hàng hoá khan hiếm, đời sống nhân dân gặp nhiều khó
khăn. Di sản văn hoá lạc hậu của chế độ cũ rất nặng nề, hơn 90% dân số mù chữ, tệ nạn xã hội còn phổ
biến. Ngân sách Nhà nước trống rỗng...
*Trước tình hình đó, cùng với việc củng cố chính quyền, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân
dân, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm các biện pháp đấu tranh mềm dẻo nhằm duy trì
hòa bình, giữ vững độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc theo phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”,
để tranh thủ thời gian củng cố lực lượng cách mạng, tránh phải đối phó với nhiều kẻ thù. Chúng ta đã
chủ động đàm phán với Pháp để tránh cuộc chiến tranh, giữ hòa bình cho cả hai dân tộc, giữ độc lập
cho Tổ quốc, rồi ký Hiệp định sơ bộ ngày 6-3-1946, sau đó ký Tạm ước ngày 14-9-1946. Chủ tịch Hồ
Chí Minh còn gửi thư tới nguyên thủ các nước Anh, Mỹ, Liên Xô và các thành viên của Liên hợp quốc
nêu rõ thiện chí hòa bình, mong muốn Liên hợp quốc chấp nhận những yêu cầu chính đáng của Việt
Nam để duy trì hòa bình. Đồng thời, Người liên tục gửi thư cho Chính phủ, Quốc hội, Thủ tướng Pháp
và cử phái viên đến gặp người cầm đầu Pháp ở Đông Dương để tìm cách cứu vãn hòa bình, tránh cuộc
chiến tranh đổ máu. Nhưng giới cầm quyền thực dân đã khước từ mọi thiện chí, nỗ lực của chúng ta.
Chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới. Bất chấp những thiện chí hòa bình của Việt
Nam, trong các ngày 15 và 16-12-1946, quân Pháp nổ súng gây hấn nhiều nơi ở Hà Nội. Ngày 17-12-
1946, chúng cho xe phá các công sự của ta ở phố Lò Đúc, rồi gây ra vụ tàn sát đẫm máu ở phố Hàng
Bún và phố Yên Ninh. Ngày 18-12-1946, tướng Môlie gửi cho ta 2 tối hậu thư đòi chiếm đóng Sở Tài
chính, đòi ta phải phá bỏ mọi công sự và chướng ngại vật trên các đường phố, đòi để cho chúng giữ gìn
trị an ở Hà Nội. Chúng tuyên bố nếu các yêu cầu đó không được Chính phủ Việt Nam chấp nhận thì
quân Pháp sẽ chuyển sang hành động, chậm nhất là sáng ngày 20-12-1946.
Vậy là kẻ thù đã đặt dân tộc Việt Nam trước 2 con đường: một là khoanh tay, cúi đầu trở lại làm nô lệ;
hai là đấu tranh đến cùng để giành lấy tự do và độc lập. Tình thế đó, buộc Đảng, Chính phủ, Chủ tịch
Hồ Chí Minh và nhân dân ta không có lựa chọn nào hơn là cầm vũ khí, đứng lên chiến đấu. Chính vì
34
vậy, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị Toàn dân kháng chiến và ngày 19-12-1946, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Đây là lời hịch cứu nước, thể hiện ý chí
quyết tâm sắt đá của cả dân tộc, khơi dậy sức mạnh chủ nghĩa yêu nước, truyền thống anh hùng bất
khuất; động viên, thôi thúc, cỗ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta bước vào cuộc kháng chiến trưởng
kỳ giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc.

Phân tích chủ trương giai đoạn 45-46. Rút ra bài học kinh nghiệm.

Trình bày khái quát chính sách cai trị của thực dân Pháp và tác động của chính sách đó
đến xã hội Việt Nam?

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một trong ba thắng lợi vĩ đại của dân tộc Việt Nam
trong thế kỷ XX. Thắng lợi đó đã tạo ra "một cuộc thay đổi cực kỳ to lớn trong lịch sử của nước ta":
chấm dứt sự áp bức, bóc lột của thực dân Pháp tồn tại trong 87 năm (1858-1945) và sự tồn tại của chế
độ quân chủ chuyên chế tồn tại ngót nghìn năm, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập…
Cả dân tộc Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội.

Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa mới ra đời, chưa kịp củng cố và phát triển thì chính quyền
cách mạng phải đối phó với muôn vàn khó khăn: kinh tế nghèo nàn lạc hậu, ngân quỹ nhà nước trống
rỗng, nạn đói, nạn dốt, sự chống phá của các đảng phái phản động… nhưng khó khăn lớn nhất khiến
vận mệnh dân tộc rơi vào tình thế "ngàn cân treo sợi tóc" đó là âm mưu và hành động của các thế lực
thù địch, đặc biệt là của quân Tưởng và thực dân Pháp.

Để giữ vững chính quyền cách mạng, để bảo vệ những thành quả cách mạng mà nhân dân đã đạt
được, trên lĩnh vực ngoại giao, Đảng, Chính phủ đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra đường lối
chính trị vô cùng linh hoạt, sáng tạo đó là "cứng rắn về nguyên tắc, mềm dẻo về sách lược", triệt để lợi
dụng mẫu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, tránh trường hợp một mình đối phó với nhiều kẻ thù cùng một
lúc.

Từ tháng 9-1945 đến trước tháng 3-1946, thực hiện việc nhân nhượng với quân Tưởng, chính quyền
cách mạng cung cấp 10 ngàn tấn gạo mỗi tháng cho quân đội Tưởng, thỏa mãn các nhu cầu tối thiểu về
nhà ở, điều kiện sinh hoạt, tạm thời cho phép lưu hành tiền Quan Kim trong phạm vi trao đổi hàng hoá
giữa nhân dân ta với quân đội Tưởng, mở rộng thành phần Chính phủ liên hiệp lâm thời, dành 1 ghế
Phó Chủ tịch nước, 4 ghế Bộ trưởng và 70 ghế trong Quốc hội cho Việt Quốc, Việt Cách không thông
qua bầu cử, tránh mọi xung đột với quân đội Tưởng. Phải nhân nhượng với Tưởng nhưng Đảng ta cũng
xác định phải giữ vững 2 nguyên tắc, đó là giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, chính quyền cách mạng
và giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc, thống nhất đất nước; đồng thời kiên quyết trừng trị bọn tay sai
phản cách mạng.

Với sách lược tạm hòa hoãn với quân Tưởng, chúng ta đã hạn chế đến mức thấp nhất mọi hoạt động
phá hoại của quân Tưởng và tay sai, làm thất bại âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng của chúng, góp
phần làm ổn định mọi mặt ở miền Bắc, tạo điều kiện cho nhân dân ta có thêm thời gian củng cố và xây
dựng lực lượng, chuẩn bị bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

35
Ngày 28-2-1946, chính quyền Tưởng Giới Thạch và thực dân Pháp ký Hiệp ước Hoa - Pháp tại
Trùng Khánh. Theo Hiệp ước này, quân đội Tưởng rút về nước nhường cho quân Pháp quyền giải giáp
quân đội Nhật của chúng ở miền Bắc Đông Dương. Đổi lại, Pháp trả lại các tô giới và nhượng địa của
Pháp trên đất Trung Hoa, bán cho Tưởng đoạn đường sắt Côn Minh - Hồ Kiều, nhượng cho Tưởng một
đặc khu ở cảng Hải Phòng, hàng hóa của Tưởng vận chuyển qua miền Bắc sẽ được miễn thuế.

"Hiệp ước Hoa - Pháp" là một sự chà đạp thô bạo đối với độc lập, chủ quyền của Việt Nam; buộc
Đảng và nhân dân ta phải lựa chọn một trong hai con đường: hoặc là đánh Pháp ngay từ khi chúng đưa
quân ra miền Bắc, hoặc là chủ động hoà hoãn với Pháp để đuổi 20 vạn quân Tưởng về nước, tránh tình
thế cùng một lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù, bảo toàn thực lực, tranh thủ thời gian hòa hoãn để
chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.

Lựa chọn giải pháp hòa với thực dân Pháp, Ban Thường vụ Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng chỉ rõ lập trường đàm phán của chúng ta là: "Pháp phải thừa nhận quyền dân tộc tự quyết
của dân ta… và sự thống nhất quốc gia của ta".

Chủ trương hòa với thực dân Pháp được tiến hành thông qua việc ký kết bản "Hiệp định sơ bộ" (6-3-
1946) và bản "Tạm ước" (14-9-1946) giữa Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Pháp.

Mọi nỗ lực ngoại giao của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đều bị tư tưởng hiếu chiến của
thực dân Pháp phá bỏ. Nhân dân Việt Nam một lần nữa phải đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược.

Chủ trương "cứng rắn về nguyên tắc, mềm dẻo về sách lược" đã thể hiện rõ sự thông minh, sáng
suốt, tài tình, khéo léo, bản lĩnh chính trị vững vàng của Đảng, Chính phủ đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Chủ trương này được thực hiện thắng lợi không chỉ góp phần to lớn vào việc giữ vững nền độc
lập, bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ, đưa dân tộc vượt qua tình thế "ngàn cân treo sợi tóc", cả
nước có thêm thời gian chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài mà còn để lại nhiều bài học kinh nghiệm
quý báu đối với hoạt động ngoại giao của Đảng và Nhà nước ta trong những giai đoạn sau này.

Ý nghĩa
Nhờ có sách lược hòa hoãn với tưởng và Pháp mà chúng ta có thêm thời gian chuẩn bị cho cuộc chiến
đấu mới.Qua đó cta rút ra được:

Thứ nhất, bài học đề cao thế hợp pháp và sức mạnh của chính quyền cách mạng

Tháng 8 năm 1945, khi cuộc chiến tranh thế giới thứ hai đi vào giai đoạn kết thúc, tình hình thế giới
thay đổi với nhịp độ cực kỳ nhanh chóng. Nhờ dự đoán đúng tình hình thế giới và trong nước khi biết
Nhật Bản sắp đầu hàng Đồng minh, Đảng chủ trương phải giành được chính quyền và tuyên bố độc lập
trước khi quân đồng minh vào; đề cao vị trí của Việt nam Dân chủ Cộng hòa, giành thế hợp pháp cho
chính quyền mới, tranh thủ sự công nhận của quốc tế, tạo thuận lợi cho việc giao dịch với đồng minh.

Để tạo cơ sở pháp lý và danh nghĩa chính thức cho chính quyền mới, Bộ chỉ huy cách mạng vừa về
đến Hà Nội đã quyết định cải tổ Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam thành Chính phủ Lâm thời Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 28/8/2945, một số đơn vị quân Trung Hoa Dân quốc bắt đầu kéo vào
phía Bắc Việt Nam, lễ tuyên bố độc lập phải được tổ chức trước khi quân đội Tưởng đến Hà Nội.

36
Như vậy, chỉ trong một thời gian ngắn, nhờ sức mạnh đoàn kết của cả dân tộc, ta đã thành lập được
một Chính phủ hoàn toàn hợp pháp, hợp hiến, đại diện cho toàn thể nhân dân Việt Nam thực hiện chức
năng đối nội, đối ngoại.

Có thể nói, những sách lược ngoại giao nêu trên đã góp phần đề cao thế hợp pháp và sức mạnh của
chính quyền cách mạng để đương đầu với các thế lực hung hãn, tạo khả năng thêm bạn bớt thù, tạo
thuận lợi cho các hoạt động của chính quyền cách mạng non trẻ.

Trong giai đoạn hiện nay, khi tình hình trong nước và thế giới ngày càng diễn biến phức tạp, Đảng
và Nhà nước ta đã vận dụng bài học này và việc đẩy mạnh hoạt động đối ngoại nhằm tiếp tục nâng cao
vị thế của Việt Nam, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế, bảo vệ nền độc lập
dân tộc. Điều này được thể hiện rõ nét thông qua việc từ chỗ bị bao vây về kinh tế, cô lập về chính trị,
đến nay Việt Nam có quan hệ ngoại giao với hơn 180 nước, quan hệ kinh tế-thương mại-đầu tư với trên
220 quốc gia và vùng lãnh thổ; quan hệ với các nước láng giềng, khu vực, các nước lớn và các trung
tâm kinh tế-chính trị hàng đầu, các nước bạn bè truyền thống và đối tác tiềm năng ngày càng phát triển,
đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững hơn. Với vai trò mở đường, phát huy sức mạnh của ngoại giao
chính trị, ngoại giao văn hóa, ngành ngoại giao đã khai thông, mở rộng và đưa quan hệ hợp tác của Việt
Nam với các quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới đi vào chiều sâu; đi tiên phong trong việc mở rộng
các thị trường, các lĩnh vực hợp tác quốc tế mới. Có thể nói chưa bao giờ Việt Nam có được quan hệ
hợp tác quốc tế rộng rãi và bình đẳng với các nước ở khắp các châu lục như ngày nay. Vai trò và vị thế
của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.

Với việc nâng cao vị thế đó trước hết giúp cho Đảng và Nhà nước ta chống lại các thế lực thù địch
đã và đang liên tục chống phá cách mạng nước ta hết sức tinh vi và quyết liệt. Mặt khác, nâng cao vị
thế còn tạo uy tín cho Việt Nam trên trường quốc tế, điều này được thể hiện thông qua việc Việt Nam
đã chính thức trở thành thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc sau khi đạt số
phiếu gần như tuyệt đối (183/190) vào năm 2007. Đối với các nước trong khu vực, Việt Nam còn có
vai trò, vị trí hết sức quan trọng trong tổ chức ASEAN.

Để tiếp tục phát huy thành quả đó, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã xác định rõ một trong ba
mục tiêu đối ngoại và hội nhập kinh tế trong thời gian tới của Việt Nam là: “nâng cao vị thế, uy tín của
đất nước và góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế
giới”[3].

Thứ hai, bài học biết phân hóa kẻ thù

Sau khi cách mạng Tháng Tám thành công, một thách thức nghiêm trọng đối với cách mạng Việt
Nam trong thời điểm này là đối phó cùng một lúc với nhiều thế lực quân sự đối địch ở các nước lớn có
mặt tại Việt Nam. Chính vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khéo léo lợi dụng mâu thuẫn giữa các nước
này với nhau và có sách lược phù hợp với từng đối tượng.
Đối với Trung Hoa Dân quốc: Để vô hiệu hóa mặt tiêu cực và chống lại chủ trương Hoa quân nhập
Việt, diệt cộng cầm Hồ mà lực lượng của Tưởng đề ra khi vào Việt nam, chính quyền cách mạng đã
nêu khẩu hiệu Hoa - Việt thân thiện và thực hiện hòa hoãn với sách lược mềm mỏng và bình tĩnh. Khi
phía Trung Hoa Dân quốc thấy không thể gây chuyện lật đổ chính quyền cách mạng của ta, họ chuyển
chính sách thúc đẩy các nhóm tay sai vu cáo, quấy phá, đòi Hồ Chí Minh từ chức, đòi giải tán chính
quyền... Chủ tịch Hồ Chí Minh và Ban Thường vụ đã có sách lược khéo léo và đúng đắn trên là nước
cờ cao tay, xoa dịu sự chống đối của Trung Hoa Dân quốc và tay sai: ngày 11/11/1945, Đảng Cộng sản
37
Đông Dương tuyên bố tự giải tán và rút vào hoạt động bí mật; ngày 2/3/1946, trong phiên họp đầu tiên
của Quốc hội khóa I, ta đồng ý cho tay sai của Trung Hoa Dân quốc một số chức vụ trong Quốc hội
không qua bầu cử...

Đối với Pháp: Sớm dự đoán thực dân Pháp vẫn có khả năng vừa mở rộng chiếm đóng khu vực phía
Nam, vừa đưa quân ra Bắc thông qua một thỏa hiệp thay quân với Tưởng Giới Thạch. Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Trung ương Đảng kịp thời ký bản Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946 theo những điều kiện có lợi nhất
có thể được đối với Việt Nam, để nhanh chóng đẩy 20 vạn quận Trung Hoa Dân quốc và tay sai của
chúng ra khỏi nước ta, chuẩn bị thực lực cho một cuộc chiến đấu mới mà ta biết không thể nào tránh
khỏi. Có thể nói với sự phân định về “bạn và thù” trong thời kỳ trước đây chính là cơ sở cho Đảng ta
định hình quan điểm “đối tác, đối tượng” trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa hội nhập quốc tế.
Với sự kế thừa những giá trị của Đảng trong hoạt động đối ngoại đó đã giúp cho Việt nam có nhiều
chủ trương, chính sách đúng đắn để “thêm bạn, bớt thù”, tăng cường sự hợp tác hữu nghị với các nước.
Đồng thời, tranh thủ khai thác, phát huy được các mặt tích cực của các đối tác để phát triển kinh tế - xã
hội, hạn chế được những mặt tiêu cực của đối tượng, góp phần bảo đảm sự ổn định chính trị, trật tự, an
toàn xã hội, tạo nền tảng vững chắc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thứ ba, bài học biết nhân nhượng đúng lúc, nhân nhượng có giới hạn, nhân nhượng có nguyên
tắc

Ngày 02/9/1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời đã phải đối mặt với những khó khăn về
kinh tế, chính trị, văn hóa và đặc biệt là vấn đề an ninh quốc phòng. Đứng trước tình hình đó, Đảng và
Chính phủ đã phải chấp nhận những điều kiện để thực hiện sách lược hòa với Trung Hoa Dân quốc, tập
trung chống thực dân Pháp xâm lược nhưng vẫn giữ vững nguyên tắc độc lập dân tộc như: Chính phủ
ta chấp nhận tiêu tiền Quan kim, Quốc tệ đã mất giá của chúng; cung cấp lương thực thực phẩm cho
chúng;... Trong quá trình đàm phán với Pháp Hiệp định Sơ bộ (6/3/1946), đồng ý cho Pháp đưa quân ra
miền Bắc thay Trung Hoa Dân quốc nhưng ta đòi Pháp công nhận Việt Nam là một quốc gia độc lập,
Pháp chỉ công nhận Việt Nam là tự trị, cuối cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra quy chế quốc gia tự do.
Tự do – chưa phải là độc lập nhưng là một nước có chủ quyền.

Sau Hiệp định Sơ bộ, ta quyết định ký với Pháp Tạm ước 14/9/1946, nhân nhượng thêm cho Pháp
một số quyền lợi về kinh tế - văn hóa để ta có thêm thời gian chuẩn bị lực lượng. Đảng Cộng sản Đông
Dương nhận định: Tạm ước 14/9 là một bước nhân nhượng cuối cùng, nhân nhượng nữa là phạm đến
chủ quyền của nước, là hại quyền lợi cao trọng của dân tộc.

Với Hiệp định Sơ bộ và Tạm ước 14/9, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ ta đã đi những nước cờ
mạnh bạo, sắc sảo, trước tiên thể hiện thiện chí hòa bình của nhân dân Việt Nam đến nhân dân thế giới,
đặc biệt là đến nhân dân Pháp, góp phần tạo một phong trào phản chiến của nhân dân Pháp chống chiến
tranh xâm lược. Việc ký kết các thỏa thuận này là đỉnh cao của nghệ thuật nhân nhượng có nguyên tắc
của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Lịch sử 86 năm ra đời và phát triển của Đảng ta cho thấy, càng trong những thời điểm khó khăn,
phức tạp thì bản lĩnh, trí tuệ, đạo đức, năng lực lãnh đạo của Đảng càng được khẳng định. Với việc phát
huy những bài học kinh nghiệm từ sách lược ngoại giao thời kỳ 1945-1946 trong giai đoạn hiện nay
chính là một trong những yếu tố quan trọng đem đến sự thành công về mặt đối ngoại của Đảng. Chúng

38
ta tin tưởng rằng, bài học thành công về mặt ngoại giao của Đảng trong giai đoạn1945-1946 sẽ tiếp tục
được phát huy trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Phân tích đường lối xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng của Đảng (1945- 1946).
Trả lời:
a, Hoàn cảnh lịch sử:
*) Thuận lợi:
+ Nhân dân lao động đã làm chủ vận mệnh của đất nước
+ Toàn dân tin tưởng và ủng hộ văn minh, ủng hộ chính phủ
+ Chính quyền dân chủ nhân dân thành lập có hệ thống từ TW xuống cơ sở.
*) Khó khăn:
+ Thù trong giặc ngoài: Miền Bắc có 20 vạn quân Tưởng dưới danh nghĩa quân, đồng minh vào giải
giáp quân Nhật, thực chất có dã tâm chống phá chính quyền Cách mạng và 2 tổ chức phản động Việt
Quốc- Việt Cách. Miền Nam, Quân đội Anh đã tiếp tay cho Pháp quay trở lại xâm lược Đông Dương.
23/9/1945 Pháp nổ súng tấn công xâm lược nước ta lần 2.
+ Còn khoảng 6 vạn quân Nhật đang chờ giải pháp cũng sẵn sàng chống phá chính quyền cách mạng
nếu được lệnh của quân Anh, quân Tưởng.
- chính trị: Hệ thống chính quyền mới được thành lập, thiếu kinh nghiệm quản lý kinh tế xã hội, đội
ngũ cán bộ còn thiếu trong khi chính quyền phải giải quyết nhiều vấn đề cấp bách của đời sống xã hội
- Ngoại giao: chưa một nước nào trên thế giới công nhận, đặt quan hệ ngoại giao
- Quân sự: lực lượng vũ trang mới thành lập (22/04/1944) tổ chức, trang bị yếu, thiếu, kinh nghiệm
chiến đấu chưa nhiều.
- Kinh tế- tài chính: nguy cơ nạn đói mới diễn ra đầu năm 1946 đe dọa vận mệnh của cả dân tộc, ngân
sách nhà nước trống rỗng, khánh kiệt
- Văn hóa: 95% dân số trong tình trạng mù chữ “giặc dốt”
=> Tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”
b, Chủ trương kháng chiến kiến quốc của Đảng
- 25/11/1945 BCHTW Đảng ban hành bản chị thị “Kháng chiến kiến quốc”
- Bản chị thị xác định cuộc cách mạng ở Đông Dương vẫn là giải phóng dân tộc, với khẩu hiệu đấu
tranh là “dân tộc trên hết, tổ quốc trên hết”
- Xác định kẻ thù chính của Đông Dương là thực dân pháp xâm lược.
- Phân tích tình hình thế giới và trong nước nhận định âm mưu và ý đồ của từng lực lượng đế quốc.
- Xác định các nhiệm vụ trước mắt chủ yếu là;
+ Củng cố chính quyền cách mạng
+ Chống thực dân pháp xâm lược
+ Bài trừ nội phản
+ Cải thiện đời sống nhân dân
 Xác định các biện pháp cụ thể trên các lĩnh vực:
+ chính trị: Xúc tiến đi đến bầu cử quốc hội để thành lập chính phủ chính thức, quy định hiến pháp.
+ Quân sự: Động viên nhân dân kháng chiến lâu dài, thực hiện phối hợp giữa chiến tranh du với bất
hợp tác.
+ Ngoại giao: Kiên trì thực hiện nguyên tắc bình đẳng và nhượng bộ làm cho mình ít kẻ thù, nhiều bạn
đồng minh.
c, Ý nghĩa:
- Bảo vệ được nền độc lập chính đảng, bảo vệ thành quả cách mạng
- Có điều kiện củng cố lực lượng, chuẩn bị lực lượng
39
- Xây dựng được nền móng ban đầu cơ bản của chính quyền mới, chế độ mới.

Trình bày chủ trương của Đảng về xây dựng, phát triển văn hoá trong thời kì 1945- 1975.
Qua đó làm rõ vai trò của văn hoá trong kháng chiến.
Trả lời:
a, Chủ trương của Đảng về xây dựng, phát triển văn hóa.
*) Giai đoạn 1945- 1954: Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ đã đề ra 6 việc làm cấp bách cần làm
ngay gồm: Giết giặc dốt, xóa nạn mù chữ, giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng việc thực hiện “cần,
kiệm, liêm, chính”, thực hiện xây dựng đạo đức mới. Trong phiên họp đưa ra 6 nhiệm vụ cấp bách
trong đó 2 vấn đề liên quan tới văn hóa.
- 25/11/1945: TW Đảng đề ra bản chỉ thị kháng chiến kiến quốc trong đó nhấn mạnh đến việc xây dựng
một nền văn hóa Việt Nam mới.
- 7/1948: Đ/c Trường Chinh đã trình bày báo cáo CN Mác và văn hóa Việt Nam:
+ Đảng xác định mối quan hệ giữa văn hóa Việt Nam với cách mạng giải phóng dân tộc, Đảng phát
động phong trào thi đua yêu nước, cổ động người dân thực hiện đời sống mới.
+ Thực hiện nền văn hóa dân chủ mới với tính chất khoa học, dân tộc, đại chúng.
+ Phát triển cái hay trong văn hóa dân tộc, bài trừ những thủ tục lạc hậu, ngăn ngừa sự xâm nhập của
văn hóa thực dân, học cái hay, cái tốt của văn hóa thế giới.
+ Nhằm xây dựng đội ngủ tri thức mới, đóng góp tích cực cho kháng chiến kiến quốc.
- 2/1951: Tại ĐHĐBTQ lần thứ 2 Đảng nhấn mạnh xúc tiến công tác văn hóa để đào tạo con người
mới, cán bộ mới, phục vụ cho công cuộc kháng chiến kiến quốc.
*) Giai đoạn 1954- 1975:
- Văn hóa phục vụ cho sự nghiệp kháng chiến kiến quốc.
- Đại hội lần thứ III (1960) tiến hành cuộc cách mạng tư tưởng và văn hóa đồng thời với cuộc cách
mạng về quan hệ sản xuất và cách mạng khoa học, kĩ thuật, là chủ trương xây dựng và phát triển nền
văn hóa mới, con người mới.
- Mục tiêu: Làm cho nông dân thoát nạn mù chữ và thói hư tật xấu do xã hội cũ để lại, trình độ văn hóa
ngày càng cao, có hiểu biết cần thiết về khoa học, kỹ thuật tiên tiến để xây dựng CNXH, nâng cao đời
sống vật chất và văn hóa.
- Tại Đại hội IV và V xác định, xây dựng nền văn hóa mới có nội dung XHCN và tính chất dân tộc, có
tính Đảng và có tính nhân dân.
b, Vai trò của văn hóa trong kháng chiến.
- Động viên được quần chúng nhân dân tích cực vào công cuộc kháng chiến, cổ vũ quần chúng trong
sản xuất, chiến đấu phát huy những giá trị truyền thống văn hóa tốt đẹp của con người Việt Nam.
- Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội.
- Văn hóa là mục tiêu của phát triển
- Văn hóa là động lực thúc đẩy sự phát triển.
- Văn hóa có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bồi dưỡng phát huy nhân tố con người và xây dựng
xã hội mới.

Sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược 1939-1945. Ý nghĩa của Cách mạng Tháng Tám
Tháng 9/1939, phát xít Đức tiến công Ba Lan, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Chính phủ phản
động ở Pháp thi hành chính sách phát xít, giải tán Đảng cộng sản Pháp và các Đảng Cộng sản ở các
nước thuộc địa, thủ tiêu các quyền tự do dân chủ.

40
Ở Đông Dương, đế quốc Pháp điên cuồng chống phá Đảng Cộng sản, chúng thực hiện chính sách kinh
tế thời chiến, đồng thời tiến hành bắt người, cướp của, khủng bố, tổng động viên… làm cho mâu thuẫn
giữa nhân dân Đông Dương với thực dân Pháp ngày càng gay gắt.
Trước những chuyển biến của tình hình, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương liên
tiếp mở các hội nghị để hoạch định chủ trương, nhiệm vụ, chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách
mạng, đặt “nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu”. Chủ trương này của Đảng tập trung ở 03 hội
nghị lần thứ sáu, lần thứ bảy và lần thứ tám của Ban chấp hành Trung ương.
- Hội nghị BCHTW 6 được tiến hành từ ngày 06 đến 08/11/1939 tại Bà Điểm, Gia Định do đồng chí
Nguyễn Văn Cừ, Tổng Bí thư BCHTW Đảng chủ trì (Tham dự có các đồng chí: Lê Duẩn, Phan Đăng
Lưu, Võ văn Tần) hội nghị đánh dấu sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược;
Hội nghị quyết định: Giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Đông Dương; Hội nghị
quyết định thay đổi một số khẩu hiệu, chuyển hướng hình thức đấu tranh:
Tạm gác khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của địa chủ mà chủ trương tịch thu ruộng đất của đế quốc và tay
sai; Không nêu khẩu hiệu thành lập chính phủ Xô viết công nông binh mà đề ra khẩu hiệu lập Chính
phủ Liên bang cộng hoà dân chủ Đông Dương;
Hội nghị quyết định: Thành lập Mặt trận thống nhất phản đế Đông Dương, thay thế cho Mặt trận thống
nhất dân chủ Đông Dương.
- Hội nghị BCHTW 7: Tháng 11/1940 tại Đình Bảng, Bắc Ninh, có Đ/c Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc
Việt, Phan Đăng Lưu, Trần Đăng Ninh tham dự
Hội nghị nhận định cao trào cách mạng nhất định sẽ nổi dậy, Đảng phải chuẩn bị giành lấy sứ mệnh
thiêng liêng cao cả là lãnh đạo cách mạng võ trang giành chính quyền; Hội nghị xác định kẻ thù chính
của cách mạng Đông Dương lúc này là phát xít Nhật - Pháp; Hội nghị quyết định duy trì cuộc khởi
nghĩa Bắc sơn, xúc tiến xây dựng căn cứ cách mạng; Hội nghị cử ra BCHTW lâm thời do đồng chí
Trường Chinh làm quyền Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương.
- Hội nghị BCHTW 8: Tháng 5/1941, tại Pắc Pó, Cao Bằng do đồng chí Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chủ
trì, tham dự có các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Phùng Chí Kiên và
một số đồng chí đại biểu của xứ uỷ Bắc kỳ, Trung kỳ, đại biểu của tổ chức Đảng ta ở nước ngoài;
Hội nghị phát triển, hoàn chỉnh đường lối cách mạng của nghị quyết BCHTW 6,7,8 và khẳng định
nhiệm vụ giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, cấp bách của cách mạng Việt Nam;
Hội nghị chủ trương không giữ khẩu hiệu thành lập Chính phủ Liên bang cộng hoà dân chủ Đông
Dương như trước đây mà giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước. Hội nghị chỉ rõ: Chuẩn
bị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền là nhiệm vụ trọng tâm của Đảng và nhân ta trong giai đoạn
hiện tại. Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Mặt trận Việt
Minh)
Hội nghị quyết định những vấn đề quan trọng về tư tưởng chỉ đạo chiến lược như: Mối quan hệ giữa
giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp; giữa nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến; về sách lược
tập hợp lực lượng cách mạng; tư tưởng giải quyết vấn đề dân tộc theo khuôn khổ mỗi nước …Hội nghị
cử ra Ban Chấp hành Trung ương, bầu đồng chí Trường Chinh làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung
ương Đảng; bầu Ban Thường vụ gồm các đồng chí Trường chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt.
Sau 03 hội nghị Ban Chấp hành Trung ương, Đảng khẩn trương chuẩn bị mọi mặt về chính trị, tư tưởng
và tổ chức để khởi nghĩa giành chính quyền cách mạng tháng 8/1945.

Cách mạng tháng Tám thành công để lại nhiều ý nghĩa lịch sử, cụ thể:

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của nhân dân ta từ khi có
Đảng lãnh đạo, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Chính quyền về tay nhân dân,
41
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời – Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á; chấm dứt
chế độ quân chủ phong kiến ở Việt Nam; kết thúc hơn 80 năm nhân dân ta dưới ách đô hộ của thực
dân, phát xít. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người dân một nước độc lập, làm chủ
vận mệnh của mình. Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành một nước độc
lập, tự do và dân chủ. Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành một Đảng cầm quyền. Từ đây, đất nước, xã
hội, dân tộc và con người Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội.
Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin được vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh
cụ thể của cách mạng Việt Nam; là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng của
Đảng ta gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, gắn sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; là sự
thể nghiệm thành công đầu tiên chủ nghĩa Mác-Lênin tại một nước thuộc địa ở châu Á. Đây còn là quá
trình phát triển tất yếu của lịch sử dân tộc trải qua mấy nghìn năm phấn đấu, đỉnh cao của ý chí quật
cường, sức mạnh của cộng đồng, tầm cao trí tuệ của dân tộc hòa quyện với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh với xu thế của thời đại vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội, vì độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám cổ vũ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước bị chủ
nghĩa đế quốc thực dân áp bức, thống trị. Nó khẳng định rằng, trong điều kiện trào lưu của cách mạng
vô sản, cuộc cách mạng do một đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo không chỉ có thể thành công ở
một nước tư bản kém phát triển, nơi mắt xích yếu nhất của chủ nghĩa đế quốc mà còn có thể thành công
ở ngay một nước thuộc địa nửa phong kiến lạc hậu để đưa cả dân tộc đó đi lên theo con đường của chủ
nghĩa xã hội.

Đảng đã lãnh đạo đấu tranh và khởi nghĩa giành chính quyền Tháng Tám năm 1945 như
thế nào?
Trả lời:
Với đường lối cách mạng, cứu nước đúng đắn, Đảng ta đã quy tụ đoàn kết xung quanh mình tất cả
các giai cấp và tầng lớp yêu nước không phân biệt dân tộc, tôn giáo xây dựng nên lực lượng cách mạng
to lớn và rộng khắp trong cả nước, đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược và bọn phong kiến tay sai.
Qua 15 năm (1930-1945) lãnh đạo cách mạng, trải qua đấu tranh gian khổ, mặc dù gặp phải những tổn
thất hy sinh to lớn nhưng Đảng vẫn giữ vững ý chí chiến đấu, kiên định cách mạng, trung thành với
mục tiêu lý tưởng của mình. Ba cao trào cách mạng lớn (1930-1931; 1936-1939; 1939-1945) là ba cuộc
tổng diễn tập cách mạng chuẩn bị lực lượng, tạo cơ sở giành thắng lợi cho cuộc chiến đấu mới. Nắm
chắc thời cơ lịch sử, với một nghệ thuật lãnh đạo và tổ chức khởi nghĩa tài tình, Đảng ta đã lãnh đạo
cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công trọn vẹn. Chỉ trong một thời gian
ngắn, nhân dân Việt Nam đã vùng lên đập tan xiềng xích nô lệ của chế độ thực dân, lật nhào chế độ
phong kiến tay sai, giành chính quyền về tay nhân dân.
Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa- Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, đưa dân tộc ta bước sang một kỷ
nguyên mới- kỷ nguyên độc lập, tự do tiến lên CNXH. Đánh giá ý nghĩa lịch sử của thắng lợi này, Chủ
tịch Hồ Chí Minh viết: "Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào mà
giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu
tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã
lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc"

42
Đảng lãnh đạo nhân dân tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược và đánh thắng đế
quốc Mỹ xâm lược (1954-1975) như thế nào? ý nghĩa lịch sử?
Trả lời:
Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cách mạng Việt Nam bước vào thời kỳ
mới với đặc điểm: Đất nước tạm thời chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội đối lập
nhau. Miền Bắc đã có hoà bình, dưới sự lãnh đạo của Đảng đang bắt đầu xây dựng một xã hội mới.
Miền Nam vẫn còn dưới ách đô hộ, áp bức của chủ nghĩa đế quốc. Con đường phát triển của cách mạng
nước ta lúc này được Đảng ta xác định là phải tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược:
Một là, tiến hành cách mạng XHCN ở miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành căn cứ địa vững chắc
của cả nước.
Hai là, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, chống đế quốc Mỹ xâm lược
và tay sai, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Như vậy, đặc điểm lớn nhất, nét độc đáo của cách mạng Việt Nam thời kỳ này là một Đảng thống
nhất lãnh đạo nhân dân cả nước tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược. Tuy mỗi miền thực hiện
một nhiệm vụ chiến lược khác nhau nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó cách mạng miền
Bắc giữ vai trò quyết định nhất đối với toàn bộ sự phát triển của cách mạng Việt Nam. Cách mạng
miền Nam giữ vị trí quan trọng, tác động trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất
đất nước.
Hơn 20 năm cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, mặc dù gặp nhiều khó khăn trở ngại
chồng chất, đặc biệt từ năm 1965 trở đi miền Bắc phải trực tiếp đương đầu với cuộc chiến tranh phá
hoại rất ác liệt của đế quốc Mỹ, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân miền Bắc đã kiên cường
trong sản xuất và chiến đấu, giành được những thành tựu to lớn, đồng thời chi viện đắc lực cho miền
Nam...Hàng triệu tấn lương thực và vũ khí, trang bị; hàng vạn thanh niên nam nữ hăng hái lên đường
vào miền Nam chiến đấu. Miền Bắc đã dốc sức vào chiến tranh cứu nước và giữ nước với toàn bộ sức
mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa, đã làm tròn một cách xuất sắc nghĩa vụ căn cứ địa của cách mạng cả
nước, xứng đáng là pháo đài vô địch của chủ nghĩa xã hội.
Đế quốc Mỹ, đã dùng mọi thủ đoạn, thử nghiệm mọi chiến lược, sử dụng mọi vũ khí và phương
tiện chiến tranh hiện đại trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Qui mô, tính chất cũng như mức
độ ác liệt của cuộc chiến tranh mà nhân dân ta phải đương đầu chịu đựng chưa từng có trong lịch sử.
Song, nhân dân miền Nam đã kiên cường chịu đựng gian khổ hy sinh, kiên quyết đánh thắng đế quốc
Mỹ xứng đáng với danh hiệu “Thành đồng Tổ quốc", sát cánh cùng đồng bào miền Bắc đánh bại mọi
âm mưu, chiến lược của đế quốc Mỹ, góp phần trực tiếp giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
Trải qua 21 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân cả nước đã chiến đấu kiên cường anh dũng
với sự đồng tình ủng hộ của bạn bè quốc tế; bằng cuộc Tổng tiến công nổi dậy mùa xuân 1975, với
chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, nhân dân ta đã kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước. "Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong
sự nghiệp đánh Mỹ cứu nước sẽ mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang
chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ
con người, đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan
trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc"(4).
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã kết thúc vẻ vang 30 năm chiến tranh giải
phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc; hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước, mở ra thời kỳ
mới - thời kỳ cả nước độc lập thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội.

43
Phân tích nội dung cơ bản về đường lối cách mạng miền Nam của Đảng do Hội nghị lần
thứ 15 (Tháng 1/1959)?
Trả lời:
Cho đến năm 1957 chủ trương chủ yếu của Đảng là đấu tranh cách mạng là chủ yếu, thực hiện thế
giữ gìn lực lượng. Tuy nhiên Đảng ta cũng có chủ trương xây dựng, củng cố các lực lượng vũ trang,
các căn cứ địa cách mạng.
Chính quyền ngụy quân đề ra chính sách tố cộng, diệt cộng, theo thống kê đến cuối năm 1958 chỉ còn
5000 Đảng viên trên hàng chục vạn Đảng viên trước đây, đặt ra yêu cầu chuyển hướng đấu tranh.
 1/1959 Hội nghị lần thứ 15 của Đảng thông qua đường lối cách mạng miền Nam, nghị quyết xác
định;
+ Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là giải phóng khỏi ách thống trị của đế quốc và tay sai,
hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
+ Nghị quyết xác định con đường phát trienr cơ bản của cách mạng miền Nam là khởi nghĩa giành
chính quyền về tay nhân dân dựa vào lực lượng của quần chúng là chủ yếu, kết hợp đấu tranh chính trị
với đấu tranh vũ trang.
+ Đánh đổ tập đoàn Ngô Đình Diệm, thiết lập chính quyền liên hiệp dân tộc dân chủ nhân dân.
 Hội nghị đánh dấu sự chuyển hướng tích cực cho cách mạng miền Nam, được coi là bước ngoặt cho
quá trình phát triển của cách mạng ở miền Nam.

Công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa từ năm 1975 đến nay đã thu được
những thành tựu như thế nào? ý nghĩa lịch sử?
Trả lời:
Sau năm 1975, đất nước ta bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, có những thuận lợi song
cũng không ít khó khăn, với một nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ, nghèo nàn, hậu quả chiến tranh
để lại hết sức nặng nề, chủ nghĩa đế quốc và bọn phản động quốc tế câu kết với nhau bao vây, chống
phá rất quyết liệt. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã vượt qua những khó khăn trở ngại thu
được nhiều thành tựu:
- Đã nhanh chóng hoàn thành việc thống nhất Nhà nước về mọi mặt; cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc
hội chung của cả nước (ngày 24-4-1976) đã đạt kết quả tốt đẹp. Các tổ chức đoàn thể cách mạng cũng
nhanh chóng được thống nhất.
- Nhân dân cả nước hăng hái tham gia khôi phục kinh tế, khắc phục những hậu quả chiến tranh, ổn
định sản xuất và đời sống.
- Thắng lợi của cuộc chiến tranh biên giới bảo vệ vững chắc biên cương của Tổ quốc, giữ gìn an
ninh trật tự an toàn xã hội.
Tuy vậy, những thành tựu về kinh tế - xã hội đạt được trong 10 năm xây dựng (1975-1985) còn
thấp, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, gay gắt. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá
đúng sự thật, Đại hội VI của Đảng đã nghiêm khắc kiểm điểm, chỉ ra những yếu kém trong công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đề ra đường lối đổi mới toàn diện, mở ra bước ngoặt trong công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1991) đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế- xã hội 1991 -
2000, các Nghị quyết của Đại hội VII, Đại hội VIII và các Nghị quyết Trung ương sau đó đã cụ thể hoá
hơn nữa đường lối đổi mới ở nước ta. Sau hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới, đất nước ta đã vượt
qua một giai đoạn thử thách gay go, cách mạng nước ta không những đứng vững mà còn vượt lên đạt
được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã

44
hội, nhưng còn một số mặt chưa vững chắc. Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là
chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hoá hoàn thành về cơ bản, cho phép chuyển sang thời kỳ phát triển
mới đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
ngày càng được xác định rõ hơn.
Trong 5 năm (1996-2001), thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng, đất nước ta đã đạt được
những thành tựu quan trọng:
Kinh tế tăng trưởng khá. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân hàng năm là 7%. Nông
nghiệp phát triển liên tục. Giá trị sản xuất công nghiệp bình quân hàng năm tăng 13,5%. Hệ thống kết
cấu hạ tầng, các ngành dịch vụ, xuất nhập khẩu đều phát triển.
Văn hoá, xã hội có những tiến bộ; đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện. Giáo dục đào tạo,
khoa học công nghệ có chuyển biến tích cực. Các hoạt động văn hoá, văn nghệ, công tác chăm sóc sức
khoẻ và những chính sách xã hội khác đều được coi trọng, đạt những kết quả to lớn.
Tình hình chính trị - xã hội cơ bản được ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường, bảo vệ
vững chắc độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Quan hệ đối ngoại ngày càng được mở rộng, hội nhập quốc tế được tiến hành chủ động và đạt
được nhiều kết quả, vị thế của nước ta trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao.
Công tác xây dựng Đảng được chú trọng, hệ thống chính trị được củng cố; quyền làm chủ của nhân
dân trên các lĩnh vực được phát huy, một số chính sách và quy chế dân chủ của nhân dân trước hết là ở
cơ sở, bước đầu được thực hiện.
Những thành tựu 5 năm (1996 – 2001) đã tăng cường sức mạnh tổng hợp, làm thay đổi bộ mặt của
đất nước và cuộc sống của nhân dân, củng cố vững chắc độc lập dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa,
nâng cao vị thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn còn những yếu kém, khuyết điểm: Nền kinh tế phát triển chưa vững chắc.
Một số vấn đề văn hóa-xã hội bức xúc chưa được giải quyết, tỷ lệ thất nghiệp còn cao, tệ nạn xã hội
diễn biến phức tạp và một số giá trị đạo đức xuống cấp...Tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống của một số bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng... Đây
là những vấn đề phải nhanh chóng khắc phục.
Công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước?
Mục tiêu đến năm 2000:
- Đây là bước phát triển mới, đẩy mạnh CNH_ HĐH đất nước .tập trung mọi lực lượng, tranh thủ thời
cơ vượt qua thử thách để đẩy mạnh công cuộc đổi mới 1 cách đồng bộ.
- Tiếp tục phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của nhà nước theo định hướng XHCN . Phấn đấu đạt và vượt mục tiêu được đề ra trong chiến lược ổn
định và phát triển kinh tế XH đến năm 2000.
- Tăng trưởng kinh tế nhanh hiệu quả và bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về XH
bảo đảm an ninh quốc phòng cải thiện đời sống nhân dân năng cao tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế tạo
tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao vào đầu thế kỷ sau .

Quan điểm của đảng về công nghiệp hoá - hiện đại hoá
- Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế , đa phương hoá, đa dạng hoá các mối
quan hệ đối ngoại dựa vào nguồn lực trong nước là chính đi đôi với việc tranh thủ tối đa nguồn lực bên
ngoài . XD một nền kinh tế mở hội nhập với khu vực và trên thế giới , hướng mạnh về xuất khẩu đồng
thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước, sản xuất có hiệu quả.

45
- CNH_HĐH là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế trong đó kinh tế nông nghiệp là
chủ đạo.
- Lấy việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Toàn Đ,
toàn dân cần kiệm XD đất nước, không ngừng tăng cường tích luỹ cho đầu tư phát triển, tăng trưởng
kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hoá giáo dục thực hiện tiến bộ và công bằng
XH, bảo vệ môi trường.
- Khoa học và công nghệ là động lực của CNH- HĐH. Kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ
hiện đại. Tranh thủ đi nhanh vào hiện đại và những khâu quyết định.
- Lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chuẩn cơ bản để XD phương án phát triển lựa chọn dự án đầu tư và
công nghệ, đầu tư chiều sâu để khai thác tối đa năng lực hiện có. Trong phát triển mới ưu tiên quy mô
vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến, tạo nhiều việc làm, thu hồi vốn nhanh, đồng thời XD một mũi nhọn
trong từng bước phát triển tập chung thích đáng nguồn lực cho những trọng điểm, cho những địa bàn
trọng điểm. Đồng thời quan tâm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của mọi vùng trong nước. Có chính sách hỗ
trợ những vùng khó khăn tạo điều kiện cho mọi vùng đều phát triển.
- Kết hợp kinh tế với quốc phòng an ninh.
Mục tiêu CNH-HĐH đến năm 2020:
- XD nước ta thành một nước công nghiệp. Có cơ sở vật chất kỹ thuật hiên đại, có cơ cấu kinh tế hợp
lý, QHSX tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng SX, đời sống vật chất tinh thần cao,
quốc phòng và an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh XH công bằng, dân chủ, văn minh. Từ nay đến
năm 2020 ra sức phấn đấu XD đưa nước ta trở thành 1 nước công nghiệp: nước CN là một nước trong
đó lao động CN trở thành phổ biến trong tất cả các ngành kinh tế. Chỉ tiêu chủ yếu cho 1 nước công
nghiệp là có chỉ tiêu của tấtt cả các tỷ trọng vượt trội so với một nước nông nghiệp.
Vì sao phải CNH?
- Không có CNH thì không có cơ sở vật chất của CNXH. Cơ sở của CNXH là : đại hội VIII khẳng định
cơ sở để ta chuyển sang thời kỳ mới CNH-HĐH có những cơ sở sau:
+ Xuất phát từ kết quả 10 năm đổi mới với những tiên đề đã được tạo ra đồng thời dựa trên sự phân tích
cục diện tình hình thế giới ngày nay có những biến động, với những thắng lợi to lớn nhưng cũng đan
xen nhiều khó khăn phức tạp mới: ta đã đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinhtế trên nhiều mặt làm cho đời
sống nhân dân khá hơn, KHCN phát triển …
+ Xu thế chung của thế giới ngày nay là hoà bình hợp tác phát triển, cách mạng KHKT ngày càng phát
triển cao do đó chúng ta không thể đứng ngoài xu thế này nên ta phải CNH- HĐH .Tiền đề vật chất và
sự ổn định nhiều mặt: quốc phòng an ninh chính trị … cho phép ta đẩy mạnh CNH- HĐH. Tuy nhiên ta
chưa có đủ tiền đề nhưng trong quá trình đẩy mạnh CNH- HĐH sẽ tạo ra tiền đề, sẽ hoàn chỉnh dần các
tiền đề. Đó là biện chứng của sự phát triển (tác động qua lại lẫn nhau). Vì vậy không thể cho đủ tiền đề
để đẩy mạnh CNH – HDH
+ Hoàn thành CNH- HĐH mới là hoàn thành tiên đề V/C cơ sở kỹ thuật , chứ chưa hoàn thành thời kỳ
quá độ, chưa thể nói là nước phát triển được. Trở thành 1 nước CN chưa có nghĩa là hoàn thành CNH-
HĐH. Cơ bản hoàn thành CNH –HĐH chưa hoàn thành nhiệm vụ của thời kỳ quá độ. Kết thúc thời kì
46
quá độ có nhiều vấn đề khác: QHSX, trình độ phát triển của lực lượng SX, QHSX phải phù hợp với
CNH-HĐH, mà CNH-HĐH chỉ là một công cụ cho kiến trúc thượng tầng . Khi hoàn thành thời kì quá
độ, hoàn chỉnh về tư tưởng con người – con người có CNXH phải trải qua một bước rất dài mới tiến lên
được CNCS.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Mục tiêu
- Mục tiêu cơ bản của CNH- HĐH là: Cải biến nước ta thành một nước công nghiệp, có cơ sở vật chất
kĩ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển
lực lượng sản xuất. Có mức sống vật chất và tinh thần cao. Quốc phòng, an ninh vững mạnh, dân giàu,
nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh.
- Mục tiêu cụ thể là: Trong từng thời kì nhất định có những mục tiêu cụ thể, ĐHĐBTQ lần thứ 10 xác
định: đẩy mạnh CNH- HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém
phát triển. Cơ bản phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại.

Phương hướng
- Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý;
- Kết hợp chặt chẽ phát triển công nghiệp với phát triển nông nghiệp.
- Ra sức phát triển công nghiệp nhẹ song song với việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng;
- Ra sức phát triển công nghiệp trung ương, đồng thời đẩy mạnh phát triển công nghiệp địa phương.

Quan điểm của Đảng về công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thời kì đổi mới.
- CNH gắn với HĐH, CNH- HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức thế giới. Tiến hành CNH- HĐH
tiếp thu những thành tựu tiến bộ trên thế giới để bắt kịp xu thế thế giới; nền kinh tế thế giới là nền kinh
tế tri thức.
- CNH- HĐH gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế quốc tế.
- CNH- HĐH lấy việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triern nhanh và bền
vững.
- Khoa học và công nghệ là nền tảng động lực của CNH- HĐH
- Phát triển nhanh hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với việc tiến bộ công bằng xã hội,
bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học.

Trình bày mục tiêu, quan điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng thời kỳ đổi mới.
Kết quả, ý nghĩa, hạn chế, nguyên nhân?
Mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hoá
- Mục tiêu lâu dài của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là cảI biến nước ta thanh 1 nước công
nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, QHSX tiến bộ, phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững
chắc ,thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
- Đại hội X đề ra mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phỏt triển kinh tế tri thức. Sớm đưa
nước ta ra khỏi tỡnh trạng kộm phỏt triển. Tạo nền tảng để đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại
47
Quan điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa
- Công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa; công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển trí thức.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập kinh tế quốc tế
- Coi phát triển khoa học và công nghệ là nên tảng, là động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
- Lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bên vững
- Phát triển nhanh, hiệu quả và bên vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội, bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học

Kết quả:
-Cơ sở vật chất kỹ thuật của đất nước được tăng cường đáng kể, khả năng độc lập tự chủ của nền kinh
tế được nâng cao
- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng CNH,HĐH đã đạt được những kết quả quan trọng: tỷ trọng
công nghiệp và xây dựng tăng, tỷ trọng nông-lâm- thuỷ sản giảm.
- đưa nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, bình quân từ năm 2000 đến nay đạt trên
7,5%/năm.Thu nhập đầu người bình quân hàng năm tăng lên đáng kể.Đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân được cải thiện
Ý nghĩa: Có ý nghĩa rất quan trọng: là cơ sở để phấn đấu đạt mục tiêu: sớm đưa nước ta ra khỏi tình
trạng kém phát triển và cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 mà ĐH
X của Đảng nêu ra trở thành hiện thực.
Hạn chế:
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn thấp so với khả năng và thấp hơn nhiều nước trong khu vực
- Nguồn lực của đất nước chưa được sử dụng có hiệu quả cao; tài nguyên còn bị lãng phí, thất thoát
nghiêm trọng
- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm.Trong CN các sản phẩm có hàm lượng tri thức cao còn ít;cơ cấu
đầu tư chưa hợp lý
- Kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội chưa đáp ứng yêu cầu phát triển

Nguyên nhân:
- Nhiều chính sách và giải pháp chưa đủ mạnh để huy động và sử dụng được tốt nhất các nguồn lực, cả
nội lực và ngoại lực vào công cuộc phát triển kinh tế – xãc hôi
- Cải cách hành chính còn chậm và kém hiệu quả, công tác tổ chức cán bộ chậm đổi mới, chưa đáp ứng
yêu cầu
- Chỉ đạo và tổ chức thực hiện yếu kém
- Ngoài các nguyên nhân chung nói trên, còn có các nguyên nhân cụ thể, trực tiếp như: công tác quy
hoạch chất lượng kém,nhiều bất hợp lý dẫn đến quy “treo” khá phổ biến gây lãng phí nghiêm trọng;cơ
cấu đầu tư bất hợp lý làm cho đầu tư kém hiệu quả, công tác quản lý yếu kém gây lãng phí, thất thoát,
tệ tham nhũng nghiêm trọng

Phân tích, làm rõ quan điểm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa được thông qua tại Đại hội
VIII 1996 của Đảng

1. Sơ lược về bối cảnh


48
Tình hình trong nước: đến năm 1996, công cuộc đổi mới đã tiến hành được 10 năm và đạt được
nhiều thành tựu quan trọng về mọi mặt. Đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, cải thiện một
bước đời sống vật chất của đông đảo nhân dân, giữ vững ổn định chính trị, quốc phòng, an ninh được
củng cố. Đồng thời, thành tựu 10 năm đổi mới đã tạo được tiền đề cần thiết cho công cuộc CNH, HĐH
đất nước.
Tình hình thế giới: cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX, CNXH lâm vào thoái
trào sau sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu. Nguy cơ chiến tranh thế giới huỷ diệt bị đẩy lùi nhưng
xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ, xung đột về dân tộc, sắc tộc và tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt
động can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn xảy ra ở nhiều nơi. Cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục
phát triển với trình độ ngày càng cao, tăng nhanh lực lượng sản xuất, đồng thời thúc đẩy quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hoá nền kinh tế và đời sống xã hội. Bối cảnh quốc tế nói
trên ảnh hưởng lớn đến công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII

- Thời gian, địa điểm: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra từ ngày
28-6 đến 1-7-1996, tại Hội trường Ba Đình, Hà Nội.

- Thành phần tham dự: tham dự Đại hội có 1198 đảng viên đại diện cho gần 2 triệu 130 nghìn đảng
viên trong cả nước. cùng các đồng chí cố vấn Ban Chấp hành Trung ương, các đồng chí đại diện lão
thành cách mạng, đại diện các bà mẹ Việt Nam anh hùng, các nhân sĩ trí thức tiêu biểu cho trí tuệ, bản
lĩnh và sức mạnh đoàn kết của toàn Đảng toàn dân ngoài ra còn có gần 40 đoàn đại biểu quốc tế đại
diện các đảng anh em trên thế giới.

- Chủ đề trọng tâm của Đại hội: “Tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội”

- Tóm tắt các nội dung, quyết định, … trong đại hội
Đại hội có nhiệm vụ kiểm điểm kết quả 5 năm thực hiện Nghị quyết của Đại hội VII, đi sâu tổng kết
10 năm đổi mới, đề ra những mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp thực hiện công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước đến năm 2000 và 2020. Đại hội cũng sẽ kiểm điểm sự lãnh đạo của Đảng, vạch ra
phương hướng xây dựng Đảng, sửa đổi điều lệ Đảng và bầu Ban chấp hành Trung ương mới.
Nhận định đặc điểm tình hình thế giới, thời cơ và thách thức, Ðại hội xác định: Mục tiêu của công
nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật
hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, văn minh. Ra sức phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại.
Ðại hội đã xây dựng định hướng phát triển các lĩnh vực chủ yếu: Phát triển và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; chính sách đối với các thành phần kinh tế; tiếp tục
đổi mới cơ chế quản lý kinh tế; phát triển khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo; xây dựng nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; chính sách giải quyết một số vấn đề xã hội; quốc phòng và
an ninh; chính sách đối ngoại; thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy vai trò làm chủ của nhân
dân; tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.
Ðại hội cũng đề ra phương hướng, nhiệm vụ xây dựng Ðảng ngang tầm đòi hỏi của thời kỳ mới. Ðó
là giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Ðảng. Nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm
chất và năng lực cán bộ, đảng viên. Củng cố Ðảng về tổ chức, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung
49
dân chủ. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ. Nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Tiếp tục
đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng. Ðổi mới công tác kiểm tra và kỷ luật của Ðảng.
Ðại hội bầu BCH T.Ư gồm 170 đồng chí. Ðồng chí Ðỗ Mười được bầu tiếp tục làm Tổng Bí thư của
Ðảng. Các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Ðồng, Võ Chí Công làm Cố vấn BCH T.Ư.

3. Quan điểm về công nghiệp hóa

a) Giữ vững độc lập, tự chủ đi đôi với mở rộng quan hệ quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ
đối ngoại. Dựa vào nguồn lực trong nước chính là đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài
- Độc lập, tự chủ ở đây là độc lập, tự chủ của đất nước, của quốc gia, là năng lực của quốc gia giữ vững
chủ quyền và sự tự quyết về đối nội, đối ngoại, bảo vệ lợi ích quốc gia của mình, không bị sự thống trị,
lệ thuộc, chi phối mang tính cưỡng bức, áp đặt, bắt buộc từ các lực lượng bên ngoài. Một đất nước độc
lập, tự chủ là một đất nước có quyền, có năng lực quyết định việc lựa chọn con đường, mô hình phát
triển, chế độ chính trị của mình, là đất nước có độc lập, tự chủ cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,
quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Đặc biệt trong thời kì CNH, HĐH đất nước cần mở rộng quan hệ ngoại
giao với các nước trên thế giới tiếp thu những tiến bộ khoa học công nghệ để áp dụng vào công cuộc
xây dựng đất nước, đa dạng hóa mối quan hệ ngoại giao với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Bên cạnh đó, phải bảo vệ nền độc lập tự chủ của quốc gia không để các nước khác can thiệp nhiều vào
nền kinh tế của đất nước. Giữ vững nền độc lập, tự chủ cần đi đôi với quan hệ quốc tế, đa phương hóa,
đa dạng hóa mối quan hệ đối ngoại.
- Đảng ta chủ trương xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, tự lực gánh sinh là chính dựa vào nguồn lực
của đất nước. Những năm đầu thập niên 90 thế kỷ XX, Đảng ta nhận thức ngày càng rõ mối quan hệ
giữa tăng cường sức mạnh kinh tế trên cơ sở nội lực và mở rộng quan hệ hợp tác, phá thế bị bao vây,
cấm vận, tham gia tích cực vào phân công lao động quốc tế. Nền kinh tế dựa vào nguồn lực sẵn có
trong nước là chính làm cho đất nước trở nên độc lập, tự chủ ít bị ảnh hưởng bởi các quốc gia khác
đồng thời tranh thủ tối đa nguồn lực từ bên ngoài thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh và đẩy nhanh
tiến độ CNH, HĐH đất nước đưa nước ta phát triển lên giai đoạn mới.

b) Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo
- Quan điểm này xuất phát từ nguyên lý: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”.Công nghiệp hóa,
hiện đại hóa là sự nghiệp cách mạng trọng đại của nhân dân ta,đất nước ta nhằm mục đích “ dân
giàu,nước mạnh,xã hội công bằng,văn minh”.
⇒ Vì vậy nó không phải là công việc riêng của một bộ phận, một gia cấp mà là sự nghiệp của toàn
dân,do nhân dân thực hiện.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi phải huy động cao độ sức mạnh của toàn dân về mọi mặt: sức
lao động tiền vốn, trí tuệ, tài năng, kinh nghiệm, kỹ thuật,...Nhân dân là người quyết định sự thành
công của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước được thực hiện trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần cho phép khai thác và sử dụng có hiệu quả các yếu tố sản
xuất, các tiềm năng và nguồn lực của đất nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, góp phần vào sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, mỗi thành phần kinh tế có lợi thế so sánh riêng về kỹ thuật,
vốn, lực lượng lao động, kinh nghiệm quản lý, … trong đó kinh tế Nhà Nước giữ vai trò chủ đạo, kinh
tế Nhà Nước “ làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới ”.

50
- Kinh tế nhà nước nắm giữ các ngành,các lĩnh vực,các khâu quan trọng nhất của nền kinh tế được
trang bị bằng kỹ thuật và công nghệ hiện đại đủ sức chủ đạo và định hướng phát triển các thành phần
kinh tế khác.

c) Lấy việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững
Sự tồn tại bền vững và phát triển theo con đường tiến bộ xã hội của một quốc gia dân tộc nào cũng
phụ thuộc vào 5 nguồn lực chủ yếu: khoa học và công nghệ, vốn, con người, cơ cấu kinh tế, thể chế
chính trị và quản lý nhà nước. Trong đó, quan điểm của Đảng lấy việc phát huy nguồn lực con người là
yếu tố cơ bản, quyết định nhất cho sự phát triển nhanh và bền vững vì:
+Thứ nhất,yếu tố vốn là rất quan trọng.Tuy nhiên,yếu tố này chỉ ở dưới dạng tiềm năng, chúng chỉ
phát huy tác dụng và có ý nghĩa tích cực khi con người biết sử dụng,khai thác chúng đúng mục đích
và có hiệu quả cao.
+ Thứ hai, khoa học,công nghệ là sản phẩm của trí tuệ con người; được phát triển và áp dụng bởi
con người. Khoa học và công nghệ càng phát triển thì con người càng đóng vai trò quan trọng trong
quá trình công nghiệp hóa,hiện đại hóa.
+ Thứ ba, từ kinh nghiệm và thực tiễn cho thấy sự thành công của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
phụ thuộc chủ yếu vào việc hoạch định chính sách, đường lối chủ trương cũng như tổ chức thực
hiện. Điều này càng thể hiện vai trò quan trọng của yếu tố con người bởi chính sách, đường lối chủ
trương là do con người đề ra và cũng do con người tổ chức, thực hiện.
+ Thứ tư, nguồn lực con người mà cốt lõi là trí tuệ là nguồn lực vô tận,có khả năng tái sinh và tự
sản sinh về mặt sinh học.

d) Khoa học và công nghệ là động lực của CNH, HĐH. Kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ
hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu quyết định.
- Quá trình công nghiệp hóa,hiện đại hóa phải coi khoa học công nghệ làm động lực, coi năng lực nội
sinh về khoa học công nghệ là nền tảng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Xây dựng năng lực nội sinh về khoa học công nghệ để đủ sức lựa chọn, làm chủ, thích nghi với công
nghệ nhập, cải tiến, biến công nghệ nhập thành công nghệ của mình tiến tới tự tạo ra công nghệ.
- Quan điểm chỉ đạo về nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế là cơ khí hóa, hóa học hóa,
tự động hóa. Bước đầu phát triển một số lĩnh vực công nghệ cao về điện tử, thông tin, sinh học, vật liệu
mới và tự động hóa.
- Quan điểm trên đòi hỏi phải xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ vững mạnh. Phát hiện,
bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài trong các lĩnh vực khoa học - công nghệ, văn hóa, nghệ thuật, quản lý
kinh tế - xã hội.
- Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta, đòi hỏi phải kết hợp công nghệ truyền thống
với công nghệ hiện đại, phải tranh thủ đi nhanh vào công nghệ hiện đại ở những khâu quyết định. Điều
đó cho phép kết hợp tuần tự với nhảy vọt, khai thác hiệu quả các công nghệ cổ truyền vừa nhanh chóng
hiện đại hóa ở các khâu quyết định. Sự kết hợp đó là phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước và cho
phép thực hiện công nghiệp hóa “rút ngắn” ,đồng thời chống lại tư tưởng bảo thủ trì trệ và nóng vội,
phiêu lưu trong quá trình công nghiệp hóa,hiện đại hóa.

e) Lấy hiệu quả kinh tế làm chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển, lựa chọn dự án đầu tư và
công nghệ. Đầu tư chiều sâu để khai thác tối đa năng lực sản xuất hiện có. Trong phát triển mới, ưu tiên
quy mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến, tạo nhiều việc làm, thu hồi vốn nhanh; đồng thời xây dựng
một số công trình quy mô lớn thật cần thiết và có hiệu quả. Tạo ra những mũi nhọn trong từng bước
phát triển. Tập trung thích đáng nguồn lực cho các lĩnh vực, các địa bàn trọng điểm; đồng thời quan

51
tâm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của mọi vùng trong nước; có chính sách hỗ trợ những vùng khó khăn,
tạo điều kiện cho các vùng đều phát triển.
- Từ nay đến 2000, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một “nước công nghiệp”.
- Trên cơ sở mục tiêu tổng quát, Đại hội chỉ rõ nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu của giai đoạn 1996-2000
là:
- Tập trung sức cho mục tiêu phát triển, đến năm 2000, GDP bình quân đầu người tăng gấp đôi năm
1990. Nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân hằng năm đạt khoảng 9-10%.
- Phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp, gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản và đổi
mới cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tốc độ tăng giá trị sản xuất
nông, lâm, ngư nghiệp bình quân hằng năm 4,5-5%.
- Phát triển các ngành công nghiệp, chú trọng trước hết công nghiệp chế biến, công nghiệp hàng tiêu
dùng và hàng xuất khẩu; xây dựng.có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng về dầu khí, than, xi
măng, cơ khí, điện tử, thép, phân bón, hoá chất, một số cơ sở công nghiệp quốc phòng. Tốc độ tăng giá
trị sản xuất công nghiệp bình quân hằng năm 14-15%.
- Đến năm 2000, tỷ trọng công nghiệp và xây dựng chiếm khoảng 34-35% trong GDP; nông, lâm, ngư
nghiệp chiếm khoảng 19-20%,dịch vụ chiếm khoảng 45-46%. .

f) Kết hợp kinh tế với quốc phòng và an ninh

Đến Đại hội VIII, nhận thức của Đảng về vấn đề kết hợp đã có sự đổi mới quan trọng. Không chỉ
là kết hợp kinh tế với quốc phòng như trước đây mà đã là kết hợp kinh tế với quốc phòng-an ninh, bởi
vì trong thời kỳ mới quốc phòng-an ninh là hai mặt của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc có quan hệ hữu cơ,
đan xen, hoà nhập vào nhau và chuyển hoá cho nhau. Kết hợp kinh tế với quốc phòng-an ninh đã được
xác định là một trong những quan điểm cần quán triệt trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và kết hợp quốc phòng - an ninh với kinh tế còn là tư tưởng chỉ đạo công tác quốc phòng - an
ninh. Đại hội VIII, Đảng đã nhận thức về mối quan hệ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại rõ ràng,
cụ thể hơn, nổi bật là nhận thức rõ vai trò của đối ngoại trong các hoạt động quốc phòng, an ninh, đặc
biệt là các hoạt động đấu tranh trên mặt trận ngoại giao. Đảng chủ trương: “Kết hợp quốc phòng, an
ninh với kinh tế. Gắn chặt nhiệm vụ quốc phòng với nhiệm vụ an ninh, hai mặt có mối quan hệ khăng
khít trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ trong tình hình mới. Phối hợp chặt chẽ hoạt động
quốc phòng, an ninh với hoạt động đối ngoại”. Từ đây, mối quan hệ giữa quốc phòng, an ninh và đối
ngoại luôn được Đảng khẳng định và đề cập trong các văn kiện, nghị quyết, chỉ thị về quốc phòng, an
ninh và đối ngoại.

Về nhận thức: Từng bước thể chế hóa, cụ thể hóa nhận thức, quan điểm, đường lối, chủ trương
pháp, chiến lược, sách lược, quy hoạch, kế hoạch để triển khai thực hiện trong thực trạng của Đảng về
mối quan hệ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại thành luật tiễn: Luật Quốc phòng, Luật An ninh
quốc gia, Chiến lược Quốc phòng Việt Nam, Nghị định về Đối ngoại quốc phòng...; quy định, chỉ thị
của Chính phủ về tổ chức thực hiện sự kết hợp giữa các hoạt động quốc phòng, an ninh và đối ngoại.
Bổ sung quy chế phối hợp hoạt động giữa Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Ngoại giao trong giải quyết
các vấn đề liên quan đến quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng,
quản lý của Nhà nước đối với việc giải quyết mối quan hệ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong
phạm vi cả nước, từng ngành, từng địa phương.

Về đối nội: Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước về giải quyết mối quan hệ giữa quốc
phòng, an ninh và đối ngoại, từng bước tăng cường tiềm lực và sức mạnh tổng hợp của đất nước; sức
mạnh quân sự, quốc phòng để không ngừng lớn mạnh; thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an
52
ninh nhân dân tiếp tục được tăng cường, củng cố vững chắc; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; không ngừng nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; củng cố lòng tin của nhân dân vào Đảng, vào chế độ
xã hội chủ nghĩa; xây dựng và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; giữ vững ổn định chính trị,
trật tự, an toàn xã hội, giữ vững môi trường hòa bình, tạo ra những điều kiện thuận lợi để đất nước phát
triển nhanh, toàn diện và vững chắc; sớm nhận diện và kịp thời đấu tranh có hiệu quả, làm thất bại mọi
âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch và các biểu hiện “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; ngăn chặn các nguy cơ chiến tranh và xung đột vũ trang.

Về đối ngoại: Với những quan điểm, chủ trương, đúng đắn và sự nỗ lực không ngừng trên các
phương diện, Đảng từng bước lãnh đạo đất nước phá thế bao vây cấm vận từ bên ngoài; giải quyết tốt
mối quan hệ giữa đối tượng và đối tác; chuyển hóa tính chất, nâng cấp mối quan hệ với một số nước
thành quan hệ đối tác, đối tác toàn diện, đối tác chiến lược, đối tác chiến lược toàn diện; hình thành thế
trận ngoại giao vững chắc, bao gồm: đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân; xây
dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển với các nước láng giềng; giải quyết các tranh
chấp, bất đồng, mâu thuẫn với các nước trong khu vực bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp
quốc tế; thiết lập quan hệ song phương với các nước, đưa quan hệ hợp tác với các đối tác đi vào chiều
sâu, thực chất và hiệu quả hơn; từng bước xây dựng được vị thế, uy tín của Việt Nam là một trụ cột
quan trọng trong các diễn đàn, các tổ chức quốc tế, khu vực.

Trong mục VII – Quốc phòng và an ninh của “Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa VII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng” cũng nhấn mạnh:

“Nhiệm vụ về quốc phòng và an ninh trong những năm tới là:


Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, của cả hệ thống chính trị, từng bước tăng cường tiềm lực
quốc phòng và an ninh của đất nước, xây dựng vững chắc nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc
phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân, nâng cao chất lượng các
lực lượng vũ trang, bảo vệ vững chắc độc lập, an ninh, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước,
bảo vệ nhân dân, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; ngăn ngừa và làm thất bại mọi âm
mưu và hoạt động gây mất ổn định chính trị xã hội, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ,
gây tổn hại cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước; ngăn chặn và trừng trị có hiệu quả mọi
loại tội phạm, đảm bảo tốt trật tự, an toàn xã hội.
Thực hiện nhiệm vụ quốc phòng và an ninh trong tình hình mới, cần nắm vững các tư tưởng chỉ đạo
sau đây:
- Kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
- Kết hợp quốc phòng và an ninh với kinh tế.
- Gắn nhiệm vụ quốc phòng với nhiệm vụ an ninh, hai mặt có quan hệ khăng khít với nhau của nhiệm
vụ bảo vệ Tổ quốc và chế độ xã hội chủ nghĩa; phối hợp chặt chẽ hoạt động quốc phòng và an ninh
với hoạt động đối ngoại.
- Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của Đảng, Nhà
nước và của toàn quân, toàn dân. Phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị để tăng cường
tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng lực lượng quân đội và công an nhân dân cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; xây dựng vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân kết hợp chặt
chẽ với thế trận an ninh nhân dân; quán triệt tư tưởng cách mạng tiến công, tích cực, chủ động, sẵn
sàng đánh bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá ta.

53
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ Tổ quốc; thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng
về xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân. Tăng cường quản lý nhà nước về quốc
phòng, an ninh.
- Thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội và công
an, đối với sự nghiệp củng cố quốc phòng và an ninh.

4. Ý nghĩa
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đã đánh dấu bước ngoặt chuyển đất nước ta sang thời kỳ
mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu
mạnh, xã hội công bằng, văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân ta, vì
tình hữu nghị và sự hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới. Đại hội có ý nghĩa quyết định đối với
vận mệnh dân tộc và tương lai của đất nước vào lúc chúng ta sắp bước vào thế kỷ XXI. Đại hội đã phân
tích những đặc điểm nổi bật, của tình hình thế giới, nêu rõ những thời cơ và thách thức, từ đó định ra
mục tiêu phấn đấu đến năm 2000 và 2020 của sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất
nước. Đó là "... vẫn tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng: chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
Tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa” .

5. Đánh giá về quan điểm CNH, HĐH trong đại hội lần VIII

Quán triệt và thống nhất nhận thức về đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà Đại hội VIII của
Đảng đã xác định là cơ sở để xây dựng niềm tin, chỉ đạo thực tiễn, nắm bắt thời cơ, lợi thế, phát huy
sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, sớm đưa nước ta trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại như kỳ vọng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta.Tuy nhiên
nhìn tổng thể chúng ta chưa đạt mục tiêu: Đến năm 2020, Việt Nam chỉ mới cơ bản trở thành một nước
công nghiệp với tỷ trọng trong GDP của nông nghiệp chiếm 16-17%, công nghiệp khoảng 40-41%,
dịch vụ chiếm 42-43%, tỷ trọng lao động trong tổng lao động xã hội, lao động công nghiệp và dịch vụ
là 50%, nông nghiệp là 50%.. Do đó, cần phải tổng kết sâu sắc 25 năm thực hiện đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa - nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên CNXH của nước ta.

Phân tích quan điểm của Đảng về công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thời kì đổi mới.
Trả lời:
- CNH gắn với HĐH, CNH- HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức thế giới. Tiến hành CNH- HĐH
tiếp thu những thành tựu tiến bộ trên thế giới để bắt kịp xu thế thế giới; nền kinh tế thế giới là nền kinh
tế tri thức.
- CNH- HĐH gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế quốc tế.
- CNH- HĐH lấy việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triern nhanh và bền
vững.
- Khoa học và công nghệ là nền tảng động lực của CNH- HĐH
- Phát triển nhanh hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với việc tiến bộ công bằng xã hội,
bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học.

Phân tích định hướng đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn của Đảng.
Trả lời:
a, Chủ trương đẩy mạnh CNH- HĐH nông nghiệp nông thôn:
- Đảng coi CNH- HĐH nông thôn là một trong những nội dung quan trọng nhất của toàn bộ quá trình
CNH- HĐH đất nước
54
- Ưu tiên cho mục tiêu phát triển lực lượng sản xuất ở nông thôn đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất
phù hợp, đặc biệt chú trọng phát huy nguồn lực con người. Ứng dụng các thành tựu Khoa học công
nghệ, đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát huy lợi thế của từng vùng gắn
với thị trường. Hiện đại hóa kết cấu hạ tầng, kinh tế xã hội nông thôn, thực hiện bảo vệ môi trường sinh
thái.
- Phát triển kinh tế đi liền và kết hợp chặt chẽ với việc giải quyết các vẫn đề xã hội nông thôn, nhanh
chóng cải thiện đời sống của người dân ở nông thôn trên tất cả các mặt.
- Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế nông thôn với củng cố an ninh trật tự bảo vệ tổ quốc.
b, Biện pháp đẩy mạnh quá trình CNH- HĐH nông nghiệp nông thôn.
- Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường ở nông thôn, đổi mới các chính sách phát triển nông nghiệp,
nông thôn.
- Phát triển mạnh mẽ nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần, đa dạng hóa các thành
phần sản xuất kinh doanh trong tất cả lĩnh vực trong nông thôn.
- Làm tốt công tác quy hoạch phát triển nông nghiệp nông thôn.
- Đẩy mạnh việc nghiên cứu, ứng dụng chuyển giao Khoa học công nghệ vào việc phát triển nông
nghiệp kinh tế nông thôn.
- Nâng cao trình độ, đảm bảo tính đồng bộ của người lao động nông thôn thông qua các đổi mới chính
sách đào tạo và dạy nghề.

Trình bày các quan điểm chỉ đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kì đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa tại Hội nghị Trung ương 7, khóa X (7-2008).
Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế-xã hội bền vững,
giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và
bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước. Các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được giải
quyết đồng bộ, gắn với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
của nông dân phải dựa trên cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với điều
kiện của từng vùng, từng lĩnh vực; phát huy nội lực; đồng thời tăng mạnh đầu tư của Nhà nước và xã
hội, ứng dụng nhanh các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến cho nông nghiệp, nông thôn, phát
triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí nông dân. Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn
là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; trước hết, phải khơi dậy tinh thần yêu nước, tự
chủ, tự lực tự cường vươn lên của nông dân. Xây dựng xã hội nông thôn ổn định, hòa thuận, dân chủ,
có đời sống văn hóa phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc, tạo động lực cho phát triển nông nghiệp và
xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống nông dân. Ba vấn đề này có vị trí chiến lược trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng
phát triển kinh tế-xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an ninh, quốc phòng; giữ gìn,
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước. Trên cơ sở quan điểm
đó Trung ương đã nêu ra các nhiệm vụ và giải pháp phát triển nông nghiệp, nông thôn trong thời kỳ
mới.

55
Trình bày quá trình thống nhất đất nước về mặt nhà nước sau ngày 30-04-1975?
Nguyên nhân cần thống nhất đất nước về mặt nhà nước: Sau đại thắng mùa Xuân năm 1975, đất nước
ta bước vào một kỷ nguyên mới: Tổ quốc hoàn toàn độc lập, thống nhất, quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Để thực hiện bước quá độ này, rất nhiều nhiệm vụ được Đảng đặt ra nhưng nhiệm vụ đầu tiên, bức thiết
nhất là lãnh đạo thống nhất nước nhà về mặt nhà nước cụ thể là thống nhất hai chính quyền khác nhau
ở hai miền là Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc và Chính phủ cách mạng lâm thời
Cộng hòa miền Nam Việt Nam ở miền Nam.
Quá trình thống nhất đất nước về mặt nhà nước:
- Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III (8-1975) chủ trương: Hoàn thành
thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội; miền
Bắc phải tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa; miền Nam phải đồng thời tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thống nhất đất nước vưà là nguyện vọng thiết tha của nhân dân cả nước, vừa là quy luật khách quan
của sự phát triển cách mạng Việt Nam, của lịch sử dân tộc Việt Nam. Cần xúc tiến việc thống nhất
nước nhà một cách tích cực và khẩn trương. Thống nhất càng sớm thì càng mau chóng phát huy sức
mạnh mới của đất nước, kịp thời ngăn ngừa và phá tan âm mưu chia rẽ của các thế lực phản động trong
nước và trên thế giới.
- Dưới sự chỉ đạo của Đảng, ngày 27-10-1975, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa đã họp phiên đặc biệt để bàn chủ trương, biện pháp thống nhất nước nhà về mặt nhà nước.
Hội nghị cử đoàn đại biểu miền Bắc gồm 25 thành viên do đồng chí Trường Chinh làm trưởng đoàn để
hiệp thương với đoàn đại biểu miền Nam.
- Ngày 5 và 6-11-1975, tại Sài Gòn, Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt
Nam, Ủy ban Trung ương Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ và hòa bình Việt Nam, Chính phủ
Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Hội đồng cố vấn Chính phủ và đại biểu các nhân
sĩ, trí thức đã họp hội nghị liên tịch và cử đoàn đại biểu miền Nam gồm 25 thành viên do đồng chí
Phạm Hùng dẫn đầu để hiệp thương với đoàn đại biểu miền Bắc.
- Từ ngày 15 đến ngày 21-11-1975, Hội nghị Hiệp thương chính trị của hai đoàn đại biểu Bắc, Nam đã
họp tại Sài Gòn. Hội nghị khẳng định: Nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam là một, nước nhà cần được
sớm thống nhất về mặt nhà nước. Tổ chức tổng tuyển cử trên toàn lãnh thổ Việt Nam bầu ra Quốc hội
chung cho cả nước vào nửa đầu năm 1976 theo nguyên tắc dân chủ, phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và
bỏ phiếu kín.
- Ngày 3-1-1976, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 228-CT/TW nêu rõ tầm quan trọng của
cuộc Tổng tuyển cử và giao trách nhiệm cho các cấp ủy lãnh đạo cuộc bầu cử.
- Thực hiện chủ trương đó, dưới sự chỉ đạo của Đảng, ngày 25-4-1976, cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc
hội chung của nước Việt Nam thống nhất được tiến hành. Hơn 23 triệu cử tri, đạt tỷ lệ 98,77% tổng số
cử tri đi bầu, đã bầu ra 492 đại biểu gồm đủ các thành phần công nhân, nông dân, trí thức, các lực
lượng vũ trang, các đại biểu tầng lớp thanh niên, phụ nữ, đại biểu các dân tộc ít người và các tôn giáo...
trên cả nước. Thắng lợi của công việc bầu cử thể hiện ý chí đoàn kết toàn dân tộc quyết tâm thực hiện
Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất
56
định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống
nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”11.
- Từ ngày 24-6 đến ngày 3-7-1976, kỳ họp thứ nhất của Quốc hội nước Việt Nam thống nhất đã họp tại
Thủ đô Hà Nội. Quốc hội quyết định đặt tên nước ta là nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam,
Quốc kỳ nền đỏ sao vàng 5 cánh, Thủ đô là Hà Nội, Quốc ca là bài Tiến quân ca, Quốc huy mang dòng
chữ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Thành phố Sài Gòn đổi tên là Thành phố Hồ Chí Minh.
Quốc hội đã bầu Tôn Đức Thắng làm Chủ tịch nước; Nguyễn Lương Bằng, Nguyễn Hữu Thọ làm Phó
Chủ tịch nước; Trường Chinh làm Chủ tịch Quốc hội và Phạm Văn Đồng làm Thủ tướng Chính phủ
nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội đã và thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp mới.
Theo chủ trương của Đảng, các tổ chức chính trị-xã hội đều được thống nhất cả nước với tên gọi mới:
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn Thanh niên Lao động Hồ Chí Minh, Tổng Công đoàn Việt Nam,
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam,...
Ý nghĩa: Hoàn thành thống nhất nước nhà về mặt nhà nước là một trong những thành tựu nổi bật, có ý
nghĩa to lớn; là cơ sở để thống nhất nước nhà trên các lĩnh vực khác, nhanh chóng tạo ra sức mạnh toàn
diện của đất nước; là điều kiện tiên quyết để đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Điều đó còn thể
hiện tư duy chính trị nhạy bén của Đảng trong thực hiện bước chuyển giai đoạn cách mạng ở nước ta.

Trình bày nội dung cơ bản, ý nghĩa và hạn chế của Đại hội IV của Đảng (12-1976)?
Những nội dung cơ bản Đại hội:
- Thông qua Báo cáo chính trị, Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu kế hoạch 5 năm
(1976-1980), Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng; quyết định đổi tên Đảng Lao động Việt Nam
thành Đảng Cộng sản Việt Nam và sửa đổi Điều lệ Đảng, bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 101 ủy
viên chính thức, 32 ủy viên dự khuyết, bầu đồng chí Lê Duẩn làm Tổng Bí thư của Đảng.
- Đại hội đã tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, khẳng định thắng lợi của nhân dân ta
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những
trang chói lọi nhất và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có ý
nghĩa quốc tế quan trọng, có tính thời đại sâu sắc.
- Đại hội đã phân tích tình hình thế giới, trong nước và nêu lên ba đặc điểm lớn của cách mạng Việt
Nam trong giai đoạn mới: “Một là, nước ta đang ở trong quá trình từ một xã hội mà nền kinh tế còn
phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Hai là, Tổ quốc ta đã hòa bình, độc lập, thống nhất, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội với nhiều thuận
lợi rất lớn, song cũng còn nhiều khó khăn do hậu quả của chiến tranh và tàn dư của chủ nghĩa thực dân
mới gây ra12. Ba là, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta tiến hành trong hoàn cảnh quốc tế thuận lợi,
song cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa thế lực cách mạng và thế lực phản cách mạng trên thế giới còn
gay go, quyết liệt”13. Ba đặc điểm chỉ ra, Việt Nam có đủ điều kiện đi lên và xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội, nhưng đó là sự nghiệp khó khăn, phức tạp, lâu dài, đòi hỏi Đảng và nhân dân ta phải phát
huy cao độ tính chủ động, tự giác, sáng tạo trong quá trình cách mạng. Trong ba đặc điểm trên, đặc
điểm đầu tiên là lớn nhất, quy định nội dung, hình thức, bước đi của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta.

57
- Đại hội xác định đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới của nước ta là:
“Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành
đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học-kỹ thuật, cách
mạng tư tưởng và văn hóa, trong đó cách mạng khoa học-kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp
hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế
độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hóa
mới, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa; xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xóa bỏ nghèo nàn
và lạc hậu; không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị
và trật tự xã hội; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ
nghĩa; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và chủ nghĩa xã hội”14. Trong đường lối chung thể hiện nhận thức mới của Đảng về chủ nghĩa xã hội ở
nước ta gồm 4 đặc trưng cơ bản là xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, nền sản xuất lớn,
nền văn hóa mới, con người mới xã hội chủ nghĩa; coi chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ
tập thể của nhân dân lao động là công cụ để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Đại hội xác định đường lối xây dựng, phát triển kinh tế, trong đó nổi bật là: Đẩy mạnh công nghiệp
hóa xã hội chủ nghĩa bằng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển
nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, xây dựng cơ cấu kinh tế công-nông nghiệp; kết hợp kinh tế trung
ương với kinh tế địa phương, kết hợp phát triển lực lượng sản xuất; tăng cường quan hệ kinh tế với các
nước xã hội chủ nghĩa anh em đồng thời phát triển quan hệ kinh tế với các nước khác.
- Phương hướng, nhiệm vụ của kế hoạch phát triển kinh tế và văn hóa (1976-1980) nhằm hai mục tiêu
cơ bản và cấp bách là bảo đảm nhu cầu của đời sống nhân dân, tích lũy để xây dựng cơ sở vật chất-kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội; đẩy mạnh cách mạng tư tưởng và văn hóa, xây dựng và phát triển nền văn
hóa mới; tăng cường Nhà nước xã hội chủ nghĩa, phát huy vai trò của các đoàn thể; coi trọng nhiệm vụ
củng cố quốc phòng, an ninh chính trị và trật tự xã hội; coi trọng nhiệm vụ quốc tế và chính sách đối
ngoại của Đảng, củng cố quan hệ đặc biệt với Lào và Campuchia, đẩy mạnh hợp tác với Liên Xô; nâng
cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Ý nghĩa: Đại hội lần thứ IV của Đảng là đại hội toàn thắng của sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống
nhất Tổ quốc, khẳng định và xác định đường lối đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội đã cổ
vũ, động viên toàn Đảng, toàn dân ra sức lao động sáng tạo để “xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng
hơn, to đẹp hơn” theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Hạn chế: Đại hội lần thứ IV của Đảng còn bộc lộ một số hạn chế như: Chưa tổng kết kinh nghiệm 21
năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trong điều kiện thời chiến, vừa là hậu phương, vừa là tiền
tuyến, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa chống chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân của
đế quốc Mỹ, vừa làm nhiệm vụ chi viện cho chiến trường miền Nam và làm nhiệm vụ quốc tế. Trong
điều kiện đó không thể áp dụng đầy đủ các quy luật kinh tế, không thể hạch toán kinh tế mà tất yếu
phải thực hành chính sách bao cấp để đáp ứng yêu cầu tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Trong
điều kiện đó, chưa phát hiện những khuyết tật của mô hình chủ nghĩa xã hội đã bộc lộ rõ sau chiến
tranh. Việc dự kiến thời gian hoàn thành về cơ bản quá trình đưa nền kinh tế của đất nước từ sản xuất
nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa trong khoảng 20 năm để kết thúc thời kỳ quá độ; việc ưu tiên
phát triển công nghiệp nặng với quy mô lớn, việc đề ra các chỉ tiêu kinh tế nông nghiệp và công nghiệp
vượt quá khả năng thực tế... là những chủ trương nóng vội, thực tế đã không thực hiện được.
58
Trình bày những quan điểm mới được đề ra tại Đại hội V của Đảng (3-1982). Nêu ý nghĩa
và hạn chế của Đại hội.
*Những quan điểm mới:
Khẳng định nước ta đang ở chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với những
khó khăn về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Đó là thời kỳ khó khăn, phức tạp, lâu dài, phải trải qua
nhiều chặng đường. Hiện nay nước ta đang ở chặng đường đầu tiên với nội dung kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội rất nặng nề. Chặng đường trước mắt bao gồm thời kỳ 5 năm 1981-1985 và kéo dài đến
những năm 1990 là khoảng thời gian có tầm quan trọng đặc biệt. Nhiệm vụ của chặng đường trước mắt
là ổn định tiến lên cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân. Tiếp tục xây dựng cơ
sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, chủ yếu nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, hàng tiêu dùng
và xuất khẩu. Đáp ứng nhu cầu của công cuộc phòng thủ đất nước, củng cố quốc phòng, giữ vững an
ninh, trật tự xã hội. “Kinh nghiệm của 5 năm 1976-1980 cho thấy phải cụ thể hóa đường lối của Đảng-
đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở
nước ta, vạch ra chiến lược kinh tế, xã hội cho chặng đường đầu tiên của quá trình công nghiệp hóa xã
hội chủ nghĩa”1. Chặng đường trước mắt trong những năm 80 là ổn định và cải thiện một bước đời
sống vật chất, văn hóa của nhân dân; tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,
thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, hàng tiêu dùng và xây dựng; đáp ứng nhu cầu của quốc phòng, giữ
vững an ninh, trật tự xã hội.
Cách mạng Việt Nam có hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ mật thiết với nhau.
“Trong khi không một phút lơi lỏng nhiệm vụ củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta và nhân
dân ta phải đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội”.
Nội dung, bước đi, cách làm thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên là
tập trung sức phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một
bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng
hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong cơ cấu công-nông nghiệp hợp lý. Nhận thức đó phù hợp với
thực tiễn nước ta, khai thác và phát huy thế mạnh, tiềm năng của đất nước về lao động, đất đai, ngành
nghề..., làm cơ sở để thực hiện nhiệm vụ chủ yếu của chặng đường đầu tiên, tạo ra những tiền đề cần
thiết cho chặng đường tiếp theo.
*Ý nghĩa và hạn chế:
Đại hội V đã có những bước phát triển nhận thức mới, tìm tòi đổi mới trong bước quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, trước hết là về mặt kinh tế. Đường lối chung là hoàn toàn đúng đắn; khuyết điểm là trong khâu
tổ chức thực hiện, nên đã không có được những sửa chữa đúng mức và cần thiết. Tuy nhiên, Đại hội
chưa thấy hết sự cần thiết duy trì nền kinh tế nhiều thành phần, chưa xác định những quan điểm kết hợp
kế hoạch với thị trường, về công tác quản lý lưu thông, phân phối; vẫn tiếp tục chủ trương hoàn thành
về cơ bản cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam trong vòng 5 năm; vẫn tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất, kỹ
thuật cho việc phát triển công nghiệp nặng một cách tràn lan; không dứt khoát dành thêm vốn và vật tư
cho phát triển nông nghiệp và công nghiệp hàng tiêu dùng…

59
Làm rõ yêu cầu khách quan của công cuộc đổi mới.

Do cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp ko còn phù hợp, bao cấp qua giá, bao cấp qua lương, bao cấp
qua ngân sách ko còn phù hợp nữa. Chính vì vậy nó đã bộc lộ những cái yếu kém, nó đã triệt tiêu
những động lực, triệt tiêu môi trường cạnh tranh và đồng thời làm các DN bao cấp lời ko dc thu, lỗ
không được bù, kiềm hãm sự phát triển khcn

Tiền đề đổi mới đã chín muồi: về nhận thức, tồn tại nền kinh tế khách quan và phê phán nền kt bao cấp;
quyết định 25, 26 CP của chính phủ cho các dn tự chủ trong sx kinh doanh; đến ĐH đảng lần thứ V đã
nhìn nhận lại thời kỳ quá độ; nghị quyết 08 về giá thu tiền vào 1985; kết luận của bộ chính trị và ban bí
thư cơ cấu kt nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Tất cả
những điều này đã cho phép chúng ta đổi mới toàn diện.

Trên thế giới có 1 sự thay đổi, đó là cnxh khủng hoảng dẫn tới sự sụp đổ của Liên Xô, năm 90 bức
tường berlin sụp đổ, năm 91 Liên Xô sụp đổ chính vì vậy đây là 1 sự chấn động chính trị chưa từng có
trong lịch sử CM thế giới. Đối với VN, tình hình thế giới đã có sự tác động đặc biệt là ở LX, mà mô
hình cnxh ở VN đi theo mô hình của LX. Chủ nghĩa tư bản hiện vẫn còn tiềm năng về chính trị, kt,
vh,......những tác động buộc chúng ta phải đổi mới

Trình bày ba bước đột phá kinh tế của Đảng thời kỳ trước đổi mới? Nêu ý nghĩa?
a)Ba bước đột phá kinh tế:
-Hội nghị Trung ương 6 khoá IV (tháng 8-1979) với chủ trương và quyết tâm làm cho sản xuất "bung
ra" là bước đột phá đầu tiên của quá trình đổi mới ở nước ta.
+Hội nghị đã tập trung vào những biện pháp nhằm khắc phục những yếu kém trong quản lý kinh tế và
cải tạo xã hội chủ nghĩa; điều chỉnh những chủ trương, chính sách kinh tế, phá bỏ rào cản, mở đường
cho sản xuất phát triển: ổn định nghĩa vụ lương thực trong 5 năm, phần dôi ra được bán cho Nhà nước
hoặc lưu thông tự do; khuyến khích mọi người tận dụng ao hồ, ruộng đất hoang hoá; đẩy mạnh chăn
nuôi gia súc dưới mọi hình thức (quốc doanh, tập thể, gia đình); sửa lại thuế lương thực, giá lương thực
để khuyến khích sản xuất; sửa lại chế độ phân phối trong nội bộ hợp tác xã nông nghiệp, bỏ lối phân
phối theo định suất, định lượng để khuyến khích tính tích cực của người lao động,...
+Trên cơ sở đó, Chỉ thị 100-CT/TW, ngày 13-1-1981 của Ban Bí thư về cải tiến công tác khoán, mở
rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp đã ra đời, làm cho
người lao động thực sự gắn bó với sản phẩm cuối cùng, do đó mà đem hết nhiệt tình lao động và khả
năng ra sản xuất, đã bước đầu tạo ra một động lực mới trong sản xuất nông nghiệp.
+Trên lĩnh vực công nghiệp, với Quyết định 25/CP, ngày 21-1-1981 của Hội đồng Chính phủ, cùng với
Quyết định 26/CP về việc mở rộng hình thức trả lương khoán, lương sản phẩm và vận dụng hình thức
tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất, kinh doanh, được áp dụng,bước đầu tạo ra động lực mới cho lĩnh
vực công nghiệp..
+Có thể nhìn nhận những tư duy đột phá về kinh tế được thể hiện trong Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 6 khoá IV, trong Chỉ thị 100-CT/TW của Ban Bí thư và trong các Quyết định của Chính phủ thời
kỳ này như sau:

60
*Đó là những tư duy kinh tế ban đầu, tuy còn sơ khai, chưa cơ bản và toàn diện, nhưng là bước mở
đầu có ý nghĩa quan trọng.
*Tư duy kinh tế nổi bật trong những tìm tòi đó là “cởi trói”, "giải phóng lực lượng sản xuất" , “làm
cho sản xuất bung ra”, trên cơ sở khắc phục những khuyết điểm trong quản lý kinh tế, trong cải tạo xã
hội chủ nghĩa, tạo ra động lực cho sản xuất : chú ý kết hợp ba lợi ích, quan tâm hơn lợi ích thiết thân
của người lao động. Những tư duy kinh tế ban đầu đó đã đặt những cơ sở đầu tiên cho quá trình đổi
mới sau này.
Tuy nhiên, do những khó khăn bởi chiến tranh biên giới phía Bắc và Tây Nam gây ra, do thiếu đồng bộ
của tư tưởng đổi mới và chưa có đủ thời gian để những chủ trương đổi mới phát huy tác dụng, những
tìm tòi đổi mới ban đầu đó đã phải trải qua các thử thách rất phức tạp. Tư duy cũ về kinh tế hiện vật
còn ăn sâu, bám rễ trong nhiều người. Bên cạnh những tư duy cũ trên đây, trước đòi hỏi của thực tiễn
cuộc sống, cũng đã xuất hiện khuynh hướng muốn đổi mới mạnh mẽ hơn, tiếp tục đẩy tới tư duy thừa
nhận sản xuất hàng hoá và những quy luật của sản xuất hàng hoá trong chủ nghĩa xã hội.
- Hội nghị Trung ương 8 khoá V (tháng 6-1985) đánh dấu bước đột phá thứ hai về đổi mới tư duy kinh
tế với chủ trương dứt khoát xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, thực hiện cơ chế một giá; xoá
bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp; chuyển mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh sang cơ chế
hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa; chuyển ngân hàng sang nguyên tắc kinh doanh. Điểm quan
trọng là Hội nghị này đã thừa nhận sản xuất hàng hoá và những quy luật của sản xuất hàng hoá.
- Tháng 8-1986, trong quá trình chuẩn bị Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội VI, Bộ Chính trị đã
xem xét kỹ các vấn đề lớn, mang tính bao trùm trên lĩnh vực kinh tế, từ đó, đưa ra Kết luận đối với một
số vấn đề thuộc về quan điểm kinh tế: a) Trong bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, phải lấy nông
nghiệp làm mặt trận hàng đầu; ra sức phát triển công nghiệp nhẹ; công nghiệp nặng được phát triển có
chọn lọc; b) Trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng
của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; c) Trong cơ chế quản lý kinh tế, lấy kế hoạch làm
trung tâm, nhưng đồng thời phải sử dụng đúng quan hệ hàng hoá - tiền tệ, dứt khoát xoá bỏ cơ chế tập
trung quan liêu, bao cấp; chính sách giá phải vận dụng quy luật giá trị, tiến tới thực hiện cơ chế một
giá. Đây là bước đột phá thứ ba về đổi mới tư duy kinh tế, có ý nghĩa lớn trong đổi mới tư duy lý luận
về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
b)Ý nghĩa:
-Những thành công:
+Một là, quá trình đổi mới và phát triển tư duy lý luận kinh tế của Đảng là xuyên suốt nhất quán, ngày
càng đạt được tính hệ thống, đồng bộ cao; đảm bảo sự thống nhất, hài hòa giữa chiều rộng và chiều sâu,
giữa phát triển và hội nhập trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tư duy
lý luận kinh tế của Đảng thực sự đi trước, có vai trò dẫn đường và định hướng quá trình đổi mới và
phát triển kinh tế trên thực tế. Thực tế quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
nước ta đã trải qua nhiều giai đoạn cả khó khăn và thuận lợi, đặc biệt là trong bối cảnh sự tan rã của
Liên Xô cũ và các nước Đông Âu ở thời kỳ đầu đổi mới; khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế
toàn cầu…Tuy nhiên, Đảng và Nhà nước ta vẫn kiên trì tư duy phát triển nền kinh tế thị trường định

61
hướng XHCN và cho đến nay, thực tế đã chứng minh đây là con đường đi đúng đắn bằng những thành
tựu phát triển kinh tế-xã hội mà nước ta đã đạt được trong gần 30 năm qua.
+Hai là, đã hình thành tư duy nhất quán có tính chiến lược về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế.
Đây là một bước đột phá trong đổi mới tư duy kinh tế, giúp giải phóng sức sản xuất vốn bị kìm hãm
trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung trước kia. Đã thừa nhận sự tồn tại khách quan của nhiều hình
thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế khác ngoài sở hữu nhà nước và kinh tế nhà nước, trên cơ sở đó
đã có những chủ trường, định hướng đúng đắn về phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, từ đó huy động được tổng hợp các nguồn lực để xây dựng đất nước.
+Ba là, đã có sự thay đổi cơ bản trong nhận thức về vai trò, chức năng của Nhà nước trong nền kinh tế.
Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, Nhà nước vừa xây dựng chế độ, chính sách vừa thực hiện
mọi hoạt động của nền kinh tế, vừa thực hiện chức năng quản lý nhà nước vừa thực hiện chức năng sản
xuất kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường, vai trò của Nhà nước đã được xác định rõ, đó là xây
dựng và hoàn thiện thể chế, tạo dựng và cải thiện môi trường kinh tế vĩ mô, môi trường kinh doanh,
can thiệp vào nền kinh tế với mục tiêu sửa chữa những khuyết tật của thị trường và đảm bảo an sinh xã
hội. Đồng thời, Nhà nước cũng đóng vai trò là một chủ thể kinh tế trên thị trường thông qua việc đầu tư
vốn và quản lý tài sản công.
+Bốn là, chính sách thị trường thông thương giữa các vùng trong cả nước và giữa trong nước và nước
ngoài là một bước tiến lớn trong nhận thức và xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta. Chính sách
“cởi trói” để hàng hóa được tự do lưu thông cùng với chính sách mở cửa nền kinh tế đã giúp đổi mới tư
duy trong sản xuất và phân phối, chuyển Việt Nam từ một nền kinh tế tự cấp tự túc sang một nền kinh
tế sản xuất hàng hóa, từ một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp trở thành một nền
kinh tế thị trường được nhiều nước trên thế giới công nhận .
+Năm là, quan hệ phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã chuyển dịch từ chỗ coi
Nhà nước là chủ thế quyết định phân phối (phân phối lần đầu và phân phối lại) sang việc coi thị trường
quyết định phân phối lần đầu và vai trò của Nhà nước trong việc phân phối lại. Cơ chế phân bổ nguồn
lực bằng hiện vật và cào bằng chuyển sang phân bổ dựa trên các nguyên tắc và tiêu chí hiệu quả, tập
trung vào những ngành, lĩnh vực trọng tâm đã góp phần nâng cao tính minh bạch và hiệu quả trong
phân bổ ngân sách nói riêng và nguồn lực xã hội nói chung. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển biến tích cực
để phát huy tiềm năng của từng ngành, từng vùng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tạo
dựng được những tiền đề cần thiết cho sự phát triển kinh tế thị trường và sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước; cải thiện một bước kết cấu hạ tăng kinh tế xã hội, tạo điều kiện thúc đẩy phát
triển kinh tế và đời sống nhân dân; hệ thống giáo dục, khoa học công nghệ phát triển khá, thể chế kinh
tế thị trường đã từng bước được hình thành và phát triển.
Sáu là, cơ chế giá chuyển từ quản lý mệnh lệnh hành chính, không phản ánh đúng quy luật giá trị, là
một trong những nguyên nhân gây lạm phát cao sang quản lý theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
nhà nước đã khắc phục nhưng bất cập, hạn chế về giá, giá cả hàng hoá phản ánh giá trị hàng hoá, khắc
phục được những mặt trái về giá trong KTTT, đảm bảo ổn định và an sinh xã hội.
+Bảy là, khuyến khích phát triển đồng bộ các loại thị trường, trong đó thị trường tài chính đã được chú
trọng, đặc biệt là thị trường vốn để tạo kênh dẫn vốn quan trọng cho nền kinh tế. Phát triển thị trường

62
không chỉ bao gồm thị trường hàng hóa và dịch vụ mà còn cả thị trường các yếu tố sản xuất như vốn,
tài sản, tiền tệ và sức lạo động.
+Tám là, nhận thức được vai trò tích cực của cơ chế thị trường và đa dạng hoá các chủ thể tham gia thị
trường. Trong đó, Nhà nước quản lý thị trường bằng pháp luật, kế hoạch, cơ chế, chính sách, công cụ
đòn bảy kinh tế và bằng nguồn lực của khu vực kinh tế nhà nước. Từng bước tách chức năng kinh
doanh của doanh nghiệp và chức năng quản lý, giám sát của cơ quan quản lý Nhà nước, chủ sở hữu,
hình thành các định chế tài chính trung gian để thực hiện nhiệm vụ tín dụng chính sách của nhà nước
cũng như đầu tư kinh doanh vốn nhà nước.

Trình bày những chủ trương đổi mới được đề ra tại Đại hội VI của Đảng (12-1986). Ý
nghĩa của Đại hội VI.
*Những chủ trương đổi mới:
Đường lối đổi mới do Đại hội VI toàn diện trên các lĩnh vực, nổi bật ở những nội dung sau:
Đại hội đã nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá thành tựu, nghiêm túc
kiểm điểm, chỉ rõ những sai lầm, khuyết điểm của Đảng trong thời kỳ 1975-1986. Đó là những sai lầm
nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực
hiện. Khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm, khuyết điểm đó, đặc biệt là trên lĩnh vực
kinh tế là bệnh chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội, chạy theo nguyện
vọng chủ quan. Đó là tư tưởng tiểu tư sản, vừa “tả” khuynh vừa hữu khuynh. Nguyên nhân của mọi
nguyên nhân bắt nguồn từ những khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của
Đảng. Đại hội rút ra bốn bài học quý báu: Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán
triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”. Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành
động theo quy luật khách quan. Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong
điều kiện mơi. Bốn là, chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm với một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân
tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Về kinh tế, thực hiện nhất quán chính sách phát triển nhiều thành phần kinh tế. Đổi mới cơ chế quản lý,
xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, hành chính, bao cấp chuyển sang hạch toán, kinh doanh, kết hợp kế
hoạch với thị trường. Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát trong những năm còn lại của chặng
đường đầu tiên là: Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích lũy; bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý,
trong đó đặc biệt chú trọng ba chương trình kinh tế lớn là lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng và
hàng xuất khẩu, coi đó là sự cụ thể hóa nội dung công nghiệp hóa trong chặng đường đầu của thời kỳ
quá độ. Thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa thường xuyên với hình thức, bước đi thích hợp, làm cho
quan hệ sản xuất phù hợp và lực lượng sản xuất phát triển. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, giải quyết
cho được những vấn đề cấp bách về phân phối, lưu thông. Xây dựng và tổ chức thực hiện một cách
thiết thực, có hiệu quả các chính sách xã hội. Bảo đảm nhu cầu củng cố quốc phòng và an ninh. Năm
phương hướng lớn phát triển kinh tế là: Bố trí lại cơ cấu sản xuất; điều chỉnh cơ cấu đầu tư xây dựng và
củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế; đổi
mới cơ chế quản lý kinh tế, phát huy mạnh mẽ động lực khoa học kỹ thuật; mở rộng và nâng cao hiệu
quả kinh tế đối ngoại.

63
Về chính sách xã hội, Đại hội khẳng định, chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của cuộc sống con
người, cần có chính sách cơ bản, lâu dài, xác định được những nhiệm vụ, phù hợp với yêu cầu, khả
năng trong chặng đường đầu tiên. Bốn nhóm chính sách xã hội là: Kế hoạch hóa dân số, giải quyết việc
làm cho người lao động. Thực hiện công bằng xã hội, bảo đảm an toàn xã hội, khôi phục trật tự, kỷ
cương trong mọi lĩnh vực xã hội. Chăm lo đáp ứng các nhu cầu giáo dục, văn hóa, bảo vệ và tăng
cường sức khỏe của nhân dân. Xây dựng chính sách bảo trợ xã hội.
Về quốc phòng và an ninh: Đề cao cảnh giác, tăng cường khả năng quốc phòng và an ninh của đất
nước, quyết đánh thắng kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, bảo đảm chủ động trong mọi tình
huống để bảo vệ Tổ quốc.
Về nhiệm vụ đối ngoại: Góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, tăng cường tình hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các
nước xã hội chủ nghĩa; bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì
hòa bình ở Đông Nam Á và trên thế giới. Kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại,
phấn đấu giữ vững hòa bình ở Đông Dương, Đông Nam Á và trên thế giới, tăng cường quan hệ đặc biệt
giữa ba nước Đông Dương, quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước trong cộng
đồng xã hội chủ nghĩa.
Về xây dựng Đảng: Đảng cần phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, đổi mới công tác tư
tưởng; đổi mới công tác cán bộ và phong cách làm việc, giữ vững các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt
Đảng; tăng cường đoàn kết nhất trí trong Đảng. Đảng cần phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân
lao động, thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà
nước là điều kiện tất yếu để huy động lực lượng của quần chúng.
*Ý nghĩa:
Đại hội VI của Đảng là Đại hội khởi xướng đường lối đổi mới toàn diện, đánh dấu bước ngoặt phát
triển mới trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Các Văn kiện của Đại hội mang tính chất khoa học
và cách mạng, tạo bước ngoặt cho sự phát triển của cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, hạn chế của Đại
hội VI là chưa tìm ra những giải pháp hiệu quả tháo gỡ tình trạng rối ren trong phân phối lưu thông.

Phân tích những đặc điểm của cơ chế quản lý kinh tế thời kì trước đổi mới, những bước
đột phá trong đổi mới tư duy của Đảng về cơ chế quản lý kinh tế trước đổi mới.
Trả lời:
a, Đặc điểm của cơ chế quản lý kinh tế thời kì trước đổi mới:
- Đặc điểm cơ chế kế hoạch hóa, tập trung bao cấp; nhà nước can thiệp vào toàn bộ nền kinh tế, là
người tổ chức, điều hành, thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế
- Nền kinh tế dựa trên nền tảng của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, coi chế độ công hữu về tư liệu
sản xuất dưới hình thức quốc doanh là trình độ cao nhất của xã hội hóa nền sản xuất xã hội. Vì vậy đi
đến việc xóa bỏ các thành phần kinh tế tự nhiên, xóa bỏ cơ sở của kinh tế thị trường.
*) Biểu hiện cụ thể ở Việt Nam:
- Quá trình công hữu hóa các tư liệu sản xuất chủ ý do xuất phát từ quan niệm xây dựng CNXH phải có
nền kinh tế công hữu.
- Nhà nước quản lý nền sản xuất trực tiếp bằng các chỉ tiêu, pháp lệnh.

64
- Quan hệ giữa nhà nước và các đơn vị kinh tế là quan hệ cấp phát, giao nộp. Thể hiện tính chất bao
cấp, gây ra nhiều hạn chế và tiêu cực trong phát triển kinh tế.
- Phạm trù giá trị chỉ tồn tại một cách hình thức chủ yếu để tính toán.
*) Hậu quả của cơ chế này là;
- Biệt tiêu động lực trong sản xuất, không kích thích các đơn vị kinh tế phát triển, cải tiến kinh tế, nâng
cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm.
- Thủ tiêu tính cạnh tranh, kìm hãm các tiến bộ của khoa học công nghệ
*) Yêu cầu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế;
- Với việc áp dụng mô hình quản lý kinh tế bao cấp, nền kinh tế Việt Nam trước đổi mới rơi vào tình
trạng khủng hoảng. Nguyên nhân cơ bản dẫn tới tình trạng này là do những hạn chế của Đảng và nhà
nước trong chủ trương xây dựng CNXH, trong việc áp dụng mô hình kinh tế tập trung, bao cấp, kế
hoạch hóa.
=> Yêu cầu cần phải thay đổi mô hình quản lý kinh tế.
b, Những đột phá đầu tiên trong tư duy của Đảng:
- 8/1979 tại hội nghị TW Đảng lần 6, hội nghị đã thừa nhận sự cần thiết phải kết hợp kế hoạch hóa với
thị trường, thừa nhận sự cần thiết phải kết hợp nhiều loại lợi ích. Huy động vai trò của các tiểu thương,
cá thể, tiểu chủ để làm cho sẩn xuất bung ra.
- 13/01/1981 Ban thư kí TW Đảng ra chỉ thị 100 về cải tiến công tác khoán, thực hieenjkhoans sản
phẩm đến nhà và người lao động trong các Hợp tác xã nông nghiệp.
*) Cơ chế khoán: tạo tính chủ độngtrong sản xuất cho người dân và cho các hợp tác xã, làm cho việc
đánh giá thành quả lao động xác thực hơn.
*) kết quả; đưa năng suất lao động tăng lên 17 triệu tấn do với trước là 14,4 triệu tấn.
- 1981 Chính phủ ban hành 2 quyết định: QĐ 25CP và QĐ 26CP
+ QĐ 25CP là quyết định giao quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh tự chủ về tài chính đối với các
xí nghiệp quốc doanh.
+ QĐ 26CP là quyết định về việc mở rộng hình thức trả lương, sử dụng hình thức tiền thưởng đối với
người lao động.
 1982 tại ĐHĐBTQ lần thứ 5, đều đã có một số tư duy mới về xây dựng CNXH, Đại hội nhấn phải
xác lập một chế độ quản lý và kế hoạch hóa hiện hành, xóa bỏ cơ chế hành chính quan liêu bao cấp.
 - 6/1985 tại hội nghị TW Đảng lần 8 hội nghị chủ trương xáo bỏ cơ chế bao cấp, thực hiện cơ chế
một giá chuyển sang hạch toán kinh doanh XHCN, thừa nhận các quy luật của sản xuất hàng hóa.

Trình bày khái quát quá trình đổi mới tư duy của Đảng về kinh tế thị trường định hướng
XHCN từ 1986 đến nay
Trả lời:
*) Giai đoạn 1986- 1994: Thừa nhận cơ chế thị trường nhưng không coi nền kinh tế của nước ta là nền
kinh tế thị trường.
- Tại ĐHĐBTQ lần thứ 6 thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hóa, sự tồn tại khách quan
của thị trường, phê phán những hạn chế của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, xóa bỏ cơ chế tập
trung, bao cấp chuyển sang hạch toán kinh doanh XHCN.
- Tại Hội nghị TW Đảng lần thứ 6 vào 3/1989 Hội nghị khẳng định thực hiện chính sách kinh tế nhiều
thành phần, phát triển nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch bao gồm nhiều thành phần kinh tế đi lên
CNXH. Hội nghị khẳng định:
+ Dứt khoát xóa bỏ cơ chế 2 giá, thực hiện 1 giá thống nhất trên toàn thị trường.

65
 Tại ĐHĐBTQ lần thứ 7 năm 1991: Đại hội khẳng định nền kinh tế của nước ta là nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước.
*) Giai đoạn 1994- 2001: Coi kinh tế thị trường không phải là cái riêng của CNTB, không đối lập với
CNXH.
- 1/1994: tại hội nghị ĐBTQ giữa nhiệm kì khóa 7. Hội nghị khẳng định: thị trường và kinh tế thị
trường không phải là cái vốn có của CNTB mà là thành tựu chung của văn minh nhân loại.
- Tại ĐHĐBTQ lần thứ 8 năm 1996: Đại hội khẳng định phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định
hướng XHCN vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
*) Giai đoan 2001- 2006: Coi kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát của
nước ta trong thời kì quá độ lên CNXH.
- 9/2001: Tại DDHDDBTQ lần 9: Đảng ta chính thức đưa ra khái niệm kinh tế thị trường định hướng
XHCN (kinh tế thị trường định hướng XHCN là một thể chế kinh tế vừa tuân theo những quy luật của
kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở được dẫn dắt, chi phối bới các nguyên tắc, bản chất của CNXH,
đảm bảo tính định hướng XHCN.
*) Giai đoạn 2006 đến nay: Gắn nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta với nền kinh tế thị
trường toàn cầu hóa. Hội nhập kinh tế quốc tế ngayd càng sâu rộng và đầy đủ hơn.
- ĐHĐBTQ lần thứ 10 năm 2006: xác định rõ hơn tính định hướng XHCN trong nền kinh tế thị trường
ở nước ta dựa vào 4 tiêu chí:
+ Mục tiêu phát triển: vì con người. Thực hiện mục đích dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ văn minh.
+ Phương hướng phát triển: Phát triển nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế
trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế
quốc dân.
+ Định hướng XHCN trong phân phối: Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả tác động, theo
hiệu quả kinh tế, theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác thông qua phúc lợi xã hội.
+ Định hướng XHCN trong quản lý: Phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân, đảm bảo vai trò
quản lý điều tiết kinh tế của nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Phân tích chủ trương xây dựng hệ thống chuyên chính vô sản trước thời kì đổi mới của
Đảng.
Trả lời:
a, Hoàn cảnh lịch sử:
- Sau tháng 7/1954 khi đất nước bị chia cắt làm 2 miền, miền Bắc có điều kiện đi lên xây dựng CNXH,
Hệ thống chính trị được xây dựng ở miền Bắc, là hệ thống chuyên chính dân chủ nhân dân làm nhiệm
vụ lịch sử chuyên chính vô sản.
- Sau 30/04/1975 đất nước được hòa bình thống nhất, cả nước cùng đi lên xây dựng CNXH, Hệ thống
chuyên chính vô sản trên phạm vi cả nước.
- Sản xuất Nông nghiệp, sản xuất nhỏ là phổ biến, chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh.
- Quá độ nhiệm vụ chiến lược cách mạng trong giai đoạn mới, đưa cả nước cùng quá độ lên CNXh, bỏ
qua giai đoạn phát triển của CNTB.
b, Chủ trương xây dựng hệ thống chuyên chính vô sản trước thời kì đổi mới của Đảng.
Việc xây dựng hệ thống chuyên chính vô sản được quan niệm là xây dựng chế độ làm chủ tập thể
XHCN, xây dựng một hệ thống hoàn chỉnh các quan hệ xã hội thể hiện quyền làm chủ của nhân dân
trên mọi phương diện(Chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng…). Do đó chủ trương xây dựng hệ
thống chuyên chính vô sản gồm các nội dung sau:
66
- Xác định quyền làm chủ của nhân dân lao động, được thể chế hóa bằng pháp luật và tổ chức.
- Xác định nhà nước trong thời kì quá độ là nhà nước chuyên chính vô sản, thực hiện chế độ dân chủ,
XHCN. Xây dựng quyền làm chủ của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng dựa trên nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung bao cấp, thực hiện chủ yếu bằng sự hoạt động của nhà nước và các đoàn thể quần
chúng.
- Xác định Đảng cộng sản là người lãnh đạo toàn bộ mọi hoạt động xã hội trong điều kiện chuyên chính
vô sản.
- Xác định nhiệm vụ chung của mặt trận tổ quốc, các đoàn thể tham gia và kiểm tra công việc của nhà
nước, có nhiệm vụ tập hợp quần chúng hoàn thành nhiệm vụ cách mạng.
- Xác định mối quan hệ trong hệ thống chính trị: Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý là
cơ chế chung quản lý toàn bộ xã hội.

Phân tích chủ trương xây dựng hệ thống chính trị trong thời kì đổi mới của Đảng.
Trả lời:
a, Chủ trương trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
*) Quan điểm:
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xác định trọng tâm là xây dựng Đảng phải tiến hành đồng
bộ với nhiệm vụ xây dựng chỉnh đốn Đảng với các thành tố của hệ thống chính trị với đổi mới kinh tế,
đồng bộ với đổi mới tổ chức hoạt động của hệ thống chính trị, đồng bộ với đổi mới kinh tế, xây dựng
và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thích ứng với đòi hỏi quá trình CNH- HĐH và hội
nhập kinh tế quốc tế.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng phải kiên định các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của
Đảng.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng cần chủ động, tích cực, quyết tâm, thận trọng bước đi vững
chắc, vừa làm vừa tổng kết, vừa rút kinh nghiệm
*) Nội dung thực hiện:
- Đảng lãnh đạo nhà nước thông qua việc đề ra chủ trương, đường lối, các chính sách, định hướng cho
sự phát triển, kiểm tra việc tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, hiến pháp và pháp luật
của nhà nước.
- Đảng không làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị
- Đảng lãnh đạo bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức kiểm tra bằng hoạt động
gương mẫu của Đảng viên.
- Đảng giới thiệu những Đảng viên ưu tú có đủ năng lực, đủ phẩm chất vào hoạt động trong các cơ
quan lãnh đạo, chính quyền các đoàn thể.
- Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị nhưng đồng thời cũng là bộ phận của hệ thống chính trị, liên hệ mật
thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật.
- tăng cường cường độ lao động tập thể, đi đôi với việc phát huy tính chủ động, sáng tạo, trách nhiệm
của cá nhân.
b, Xây dựng nhà nước Pháp quyền XHCN.
- Tại ĐHĐBTQ lần thứ 6 (1986) khẳng định quản lý nhà nước bằng pháp luật chứ không bằng đạo lý.
- Tại ĐHĐBTQ lần thứ 7 (1991) khẳng định nhà nước Việt Nam thống nhất 3 quyền: lập pháp, hành
pháp và tư pháp.
- ĐHĐB giữa nhiệm kì khóa 7 (1994) Nói tới việc xây dựng nhà nước Pháp quyền.
- Năm 2006: Đại hội 10 chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN xác định các đặc điểm của
nhà nước pháp quyền XHCn Việt Nam:

67
+ Nhà nước pháp quyền là nhà nước có hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn chỉnh, chất lượng cao, thể
hiện được tiện ích, ý trí, nguyện vọng của nhân dân, phù hợp kết quả, thúc đẩy tiến bộ xã hội trong đó
hiến pháp và các điều luật giữ vị trí tối cao.
+ Nhà nước pháp quyền XHCN là nhà nước đảm bảo quyền lực nhà nước thuộc về tay nhân dân, là nhà
nước của dân, do dân và vì dân.
+ Nhà nước pháp quyền là nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế trong xã hội,
xử lý nghiêm minh mọi hành vi vi phạm pháp luật. Bảo vệ quyền tự do, lợi ích hợp pháp của nhân dân.
+ Nhà nước pháp quyền là nhà nước tổ chức theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân công phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện 3 quyền: lập pháp, hành pháp và tư
pháp nhằm hạn chế sự lạm quyền xâm hại tới lợi ích hợp pháp của công dân từ phía nhà nước.
+ Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng CSVN lãnh đạo. đồng thời đảm bảo sự giám sát của nhân dân,
sự phản biện xã hội của mặt trận tổ quốc và các tổ chức thành viên của mặt trận.
c, Xây dựng mặt trận tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị xã hội khác.
- Nhà nước ban hành cơ chế để mặt trận tổ quốc và các tổ chức thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.
- Thực hiện tốt luật mặt trận tổ quốc, luật công đoàn.
- Đổi mới hoạt động của mặt trận tổ quốc, các tổ chức chính trị xã hội, khắc phục tình trạng hành chính
hóa, nhà nước hóa, phô trương hình thức, nâng cao chất lượng hoạt động, làm tốt công tác dân vận theo
phong cách trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân, nghe dân nói, nói dân
hiểu, làm dân tin.

Phân tích đường lối đối ngoại thời kì đổi mới từ năm 86 đến nay.

Các giai đoạn phát triển

Giai đoạn 1986-1995: Phá thế bao vây cấm vận, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng
Nhìn lại những năm giữa thập kỷ 80 của thế kỷ XX, tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến động,
chủ nghĩa xã hội trên thế giới lâm vào khủng hoảng sâu sắc. Ở trong nước, tình hình rất khó khăn,
khủng hoảng kinh tế trầm trọng.
Trước các sóng gió, Đảng đã đánh giá lại cục diện thế giới để xác định đường lối, chính sách đối ngoại
trong tình hình mới. Tại Đại hội VI (12/1986), chúng ta đã có nhận thức mới về xu thế mở rộng phân
công, hợp tác giữa các nước, kể cả các nước có chế độ kinh tế, xã hội khác nhau. Tư duy của Đảng ta
có bước chuyển quan trọng tại Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị (tháng 5/1988).
Theo đó, Đảng nêu rõ trạng thái “đấu tranh và hợp tác trong cùng tồn tại hòa bình” và nhận định “với
một nền kinh tế mạnh, một nền quốc phòng vừa đủ mạnh cùng với sự mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế,
chúng ta sẽ càng có nhiều khả năng giữ vững độc lập và xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa hơn”.
Tình hình khó khăn và bức bách đầu những năm 1990 tiếp tục đặt ra vấn đề đổi mới tư duy về thời đại.
Đảng khẳng định thế giới vẫn trong thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời chỉ rõ những xu thế
lớn như quốc tế hóa, dân chủ hóa, xu thế hòa bình, hợp tác trong quan hệ quốc tế. Chủ trương đối ngoại
của Việt Nam được khẳng định tại Đại hội VII (1991), theo đó Việt Nam muốn là bạn, là đối tác với
các nước trên thế giới và mở rộng, đa phương hóa quan hệ kinh tế đối ngoại.
Thế giới quan mới về thời đại và cục diện thế giới đã mở đường, tạo điều kiện để Việt Nam phá thế bao
vây cô lập, phát triển rộng rãi quan hệ đối ngoại. Việt Nam đã lần lượt bình thường hóa quan hệ với
68
Trung Quốc năm 1991, với Mỹ năm 1995, thúc đẩy quan hệ với các nước láng giềng, khu vực và các
nước quan trọng trên thế giới và gia nhập ASEAN năm 1995.
Giai đoạn 1996-2010: Mở rộng quan hệ và hội nhập kinh tế quốc tế
Bước vào giữa thập niên 1990, đất nước đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo ra tiền đề cần
thiết cho giai đoạn phát triển mới của đất nước. Các xu thế hòa bình, toàn cầu hóa, dân chủ hóa của thời
đại ngày càng được củng cố và tăng cường. Các nước lớn, nhỏ, có chế độ chính trị-xã hội khác nhau
tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác và cạnh tranh, vào các liên kết khu vực và quốc tế.
Đất nước có không gian phát triển thuận lợi do nằm trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương đang phát
triển năng động với tốc độ cao. Các đặc điểm và xu thế nêu trên đã làm thúc đẩy thêm tính chất đa
phương, đa dạng trong quan hệ quốc tế và chính sách đối ngoại của các nước.
Trong sự chuyển biến của thế giới và khu vực đó, Đại hội VIII (1996) đã khẳng định tính đúng đắn
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hoá và đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại. Tư
duy đối ngoại tiếp tục được đổi mới với quan điểm mới về đối tác - đối tượng, về hợp tác và đấu tranh
trong Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX (2003). Đây là cơ sở để Việt Nam hóa giải điểm bất đồng, gia
tăng điểm song trùng lợi ích trong trong quan hệ quốc tế. Một hướng đột phá mới trong giai đoạn này
là chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế tại Đại hội VIII, Đại hội IX (2001) và Đại hội X (2006).
Chúng ta đã xử lý tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ với hội nhập quốc tế. Việt Nam đã tham gia
Hiệp định thương mại tự do ASEAN (AFTA) và ký Hiệp định thương mại song phương với Mỹ năm
2001.
Việt Nam gia nhập một loạt các cơ chế đa phương quan trọng như Diễn đàn Hợp tác Á-Âu (ASEM)
năm 1996, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) năm 1998, Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO) năm 2007. Việt Nam đã đăng cai các hội nghị cấp cao của Cộng đồng các nước có
sử dụng tiếng Pháp (1997), ASEAN (1998), ASEM (2005), APEC (2006) và là Uỷ viên không thường
trực của Hội đồng Bảo an (HĐBA) Liên hợp quốc (LHQ) khoá 2008-2009.
Giai đoạn 2011-nay: Đưa quan hệ đi vào chiều sâu và hội nhập quốc tế toàn diện
Bước vào thập niên thứ hai của thế kỷ XXI, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, tuy nhiên đứng
trước nhiều thách thức từ cạnh tranh nước lớn gia tăng, kinh tế thế giới khủng hoảng và phục hồi chưa
bền vững. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, Cách mạng công nghiệp 4.0 một mặt tạo ra
động lực mới cho tăng trưởng sáng tạo, chuyển đổi số, mặt khác gia tăng nguy cơ tụt hậu nếu không
bước được lên “con thuyền” của kỷ nguyên số. Thế và lực của đất nước được nâng lên đáng kể sau hơn
hai thập kỷ đổi mới. Vị thế địa chiến lược của Việt Nam tiếp tục gia tăng trong chính sách của các nước
lớn với khu vực.
Trong bối cảnh đó, Đại hội XI (2011) đã nâng tầm từ hội nhập kinh tế sang “chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế” một cách toàn diện. Nghị quyết số 22 của Bộ Chính trị năm 2013 đã thống nhất nhận
thức trong toàn Đảng, toàn dân về hội nhập quốc tế trong tình hình mới.
Đại hội XII (2016) có quyết sách chính trị quan trọng về tiếp tục mở rộng phạm vi, lĩnh vực và mức độ
hội nhập. Các nội dung này đã được cụ thể hóa và kế hoạch hóa trong Chiến lược tổng thể hội nhập
quốc tế đến 2020, tầm nhìn 2030. Tư duy đối ngoại đa phương có bước chuyển quan trọng với Chỉ thị
69
25 của Ban Bí thư năm 2018 chuyển mạnh từ “tham dự” sang “chủ động tham gia” và phát huy vai trò
“nòng cốt”, dẫn dắt của Việt Nam

Mục tiêu, nhiệm vụ


- Lấy việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc
đổi mới, để phát triển kinh tế xã hội là lợi ich cao nhất của tổ quốc.
- Mở rộng đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế để tạo thêm nguồn lực đáp ứng yêu cầu phát triển của
đất nước, kết hợp nội lực với các nguồn lực từ bên ngoài tạo thành ngoại lực tổng hợp đẩy mạnh CNH-
HĐH, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.
- Phát huy vai trò và nâng cao vị thế của Việt Nam trong quan hệ quốc tế, góp phần tích cực vào cuộc
đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Tư tưởng chỉ đạo đưởng lối


- Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính là xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc tổ quốc xã hội chủ
nghĩa, đồng thời thực hiện nghĩa vụ quốc tế theo khả năng của Việt Nam.
- Giữ vững độc lập tự chủ, tự cường, đi đôi với đẩy mạnh đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối
ngoại.
- Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế, cố gắng thúc đẩy mặt hợp tác nhưng
vẫn phải đấu tranh dưới lao động và mật độ thích hợp với từng đối tác, tránh thực hiện đối đầu, tránh để
bị đẩy vào thế cô lập.
- Mở rộng quan hệ với quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, không phân biệt chế độ chính tri- xã hội.
Coi trọng quan hệ hòa bình hợp tác với khu vực, chủ động tham gia tổ chức đa phương khu vực và toàn
cầu.
- Kết hợp đối ngoại của Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân. Xác định hội nhập kinh tế
quốc tế là công việc của toàn dân.
- Giữ vững ổn định chính trị, kinh tế- xã hội, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh
thái trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Phát huy tối đa nội lực đi đôi với thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài, xây dựng
nền kinh tế độc lập tự chủ, tạo ra và sử dụng có hiệu quả các lợi thế so sánh của đất nước trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Trên cơ sở thực hiện các cam kết gia nhập WTO, đẩy nhanh nhịp độ cải cách thể chế, cơ chế, chính
sách kinh tế phù hợp với chủ trương, định hướng của Đảng và nhà nước.
- Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy vai trò của nhà nước, mặt trận tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường sức
mạnh khối đại đoàn kết toàn dân trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Một số chủ trương, chính sách lớn.


- Tại hội nghị TW 4 khóa X (2/2007) đã nêu rõ:
+ Đưa các qua hệ quốc tế đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững.
+ Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp.
+ Bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật và thể chế kinh tế phù hợp với các nguyên tắc, quy định
của WTO
+ Đẩy mạnh cải cách hoàn chỉnh nâng cao hiệu quả, hiệu lực của bộ máy nhà nước
+ Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm trong hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Giải quyết tốt các vấn đề văn hóa, xã hội và môi trường trong quá trình hội nhập.

70
+ Xây dựng và vận hành có hiểu quả mạng lưới an sinh xã hội như giáo dục, bảo hiểm, y tế, đẩy mạnh
công tác xóa đói giảm nghèo.
+ Giữ vững và tăng cường quốc phòng an ninh trong quá trình hội nhập
+ Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân, chính
trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại.
+ Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của nhà nước đối với các hoạt động ngoại
giao.

Phân tích những hạn chế trong việc giải quyết các vấn đề xã hội trong thời kì đổi mới.
Trả lời:
*) Những hạn chế trong việc giải quyết các vấn đề xã hội trong thời kì đổi mới là:
- Áp lực gia tăng dân số còn lớn. Chất lượng dân số thấp cản trở mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội và
hội nhập kinh tế quốc tế. Vấn đề việc là rất bức xúc và nan giải.
- Sự phân hóa giàu- nghèo và bất công xã hội tiếp tục gia tăng, rất đáng lo ngại.
- Tệ nạn xã hội gia tăng và diễn biến phức tạp, gây thiệt hại lớn về kinh tế và an sinh xã hội.
- Môi trường sinh thái bị ô nhiễm trầm trọng và còn tiếp tục tăng thêm, tài nguyên thiên nhiên bị khai
thác bừa bãi và bị tàn phá.
- Hệ thống giáo dục, y tế lạc hậu, xuống cấp, có nhiều bất cập, an sinh xã hội chưa được đảm bảo.
- Công tác xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm nâng cao đời sống nhân dân, phòng chống tệ nạn xã
hội còn nhiều khó khăn thách thức.

Phân tích những đổi mới của Đảng trong nhận thức về chính sách ngoại giao trong thời kì
đổi mới.
Trả lời:
a, Các giai đoạn phát triển nhận thức của Đảng.
*) Giai đoạn 1986- 1988: giai đoạn khởi đầu cho tư duy đổi mới
*) Giai đoạn 1989- 1995: giai đoạn hình thành đường lối mở rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa các
quan hệ đối ngoại.
- Tại ĐHĐBTQ lần thứ 7 (1991) khẳng định Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng
đồng thế giới, phấn đấu về hòa bình độc lập, phát triển hợp tác, bình đẳng và cùng có lợi tất cả các
nước, không phân biệt chế độ chính trị xã hội trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình.
*) Giai đoạn 1996 đến nay: Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ hợp tác và phát
triển. Chủ động tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác, thực
hiện phương châm Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia
tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực.
b, Nội dung của đường lối đối ngoại;
*) Mục tiêu, nhiệm vụ của đường lối đối ngoại:
- Lấy việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc
đổi mới, để phát triển kinh tế xã hội là lợi ich cao nhất của tổ quốc.
- Mở rộng đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế để tạo thêm nguồn lực đáp ứng yêu cầu phát triển của
đất nước, kết hợp nội lực với các nguồn lực từ bên ngoài tạo thành ngoại lực tổng hợp đẩy mạnh CNH-
HĐH, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.
- Phát huy vai trò và nâng cao vị thế của Việt Nam trong quan hệ quốc tế, góp phần tích cực vào cuộc
đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
*) Tư tưởng chỉ đạo đưởng lối

71
- Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính là xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc tổ quốc xã hội chủ
nghĩa, đồng thời thực hiện nghĩa vụ quốc tế theo khả năng của Việt Nam.
- Giữ vững độc lập tự chủ, tự cường, đi đôi với đẩy mạnh đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối
ngoại.
- Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế, cố gắng thúc đẩy mặt hợp tác nhưng
vẫn phải đấu tranh dưới lao động và mật độ thích hợp với từng đối tác, tránh thực hiện đối đầu, tránh để
bị đẩy vào thế cô lập.
- Mở rộng quan hệ với quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, không phân biệt chế độ chính tri- xã hội.
Coi trọng quan hệ hòa bình hợp tác với khu vực, chủ động tham gia tổ chức đa phương khu vực và toàn
cầu.
- Kết hợp đối ngoại của Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân. Xác định hội nhập kinh tế
quốc tế là công việc của toàn dân.
- Giữ vững ổn định chính trị, kinh tế- xã hội, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh
thái trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Phát huy tối đa nội lực đi đôi với thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài, xây dựng
nền kinh tế độc lập tự chủ, tạo ra và sử dụng có hiệu quả các lợi thế so sánh của đất nước trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Trên cơ sở thực hiện các cam kết gia nhập WTO, đẩy nhanh nhịp độ cải cách thể chế, cơ chế, chính
sách kinh tế phù hợp với chủ trương, định hướng của Đảng và nhà nước.
- Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy vai trò của nhà nước, mặt trận tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường sức
mạnh khối đại đoàn kết toàn dân trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
c, Một số chủ trương, chính sách lớn.
- Tại hội nghị TW 4 khóa X (2/2007) đã nêu rõ:
+ Đưa các qua hệ quốc tế đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững.
+ Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp.
+ Bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật và thể chế kinh tế phù hợp với các nguyên tắc, quy định
của WTO
+ Đẩy mạnh cải cách hoàn chỉnh nâng cao hiệu quả, hiệu lực của bộ máy nhà nước
+ Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm trong hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Giải quyết tốt các vấn đề văn hóa, xã hội và môi trường trong quá trình hội nhập.
+ Xây dựng và vận hành có hiểu quả mạng lưới an sinh xã hội như giáo dục, bảo hiểm, y tế, đẩy mạnh
công tác xóa đói giảm nghèo.
+ Giữ vững và tăng cường quốc phòng an ninh trong quá trình hội nhập
+ Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân, chính
trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại.
+ Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của nhà nước đối với các hoạt động ngoại
giao.

Thành tựu
+ Phá thế bị bao vậy, cấm vận của các thế lực thù địch, tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi cho sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc
+ Giải quyết hòa bình các vấn đề biên giới, lãnh thổ, biên đảo với các nước liên quan
+ Mở rộng quạn hệ đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa (thiết lập, mở rộng quan hệ với
các nước, tham gia tíc cực tại Liên hợp quốc…)
72
+ Tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế ( tham gia AFTA, APEC, WTO)
+ Thu hút đầu tư nước ngoài, mở rộng thị trường, tiếp thu khoa học công nghệ và kỷ năng quản lý
+ Từng bước đưa hoạt động của các doanh nghiệp và cả nền kinh tế vào môi trường cạnh tranh.
- Ý nghĩa
+ Kết hợp nội lực với ngoại lực, hình thành sức mạnh tổng hợp góp phần đưa đến những thành tựu kinh
tế to lớn
+ Giữa vững, củng cố độc lập tự chủ, định hướng xã hội chủ nghĩa
+ Nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế

Hạn chế
- Trong quan hệ với các nước, nhất là các nước lớn chúng ta còn lúng túng, bị động…
- Một số chủ trương, cơ chế, chính sách chậm được đổi mới so với yêu cầu mở rộng quan hệ đối ngoại,
hội nhập kinh tế quốc tế; luật pháp, chính sách quản lý kinh tế - thương mại chưa hoàn chỉnh
- Chưa hình thành được một số kế hoạch tổng thể và dài hạn về hồi nhập kinh tế quốc tế và một lộ trình
hợp lý cho việc thực hiện các cam kết
- Doanh nghiệp nước ta còn yếu cả về sản xuất, quản lý và khả năng cạnh tranh
- Đội ngủ cán bộ công tác đối ngoại còn thiếu và yếu; công tác tổ chức chỉ đạo chưa sát và chưa kịp
thời.

Chứng minh độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy nhất đúng.
Đặc điểm miền Bắc khi bước vào thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.

Độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội là lý tưởng, là mục tiêu phấn đấu, là sự lựa chọn duy nhất
đúng của cách mạng Việt Nam. Điều khẳng định trên đã được thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam
chứng minh. Bằng sự kết hợp chặt chẽ hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng cộng sản
Việt Nam đã huy động sức mạnh của cả dân tộc tiến hành thắng lợi cách mạng tháng Tám, giành độc
lập dân tộc, hoàn thành hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đưa cả nước đi lên CNXH.

Trước hết, chúng ta phải thấy rằng độc lập dân tộc là tiền để là điều kiện cho sự nghiệp xây dựng
CNXH. Không có độc lập dân tộc, không có chính quyền của nhân dân, không thể xây dựng được
CNXH: vì mục tiêu của CNXH là xây dựng một xã hội công bằng, văn minh, đưa lại hạnh phúc cho
người lao động. Một chế độ xã hội như vậy không thể thực hiện được trong chế độ thực dân phong
kiến. Chúng ta chỉ giành lại được độc lập, chỉ có độc lập thực sự, khi đi theo con đường XHCN. Bằng
chứng là: hàng loạt các cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam trước khi có Đảng cộng sản lãnh đạo, dù
rất anh dũng kiên cường nhưng cuối cùng đều bị thất bại. Ngày nay, khi đã có độc lập dân tộc, chỉ đi
lên CNXH chúng ta mới có độc lập một cách thực sự và đưa lại hạnh phúc cho những người lao động,
vì “... CNXH trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bắn cùng, làm cho mọi người có
công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc” (12,17). Khi người dân đã được hưởng
những giá trị, thành quả của chủ nghĩa xã hội đem lại. họ sẽ mang hết sức mình ra để bảo vệ độc lập
dân tộc.

Như chúng ta đã biết, đấu tranh giành độc lập dân tộc là bước mở đầu để Việt Nam có điều kiện đi lên
CNXH, CNXH là lí tưởng. là mục tiêu phấn đấu của chúng ta, bởi lẽ “chúng ta đấu tranh được tự do,
độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét thì tự do độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết giá trị của tự
do, của độc lập khi mà dân được ăn no mặc đủ". (9,152)
73
Muốn thực hiện được mơ ước trên không có con đường nào khác là con đường cách mạng XHCN. Bởi
lẽ, những cuộc cách mạng trước đây, giai cấp lãnh đạo chỉ cần tới những người lao động trong quá
trình đấu tranh giành chính quyền, khi đã có chính quyền họ quay trở lại áp bức bóc lột những người
lao động. Chỉ có cuộc cách mạng XHCN dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân mới xoá bỏ mọi
nguồn gốc gây ra áp bức bóc lột, đi đến một xã hội mà "... tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát
triển *** tự do của mọi người"(7,569).

Như vậy, độc lập dân tộc gắn với CNXH ở Việt Nam đã được minh chứng trong lịch sử và sự gắn kết
đó hiện nay vẫn là một là tự nhiên. Chúng ta cần nhận thức một cách đúng đắn vấn đề này để cùng
nhau chung sức, chung lòng tập trung mọi tài năng trí tuệ phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Đặc điểm miền Bắc khi bước vào thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.

Từ ngày 20 đến ngày 27-5-1959, đã diễn ra kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa I. Quốc hội đã nghe trình bày
và thảo luận báo cáo của ông Trường-Chinh “Kiên quyết đưa nông thôn miền Bắc nước ta qua con
đường hợp tác hóa nông nghiệp tiến lên chủ nghĩa xã hội”.

Quốc hội nhận định đó là khâu chính trong toàn bộ công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và
nhất trí tán thành những quy định về mục đích, yêu cầu, đường lối giai cấp, phương châm, nguyên tắc,
những chính sách cụ thể nêu lên trong báo cáo.

Hiến pháp mới chính thức xác định miền Bắc đã bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Hiến
pháp mới là cương lĩnh chỉ đạo cuộc đấu tranh cách mạng và xây dựng đời sống mới của nhân dân Việt
Nam. Hiến pháp đã dành cả chương VI với tiêu đề “Hội đồng Chính phủ” để quy định về tổ chức và
hoạt động của Chính phủ.

Từ 5 đến 10-9-1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam đã họp ở Thủ
đô Hà Nội. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đã chỉ rõ: Từ ngày hoà
bình lập lại, cách mạng Việt Nam đã chuyển sang giai đoạn mới: miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân; nhiệm vụ chung của cách
mạng Việt Nam trong giai đoạn này là:“Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững
hòa bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc; đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng
một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng
cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hòa bình ở Đông-Nam á và thế giới”.

Đến cuối năm 1960, ở miền Bắc, 84,8% số hộ nông dân lao động đã gia nhập hợp tác xã, chiếm 76%
tổng diện tích canh tác; trong 41 nghìn hợp tác xã có 4.346 hợp tác xã bậc cao, chiếm 12% tổng số hợp
tác xã. Nghề cá có 520 hợp tác xã, chiếm 77,2% tổng số hộ nông dân. Nghề muối có 269 hợp tác xã,
chiếm 85% tổng số hộ làm muối.

Ở thành thị, 100% số cơ sở công nghiệp tư bản tư doanh thuộc diện cải tạo đã được tổ chức thành xí
nghiệp công tư hợp doanh, xí nghiệp hợp tác. 1.553 chủ tư sản được cải tạo thành người lao động. 90%
tổng số thợ thủ công trong diện cải tạo đã tham gia các hợp tác xã thủ công nghiệp bậc vừa và bậc thấp;
hơn 7 vạn thợ thủ công chuyển sang sản xuất nông nghiệp. 60% tổng số người buôn bán nhỏ, làm dịch
74
vụ, kinh doanh ngành ăn uống thuộc diện cải tạo đã tham gia hợp tác xã, tổ mua bán, làm đại lý cho
thương nghiệp quốc doanh và trên 1 vạn người đã chuyển sang sản xuất.

Đi đôi với cải tạo quan hệ sản xuất, kế hoạch Nhà nước trên nhiều lĩnh vực đã hoàn thành, thành phần
kinh tế quốc doanh ngày càng phát triển, có tác dụng lãnh đạo rõ rệt trong nền kinh tế quốc dân. Từ 16
nông trường quốc doanh năm 1957 đã lên 59 nông trường quốc doanh năm 1960. Công nghiệp quốc
doanh năm 1960 chiếm 89,9% giá trị sản lượng công nghiệp. Vận tải quốc doanh chiếm 79,7% tổng
khối lượng vận tải hàng hoá tính theo tấn/km. Thương nghiệp quốc doanh chiếm 49,5%, nếu kể cả
thương nghiệp hợp tác xã và tư bản nhà nước chiếm 91%.

Về nông nghiệp, trong ba năm, mặc dù năm 1960 có thiên tai lớn, sản xuất vẫn tăng trung bình mỗi
năm 5,6%. Cơ cấu nông nghiệp có biến đổi. Cây công nghiệp và chăn nuôi phát triển nhanh hơn, phục
vụ yêu cầu sản xuất công nghiệp, xuất khẩu và nâng cao đời sống nhân dân. Phong trào cải tiến kỹ
thuật, cải tiến công cụ lao động trong nông nghiệp có nhiều tiến bộ. Nhiều công trình thuỷ lợi nhỏ và
vừa được xây dựng bảo đảm nước tưới, nước tiêu cho đồng ruộng hợp tác xã và của nông dân. Một số
công trình lớn được khởi công, tiêu biểu là công trình thuỷ lợi Bắc-Hưng-Hải.

Sản xuất công nghiệp bình quân hàng năm tăng 21,7%, riêng công nghiệp quốc doanh tăng 49,6%.
Năm 1960 so với năm 1959, công nghiệp quốc doanh vượt 12,6% và tăng 32,3%. Đặc biệt công nghiệp
địa phương có đà phát triển mạnh, năm 1960 tăng gấp 10 lần năm 1957. Cơ cấu công nghiệp cũng
chuyển biến. Công nghiệp nặng bước đầu được xây dựng. Tỷ trọng nhóm A trong giá trị tổng sản
lượng công nghiệp và thủ công nghiệp tăng từ 23,5% năm 1957 lên 32% năm 1960. Công nghiệp nhẹ
và công nghiệp thực phẩm năm 1960 so với năm 1957 tăng 60,4%. Hầu hết hàng tiêu dùng trong nước
trước đây phải nhập nay đã tiến tới tự cung cấp được một phần quan trọng.

Xây dựng cơ bản được đẩy mạnh. Một số công trình quan trọng đã được hoàn thành như Nhà máy điện
Vinh, Nhà máy điện Lào Cai, mỏ Apatít Lào Cai mở rộng, các nhà máy cao su, xà phòng, thuốc lá ở Hà
Nội, nhà máy sứ Hải Dương...

Trên cơ sở sản xuất phát triển, mức sống vật chất và văn hoá của nhân dân lao động được nâng cao một
bước. Thu nhập quốc dân tính theo đầu người từ năm 1955 đến năm 1960 tăng gấp đôi, sức mua của xã
hội tăng 70%.

Ngày 16-1-1961, Hội đồng Chính phủ ra Nghị định thành lập Ủy ban trị thủy sông Hồng (gọi tắt là Ủy
ban sông Hồng).

Tháng 7-1961, Hội nghị toàn thể lần thứ 5 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam
(khóa III) đã ra Nghị quyết về vấn đề phát triển nông nghiệp trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-
1965).

Từ ngày 24-10 đến ngày 27-10-1961, kỳ họp thứ 3 Quốc hội khoá II, đã thông qua Nghị quyết sáp nhập
huyện Đông Triều (Hải Dương) vào Khu Hồng Quảng; Nghị quyết về tình hình thế giới và công tác đối
ngoại của Chính phủ; Tuyên bố của Quốc hội về tình hình miền Nam và tình hình đấu tranh thống nhất
nước nhà; Lời kêu gọi của Quốc hội Việt Nam gửi Quốc hội các nước trên thế giới ủng hộ cuộc đấu
tranh của nhân dân Việt Nam chống đế quốc Mỹ và tay sai Ngô Đình Diệm.

75
Ngày 27-11-1961, Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký Nghị định phê chuẩn các phương án chữ Tày-Nùng,
chữ Thái và chữ Mèo. Từ đây, đồng bào các dân tộc Tày-Nùng, Thái, Mèo có chữ viết riêng của dân
tộc mình.

Từ ngày 18 đến ngày 26-4-1962, Kỳ họp thứ 4 Quốc hội khoá II thông qua kế hoạch Nhà nước năm
1962; dự toán ngân sách Nhà nước năm 1962 và ra Bản Tuyên bố lên án đế quốc Mỹ vũ trang xâm
lược miền Nam Việt Nam.

Từ ngày 4 đến ngày 6-5-1962, Đại hội liên hoan Anh hùng, chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ 3 họp tại
Hà Nội. Dự đại hội có 1.060 đại biểu được tuyển lựa từ cơ sở thuộc đủ các ngành, các giới (công
nghiệp, nông nghiệp, lực lượng vũ trang, lao động trí óc, sự nghiệp hành chính, văn nghệ sĩ, sinh viên,
học sinh, thiếu nhi). Đại hội đã tuyên dương 4 đơn vị lá cờ đầu là: Nhà máy cơ khí Duyên Hải (Hải
Phòng), Hợp tác xã nông nghiệp Đại Phong (Quảng Bình), Hợp tác xã thủ công nghiệp Thành Công
(Thanh Hoá), Trường phổ thông cấp II Bắc Lý (Hà Nam), Phong trào Ba Nhất của Quân đội và 45 Anh
hùng Lao động.

Ngày 4-6-1962, Hội đồng Chính phủ quyết định thành lập thành phố Việt Trì. Thành phố Việt Trì nằm
trên ngã ba sông Lô và sông Hồng, là một thành phố hoàn toàn mới do cán bộ, công nhân Việt Nam
xây dựng và cũng là thành phố đầu tiên được thành lập từ khi hoà bình lập lại.

Từ ngày 23 đến ngày 27-10-1962, Kỳ họp thứ 5 Quốc hội khoá II, đã thông qua: Luật Tổ chức Hội
đồng Nhân dân và Ủy ban hành chính các cấp; Nghị quyết về việc đổi tên Khu tự trị Thái - Mèo thành
Khu tự trị Tây Bắc; Nghị quyết hợp nhất thành phố Hải Phòng và tỉnh Kiến An thành thành phố Hải
Phòng; Hợp nhất tỉnh Bắc Ninh và tỉnh Bắc Giang thành tỉnh Hà Bắc.

Ngày 30-10-1962, Hội đồng Chính phủ ra Nghị định thành lập Ngân hàng Ngoại thương nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa.

Ngày 2-1-1963, Ban Bí thư Trung ương Đảng và Thường vụ Hội đồng Chính phủ quyết định mở cuộc
vận động đồng bào miền xuôi đi tham gia phát triển kinh tế, văn hoá miền núi.

Ngày 19-2-1963, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Nghị quyết về cuộc vận động “Cải tiến quản lý hợp
tác xã, cải tiến kỹ thuật nhằm phát triển vững chắc sản xuất nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ và vững
chắc”. Sau đó, ngày 1-6-1963, Hội đồng Chính phủ ra Nghị quyết mở rộng cuộc vận động này. Đến
cuối tháng 12-1964, có 15.287 hợp tác xã nông nghiệp thuộc 20 tỉnh, thành phố, vùng đồng bằng và
trung du đã hoàn thành lần thứ nhất cuộc vận động, chiếm 76% tổng số hợp tác xã nông nghiệp.

Tháng 4-1963, Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam lần thứ 8 bàn
về kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân 5 năm lần thứ nhất (1961-1965) mà Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ III của Đảng đã đề ra. Hội nghị đã kiến nghị những phương hướng, nhiệm vụ, những chỉ tiêu,
biện pháp chủ yếu của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965) nhằm phấn đấu xây dựng bước đầu cơ
sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện một bước công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa và
hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, tiếp tục đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững
chắc lên chủ nghĩa xã hội.

Từ ngày 29-4 đến ngày 4-5-1963, Kỳ họp thứ 6 Quốc hội khoá II, đã thông qua: Nghị quyết tán thành
đường lối, chính sách của Chính phủ về tình hình miền Bắc và những vấn đề lớn của kế hoạch 5 năm

76
lần thứ nhất (1961-1965), về phong trào yêu nước ở miền Nam, tình hình quốc tế và chính sách ngoại
giao của Việt Nam.

Ngày 20-7-1963, Bộ Chính trị ra Nghị quyết mở cuộc vận động “Nâng cao ý thức trách nhiệm, tăng
cường quản lý kinh tế tài chính, cải tiến kỹ thuật, chống tham ô, lãng phí, quan liêu” trong ngành công
nghiệp, gọi tắt là “Ba xây, ba chống”. Sau đó, ngày 20-10-1963, Hội đồng Chính phủ chính thức phát
động cuộc vận động“Ba xây, ba chống”.

Tháng 10-1963, Kỳ họp thứ 7 Quốc hội khoá II, đã nghe Báo cáo của Chính phủ về tình hình miền
Nam và tình hình đấu tranh thống nhất nước nhà. Quốc hội nhất trí thông qua: Lời kêu gọi của Quốc
hội nhiệt liệt biểu dương lòng yêu nước nồng nàn và chí khí đấu tranh bất khuất của đồng bào miền
Nam anh hùng. Quốc hội đã quyết định hợp nhất tỉnh Hải Ninh và khu Hồng Quảng thành tỉnh Quảng
Ninh.

Ngày 31-12-1963, Hội đồng Chính phủ ra Nghị quyết ban hành kế hoạch phát động phong trào làm
thuỷ lợi toàn miền Bắc hai năm 1964-1965.

Từ ngày 14 đến ngày 17-1-1964, Đại hội các hợp tác xã tiên tiến vùng đồng bằng toàn miền Bắc họp
tại Thái Bình. 10 Anh hùng Lao động, 30 chiến sĩ thi đua nông nghiệp cùng với đại biểu của 245 hợp
tác xã đã nghe các bản báo cáo của các hợp tác xã tiên tiến. Đại hội đã kết luận được 5 vấn đề quan
trọng: Phương hướng sản xuất, quản lý lao động, xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật, phân phối, công
tác chính trị và tư tưởng trong các hợp tác xã nông nghiệp. Tiếp đó, từ ngày 13 đến ngày 18-4-1964,
Đại hội các hợp tác xã và đội sản xuất nông nghiệp tiên tiến miền núi và trung du do Thủ tướng Chính
phủ triệu tập đã họp tại Thái Nguyên. Đại hội đã biểu dương những thắng lợi to lớn của phong trào hợp
tác hoá và sản xuất nông nghiệp ở miền núi và trung du, khẳng định những thành tích đã đạt được,
đồng thời giúp các hợp tác xã trao đổi kinh nghiệm học tập lẫn nhau, đưa phong trào hợp tác hoá và sản
xuất nông nghiệp tiến lên những bước mới giành thắng lợi to lớn hơn nữa, tăng cường đoàn kết dân tộc,
đưa miền núi tiến kịp miền xuôi.

Từ ngày 27 đến ngày 28-3-1964, tại Hà Nội, đã diễn ra Hội nghị chính trị đặc biệt lần thứ nhất do Chủ
tịch Hồ Chí Minh triệu tập. Dự Hội nghị có 325 đại biểu chính thức thay mặt cho các đảng phái, các
dân tộc, các tôn giáo, đồng bào miền Nam tập kết và kiều bào mới về nước, nhiều Anh hùng Lao động,
nhân sĩ dân chủ và trên 500 đại biểu dự thính thuộc các tầng lớp nhân dân.

Tại Hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trình bày bản báo cáo quan trọng. Báo cáo của Người đánh giá
những biến chuyển to lớn của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đồng thời biểu dương
những thắng lợi vẻ vang của đồng bào miền Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược. Người vạch rõ âm mưu
đẩy mạnh chiến tranh xâm lược ở miền Nam và tăng cường phá hoại, khiêu khích miền Bắc của đế
quốc Mỹ xâm lược; đồng thời nêu rõ quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân Việt Nam trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thực hiện hoà bình thống nhất
nước nhà. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi đồng bào miền Bắc ra sức thi đua mỗi người làm việc bằng
hai để đền đáp lại đồng bào miền Nam ruột thịt.

Sau Hội nghị này, Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Thủ tướng Chính phủ đã ra chỉ thị phát động
và hướng dẫn tổ chức cao trào thi đua “mỗi người làm việc bằng hai, ra sức thi đua xây dựng và bảo vệ
miền Bắc, tích cực ủng hộ cách mạng giải phóng miền Nam” theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí
Minh.
77
Nội dung đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Miền Bắc.
Về chủ trương đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội, sau khi miền Bắc được giải phóng,
Trung ương Đảng đã chủ trương chuyển miền Bắc sang giai đoạn mới với nhận thức: sự kết thúc cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng là sự mở đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa như các cương lĩnh
của Đảng đã xác định.
Tháng 9-1954, Bộ Chính trị đề ra nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của miền Bắc là hàn gắn vết
thương chiến tranh, phục hồi kinh tế quốc dân, trước hết là phục hồi và phát triển sản xuất nông nghiệp,
ổn định xã hội, ổn định đời sống nhân dân, tăng cường và mở rộng hoạt động quan hệ quốc tế... để sớm
đưa miền Bắc trở lại bình thường sau 9 năm chiến tranh.
Hội nghị lần thứ bảy (3-1955) và lần thứ tám (8-1955) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa II) đã nhận định: Mỹ và tay sai đã hất cẳng Pháp ở miền Nam, công khai lập nhà nước riêng
chống phá Hiệp định Giơnevơ, đàn áp phong trào cách mạng. Muốn chống đế quốc Mỹ và tay sai, củng
cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ, điều cốt lõi là phải ra sức củng cố
miền Bắc, đồng thời giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam.
Thực hiện Hiệp định Giơnevơ, ngay sau khi hòa bình được lập lại, Đảng đã lãnh đạo nhân dân
miền Bắc đấu tranh đòi đối phương phải rút quân khỏi miền Bắc theo đúng lịch trình quy định. Cuộc
đấu tranh này đã diễn ra hết sức khó khăn, phức tạp bởi Pháp và tay sai đã dùng mọi âm mưu, thủ đoạn
để chống phá, làm rối loạn xã hội và mất trật tự an ninh trước khi chúng rút quân, như kích động, thúc
ép đồng bào theo đạo Thiên chúa di cư vào Nam, phá hoại, di chuyển máy móc nguyên vật liệu trái
phép...
Để chống lại âm mưu, thủ đoạn của địch và ổn định tình hình, Đảng và Nhà nước đã ban hành kịp
thời nhiều chính sách chỉ đạo các địa phương thực hiện, như: chính sách đối với tôn giáo; chính sách
đối với công chức, trí thức trước đây làm việc cho địch; chính sách đối với ngụy quân. Ngoài ra, Đảng
và Nhà nước còn huy động hàng vạn cán bộ, bộ đội đến giúp đỡ các địa phương, tuyên truyền, vận
động quần chúng đấu tranh chống địch cưỡng ép di cư nhằm ổn định tình hình.
Trước tinh thần đấu tranh của nhân dân ta, địch đã phải rút quân theo đúng Hiệp định. Ngày 10-
10-1954, tên lính Pháp cuối cùng rút khỏi Hà Nội, ngày 16-5-1955, toàn bộ quân đội viễn chinh Pháp
và tay sai đã phải rút khỏi miền Bắc.
Nhận rõ kinh tế miền Bắc cơ bản là nông nghiệp, Đảng đã chỉ đạo lấy khôi phục và phát triển sản
xuất nông nghiệp làm trọng tâm. Việc khôi phục sản xuất nông nghiệp được kết hợp với cải cách ruộng
đất và vận động đổi công, giúp nhau sản xuất, đồng thời, chăm lo xây dựng cơ sở vật chất cho nông
nghiệp. Đến năm 1957, cơ bản nông nghiệp miền Bắc đã đạt được năng suất và sản lượng của năm
1939, năm cao nhất dưới thời Pháp thuộc. Nhờ đó nạn đói bị đẩy lùi, tạo điều kiện giải quyết những
vấn đề cơ bản trong nền kinh tế quốc dân, góp phần ổn định chính trị, trật tự an ninh xã hội.
Cùng với khôi phục sản xuất nông nghiệp, việc khôi phục công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và
giao thông vận tải cũng hoàn thành. Hầu hết các xí nghiệp quan trọng đã được phục hồi sản xuất và
tăng thêm thiết bị, một số nhà máy mới được xây dựng. Các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế được phát
triển nhanh.
Công cuộc giảm tô, giảm tức và cải cách ruộng đất được tiếp tục đẩy mạnh. Để đảm bảo thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ cải cách ruộng đất, Đảng chủ trương dựa hẳn vào bần cố nông, đoàn kết với trung
nông, đánh đổ giai cấp địa chủ, tịch thu ruộng đất của họ để chia đều cho dân cày nghèo. Đến tháng 7-
1956, cải cách ruộng đất đã căn bản hoàn thành ở đồng bằng, trung du và miền núi. Chế độ chiếm hữu
78
ruộng đất phong kiến ở miền Bắc đến đây bị xóa bỏ hoàn toàn. Hơn 9 triệu người trong hơn 2 triệu hộ
nông dân lao động được chia hơn 810.000 ha ruộng đất.
Trong quá trình cải cách ruộng đất, bên cạnh những kết quả đạt được, ta đã phạm phải một số sai
lầm nghiêm trọng, phổ biến và kéo dài trong chỉ đạo thực hiện. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sai lầm
là chủ quan, giáo điều, không xuất phát từ tình hình thực tiễn, nhất là những thay đổi quan trọng về
quan hệ giai cấp, xã hội ở nông thôn miền Bắc sau ngày được hoàn toàn giải phóng. Do đó, trong chỉ
đạo, thực hiện cải cách ruộng đất, đã cường điệu hóa đấu tranh giai cấp ở nông thôn, dẫn đến mở rộng
quá mức dân tộc đấu tranh; sử dụng hình thức, phương pháp không phù hợp với đối tượng là địa chủ ở
nông thôn Việt Nam; trong chỉnh đốn tổ chức, đã nhận định sai về tình hình tổ chức cơ sở Đảng ở nông
thôn, cho rằng về cơ bản đã bị địch lũng đoạn, từ đó dẫn đến xử lý oan nhiều cán bộ, đảng viên tốt. Sai
lầm này đã gây ra một số tổn thất đối với Đảng và quan hệ giữa Đảng với nhân dân.
Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II), tháng 9-1956, đã nghiêm khắc
kiểm điểm những sai lầm, trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, công khai tự phê bình trước
nhân dân, thi hành kỷ luật đối với một số Ủy viên Bộ Chính trị và Ủy viên Trung ương Đảng. Công tác
sửa sai trong năm 1956-1957 đã được Đảng chỉ đạo, tiến hành một cách thành khẩn, kiên quyết, khẩn
trương, thận trọng và có kế hoạch chặt chẽ, nên từng bước đã khắc phục được những sai lầm đã xảy ra.
Tháng 12-1957, Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đánh giá thắng lợi về
khôi phục kinh tế và đề ra nhiệm vụ soạn thảo đường lối cách mạng trong giai đoạn mới. Đến tháng 11-
1958, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 14 đề ra kế hoạch ba năm phát triển kinh
tế, văn hóa và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với kinh tế cá thể và kinh tế tư bản tư doanh (1958-1960).
Cũng như tư duy, nhận thức chung của các nước xã hội chủ nghĩa anh em lúc đó, coi nền kinh tế của
chủ nghĩa xã hội là có 2 thành phần, (quốc doanh và tập thể), Hội nghị đã xác định phải cải tạo kinh tế
cá thể của nông dân, thợ thủ công và buôn bán nhỏ, tư bản tư doanh, khuyến khích chuyển sở hữu cá
thể về tư liệu sản xuất thành sở hữu tập thể xã hội chủ nghĩa dưới hai hình thức toàn dân và tập thể.
Mục tiêu trước mắt là xây dựng, củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thống
nhất nước nhà.
Tháng 4-1959, Hội nghị lần thứ 16 Ban Chấp hành Trung ương Đảng thông qua Nghị quyết về
vấn đề hợp tác hóa nông nghiệp, xác định hình thức và bước đi của hợp tác xã là: hợp tác hóa đi trước
cơ giới hóa, do vậy hợp tác hóa phải đi đôi với thủy lợi hóa và tổ chức lại lao động, để phát huy tính ưu
việt và sức mạnh của tập thể. Hội nghị chỉ rõ ba nguyên tắc cần được quán triệt trong suốt quá trình xây
dựng hợp tác xã là: tự nguyện, cùng có lợi và quản lý dân chủ. Về vấn đề cải tạo công thương nghiệp tư
bản tư doanh, Hội nghị chủ trương cải tạo hòa bình đối với giai cấp tư sản. Về chính trị, vẫn coi giai
cấp tư sản là thành viên của Mặt trận Tổ quốc, về kinh tế không tịch thu tư liệu sản xuất của họ, mà
dùng chính sách chuộc lại, thông qua hình thức công tư hợp doanh, sắp xếp công việc cho người tư sản
trong xí nghiệp, dần dần cải tạo họ thành người lao động.
Kết quả của ba năm phát triển kinh tế-văn hóa và cải tạo xã hội chủ nghĩa (1958-1960) đã tạo nên
những chuyển biến cách mạng trong nền kinh tế và xã hội ở miền Bắc nước ta. Miền Bắc được củng
cố, từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội và trở thành hậu phương ổn định, vững mạnh đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp cách mạng Việt Nam.

Phân tích nhiệm vụ, vị trí và mối quan hệ của chiến lược cách mạng XHCN ở miền Bắc và
chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam trong đường lối kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước được xác định tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng.
Trả lời:
79
Từ ngày 05 đến 10/09/1960; ĐHĐBTQ lần thứ 3 của Đảng được triệu tập tại Hà Nội. Đại hội đã thống
nhất đường lối cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới
- Xác định nhiệm vụ chiến lược cách mạng cụ thể của từng miền:
+ Miền Bắc tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, miền Bắc trở thành căn cứ địa cách mạng cho cả
nước, hậu thuẫn và chi viện cho miền Nam.
+ Miền Nam tiếp tục thực hiện cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân giải phóng miền Nam thực
hiện hòa bình thống nhất nước nhà.
- Xác định mối quan hệ và vị trí cách mạng từng miền, mỗi miền có một nhiệm vụ chiến lược cụ thể
khác nhau song đều hướng tới cùng một mục tiêu chung là thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà. Vì
vậy nó được tiến hành đồng thời, song song với nhau để hỗ trợ nhau thúc đẩy nhau phát triển nhanh đi
tới thực hiện mục tiêu chung;
+ Cách mạng XHCN ở miền Bắc giữ vị trí quyết định nhất đối với toàn bộ cách mạng miền Nam.
+ Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam đóng vai trò quyết định trực tiếp đối với việc giải
phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất nước nhà.
Như vậy trong giai đoạn 1954- 1975 ở nước ta một Đảng cách mạng tiến hành đồng thời 2 nhiệm vụ
cách mạng trên 2 miền Đất nước.

Trình bày nội dung và ý nghĩa đường lối chiến lược chung được Đảng ta thông qua tại Đại
hội lần thứ III (tháng 9-1960)?
Tóm tắt:
* Đường lối kháng chiến chống Mỹ của Đảng ta được thông qua tạiĐại hội Đảng III (tháng 9/1960):
+ Nhiệm vụ chung: "Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hoà bình, đẩy mạnh
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơsở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam
hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ
nghĩa và bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới"
.+ Nhiệm vụ chiến lược: Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện tại có hai nhiệm vụ chiến
lược:•Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.•Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách
thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ
trong cả nước.
+ Mục tiêu chiến lược: "Nhiệm vụ cách mạng ở miền Bắc và nhiệm vụ cách mạng ở miền Nam thuộc
hai chiến lược khác nhau,mỗi nhiệm vụ nhằm giải quyết yêu cầu cụ thể của mỗi miền tronghoàn cảnh
nước nhà tạm bị chia cắt. Hai nhiệm vụ đó lại nhằm giải quyết mâu thuẫn chung của cả nước giữa nhân
dân ta với đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng, thực hiện mục tiêu chung trước mắt là hoà bình thống
nhất Tổ quốc".
+ Mối quan hệ của cách mạng hai miền: Do cùng thực hiện một mục tiêu chung nên "Hai nhiệm vụ
chiến lược ấy có quan hệ mật thiết với nhau và có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau".
+ Vị trí, tác dụng:
•Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có nhiệm vụ xây dựng tiềm lực và bảo vệ căn cứ địa của cả
nước, hậu thuẫn cho cách mạng miền Nam, chuẩn bị cho cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội về sau, nên
giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam và đối với sự nghiệp
thống nhất cả nước.
•Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp
giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hoà bình thống nhất
nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.
80
+ Con đường thống nhất đất nước: Trong khi tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng, Đảng kiên
trì con đường hoà bình thốngnhất theo tinh thần Hiệp nghị Giơnevơ, sẵn sàng thực hiện hiệp thương
tổng tuyển cử hoà bình thống nhất Việt Nam, vì đó là con đường tránh được sự hao tổn xương máu cho
dân tộc ta và phù hợp với xu hướng chung của thế giới. "Nhưng chúng ta phải luôn luôn nâng cao cảnh
giác, sẵn sàng đối phó với mọi tình thế. Nếu đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng liều lĩnh gây ra chiến
tranh hòng xâm lược miền Bắc, thì nhân dân cả nước ta sẽ kiên quyết đứng dậy đánh bại chúng, hoàn
thành độc lập và thống nhất Tổ quốc".
+ Triển vọng của cách mạng Việt Nam: Cuộc đấu tranh nhằm thựchiện thống nhất nước nhà là một quá
trình đấu tranh cách mạng gay go, gian khổ, phức tạp và lâu dài chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của
chúng ở miền Nam. Thắng lợi cuối cùng nhất định thuộc về nhân dân ta, Nam Bắc nhất định sum họp
một nhà, cả nước sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội

diễn giải:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng họp trong hoàn cảnh lịch sử đất nước và thế giới có
những đặc điếm nổi bật sau đây: Đến cuối năm 1960, sự nghiệp cách mạng ở hai miền nước ta có
những bước tiến quan trọng. Ở miền Bắc, công cuộc khôi phục kinh tế và cải tạo xã hội chủ nghĩa với
các thành phần kinh tế đã đạt được những thành tựu quan trọng. Ở miền Nam, cuộc đấu tranh chống
Mỹ - Diệm đã giành được thắng lợi có ý nghĩa chiến lược trong phong trào "Đồng khởi" (1959 - 1960),
làm lung lay chế độ ngụy quyền Sài Gòn. Phong trào cũng đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của cách
mạng miền Nam, chuyển cách mạng từ thế giữ gìn lực lượng chuyển sang thế tiến công. Trong thời
điểm này, tình hình thế giới cũng có nhiều thay đổi, vừa là thuận lợi, vừa là thách thức cho cách mạng
Việt Nam. Sự phát triển của hệ thống xã hội chủ nghĩa, nhất là của Liên Xô và Trung Quốc đã có nhiều
ảnh hường tích cực đến cách mạng Việt Nam. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước châu
Á, châu Phi và Mỹ Latinh phát triển mạnh mẽ. Đó là thuận lợi cơ bản cho cách mạng Việt Nam ở cả
hai miền. Tuy nhiên, sự mâu thuẫn trong phong trào cộng sản mà tâm điểm là quan hệ Liên Xô - Trung
Quốc đã ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế và cũng
ảnh hưởng đến cách mạng Việt Nam. Sự phát triển của cách mạng hai miền Bắc - Nam đòi hỏi Đảng
phải nhanh chóng hoạch định đường lối cách mạng cho cả nước, thống nhất ý chí và hành động, định
hướng tư tưởng và hoạt động thực tiễn cho cách mạng của hai miền. Mặt khác, đã gần 10 năm kể từ khi
diễn ra Đại hội đại biểu lần thứ 11 của Đảng (tháng 2-1951), cách mạng Việt Nam đã có nhiều thay
đổi, thế và lực của đất nước đã phát triển, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn đang đặt ra cho cả dân tộc
ta trên con đường cách mạng gải phóng dân tộc để đi lên chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt, cùng với sự thách
thức của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở một nước nghèo nàn, lạc hậu, Đảng và dân tộc Việt Nam
đã và đang đối mặt với nhiều vấn đề thực tiễn phức tạp đặt ra yêu cầu cấp thiết Đảng phải sớm khẳng
định những nhiệm vụ cụ thể cho sự nghiệp cách mạng ở hai miền đất nước. Lần đầu tiên sau 30 năm
hoạt động trong điều kiện bí mật và chiến tranh, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã
được tiến hành tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 5-9-1960 đến ngày 10-9-1960. Tham dự Đại hội có 525 đại
biểu chính thức và 51 đại biểu dự khuyết hay mặt cho hơn 50 vạn đảng viên trong cả nước đến tham dự
Đại hội còn có đại biểu các đoàn thể và các đảng phái dân chủ trong nước và đại biểu của 16 đoàn quốc
tế.
Nội dung chủ yếu của Đại hội:
Trong diễn văn khai mạc Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Đại hội lần này là Đại hội xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hoà bình thống nhất nước nhà".
Đại hội đã nghe Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng do đồng chí Lê Duẩn trình
bày, thảo luận và thông qua Nghị quyết về nhiệm vụ và đường lối của Đảng trong giai đoạn mới, thông
qua Nhiệm vụ và phương hướng của kế hoạch 5 năm lấn thứ nhất (1961 - 1965).
81
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Nghị quyết do Đại hội thông qua về nhiệm
vụ và đường lối của Đảng trong giai đoạn mới gồm những vấn để lớn sau:
- Về đường lối cách mạng chung trong cả nước:
Căn cứ vào tình hình và đặc điểm nước ta, Đại hội đã xác định cách mạng Việt Nam bước vào giai
đoạn mới cùng lúc thực hiện hai chiến lược cách mạng khác nhau: chiến lược cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc và chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Hai chiến lược
đó có mối quan hệ mật thiết với nhau và có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau. Mỗi chiến lược cách mạng ở
mỗi miền của đất nước có vị trí và trách nhiệm riêng trong mục tiêu chung là hòa bình thống nhất Tổ
quốc.
Miền Bắc sau khi hoàn toàn giải phóng đă trở thành căn cứ địa cách mạng chung của cả nước. Tiến lên
xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Bắc được tăng cường về mọi mặt, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc
đấu tranh cách mạng ở miền Nam. bảo dám sự phát triển của cách mạng trong cả nước. Vì vậy, "cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc rỏ ràng là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn
bộ cách mạng nước ta, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà của nhân dân ta". Trong sự nghiệp hoàn
thành cách mạng dân tộc , dân chủ nhân dân trong cả nước, thực hiện thống nhất nước nhà, cách mạng
miền Nam "có tác dụng quyết định trực tiếp đối vời sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị
của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai".
Trong khi giải quyết yêu cầu cụ thể của mỗi miền, cả hai chiến lược cách mạng ở hai miền đều nhằm
giải quyết mâu thuẫn chung của cả nước là mâu thuẫn giữa nhân dân ta với đế quốc Mỹ và bọn tay sai
của chúng, thực hiện mục tiêu chung trước mắt là hòa bình thống nhất Tổ quốc.
Từ những nhiệm vụ trên đây, Đại hội vạch ra nhiệm vụ chung của cách mạng Việt Nam trong thời ký
mới là: ''Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, đẩy mạnh cách mạng
xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân lộc dân chủ nhân dân ở miền Nam,
thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo
vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới".
- Về đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và đấu tranh thực hiện thống nhất
nước nhà:
Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và
phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, góp phần xây dựng một nước Việt Nam
hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Đại hội đề ra "Nhiệm vụ trước mắt của cách
mạng ở miền Nam là đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây
chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đình Diệm tay sai của đế quốc Mỹ, thành lập một chính
quyền liên hợp dân tộc dân chủ ở miền Nam. thực hiện độc lập dân tộc, các quyền tự do dân chu và cải
thiện đời sống nhân dân, giữ vững hòa bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân
dân chủ, tích cực góp phần bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới".
Cuộc đấu tranh cách mạng nhằm thực hiện thống nhất nước nhà là nhiệm vụ thiêng liêng của nhân dân
cả nước. Đó là quá trình đấu tranh cách mạng gay go, gian khổ, phức tạp và lâu dài chống đế quốc Mỹ
và bè lũ tay sai của chúng ở miền Nam.
- Về đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc:
Đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là vấn đề trung tâm thảo
luận tại Đại hội. Xuất phát từ các đặc điểm của miền Bắc, trong đó, đặc điểm lớn nhất là từ một nền
kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không trải qua giai đoạn phát triển tư bản
chủ nghĩa, Đại hội xác định: cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là một quá trình cải biến
cách mạng về mọi mặt, là một quá trình đấu tranh gay go giữa con đường xã hội chủ nghĩa và con
đường tư bản chủ nghĩa trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng văn hoá và kỹ thuật.
82
Về đường lối chung của miền Bắc trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Báo cáo chính trị
khẳng định: 'Đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. xây dựng đời
sống ấm no hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh
thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa bảo vệ hòa bình ở
Đông Nam Á và thế giới".
Để thực hiện xây dựng chiến lược này, Nghị quyết Đại hội đã xác định: cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây
dựng chủ nghĩa xã hội là hai mặt của cách mạng xã hội chủ nghĩa, cải tạo xã hội chủ nghĩa là một
nhiệm vụ cơ bản, trong đó, cải cạo nông nghiệp là khâu chính của toàn bộ công cuộc cải tạo nhằm tăng
năng suất lao lộng, phát triển sản xuất, tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp công nghiệp hóa xã hội
chủ nghĩa. Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ. nhằm
xâydựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội "Thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa
ở miền Bắc nước ta là xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại, kết hợp công
nghiệp với nông nghiệp và lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một
cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, nhằm biến nước ta từ một
nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có công nghiệp hiện đại và nông nghiệp hiện đại".
Cùng với việc phát triển kinh tế, Nghị quyết Đại hội còn đề cập đến việc phát triển văn hóa, giáo dục,
khoa học- kỹ thuật: xây dựng nhà nước dân chủ nhân dân: tăng cường đoàn kết quốc tế, vấn đề Đảng
và công tác tổ chức cán bộ của Đảng.
Căn cứ vào đường lối chung trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Đại hội đã thảo
luận và thông qua nhiệm vụ và phương hướng của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965) nhằm
mục tiêu: "phấn đấu để thực hiện một bước công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng bước đầu cơ
sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; đồng thời hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa, làm cho
kinh tế miến Bắc nước ta thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa".
Để đạt được mục tiêu trên, Đại hội đề ra năm nhiệm vụ:
- Ra sức phát triển công nghiệp và nông nghiệp, thực hiện một bước việc ưu tiên phát triển công nghiệp
nặng, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp toàn diện.
- Hoàn thành công cuộc cảicách xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp
nhỏ và công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa tư doanh.
- Nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ xây dựng kinh
tế và công nhân lành nghề, xúc tiến công tác khoa học và kỹ thuật.
- Cải thiện thêm một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân lao động.
- Đi đôi với kết hợp phát triển kinh tế, cần ra sức củng cố quốc phòng, tăng cường trật tự an ninh, bảo
vệ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đại hội xác định rằng, sự lãnh đạo của Đảng bảo đảm mọi thắng lợi của cách mạng, cho nên Đảng cần
phải tăng cường sự lãnh đạo đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đốivới cuộc
đấu tranh nhằm hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thực hiện hòa bình
thống nhất Tổ quốc. Muốn thế, "phải nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng, cụ thể là
phải tăng cường tính chất giai cấp và tính chất tiên phong của Đảng, phải củng cố sự đoàn kết thống
nhất trong toàn Đảng".
Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Trung ương khóa III gồm có 47 ủy viên chính thức và 31 ủy viên dự
khuyết. Bộ Chính trị gồm 11 ủy viên chính thức và 2 ủy viên dự khuyết. Ban Bí thư gồm có 7 dồng chí.
Đồng chí Hồ Chí Minh được bầu lại làm Chủ tịch Đảng. Đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Bí thư thứ
nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đánh dấu một bước phát triển mới của cách mạng nước
ta do Đảng lãnh đạo. Đại hội đã đề ra được đường lối tiến lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và con
đường giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Nghị quyết của Đại hội là nguồn ánh sáng mới, là
83
cơ sở để toàn Đảng và toàn dân ta đoàn kết chặt chẽ thành một khối, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở miền Bắc và hoàn thành sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thực hiện hoà bình, thống nhất lại
nước nhà.
Ý nghĩa:
Ngày 10-9/1960, Đại hội đã nhất trí thông qua Nghị quyết về nhiệm vụ và đường lối của Đảng trong
giai đoạn mới; Thông qua Điều lệ (sửa đổi) của Đảng và Lời kêu gọi của Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ III của Đảng Lao động Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc diễn văn bế mạc Đại hội.
- Đường lối đó thể hiện tư tưởng chiến lược của Đảng: giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, vừa phù hợp với miền Bắc vừa phù hợp với miền Nam, vừa phù hợp với cả nước Việt
Nam và phù hợp với tình hình quốc tế, nên đã huy động và kết hợp được sức mạnh của hậu phương và
tiền tuyến, sức mạnh cả nước và sức mạnh của ba dòng thác cách mạng trên thế giới, tranh thủ được sự
đồng tình giúp đỡ của cả Liên Xô và Trung Quốc. Do đó đã tạo ra được sức mạnh tổng hợp để dân tộc
ta đủ sức đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
- Đặt trong bối cảnh Việt Nam và quốc tế lúc bấy giờ, đường lối chung của cách mạng Việt Nam đã thể
hiện tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo của Đảng ta trong việc giải quyết những vấn đề không có tiền
lệ lịch sử, vừa đúng với thực tiễn Việt Nam, vừa phù hợp với lợi ích của nhân loại và xu thế của thời
đại.
- Đường lối chiến lược chung cho cả nước và đường lối cách mạng ở mỗi miền là cơ sở để Đảng chỉ
đạo quân dân ta phấn đấu giành được những thành tựu to lớn trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc và đấu tranh thắng lợi chống các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ và tay sai ở miền Nam.

Ý nghĩa thắng lợi của kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở Miền Nam.
Ý nghĩa lịch sử đối với Việt Nam:
- Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam đã kết thúc thắng lợi 21 năm
chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược (tính từ năm 1954), 30 năm chiến tranh cách mạng (tính từ năm
1945), 117 năm chống đế quốc (tính từ năm 1858), quét sạch quân xâm lược, đưa lại độc lập, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ cho đất nước.
- Đã kết thúc thắng lợi cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên phạm vi cả nước, mở ra kỷ
nguyên mới cho dân tộc ta, kỷ nguyên cả nước hòa bình, thống nhất, cùng chung một nhiệm vụ chiến
lược, đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Đã tăng thêm sức mạnh vật chất tinh thần, thế và lực cho cách mạng và dân tộc Việt Nam, nâng cao
uy tín của Đảng và dân tộc ta trên trường quốc tế.
- Để lại niềm tự hào sâu sắc và những kinh nghiệm quý cho sự nghiệp dựng nước và giữ nước lâu dài
về sau.
Về mặt quốc tế:
- Đã đập tan cuộc phản kích lớn nhất của chủ nghĩa đế quốc vào chủ nghĩa xã hội và cách mạng thế
giới, bảo vệ được tiền đồn phía Đông Nam Á của chủ nghĩa xã hội, mở rộng địa bàn cho chủ nghĩa xã
hội.
- Đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn nhất, dài ngày nhất của chủ nghĩa đế quốc kể từ sau
Chiến tranh thế giới thứ hai, làm phá sản các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, gây tổn thất to lớn
và tác động sâu sắc đến nội tình nước Mỹ trước mắt và lâu dài.

84
- Làm suy yếu trận địa của chủ nghĩa đế quốc, phá vỡ một phòng tuyến quan trọng của chúng ở khu
vực Đông Nam Á, mở ra sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân mới, cổ vũ phong trào độc lập dân tộc, dân
chủ và hòa bình thế giới.
Nguyên nhân thắng lợi
- Là do có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, người đại biểu trung thành cho những
lợi ích sống còn của cả dân tộc Việt Nam, một Đảng có đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập,
tự chủ, đúng đắn, sáng tạo.
- Là kết quả của cuộc chiến đấu đầy gian khổ hy sinh của nhân dân và quân đội cả nước, đặc biệt là của
đặc biệt, chiến sĩ và hàng chục triệu đồng bào yêu nước ở miền Nam ngày đêm đối mặt với quân thù,
xứng đáng với danh hiệu “Thành đồng Tổ quốc”.
- Là kết quả của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, của đồng bào và chiến sĩ miền Bắc
vừa chiến đấu vừa xây dựng, hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ của hậu phương lớn, hết lòng hết sức chi
viện cho tiền tuyến lớn miền Nam đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
- Là kết quả của tình đoàn kết chiến đấu của nhân dân Việt Nam, Lào, Campuchia và kết quả của sự
ủng hộ hết lòng và sự giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Sự ủng hộ nhiệt tình của
phong trào công nhân và nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới cũng như nhân dân tiến bộ Mỹ.
Kinh nghiệm:
1. giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội nhằm huy động sức mạnh toàn dân đánh
Mỹ, cả nước đánh Mỹ.
2. tìm ra phương pháp đấu tranh đúng đắn, sáng tạo, thực hiện khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân
dân, sử dụng phương pháp cách mạng tổng hợp...
3. trên cơ sở sự chỉ đạo chiến lược đúng đắn của Trung ương Đảng phải có công tác tổ chức chiến đấu
giỏi của các cấp bộ Đảng và các cấp chi ủy quân đội, thực hiện giành thắng lợi từng bước đến thắng lợi
hoàn toàn, là “trên cơ sở phương hướng chiến lược đúng, hãy làm đi, rồi thực tiên sẽ cho phép ta hiểu
rõ sự vật hơn nữa”9.
4. hết sức coi trọng công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng cách mạng ở miền Nam và tổ chức
xây dựng lực lượng chiến đấu trong cả nước, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của quốc tế.
“Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng
sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử
thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có
tính thời đại sâu sắc” Thắng lợi đó đã kết thúc vẻ vang 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ
Tổ quốc bắt đầu từ Cách mạng tháng Tám, chấm dứt ách thống trị hơn một thế kỷ của chủ nghĩa đế
quốc, thực dân trên đất nước Việt Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước,
thực hiện thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Trình bày đường lối kháng chiến chống Mỹ của Đảng được đề ra trong Nghị quyết Trung
ương Đảng lần thứ 11 và lần thứ 12 năm 1965 và ý nghĩa của Nghị quyết?
Trước nguy cơ thất bại hoàn toàn của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, để cứu vãn cơ đồ chủ nghĩa
thực dân mới, ngăn chặn sự sụp đổ của chính quyền và quân đội Sài Gòn, chính quyền của Tổng thống
Mỹ Giôn xơn quyết định tiến hành chiến lược “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam. “Chiến tranh cục bộ”
85
(The limited war) là một hình thức chiến tranh trong chiến lược toàn cầu “Phản ứng linh hoạt” của đế
quốc Mỹ, biểu hiện là đưa quân chiến đấu Mỹ và quân các nước đồng minh của Mỹ vào trực tiếp tham
chiến, đóng vai trò chủ yếu trên chiến trường miền Nam; quân đội Sài Gòn đóng vai trò hỗ trợ quân Mỹ
và thực hiện bình định. Đồng thời, đế quốc Mỹ mở cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải
quân đánh phá miền Bắc Việt Nam nhằm làm suy yếu miền Bắc và ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc
cho cách mạng miền Nam.
Chiến tranh lan rộng ra cả nước đã đặt vận mệnh của dân tộc ta trước những thách thức nghiêm trọng.
Trước tình hình đó, Hội nghị lần thứ 11 (3-1965) và Hội nghị lần thứ 12 (12-1965) của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng đã phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên phạm vi toàn quốc và hạ
quyết tâm chiến lược: “Động viên lực lượng của cả nước, kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm
lược của đế quốc Mỹ trong bất cứ tình huống nào, để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thực hiện hòa bình thống nhất nước
nhà”47.
Nội dung đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong giai đoạn mới là sự kế thừa và phát triển
sáng tạo đường lối chiến lược chung của cách mạng Việt Nam đã được Đảng đề ra tại Đại hội lần thứ
III (1960), gồm các nội dung lớn là:
Quyết tâm chiến lược: Mặc dù đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân viễn chinh, nhưng
so sánh lực lượng giữa ta và địch vẫn không thay đổi lớn, cuộc chiến tranh trở nên gay go, ác liệt,
nhưng nhân dân ta đã có cơ sở chắc chắn để giữ vững thế chủ động trên chiến trường; cuộc “Chiến
tranh cục bộ” mà Mỹ đang tiến hành ở miền Nam vẫn là một cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới.
Cuộc chiến tranh đó được đề ra trong thế thua, thế thất bại và bị động, cho nên nó chứa đựng đầy mâu
thuẫn về chiến lược; Mỹ không thể nào cứu vãn được tình thế nguy khốn, bế tắc của chúng ở miền
Nam. Từ sự phân tích và nhận định trên, Trung ương khẳng định chúng ta có đủ điều kiện và sức mạnh
để đánh Mỹ và thắng Mỹ. Với tinh thần “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, Đảng quyết định
phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong toàn quốc, coi chống Mỹ, cứu nước là nhiệm
vụ thiêng liêng của cả dân tộc từ Nam chí Bắc.
Mục tiêu chiến lược: Kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kỳ tình
huống nào, nhằm bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân trong cả nước, tiến tới thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà.
Phương châm chiến lược: Đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính, càng đánh càng mạnh; cần phải cố
gắng đến mức độ cao, tập trung lực lượng của cả hai miền để mở những cuộc tiến công lớn, tranh thủ
thời cơ giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam.
Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Nam: Giữ vững và phát triển thế tiến công, kiên quyết tiến công và liên
tục tiến công. Tiếp tục kiên trì phương châm kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, triệt để
thực hiện ba mũi giáp công, đánh địch trên cả ba vùng chiến lược. “Trong giai đoạn hiện nay, đấu
tranh quân sự có tác dụng quyết định trực tiếp và giữ một vị trí ngày càng quan trọng”.
Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Bắc: Chuyển hướng xây dựng kinh tế, bảo đảm tiếp tục xây dựng miền
Bắc vững mạnh về kinh tế và quốc phòng trong điều kiện có chiến tranh, tiến hành cuộc chiến tranh
nhân dân chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ để bảo vệ vững chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa,
động viên sức người sức của ở mức cao nhất để chi viện cho cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam,
đồng thời tích cực chuẩn bị đề phòng để đánh bại địch trong trường hợp chúng liều lĩnh mở rộng chiến
tranh cục bộ ra cả nước.

86
Về mối quan hệ và nhiệm vụ cách mạng của hai miền: Trong cuộc chiến tranh chống Mỹ của nhân dân
cả nước, miền Nam là tiền tuyến lớn, miền Bắc là hậu phương lớn. Phải nắm vững mối quan hệ giữa
nhiệm vụ bảo vệ miền Bắc và giải phóng miền Nam. Bảo vệ miền Bắc là nhiệm vụ của cả nước, vì
miền Bắc xã hội chủ nghĩa là thành quả chung rất to lớn của nhân dân cả nước ta, là hậu phương vững
chắc trong cuộc chiến tranh chống Mỹ. Phải đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền
Bắc và ra sức tăng cường lực lượng miền Bắc về mọi mặt, nhất là về kinh tế và quốc phòng, nhằm đảm
bảo chi viện đắc lực cho miền Nam, đồng thời, vừa tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội nhằm phát huy
vai trò đắc lực của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn. Hai nhiệm vụ trên đây không tách rời nhau,
mà mật thiết gắn bó nhau. Đế quốc Mỹ xâm lược Việt Nam, thì bất kỳ chúng đặt chân ở đâu trên đất
nước Việt Nam, mọi người Việt Nam đều có nghĩa vụ tiêu diệt chúng. Khẩu hiệu chung của nhân dân
cả nước lúc này là “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.
Nghị quyết Trung ương lần thứ 11 và lần thứ 12 năm 1965 với nội dung như trên thể hiện tư tưởng nắm
vững, giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiếp tục tiến hành đồng thời hai
chiến lược cách mạng của Đảng và quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam,
thống nhất Tổ quốc của dân tộc ta. Đó là đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài,
dựa vào sức mình là chính trong hoàn cảnh mới, cơ sở để Đảng lãnh đạo đưa cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước đi tới thắng lợi vẻ vang.

Đặc điểm cả nước khi bước vào thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta có những đặc điểm riêng nên không thể rập khuôn một cách máy
móc những nhiệm vụ được quy định ở những nước đã qua chủ nghĩa tư bản. Nếu như nội dung cơ bản
của thời kỳ quá độ ở các nước XHCN đã qua chủ nghĩa tư bản phát triển là cải biến những cơ sở của
chủ nghĩa tư bản thành chủ nghĩa xã hội, thì ở nước ta đồng thời với việc cải biến những cơ sở hiện có
thành những cơ sở của CNXH, lại phải chuẩn bị tiền đề vật chất cần thiết cho sự phát triển của CNXH.
Như Lênin đã nói: " Một nước càng lạc hậu mà lại phải- do những bước ngoắt ngoéo của lịch sử - bắt
đầu làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, thì nước đó càng gặp khó khăn"
Thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình cải biến nền sản xuất lạc hậu
thành nền sản xuất tiên tiến, hiện đại. Thực chất của quá trình cải tạo và phát triển nền kinh tế quốc dân
cũng là cuộc đấu tranh giai cấp gay go, phức tạp trong điều kiện mới, khi mà nhân dân ta hoàn thành cơ
bản cách mạng dân tộc dân chủ, so sánh lực lượng trong nước và quốc tế đã có những biến đổi. Điều
này đòi hỏi phải áp dụng toàn diện các hình thức đấu tranh cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội
nhằm chống lại các thế lực đi ngược lại con đường xã hội chủ nghĩa Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến tính
chất tuần tự, dần dần của thời kỳ quả độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đặc điểm của thời kỳ quá độ:
Đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá dộ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là sự tồn tại những yếu tố
của xã hội cũ bên cạnh những nhân tố mới của chủ nghĩa xã hội trong mối quan hệ vừa thống nhất vừa
đấu tranh với nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.
+ Trên lĩnh vực kinh tế:
Thời kỳ quá độ là thời kỳ tất yếu còn tồn tại một nền kinh tế nhiều thành phần trong một hệ thống kinh
tế quốc dân thông nhất. Đây là bước quá độ trung gian tất yếu trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã

87
hội, không thể dùng ý chí để xóa bỏ ngay kết cấu nhiều thành phần của nền kinh tế, nhất là đối với
những nước còn ở trình độ chưa trải qua sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được xác lập trên cơ sở khách
quan của sự tồn tại nhiều loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất với những hình thức tổ chức kinh tế đa
dạng, đan xen hỗn hợp và tương ứng với nó là những hình thức phân phối khác nhau, trong đó hình
thức phân phối theo lao động tất yếu ngày càng giữ vai trò là hình thức phân phối chủ đạo.
+ Trên lĩnh vực chính trị:
Do kết cấu kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đa dạng, phức tạp, nên kết cấu giai cấp của
xã hội trong thời kỳ này cũng đa dạng phức tạp. Nói chung, thời kỳ này thường bao gồm: giai cấp công
nhân, nông dân, tầng lớp trí thức, những người sản xuất nhỏ, tầng lớp tư sản và một số tầng lớp xã hội
khác tuỳ theo từng điều kiện cụ thể của mỗi nước. Các giai cấp, tầng lớp này vừa hợp tác, vừa đấu
tranh với nhau.
+ Trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá:
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều yếu tố tư tưởng và văn hoá khác nhau. Bên
cạnh tư tưởng xã hội chủ nghĩa còn tồn tại tư tưởng tư sản, tiểu tư sản, tâm lý tiểu nông, V.V.. Theo
V.I. Lênin, tính tự phát tiểu tư sản là “kẻ thù giấu mặt hết sức nguy hiểm, nguy hiểm hơn so với nhiều
bọn phản cách mạng công khai”. Trên lĩnh vực văn hoá cũng tồn tại các yếu tố văn hoá cũ và mới,
chúng thường xuyên đấu tranh với nhau.
Thực chất của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ diễn ra cuộc đấu tranh
giai cấp giữa giai cấp tư sản đã bị đánh bại không còn là giai cấp thống trị và những thế lực chống phá
chủ nghĩa xã hội với giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động. Cuộc đấu tranh giai cấp
diễn ra trong điều kiện mới là giai cấp công nhân đã nắm được chính quyền nhà nước, quản lý tất cả
các lĩnh vực đời sống xã hội. Cuộc đấu tranh giai cấp với những nội dung, hình thức mới, diễn ra trong
lĩnh vực chính trị, kinh tế, tư tưởng - văn hóa, bằng tuyên truyền vận động là chủ yếu, bằng hành chính
và luật pháp.

Trình bày sáu đặc trưng cơ bản xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng được xác định
trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông
qua tại Đại hội VII (6-1991)? Làm rõ đặc trưng về nền văn hóa Việt Nam.
*Sáu đặc trưng cơ bản xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng:
Cương lĩnh đã trình bày xu thế phát triển của thế giới, đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam. Cương lĩnh nêu rõ xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội có 6 đặc
trưng cơ bản là: “Do nhân dân lao động làm chủ. Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng
sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc. Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng
theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Các
dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Có quan hệ hữu nghị và hợp
tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới”.
88
*Đặc trưng về nền văn hóa Việt Nam: Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Tính ưu việt về văn hóa của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện khái quát ở tính chất tiên
tiến của nền văn hóa (bao hàm những giá trị mới, tiến bộ, hiện đại, nhân văn của văn hóa nhân loại); ở
việc giữ gìn bản sắc dân tộc (những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam: chủ nghĩa yêu
nước Việt Nam, truyền thống đoàn kết và nhân ái, ý thức về độc lập, tự do, tự cường dân tộc...).
Hội nhập quốc tế đang là một xu thế lớn khách quan lôi cuốn nhiều quốc gia, khu vực tham gia. Xu thế
này, một mặt tạo cơ hội để mở rộng giao lưu, tiếp biến văn hóa giữa các dân tộc, quốc gia; mặt khác
làm nảy sinh nguy cơ mai một các giá trị văn hóa truyền thống của từng dân tộc. Trong bối cảnh quốc
tế mà các chế độ chính trị - xã hội khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh; trong giao lưu,
hợp tác và phát triển văn hóa, tính ưu việt của CNXH mà chúng ta đang xây dựng phải được thể hiện
không chỉ bằng việc xác định tính ưu việt của đặc trưng về văn hóa vừa nêu, mà còn phải hiện thực hóa
đặc trưng đó trên thực tế.
Xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, mang đậm bản sắc dân tộc đòi hỏi vừa phải tiếp thu những giá trị
của tinh hoa văn hóa nhân loại, vừa phải kế thừa, phát triển bản sắc văn hóa của các tộc người Việt
Nam, xây dựng một nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng. Sự kết hợp hài hòa những giá trị
tiên tiến với những giá trị mang đậm bản sắc dân tộc thể hiện tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta
đang xây dựng trên lĩnh vực văn hóa, làm cho văn hóa trở thành sức mạnh nội sinh quan trọng của phát
triển.

Trình bày nội dung cơ bản và ý nghĩa lịch sử của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội (gọi tắt là Cương lĩnh 1991) được thông qua tại Đại hội
VII (6-1991).
*Nội dung cơ bản:
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do Đại hội VII thông qua (gọi
tắt là Cương lĩnh năm 1991) đã tổng kết hơn 60 năm Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam; chỉ ra những
thành công, khuyết điểm, sai lầm và nêu ra năm bài học lớn. Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội. Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Ba là,
không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc,
đoàn kết quốc tế. Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Năm là, sự lãnh đạo đúng
đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Cương lĩnh đã trình bày xu thế phát triển của thế giới, đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam. Cương lĩnh nêu rõ xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội có 6 đặc
trưng cơ bản là: “Do nhân dân lao động làm chủ. Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng
sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc. Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng
theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Các
dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Có quan hệ hữu nghị và hợp
tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới”.
Cương lĩnh nêu ra 7 phương hướng lớn xây dựng chủ nghĩa xã hội là: Xây dựng Nhà nước xã hội chủ
nghĩa. Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát
89
triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm. Thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu; phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước. Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa làm cho thế giới quan
Mác-Lênin, tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Thực
hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc. Thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Cương lĩnh chỉ rõ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng
đường với những định hướng lớn về chính sách kinh tế, xã hội, quốc phòng-an ninh, đối ngoại. “Mục
tiêu tổng quát phải đạt tới, khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế
của chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hóa phù hợp, làm cho
nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh”.
Cương lĩnh nêu rõ quan điểm về xây dựng hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân.
Trong hệ thống chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam là một bộ phận và là tổ chức lãnh đạo hệ thống đó.
Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành
động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về
chính trị, tư tưởng và tổ chức.
*Ý nghĩa lịch sử:
Cương lĩnh năm 1991 đã giải đáp đúng đắn vấn đề cơ bản nhất của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội; đặt nền tảng đoàn kết, thống nhất giữa tư tưởng với hành động, tạo ra sức
mạnh tổng hợp đưa cách mạng Việt Nam tiếp tục phát triển.

Trình bày những nhận thức mới về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được
xác định tại Đại hội IX của Đảng (4-2001). Ý nghĩa của Đại hội IX.
Ngoài những nội dung tiếp tục đổi mới toàn diện, các văn kiện của Đại hội IX nổi bật với những
nhận thức mới về con đường xã hội ở nước ta:
Thế kỷ XX ghi đậm trong lịch sử loài người ba dấu ấn cực kỳ sâu sắc: Khoa học và công nghệ
tiến nhanh chưa từng thấy; diễn ra hai cuộc chiến tranh thế giới đẫm máu; đầu thế kỷ phong trào cách
mạng phát triển rộng toàn thế giới, cuối thế kỷ, chủ nghĩa xã hội hiện thực tạm thời lâm vào thoái trào.
Đối với nước ta, thế kỷ XX là thế kỷ của những biến đổi to lớn, thế kỷ của những chiến công và thắng
lợi có ý nghĩa lịch sử và thời đại: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời mở ra bước ngoặt của cách mạng
Việt Nam; thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 và việc thành lập Nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa; thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc;
thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, từng bước đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội đã đề ra Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm tiếp theo (2001-2010) với mục tiêu tổng
quát là đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại
Trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân,

90
phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo. Đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại. Đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới.
Đảng và nhân dân quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền
tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Con đường phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa,
tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ
nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa,
đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện
đại.
Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển; thực
hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và
hành động tiêu cực, sai trái; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành
Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công
nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội,
phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội.
Đảng, Nhà nước chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa;
Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa
là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội;
Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa
bình, độc lập và phát triển.
- Phát triển kinh tế
- Những đổi mới về công tác tư tưởng, lý luận
- Những đổi mới về phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc
- Về thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tq
Ý nghĩa
Đại hội IX của Đảng đã họp tại Hà Nội, từ ngày 19 đến ngày 22-4-2001, là Đại hội mở đầu thế kỷ
XXI, cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức, toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ. Sau sự kiện
11-9-2001 ở Mỹ, một nước lớn lợi dụng chống khủng bố, tăng cường can thiệp vào công việc nội bộ
của nhiều nước. Khu vực Đông Nam Á, châu Á-Thái Bình Dương trở thành khu vực phát triển kinh tế
năng động nhưng tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định. Sau 15 năm đổi mới, Việt Nam đạt được
nhiều thành tựu quan trọng, tạo thế và lực mới nhưng nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả
và sức cạnh tranh thấp. Chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế bình quân trong 5 năm mà Đại hội VIII đề ra là 9-
10% đã không đạt. Các nguy cơ mà Hội nghị giữa nhiệm kỳ của Đảng (1-1994) đã nêu ra vẫn là những
thách thức lớn của cách mạng nước ta.

91
Trình bày những điểm bổ sung, phát triển chủ yếu của Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) so với Cương
lĩnh năm 1991.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm
2011), gọi tắt là Cương lĩnh năm 2011 có kết cấu bốn phần cơ bản giữ như Cương lĩnh năm 1991 có bổ
sung, phát triển nhận thức mới ở tiêu đề và nội dung từng phần.
So với Cương lĩnh năm 1991, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) có một số điểm mới:
-Thứ nhất, so với Cương lĩnh 1991, Cương lĩnh 2011 đã bổ sung hai đặc trưng mới: 1/ Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minhvà 2/ Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Trong Văn kiện Đại hội X, hai đặc trưng quan trọng
này cũng đã được nêu ra khi nói về chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng. Song, trong đặc trưng
thứ nhất của Cương lĩnh 2011, tiêu chí dân chủ được đặt trước tiêu chí công bằng. Thực tiễn cho thấy,
nước ta hiện nay, dân chủ và việc thực hiện dân chủ giữ vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng trong đời
sống xã hội. Dân chủ không những là mục tiêu, mà còn là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã
hội theo hướng phát triển nhanh và bền vững. Khi dân chủ được bảo đảm mới có thể nói đến công bằng
và đến lớn mạnh, những điều đó mới thể hiện sự văn minh.
Việc bổ sung đặc trưng ''có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản'' thể hiện vị trí đặc biệt quan trọng của Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa trong hệ thống chính trị của Việt Nam. Nhà nước ấy thuộc về nhân dân, do nhân dân
xây dựng nên và hướng tới phục vụ lợi ích của nhân dân, là cơ quan quyền lực của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân. Mục tiêu căn bản của công cuộc đổi mới nói chung, của đổi mới chính trị và đổi mới
hệ thống chính trị nói riêng ở nước ta chính là xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân. Việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân là một trong những điều kiện tiên quyết để thực hiện và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân.
-Thứ hai, nếu Cương lĩnh năm 1991 xác định xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội ''do nhân dân lao động
làm chủ'' thì trong Văn kiện Đại hội X và Cương lĩnh 2011, đặc trưng thứ hai được điều chỉnh thành
''do nhân dân làm chủ''. Rõ ràng, khái niệm ''nhân dân” trong Văn kiện Đại hội X có nội hàm rộng hơn
so với khái niệm ''nhân dân lao động'' được đề cập trong Cương lĩnh năm 1991. Điều này cho phép thực
hiện khối đại đoàn kết toàn dân tộc và huy động sức mạnh của toàn dân vào sự nghiệp xây dựng và
phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
-Thứ ba, đặc trưng thứ 2 trong Cương lĩnh năm 1991 ''Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu'' được Cương lĩnh 2011 bổ
sung bằng ''Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến
bộ phù hợp''. Điều này là cần thiết và đúng đắn. Bởi lẽ, theo quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin, quy
luật về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là xương sống của mọi
hình thái kinh tế - xã hội. Quan hệ sở hữu chế độ công hữu) không đồng nhất với quan hệ sản xuất. Dù
đóng vai trò hết sức quan trọng, song quan hệ sở hữu cũng chỉ là một trong 3 yếu tố (quan hệ sở hữu,
quan hệ quản lý và quan hệ phân phối) cấu thành quan hệ sản xuất. Cũng cần lưu ý rằng, Đại hội VI

92
của Đảng Cộng sản Việt Nam đã rút ra một trong những bài học quan trọng về sự phù hợp của quan hệ
sản xuất với trình độ phát triển của lựclượng sản xuất.
-Thứ tư, cụm từ ''được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công” trong đặc trưng thứ tư của Cương lĩnh
1991 (cụm từ “được giải phóng khỏi áp bức, bất công” ở đặc trưng thứ 5 của mô hình chủ nghĩa xã hội
nêu trong Văn kiện Đại hội X) được Cương lĩnh 2011 lược bỏ và xác định là ''Con người có cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”. Theo chúng tôi điều này là hợp lý. Bởi lẽ,
sự ''ấm no, tự do, hạnh phúc'' của con người cũng đã bao hàm ý nghĩa được giải phóng khỏi áp bức, bóc
lột và bất công.
-Thứ năm, trong Cương lĩnh năm 2011 xác định ''con người... có điều kiện phát triển toàn diện'' (trong
Cương lĩnh 1991 viết: ''Con người... có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân'', cũng Văn kiện Đại hội
X ghi ''con người ... được phát triển toàn diện''). Việc bổ sung cụm từ ''có điều kiện” là chính xác thể
hiện trong chủ nghĩa xã hội sự phát triển của con người luôn được tạo điều kiện, đồng thời phải căn cứ
vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
-Thứ sáu, trong đặc trưng thứ 5 của Cương lĩnh năm 1991 viết ''Các dân tộc trong nước bình đẳng,
đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ”; trong Văn kiện Đại hội X viết: ''Các dân tộc trong cộng
đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng tiến bộ''. Trong Cương lĩnh năm 2011,
đặc trưng này được điều chỉnh thành ''Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn
trọng và giúp nhau cùng phát triển''. Việc thay thuật ngữ ''tương trợ'' bằng thuật ngữ ''tôn trọng'' hoàn
toàn đúng đắn và làm cho đặc trưng này có nội dung toàn diện hơn (với 4 tiêu chí: bình đẳng, đoàn kết,
tôn trọng và giúp nhau), bởi thuật ngữ ''tương trợ” và ''giúp nhau” (trong Văn kiện Đại hội X), về cơ
bản, có nội dung như nhau.
-Thứ bảy, nếu Cương lĩnh 1991 xác định đặc trưng thứ 6 của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là “Có quan
hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới'' thì trong Văn kiện Đại hội lần thứ X
và trong Cương lĩnh 2011, nó được diễn đạt một cách chính xác hơn - ''Có quan hệ hữu nghị và hợp tác
với các nước trên thế giới''. Cụm từ ''với các nước trên thế giới'' rõ ràng rộng hơn cụm từ ''với nhân dân
tất cả các nước trên thế giới''. Nó thể hiện mối quan hệ hữu nghị và hợp tác của Việt Nam không chỉ
với nhân dân các nước, mà cùng với nhà nước, chính phủ và các tổ chức phi chính phủ của các nước
trên thế giới.

Trình bày các quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa, con người
Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, tại Hội nghị Trung ương 9, khóa
XI (5-2014).
Qua 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về văn hóa, đất nước đã đạt những thành
tựu rất nổi bật về phát triển văn hóa. Tuy nhiên, những kết quả đạt được trong xây dựng và phát triển
văn hóa chưa tương xứng với yêu cầu và chưa vững chắc; thiếu sự gắn bó chặt chẽ giữa văn hóa với
kinh tế, chính trị; giữa các lĩnh vực của văn hóa; chưa tác động mạnh mẽ đến phát triển kinh tế-xã hội,
đến xây dựng con người. Trong bối cảnh tình hình trong nước, quốc tế; sự phát triển nhanh chóng của
khoa học, công nghệ, nhất là công nghệ thông tin, truyền thông; quá trình toàn cầu hóa, trong đó có
toàn cầu hóa về văn hóa đã và đang đặt ra những yêu cầu mới. Hội nghị Trung ương 9 (5-2014) đã chủ
trương tiếp tục xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền
vững đất nước. Quan điểm chỉ đạo của Trung ương: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục
93
tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị,
xã hội. Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng
của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Phát
triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Trong
xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc
tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo. Xây dựng đồng bộ
môi trường văn hóa, chú trọng vai trò của gia đình, cộng đồng; phát triển hài hòa giữa kinh tế, văn hóa
và xây dựng con người mới. Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng. Nhà nước
quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.

Trình bày các quan điểm chỉ đạo của Đảng nhằm đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và
đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, được thông qua tại Hội nghị Trung
ương 8, khóa XI (11-2013).
Hội nghị Trung ương 8 (11-2013) đã ra Nghị quyết “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào
tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Cái mới của Nghị quyết này không chỉ ở nhận thức mà cả trong chỉ
đạo thực tiễn phải coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và
của toàn dân. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp
thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều
kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động
quản trị của các cơ sở giáo dục-đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân
người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học. Trung ương đã nêu ra các nhiệm vụ và giải pháp
nhằm chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực
và phẩm chất người học; gắn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ Tổ quốc, với tiến bộ khoa
học và công nghệ. Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các bậc học,
trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo. Thực hiện chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã
hội hóa giáo dục và đào tạo. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển giáo dục và đào tạo đáp
ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc.

Trình bày các quan điểm chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về Chiến lược phát triển
bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, được thông qua tại
Hội nghị Trung ương 9, khóa XII (10-2018).
Hội nghị Trung ương 8 (10-2018) đề ra Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến
năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Quan điểm chỉ đạo của Đảng là: Thống nhất tư tưởng, nhận thức về
vị trí, vai trò và tầm quan trọng đặc biệt của biển đối với sự nghiệp xây dựng và bảo về Tổ quốc. Biển
là bộ phận cấu thành chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, là không gian sinh tồn, cửa ngõ giao lưu
quốc tế, gắn bó mật thiết với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Việt Nam phải trở thành quốc gia
mạnh về biển, giàu từ biển, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh và an toàn; phát triển bền vững
kinh tế biển gắn liền với bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ, tăng cường đối ngoại, hợp tác quốc tế về biển, góp phần duy trì môi trường hòa bình, ổn định cho
phát triển. Phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, là quyền
94
và nghĩa vụ của mọi tổ chức, doanh nghiệp và mọi người dân Việt Nam. Trung ương đã xác định mục
tiêu tổng quát, mục tiêu cụ thể đến năm 2030 và năm 2045, một số chủ trương lớn và khâu đột phá, các
giải pháp để thực hiện Chiến lược biển tiếp tục phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam trong nhiều
năm tới.

95

You might also like