Professional Documents
Culture Documents
What are Humans Doing? and Con Người Đang Làm Những Gì? Và những pháp
Other talks thoại khác…
Awaken, Oh World!
Quyển sách này được xuất bản chỉ để biếu, không bán.
Tài liệu trong quyển sách này có thể được sao chép lại để biếu mà
không cần sự cho phép của tác giả.
Dedicated to my parents who first introduced me to this world
and brought me up.
Kính dâng đến cha mẹ, người đã đưa tôi vào cuộc đời và giáo
dưỡng tôi.
SABBADĀNAṂ DHAMMADĀNAṂ JINĀTI
PHÁP THÍ THẮNG MỌI THÍ
MỤC LỤC
I would like to express my gratitude Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn
first of all to my preceptor the Most đến vị thầy giáo thọ của tôi là Ngài Đại
Venerable Pa-Auk Tawya Sayadaw who, trưởng lão Thiền Sư Pa-Auk Tawya
in accordance with the Pāḷi texts and Sayadaw, người đã theo đúng kinh điển
commentaries, guides us in the right và các chú giải Pāḷi, hướng dẫn chúng tôi
way that leads to the cessation of đi theo con đường chánh dẫn đến sự diệt
suffering. tận khổ đau.
Secondly, I would like to Hai là, tôi xin cảm ơn ý kiến của các
acknowledge the many meditation yogis thiền sinh đến từ các quốc gia khác nhau
from different countries whose idea it về việc biên soạn những bài pháp thoại
was to compile my talks into a book. của tôi thành một quyển sách. Hầu hết
Most of these talks were given in Pa-Auk những bài pháp thoại này đã được giảng
Forest Monastery during 2005. Some tại Rừng Thiền Pa-Auk trong năm 2005.
were delivered in Singapore. According Một số được thuyết giảng tại Singapore.
to the wishes of my students, the talks Theo nguyện vọng của các vị đệ tử,
were re-arranged, more Pāḷi texts and những bài pháp này được sắp xếp lại,
commentaries were added and the final nhiều trích dẫn kinh điển và chú giải Pāḷi
edited versions put together and made được thêm vào và kết hợp với các phiên
into this book. bản biên soạn cuối cùng để làm thành
quyển sách này.
I would like to acknowledge a Tôi muốn cảm ơn đến một Ni sư
Vietnamese Bhikkhuni, who generously người Việt Nam, là người đã hoan hỷ tiến
offered to transcribe and type the hành chép lại và đánh máy bản gốc để
original material so it could be edited for nó có thể được biên tập cho việc xuất
publication. bản.
I would also like to acknowledge Mr. Tôi cũng muốn tỏ lòng biết ơn đối
Gary Chan in Sydney, Venerable với ông Gary Chan ở Sydney, Tôn giả
Moneyya, Venerable Paññāgavesaka (Mr. Moneyya, Tôn giả Paññāgavesaka (ông
Myo Tun) and Venerable Myo Tun) và Tôn giả Suññātagavesaka tại
Suññātagavesaka, at Pa-Auk Forest Rừng Thiền Pa-Auk, Myanmar. Mỗi vị đã
Monastery in Myanmar. Each of them góp một phần trong việc hình thành nên
were instrumental in the making of this quyển sách này.
book.
Special acknowledgement is due to Lời cảm ơn đặc biệt đến Tôn giả
the Venerable Suññātagavesaka. Suññātagavesaka. Nếu không có sự nỗ
Without his efforts this book could not lực của vị ấy thì quyển sách này đã
vii
Acknowledgment Lời Cảm Ơn
viii
INTRODUCTION LỜI GIỚI THIỆU
Even though we know about humans ngục hoặc ngạ quỷ. Mặc dù chúng ta
and the human realm, most of us do not biết về con người và cõi người, nhưng
know much about celestial beings or hầu hết chúng ta không biết về chư
their world. The third talk will introduce thiên cũng như thế giới của họ. Bài pháp
you to how wonderful the celestial world thứ ba sẽ giới thiệu cho quý vị thấy được
is and how beautiful celestial beings are. sự kỳ diệu biết bao của cõi trời và chư
It will remind you that the human state thiên cõi trời xinh đẹp biết dường nào.
we live in is a precious opportunity, and Nó sẽ nhắc cho quý vị biết rằng được
it will point out how to gain that which is sống làm người là một cơ hội quý giá, và
good to gain as a human. It is a message nó sẽ chỉ ra cách gặt hái những điều tốt
from the celestial world. You will be đẹp khi được làm người. Đó là một thông
awakened! điệp từ cõi trời. Quý vị sẽ được thức tỉnh!
As humans, we live. As humans, we Là con người, chúng ta sống. Là con
will pass away. Between birth and death người, chúng ta sẽ chết. Giữa sống và
we do many things. At times we are chết ta làm nhiều điều. Có lúc ta là người
givers, at times we are receivers. We cho đi, có lúc ta là người nhận lại. Chúng
offer gifts to one another. But many ta tặng những món quà đến nhau.
people do not know what to give, how to Nhưng nhiều người không biết cho cái gì,
give or to whom to give. The fourth talk cho như thế nào hoặc cho ai. Bài pháp
addresses this issue and sheds light on thứ tư đề cập đến vấn đề này và làm
what we can do. Furthermore, it explains sáng tỏ về những gì mà chúng ta có thể
what the greatest gift we can give is. làm. Hơn nữa, nó giải thích điều gì là
You will be awakened! món quà tốt nhất mà chúng ta có thể
trao tặng. Quý vị sẽ được thức tỉnh!
“Blind is this world”. These are the “Đời này thật mù quáng”. Đây là
words of the Buddha. The fifth talk, những lời của Đức Phật. Bài pháp thứ
which is titled “Recollection of năm, với tựa đề “Niệm Sự Chết”, sẽ
Death,” will illuminate the Buddha’s làm sáng tỏ ý nghĩa lời dạy này của Đức
meaning. Thế Tôn.
Man is mortal. One day we all will Con người thì ai cũng sẽ phải chết.
surely die. The day we were born, we Chắc chắn một ngày nào đó chúng ta sẽ
cried but others smiled. On the day of chết. Ngày ta ra đời, ta đã khóc nhưng
our death, others will cry. Should we cry những người khác đã mỉm cười. Vào ngày
with them? We should not. What we ta chết đi, những người khác sẽ khóc. Ta
should do is explained in this talk. You có nên khóc cùng họ không? Ta không
will be awakened! nên. Điều gì ta nên làm được giải thích
trong bài pháp này. Quý vị sẽ được thức
tỉnh!
“Profound Dhamma” is the title “Pháp Vi Diệu” là tựa đề của bài
of the sixth talk. It explains what true pháp thứ sáu. Nó giải thích cái gì là chân
happiness is and how to seek true hạnh phúc và làm sao để tìm thấy chân
happiness. It points out that most people hạnh phúc. Nó chỉ ra rằng hầu hết con
look for happiness in the sensual world. người tìm kiếm hạnh phúc ở trong cảnh
But real happiness is not found in the giới dục trần. Nhưng hạnh phúc thật sự
external world. The truth is that real không thể nào tìm thấy được ở cảnh giới
happiness is unfamiliar to most people. bên ngoài. Sự thật rằng chân hạnh phúc
xi
Introduction Lời Giới Thiệu
To obsessively seek for it through không thân thuộc với hầu hết mọi người.
sensual objects or experiences is Tìm kiếm hạnh phúc một cách ám ảnh
exhausting. Real happiness is calm. It is qua các đối tượng vui thú (dục cảnh) hay
peaceful and harmless. Real happiness is hưởng thụ làm họ mệt mỏi kiệt sức.
found within oneself. We attain real Hạnh phúc thật sự là sự an tịnh. Nó an
happiness through self-realization. We bình và vô hại. Chân hạnh phúc được tìm
attain it through practicing meditation. thấy ngay trong chính mình. Chúng ta
We need to know how to practice đạt được chân hạnh phúc nhờ sự tự giác
meditation step-by-step. We need to ngộ. Chúng ta đạt được điều này thông
know how to practice systematically. qua việc thực hành thiền. Chúng ta cần
This is addressed in the talk “Profound phải biết làm thế nào để thực hành thiền
Dhamma”. You will be awakened! từng bước từng bước một. Chúng ta cần
phải biết làm thế nào để tu tập một cách
có hệ thống. Điều này được chỉ ra trong
bài pháp thoại “Pháp Vi Diệu”. Quý vị
sẽ được thức tỉnh!
Knowing what is wholesome and Biết được điều gì là thiện và điều gì
what is unwholesome is the first step là bất thiện là bước đầu tiên làm tăng
and strengthens our knowledge. The last trưởng hiểu biết của chúng ta. Và bài
article named “What one wants to pháp cuối cùng có tên là “Những Việc
do” deals with this subject. You will see Một Người Muốn Làm” sẽ giải quyết
many sub-headings such as ‘The wish of vấn đề này. Quý vị sẽ thấy nhiều đề mục
the mind’, ‘To get the opportunity to do phụ như là “Các Ước Nguyện Trong
what one wants to do’, ‘Those who dare Tâm”, “Dành Cơ Hội Làm Việc Muốn
to forfeit their lives’, and so on. Deep Làm”, “Những Người Dám Để Mất Đời
reflection is needed upon reading every Mình”, và các đề mục khác. Sự suy xét
section. Only then will you perceive its sâu sắc là điều cần thiết khi đọc từng đề
deeper meaning and attain right mục. Chỉ khi đó thì quý vị mới hiểu sâu
knowledge. Through right knowledge we sắc ý nghĩa của nó và có được chánh trí.
are guided onto the right path. Through Thông qua chánh trí, chúng ta được
practice, we one day will realize hướng dẫn đi trên con đường đúng đắn.
perfection and attain real happiness. On Thông qua sự thực hành, một ngày nào
that day, we will awaken. The dark-cloud đó chúng ta sẽ nhận ra sự viên mãn và
of ignorance will be completely đạt được chân hạnh phúc. Vào ngày đó,
dispelled. A new person will come into chúng ta sẽ được thức tỉnh. Đám mây u
being. For this person we can say, “What ám của vô minh sẽ bị xua tan hoàn toàn.
had to be done has been done”. Một con người mới sẽ xuất hiện. Đối với
người này, chúng ta có thể nói về họ
rằng, “Những việc cần làm đã làm
xong”.
Awaken, Oh World! Thức Tỉnh Đi, Thế Gian Ơi!
Bhikkhu Revata Tỷ-kheo Revata
Pa-Auk Forest Monastery Rừng Thiền Pa-Auk
18th August 2006 18 tháng 8 năm 2006
xii
What Are Humans doing?
How would you answer this Quý vị sẽ trả lời câu hỏi này như
question? thế nào?
Think about it. This is a question Hãy suy nghĩ về điều này. Đây là
worthy of reflection. We are born into một câu hỏi đáng để suy ngẫm. Chúng
this world as humans. We live for a brief ta được sanh ra làm người ở thế gian
period as humans. Then one day we die, này. Chúng ta sống làm người trong một
discarding our human form. At best, our khoảng thời gian ngắn. Rồi một ngày nào
passage from birth to death is fleeting. đó chúng ta chết đi, vứt bỏ thân xác con
Time is limited. So, what exactly are we người này. Dù lạc quan nhất, chuyến đi
humans doing with our lives during this của ta từ lúc sanh ra đến lúc chết đi chỉ
brief journey? là thoáng qua. Thời gian là có hạn định.
Vì thế, chính xác là con người chúng ta
đang làm gì với cuộc đời của mình trong
suốt chuyến hành trình ngắn ngủi này?
This question is easy to ask, but not Câu hỏi này thì dễ hỏi nhưng không
easy to answer. People from all walks of dễ để trả lời. Con người ở tất cả các tầng
life strive for wealth, fame, public praise, lớp trong xã hội đều cố gắng phấn đấu
for admiration, honor and position. They cho sự giàu sang, danh vọng, vì sự tán
crave these conventional goals largely dương, ngưỡng mộ của cộng đồng, vì
because their attainment symbolizes danh xưng và địa vị. Họ thèm khát
worldly achievement. Those who have những mục đích theo lẽ thường này phần
earned or inherited wealth or fame are lớn là bởi vì việc đạt được chúng biểu
singled out as successful and influential. trưng cho sự thành công ở thế gian.
They are admired because their chosen Những ai kiếm được hay được thừa
2
W HAT AR E H U MA N S DOI N G ? C O N N GƯỜI ĐANG L ÀM N H Ữ N G G Ì ?
way of life is well-known and acceptable. hưởng sự giàu sang, danh vọng thì được
Sharing worldly goals that are ‘validated cho là những người thành công và có
by consensus,’ they preserve the nhiều ảnh hưởng. Họ được ngưỡng mộ
mundane social order. Life for them bởi vì lối sống mà họ chọn ấy nổi tiếng
appears safe, secure, and knowable. và được hoan nghênh. Góp phần vào
However, this way of life only binds them những mục tiêu thế gian như thế thì sẽ
to craving and clinging and reinforces “được phần đông tán đồng,” họ giữ gìn
the existing status-quo. There are those trật tự xã hội thế tục. Cuộc sống của họ
others, however, who diligently strive to phải được an toàn, bảo đảm, và có thể
make an end of craving and clinging. nhận biết được. Tuy nhiên cách sống này
Swimming against the tide of popular chỉ trói họ trong tham ái và chấp thủ
opinion, these are people who are not nhằm củng cố nguyên trạng những gì
warmly embraced by the world-at-large – mà họ đang có. Tuy nhiên, lại có những
or sometimes even by their own người đang siêng năng phấn đấu đoạn
families. Society wonders why anyone in tuyệt tham ái và chấp thủ. Bơi ngược
their right mind would willingly choose to dòng chảy quan niệm của đại chúng, đây
swim against the stream of popular là những người không chịu cái ôm chặt
opinion. đầy nồng ấm của phần đông thế gian
hoặc thậm chí đôi khi là gia đình của
chính họ. Xã hội ngạc nhiên rằng tại sao
lại có những người nhất mực quyết tâm
chọn cách bơi ngược dòng quan niệm
của quảng đại quần chúng (những người
thực hành hạnh xả ly hoặc xuất gia –
ND).
Change threatens the status quo. It Sự thay đổi đe dọa hiện trạng đang
can feel like an abandonment to those có. Điều này có thể có cảm giác giống
‘left behind’. Relatives really don’t want như sự từ bỏ những thứ buộc phải bị “bỏ
their loved ones to change. When people lại phía sau” (do thói quen chấp thủ nên
think they know what to expect from one không muốn có sự mất mát hay thay đổi
another, they feel comfortable. They – ND). Bởi vậy, thân quyến thật sự không
want things to remain just as they were. muốn những người thân yêu của mình
thay đổi. Khi mọi người thấy họ vẫn còn
biết được nơi nhau những điều họ thường
mong đợi, thì họ cảm thấy yên tâm. Họ
muốn mọi thứ vẫn cứ tiếp tục như thế.
For those whose level of Đối với những người có tầm hiểu
understanding is limited to what they biết bị hạn chế bởi sự biết và thấy chỉ
can know and see with their physical thông qua các giác quan, thật khó có thể
senses, it is difficult to recognize or nhận biết hoặc chấp nhận sự chuyển hóa
accept profound transformation in sâu sắc của người khác. Những người
others. Such people think that their này nghĩ rằng bạn bè hoặc những người
friends or loved ones have lost touch thân yêu của mình đã bị mất lý trí. Tại
with reason. Why else would they sao người ấy lại từ bỏ những lối sống
abandon their old familiar ways? The quen thuộc ngày xưa? Toàn bộ tiến trình
whole process confuses and threatens này làm xáo trộn và đe dọa họ. Không
3
W HAT AR E H U MA N S DOI N G ? C O N N GƯỜI ĐANG L ÀM N H Ữ N G G Ì ?
them. It’s not hard to imagine their khó để hình dung ra nỗi đau buồn của họ
distress over this. về điều này.
Human beings are born with Con người được sanh ra với tham ái,
craving, live with craving and most of us sống với tham ái và hầu hết chúng ta
die with craving. That is why our Buddha cũng sẽ chết với tham ái. Đó là lý do tại
said: “Craving leads the world”. We plan sao Đức Phật đã nói “Tham ái dắt dẫn
our activities and pursuits around thế giới”. Chúng ta lên kế hoạch cho các
craving. We promote and defend hoạt động và sự mưu cầu của mình xung
craving. And, many of us try our best to quanh sự tham ái. Chúng ta khuyến
dissuade others who desire to put an khích và bảo vệ tham ái. Và nhiều người
end to craving from even trying to do so. trong số chúng ta đang cố hết sức mình
Craving is a prescription for suffering. ngăn cản những ai đang mong muốn đặt
một dấu chấm hết với tham ái, thậm chí
cả đối với những người đang cố gắng
thực hiện điều đó. Tham ái dẫn đường
cho đau khổ.
It begs the question: What are Điều này đặt ra câu hỏi: Con người
humans doing? What are we really đang làm những gì? Thật sự chúng ta
doing? Because I wanted to know the đang làm những gì? Bởi vì tôi muốn biết
answer to this question, I gave it a great câu trả lời cho câu hỏi này nên tôi đã có
deal of thought. The right answer, rất nhiều suy nghĩ. Tuy nhiên, câu trả lời
however, isn’t obvious and it didn’t đúng thì không dễ nhận thấy và không
come easily. đến một cách dễ dàng.
Clearly, we have more to do in life Rõ ràng, chúng ta có nhiều thứ để
than simply make a living. As important làm trong cuộc đời hơn là đơn thuần chỉ
as food, clothing, shelter and money are để kiếm sống. Những thứ quan trọng như
for human security and well being, by thực phẩm, quần áo, chỗ ở và tiền bạc là
themselves they don’t give real meaning những thứ cần cho sự an toàn và thoải
or purpose to our lives. mái của con người, nhưng bản thân
những thứ này không phải là ý nghĩa
hoặc mục đích thật sự cho cuộc sống của
chúng ta.
I realized that the purpose of Tôi nhận thấy rằng mục đích tồn tại
human existence was not the của con người không phải là sự tích trữ
accumulation of wealth or fame. Nor do của cải hoặc tiếng tăm. Cũng không phải
we live only for the mere acquisition of chúng ta sống chỉ để giành lấy sự tán
public praise, admiration, worldly dươngvà ngưỡng mộ của công chúng,
position or advanced academic degrees cũng như địa vị trong thế gian hoặc trình
after our names. Reason dictates that độ học vấn cao gắn liền với tên tuổi của
there is more to life than this, much, mình. Tiếng gọi của lý trí chỉ ra rằng có
much more. Although I thought I những thứ lớn hơn nữa trong cuộc sống
understood this, when I first thought này, lớn hơn, hơn rất nhiều. Trước kia, tôi
about it I did not truthfully know what to nghĩ mình biết điều này, nhưng khi lần
do or what needed to be done. đầu tiên suy ngẫm về nó, tôi đã không
Eventually I learned that when we finally thật sự biết phải làm gì hoặc nên làm
know what we are doing, we begin to những gì. Cuối cùng, tôi học được rằng
4
W HAT AR E H U MA N S DOI N G ? C O N N GƯỜI ĐANG L ÀM N H Ữ N G G Ì ?
know what we need to do. một khi biết được những gì ta đang làm,
ta sẽ bắt đầu biết được những gì cần
phải làm.
Like so many others, I tried in vain Giống như rất nhiều người khác, tôi
to find purpose and attainment through đã cố gắng trong sự hão huyền để tìm
education, though I soon discovered its kiếm mục đích và thành tựu thông qua
limitations and boundaries. So, finally, sự học tập, tuy nhiên tôi đã sớm phát
seeking the answer I longed for, I turned hiện ra những hạn chế và ranh giới của
to the teachings of the omniscient nó. Và cuối cùng, trong khi đang tìm
Buddha whose knowledge is unlimited kiếm câu trả lời mà tôi hằng mong mỏi,
and without boundaries. When I did, I tôi đã hướng tới lời dạy của Đức Phật
truly came to know and see what we Chánh Biến Tri mà trí tuệ của Ngài là vô
humans are doing and what else we biên không giới hạn. Khi làm như thế, tôi
need to do. đã thật sự đi đến biết và thấy những gì
con người chúng ta đang làm và những
thứ khác nữa mà ta cần phải làm.
Let us look into two important Chúng ta hãy xem xét hai câu hỏi
questions: quan trọng:
1. What are we doing? 1. Ta đang làm những gì?
2. What else do we need to do? 2. Ta cần phải làm điều gì nữa?
These two questions are the Hai câu hỏi này là chủ đề cho bài
subject of tonight’s talk which is based thuyết pháp tối nay, được dựa trên các
on selections from the Saṃyutta Nikāya, bài Kinh được lựa chọn từ Kinh Tương
the Aṅguttara Nikāya, the Dhammapada, Ưng Bộ (Saṃyutta Nikāya), Kinh Tăng
the Abhidhamma and commentaries. Chi Bộ (Aṅguttara Nikāya), Kinh Pháp Cú
(Dhammapada), Vi Diệu Pháp
(Abhidhamma) và các chú giải.
My duty as a monk is to pass on, to Bổn phận tỷ-kheo của tôi là phải
the best of my ability, the true Dhamma truyền đạt lại bằng tất cả khả năng của
of the Lord Buddha which is beautiful in mình Giáo Pháp chân chánh của Đức Phật,
the beginning, beautiful in the middle vốn toàn hảo ở đoạn đầu, toàn hảo ở đoạn
and beautiful in the end. With this giữa và toàn hảo ở đoạn cuối. Với mục đích
intention, let me begin with the first này, hãy để tôi bắt đầu với câu hỏi thứ
question: “What are humans doing”? nhất: “Con người đang làm những gì”? Khi
When I ask this question of different tôi hỏi câu hỏi này với những người khác
people I get different answers. Their nhau tôi đã nhận được nhiều câu trả lời
answers, of course, depend on their khác nhau. Tất nhiên, những câu trả lời của
personal likes and dislikes. However, I họ dựa vào điều thích hay không thích của
usually hear some variation on the cá nhân họ. Tuy nhiên, tôi thường được
general theme of being committed to nghe những câu trả lời là các biến thể khác
achieving material success, status and nhau về chủ đề: nỗ lực đạt những thành
security in the world. This deeply-seated tựu về vật chất, địa vị và sự bảo đảm trong
desire sets the course of their lives. To thế gian. Khát vọng sâu thẳm bên trong
that end, most people want enough này tạo nên lối sống của đời họ. Rốt cuộc
education or training to prepare them to là, hầu hết mọi người đều muốn có đủ trình
5
W HAT AR E H U MA N S DOI N G ? C O N N GƯỜI ĐANG L ÀM N H Ữ N G G Ì ?
compete for good jobs. With good jobs độ học vấn hoặc sự đào tạo để họ chuẩn bị
they hope to earn a lot of money, cho cuộc đua tranh giành những công việc
increase their wealth and improve their tốt. Với những công việc tốt họ hy vọng
standing in the community. They think kiếm được nhiều tiền, tăng thêm sự giàu
that this as a logical way to get ahead in sang và cải thiện chỗ đứng của họ trong
the world and believe that happiness is cộng đồng. Họ nghĩ rằng đây là một cách
found in worldly success. hợp lý để tiến lên trong xã hội và tin tưởng
rằng hạnh phúc thì được tìm thấy là nằm
trong sự thành công ở thế gian.
I am a human being like you, a Tôi là một con người như mọi người,
citizen of the human world. I really là một công dân của thế giới loài người.
wanted to know what we are doing here Tôi đã thật sự muốn biết chúng ta đang
and, more specifically, what I should do làm những gì ở đây và, cụ thể hơn, tôi
and why. nên làm những gì và tại sao.
These simple questions are Các câu hỏi đơn giản này rất sâu
profound. For the correct answer to this sắc. Để có câu trả lời chính xác cho câu
question a Buddha had to arise in the hỏi này, một vị Phật đã phải xuất hiện
world. And even though our Buddha long trên thế gian. Và mặc dù Đức Phật của
ago took his final Nibbāna, his teachings chúng ta đã nhập Niết-bàn (Nibbāna) từ
have been preserved and handed down lâu, nhưng Giáo Pháp của Ngài vẫn được
over the past 2500 years from one gìn giữ và truyền lại qua hơn 2.500 năm
generation of monks to another – first nay bởi các thế hệ tỷ-kheo nối tiếp nhau,
orally, then later in writing. đầu tiên là truyền miệng, và sau đó là
bằng chữ viết.
Happily, the Buddha’s teachings Thật hạnh phúc thay, Giáo Pháp
remain unadulterated even to this day. của Đức Phật vẫn còn nguyên vẹn thuần
They have been meticulously recorded khiết cho đến ngày nay. Chúng đã được
and preserved and can be studied ghi chép cẩn thận, được bảo quản và có
through reading books. Some of the thể học được thông qua việc đọc sách.
suttas are easily understood. Others are Có vài bài kinh thì dễ hiểu. Nhưng có
more difficult to comprehend. In such những bài kinh thì khó khăn hơn để có
cases the role of bhikkhus, who can thể am tường. Trong trường hợp này thì
present the facts by relating one sutta to vai trò của các vị tỷ-kheo, những người
another, obviously becomes important. có thể chỉ ra các mấu chốt bằng cách
liên hệ từ bộ kinh này đến bộ kinh khác,
trở nên rõ ràng là rất quan trọng.
My first reference in tonight’s talk Đoạn tham khảo đầu tiên trong
comes from the Devatā Saṃyutta in the pháp thoại tối nay được trích từ Tương
Sagāthā Vagga Saṃyutta. The title of the Ưng Chư Thiên (Devatā Saṃyutta) ở
sutta is Oghatarana, which means trong Tương Ưng Thiên Có Kệ, (Sagāthā
crossing (tarana) – the flood (ogha). Vagga Saṃyutta). Tựa đề của kinh là
Oghatarana, có nghĩa là Vượt Qua
6
W HAT AR E H U MA N S DOI N G ? C O N N GƯỜI ĐANG L ÀM N H Ữ N G G Ì ?
1Nội dung tiếng Việt của tất cả các đoạn Kinh xuất hiện trong cuốn sách này được trích nguyên từ
bản dịch của ngài Thích Minh Châu, thuộc Đại Tạng Kinh Việt Nam. Chỉ những từ Hán Việt quá khó
hiểu cho phần đông độc giả thì được thay bằng từ thuần Việt - ND
7
W HAT AR E H U MA N S DOI N G ? C O N N GƯỜI ĐANG L ÀM N H Ữ N G G Ì ?
Buddha’s answer he felt uneasy, and, dàng và không có khả năng lãnh hội ý
being unable to perceive its meaning he nghĩa của lời dạy, ông đã khiêm tốn. Sau
was humbled. He then asked the Buddha đó, ông hỏi Đức Phật một câu hỏi khác.
another question.
“But how is it, dear sir, that by not “Thưa Tôn giả, làm sao không đứng
stopping and by not struggling you lại, không bước tới, Ngài vượt khỏi dòng
crossed the flood difficult to cross”. lũ khó vượt”?
The Buddha replied: Đức Phật trả lời:
“When I came to a standstill, I “Này Hiền giả, khi Ta đứng lại, thời
sank. When I struggled, I was swept Ta chìm xuống. Này Hiền giả, khi Ta bước
away. It is in this way, friend, that by not tới, thời Ta trôi giạt; do vậy, này Hiền giả,
stopping and by not struggling, I crossed không đứng lại, không bước tới, Ta vượt
the flood difficult to cross”. khỏi dòng lũ khó vượt”.
Upon hearing this answer the deva Khi nghe được câu trả lời này, vị
penetrated the Buddha’s meaning and, thiên ấy liền thấu suốt ý nghĩa lời dạy
at that moment, he became a của Đức Phật và, ngay lập tức, ông ta trở
Sotāpanna. thành một vị thánh Tu-đà-hoàn – Nhập
Lưu (Sotāpanna).
Although almost all the suttas that Mặc dù hầu hết tất cả các kinh xuất
appear in the Devatā Saṃyutta of the hiện trong Tương Ưng Chư Thiên
Sagāthā Vagga Saṃyutta are brief, the (Devatā Saṃyutta) của Tương Ưng thiên
devas and brahmas who’s minds are có kệ (Sagāthā Vagga Saṃyutta) thì
sharp can break through to the true ngắn, nhưng những chư thiên và phạm
meaning and directly experience the thiên có tâm sắc bén vẫn có thể thấu
teaching at the end. We humans, hiểu ý nghĩa thật sự và thể nhập trực
however, still have difficulty tiếp khi lời dạy vừa kết thúc. Chúng ta là
understanding the deeper meaning of con người, dù gì, vẫn có nhiều khó khăn
these suttas – even after we read and để hiểu ý nghĩa sâu xa của những bài
study them. Those who have knowledge kinh này - thậm chí sau khi chúng ta đã
of the Abhidhamma know what the đọc và học chúng. Những ai có kiến thức
floods are, but others do not. về Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) thì biết
được dòng lũ là gì, nhưng những người
khác thì không được như vậy.
When I started reading this sutta, I Khi lần đầu đọc bài kinh này, tôi đã
did not understand the meaning. It was không hiểu được ý nghĩa. Chỉ sau khi đọc
only after reading the commentary lời giải thích của chú giải thì tôi mới hiểu,
explanation that I came to understand it, thế nhưng lúc đó chỉ là cách hiểu trí óc,
though it was still only intellectual chưa phải là sự chứng ngộ trực tiếp. Để
understanding, not direct realization. To hiểu được những điều bài kinh đề cập
figure out what the sutta is saying is đến thì đã là đủ khó rồi, mà để thể nhập
difficult enough, but to directly penetrate một cách trực tiếp ý nghĩa của bài kinh
its meaning is another matter all thì lại là cả một vấn đề khác nữa.
together.
In an attempt to help you know Trong nỗ lực giúp quý vị biết được
what we humans are doing and what con người chúng ta đang làm gì và
8
W HAT AR E H U MA N S DOI N G ? C O N N GƯỜI ĐANG L ÀM N H Ữ N G G Ì ?
else we need to do, I would like to share những gì khác nữa mà ta cần phải làm,
with you the profound meaning of this tôi muốn chia sẻ với quý vị ý nghĩa sâu
sutta. sắc của bài kinh này.
The first question of the deva is: Câu hỏi đầu tiên của vị thiên là:
“How did you cross the flood”? “Làm thế nào Ngài vượt khỏi dòng lũ”?
Here we need to know what the Ở đây chúng ta cần phải biết thế
floods are. There are four floods. These nào là dòng lũ. Có bốn dòng lũ. Bốn loại
four appear in the Abhidhamma. They này xuất hiện trong Vi Diệu Pháp
are: (Abhidhamma). Chúng là:
(i) the flood of sensuality (i) Dòng lũ dục (Dục bộc lưu -
(kāmogha) Kāmogha)
(ii) the flood of becoming (ii) Dòng lũ hiện hữu (Hữu bộc lưu -
(bhavogha) Bhavogha)
(iii) the flood of wrong views (iii) Dòng lũ tà kiến (Kiến bộc lưu -
(ditthogha) Diṭṭhogha)
(iv) the flood of ignorance (iv) Dòng lũ vô minh (Vô minh bộc
(avijjogha) lưu - Avijjogha)
Ogha means flood; Ogha có nghĩa là dòng lũ, hay bộc
lưu;
Just as the great floods of nature Giống như những trận lũ lớn của
sweep men and animals into the sea, so thiên nhiên cuốn trôi con người và loài
also these four floods sweep beings into vật ra biển cả, cũng vậy, có bốn dòng lũ
the great ocean of the rounds of rebirth cuốn chúng sinh vào đại dương mênh
(saṃsāra). mông của vòng luân hồi (saṃsāra).
Let me explain the first one: Hãy để tôi giải thích loại dòng lũ
đầu tiên:
and touches. Our desire for them is xúc chạm. Sự mong cầu của chúng ta đối
nothing short of lust. We believe that we với những thứ này chính là sự tham dục.
can’t live without them. For many of us, Chúng ta cho rằng mình không thể sống
satisfying our sensual longings becomes mà không có chúng. Đối với nhiều người,
the central purpose of our lives. việc thỏa mãn tham muốn dục lạc trở
thành mục đích chính của cuộc đời họ.
In the time of the Buddha there Trong thời Đức Phật có năm vị vua,
were five kings headed by King Pasenadi và vua Pasenadi của nước Kosala là vị
of Kosala. These five kings were thượng thủ. Năm vị vua này sống thọ
absolutely enjoying themselves with the hưởng năm món dục trưởng dưỡng một
five cords of sensual pleasure when a cách sung mãn và một câu hỏi được đặt
question occurred to them: “What is the ra giữa họ: “Dục lạc nào là tối thượng”?
chief of all sensual pleasures”?
Some among them said: “Forms are Có người trong số họ nói rằng: “Sắc
the chief of sensual pleasures”. Some là dục tối thượng”. Có người nói rằng:
said: “Sound is chief”. Some said: “Odors “Thanh là dục tối thượng”. Có người nói
are chief”. Some said: “Tastes are chief”. rằng: “Mùi là dục tối thượng”. Có người
And some said: “Tangible objects are nói rằng: “Vị là dục tối thượng”. Và có
chief”. người nói rằng: “Xúc là dục tối thượng”.
Since those kings were unable to Vì các vua ấy không thể thuyết
convince one another, King Pasenadi of phục được nhau về vấn đề này, vua
Kosala said to them: “Come, dear sirs, Pasenadi của nước Kosala đã nói với các
let us approach the Blessed One and vua: “Chư Hiền, chúng ta hãy đi đến Thế
question him about this matter. As the Tôn, sau khi đến, hãy hỏi Thế Tôn về ý
Blessed One answers us, so we should nghĩa này. Thế Tôn trả lời chúng ta như
remember it”. thế nào, chúng ta sẽ như vậy thọ trì”.
“All right, dear sir,” Those kings “Được thôi, thưa bệ hạ,” các vị vua
replied. Then those five kings, headed by kia đáp. Sau đó năm vị vua, dẫn đầu là
King Pasenadi, approached the Blessed vua Pasenadi, đi đến yết kiến Đức Thế
One, paid homage to him, and sat down Tôn, đảnh lễ Ngài, và ngồi xuống một
to one side. Once they were seated King bên. Khi tất cả đã ngồi xuống, vua
Pasenadi recounted their entire Pasenadi tường thuật lại toàn bộ cuộc
discussion to the Blessed One, asking: tranh luận của họ cho Đức Thế Tôn, và
“What now, Venerable Sir, is the chief of hỏi: “Bạch Đức Thế Tôn, dục nào là tối
sensual pleasures”? thượng”?
“Great king, I say that what is chief “Này Đại vương, Ta nói dục tối
among the five cords of sensual pleasure thượng trong năm món dục công đức là
is determined by whatever is most bất cứ dục nào được cho là ưa thích
agreeable. Those same forms that are nhất. Có các sắc được ưa thích đối với
agreeable to one person, great king, are một số người, này Đại vương, nhưng
disagreeable to another. When one is không được ưa thích đối với một số người
pleased and completely satisfied with khác. Đại vương, nếu một người ưa thích
certain forms, then one does not yearn và hoàn toàn thỏa mãn đối với các sắc
for any other form higher or more nhất định nào đó, người đó không muốn
sublime than those forms. For him those có các sắc nào cao hơn hay vi diệu hơn
forms are then supreme; for him those các sắc ấy, thời đối với vị này, các sắc ấy
10
W HAT AR E H U MA N S DOI N G ? C O N N GƯỜI ĐANG L ÀM N H Ữ N G G Ì ?
forms are unsurpassed”. là tối thượng, đối với vị này, các sắc
pháp ấy là vô thượng”
The Buddha explained in the same Đức Phật cũng giải thích tương tự
way for the other objects. về các đối tượng khác.
We can imagine that those kings Ta có thể thấy rằng năm vị vua đó
enjoyed every kind of sensual pleasure, đã hưởng thụ mọi loại dục lạc, nhưng
but what they really wanted to know was những gì họ thật sự muốn biết là trong
which sensual pleasure is the chief of all. tất cả các dục, dục nào là tối thượng.
People of every age immerse Con người ở mọi lứa tuổi đắm mình
themselves in sensual pleasures. Why do trong dục lạc. Tại sao con người muốn
people want wealth, fame, and status? It giàu sang, danh vọng, và địa vị? Đó là
is because of desire and lust for bởi sự tham muốn và thèm khát dục. Họ
sensuality. They believe that with wealth tin rằng với sự giàu sang và quyền lực họ
and power they will have secure and sẽ có được cuộc sống bảo đảm hạnh
happy lives and be able to satisfy all phúc và có thể thỏa mãn tất cả các tham
their desires. muốn của họ.
From the worldly point of view, we Từ cách nhìn của thế gian, chúng ta
see most of mankind living and dying in thấy rằng hầu hết loài người đang sống
the grip of their desires and lust for và chìm đắm trong sự kìm chặt của tham
sensuality. They are swept away in the vọng và thèm khát các dục. Họ bị cuốn
flood of sensuality. They are being sunk trôi trong dòng lũ của ái dục. Họ đang bị
in it. It becomes difficult for them to đắm chìm trong dòng lũ đó và khó có thể
cross. vượt qua.
11
W HAT AR E H U MA N S DOI N G ? C O N N GƯỜI ĐANG L ÀM N H Ữ N G G Ì ?
12
W HAT AR E H U MA N S DOI N G ? C O N N GƯỜI ĐANG L ÀM N H Ữ N G G Ì ?
Next, meditators move on to the Tiếp theo, thiền sinh tiến đến phân
analysis of ultimate mentality. With this tích danh chân đế (sự thật tột cùng về
practice they actually come to know and tâm thức). Với cách thực hành này, họ
see the mental process as it arises and thật sự đi đến biết và thấy được các tiến
passes away in a series of mind trình tâm khi nó sanh và diệt theo một
moments, with consciousness and its chuỗi các sát-na tâm (khoảnh khắc cực
associated mental factors present in kỳ ngắn ngủi - ND), với tâm và các tâm
each moment. This happens very rapidly. sở phối hợp của nó hiện diện ở mỗi sát-
na. Điều này xảy ra cực kỳ nhanh chóng.
When meditators know and see Khi thiền sinh biết và thấy được sắc
ultimate materiality and mentality, as và danh chân đế như chúng thật sự là,
they really are, rapidly arising and sanh và diệt cực kỳ nhanh chóng, họ
perishing, they frequently report that life thường xuyên trình bày rằng cuộc sống
is really suffering. They say, “We don’t thật sự là đau khổ. Họ nói, “Chúng tôi
want any more existences”. I sometimes không muốn có bất cứ sự hiện hữu nào
ask them, if they can’t make an end of nữa”. Thỉnh thoảng, tôi hỏi họ rằng, nếu
suffering in their present life, where they họ không thể đoạn tận khổ đau (chứng
want to be reborn? They respond that đắc A-la-hán Thánh quả - ND) trong kiếp
they want to be born in the brahma sống hiện tại này thì họ muốn tái sanh ở
world. They believe that life in the đâu? Họ trả lời rằng họ muốn được tái
brahma realm will bring them release sanh trong cõi phạm thiên. Họ tin rằng
from a great deal of suffering because cuộc sống trong cõi phạm thiên sẽ giải
rūpa-brahmas (form-sphere brahmas) thoát họ khỏi rất nhiều khổ đau bởi vì ở
have only eye and ear-sensitivities but cõi phạm thiên sắc giới (rūpa-brahma)
no nose-sensitivity, tongue-sensitivity or chỉ có sắc thần kinh mắt và tai nhưng
body-sensitivity. This means that they không có sắc thần kinh mũi, lưỡi và thân.
are released from the desire and lust for Điều này có nghĩa rằng họ được giải
odors, tastes and touches. Contrast that thoát khỏi sự khát khao và thèm muốn
to how hungry we humans are for these mùi, vị và xúc chạm. Ngược lại, con
sensual pleasures. người chúng ta luôn khao khát các thứ
dục lạc này biết bao.
Those wise meditators who have a Đối với các thiền sinh khôn ngoan -
sense of urgency become aware of the người có ý thức cấp bách về giải thoát –
problems inherent in having these họ thấu hiểu được những sự trở ngại vốn
sensitivities. Suppose that a meditator dĩ luôn gắn liền với các sắc thần kinh đó.
has practiced mastery of first jhāna Nếu một thiền sinh đã tu tập năm pháp
concentration in order to enter the first thuần thục của sơ thiền để nhập sơ thiền
jhāna at will. If he can enter the first tùy theo ý muốn, nếu vị ấy có thể nhập
jhāna at the near death moment, he will vào sơ thiền ở khoảnh khắc sắp chết, vị
be born in the first jhāna brahma world. ấy sẽ được tái sanh vào cõi phạm thiên
sơ thiền (Brahma).
The flood of becoming is the Dòng lũ hiện hữu (Hữu Bộc lưu) là
attachment to life in the Brahma world sự dính mắc vào đời sống ở thế giới
and to jhāna concentration. Because of Phạm thiên (Brahma) và định an chỉ
the desire and lust for rūpa-brahma (jhāna). Bởi khát vọng và sự tham muốn
(form-sphere becoming) and arūpa- trở thành phạm thiên sắc giới, phạm
13
W HAT AR E H U MA N S DOI N G ? C O N N GƯỜI ĐANG L ÀM N H Ữ N G G Ì ?
brahma (formless-sphere becoming) and thiên vô sắc giới và bởi sự dính mắc với
because of attachment to jhāna, beings các tầng thiền an chỉ định (jhāna), chúng
are swept away in the current of the sinh bị cuốn trôi trong dòng lũ hiện hữu.
flood of becoming. They sink in it. It Họ bị nhấn chìm trong đó và khó có thể
becomes difficult for them to cross. vượt qua.
14
W HAT AR E H U MA N S DOI N G ? C O N N GƯỜI ĐANG L ÀM N H Ữ N G G Ì ?
or her defilements clearly. They biết và thấy rõ ràng sự vận hành của các
understand ‘wrong view’ as any gross or phiền não ô nhiễm ở nơi họ. Họ hiểu “tà
subtle clinging to a belief in the concept kiến” chính là bất kỳ một sự chấp thủ thô
of ‘I’, ‘me’ or ‘mine’. They no longer see hay tế liên quan đến niềm tin về khái
greed as ‘my’ greed or hatred as ‘my’ niệm “tôi”, “là tôi”, “của tôi”. Họ không
hatred. And, they no longer harm còn nhìn thấy tham ái như là tham ái
themselves by willful or conscious “của tôi” hoặc sân hận như là sân hận
physical and verbal actions that can lead “của tôi”. Và họ không còn làm hại bản
to rebirth in any one of the four woeful thân bằng những hành động cố tình
planes. thuộc thân và lời mà có thể đưa họ tái
sinh vào một trong bốn cõi khổ.
For most people, however, the flood Tuy nhiên, với hầu hết mọi người,
of wrong view is overwhelming. Like dòng lũ tà kiến luôn đang tràn ngập.
programmed robots, we continue to Giống như một con robot đã được lập
indulge in unwholesome deeds in spite trình, chúng ta tiếp tục đam mê các điều
of our best intentions not to do so. We bất thiện, mặc dù chủ định tốt nhất của
don’t really want to change nor do we ta là không làm như vậy. Thật ra, ta
comprehend the truth of why we need to không muốn thay đổi và cũng không
change. This leads to endless rounds of muốn tìm hiểu lẽ thật tại sao ta cần thay
suffering in the four woeful planes. đổi. Điều này dẫn đến vòng đau khổ bất
tận trong bốn cõi khổ.
Due to this wrong view, numberless Bởi tà kiến tự ngã này, vô số chúng
beings are swept away in the flood of sinh bị cuốn trôi trong dòng lũ tà kiến.
wrong view. They sink in it. It becomes Họ bị chìm trong đó. Thật khó cho họ để
difficult for them to cross. vượt qua.
it is necessary to take on the training of thiết phải tu tập giới học, định học, và
morality, the training of concentration tuệ học. Thánh Đế Thứ Tư chính là tu tập
and the training of insight meditation. theo con đường đưa đến sự chấm dứt
The Fourth Noble Truth is practicing the khổ đau.
way leading to the cessation of suffering.
According to the Buddha, Theo Đức Phật,
Conventionally we see men, Theo quy ước (sự thật chế định, tục
women, dogs, devas and so on. But đế - ND), chúng ta thấy có đàn ông, đàn
ultimately there is no one. There is only bà, con chó, chư thiên v.v… Nhưng theo
ultimate mentality and materiality. ý nghĩa tột cùng (sự thật tột cùng, chân
đế - ND) thì không có những thứ đó. Chỉ
có danh (tâm thức) và sắc (vật chất)
chân đế.
Those who have penetrated Những ai thấu suốt danh và sắc
ultimate mentality and materiality know chân đế thì biết và thấy được các Pháp
and see things as they really are. They như chúng thực sự là. Họ đồng ý với Đức
agree with the Buddha. They venerate Phật. Họ tôn kính Giáo Pháp. Họ trọng
the Dhamma. They regard the Sangha vọng chư Tăng với lòng thành kính.
with respect. Right view illuminates their Chánh kiến soi rọi cuộc đời của họ.
lives.
Have you ever inquired into why Có bao giờ quý vị tìm hiểu tại sao
we are born as men or women? All chúng ta sanh ra là đàn ông hay đàn bà?
around us we see men and women, Ta thấy ở xung quanh ta có đàn ông và
dogs, chickens, and birds. Why are we đàn bà, chó, gà và chim chóc. Tại sao
born as humans and those other chúng ta được sanh ra làm con người và
creatures born as dogs or chickens or các sinh vật khác lại bị sanh ra làm
birds? The cause is ignorance. To make những con chó hoặc con gà hoặc con
this more understandable, I’ll tell you chim? Nguyên nhân là do vô minh. Để dễ
about the practice of a meditator who hiểu hơn, tôi sẽ kể cho quý vị nghe về sự
penetrated the past causes responsible tu tập của một thiền sinh đã thấy thấu
for the present results in her life. suốt các nguyên nhân trong quá khứ
khiến đưa đến các kết quả trong cuộc
đời hiện tại của cô.
She is an educated woman who Cô ấy hiện là một phụ nữ có học
lives in a large town. thức và sống ở một thành phố lớn.
When she directly discerned the Khi cô trực tiếp phân biệt nhân của
cause of her present life, she saw an kiếp hiện tại của mình, cô thấy một sự
incident that occurred at the near-death việc xảy ra vào lúc cận tử của kiếp trước.
moment of her previous life. It was a Đó là một thiện nghiệp. Cô đã cúng
wholesome deed. She was offering fruit dường trái cây đến một vị tỷ-kheo. Trong
to a Buddhist monk. In that life she was kiếp đó, cô là một thôn nữ nghèo không
a poor uneducated village woman who được học hành, cô cảm thấy khó chịu và
felt upset and dissatisfied with the không hài lòng với thân phận của mình.
conditions of her life.
While she was making the offering Trong khi cúng dường đến vị tỷ-
16
W HAT AR E H U MA N S DOI N G ? C O N N GƯỜI ĐANG L ÀM N H Ữ N G G Ì ?
to the monk, she made a wish to kheo, cô đã phát nguyện muốn trở thành
become an educated woman. The image một người phụ nữ có học thức. Hình ảnh
of that incident (offering fruit to the của sự việc này (đang khi cúng dường
monk while wishing to become an trái cây đến vị tỷ-kheo đồng thời phát
educated woman) appeared to her at her nguyện muốn trở thành một phụ nữ có
near-death moment as if she was học thức) đã xuất hiện vào thời điểm sắp
reliving it. It was this wish, the object of chết của cô như thể cô đang tái hiện lại
her near-death moment that created the sự việc này. Chính nguyện ước này là đối
desired result in her present life. In her tượng cận tử của cô, nó đã tạo ra kết
specific case, there are five causes quả như mong muốn ở kiếp sống hiện
which generated the present effect. tại. Trong trường hợp cụ thể của cô ấy,
They are: có năm nhân tạo ra quả hiện tại. Chúng
là:
1. Avijjā (Ignorance): Her 1. Avijjā (Vô minh): Suy nghĩ bị vô
deluded thinking created the belief that minh che lấp của cô ấy đã tạo ra niềm
an educated woman living in a large tin rằng một người phụ nữ có học thức
town truly exists. sống ở một thành phố lớn là thật sự tồn
tại.
2. Taṇhā (craving): Her desire to 2. Taṇhā (tham ái): Khát vọng sống
live the life of an educated woman cuộc đời của một người phụ nữ có học
created strong craving; thức đã tạo ra tham ái mãnh liệt nơi cô;
3. Upādāna (clinging): Holding 3. Upādāna (chấp thủ): Việc chấp
onto the idea of living the life of an chặt ý nghĩ về việc sống cuộc đời của
educated woman created strong một người phụ nữ có học thức đã tạo ra
clinging. sự chấp thủ mạnh mẽ.
4. Kusala sankhāra (volitional 4. Kusala saṅkhāra (thiện hành):
formations): Her wholesome intention to Tác ý thiện cúng dường trái cây đến một
offer fruit to a Buddhist monk created vị tỷ-kheo đã tạo ra thiện hành.
volitional formation.
5. Kamma: Her previous actions 5. Kamma (Nghiệp): Những việc
(either in this life or past lives) làm trước đây (trong kiếp hiện tại hoặc
reappeared at her near-death moment, kiếp quá khứ) tái hiện vào thời điểm cận
as if she was reliving them. Technically, tử, như thể cô ấy đang tái hiện lại chúng.
this is kamma. Theo thuật ngữ, đây chính là nghiệp.
We can see, in this example, the Trong ví dụ này, chúng ta có thể
relationship between the flood of thấy mối quan hệ giữa dòng lũ vô minh,
ignorance, the flood of wrong view and dòng lũ tà kiến và dòng lũ của dục.
the flood of sensuality. Not knowing the Không biết được chân lý, đó là vô minh,
truth, which is ignorance, causes khiến phát sinh sự dính mắc vào ước
attachment to desire to arise – in this muốn – trong trường hợp của người phụ
woman’s case, her desire to live the life nữ này, là ước muốn sống kiếp sống của
of an educated women. Because of our một người phụ nữ có học thức. Vì vô
ignorance, we humans are exposed to minh, con người chúng ta bị đặt vào
many unexpected dangers. For clarity I nhiều hiểm nguy không lường trước
will tell you a story. được. Để làm rõ, tôi sẽ kể cho quý vị
17
W HAT AR E H U MA N S DOI N G ? C O N N GƯỜI ĐANG L ÀM N H Ữ N G G Ì ?
18
W HAT AR E H U MA N S DOI N G ? C O N N GƯỜI ĐANG L ÀM N H Ữ N G G Ì ?
19
W HAT AR E H U MA N S DOI N G ? C O N N GƯỜI ĐANG L ÀM N H Ữ N G G Ì ?
20
W HAT AR E H U MA N S DOI N G ? C O N N GƯỜI ĐANG L ÀM N H Ữ N G G Ì ?
TV teach you? This isn’t personal. The phải là vấn đề cá nhân. Phương tiện
media teaches us how to fuel our greed. truyền thông dạy chúng ta làm thế nào
It bombards us with the never-ending để tăng trưởng lòng tham. Nó dội vào
message that when we cultivate and chúng ta những thông điệp bất tận rằng
satisfy sensual pleasure, we will find khi chúng ta nuôi dưỡng và thỏa mãn
happiness. It also promotes and glorifies các thú vui dục lạc, chúng ta sẽ tìm thấy
violence. In the pursuit of sensual hạnh phúc. Nó còn khuyến khích và tán
gratification, violence often takes place. dương bạo lực. Trong quá trình theo đuổi
In short, the content of newspapers and sự thỏa mãn các dục, bạo lực thường
TV is filled with teachings that generally diễn ra. Tóm lại, nội dung của báo chí và
increase our greed, anger and delusion. tivi thì đầy ắp những lời dạy mà nói
Under their powerful influence, many chung là làm tăng trưởng tham ái, sân
people are led astray and onto the hận và si mê. Dưới tác động mạnh mẽ
wrong path. của chúng, nhiều người bị dẫn đi lầm
đường lạc lối.
But does the fault really lie with Nhưng có phải lỗi thật sự nằm ở
what the mass media feeds us? After all, những gì mà phương tiện truyền thông
it just provides people with what they cung cấp cho ta không? Xét cho cùng, nó
want and think is good. But what is good chỉ cung cấp cho mọi người những gì mà
or not good does not always depend on mọi người muốn và cho là tốt. Nhưng
what we think. The Buddha pointed this những điều tốt hay không tốt chẳng phải
out in many suttas. luôn dựa trên những gì chúng ta nghĩ.
Đức Phật đã chỉ ra điều này trong nhiều
bài kinh (sutta).
Once a famous stage manager and Một lần nọ, ông bầu kiêm diễn viên
actor named Tālāputa went to see the tên là Tālāputa đã đi đến gặp Đức Phật.
Buddha. He told the Buddha his teacher Ông ta nói với Đức Phật rằng thầy tổ của
said because actors make people laugh ông tuyên bố rằng bởi vì diễn viên làm
with false stories they would, after cho mọi người cười với những câu
death, be reborn in the company of chuyện không có thực, sau khi chết họ
laughing devas. He asked the Buddha for sẽ được tái sanh cộng trú với chư thiên
his opinion on this matter. The Buddha hay cười. Ông hỏi quan điểm của Đức
told him not to ask that question. Phật về vấn đề này. Đức Phật bảo ông ta
However, the stage manager insisted không nên hỏi câu hỏi đó. Tuy nhiên, ông
and asked the same question three bầu này vẫn khăng khăng hỏi Đức Phật
times. Then the Buddha told him that, if câu hỏi này đến lần thứ ba. Khi ấy Đức
that kamma ripened, he would be reborn Phật trả lời với ông rằng, nếu nghiệp đó
in the laughing hell. The reason is that chín muồi thì ông ta sẽ bị tái sanh vào
he brought defiled or tainted happiness địa ngục hay cười. Lý do là vì ông đã
to many people, and made their greed, đem các niềm vui ô nhiễm hoặc đồi bại
anger and delusion increase. đến nhiều người, và làm cho tham ái,
sân hận, si mê nơi họ tăng trưởng.
Thus, one of the benefits that Vì thế, một trong những lợi ích mà
Buddhism provides for humanity is the Đạo Phật đem đến cho nhân loại là sự
knowledge of what is wholesome and hiểu biết về những gì là thiện và những
what is unwholesome. This kind of ‘right gì là bất thiện. Loại “chánh kiến” này là
21
W HAT AR E H U MA N S DOI N G ? C O N N GƯỜI ĐANG L ÀM N H Ữ N G G Ì ?
view’ is a very important factor for our một nhân tố rất quan trọng cho hạnh
individual welfare as well as for that of phúc của mỗi cá nhân chúng ta cũng
others. It is only with ‘right view’ that we như cho người khác. Chỉ với “chánh kiến”
can know how to walk on the right path. này mà chúng ta mới có thể biết cách đi
For example, after listening to the trên con đường đúng đắn. Ví dụ, sau khi
Buddha, the stage manager Tālāputa nghe Đức Phật giải thích, ông bầu
gave up his acting career and became a Tālāputa đã từ bỏ sự nghiệp biểu diễn
bhikkhu and practiced meditation. của mình, trở thành một vị tỷ-kheo và
Before long, he attained arahantship. thực hành thiền. Không lâu sau đó, vị ấy
chứng đắc quả vị A-la-hán.
Without right view, one often acts Không có chánh kiến, người ta
out of ignorance, chasing after sensual thường hành động không ngoài sự vô
pleasures, craving name and fame, minh, chạy theo sau các dục lạc, ham
drinking and gambling. Such muốn danh vọng và tiếng tăm, uống
unrestrained self-indulgence leads to rượu và bài bạc. Những sự bê tha, buông
suffering. On the other hand, a person thả như vậy sẽ đưa đến đau khổ. Ngược
with right view engages in wholesome lại, một người có chánh kiến thì làm
deeds, such as offering dāna, practicing những thiện nghiệp, như bố thí (dāna),
virtuous conduct, cultivating loving- tu tập giới hạnh, nuôi dưỡng lòng từ bi
kindness and compassion, and purifying và làm thanh tịnh tâm của mình qua việc
his mind through meditation. This leads hành thiền. Điều này sẽ dẫn đến hạnh
to happiness. phúc.
In the Dhammapada verses 316 Trong Kinh Pháp Cú (Dhammapada)
and 317, the Buddha says: câu 316 và 317, Đức Phật nói:
‘Those who are ashamed of what is Không đáng hổ, lại hổ.
not shameful, and unashamed of what is Việc đáng hổ, lại không.
shameful, such beings, embracing wrong Do chấp nhận tà kiến,
views, go to the woeful state’. Chúng sinh đến cõi khổ.
‘Those who see fear in the non- Không đáng sợ, lại sợ,
fearsome, and do not see fear in the Ðáng sợ, lại thấy không,
fearsome, such beings, embracing wrong Do chấp nhận tà kiến.
views, go to the woeful state’. Chúng sinh đến cõi khổ.
These words of the Buddha are a Lời dạy của Đức Phật là một sự
reflection of our modern age. For phản ánh thời kỳ hiện đại của chúng ta.
example, many poor people are Ví dụ, nhiều người nghèo xấu hổ vì sự
ashamed of their poverty and many rich nghèo khổ của mình và nhiều người giàu
people are proud of their wealth; tự hào với sự sang giàu của họ; những
unattractive people are ashamed of their người kém hấp dẫn thì hổ thẹn bởi vẻ
ugliness and beautiful people are proud xấu xí của mình và những người xinh
of their beauty. But are money and đẹp thì tự hào về sắc đẹp của bản thân.
beauty the yardsticks of what is Nhưng phải chăng tiền bạc và sắc đẹp là
shameful and what is not shameful? tiêu chuẩn để so sánh điều đáng xấu hổ
Certainly they are not. In either case, if a và điều không đáng xấu hổ? Chắc chắn
person is virtuous, then there is nothing không phải là vậy. Trong cả hai trường
to be ashamed of, but if the person is hợp, nếu một người có đạo đức, khi ấy sẽ
immoral, then even if he is very rich and không có điều gì là đáng xấu hổ, nhưng
22
W HAT AR E H U MA N S DOI N G ? C O N N GƯỜI ĐANG L ÀM N H Ữ N G G Ì ?
handsome there is nothing to be proud nếu đó là người vô đạo đức, thì thậm chí
of. Knowing this you should always dù anh ta là người rất giàu có và đẹp trai
examine whether what you are about to thì cũng không có gì là đáng tự hào. Biết
do is wholesome or unwholesome. được điều này quý vị nên luôn suy xét
những gì quý vị sắp làm là thiện hay bất
thiện.
I hope that this helps you to see Tôi hy vọng điều này sẽ giúp cho
how people really do not know the quý vị thấy được cách mà mọi người thật
difference between what is wholesome sự không biết được sự khác biệt giữa
and unwholesome. Generally, what they điều thiện và điều bất thiện. Nói chung,
like, they think is right (wholesome). những gì họ thích, họ nghĩ đó là đúng
What they dislike, they think is wrong (thiện). Những gì họ không thích, họ nghĩ
(unwholesome). But wholesome and đó là sai (bất thiện). Nhưng thiện và bất
unwholesome can not be known by likes thiện không thể được biết như là sự thích
and dislikes. Right can not be wrong; hay không thích. Đúng không thể là sai;
wrong can not be right. Wholesome itself sai không thể là đúng. Bản thân thiện là
is wholesome; unwholesome is lành; bản thân bất thiện là không lành.
unwholesome. Personal preference can’t Sở thích cá nhân không thể làm thay đổi
change them. chúng.
Returning to the sutta, the second Trở lại bài kinh, câu hỏi thứ hai của
question of the deva is: vị thiên là:
“How is it, dear sir, that by not “Thưa Tôn giả, làm sao không đứng
stopping and by not struggling you lại, không bước tới, Ngài vượt khỏi dòng
crossed the flood difficult to cross”? lũ khó vượt”?
The Buddha answers this question Đức Phật trả lời câu hỏi này như
by saying: sau:
“When I came to a standstill, then I “Này Hiền giả, khi Ta đứng lại, thời
sank; but when I struggled, then I got Ta chìm xuống. Này Hiền giả, khi Ta bước
swept away. It is in this way, friend, that tới, thời Ta trôi giạt; do vậy, này Hiền giả,
by not stopping and by not struggling I không đứng lại, không bước tới, Ta vượt
crossed the flood difficult to cross”. khỏi dòng lũ khó vượt”.
“When I came to a standstill, then I “Khi Ta đứng lại, thời Ta chìm
sank” means if he performed xuống” có nghĩa là nếu làm các nghiệp
unwholesome actions, he fell into the bất thiện thì Ngài rơi vào bốn cõi khổ.
four woeful planes. “But when I “Khi Ta bước tới, thời Ta trôi giạt” có
struggled, then I got swept away” means nghĩa là nếu làm các nghiệp thiện thì
if he performed wholesome actions, he Ngài vẫn bị tái sanh làm người hoặc chư
was still reborn as a human or a deva or thiên hoặc phạm thiên. Cho nên bằng
a Brahma. It is in this way that by not cách không đứng lại, không bước tới,
stopping and by not struggling he Ngài vượt khỏi dòng lũ.
crossed the flood.
According to the Buddha: Mind Theo Đức Phật: Tâm tự chính nó
itself is pure in origin but, because of vốn thanh tịnh, nhưng do bởi các tâm sở
associated unwholesome mental factors bất thiện phối hợp đi cùng như là tham
such as greed, hatred, delusion, pride, ái, sân hận, si mê, kiêu ngạo, ghen ghét,
23
W HAT AR E H U MA N S DOI N G ? C O N N GƯỜI ĐANG L ÀM N H Ữ N G G Ì ?
grip. They indeed become our real phiền phức cho ta suốt cả cuộc đời. Thật
home. không may mắn, hầu hết chúng ta bị trói
chặt trong vòng kiềm kẹp của chúng.
Chúng đã thực sự trở thành ngôi nhà của
ta.
The Dhammapada commentary Chú giải Kinh Pháp Cú
says: (Dhammapada) nói:
For the heedless, the four woeful Với kẻ phóng dật, bốn cõi khổ như
states are like their permanent home. là mái nhà thường trú của họ.
As we all know, we don’t often stay Như tất cả đều biết, ta không
long where we are only visitors. It is thường ở lâu tại nơi mà ta chỉ là khách.
natural for us to return to our home. Lẽ tất nhiên là ta phải trở về nhà của
mình.
In the same way, the human and Cũng tương tự như vậy, cõi người
deva realms are places we temporarily và cõi trời (deva) là những nơi mà chúng
visit only when the time is ripe. Sooner ta chỉ tạm thời viếng thăm khi thời gian
or later, along with our defilements, we chín muồi. Sớm hay muộn, cùng với các
have to return to our real home phiền não ô nhiễm của mình, ta phải trở
somewhere in the four woeful planes. về ngôi nhà thật sự ở đâu đó nằm trong
bốn cõi khổ.
The chance of being born in a Cơ hội được sanh ra trong cõi hạnh
happy realm or a miserable one is phúc hay cõi khổ đã được Đức Phật
clearly declared by Lord Buddha. The tuyên bố một cách rõ ràng. Kinh Tương
Mahāvagga Saṃyutta says: Ưng Bộ - Thiên Đại Phẩm (Mahāvagga
Saṃyutta) có đề cập:
On one occasion, the Blessed One Một dịp nọ, Thế Tôn lấy một ít đất
took up a little bit of soil on the tip of his lên trên đầu móng tay của Ngài và bảo
fingernail and addressed the bhikkhus các tỷ-kheo rằng:
thus:
“What do you think, bhikkhus, “Các Ông nghĩ thế nào, này các tỷ-
which is more: The little bit of soil on the kheo, cái gì là nhiều hơn, một ít đất Ta
tip of my fingernail or the great earth”? lấy lên trên đầu móng tay, hay quả đất
lớn này”?
“Venerable Sir, the great earth is “Bạch Thế Tôn, đất trên quả địa cầu
more. The little bit of soil that the này thì thật nhiều. Một ít đất mà Thế Tôn
Blessed One has taken up on the tip of để trên đầu móng tay thì thật không
his fingernail is trifling. Compared to the đáng kể. So với đất trên quả địa cầu to
great earth, the little bit of soil that the lớn này, một ít đất mà Thế Tôn để trên
Blessed One has taken up on the tip of
đầu móng tay của mình không thể nào
his fingernail does not bear comparison,
so sánh được, không bằng thậm chí là
does not amount even to a fraction”.
một phần nhỏ”.
“So too, bhikkhus, those beings are “Cũng vậy, này các tỷ-kheo, chỉ
few who, when they pass away as một số ít người, khi chết đi ở cõi người,
human beings, are reborn among human được tái sanh lại giữa cõi người. Nhưng
25
W HAT AR E H U MA N S DOI N G ? C O N N GƯỜI ĐANG L ÀM N H Ữ N G G Ì ?
beings. But those beings are more nhiều người hơn, khi chết đi ở cõi người,
numerous who, when they pass away as bị tái sanh trong địa ngục”.
human beings, are reborn in hell.
Why? Because, bhikkhus, they have “Tại sao? Bởi vì, này các tỷ-kheo,
not seen the Four Noble Truths. What họ chưa liễu ngộ Bốn Thánh Đế. Thế nào
four? The Noble Truth of Suffering, the là bốn? Thánh Đế về Khổ, Thánh Đế về
Noble Truth of the Origin of Suffering, the Nguồn gốc của Khổ, Thánh Đế về sự Diệt
Noble Truth of the Cessation of Suffering Khổ và Thánh Đế về Con đường đưa đến
and the Noble Truth of the Way Leading
sự Diệt khổ.
to the Cessation of Suffering.
‘Therefore, bhikkhus, an exertion “Vì vậy, này các tỷ-kheo, một nỗ
should be made to understand: ‘This is lực cần phải làm để rõ biết: “Đây là
suffering’. An exertion should be made Khổ”. Một nỗ lực cần phải làm để rõ biết:
to understand: ‘This is the origin of “Đây là nguồn gốc của Khổ”. Một nỗ lực
suffering’. An exertion should be made cần phải làm để rõ biết: “Đây là sự Diệt
to understand: ‘This is the cessation of
khổ”. Một nỗ lực cần phải làm để rõ biết:
suffering’. An exertion should be made
“Đây là Con đường đưa đến Diệt Khổ”.
to understand: ‘This is the way leading
to the cessation of suffering”.
The Buddha then continued: Đức Phật nói thêm:
“So too, bhikkhus, those beings are “Cũng vậy, này các tỷ-kheo, một số
few who, when they pass away as ít người, khi chết đi ở cõi người, được tái
human beings, are reborn among human sanh vào cõi người hoặc cõi trời. Nhưng
beings or the devas. But those beings nhiều người hơn, khi chết đi ở cõi người,
are more numerous who, when they pass bị tái sanh trong địa ngục, trong cõi súc
away as human beings, are reborn in
sanh, trong cõi ngạ quỷ”.
hell, in the animal realm, in the sphere of
ghosts.
“So too, bhikkhus, those beings are “Cũng vậy, này các tỷ-kheo, một số
few who, when they pass away as devas, ít người, khi chết đi ở cõi trời, được tái
are reborn among the devas or human sanh vào cõi trời hoặc cõi người. Nhưng
beings. But those beings are more nhiều người hơn, khi chết đi ở cõi trời, bị
numerous who, when they pass away as tái sanh trong địa ngục, trong cõi súc
devas, are reborn in hell, in the animal
sanh, trong cõi ngạ quỷ”.
realm, in the sphere of ghosts”.
“So too, bhikkhus, those beings are “Cũng vậy, này các tỷ-kheo, một số
few who, when they pass away from hell, ít người, khi chết đi ở cõi địa ngục, được
are reborn among human beings or the tái sanh vào cõi người hoặc cõi trời.
devas. But those beings are more Nhưng nhiều người hơn, khi chết đi ở cõi
numerous who, when they pass away địa ngục, bị tái sanh trong địa ngục,
from hell, are reborn in hell, in the trong cõi súc sanh, trong cõi ngạ quỷ”.
animal realm, in the sphere of ghosts”.
“So too, bhikkhus, those beings are “Cũng vậy, này các tỷ-kheo, một số
few who, when they pass away from the ít người, khi chết đi ở cõi súc sanh, được
animal realm, are reborn among human tái sanh vào cõi người hoặc cõi trời.
26
W HAT AR E H U MA N S DOI N G ? C O N N GƯỜI ĐANG L ÀM N H Ữ N G G Ì ?
beings or the devas. But those beings Nhưng nhiều người hơn, khi chết đi ở cõi
are more numerous who, when they pass súc sanh, bị tái sanh trong địa ngục,
away from the animal realm, are reborn trong cõi súc sanh, trong cõi ngạ quỷ”.
in hell, in the animal realm, in the sphere
of ghosts”.
“So too, bhikkhus, those beings are “Cũng vậy, này các tỷ-kheo, một số
few who, when they pass away from the ít người, khi chết đi ở cõi ngạ quỷ, được
sphere of ghosts, are reborn among tái sanh vào cõi người hoặc cõi trời.
human beings or the devas. But those Nhưng nhiều người hơn, khi chết đi ở cõi
beings are more numerous who, when ngạ quỷ, bị tái sanh trong địa ngục,
they pass away from the sphere of trong cõi súc sanh, trong cõi ngạ quỷ”.
ghosts, are reborn in hell, in the animal
realm, in the sphere of ghosts”.
Why? Because they have not seen Tại sao? Bởi vì họ chưa liễu ngộ Bốn
the Four Noble Truths! Because of not Thánh Đế! Vì không liễu ngộ được Bốn
knowing the Four Noble Truths, we live Thánh Đế, hầu hết chúng ta sống trong
mostly in the home of greed, hatred, ngôi nhà tham ái, sân hận, si mê, kiêu
delusion, pride, jealousy and stinginess. ngạo, ganh tỵ và bủn xỉn. Đây là lý do tại
This is the reason why few are reborn sao chỉ một số ít chúng sinh được tái
among human beings and the devas, but sanh ở cõi người và cõi trời, và phần
many more are born in hell, in the nhiều chúng sinh hơn bị tái sanh trong
animal realm, or in the sphere of ghosts. địa ngục, trong cõi súc sanh, hoặc trong
cõi ngạ quỷ.
According to the Buddha: Theo Đức Phật:
“Those beings are few who abstain “Một số ít người kiêng rượu và các
from wine, liquors, and intoxicants that chất say, những thứ là nền tảng của sự
are a basis for negligence. But those phóng dật. Nhưng nhiều người hơn thì
beings are more numerous who do not không kiêng rượu và các chất say, những
abstain from wines, liquors, and thứ là nền tảng cho sự phóng dật”.
intoxicants that are a basis for
negligence”.
“So too, bhikkhus, those beings are “Này các tỷ-kheo, một số ít người
few who honor their mother and father. tôn kính cha mẹ của mình. Nhưng nhiều
But those beings are more numerous người hơn thì không tôn kính cha mẹ của
who do not honor them”. mình”.
“So too, bhikkhus, those beings are “Cũng vậy, này các tỷ-kheo, một số
few who honor recluses. But those ít người tôn trọng các bậc tu hành.
beings are more numerous who do not Nhưng nhiều người hơn thì không tôn
honor recluses”. trọng các bậc tu hành”.
“So too, bhikkhus, those beings are “Cũng vậy, này các tỷ-kheo, một số
few who respect their elders in the ít người tôn kính những bậc lão niên
family. But those beings are more trong gia đình. Nhưng nhiều người hơn
numerous who do not respect their thì không tôn kính những bậc lão niên
elders in the family”. trong gia đình”.
“So too, bhikkhus, those beings are “Cũng vậy, này các tỷ-kheo, một số
27
W HAT AR E H U MA N S DOI N G ? C O N N GƯỜI ĐANG L ÀM N H Ữ N G G Ì ?
few who abstain from the destruction of ít người tránh xa sự sát sanh. Nhưng
life. But those beings are more nhiều người hơn thì không tránh xa sự
numerous who do not abstain from the sát sanh”.
destruction of life”.
“So too, bhikkhus, those beings are “Cũng vậy, này các tỷ-kheo, một số
few who abstain from taking what is not ít người tránh nói những lời nhảm nhí.
given. But those beings are more Nhưng nhiều người hơn thì không tránh
numerous who do not abstain from nói những lời nhảm nhí”.
taking what is not given”.
“So too, bhikkhus, those beings are “Cũng vậy, này các tỷ-kheo, một số
few who abstain from sexual ít người tránh xa sự tà dâm. Nhưng nhiều
misconduct. But those beings are more người hơn thì không tránh xa sự tà dâm”.
numerous who do not abstain from
sexual misconduct”.
“So too, bhikkhus, those beings are “Cũng vậy, này các tỷ-kheo, một số
few who abstain from false speech and ít người tránh xa sự nói dối và sự nói lời
divisive speech. But those beings are chia rẽ. Nhưng nhiều người hơn thì
more numerous who do not abstain from không tránh xa sự nói dối và sự nói lời
false speech and divisive speech”. chia rẽ”.
“So too, bhikkhus, those beings are “Cũng vậy, này các tỷ-kheo, một số
few who abstain from harsh speech and ít người tránh xa sự nói lời thô tục và sự
idle chatter. But those beings are more nói lời vô ích. Nhưng nhiều người hơn thì
numerous who do not abstain from harsh không tránh xa sự nói lời thô tục và sự
speech and idle chatter”. nói lời vô ích”.
There are very few people who are Một số rất ít người đang làm những
performing wholesome actions. Instead, nghiệp thiện. Thay vào đó, một số đông
the great masses of humanity are người lại đang bận rộn với các nghiệp
engaging in unwholesome actions. As bất thiện. Như Đức Phật đã chỉ rõ, số
the Buddha pointed out, those người đang làm các nghiệp thiện thì
performing wholesome actions are like được ví như một số ít đất trên đầu móng
the little bit of soil on the tip of his tay của Ngài và số còn lại là những người
fingernail and those others who are đang làm các nghiệp bất thiện thì được
engaging in unwholesome actions are ví như đất trên quả địa cầu to lớn này.
like the great earth. Few can be reborn Một số ít người là có thể được tái sanh ở
among human beings or devas. Most cõi người và cõi trời. Hầu hết mọi người
people on this great earth will be reborn trên quả đất này sẽ bị tái sanh vào cõi
in hell, in the animal realm, or in the địa ngục, súc sanh, hoặc ngạ quỷ. Tại
sphere of ghosts. Why? The doors to sao? Các cánh cửa dẫn đến các cõi khổ
these miserable states are opened by được mở ra bằng các hành vi bất thiện
unwholesome deeds which we do in this mà chúng ta làm trong kiếp này.
life.
What happens if we fall to the four Điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta rơi
woeful planes? This is explained in the vào bốn cõi khổ? Điều này được giải
sutta named “Yoke with a Hole”. It is thích trong bài kinh có tên “Cái Ách Có
from Mahāvagga Saṃyutta. In that sutta Một Cái Lỗ”. Trích từ Kinh Tương Ưng Bộ
28
W HAT AR E H U MA N S DOI N G ? C O N N GƯỜI ĐANG L ÀM N H Ữ N G G Ì ?
29
W HAT AR E H U MA N S DOI N G ? C O N N GƯỜI ĐANG L ÀM N H Ữ N G G Ì ?
hour, we are afraid of death; we fear khi chờ đợi giờ phút cuối cùng, ta sợ hãi
death. We grieve, we lament and cái chết; ta kinh sợ cái chết. Ta đau khổ,
become bewildered. To make it clear, let than van và trở nên hoang mang. Để làm
me quote a sutta from Aṅguttara Nikāya. sáng tỏ điều này, hãy để tôi trích dẫn
The title of the sutta is Abhaya Sutta, một bài kinh từ Kinh Tăng Chi Bộ
fearless. In it our Buddha said: (Aṅguttara Nikāya). Tựa đề của bài kinh
là Abhaya Sutta, Vô Úy. Trong đó Đức
Phật đã nói:
“There is indeed, brahmin, such a “Này Bà-la-môn, có người bản tánh
mortal who fears death, who is afraid of bị chết, sợ hãi, rơi vào run sợ khi nghĩ
death. Who is the one who fears death”? đến chết. Thế nào là người bản tánh bị
chết, sợ hãi, rơi vào run sợ khi nghĩ đến
chết”?
“There is, brahmin, a person who is “Ở đây, này Bà-la-môn, có người
not free from lust for sensual pleasures, không ly tham đối với các dục, không ly
not free from the desire and affection for tham muốn, không ly luyến ái, không ly
them, not free from thirsting and khát ái, không ly nhiệt não, không ly
fevering after them, not free from tham ái. Rồi một chứng bệnh trầm trọng
craving for sensual pleasures. Then it khởi lên với người ấy. Người ấy bị khổ sở
happens that a grave illness befalls him. bởi chứng bệnh trầm trọng ấy, suy nghĩ
Thus afflicted by a grave illness, he như sau: “Thật sự các dục khả ái sẽ bỏ
thinks: ‘Oh, those beloved sensual ta”, hay “Ta sẽ từ bỏ các dục khả ái”.
pleasures will leave me, and I shall have Người ấy sầu muộn, than vãn, khóc lóc,
to leave them! Thereupon he grieves, đập ngực, rơi vào bất tỉnh. Đây là người
moans, laments, weeps, beating his bản tánh bị chết, sợ hãi, rơi vào run sợ
breast and becomes bewildered. This khi nghĩ đến chết”.
mortal is one who fears death, who is
afraid of death”.
How can we be reborn in the happy Làm sao chúng ta có thể tái sanh
states if we died in this way? vào các cõi hạnh phúc cõi thiện giới nếu
chúng ta chết như thế này?
“Further, brahmin, there is a person “Lại nữa, này Bà-la-môn, có người
who is not free from lust for this body, không ly tham đối với thân này, không ly
not free from the desire and affection for tham muốn, không ly luyến ái, không ly
it, not free from thirsting and fevering khát ái, không ly nhiệt não, không ly
after it, not free from craving for the tham ái. Rồi một chứng bệnh trầm trọng
body. Then it happens that a grave khởi lên với người ấy. Người ấy bị khổ sở
illness befalls him. Thus afflicted by a bởi chứng bệnh trầm trọng ấy, suy nghĩ
grave illness, he thinks: ‘Oh, this beloved như sau: “Thật sự thân khả ái này sẽ bỏ
body will leave me, and I shall have to ta”, hay “Ta sẽ từ bỏ thân khả ái này”.
leave it! Thereupon he grieves, moans, Người ấy sầu muộn, than vãn, khóc lóc,
laments, weeps, beating his breast and đập ngực, rơi vào bất tỉnh. Đây là người
becomes bewildered. This mortal is one bản tánh bị chết, sợ hãi, rơi vào run sợ
who fears death, who is afraid of death”. khi nghĩ đến chết”.
How can we be reborn in the happy Làm sao chúng ta có thể tái sanh
states if we died in this way? vào các cõi hạnh phúc nếu chúng ta chết
30
W HAT AR E H U MA N S DOI N G ? C O N N GƯỜI ĐANG L ÀM N H Ữ N G G Ì ?
32
W HAT AR E H U MA N S DOI N G ? C O N N GƯỜI ĐANG L ÀM N H Ữ N G G Ì ?
The talk given on Sunday, Bài pháp được thuyết vào ngày Chủ Nhật,
10th October 2005 at Pa-Auk Tawya in Ngày 10 Tháng 10 năm 2005 tại Rừng
Myanmar and thiền Pa-Auk, Myanmar, và
November 2005 at Shuang Lin Tháng 11 năm 2005 tại Tu Viện Shuang
Monastery & Tisarana in Singapore Lin và Tu Viện Tisarana, Singapore.
33
A Life Of True Security
From time immemorial, we humans Từ thời thượng cổ, loài người chúng
have sought protection against the ta đã tìm cầu sự bảo hộ chống lại vô số
countless dangers that threaten to các hiểm nguy đe dọa nhấn chìm chúng
engulf us and our loved ones, as well as ta và những người thân yêu, cũng như
entire nations and society as a whole. toàn bộ quốc gia và xã hội nói chung. Có
Some dangers we can see, they touch một số hiểm nguy mà chúng ta có thể
and harm us through our physical thấy được, chúng tác động và gây tai hại
organs; others arise mysteriously and cho các bộ phận cơ thể chúng ta; một số
imperceptibly to plague us like ghosts hiểm nguy khác khởi sinh một cách bí ẩn
and goblins in the night. Man counters và không thể nhận thấy được đến gây tai
them with various rites and rituals. Some họa cho chúng ta như là ma quỷ và dạ-
of these are colorful and elaborate; some xoa trong đêm tối. Con người đối phó với
even seem to produce the desired result. chúng bằng các lễ nghi tôn giáo khác
But, without our knowing their long-term nhau. Một số lễ nghi có rất nhiều màu
effects or when our life circumstances sắc và công phu; một số dường như có
will change, even the most powerful khả năng đưa đến kết quả như mong đợi.
ritual cannot protect us from the result Nhưng, nếu không hiểu biết hết ảnh
of our past kamma. hưởng lâu dài của chúng hoặc khi tình
huống đời sống thay đổi, ngay cả lễ nghi
tôn giáo quyền lực nhất cũng không thể
bảo hộ ta thoát khỏi quả của các nghiệp
trong quá khứ của mình.
Equally elaborate is the protection Một sự phức tạp tương đương nữa
and security we build around ourselves là sự phòng hộ và an ninh mà ta xây
to counter physical dangers and threats. dựng xung quanh mình để đối phó với
35
A L IF E O F T R U E S E C U RITY M Ộ T C U Ộ C S Ố NG T H Ậ T S Ự AN T OÀ N
Health insurance, life insurance, police, những hiểm nguy và các đe dọa thuộc
vaccinations, medical checkups, về thân thể. Bảo hiểm sức khỏe, bảo
vitamins, organic food, low cholesterol hiểm nhân thọ, cảnh sát, vaccin, kiểm
diets, fallout shelters, and bullet-proof tra y tế, vitamin, thực phẩm tự nhiên,
vests are just some of the measures we chế độ ăn có ít cholesterol, nhà chống
employ to protect ourselves against the phóng xạ, áo chống đạn là chỉ một số
danger of the unknown. How often do we các biện pháp mà ta dùng để bảo vệ
see rings of bodyguards surrounding mình khỏi các hiểm nguy chưa biết
important personages or security trước. Ta thường thấy các vòng vây vệ sĩ
systems and guard dogs at the homes of bao quanh các nhân vật quan trọng hoặc
the wealthy? Nations, too, stockpile huge các hệ thống an ninh và chó bảo vệ
armories of weapons; some even want to trong nhà các gia đình giàu có như thế
send their weapons into outer space. nào? Các quốc gia cũng vậy, họ dự trữ
các kho vũ khí khổng lồ; thậm chí một số
quốc gia còn muốn đem vũ khí của mình
lên không gian.
When people see a person Khi người ta thấy một nhân vật
surrounded by signs and symbols of được vây quanh với các dấu hiệu và biểu
external security, such as armed guards tượng an ninh bên ngoài như đội bảo vệ
and kung-fu experts, they are almost có vũ trang và các võ sĩ kung-fu, chúng
always impressed. Some even crave luôn luôn gây ấn tượng. Một số người
such a show of security. They mistakenly còn thèm muốn vẻ phô diễn an ninh như
believe that this will help bring them the vậy. Họ sai lầm tin rằng điều này sẽ đem
security that they crave. lại sự an toàn mà họ ao ước.
Let us now ask ourselves two Bây giờ chúng ta hãy tự hỏi chính
important questions: mình hai câu hỏi quan trọng sau:
what is a life of true 1) Thế nào là một cuộc
security? sống an toàn thật sự?
how is a life of true security 2) Làm thế nào để phát
developed? triển được một cuộc sống an toàn
thật sự?
These two questions are the Hai câu hỏi này là chủ đề của bài
subject of my talk tonight. I am basing pháp thoại tối nay của tôi. Bài pháp này
this talk on selections from the Saṃyutta dựa trên các bài kinh trong Kinh Tương
Nikāya, the Aṅguttara Nikāya and the Ưng Bộ (Saṃyutta Nikāya), Kinh Tăng
Dhammapada. Thus, the foundation for Chi Bộ (Aṅguttara Nikāya) và Kinh Pháp
my talk tonight is the Dhamma of our Cú (Dhammapada). Do vậy, nền tảng
Lord Buddha. Once I present the facts, pháp thoại tối nay của tôi là Giáo Pháp
you can draw your own conclusions. của Đức Phật. Khi tôi giới thiệu các sự
kiện, quý vị có thể tự rút ra các kết luận
của chính mình.
Let us begin with the first question: Chúng ta hãy bắt đầu với câu hỏi
‘‘What is a life of true security?’’ đầu tiên: “Thế nào là một cuộc sống an
toàn thật sự”?
In order to give the correct answer Để đưa ra câu trả lời đúng đắn cho
36
A L IF E O F T R U E S E C U RITY M Ộ T C U Ộ C S Ố NG T H Ậ T S Ự AN T OÀ N
to this question, a Buddha has to arise in câu hỏi này, một vị Phật phải xuất hiện
the world. Why? Just as darkness trên thế gian. Tại sao? Giống như bóng
disappears with the rising of the sun, tối biến mất khi mặt trời mọc, vô minh
ignorance disappears with the arising of biến mất với sự xuất hiện của một vị
a Buddha. It is only with the arising of a Phật. Chỉ với sự xuất hiện của một vị
Buddha that we can understand what is Phật mà chúng ta mới có thể biết được
wholesome and what is unwholesome. thế nào là thiện và thế nào là bất thiện.
When we put that understanding into Khi chúng ta đặt hiểu biết đó vào trong
practice we can dispel our own thực hành, chúng ta có thể xua tan vô
ignorance. Only then can we truly know minh của chính mình. Chỉ với lúc đó,
the difference between reality and chúng ta mới thật sự biết được sự khác
illusion, wholesome and unwhole-some, biệt giữa sự thật và ảo tưởng, giữa thiện
saṃsāra and Nibbāna. và bất thiện, giữa luân hồi và Niết-bàn
(Nibbāna).
Let us now refer to the teachings of Bây giờ, chúng ta hãy liên hệ đến
Lord Buddha. Giáo Pháp của Đức Phật.
My first reference comes from the Sự tham chiếu đầu tiên của tôi đến
Kosala Saṃyutta in the Sagāthā Vagga từ Tương Ưng Kosala (Kosala Saṃyutta)
Saṃyutta. The title of the sutta is trong Tương Ưng Thiên có kệ (Sagāthā
Attarakkhita, which means self (Atta)- Vagga Saṃyutta). Tiêu đề của bài kinh là
protected (rakkhita). Attarakkhita nghĩa là Tự Ngã (Atta) được
Bảo Hộ (rakkhita).
“Once, when our Lord Buddha was “Một thời Thế Tôn trú ở Sāvatthi.
staying in Sāvatthi, King Pasenadi of Rồi vua Pasenadi nước Kosala đi đến Thế
Kosala visited the Lord. Having paid Tôn, sau khi đến, đảnh lễ và nói lên với
proper respects to the Lord and sitting to Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm, rồi
one side, the King addressed the Lord: ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một
bên, vua Pasenadi nước Kosala bạch với
Thế Tôn:
‘Venerable Sir. While I was alone in “Ở đây, bạch Thế Tôn, trong khi con
seclusion, this question arose in my đang ngồi yên tịnh một mình, tư tưởng
mind, ‘Who protect themselves and who này khởi lên nơi con: “Ðối với những ai,
leave themselves unprotected?’ tự ngã được bảo vệ? Ðối với những ai, tự
ngã không được bảo vệ”?
“Then it occurred to me, ‘those who “Và rồi bạch Thế Tôn, con suy nghĩ
engage in misconduct with the body, như sau: Những ai thân làm ác, miệng
misconduct in speech and misconduct in nói ác, ý nghĩ ác, những người ấy không
the mind do leave themselves bảo vệ tự ngã. Dầu cho họ được tượng
unprotected. Even though a company of binh bảo vệ, hay được mã binh bảo vệ,
elephant troops may protect them; or a hay được xa binh bảo vệ, hay được bộ
company of soldiers who fight on binh bảo vệ; đối với những người ấy, tự
horseback; or a company of soldiers who ngã không được bảo vệ”.
fight on chariots; or a company of
soldiers who fight on foot may protect
them, still they leave themselves
37
A L IF E O F T R U E S E C U RITY M Ộ T C U Ộ C S Ố NG T H Ậ T S Ự AN T OÀ N
unprotected’.
‘For what reason? The reason is “Vì cớ sao? Vì sự bảo vệ như vậy là
that that protection is external, not bảo vệ ở bên ngoài, không phải sự bảo
internal. Therefore, they leave vệ bên trong. Cho nên đối với những
themselves unprotected. However, those người ấy, tự ngã không được bảo vệ. Và
who engage in good conduct with the những ai thân làm thiện, miệng nói
body, good conduct in speech and good thiện, ý nghĩ thiện, những người ấy bảo
conduct in the mind will protect vệ tự ngã. Dầu cho họ không được tượng
themselves even though they have no binh bảo vệ, hay không được mã binh
companies of special soldiers to protect bảo vệ, hay không được xa binh bảo vệ,
them’. hay không được bộ binh bảo vệ; đối với
những người ấy, tự ngã được bảo vệ”.
‘For what reason? The reason is “Vì cớ sao? Vì sự bảo vệ như vậy là
that that protection is internal, not sự bảo vệ bên trong, không phải sự bảo
external. Therefore, they protect vệ ở bên ngoài. Cho nên đối với những
themselves”. người ấy, tự ngã được bảo vệ”.
The Buddha agreed with the King, Đức Phật đồng ý với nhà vua:
saying, “So it is, great King; so it is”, “Đúng vậy, này Ðại vương, đúng vậy”,
thereon repeating the entire previous sau khi lặp lại toàn bộ suy tư trước đó
statement of King Pasenadi, Lord Buddha của vua Pasenadi, Đức Phật đã cất lên
then went on to recite this stanza: câu kệ sau:
‘‘Good is restraint with the body, Lành thay bảo vệ thân!
Restraint by speech is also good; Lành thay bảo vệ lời!
Good is restraint in the mind, Lành thay bảo vệ ý!
Restraint everywhere is good. Lành thay tổng bảo vệ!
Conscientious, everywhere Kẻ liêm sỉ bảo vệ,
restrained, Tổng quát và cùng khắp,
One is said to be protected’.’ Vị ấy có tên gọi,
Là vị được bảo vệ.
Reading this sutta, we may know to Đọc bài kinh này, chúng ta có thể
some extent who is protected and who is biết được ở chừng mực nào đó ai là
unprotected. However, in order to really người được bảo vệ và ai là người không
know how to gain ‘true security’ for được bảo vệ. Tuy nhiên, để thực sự biết
ourselves, we need to reflect deeply. làm thế nào để đạt được “an toàn thực
sự” cho chính mình, ta cần suy xét sâu
hơn.
When we thoroughly understand Khi ta thấu hiểu được bản chất của
the nature of security, then even if we sự an toàn, thì ngay cả khi ta không có
have no external protection, we need not sự bảo vệ ở ngoài, ta vẫn không cần phải
fear. Why? Remember the stanza recited sợ. Tại sao? Hãy nhớ lại bài kệ mà Đức
by the Buddha to King Pasenadi? Phật nói với vua Pasenadi.
“Good is restraint with the body, Lành thay bảo vệ thân!
Restraint by speech is also good, Lành thay bảo vệ lời!
38
A L IF E O F T R U E S E C U RITY M Ộ T C U Ộ C S Ố NG T H Ậ T S Ự AN T OÀ N
39
A L IF E O F T R U E S E C U RITY M Ộ T C U Ộ C S Ố NG T H Ậ T S Ự AN T OÀ N
entirely for the benefit of humans and ích của nhân loại và chư thiên nào nhận
devas who recognize its benefit and seek ra lợi ích của nó và tầm cầu nó cho chính
it out, both for themselves and others. bản thân họ lẫn cho những người khác.
In order to live a life of true Để sống một cuộc sống an toàn
security, the Buddha taught that thật sự, Đức Phật dạy rằng thân, khẩu, ý
wholesome bodily, verbal and mental thiện lành bảo hộ chúng ta khỏi sầu khổ,
actions protect us from grief, worry, fear lo âu, sợ hãi và hiểm nguy cũng như khổ
and danger, as well as the suffering đau sinh khởi do việc tái sanh trong bốn
arising from rebirth in the four woeful cõi dữ. Mặc khác, thân, khẩu, ý bất thiện
states. Unwholesome bodily, verbal and là nguyên nhân của sầu khổ, lo âu, sợ
mental actions, on the other hand, are hãi và hiểm nguy cũng như khổ đau sinh
the cause of grief, worry, fear, danger khởi do việc tái sanh trong đọa xứ.
and rebirth in the lower states.
Why is that so? To understand right Tại sao như vậy? Để hiểu được thế
and wrong bodily, verbal and mental nào là đúng và sai của các hành vi thân,
actions, we must analyze their causes. khẩu, ý, chúng ta phải phân tích các
When we know their causes, we can nhân của chúng. Khi chúng ta biết các
start to train ourselves to suppress, nhân của chúng, chúng ta có thể rèn
reduce or even eradicate them. luyện chính mình để ngăn chặn, giảm
bớt và thậm chí nhổ bỏ chúng.
Let me ask you a few simple Hãy để tôi hỏi quý vị một vài câu
questions: hỏi đơn giản:
Can you find any greed in your Quý vị có tìm thấy bất kỳ sự tham
mind right now? Can you find any anger ái nào trong tâm của quý vị bây giờ
in your mind right now? không? Quý vị có tìm thấy bất kỳ sự sân
hận nào trong tâm của quý vị bây giờ
không?
You will probably answer ‘No’. Quý vị có thể trả lời rằng: “Không”.
Even if after exhaustively searching Thậm chí sau khi tìm kiếm thấu đáo
your mind you cannot find a single trong tâm mình, quý vị vẫn không thể
unwholesome quality, that does not thấy một loại bất thiện nào, điều đó
mean unwholesome qualities do not không có nghĩa là các loại bất thiện ấy
exist. They do exist – but at this moment không tồn tại. Chúng thật sự tồn tại –
they exist only as latent defilements nhưng ở thời điểm này chúng chỉ tồn tại
(anusaya kilesā) lying dormant at the ở dạng phiền não ô nhiễm ngủ ngầm
base of the mental continuum. Until we (anusaya kilesā) nằm trong dòng tâm
eradicate these defilements with path- hữu phần (tâm hộ kiếp). Cho đến khi nào
knowledge, they accompany us from chúng ta nhổ tận gốc rễ các phiền não ô
rebirth to rebirth and bind us to the nhiễm này bằng đạo trí còn nếu không
wheel of existence. thì chúng vẫn luôn đi cùng với chúng ta
từ kiếp tái sanh này đến kiếp tái sanh
khác và cột chặt chúng ta vào bánh xe
luân hồi.
Let me illustrate: Hãy để tôi minh họa:
Immediately after death- Ngay sau khi tử tâm khởi lên, tâm
40
A L IF E O F T R U E S E C U RITY M Ộ T C U Ộ C S Ố NG T H Ậ T S Ự AN T OÀ N
unwholesome bodily and verbal actions. tức là thực hiện các hành động hay lời
The same basic pattern occurs with the nói bất thiện. Các kiểu căn bản tương tự
defilements rooted in hatred and cũng xảy ra với các phiền não ô nhiễm
delusion. When we see an object that we có nhân là sân hận và si mê. Khi chúng
do not like, aversion arises. Likewise, ta thấy một đối tượng mà chúng ta
when we see an object without knowing
không thích, sự ác cảm sinh khởi. Cũng
that its fundamental nature is
vậy, khi chúng ta thấy một đối tượng mà
impermanence, suffering and non-self,
delusion arises. không biết rằng bản chất căn bản của nó
là vô thường, khổ và vô ngã thì sự si mê
sinh khởi.
At this Stage of Obsession, if we Ở Giai đoạn Ám ảnh, nếu chúng ta
keep our mindfulness, the defilement giữ niệm, các phiền não ô nhiễm có thể
can be suppressed. In this way, we can bị đè nén. Với cách này, chúng ta có thể
prevent unwholesome actions from ngăn chặn không để các hành động bất
being performed. However, when there thiện được thể hiện ra. Tuy nhiên, khi có
is a lack of mindfulness, our ‘obsession’
sự thất niệm, điều “ám ảnh” của chúng
quickly and invariably gives rise to
ta sẽ nhanh chóng và hầu như luôn luôn
wrong action. This is the Stage of
Transgression. đưa đến hành động sai trái. Đó là Giai
đoạn Vi phạm (Vītikkama).
Let me go one step further: Hãy để tôi đi thêm một bước nữa:
There are six sense-doors on which Có sáu căn, mà nhờ đó các đối
visible objects, sound objects, smell tượng hữu hình, âm thanh, mùi, vị, các
objects, taste objects, tangible objects đối tượng có thể xúc chạm được và các
and mind objects can impinge. Due to đối tượng của tâm có thể va chạm vào.
unwise attention greed arises upon Do tác ý không khôn khéo (phi như lý tác
contact with a desirable object. In the
ý) khi tiếp xúc với đối tượng khả ái,
same way, due to unwise attention
tham ái sinh khởi. Theo cách tương tự,
hatred arises upon contact with an
undesirable object. Whenever greed or do tác ý không khôn khéo khi tiếp xúc
hatred arises delusion follows. với đối tượng không khả ái, sân hận khởi
sinh. Bất kỳ lúc nào tham ái hay sân hận
sinh khởi thì si mê đều có mặt.
The nature of greed is wanting or Bản chất của tham ái là sự ham
desiring. Its function is to stick like glue. muốn hay khát khao. Chức năng của nó
When desire for an object arises, greed là bám dính như keo hồ. Khi lòng khao
sticks to the object. Thus, greed is only khát một đối tượng sinh khởi, tham ái
doing its job. Hatred and delusion also bám chặt vào đối tượng đó. Như vậy
have their jobs to do.
tham ái chỉ đang làm công việc của nó.
Sân hận và si mê cũng có các việc làm
của chúng.
The problem comes with self- Vấn đề nằm ở ngã kiến, là cái đảm
identity, which ensures that greed, bảo rằng tham ái, sân hận, và si mê đó
hatred and delusion cannot be separated không hề tách rời khỏi “tôi”, “là tôi”,
42
A L IF E O F T R U E S E C U RITY M Ộ T C U Ộ C S Ố NG T H Ậ T S Ự AN T OÀ N
43
A L IF E O F T R U E S E C U RITY M Ộ T C U Ộ C S Ố NG T H Ậ T S Ự AN T OÀ N
enhance their physical image. So much cách để làm nổi bật hình ảnh bên ngoài
time is spent in this way! But how many của mình. Tốn quá nhiều thời gian cho
people take time to examine themselves chuyện này! Nhưng có mấy người biết
for greed, anger, delusion, jealousy, dùng thời gian để xem xét tính tham ái,
envy, stinginess, pride, etc., when these sân hận, si mê, ganh ghét, đố kỵ, bủn
defilements rise to the surface of the xỉn, ngạo mạn... của chính mình khi các
mind? I think very few indeed. phiền não ô nhiễm này khởi sinh lên bề
mặt của tâm? Tôi nghĩ thực sự là có rất ít
người như vậy.
How rare it is to find an individual Thật hiếm biết bao để tìm được một
who can recognize the arising of người có thể nhận biết được sự sinh khởi
defilements and then willingly suppress các phiền não ô nhiễm và sau đó sẵn
them. The rest of us give free rein to our lòng đàn áp chúng. Số người còn lại
defilements and allow them to run trong chúng ta thì lại thả cho các phiền
rampant in our mind. As if this were not não ô nhiễm được tự do và cho chúng
enough our defilements are promoted chạy phấn khích trong tâm mình. Như
and bolstered by the media to make sure thể điều này vẫn còn chưa đủ, các phiền
that we all become addicted to them. não ô nhiễm của ta lại được khuyến
khích và ủng hộ bởi các phương tiện
truyền thông để đảm bảo rằng tất cả
chúng ta đều trở nên nghiện ngập với
chúng.
At this point, let me ask you Ở điểm này, hãy để tôi hỏi quý vị
another question. What is more một câu hỏi khác. Thứ gì là đẹp hơn: một
beautiful: a beautiful face or a beautiful khuôn mặt đẹp hay một tâm hồn đẹp?
mind? Shouldn’t the answer be beautiful Chẳng phải câu trả lời nên là tâm hồn
mind? It is not because of beautifying đẹp đó sao? Không phải là vì làm đẹp
our faces that we are reborn as humans. khuôn mặt mà chính bởi việc làm đẹp và
It is because of beautifying and purifying thanh tịnh tâm mà ta được tái sanh làm
our minds. con người.
That being so, shouldn’t we reverse Đã là như vậy, chẳng phải là chúng
the ‘time-and-effort scale’? Wouldn’t it ta nên đảo ngược lại “cán cân thời gian-
be better if we spent more time putting và sức lực” hay sao? Chẳng phải là tốt
forth effort to cultivate wholesome hơn nếu chúng ta dùng thêm thời giờ,
qualities and eradicate unwholesome đem hết cố gắng để vun trồng các thiện
qualities and less time and effort on căn, diệt trừ các bất thiện căn và dùng ít
physical beauty and self-admiration? If thời gian và công sức cho việc làm đẹp
we do not do this how will we be thân thể và tự thán phục chính mình?
protected? Remember what the Buddha Nếu ta không làm điều này thì làm sao
said in the Attarakkhita Sutta? mà ta được bảo vệ? Xin hãy nhớ lại
những gì Đức Phật đã dạy trong Kinh Tự
Ngã Được Bảo Hộ (Attarakkhita Sutta):
“Restraint everywhere is good. Lành thay tổng bảo vệ!
Conscientious, everywhere Kẻ liêm sỉ bảo vệ,
restrained, Tổng quát và cùng khắp,
45
A L IF E O F T R U E S E C U RITY M Ộ T C U Ộ C S Ố NG T H Ậ T S Ự AN T OÀ N
Actually, food had been prepared but the thực đã được sẵn sàng nhưng nhà vua đã
King had forgotten to order his servants quên ra lệnh cho người hầu phục vụ khi
to serve the meals in his absence. nhà vua vắng mặt. Không có lệnh của
Without the King’s order, no one dared nhà vua, không ai dám phục vụ. Sau đó
to do so. When the King found out later khi nhà vua thấy Chư Tăng đã bỏ đi mà
that the Sangha had left without taking không dùng các vật thực đã được chuẩn
the prepared food, he felt offended. He bị, vua cảm thấy bị xúc phạm. Vua đã đi
went to the Buddha to complain. đến gặp Đức Phật để than phiền.
The Buddha released the bhikkhus Đức Phật không quy lỗi cho các tỷ-
from blame and told the King truthfully kheo mà bảo nhà vua rằng sự thật là các
that the bhikkhus lacked confidence in tỷ-kheo thiếu lòng tin nơi nhà vua. Do đó
him. For that reason they had left. họ đã ra đi. Thấy ra và chấp nhận lỗi lầm
Realizing and accepting his fault, King của mình, vua Pasenadi dự định lấy lại
Pasenadi designed to regain the niềm tin của Đức Phật và Tăng đoàn.
confidence of the Buddha and his Nhà vua nghĩ cách tốt nhất là phải thiết
Sangha. He thought that the best way lập một mối quan hệ thật chặt chẽ giữa
was to establish a strong relationship nhà vua và Đức Phật. Một đám cưới với
between himself and the Buddha. A một cô gái dòng họ Sakya (Thích Ca),
marriage with a Sakiya lady, a relative of một người bà con của Đức Phật được
the Buddha was considered an xem là một phương cách thích hợp. Vì
appropriate way. So he sent an vậy, nhà vua đã gởi sứ giả đến dòng họ
ambassador to the Sakiyas requesting a Sakya để xin hỏi cưới một cô gái dòng
Sakiyan daughter in marriage. dõi Sakya.
The Sakiyas were worried about Dòng họ Sakya liền lo lắng đến các
potential problems if they did not send a vấn đề tiềm ẩn nếu họ không gởi một cô
lady to marry the King. Kosala was a gái để nhà vua cưới. Kosala là một vương
much bigger and stronger state than quốc lớn hơn và mạnh hơn Sakya rất
Sakiya. King Mahā Nāma of the Sakiyas nhiều. Và Vua Mahā Nāma (Ma Ha Nam)
decided to send Vāsabhakhattiyā, the của dòng họ Sakya quyết định chọn
beautiful daughter of King Mahā Nāma Vāsabhakhattiyā, là người con gái xinh
by a slave-woman. King Pasenadi đẹp của vua Mahā Nāma với một tỳ nữ.
married her and soon she became the Vua Pasenadi cưới nàng và nàng sớm trở
mother of a son, Vidūdabha. thành mẹ của hoàng tử Vidūdabha (Lưu
Ly).
From the age of seven, Prince Từ khi lên bảy tuổi, hoàng tử
Vidūdabha constantly asked about his Vidūdabha thường xuyên hỏi về gia đình
mother’s family. At sixteen, Prince bên ngoại. Khi được mười sáu tuổi,
Vidūdabha persistently asked to visit his hoàng tử khăng khăng đòi đi thăm ông
maternal grandfather, King Mahā Nāma. ngoại, vua Mahā Nāma. Cuối cùng, mẹ
Finally, his mother, Vāsabhakhattiyā, của hoàng tử, Vāsabhakhattiyā đồng ý
agreed to let him go. As she was aware để hoàng tử đi. Vì nàng biết về dòng dõi
of her own lineage, and therefore của mình, nên đã đoán trước các vấn đề
anticipated potential problems, she sent tiềm ẩn, nàng gởi trước một bức thư cho
a letter ahead to the Sakiyas stating that dòng họ Sakya nói rằng nàng hạnh phúc
she was happy where she was. She với nơi nàng ở. Nàng thỉnh cầu dòng họ
requested that for the happiness and Sakya sẽ cư xử tốt và không cao ngạo
47
A L IF E O F T R U E S E C U RITY M Ộ T C U Ộ C S Ố NG T H Ậ T S Ự AN T OÀ N
peace of all concerned, the Sakiyas với con trai của nàng vì hạnh phúc và
would do well not to behave proudly hòa bình cho các bên liên quan.
towards her son.
Prince Vidūdabha went to the Hoàng tử Vidūdabha đến kinh đô
Sakiyan capital, Kapilavathu with a large của người Sakya, Kapilavathu (Thành Ca
retinue. His Sakiyan relatives welcomed Tỳ La Vệ) với đoàn tùy tùng lớn. Những
him very well and gave him many gifts. người bà con của chàng đón tiếp rất tốt
In the course of the visit, the Prince và tặng nhiều món quà. Trong chuyến
noted something strange. No relative viếng thăm, hoàng tử đã lưu ý vài điều
paid respects to him. He himself had khác lạ. Không có quyến thuộc nào hành
paid respects to all the relatives who lễ chào chàng. Chàng tự mình hành lễ
were senior to him. When he enquired, với tất cả các bà con có vai vế lớn hơn.
he found out that all the princes younger Khi hoàng tử hỏi thăm thì biết rằng tất
than him were not there. (When the cả các ông hoàng nhỏ hơn đều không có
relatives of the Buddha knew of his mặt ở đó. (Khi quyến thuộc của Đức Phật
coming, they decided not to pay biết về chuyến viếng thăm này, họ quyết
respects to him, as he was the son of a định sẽ không hành lễ với hoàng tử vì
slave-woman. So they sent away all the chàng ta là con trai của một tỳ nữ. Do
princes who were younger than him.) vậy, họ đã gởi tất cả các ông hoàng nhỏ
đi nơi khác.)
Nonetheless, he stayed there for Dù vậy, chàng đã ở lại đó ba ngày
three days before returning to Kosala. trước khi trở về Kosala. Sau khi rời đi,
After he left, one of his servants realized một người hầu nhận thấy mình đã để
that he had forgotten something at quên vài thứ ở Kapilavathu. Do vậy, anh
Kapilavathu. So he went back to collect ta quay lại để lấy nó. Ở đó, anh ta thấy
it. There he saw a slave-woman washing một tỳ nữ đang dùng sữa chùi rửa chỗ
with milk the seat that Prince Vidūdabha ngồi mà hoàng tử Vidūdabha đã dùng. Tò
had used. Curious, the servant asked the mò, người hầu ấy hỏi cô tỳ nữ lý do tại
slave why she was washing the seat with sao cô phải chùi chỗ ngồi bằng sữa. Cô
milk. She replied that the seat had been đáp rằng chỗ ngồi đó đã bị sử dụng bởi
used by the son of a slave-woman, con trai của một tỳ nữ, hoàng tử
Prince Vidūdabha. Vidūdabha.
In a short time, that incident Trong một thời gian ngắn, tình tiết
became common gossip. Soon it came to đó trở thành câu chuyện ngồi lê đôi
the ears of the Prince. With his pride mách phổ biến. Nó nhanh chóng lan đến
pricked and deeply affected by this tai hoàng tử. Với lòng kiêu hãnh bị chọc
news, strong hatred arose in his mind. thủng và bị tác động sâu sắc bởi tin tức
Hatred came to the surface of his mind. này, cơn hận thù mạnh mẽ đã khởi lên
trong tâm chàng. Lòng hận thù đã trồi
lên bề mặt tâm của chàng.
Thereupon, he swore the following Do vậy, hoàng tử đã thề rằng:
oath,
“As they now wash my seat with “Bây giờ chúng lau chỗ ngồi của ta
milk, when I become king so will I wash bằng sữa, khi ta làm vua, ta sẽ lau nó
it with their blood!” bằng máu của chúng!”
48
A L IF E O F T R U E S E C U RITY M Ộ T C U Ộ C S Ố NG T H Ậ T S Ự AN T OÀ N
Thus, through wrong verbal action, Như vậy, qua khẩu hành bất thiện,
he bound himself tightly to his Sakiyan hoàng tử đã tự buộc chặt mình với thân
relatives with strong hatred and quyến người Sakya bằng lòng hận thù và
resentment. Here, I would like to remind sự phẫn uất mạnh mẽ. Ở đây, tôi xin
each of you to carefully reflect on the nhắc nhở mỗi quý vị là hãy quán xét cẩn
nature of human beings. Everyone, thận bản chất của con người. Mọi người,
whether of high or low status, inferior or bất kể địa vị cao hay thấp, thượng lưu
superior, poor or rich, stupid or hay hạ tiện, giàu hay nghèo, đần độn
intelligent, ignorant or wise, has a high hay sáng trí, ngu dốt hay khôn ngoan
opinion of himself. Most people think vẫn luôn có sự tự tôn về mình. Hầu hết
only of their own self-importance. If mọi người nghĩ rằng chỉ có mình là quan
someone treats them poorly, regards trọng. Nếu có ai đó đối xử tồi tệ với họ,
them as worthless or low and behaves xem họ là thấp kém hay không có giá trị
disrespectfully towards them, it can và cư xử không tôn trọng họ, điều đó có
cause hurt, resentment and anger. A thể gây ra sự tổn thương, oán hận và
desire to retaliate may arise in the mind. giận dữ. Một ước muốn trả thù có thể
khởi sinh trong tâm.
Back to the sutta. When Prince Trở lại bài kinh. Khi hoàng tử
Vidūdabha became King, he Vidūdabha lên ngôi vua, ông nhớ lại sự sỉ
remembered the insult he had suffered nhục mà ông đã phải chịu đựng và lời
and the oath he had sworn against the thề giết hại dòng họ Sakya. Ông nhanh
Sakiyas. He soon assembled a large chóng tập hợp một đoàn quân lớn để rửa
force to take revenge and set out for hận và tiến đến Kapilavathu. Đức Phật
Kapilavathu. The Buddha, aware of the biết sự tiêu diệt dòng họ của Ngài sắp
impending destruction of his relatives by xảy ra bởi vua Vidūdabha nên đã ngồi
King Vidūdabha, sat in the shade of a trong bóng mát của một cội cây nhỏ trên
small tree on the Sakiyan side of the phần đất của người Sakya ở biên giới với
border with Kosala. nước Kosala.
On the way to Kapilavathu, King Trên đường đến Kapilavathu, vua
Vidūdabha saw the Buddha in the shade Vidūdabha nhìn thấy Đức Phật ở trong
of the small tree and he asked the bóng mát của một cội cây nhỏ và hỏi
Buddha why he chose a small tree when Đức Phật lý do tại sao Ngài chọn một cội
there were much bigger and shadier cây nhỏ khi ở đó có các cội cây lớn hơn
trees on the Kosalan side of the border. và nhiều bóng mát hơn nằm trên phần
The Buddha replied, đất biên giới của Kosala. Đức Phật đáp:
“In all the shades in the world, the “Trong tất cả các bóng mát trên thế
shade of relatives is coolest and the gian, bóng mát của quyến thuộc là mát
best”. mẻ nhất và tốt nhất”
Realizing that the Buddha wanted Biết rằng Đức Phật có ý muốn bảo
to protect his relatives, the King turned vệ thân quyến của Ngài, nhà vua cho
his forces back. On two other occasions, quân lính quay về. Hai lần khác nữa, sự
the same thing happened. However, on việc cũng diễn ra như vậy. Tuy nhiên, vào
the fourth occasion, realizing the futility lần thứ tư, nhận biết sự vô ích của việc
of trying to stop the invasion, the cố gắng ngăn chặn cuộc tấn công, Đức
Buddha withdrew his attempt to protect Phật rút lại nỗ lực bảo vệ thân quyến của
his relatives. King Vidūdabha sallied Ngài. Vua Vidūdabha xông ra trước tiên
49
A L IF E O F T R U E S E C U RITY M Ộ T C U Ộ C S Ố NG T H Ậ T S Ự AN T OÀ N
forth and killed his Sakiyan relatives và giết hại bà con Sakya của mình một
violently. He killed all except those cách dữ dội. Vua đã giết hết tất cả ngoại
princes and princesses who were with trừ những hoàng tử và công chúa đang ở
his grandfather, King Mahā Nāma. cùng ông ngoại của vua là vua Mahā
Having destroyed them, he washed his Nāma. Sau khi tiêu diệt họ xong, vua đã
seat with their blood as he had vowed. rửa chỗ ngồi của vua bằng máu của họ
như lời vua đã thề.
We now see that the Stage of Bây giờ, chúng ta thấy rằng Giai
Obsession (pariyuṭṭhāna) has shifted to đoạn Ám ảnh (pariyuṭṭhāna) đã chuyển
the Stage of Transgression (Vītikkama) sang Giai đoạn Vi phạm (Vītikkama) liên
which involves bodily wrong action, in quan đến hành động bất thiện bằng
this case, killing. thân, trong trường hợp này là giết người.
When people heard about that Khi mọi người nghe tin tức về cuộc
terrible revenge-killing, they uttered with giết chóc trả thù khủng khiếp đó, họ thốt
grief and disbelief, lên với sự thương tiếc và hoài nghi:
“The kamma that the relatives of “Nghiệp mà thân quyến của Đức
the Buddha had accumulated when Phật đã làm lúc Vidūdabha mười sáu tuổi
Vidūdabha was sixteen was just minor. chỉ là nhỏ bé. Những gì nhà vua làm thì
What the King has done is very terrible thật khủng khiếp và quá đáng. Nó không
and excessive. It should not be such”. nên như vậy”.
When the utterance came to the Khi lời này đến tai Đức Phật, Ngài
ears of the Buddha, the Lord explained đã giải thích rằng:
that,
“The kamma that my relatives did “Nghiệp mà thân quyến của Như
in the present life is very minor but it is Lai làm trong kiếp hiện tại này thì thật
not because of that present kamma that nhỏ bé nhưng không phải vì nghiệp hiện
they have been destroyed. In a previous tại mà họ bị tiêu diệt. Trong một kiếp quá
existence, they threw poison into a khứ, họ đã ném thuốc độc xuống lòng
water-body to destroy water creatures. sông để giết hại các sinh vật dưới nước.
That unwholesome act has now made Nghiệp bất thiện đó khiến giờ đây có ai
someone appear to perform the act of đó xuất hiện để thực hiện hành động
killing them. The present killing is a giết họ. Sự giết chóc ở hiện tại là quả
result of that past kamma”. của nghiệp quá khứ”.
That kamma has opened the door Nghiệp đó đã mở cánh cửa để cho
to give its results. ra quả của nó.
In another verse from the Trong một câu kệ của Kinh Pháp Cú,
Dhammapada, the Buddha explains: Đức Phật giải thích:
“The evil he himself has done, born Ðiều ác tự mình làm,
of himself and produced by himself, Tự mình sinh, mình tạo.
grinds him as a diamond grinds a hard Nghiền nát kẻ ngu si,
gem”. (Dhammapada. 161) Như kim cương (nghiền nát) ngọc cứng.
(Dhammapada. 161)
Based on this understanding is it Dựa trên hiểu biết này, có thật cần
really necessary to complain that others thiết phải than phiền những kẻ đã xúc
50
A L IF E O F T R U E S E C U RITY M Ộ T C U Ộ C S Ố NG T H Ậ T S Ự AN T OÀ N
have hurt us, insulted us or found fault phạm ta, lăng mạ ta hay kiếm lỗi với ta?
with us? According to the Buddha, who is Theo lời giải thích của Đức Phật, ai là
to blame? Should we not blame người đáng trách? Nên chăng ta không
ourselves for having performed the khiển trách chính mình vì đã tạo nghiệp
kamma that results in mental or physical đưa đến khổ tâm hoặc khổ thân? Trong
pain? This being the case, let us cease to trường hợp này, ta hãy dừng lại các phản
respond unwisely towards anybody in ứng không khôn ngoan đối với bất kỳ ai
our present life – no matter how much trong kiếp hiện tại – bất kể người đó có
that person tries to harm us. If we just cố gắng bao nhiêu để hãm hại ta. Nếu ta
allow the kamma to ripen as it ripens chỉ để nghiệp chín muồi khi nó chín muồi
and accept its result accordingly, our và chấp nhận quả tương ứng của nó,
kammic load will be lightened and our gánh nặng nghiệp sẽ nhẹ đi và tương lai
future will become that much brighter. của chúng ta sẽ trở nên sáng sủa hơn. Vì
Let us, therefore, welcome with a smile vậy chúng ta hãy chào đón bằng nụ cười
the results of past kamma. các quả của nghiệp quá khứ.
If we respond with wrong bodily or Nếu chúng ta phản ứng bằng các
verbal actions, such actions will only add hành động hay lời nói sai trái, các hành
to our kammic debt – a debt which we động này chỉ thêm vào món nợ nghiệp
may very well have to pay for in the của mình – một món nợ mà ta rất có thể
future. Therefore, let us reflect carefully sẽ phải trả trong tương lai. Vì thế, ta hãy
and thoroughly before we take any suy xét cẩn thận và thấu đáo trước khi
actions. Performing wholesome actions làm bất kỳ hành động nào. Thực hiện
will improve our future existence. nghiệp thiện lành sẽ làm lợi lạc kiếp
Performing unwholesome actions will sống tương lai của mình. Thực hiện
surely lead to more suffering. Those with nghiệp xấu ác chắc chắn sẽ dẫn đến
wisdom and discrimination will know nhiều khổ đau. Những ai có trí tuệ và óc
which type of action to choose. suy xét sẽ biết lựa chọn loại hành động
nào.
Let us now go back to the Sacitta Bây giờ chúng ta hãy quay lại bài
Sutta: Kinh Tâm Của Mình (Sacitta Sutta):
“If, on examination, a bhikkhu “Này các tỷ-kheo, nếu tỷ-kheo quán
knows that his mind is not usually with sát như vậy và biết rằng: “Ta sống nhiều
much desire for the belongings of others; với tâm không tham, ta sống nhiều với
is without much thoughts of ill-will; is tâm không sân, ta sống nhiều với tâm
usually free of sloth and torpor; is free of không hôn trầm thụy miên; ta sống
restlessness; is free of doubt; is without nhiều với tâm không trạo cử; ta sống
much anger; is with very few unhealthy nhiều với tâm nghi ngờ được vượt qua; ta
thoughts; is not with body exhausted; is sống nhiều với tâm không phẫn nộ; ta
not lazy or is not un-concentrated, the sống nhiều với tâm không nhiễm ô; ta
bhikkhu should not be satisfied. He sống nhiều với thân không mệt lử; ta
should put in more effort to establish sống nhiều với tâm tinh tấn, tinh cần; ta
those very same skillful qualities to a sống nhiều với tâm định tĩnh”, thời tỷ-
higher degree for the eventual ending of kheo ấy, sau khi an trú trong các thiện
all taints”. pháp ấy, rồi hơn nữa cần chú tâm đoạn
diệt các lậu hoặc”.
How can we establish these skillful Làm thế nào chúng ta có thể thiết
51
A L IF E O F T R U E S E C U RITY M Ộ T C U Ộ C S Ố NG T H Ậ T S Ự AN T OÀ N
qualities to a higher degree? Firstly, we lập các phẩm chất thiện này lên cấp độ
keep sīla and abstain from the unwise cao hơn? Đầu tiên chúng ta giữ giới và
acts of killing, stealing, committing tiết chế các hành động không khôn
sexual misconduct, telling lies and ngoan là sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói
consuming drugs and alcohol. In this dối, sử dụng rượu và các chất gây
way, we purify our bodily and verbal nghiện. Theo cách này, chúng ta làm
actions, and protect ourselves from the thanh tịnh hành động thuộc thân và lời
results of these unwholesome actions. nói, và bảo vệ chúng ta thoát khỏi quả
Such are the benefits of sīla. của các hành động bất thiện này. Đó là
các điều lợi ích của Giới (Sīla).
Secondly, we need to purify our Thứ hai, chúng ta cần làm thanh
mental action. This is accomplished by tịnh ý của mình. Việc này được thành tựu
the practice of samatha meditation, in bằng cách thực hành thiền định
which deep concentration is developed. (samatha), ở đó định tâm sâu được phát
For many practitioners, here at Pa-Auk triển. Đối với rất nhiều thiền sinh ở Rừng
Forest Monastery, this includes the Thiền Pa-Auk, việc này bao gồm tu tập
cultivation and practice of jhāna và thực hành đến các tầng thiền an chỉ
(absorption concentration). In this state định (jhāna). Trong giai đoạn an chỉ định,
of absorption, which can last for one, vốn có thể kéo dài một, hai, ba giờ hay
two, three or more hours, the meditator nhiều hơn nữa, thiền sinh tập trung duy
focuses solely on the meditation object. nhất vào đề mục thiền. Kết quả là các
As a result, latent defilements are unable phiền não ô nhiễm ngủ ngầm không thể
to rise to the surface of the mind – they khởi sinh lên bề mặt của tâm – chúng
remain in the Stage of Dormancy. Since vẫn ở trong Giai đoạn Ngủ ngầm. Vì
they do not reach the Stage of chúng không đạt đến Giai đoạn Ám ảnh,
Obsession, they are unable to progress chúng không thể tiến triển đến Giai đoạn
to the Stage of Transgression. Thus, the Vi phạm. Vì vậy, tâm ý tạm thời được
mind is temporarily purified of thanh lọc khỏi các ý nghĩ bất thiện.
unwholesome mental actions.
Let me summarize the first two Hãy để tôi tóm tắt hai vô lậu học
trainings: đầu tiên:
By keeping sīla we protect Bằng việc giữ giới ta bảo vệ chính
ourselves from performing bodily and mình khỏi hành động sai trái bằng thân
verbal wrong actions. By practicing và lời nói. Bằng việc thực hành thiền an
absorption concentration, we protect chỉ định, chúng ta bảo vệ chính mình
ourselves from performing wrong mental khỏi các ý nghĩ sai trái. Tuy nhiên, nằm
actions. However, lying at the base of trong dòng tâm hữu phần (tâm hộ kiếp)
our mental continuum there are still vẫn còn có các phiền não ô nhiễm ở
defilements in the Stage of Dormancy. trong Giai đoạn Ngủ ngầm. Nếu được
Given suitable conditions, these latent cung cấp các điều kiện thích hợp, các
defilements quickly rise to the surface of phiền não ô nhiễm ngủ ngầm này sẽ
the mind unless they have already been nhanh chóng sinh khởi lên bề mặt của
eradicated. tâm trừ khi chúng đã bị bứng gốc.
Think about the example of Nghĩ về mẫu ví dụ Vidūdabha sau
Vidūdabha after he heard the news khi nghe tin tức liên quan đến việc chùi
concerning the washing of his seat. His ghế ngồi của mình. Các phiền não ô
52
A L IF E O F T R U E S E C U RITY M Ộ T C U Ộ C S Ố NG T H Ậ T S Ự AN T OÀ N
dormant defilements of anger and nhiễm ngủ ngầm là sân hận và căm thù
hatred rapidly arose as obsessions, and của ông ta nhanh chóng khởi sinh thành
then quickly turned into transgressions. các ám ảnh, và sau đó nhanh chóng
This led to and resulted in the violent chuyển sang vi phạm. Điều này dẫn đến
slaughter of his relatives which in turn và cho hậu quả là cuộc tàn sát dữ dội bà
generated new defiling kamma that he con của ông, việc này đến lượt nó lại tạo
paid for just as quickly. As he was ra các nghiệp xấu ác mà ông ta phải trả
returning to Kosala after the slaughter, giá một cách nhanh chóng. Khi đang trên
he and many of his men perished in a đường về Kosala sau cuộc tàn sát, ông
great flood while camped on the banks và quân lính của mình bị chết trôi bởi
of the river, Aciravatī. một trận lũ khủng khiếp trong khi đang
đóng quân bên bờ sông Aciravatī.
According to the Buddha, “Two Theo Đức Phật: “Hai mũi tên theo
arrows follow all beings: one is sau tất cả chúng sinh: một là thiện và
wholesome and the other hai là bất thiện”. Đây là những mũi tên ở
unwholesome”. These are arrows of the quá khứ. Vì vậy, khi chúng ta thực hiện
past. Thus, when we perform các nghiệp bất thiện trong cuộc sống
unwholesome actions in the present life, hiện tại, các nghiệp bất thiện này có thể
such unwholesome actions can cause khiến cho quả của nghiệp bất thiện quá
the results of our past unwholesome khứ chín muồi – do vậy, dầu với một vi
kamma to ripen – thus, for a minor phạm nhỏ (chỉ là một nhân hỗ trợ) nhưng
transgression (which is only a supporting kết cục ta có thể phải trả một giá đắt.
cause) we may end up paying a big Ngược lại, khi ta thực hiện các thiện
price. Conversely, when we perform nghiệp trong cuộc sống hiện tại, các
wholesome actions in the present life, thiện nghiệp này có thể khiến cho quả
such wholesome actions can cause the của thiện nghiệp quá khứ chín muồi – do
results of our past wholesome kamma to vậy dầu với chỉ một hành động tốt, ta có
ripen – thus for a single good action, we thể thu về các lợi ích lớn lao.
may reap great benefits.
Back to our story: If Vidūdabha had Trở lại câu chuyện: Nếu Vidūdabha
been mindful and practiced wise- giữ được niệm và thực hành tác ý khôn
attention, he would have been able to khéo (như lý tác ý), ông đã có thể gìm
keep the defilements of anger and giữ các phiền não sân hận và căm thù
hatred from rising to the surface of his khiến chúng không thể khởi sinh lên bề
mind, and he would not have gone on to mặt của tâm, và không đi đến tàn sát bà
slaughter his relatives. Moreover, he and con của mình. Hơn nữa, ông ta và quân
many of his men would not have been lính của mình cũng không bị chết trôi.
drowned.
Now, we know how latent Bây giờ, ta đã biết làm thế nào mà
defilements rise to the surface of the các phiền não ô nhiễm sinh khởi lên bề
mind and become transgressions, and mặt của tâm và trở thành các vi phạm,
how to protect ourselves from these và làm thế nào để bảo vệ chính mình
transgressions. However, I have not yet khỏi các vi phạm. Tuy nhiên, tôi chưa giải
explained how to eradicate latent thích làm thế nào để diệt trừ tận gốc các
defilements. If we want to eradicate phiền não ô nhiễm ngủ ngầm. Nếu
these defilements we must go on to the chúng ta muốn tận diệt các phiền não ô
53
A L IF E O F T R U E S E C U RITY M Ộ T C U Ộ C S Ố NG T H Ậ T S Ự AN T OÀ N
third training, the practice of insight nhiễm này, chúng ta phải đi đến vô lậu
meditation. học thứ ba, thực hành thiền Minh sát.
There are two basic ways to Có hai cách căn bản để tiếp cận
approach insight meditation. One is to thiền Minh sát. Cách thứ nhất là phát
develop absorption concentration triển an chỉ định bằng thiền Niệm Hơi
through Mindfulness of Breathing or Thở hoặc các đề mục thiền định
other samatha meditation and then to (samatha) khác và sau đó tiến đến thiền
go on to Four Elements meditation for Tứ Đại với mục đích hành thiền minh
insight meditation. The other approach, sát. Một cách tiếp cận khác cho những ai
for those who wish to take a more direct mong muốn một con đường trực tiếp đến
route to the practice of vipassanā is to tu tập thiền Minh sát (Vipassanā) là bắt
begin with Four Elements meditation. In đầu với thiền Tứ Đại. Theo cách tiếp cận
this approach, we analyze the elements này, chúng ta phân tích tứ đại (bốn
that compose the physical body. As nguyên tố) vốn tạo nên cơ thể vật chất.
concentration improves, the body begins Khi định tâm phát triển, thân thể bắt đầu
to emit light. With continued practice phát sáng. Tiếp tục hành thiền, ánh sáng
this light changes from grey to white. này biến đổi từ xám sang trắng. Cuối
Eventually, it becomes brighter and cùng nó trở nên càng lúc càng sáng hơn
brighter until we see the entire body as a cho đến khi chúng ta thấy toàn bộ cơ thể
block of bright light. As we continue to như là một khối sáng chói. Khi ta tiếp tục
discern the four elements in that block of phân biệt tứ đại trong khối sáng đó, cuối
light, it finally breaks down into very cùng nó sẽ bị vỡ thành các hạt cực nhỏ
small particles, called rūpa-kalāpas. With được gọi là các hạt tổng hợp sắc (rūpa-
continued practice, we will see 8, 9 or 10 kalāpa). Tiếp tục hành thiền, chúng ta sẽ
types of materiality within each rūpa- thấy có tám, chín, hay mười loại sắc ở
kalāpa. These 8, 9 or 10 types of trong mỗi hạt tổng hợp sắc (rūpa-
materiality are the ultimate reality of the kalāpa). Tám, chín, hay mười loại sắc này
physical body. là sự thật tột cùng về thân xác vật chất
(sắc chân đế).
Having discerned the four elements Sau khi phân biệt tứ đại bên trong
internally up to their ultimate reality, we cho đến sắc chân đế thì chúng ta tiến
then go on to discern the four elements đến phân biệt tứ đại bên ngoài, thấy rõ
externally, seeing all external animate tất cả các đối tượng linh hoạt và các đối
and inanimate objects as rūpa-kalāpas, tượng không linh hoạt ở bên ngoài là các
arising and perishing very rapidly. At this tổng hợp sắc (rūpa-kalāpa), sanh và diệt
point, we no longer see men, women, rất nhanh chóng. Vào lúc này, chúng ta
trees or other conventional forms but không còn thấy đàn ông, đàn bà, cây cối
only rūpa-kalāpas rapidly arising and hay các hình thái theo quy ước (chế
perishing. We are now seeing things as định) nữa mà chỉ thấy các tổng hợp sắc
they really are, just as we have been (rūpa- kalāpa) sanh diệt cực kỳ nhanh
taught to do by the Buddha. chóng. Chúng ta bây giờ đã thấy được
các sự vật như chúng thực sự là, như
những gì Đức Phật đã dạy cho chúng ta
thấy.
The next step is to analyze ultimate Bước tiếp theo là phân tích sự thật
mentality. When we are successful in this tột cùng về tâm thức (danh chân đế). Khi
54
A L IF E O F T R U E S E C U RITY M Ộ T C U Ộ C S Ố NG T H Ậ T S Ự AN T OÀ N
practice we can know and see the chúng ta thành công với pháp hành này,
mental process, arising in a series of chúng ta có thể biết và thấy các tiến
mind moments, with consciousness and trình tâm, sinh khởi theo một chuỗi các
associated mental factors present in sát-na tâm (khoảnh khắc cực kỳ ngắn
each moment. ngủi), với tâm và các tâm sở phối hợp
hiện diện trong mỗi sát-na.
After knowing and seeing ultimate Sau khi biết và thấy sắc và danh
materiality and mentality, we go on to chân đế, chúng ta tiến đến thực hành
practise “Dependent Origination” “Duyên Sinh” (Paticcasamupāda) để biết
(Paticcasamupāda) in order to know rõ nhân và quả. Một khi đã thấy rõ được
cause and effect. Once we have nhân và quả, chúng ta tiến lên thiền
discerned cause and effect, we go on to minh sát bằng cách quán xét ba đặc
insight meditation by examining the tính: vô thường, khổ, vô ngã trên cả
three characteristics of impermanence, nhóm danh và sắc. Khi minh sát chín
suffering and non-self throughout the muồi, Đạo Trí sinh khởi. Chúng ta chứng
mind-matter complex. When our insight ngộ Niết-bàn (Nibbāna). Ở đó danh và
matures, Path Knowledge arises. We see sắc diệt.
Nibbāna. There materiality and mentality
cease.
With the arising of Path Knowledge, Với sự phát sinh Đạo Trí, các phiền
defilements are eradicated step by step. não ô nhiễm được tận diệt từng bước
With the first Path, we attain the first một. Với Đạo đầu tiên, chúng ta chứng
fruit of enlightenment as a Sotāpanna. ngộ quả giác ngộ đầu tiên là một Tu-đà-
With this attainment, the defilements of hoàn (Sotāpanna). Với sự chứng ngộ này,
self-identity, doubt and attachment to các phiền não là thân kiến, hoài nghi,
rites and rituals are eradicated. We now giới cấm thủ được tận diệt. Chúng ta giờ
know and see the workings of đây đã biết và thấy sự vận hành của các
defilements clearly. We clearly see wrong phiền não ô nhiễm một cách rõ ràng.
view as ‘I’, ‘me’ and ‘mine’. We no Chúng ta thấy rõ ràng các quan kiến sai
longer see greed as ‘my’ greed or hatred lầm (tà kiến) như là “tôi”, “là tôi”, và
as ‘my’ hatred. We no longer harm “của tôi”. Chúng ta không còn thấy tham
ourselves by consciously performing ái như là cái tham ái “của tôi” hay sân
wrong physical and verbal actions which hận như là cái sân hận “của tôi”. Chúng
can lead to rebirth in the four woeful ta không còn làm hại chính mình bằng
planes. cách cố ý làm các hành động và lời nói
sai trái mà có thể dẫn đến tái sanh trong
bốn cõi khổ.
55
A L IF E O F T R U E S E C U RITY M Ộ T C U Ộ C S Ố NG T H Ậ T S Ự AN T OÀ N
ourselves from performing countless bảo vệ chính mình khỏi vô số các hành
wrong physical and verbal actions. động và lời nói sai trái.
Now I would like to ask you one Bây giờ, tôi muốn hỏi một câu hỏi
final question, “How much effort are you cuối cùng: “Có bao nhiêu nỗ lực mà quý vị
willing to put into your practice”? sẵn sàng đặt vào việc tu tập”?
According to the Buddha, Theo Đức Phật:
“Just as a person whose head is on “Như một người đang bị ngọn lửa
fire will put forth extra determination, cháy trên đầu sẽ dùng hết quyết tâm, nỗ
effort, diligence, etc., to put out the fire lực, chuyên cần... để dập tắt ngọn lửa
on his head; so, too, should a bhikkhu trên đầu anh ta; cũng vậy, một tỷ-kheo
put forth extra determination, effort, cũng phải hết sức quyết tâm, tinh tấn...
etc., to abandon unwholesome, unskillful để loại bỏ các tính chất bất thiện, hư dở
qualities in the mind”. trong tâm”.
Here, the Buddha is describing Ở đây, Đức Phật đang miêu tả
Right Effort. Without Right Effort, how Chánh Tinh Tấn. Không có Chánh Tinh
can we expect to attain the goal? If we Tấn, làm sao ta có thể đạt được mục
fail to achieve our objective in this tiêu? Nếu ta không đạt được mục tiêu
lifetime, then we may one day deeply trong cuộc đời này, rồi một ngày nào đó
regret that we did not put forth the effort ta sẽ hối hận sâu sắc rằng ta đã không
when we had the opportunity. May each tinh tấn khi ta có cơ hội. Cầu mong mỗi
of us put forth the necessary effort and chúng ta hãy ra sức tinh tấn cần thiết và
may we rouse the energy to make an mong chúng ta khơi dậy nghị lực để kết
end of suffering. When arahant path and thúc khổ đau. Khi A-la-hán đạo và quả
fruition arise, all our defilements are sinh khởi, tất cả các phiền não ô nhiễm
destroyed without remainder and rebirth đều bị tiêu diệt không còn dư sót và rồi
comes to an end. There will be peace. chấm dứt luân hồi. Ở đó sẽ chỉ là an
Only then does our life become “a life of tịnh. Chỉ lúc đó cuộc sống của chúng ta
true security”. mới trở nên là “một cuộc sống an toàn
thật sự”.
May we all transform our lives into Cầu chúc tất cả chúng ta đều
lives of true security. chuyển hóa cuộc sống của mình thành
cuộc sống an toàn thực sự.
May each and every one of us Cầu chúc mỗi và từng người chúng
attain Nibbāna. ta chứng ngộ Niết-bàn.
Sādhu! Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay! Lành thay!
The talk given on Sunday, Bài Pháp được thuyết và ngày Chủ Nhật,
16th October 2005 at Pa-Auk Tawya in 16 tháng 10 năm 2005 tại Pa-Auk
Myanmar and Tawya, Myanmar, và
November 2005 at Shuang Lin Tháng 11 năm 2005 tại Tu Viện Shuang
Monastery in Singapore Lin, Singapore.
56
Three Sayings of Devas
T H R E E S AYI NG S OF D EVA S B A C Â U C H Â M N GÔ N
C Ủ A C HƯ T H I Ê N
59
T H R E E S AYING S OF D EVAS B A C ÂU C HÂ M N GÔ N C Ủ A C HƯ T H I Ê N
the eyes that are wished for, desired, hỷ, khả lạc, khả ý, liên hệ đến dục, hấp
agreeable, and likeable, connected with dẫn, các tiếng do tai nhận thức... các
sensual desire and provocative of lust. hương do mũi nhận thức... các vị do lưỡi
He might enjoy himself with sounds nhận thức... các xúc do thân nhận thức,
cognizable by the ear ... with smell khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, liên hệ
cognizable by the nose... with flavors đến dục, hấp dẫn. Vị ấy, sau khi làm
cognizable by the tongue... with thiện thân hành, sau khi làm thiện khẩu
tangibles cognizable by the body that hành, sau khi làm thiện ý hành, khi thân
are wished for, desired, agreeable, and hoại mạng chung, được sanh lên thiện
likeable, connected with sensual desire xứ, Thiên giới, đời này, cộng trú với chư
and provocative of lust. Having Thiên ở cõi trời Ba mươi ba. Vị ấy ở đây,
conducted himself well in body, speech, trong rừng Nandana, được chúng Thiên
and mind, on the dissolution of the body, nữ vây quanh, thọ hưởng năm thiên dục
after death, he might reappear in a trưởng dưỡng một cách đầy đủ, một
happy destination, in the heavenly world cách sung mãn. Vị ấy thấy người gia chủ
in the retinue of the gods of the Thirty- hay con người gia chủ đang thọ hưởng
three, and there, surrounded by a group năm dục trưởng dưỡng một cách đầy đủ,
of nymphs in the Nandana Grove, he một cách sung mãn. Này Māgandiya,
would enjoy himself, provided and Ông nghĩ thế nào? Thiên tử ấy, được
endowed with the five cords of divine chúng Thiên nữ vây quanh, thọ hưởng
sensual pleasure. Suppose he saw a năm thiên dục trưởng dưỡng một cách
householder or a householder’s son đầy đủ, một cách sung mãn, vị ấy có ước
enjoying himself, provided and endowed vọng được như người gia chủ ấy, hay con
with the five cords of human sensual người gia chủ ấy; hay năm dục trưởng
pleasure. What do you think, dưỡng thuộc loài Người, hay trở lui về với
Māgandiya? Would that young god các dục thuộc loài Người”?
surrounded by the group of nymphs in
the Nandana Grove, enjoying himself,
provided and endowed with the five
cords of divine sensual pleasure, envy
the householder or the householder’s
son for the five cords of human sensual
pleasure or would he be enticed by
human sensual pleasure”?
“No, Master Gotama. Why not? “Không có vậy, thưa Tôn giả
Because heavenly sensual pleasures are Gotama! Vì sao vậy? Vì thiên dục, thưa
more excellent and sublime than human Tôn giả Gotama, là thù diệu hơn, vi diệu
sensual pleasures”. hơn nhân dục”.
We now can understand that even Chúng ta bây giờ có thể hiểu rằng
the most sublime human sensual ngay cả dục lạc thù diệu nhất của loài
pleasures are no more than mundane người thì không gì hơn ngoài sự nhạt
and commonplace by comparison to nhẽo và tầm thường khi so sánh với các
those sensual pleasures that the thiên dục mà chư thiên ham thích thọ
heavenly ones delight in. hưởng.
Furthermore, the human life span is Hơn nữa, tuổi thọ của con người thì
short when compared to the life span of ngắn ngủi khi so với tuổi thọ của chư
60
T H R E E S AYING S OF D EVAS B A C ÂU C HÂ M N GÔ N C Ủ A C HƯ T H I Ê N
devas. thiên.
According to the Buddha: Theo Đức Phật:
“Bhikkhus, each fifty years of “Này các tỷ-kheo, mỗi năm mươi
mankind is but a single night and day to năm ở cõi người chỉ bằng một ngày một
the hosts of the Four Royal devas; their đêm ở cõi trời Tứ Đại Thiên Vương, một
month has thirty of those nights, their tháng ở cõi đó có ba mươi đêm, một năm
year twelve months. có mười hai tháng.
Bhikkhus, each hundred years of Này các tỷ-kheo, mỗi một trăm
mankind is but a single night and day to năm ở cõi người chỉ bằng một ngày một
the devas of the Thirty; their month has đêm ở cõi Đao Lợi (Tam Thập Tam Thiên),
thirty of those nights, their year twelve một tháng ở cõi đó có ba mươi đêm, một
months”. năm có mười hai tháng”.
How very short the human life span Tuổi thọ con người thật là quá ngắn
is! Compared to the life span of devas, ngủi! So với tuổi thọ của chư thiên, tuổi
our life span is hardly more than a thọ của chúng ta hầu như không hơn
fraction. However, even though their life được một phần nhỏ. Tuy nhiên, mặc dù
span is extremely long they, too, must tuổi thọ của họ vô cùng dài, nhưng rồi
one day die. một ngày nào đó, họ cũng vẫn phải chết.
Devas die because of four causes. Chư thiên chết vì một trong bốn
nguyên nhân:
1. The expiration of their life-span 1. Thọ mạng chấm dứt.
2. The expiration of their 2. Phước thiện trước kia chấm dứt.
previous meritorious deeds
3. Because they forget to eat 3. Vì họ quên thọ thực (quên ăn).
food. And, Và,
4. The arising of consciousness 4. Khởi sanh tâm có nguồn gốc từ
rooted in aversion. sân hận.
Although the first two causes of Mặc dù hai nguyên nhân chết đầu
death are easy to understand, the last tiên thì dễ hiểu nhưng hai nguyên nhân
two are not. Let me try to further cuối thì không dễ hiểu. Hãy để tôi giải
explain: Because heavenly sensual thích thêm: Bởi vì các thú vui cõi trời vô
pleasures are so sublime, devas at times cùng vi diệu, nên chư thiên có khi quên
forget about eating. When they do, their cả việc ăn. Khi làm như vậy, thân thể họ
bodies become depleted and exhausted. trở nên bị suy yếu và kiệt sức. Không có
Without food, even devas will die. This is vật thực, ngay cả chư thiên cũng chết.
the third type of death – death which is Đây là nguyên nhân của kiểu chết thứ ba
attributable to simply forgetting to eat. – kiểu chết đơn thuần là do quên ăn.
The fourth type of death is caused Kiểu chết thứ tư được gây ra bởi sự
by the arising of consciousness rooted in sanh khởi tâm có nguồn gốc từ sân hận.
aversion. Sometimes dissatis-faction Đôi khi bất mãn sinh khởi khi người ta
arises when one sees someone’s thấy những thành công của ai đó. Sự bất
success. This dissatisfaction can have mãn này có thể có các đặc tính ganh tỵ,
the characteristics of jealousy, bực bội, ác cảm, đố kỵ – không hoan hỷ
resentment, aversion and envy – of not với sự thịnh vượng của kẻ khác. Chức
61
T H R E E S AYING S OF D EVAS B A C ÂU C HÂ M N GÔ N C Ủ A C HƯ T H I Ê N
taking pleasure in the prosperity of năng của nó là không ham thích vận
others. Its function is not to take delight may hay hạnh phúc của người khác.
in the good fortune or happiness of
others.
Jealousy and envy can arise only Ganh ghét, đố kỵ chỉ có thể sinh
with consciousness rooted in aversion. khởi với tâm có nguồn gốc là sân. Sân
Aversion, jealousy and envy make the hận, ganh ghét và đố kỵ khiến tâm nóng
mind hot, tired and exhausted. nảy, mệt mỏi và kiệt sức. Nếu không
Unchecked, such behavior can bring được kiểm soát, thái độ này có thể đem
about a person’s death. lại cái chết cho một người nào đó.
Because of jealousy, dissatisfaction Bởi vì sự ganh ghét, bất mãn và
and not taking delight in the prosperity không vui thích với sự thịnh vượng,
and success of others, some devas die. thành công của những vị khác nên một
số vị thiên bị chết.
We now know the four causes that Giờ chúng ta đã biết bốn nguyên
result in the death of devas. But what nhân đưa đến cái chết của chư thiên.
happens to a deva when he or she is Nhưng điều gì xảy ra cho một thiên nam
about to pass away? hay thiên nữ khi họ sắp sửa chết?
Let us look again at the Buddha’s Chúng ta hãy xem lại bài pháp của
teaching. This one is from chapter three Đức Phật. Bài này lấy trong chương ba
in the Itivuttaka. Therein the Buddha của Kinh Phật Thuyết Như Vầy,
said: (Itivuttaka). Trong đó Đức Phật giảng:
“Bhikkhus, when a deva is about to “Này các tỷ-kheo, khi một Thiên
pass away from a company of devas, nhân sắp sửa mệnh chung, từ bỏ thân
five foretelling signs appear: His flower- chư Thiên, có năm dấu hiệu xuất hiện ra
garlands wither, his clothes become trước: “Các vòng hoa héo úa, áo quần bị
soiled, sweat is released from his uế nhiễm, mồ hôi chảy ra từ nách, hào
armpits, his bodily radiance fades, and quang phát ra từ thân nhạt dần, Thiên
the deva takes no delight in his heavenly nhân không hoan hỷ tại chỗ ngồi của
throne”. mình”.
The beautiful flower-garlands that a Vòng hoa xinh đẹp mà một vị thiên
deva puts on at birth are highly fragrant. nhân đeo từ lúc sanh ra thì rất thơm.
These heavenly flowers remain fresh and Những thiên hoa này luôn tươi tắn và
continue to bloom throughout the deva’s tiếp tục nở hoa suốt cuộc đời lâu dài của
long life. It is only near the time that a thiên nhân. Chỉ gần đến lúc vị thiên ấy
deva is about to die that his or her sắp sửa chết thì vòng hoa ấy mới bị héo
garland withers. úa.
Likewise, a deva’s clothes are Cũng vậy, áo quần của thiên nhân
always beautiful and clean. There is thì luôn luôn đẹp đẽ và sạch sẽ. Không
never a need to wash them. However, bao giờ cần phải giặt chúng. Tuy nhiên,
when a deva is about to pass away, his khi một thiên nhân sắp sửa chết, áo
or her clothing becomes dirty. quần của vị ấy trở nên bị nhơ bẩn.
We humans also suffer from heat Loài người chúng ta phải chịu khổ
and cold, but devas do not. We humans sở bởi sự nóng và lạnh, nhưng chư thiên
need to work but devas do not need to thì không bị như vậy. Loài người chúng ta
62
T H R E E S AYING S OF D EVAS B A C ÂU C HÂ M N GÔ N C Ủ A C HƯ T H I Ê N
work. Humans sweat, devas never cần phải làm việc nhưng chư thiên thì
sweat. It is only when a deva is about to không cần phải làm việc. Loài người thì
pass away that sweat is released from có ra mồ hôi nhưng chư thiên thì không
his or her body. bao giờ ra mồ hôi. Chỉ khi một thiên
nhân sắp sửa chết thì mồ hôi mới chảy
ra từ cơ thể.
A deva’s previous wholesome Những thiện nghiệp quá khứ của
deeds create the causes that determine một thiên nhân tạo ra các nhân quyết
their present life conditions in the deva định các điều kiện sống trong kiếp hiện
realms. The greater the number of tại của họ ở nơi cõi trời. Càng nhiều thiện
wholesome deeds that they performed in nghiệp mà họ đã làm trong quá khứ thì
their past, the longer their life-span, the tuổi thọ của họ càng cao, sắc đẹp càng
more magnificent their beauty, the lộng lẫy, hạnh phúc càng nhiều, danh
greater their happiness, and the more tiếng và uy quyền càng lan rộng và thù
widespread and superior their fame and thắng. Duy nhất chỉ bởi thiện nghiệp quá
power. It is solely because of past khứ mà các chúng sinh được sanh ra ở
wholesome kamma that beings are born cõi trời cùng với đoàn tùy tùng lớn.
in the deva realms into a large company
of companions.
When a deva wishes to eat, Khi một thiên nhân muốn ăn thì đơn
delicious food simply appears. Like giản là các món ăn thượng hạng xuất
humans, devas consume food, but unlike hiện. Giống con người, chư thiên cũng
humans their digestive process doesn’t dùng thức ăn, nhưng không giống như
produce excrement. There are no toilets loài người là hệ thống tiêu hóa của họ
anywhere in the deva realms. How không sinh ra chất thải. Không có nhà vệ
wonderful their world is! How beautiful sinh nào ở cõi trời. Thế giới của họ thật là
and clean it must be! Their bodies, too, tuyệt diệu biết bao! Thật xinh đẹp và
are radiant, emitting bright and brilliant sạch sẽ biết bao! Cũng vậy, thân thể của
light. However, when they are about to họ thì lộng lẫy, tỏa ra ánh sáng chói ngời
pass away, their bodily radiance also và rực rỡ. Tuy nhiên, khi họ sắp sửa chết,
grows fainter and fades away. hào quang của họ cũng dần trở nên yếu
ớt và nhạt dần đi.
Even though the deva’s world is in Mặc dù thế giới chư thiên là cõi
a celestial realm that he or she delights hạnh phúc mà thiên nhân vui thích thọ
in, when a deva is about to die, there is hưởng nhưng khi một thiên nhân sắp sửa
no more delight to be found there. chết, họ không còn thích thú ở đó nữa.
Do these foretelling signs always Năm dấu hiệu báo trước này có
appear in all devas when they are about luôn luôn xuất hiện với tất cả các thiên
to pass away? nhân khi họ sắp sửa chết hay không?
It is explained in the Majjima Điều này được giải thích trong chú
Nikāya commentary: giải của Kinh Trung Bộ (Majjima Nikāya):
“Among devas, some are of much “Trong số các thiên nhân, một số có
merit; some are not. When the former nhiều phước báu, một số thì không. Khi
are about to pass away, five foretelling các thiên nhân có nhiều phước báu sắp
signs appear. But for the latter, these sửa chết, năm dấu hiệu báo trước xuất
63
T H R E E S AYING S OF D EVAS B A C ÂU C HÂ M N GÔ N C Ủ A C HƯ T H I Ê N
signs appear not. This is the difference hiện. Nhưng với thiên nhân có ít phước
between them”. báu, năm dấu hiệu báo trước không xuất
hiện. Đây là sự khác nhau giữa họ”.
When a deva of lesser merit passes Khi một thiên nhân có ít phước báu
away, his body vanishes like the flame of chết, thân thể họ biến mất như ngọn lửa
a lamp and he takes rebirth in any one of nơi một ngọn đèn bị tắt và vị ấy tái sanh
the sensual realms. ở một trong các cõi dục bất kỳ nào đó.
Returning to the sutta: At the point Trở lại bài kinh: Vào thời điểm khi
in time when devas discern the chư thiên thấy rõ các dấu hiệu báo trước
foretelling signs of approaching death, của cái chết đang đến gần, họ động viên
they encourage one another in three nhau bằng ba câu châm ngôn sau:
ways with the words:
“Go from here, friend to a good “Từ đây, Hiền giả hãy đi đến cõi
destination. Having gone to a good lành! Sau khi đến cõi lành, hãy nhận
destination, gain the gain that is good to những lợi ích tốt lành nên nhận lấy. Sau
gain. Having gained the gain that is khi nhận được những lợi ích tốt lành nên
good to gain, become well-established in nhận lấy, hãy khéo an trú”
it”.
When this was said, a certain Khi điều này được giảng, một vị tỷ-
bhikkhu asked the Lord: kheo bạch với đức Thế Tôn:
“Venerable Sir, what is the devas’ “Bạch Thế Tôn, với chư Thiên, thế
meaning of going to a good destination? nào là ý nghĩa đi đến cõi lành ? Bạch Thế
What is their meaning of the gain that is Tôn, thế nào là ý nghĩa nhận những lợi
good to gain? What is their meaning of ích tốt lành nên nhận lấy? Bạch Thế Tôn,
becoming well-established? thế nào là ý nghĩa của khéo an trú”?
“The human state, bhikkhus, is the “Này các Tỷ-kheo, đi đến cõi lành
devas’ meaning of going to a good có nghĩa là được địa vị làm người”.
destination”.
Why is the human state a good Tại sao cõi người là một cõi lành?
destination?
Because, in the human state, there Bởi vì, ở cõi người, có rất nhiều cơ
are a lot of opportunities to do hội để làm các thiện nghiệp như bố thí
wholesome deeds such as offering dāna, cúng dường (dāna), giữ giới (sīla) và thực
cultivating sīla and practicing samatha hành thiền định (samatha) và thiền minh
and vipassanā meditation. For these sát (vipassanā). Vì các lý do này mà cõi
reasons it is said that the human world is người được gọi là cõi lành.
a good destination.
It is easy to perform dāna here. Thật dễ dàng để thực hiện việc bố
Why? There must be three suitable thí cúng dường (dāna) ở cõi này. Tại sao?
conditions: Things to offer, the volition to Phải có ba điều kiện thích hợp: Những
offer those things and someone to vật bố thí, tác ý bố thí những vật đó và
receive the offerings. có ai đó nhận sự bố thí.
In the human world these three Trong cõi người, ba điều kiện này
conditions are easy to find. With income rất dễ tìm thấy. Với thu nhập và tiền
64
T H R E E S AYING S OF D EVAS B A C ÂU C HÂ M N GÔ N C Ủ A C HƯ T H I Ê N
and earnings people have the means to kiếm được, người ta có các phương cách
offer things. They can offer more or less, để bố thí. Họ có thể bố thí nhiều hay ít,
good or bad, depending on their tốt hay xấu phụ thuộc vào các tình
individual circumstances. The volition to huống cá nhân của họ. Ý muốn bố thí
offer things can also be easily cultivated các loại đồ vật có thể dễ dàng được vun
and refined. And, finally, we have only to trồng và trau dồi. Và cuối cùng, họ chỉ
look around to see that the world is filled cần nhìn quanh để thấy rằng thế gian
with those who need and are worthy to này đầy ắp những người cần và xứng
receive that which is offered. So, we see đáng để nhận các vật bố thí cúng dường.
that the human world is a good Do vậy, cõi người là cõi lành.
destination.
Devas are born receivers. Due to Chư thiên được sanh ra là để hưởng
their kamma every imaginable and thụ. Do bởi nghiệp của họ, mọi vật dục
desirable sensual object is readily khả ái có thể tưởng tượng ra được thì
available and waiting for them. This is luôn sẵn sàng và chờ đợi họ. Điều này là
the fruit of their previous wholesome quả của thiện nghiệp quá khứ đã chín
deeds which has ripened and is now muồi và giờ đây chúng hiện diện để phục
present to serve them in the deva vụ họ ở cõi trời.
realms.
They don’t need to worry about Họ không cần lo lắng về vật thực,
food, clothes or places to live in. They quần áo hay nơi chốn để ở. Họ không
don’t need to work. They don’t need to cần phải đi làm. Họ không cần phải kiếm
earn money. They don’t need to cook. tiền. Họ không cần nấu ăn. Họ không cần
They don’t need to wash their clothes. giặt đồ. Họ không cần đi bác sĩ. Bệnh tật
They don’t need to see doctors. Sickness và tuổi già thì không hiển hiện ở cõi trời.
and old-age are not obvious in the deva Tưởng tượng xem nơi đó thật tuyệt vời
realms. Imagine how excellent it is như thế nào!
there!
Female devas are inconceivably Thiên nữ thì xinh đẹp không thể
beautiful and look like they are sixteen hình dung nổi và trông họ như thể luôn ở
years old for their entire lifetime. Male tuổi mười sáu trong suốt cả cuộc đời.
devas look as if they are only twenty Các Thiên nam được trông như thể họ chỉ
years old. They spend whole life times có hai mươi tuổi. Họ dùng hết cuộc đời
enjoying the most sublime sensual để hưởng thụ các thú vui dục lạc vi diệu.
pleasures. Their world is completely Thế giới của họ thì hoàn toàn khả hỷ. Nó
pleasurable. It is filled with beauty tràn đầy các sắc đẹp không thể diễn tả
beyond words, likewise with sounds, bằng ngôn từ, và cũng vậy đối với các
tastes, smells and tactile sensations; so âm thanh, mùi, vị và sự xúc chạm; đến
much so that they can easily forget độ họ dễ dàng quên mất việc thực hành
about doing wholesome deeds. They live các điều thiện. Họ sống ở đó vì nghiệp
there because of their own kamma. They của chính họ. Họ không cần bất kỳ ai cho
don’t need anyone to offer them họ bất kỳ thứ gì. Thật là khó khăn để tìm
anything. It is difficult to find the thấy cơ hội bố thí (dāna) ở cõi trời.
opportunity to give dāna in the deva’s Nhưng, chỉ vì khó khăn thôi thì không có
realm. But, just because it is difficult nghĩa rằng chư thiên không thể thực
does not mean devas cannot do dāna. hành sự cúng dường. Họ có thể cúng
65
T H R E E S AYING S OF D EVAS B A C ÂU C HÂ M N GÔ N C Ủ A C HƯ T H I Ê N
They can do dāna. As an example: When dường. Ví dụ: Khi Đức Phật xuất hiện
the Buddha arose in the world, the devas trên thế gian, chư thiên đã có thể cúng
were able to offer dāna by infusing dường bằng cách rót các chất dinh
nutritive essence into the food dāna dưỡng vào thức ăn được loài người cúng
offered to the Buddha everyday by dường đến Đức Phật mỗi ngày. Cũng có
humans. There are other ways they những cách khác mà họ xoay xở để cúng
managed to offer dāna, too. dường.
As for sīla, there are 227 bhikkhus- Về giới, có 227 giới của tỷ-kheo,
precepts, as well as ten precepts, nine cũng như có mười giới, chín giới, tám giới
precepts, eight precepts and five và năm giới mà loài người được khuyến
precepts which human beings are khích gìn giữ.
encouraged to keep.
The Buddha permitted only humans Đức Phật chỉ cho phép loài người
to ordain as bhikkhus, but not devas. xuất gia làm tỷ-kheo nhưng chư thiên
Therefore 227 bhikkhus-precepts turn không được như vậy. Vì vậy, 227 giới của
out to be for the welfare, happiness and tỷ-kheo ra đời vì phúc lợi, an lạc và lợi
benefit of human bhikkhus. They are for ích của tỷ-kheo loài người. Giới luật dành
those who ordain and obey and respect cho những ai xuất gia, tuân thủ, tôn
the rules and who love keeping them. trọng giới luật và những ai yêu quý việc
They are not for those who do not. It is giữ gìn chúng. Giới luật không dành cho
only when a Buddha arises in the world những ai đi ngược lại với những điều này.
that the 227 bhikkhus-precepts are Chỉ khi một vị Phật ra đời trên thế gian
offered to human beings. This is the rare thì 227 giới của tỷ-kheo mới được ban
opportunity we humans are getting. tặng cho loài người. Đây là cơ hội hiếm
hoi mà nhân loại chúng ta có được.
Humans can quite easily set up Loài người hoàn toàn có thể dễ
circumstances for keeping other dàng thiết lập các hoàn cảnh để giữ
precepts. But, because of the sublime những giới kia. Nhưng, vì dục lạc thù
sensuality found in the deva realms, it is diệu được tìm thấy ở cõi trời, nói chung,
generally more difficult for devas to keep thật khó khăn cho chư thiên giữ giới.
them.
However, there is something that Tuy nhiên, có vài điều mà nhiều
many people don’t know: After the người không biết: Sau khi Đức Phật giác
Buddha’s Enlightenment, he gave his ngộ, Ngài giảng bài pháp đầu tiên cho
first talk to five ascetics, but only one năm vị đạo sĩ, nhưng chỉ một người trong
among them realized the true Dhamma, số họ chứng ngộ Diệu Pháp. Trong khi
while the devas and brahmas who chư thiên và phạm thiên chứng ngộ Diệu
realized the true Dhamma were many. Pháp thì rất nhiều. Do vậy, có nhiều chư
So there are many enlightened devas thiên đã giác ngộ có giới (sīla) hoàn hảo
with perfected sīla and who now live in và giờ đây họ đang sống ở những cõi
the deva realms. trời.
It is easier for human beings than it Thật dễ dàng cho loài người, so với
is for devas to abandon their attachment chư thiên, trong việc từ bỏ các dính mắc
to visible objects, sound objects, smell của mình đối với các sắc màu, âm thanh,
objects, taste objects and tangible mùi, vị và các đối tượng xúc chạm mà
objects that we all come into contact tất cả chúng ta tiếp xúc với chúng trong
66
T H R E E S AYING S OF D EVAS B A C ÂU C HÂ M N GÔ N C Ủ A C HƯ T H I Ê N
with in our daily life. If we are willing, we đời sống hàng ngày. Nếu sẵn sàng,
will find ample opportunities to practice chúng ta sẽ thấy được những cơ hội
and keep the precepts. phong phú để thực hành và giữ giới.
But devas, who live in celestial Nhưng chư thiên, những vị sống
splendor with magnificent sensual trong sự lộng lẫy ở cõi trời với các đối
objects to sidetrack them, find it much tượng đẹp đẽ huy hoàng làm họ xao
more difficult to restrain themselves let nhãng, thì thấy khó hơn nhiều để tự
alone to abandon their attachment to kiềm chế mình chứ chưa nói gì đến việc
the intensity and sensual delights of từ bỏ sự dính mắc của họ với các dục lạc
their world. đầy khoái cảm và mãnh liệt ở cõi trời.
Human beings, on the other hand, Loài người, ngược lại, thường gặp
generally experience difficulties and những khó khăn và khổ đau trong cuộc
suffering in their lives. Because of this, sống của mình. Bởi vì điều này, họ nhớ
they remember the value of doing đến giá trị của thiện nghiệp. Nhưng chư
wholesome deeds. But, devas who live thiên, là những vị sống cuộc sống đầy
lives full of sensual pleasures become những thú vui dục lạc, trở nên buông
heedless about cultivating wholesome lung đối với việc vun trồng các thiện
deeds. nghiệp.
Female devas are amazingly Các thiên nữ thì xinh đẹp một cách
beautiful. kinh ngạc.
Their physical touch is so fine that Sự xúc chạm với thân thể của họ
male devas are attracted by them and thật quá tuyệt diệu khiến các thiên nam
find it hard to stay away from them. To bị hấp dẫn và khó lòng rời xa họ. Để cho
give you an idea about how beautiful quý vị có một ý tưởng về sự xinh đẹp của
they are, I will quote one of the stories họ như thế nào, tôi sẽ trích dẫn một
form Dhammapada, Book 1, Story 9. trong các câu chuyện từ Kinh Pháp Cú
(Dhammapada), quyển 1, chuyện thứ 9.
You may know Prince Nanda? He is Quý vị có biết hoàng tử Nanda
a younger brother of the Buddha. Prince không? Ngài là em trai của Đức Phật.
Nanda married a very beautiful lady Hoàng tử Nanda cưới một cô gái rất xinh
named Janapada-Kalyānī. On their đẹp tên là Janapada-Kalyānī. Vào ngày
wedding day our Buddha entered their cưới của họ, Đức Phật bước vào nhà để
house for alms. After the wedding khất thực. Sau khi lễ cưới kết thúc, Đức
ceremony ended, the Buddha placed his Phật đặt bình bát vào tay hoàng tử
bowl in the hand of Prince Nanda. Then, Nanda. Rồi từ chỗ ngồi đứng dậy, Ngài ra
rising from his seat, he departed without đi mà không lấy lại chiếc bát từ tay
taking the bowl from the hands of the hoàng tử Nanda. Vì quá tôn kính Đức
Prince. Out of respect to the Buddha, Phật, hoàng tử Nanda không dám hở môi
Prince Nanda did not dare call attention gây chú ý sự việc rằng chàng vẫn còn
to the fact that he still had the Buddha’s đang giữ bình bát của Đức Phật. Chàng
bowl. He thought to himself, “He will tự nhủ: “Thế Tôn sẽ lấy lại bình bát ở đầu
take his bowl at the head of the stairs”. thềm”. Nhưng cả khi Đức Phật đến đầu
But even when the Buddha reached the thềm, Ngài vẫn không lấy lại bình bát.
head of the stairs, he did not take his Nanda nghĩ rằng: “Thế Tôn sẽ lấy lại bình
bowl. Nanda thought, “He will take it at bát ở chân thềm”. Nhưng khi đến đó,
67
T H R E E S AYING S OF D EVAS B A C ÂU C HÂ M N GÔ N C Ủ A C HƯ T H I Ê N
the foot of the stairs”. But the Buddha Đức Phật vẫn không lấy lại bình bát.
did not take his bowl even there. Nanda Nanda lại nghĩ: “Thế Tôn sẽ lấy bình bát
thought, “He will take his bowl in the ở sân cung điện”. Nhưng khi đến đó, Đức
palace platform”. But the Buddha did not Phật vẫn không lấy lại bình bát.
take his bowl even there.
Even though Prince Nanda strongly Mặc dù hoàng tử Nanda mong
desired to return to his wife, so great muốn mãnh liệt quay về với vợ, nhưng
was his respect for the Buddha that he lòng tôn kính Đức Phật quá sâu đậm nên
did not dare speak about the Buddha chàng không dám nói Đức Phật nhận lại
taking back his bowl. Instead, much bình bát. Thay vào đó, ngược lại với ý
against his own will, he followed the muốn của mình, chàng bước theo Đức
Buddha thinking all the while “The Phật trong khi tất cả các suy nghĩ là Thế
Buddha will take his bowl here! The Tôn sẽ lấy bình bát ở đây! Thế Tôn sẽ lấy
Buddha will take his bowl there! He will bình bát ở kia! Thế Tôn sẽ lấy bình bát ở
take his bowl over there!” đó!
At that moment, his wife, Janapada- Vào lúc đó, vợ hoàng tử, Janapada-
Kalyānī, the belle-of-the-country Kalyānī, hoa khôi của quốc độ, nhận
received word: “My lady, the Exalted được tin nhắn: “Thưa công nương, Thế
One has taken Prince Nanda away with Tôn đã đem hoàng tử Nanda đi với Ngài”.
him”. Hearing this news Janapada- Nghe được tin này Janapada-Kalyānī, với
Kalyānī, with tears streaming down her khuôn mặt đầm đìa nước mắt và đầu tóc
face and hair half-combed, ran after rối bời, lao hết sức mình đến nơi hoàng
Prince Nanda as fast as she could and tử Nanda và khẩn khoản: “Tướng công,
said to him “Sir, please return xin quay về ngay”. Lời của nàng làm tim
immediately”. Her words caused a Nanda chấn động. Bất chấp điều đó, Đức
tremble in Nanda’s heart. Despite that Phật vẫn không lấy lại bình bát, Ngài dẫn
the Buddha, still without taking his bowl, chàng về tịnh xá và bảo: “Nanda, ông có
led Nanda to his monastery where he thích trở thành một tỷ-kheo không”? Vì
said to him, “Nanda, would you like to lòng tôn kính Đức Phật của Nanda quá
become a monk”? So great was Prince sâu đậm nên chàng không dám nói:
Nanda’s respect for the Buddha that he “Con không thích trở thành một tỷ-
dared not say, “I don’t wish to become a kheo”. Thay vào đó, chàng thưa: “Vâng,
bhikkhu”. So he said instead, “Yes, I con muốn trở thành một tỷ-kheo”. Rồi
would like to become a monk”. Then the Đức Phật cho chàng xuất gia làm tỷ-
Buddha ordained him as a bhikkhu. kheo.
Nanda felt so discontented that he Nanda cảm thấy vô cùng bất mãn
told his troubles to a large company of nên đã nói việc phiền muộn của mình với
Bhikkhus, saying “Venerable Sangha, I nhiều vị tỷ-kheo rằng: “Đức Tăng, tôi bất
am dissatisfied. I am now living the mãn. Tôi đang sống đời xuất gia, nhưng
Religious Life but I cannot continue to tôi không thể tiếp tục đời sống xuất gia
live the Religious Life any longer. I intend nữa. Tôi dự định xả bỏ những phạm hạnh
to abandon the higher precepts and to cao thượng và trở về đời sống thấp hơn,
return to the lower life, the life of đời sống của một cư sĩ thế tục”.
layman”.
The Buddha, hearing of this Thế Tôn, sau khi nghe được sự việc
incident, said to him, “Nanda, is the này, đã cho gọi Tôn giả Nanda đến và
68
T H R E E S AYING S OF D EVAS B A C ÂU C HÂ M N GÔ N C Ủ A C HƯ T H I Ê N
report true that you told a large bảo: “Này Nanda, có thật không ông đã
company of bhikkhus, “Venerable nói với nhiều tỷ-kheo rằng: ‘Đức Tăng,
Sangha, I am dissatisfied. I am now tôi bất mãn. Tôi đang sống đời xuất gia,
living the Religious Life, but I cannot nhưng tôi không thể tiếp tục đời sống
continue to live the Religious Life any xuất gia nữa. Tôi dự định xả bỏ những
longer. I intend to abandon the higher phạm hạnh cao thượng và trở về đời
precepts and to return to the lower life, sống thấp hơn, đời sống của một cư sĩ
the life of layman”? “It is quite true, thế tục’”? “Bạch Thế Tôn, hoàn toàn
Venerable Sir”. The Buddha then said to đúng thế”. Rồi Đức Phật bảo Nanda: “Tại
Nanda, “Why are you dissatisfied with sao ông bất mãn với đời sống xuất gia
the Religious Life you are now living? mà ông đang sống? Tại sao ông không
Why cannot you continue to live the thể tiếp tục đời sống xuất gia nữa? Tại
Religious Life any longer? Why do you sao ông định xả bỏ những phạm hạnh
intend to abandon the higher precepts cao thượng và trở về đời sống thấp hơn,
and to return to the lower life, the life of đời sống của cư sĩ thế tục”?
layman”?
“Venerable Sir, when I left my “Bạch Thế Tôn, khi con rời cung
palace my wife, Janapada-Kalyānī, with điện, hôn thê Janapada-Kalyānī của con,
her hair half-combed, took leave of me, với đầu tóc rối bời, từ giã con và khẩn
saying, ‘Sir, please return immediately’. khoản: “Tướng công, xin quay về ngay”.
Venerable Sir, it is because I keep Bạch Thế Tôn, vì con vẫn luôn nhớ nàng
remembering her that I am dissatisfied. I nên con bất mãn. Con đang sống đời
am now living the Religious Life, but I xuất gia, nhưng con không thể tiếp tục
cannot continue to live the Religious Life đời sống xuất gia nữa. Con dự định xả bỏ
any longer. I intend to abandon the những phạm hạnh cao thượng và trở về
higher precepts and to return to the đời sống thấp hơn, đời sống của cư sĩ thế
lower life, the life of layman”. tục”.
Then the Buddha took Bhikkhu Khi ấy, Đức Phật nắm tay tỷ-kheo
Nanda by the arm, and by his psychic Nanda, dùng thần thông đưa vị ấy đến
power guided him to the devas’ world. cõi trời. Trên đường đi, đức Thế Tôn chỉ
On the way the Buddha pointed out to cho Tôn giả Nanda thấy một con khỉ cái
Venerable Nanda a greedy ugly female tham ăn, xấu xí, mất hết cả tai, mũi và
monkey which had lost her ears and đuôi ở trong một ngọn lửa. Con khỉ ngồi
nose and tail in a fire. The monkey was trên một gốc cây đã cháy rụi.
seated on a burnt stump.
When they reached the world of the Ðến cõi trời, Đức Phật chỉ năm trăm
devas the Buddha pointed out five thiên nữ xinh đẹp diệu kỳ đang hầu hạ
hundred amazingly beautiful female Đế Thích (Sakka), vua của chư thiên.
devas who came to wait upon Sakka, the
king of the devas.
After the Buddha had shown Sau khi Đức Thế Tôn chỉ cho tỷ-
Bhikkhu Nanda these two sights, he kheo Nanda thấy hai cảnh tượng đó,
asked him this question, “Nanda, whom Ngài hỏi vị ấy câu hỏi sau: “Này Nanda,
do you regard as being the more ông thấy ai xinh đẹp hơn? Hôn thê
beautiful, your wife Janapada-Kalyānī or Janapada-Kalyānī của ông hay năm trăm
these five hundred female devas”? thiên nữ này”?
69
T H R E E S AYING S OF D EVAS B A C ÂU C HÂ M N GÔ N C Ủ A C HƯ T H I Ê N
“Venerable Sir, compared to these “Bạch Thế Tôn, so với năm trăm
five hundred amazingly beautiful female thiên nữ xinh đẹp diệu kỳ, hôn thê
devas, my wife Janapada-Kalyānī looks Janapada-Kalyānī của con trông giống
like the greedy ugly female monkey như con khỉ cái tham ăn, xấu xí, mất hết
which has lost her ears and nose and tail cả tai, mũi và đuôi ở trong một ngọn lửa.
in a fire. In comparison to these female So với những thiên nữ này, hôn thê của
devas, my wife does not amount to even con chẳng đáng kể dù chỉ là một phần
a fraction. These five hundred female nhỏ. Năm trăm thiên nữ này thì vô vàn
devas are infinitely more beautiful. xinh đẹp hơn nhiều”.
How surprising it is! Compared to Thật ngạc nhiên biết bao! So với
the female devas, even Janapada- thiên nữ, ngay cả Janapada-Kalyānī, hoa
Kalyānī, the belle-of-the-country, looks khôi của quốc độ, trông giống như một
like an ugly monkey. con khỉ xấu xí.
Now let us turn to the practice of Bây giờ chúng ta hãy trở lại với
samatha and vipassanā meditation. pháp hành thiền định (samatha) và thiền
Minh Sát (vipassanā).
Concentration can be developed Định chỉ có thể phát triển khi chúng
only when we are free from sensual ta thoát khỏi dục lạc và các triền cái (các
pleasures and the hindrances. As you chướng ngại ngăn che - ND). Như quý vị
have heard, there are five hundred very đã nghe, có năm trăm thiên nữ cực kỳ
beautiful female devas to the left and xinh đẹp ở bên trái và bên phải của mỗi
right of each male deva. Heavenly thiên nam. Thiên dục thì quá tuyệt vời
sensual pleasures are so fine that it is nên thật khó cho các thiên nhân bình
difficult for ordinary devas to cultivate thường tu dưỡng thiện nghiệp. Vì thế chư
wholesome deeds. Therefore devas thiên tuyên bố rằng được địa vị làm
declare that the human state is a good người là đi đến cõi lành.
destination.
The reason our Bodhisatta chose Lý do mà bồ-tát (bodhisatta) của
not to spend his whole life span in the chúng ta (tiền thân của Đức Phật Thích
deva realms, whenever he was born Ca - ND) đã không chọn sống hết tuổi
there, was because he could not fulfill thọ của mình trong các cõi trời khi Ngài
the perfections there. Instead, as the tái sanh ở đó, bởi vì Ngài không thể thực
Bodhisatta, he was able to make a hiện các ba-la-mật ở đó. Thay vào đó, là
determination (adhiṭṭhāna) to return to một vị bồ-tát đã được thọ ký
the human world where this is easier. So (bodhisatta), Ngài có thể thực hiện một
when we are humans, we really need to quyết định mạnh mẽ (adhiṭṭhāna) để trở
practice meditation to penetrate the về cõi người, nơi mà việc thực hành các
Dhamma as it really is. I have now ba-la-mật được dễ dàng hơn. Do vậy, khi
explained why the devas say ‘the human chúng ta là con người, chúng ta thật sự
state is a good destination’. cần thực hành thiền để thấu suốt các
Pháp như nó thực sự là. Bây giờ tôi đã
giải thích lý do tại sao mà chư thiên nói
“được địa vị làm người là đi đến cõi lành”
However, for those who practiced Tuy nhiên, với những ai đã thực
sīla, samādhi and vipassanā hành giới (sīla), thiền định (samādhi),
systematically and deeply when they thiền minh sát (vipassanā) một cách có
70
T H R E E S AYING S OF D EVAS B A C ÂU C HÂ M N GÔ N C Ủ A C HƯ T H I Ê N
were humans, being reborn among the hệ thống và sâu sắc khi còn là con người
devas hastens their attainment. Why? thì việc được tái sanh giữa thiên chúng
According to the Buddha, there are many sẽ thúc đẩy nhanh sự chứng ngộ của họ.
Dhamma-friends in the deva realm. Tại sao? Theo Đức Phật, có nhiều Pháp
When they see you there they recognize hữu ở cõi trời. Khi họ thấy quý vị ở đó, họ
you and remind you to practice sẽ nhận ra và nhắc nhở quý vị hành
meditation and when that happens you thiền, khi điều đó xảy ra thì quý vị có thể
can penetrate the Dhamma very quickly. thấu suốt Pháp rất nhanh chóng.
The answer to the second question Câu trả lời cho câu hỏi thứ hai là:
is:
“Having become a human being, “Sau khi được địa vị làm người, đạt
acquiring faith in the Dhamma-and- được lòng tin nơi Pháp và Luật do Như
Discipline taught by the Tathāgata is the Lai thuyết giảng, này các tỷ-kheo, đây là
devas’ meaning of ‘the gain that is good ý nghĩa “nhận những lợi ích tốt lành nên
to gain”. nhận lấy”.
To share how important it is to Để chia sẻ việc có được lòng tin nơi
acquire faith in the Dhamma-and- Pháp và Luật quan trọng ra sao, hãy để
Discipline, let me quote the words of the tôi trích dẫn câu kệ của Đức Phật có
Buddha from Saṃyutta Nikāya. Our trong Kinh Tương Ưng Bộ (Saṃyutta
Buddha said: Nikāya). Đức Phật dạy:
“Faith is a person’s partner; Tín là bạn loài Người
If lack of faith does not persist, Nếu không trú bất tín,
Fame and reputation thereby come Ðược danh dự, xưng tán,
to him, Sau khi bỏ thân này,
And he goes to heaven on leaving Ðược sanh lên Thiên giới.
the body”.
People have different kinds of Con người có nhiều loại bạn đồng
companions: teachers, friends, wives, hành khác nhau như: thầy cô giáo, bạn
husbands, children, protectors and so bè, vợ, chồng, con cái, người bảo hộ...
on. They are not our real companions. Họ không phải là những người đồng hành
They are only with us temporarily, not thực sự của ta. Họ chỉ tạm thời đi cùng
permanently. Such companions cannot với chúng ta, không phải là mãi mãi.
follow us when we die. What follows us Những người đồng hành này không thể
when we leave this body is a companion theo ta khi ta chết. Cái đi theo ta khi ta
called ‘Faith’. It is because of faith that rời bỏ thân xác này là người bạn đồng
we perform wholesome deeds such as hành có tên là “Lòng Tin”. Bởi vì có lòng
offering dāna, keeping the precepts and tin mà chúng ta thực hiện thiện nghiệp
engaging in meditation practice. như bố thí cúng dường (dāna), giữ giới,
Thereby, fame and reputation come to tiến hành tu tập thiền. Theo cách ấy,
us, and when we leave the body, we will danh xưng và tiếng tốt đến với chúng ta,
go to the good destination. và khi ta rời bỏ thân xác này, ta sẽ đến
cõi lành.
“Faith is a man’s best treasure,” Đức Phật tuyên bố: “Lòng tin là kho
said the Buddha. báu tốt nhất của loài người”.
71
T H R E E S AYING S OF D EVAS B A C ÂU C HÂ M N GÔ N C Ủ A C HƯ T H I Ê N
All accumulated wealth such as Tất cả các của cải tích lũy được như
gold, money, jewels and any person or vàng, tiền bạc, trang sức và bất kỳ người
thing that a man considers valuable is nào hay đồ vật nào mà một người xem là
defined as ‘treasure’. But living and non- có giá trị thì được định nghĩa là “báu
living things are really not a man’s best vật”. Nhưng các loài hữu tình và vật vô
treasure. When we die we have to leave tri thì thực sự không phải là báu vật tốt
them all behind. With faith in the nhất của một người. Khi ta chết, ta phải
Buddha, the Dhamma, the Sangha, and lìa bỏ tất cả chúng lại phía sau. Với lòng
in kamma and its result, we do tin nơi Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng, và
wholesome deeds such as offering dāna, tin nơi nghiệp (kamma) và quả của
keeping the precepts and practicing nghiệp, chúng ta làm các nghiệp thiện
meditation. Knowing the benefit that như bố thí cúng dường (dāna), giữ giới,
results from such actions, we know that và thực hành thiền. Hiểu biết về lợi ích
this is man’s best treasure. So, the wise do các hành động này mang lại, chúng
invests the strength of living things and ta biết rằng đó chính là báu vật của con
accumulated-non-living things in the người. Do vậy, người trí đầu tư cả sức lực
fertile field called the Buddha, the lẫn của cải tích lũy được vào cánh đồng
Dhamma and the Sangha. In doing so, màu mỡ là Đức Phật, Đức Pháp và Đức
good results will follow us like our Tăng. Làm như vậy, quả báo thiện lành
shadow, and we can take them away sẽ theo chúng ta như bóng với hình, và
with us when we leave this body. That is chúng ta có thể mang theo chúng khi
the reason why our Buddha said “Faith is chúng ta lìa bỏ thân xác này. Đó là lý do
a man’s best treasure”. tại sao Đức Phật dạy “Lòng tin là kho báu
tốt nhất của loài người”.
“Faith secures provisions for a “Lòng tin đảm bảo tư lương cho
journey”. chuyến du hành”.
Whenever we start a journey we Bất kỳ khi nào chúng ta bắt đầu
need a variety of provisions: food, water, một chuyến du hành, chúng ta đều cần
vehicles, money for traveling expenses, các sự chuẩn bị khác nhau: thức ăn,
etc. The longer our journey, the more nước uống, xe cộ, tiền bạc cho các phí
provisions we need to carry. If we lack tổn du hành v.v. Chuyến du hành càng
any of these provisions and if that lack dài, càng nhiều thứ tư lương mà chúng
persists, our journey becomes long and ta cần phải mang theo. Nếu ta thiếu bất
difficult. In the same way, when we start kỳ thứ tư lương nào và sự thiếu thốn này
the journey to Nibbāna, where all kéo dài, chuyến du hành của chúng ta
suffering ceases, we need the right trở nên lâu lắc và khó khăn. Theo cách
provisions. The manner in which we tương tự, khi chúng ta bắt đầu chuyến
carry them with us is through hành trình đến Niết-bàn (Nibbāna), nơi
accumulating wholesome deeds. All mà tất cả các khổ đau đều bị tận diệt,
wholesome deeds have roots in ‘Faith’: chúng ta cần các loại tư lương thích hợp.
faith in the Buddha, the Dhamma and Cách thức mà chúng ta mang chúng
the Sangha, and faith in kamma and its theo là bằng cách tích lũy các thiện
result. If a lack of faith in any of these nghiệp. Tất cả các thiện nghiệp đều có
persists, we will be short of the nguồn gốc từ “Lòng Tin”: lòng tin nơi Đức
necessary provisions for the journey to Phật, Đức Pháp và Đức Tăng, và lòng tin
Nibbāna. ở nơi nghiệp (kamma) và quả của
nghiệp. Nếu sự thiếu thốn một trong các
72
T H R E E S AYING S OF D EVAS B A C ÂU C HÂ M N GÔ N C Ủ A C HƯ T H I Ê N
73
T H R E E S AYING S OF D EVAS B A C ÂU C HÂ M N GÔ N C Ủ A C HƯ T H I Ê N
“We reap what we sow. If we plant Chúng ta gặt hái những gì chúng ta
wholesome seeds such as offering dāna, gieo trồng. Nếu chúng ta gieo hạt giống
keeping precepts and practicing thiện như cúng dường (dāna), giữ giới và
meditation with faith in the Buddha, the hành thiền với lòng tin vào Đức Phật,
Dhamma and the Sangha, they will bring Đức Pháp và Đức Tăng, chúng sẽ trổ các
forth the desirable fruits of long life, quả đáng mong ước là sống lâu, sắc đẹp,
beauty, wealth, happiness, fame and giàu sang, an vui, danh tiếng và sức
power when we are once again reborn mạnh một khi chúng ta được tái sanh lại
among humans and devas. They will giữa nhân loại và chư thiên. Chúng sẽ
help us to know and see Nibbāna. giúp chúng ta biết và thấy Niết-bàn. Vì
Therefore, the seed of faith in the thế, hạt giống lòng tin nơi Đức Phật, Đức
Buddha, the Dhamma, the Sangha, must Pháp và Đức Tăng phải được gieo trồng
be planted in order to bear the fruit để sanh quả gọi là Niết-bàn.
called Nibbāna.
“By faith one crosses over the “Nhờ lòng tin người ta vượt qua cơn
flood”. lũ”.
It is hard to cross the flood of Thật là khó để vượt qua cơn lũ luân
saṃsāra. Even though we know it is hồi (saṃsāra). Mặc dù chúng ta biết rằng
impossible to cross over the flood called không thể vượt qua cơn lũ có tên gọi là
the rounds of rebirth in a ship, with faith vòng luân hồi trên một chiếc thuyền,
one can cross over this flood so difficult nhưng với lòng tin ta có thể vượt qua cơn
to cross. If faith has been well- lũ rất khó vượt qua này. Nếu lòng tin
established, the human world is indeed a được thiết lập tốt, thế giới loài người thật
good destination. It is here that we can sự là cõi lành. Ở đây, hầu hết chúng ta
most easily ‘gain the gain that is good to có thể dễ dàng “nhận những lợi ích tốt
gain’. If we cannot, we have come to a lành nên nhận lấy”. Nếu chúng ta không
good destination in vain. thể nhận lấy thì chúng ta đã đến cõi lành
trong sự vô ích.
When faith is steadfast, firmly Khi lòng tin được vững chắc, được
rooted, established and strong, not to be bám rễ chắc chắn, được thiết lập vững
destroyed by any recluses or brahmins chải, không để bị hủy diệt bởi bất cứ sa-
or devas or Māra or Brahmas or by môn, bà-la-môn, Thiên nhân, Ác ma
anyone else in the world: this is what the (Māra), phạm thiên nào hay bất cứ ai ở
devas mean by becoming “well- đời: đây chính là ý nghĩa mà chư thiên
established”. muốn nói tới việc trở thành “khéo an
trú”.
When a person has realized Khi một người chứng ngộ Niết-bàn
Nibbāna with first Path and Fruition với Đạo Trí và Quả Trí, không một ai trên
knowledge, no one in the world can thế gian có thể tiêu diệt lòng tin của vị
destroy his faith; no one ever again has đó; không ai có khả năng lấy đi trí tuệ đó
the power to take that knowledge away hoặc làm vị ấy thay đổi. Với Đạo Trí và
from him or make him change. With first Quả Trí đầu tiên, lòng tin vào Đức Phật,
Path and Fruition knowledge, his faith in Đức Pháp và Đức Tăng trở nên bất động.
the Buddha, the Dhamma and the Lòng tin của vị ấy được gọi là “khéo an
Sangha becomes unshakable. His faith is trú”.
said to be “well-established”.
74
T H R E E S AYING S OF D EVAS B A C ÂU C HÂ M N GÔ N C Ủ A C HƯ T H I Ê N
There is a story about this. In the Có một câu chuyện về điều này.
time of the Buddha, there was a man Trong thời Đức Phật, có một người đàn
called Surambaṭṭha. When he heard the ông tên là Surambaṭṭha. Khi trực tiếp
teachings directly from the Tathāgata, nghe bài pháp từ đấng Như Lai,
Surambaṭṭha became a Sotāpanna. Surambaṭṭha chứng quả Nhập Lưu
Afterwards, the Buddha departed. (Sotāpanna). Sau đó, Đức Phật ra đi.
After a while, Māra decided to test Sau đó một lúc, Ma vương (Māra)
Surambaṭṭha’s faith in the Buddha, the quyết định kiểm tra lòng tin của
Dhamma and the Sangha. For this Surambaṭṭha đối với Đức Phật, Đức Pháp
reason he took on a Buddha-like và Đức Tăng. Vì lý do này, Ma vương
appearance and went to see biến hóa giống như Đức Phật và đến gặp
Surambaṭṭha. Surambaṭṭha.
When Surambaṭṭha saw that the Khi Surambaṭṭha thấy Đức Phật
Buddha had come back again, he paid quay trở lại, ông đảnh lễ và chờ đợi Đức
his respects and waited for the Buddha Phật chỉ dạy. Ma vương, trông giống như
to say something. Māra, looking like the Đức Phật, bảo “Surambaṭṭha, Như Lai đã
Buddha, said, “Surambaṭṭha, I have told dạy ông rằng năm uẩn có bản chất vô
you that the five-aggregates have the thường, khổ và vô ngã. Bây giờ hãy ghi
nature of impermanence, suffering and nhớ rằng cũng có một số pháp là thường,
non-self. Now note that there are also lạc và ngã”.
some dhammas which are permanent,
pleasant and self”.
Surambaṭṭha was not fooled. Surambaṭṭha không bị lừa phỉnh.
Knowing the nature of the Buddha, he Biết được bản chất của Đức Phật, ông
knew that the Buddha never says biết rằng Đức Phật không bao giờ nói bất
anything that is misleading or wrong. kỳ điều gì lừa dối và sai trái. Hơn nữa,
Furthermore, he himself had penetrated chính ông đã thấu suốt các Pháp như nó
the Dhamma as it really is. Even Māra thật sự là. Ngay cả Māra cũng không thể
could not make him change. When làm ông thay đổi. Khi Surambaṭṭha hỏi
Surambaṭṭha asked, ‘Are you Māra?’, lại: “Ngươi có phải là Ma vương”? Ma
Māra confessed that he was. vương thú nhận đúng là như vậy. Rồi
Surambaṭṭha then said to him, “My faith Surambaṭṭha bảo Ma vương rằng: “Lòng
is unshakable. It has been rooted and is tin của ta là bất động. Nó đã được cắm
well-established in me. Māra, if you rễ và khéo an trú trong ta. Ma vương,
appeared as a hundred or thousands in nếu ngươi xuất hiện như vậy cả trăm hay
number, you still could not change me. ngàn lần, ngươi vẫn không thể thay đổi
Leave here”. được ta. Đi khỏi đây ngay”.
Here we should consider how Ở đây, chúng ta nên lưu ý thấy
Surambaṭṭha, as a Sotāpanna, had Surambaṭṭha, một vị thánh Tu-đà-hoàn
established unshakable faith in the (Sotāpanna), đã an trú lòng tin bất động
Buddha, the Dhamma and the Sangha. If nơi Đức Phật, Đức Pháp và Đức Tăng như
he were an ordinary person, he might thế nào. Giả sử ông còn là một phàm
have believed Māra. phu, có thể ông đã tin lời Ma vương.
There are great differences Có những khác biệt rất lớn giữa một
between a Sotāpanna and an ordinary vị thánh Tu-đà-hoàn (Sotāpanna) và một
75
T H R E E S AYING S OF D EVAS B A C ÂU C HÂ M N GÔ N C Ủ A C HƯ T H I Ê N
person. This was declared by the Buddha người phàm phu. Điều này đã được Đức
in the Saccasaṃyutta of Mahāvagga Phật tuyên bố trong Tương Ưng Sự Thật
Saṃyutta. The title of the sutta is ‘The (Saccasaṃyutta) của Tương Ưng Đại
Fingernail’. Therein it was said: Phẩm (Mahāvagga Saṃyutta). Tên bài
kinh là “Kinh Đầu ngón tay” (Nakhasikha
Sutta). Trong đó điều này được nói lên:
“On one occasion, the Blessed One “Một thời, Thế Tôn lấy lên một ít bụi
took up a little bit of soil on the tip of his trên đầu móng tay rồi gọi các Tỷ-kheo:
fingernail and addressed the bhikkhus
thus:
“What do you think, bhikkhus, “Các ông nghĩ thế nào, này các Tỷ-
which is more: the little bit of soil on the kheo, cái gì nhiều hơn, một ít bụi này Ta
tip of my fingernail or the great earth”? lấy lên trên đầu ngón tay, hay là quả đất
lớn này?”
“Venerable Sir, the great earth is “Cái này là nhiều hơn, bạch Thế
more. The little bit of soil that the Tôn, tức là quả đất lớn này. Còn ít hơn là
Blessed One has taken up on the tip of một ít đất mà Thế Tôn lấy ở đầu móng
his fingernail is trifling. Compared to the tay. So với đất trên quả địa cầu to lớn
great earth, the little bit of soil that the này, một ít đất mà Thế Tôn để trên đầu
Blessed One has taken up on the tip of móng tay của mình thì không thể nào so
his fingernail does not bear comparison, sánh được, không bằng thậm chí là một
does not amount even to a fraction”. phần nhỏ”.
“So too, bhikkhus, for a noble “Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, với vị
disciple, a person accomplished in view Thánh đệ tử thành tựu chánh kiến, với
who has made the breakthrough, the người đã chứng ngộ, cái này là nhiều
suffering that has been destroyed and hơn, tức là sự khổ đã được đoạn tận, đã
eliminated is more, while that which được tiêu mòn này. Rất ít là khổ còn tồn
remains is trifling. Compared to the tại, không có thể ước tính, không có thể
former mass of suffering that has been so sánh, không có thể thành một phần
destroyed and eliminated, the latter nhỏ, nếu so sánh với khổ trước đã được
does not bear comparison, does not đoạn tận, đã được tiêu mòn. Tức là trong
amount even to a fraction, as there is a thời gian tối đa là bảy lần tái sanh đối với
maximum of seven more lives. He is one người đã rõ biết: đây là Khổ, đây là
who understands as it really is: This is Nguồn Gốc của Khổ, đây là sự Diệt Khổ,
suffering, this is the origin of suffering, đây là Con Đường đưa đến Diệt Khổ”.
this is the cessation of suffering, and this
is the way leading to the cessation of
suffering”.
The first noble person, a Bậc thánh đầu tiên, một bậc Tu-đà-
Sotāpanna, is completely free from hoàn (Sotāpanna), thì hoàn toàn thoát
suffering in the four woeful states. khỏi khổ đau ở trong bốn cõi khổ. Người
Ordinary people are still subject to phàm phu thì vẫn phải chịu khổ đau ở
suffering there. nơi đó.
Because of not knowing the Four Bởi vì không thấu suốt Bốn Thánh
Noble Truths, ordinary people are subject Đế, mà người phàm phu phải chịu nhiều
76
T H R E E S AYING S OF D EVAS B A C ÂU C HÂ M N GÔ N C Ủ A C HƯ T H I Ê N
to many dangers. One of the dangers is hiểm nguy. Một trong các hiểm nguy là
not recognizing the right teacher to không nhận biết được vị thầy đúng đắn
follow. That is why the commentary để tu tập theo. Đó là lý do tại sao chú
explains that ordinary people are those giải giải thích rằng người phàm phu là
who look up to many different teachers. những người phải tìm kiếm nhiều vị thầy
However, if you have accumulated khác nhau. Tuy nhiên, nếu quý vị tích lũy
enough wholesome actions in your past đủ thiện nghiệp trong quá khứ để phân
to differentiate the right teacher from biệt được vị thầy đúng đắn với vị thầy sai
the wrong teacher, it means you have lạc, thì điều đó có nghĩa là quý vị đã
been taught the right teaching from được giảng dạy đúng đắn từ một ai đó
someone in your past. You are being trong quá khứ. Đó là lý do tại sao tôi
driven by the force of past good actions. khuyến khích quý vị học Chánh Pháp của
That’s why I encourage you to learn the Đức Phật ở kiếp hiện tại này. Hãy quan
true teaching of the Buddha in this tâm đến việc một người nào đó có đang
present life. Be concerned about giảng dạy theo đúng Chánh Pháp của
whether or not someone is teaching in Đức Phật hay không. Quý vị có biết rằng
accordance with the Buddha’s true không ai có thể tự mình giảng dạy con
teaching. Do you know that no one can đường đến Niết-bàn (Nibbāna)? Luôn ghi
teach the path leading to Nibbāna nhớ rằng Đức Phật đã giảng dạy con
themselves? Keep in mind that the đường dẫn đến Niết-bàn. Đó chính là
Buddha taught the path leading to Giáo Pháp của Ngài. Giáo Pháp đến với
Nibbāna. It is his teaching. It comes to us chúng ta trực tiếp từ Ngài.
directly from him.
Between birth and death, please Trong khoảng từ khi sanh ra đến khi
reflect on these questions: How many chết đi, xin hãy quán xét các câu hỏi
teachers have you searched for, này: Có bao nhiêu vị thầy mà quý vị đã
expecting something from them? Have tìm kiếm, đã mong đợi điều gì đó từ phía
you been satisfied with them or not? Are họ? Quý vị có hài lòng với họ hay không?
you still hoping to find other teachers? Quý vị có còn đang hy vọng tìm kiếm các
Yes? You should know that no worldly vị thầy khác nữa? Có? Quý vị nên biết
teachers can make you feel satisfied and rằng không một vị thầy phàm phu nào
content. Why? Because both you and có thể làm quý vị thỏa mãn và hài lòng.
they are driven in a specific direction, by Tại sao? Vì cả quý vị và họ đều bị dồn
defilements such as greed, hatred, đến những hướng khác nhau bởi các
delusion, pride, jealousy and stinginess. phiền não như là tham ái, sân hận, si
We are all slaves of the defilements, not mê, ganh ghét, bủn xỉn. Tất cả chúng ta
the masters. They lead us onto the đều là nô lệ của các phiền não ô nhiễm,
wrong path. Usually people act from the chứ không phải là những ông chủ. Chúng
intention to satisfy their worldly desires dẫn dắt chúng ta đi trên con đường sai
and cravings. Craving, which is almost lạc. Thường thường, người ta hành động
always hunger for something, is a xuất phát từ chủ định làm thỏa mãn các
defilement. For example, we approach thèm muốn và tham ái trần tục của
someone for something we want and mình. Tham ái là một phiền não, nó hầu
they welcome us because of something như luôn đói khát thứ gì đó. Ví dụ, chúng
they want. This type of relationship does ta tiếp cận ai đó vì thứ gì đó ta cần và họ
not foster truth. It does not eradicate chào đón chúng ta vì những thứ họ
defilements. Because of these muốn. Loại quan hệ này chẳng giúp ích
77
T H R E E S AYING S OF D EVAS B A C ÂU C HÂ M N GÔ N C Ủ A C HƯ T H I Ê N
defilements, we will not really be gì cho chân lý. Nó không diệt trừ các
satisfied with who we are nor will they phiền não ô nhiễm. Do bởi các phiền não
be satisfied with who they are. People này, ta sẽ không thật sự thỏa mãn được
often decide something or someone is với [câu trả lời] ta là ai cũng như họ cũng
good or bad, based on the prospect of không thỏa mãn được họ là ai. Con người
reciprocity or benefit. This way of thường quyết định điều gì đó hay ai đó là
thinking is subject to their changing likes tốt hay xấu dựa trên sự trông mong có
and dislikes and is ego-driven, self- qua có lại hoặc dựa trên lợi ích. Cách suy
serving and fundamentally dishonest. nghĩ này của họ luôn phải chịu sự thay
đổi bởi sự thích và không thích và chịu
xu thế của cái tôi, mang tính ích kỷ, và
về căn bản là không lương thiện.
You may read books written by Quý vị có thể đọc các sách viết bởi
different teachers about meditation các vị thầy khác nhau về các pháp thiền
practice which bring up many doubts in mà có thể đem lại nhiều hoài nghi cho
you. You may find it hard to decide who quý vị. Quý vị có thể thấy thật khó mà
among them is right or wrong. How can quyết định giữa họ ai là đúng và ai là sai.
you know? Once you have seen the Four Làm thế nào quý vị có thể biết được?
Noble Truths, you can easily discern Một khi quý vị chứng ngộ Bốn Thánh Đế,
which of these books is right and which quý vị có thể dễ dàng phân biệt trong số
is wrong. sách này, sách nào là đúng và sách nào
là sai.
It is only when you meet someone Chỉ khi nào gặp được ai đó dạy quý
who teaches you how to eradicate the vị cách tận diệt các phiền não ô nhiễm
defilements in order to see Nibbāna, and để chứng ngộ Niết-bàn (Nibbāna) và sau
after having seen Nibbāna, that your khi chứng ngộ Niết-bàn, tâm quý vị cuối
mind will finally be fulfilled. Once you cùng sẽ thỏa mãn. Một khi quý vị chứng
have seen the Four Noble Truths, you see ngộ Bốn Thánh Đế, quý vị sẽ gặp Đức
the Buddha. You will no longer need to Phật. Quý vị sẽ không còn cần phải tìm
search for any other teachers. That’s kiếm bất kỳ các vị thầy nào khác. Đó là
why our Buddha said: lý do tại sao Đức Phật dạy:
“The one who sees the Dhamma, “Ai thấy Pháp, người đó thấy Như
sees me”. Lai”
The one who has seen Nibbāna will Người nào chứng ngộ Niết-bàn thì
not look for other teachers. He then has sẽ không còn tìm kiếm các vị thầy khác
only one teacher, the Buddha. Because nữa. Lúc đó, vị ấy chỉ có một vị thầy, đó
his faith is rooted and well-established in là Đức Phật. Vì lòng tin của vị ấy được
the Buddha, the Dhamma and the bám rễ và khéo an trú ở nơi Đức Phật,
Sangha, it can be said that his faith is Đức Pháp và Đức Tăng, có thể nói rằng
unshakable. đó là lòng tin bất động.
May you all be able to establish Cầu chúc tất cả quý vị khéo an trú
unshakable-faith in the Buddha, the lòng tin bất động nơi Đức Phật, Đức Pháp
Dhamma and the Sangha. và Đức Tăng.
May you all attain Nibbāna, the Cầu chúc tất cả quý vị chứng ngộ
Peace. Niết-bàn, Sự An Tịnh.
78
T H R E E S AYING S OF D EVAS B A C ÂU C HÂ M N GÔ N C Ủ A C HƯ T H I Ê N
The talk given on Sunday, Bài Pháp được thuyết vào ngày Chủ Nhật,
20 th October 2005 at Pa-Auk Tawya in Ngày 20 tháng 10 năm 2005 tại Pa-Auk
Myanmar and Tawya, Myanmar, và
November 2005 at VMC & Mingalāvihāra Tháng 11 năm 2005 tại VMC và
in Singapore Mingalāvihāra, Singapore
79
Giving What?
Cho Gì?
Namo tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa
There are two kinds of actions Có hai loại hành động được con
performed by worldly people: Good người trên thế gian thực hiện: hành động
actions and bad actions. Good actions thiện và hành động bất thiện. Hành động
give good results while bad actions give thiện thì cho quả lành trong khi hành
bad results. Whether good or bad, one động bất thiện thì cho quả xấu. Dù là
day all actions produce their results. We thiện hay bất thiện, một ngày nào đó
should, therefore, carefully consider the hầu như tất cả các hành động sẽ đem lại
possible results of our actions before we kết quả của chúng. Do vậy ta nên cân
act. nhắc một cách cẩn trọng các hậu quả có
thể xảy ra từ các hành động của ta trước
khi ta làm việc gì.
When we look around us we see Khi nhìn xung quanh, ta thấy có các
disparity. Some people are rich; some sự khác biệt. Một số người thì giàu có;
are poor. Some are beautiful; some are một số thì nghèo khổ. Một số thì xinh
ugly. Some live long, but some die đẹp; một số thì xấu xí. Một số thì sống
young. Some are famous; most are thọ, nhưng một số thì chết yểu. Một số
ordinary. Some are powerful; others are thì nổi tiếng; hầu hết thì bình thường.
weak. These inequalities do not appear Một số thì có quyền thế lớn; những người
by chance. It is not someone’s good luck khác thì yếu thế. Sự không đồng đều này
that they are healthy, or another’s bad chẳng xuất hiện một cách tình cờ. Không
luck that they are unhealthy. All such phải do may mắn của một ai đó mà họ
inequalities among human beings result khỏe mạnh, và chẳng do sự thiếu may
from our own intentions and actions. mắn của người khác mà họ không khỏe
Each person reaps the fruit of his own mạnh. Tất cả các sự khác nhau này trong
actions. loài người là quả báo từ tác ý và hành
động của chính chúng ta mà ra. Mỗi con
81
G IVING W HAT ? CHO GÌ ?
82
G IVING W HAT ? CHO GÌ ?
will be blessed with a multitude of khác thì sẽ được hạnh phúc với vô số
companions. bạn hữu.
Not giving food, clothing, carriages, Không cúng dường vật thực, y áo,
garlands, scents, beds, dwelling and xe ngựa, vòng hoa, dầu thơm, giường
lamps to recluses or brahmins leads to ngủ, chỗ trú ngụ và đèn cho các vị tu
poverty; giving such requisites to them hành ẩn sĩ hay bà-la-môn thì dẫn đến
leads to wealth. nghèo túng; cúng dường những vật dụng
này đến các vị ấy thì sẽ dẫn đến giàu có.
One who does not honor those Những ai không kính trọng những
worthy of honor will be low-born, whilst người đáng kính trọng thì sẽ là người có
one who honors those to whom honor is dòng dõi thấp kém, trong khi người nào
due will be high-born. kính trọng những người đáng kính trọng
thì sẽ được dòng dõi cao quý.
Not visiting a recluse or brahmin Không viếng thăm các vị tu hành
and asking questions such as, ẩn sĩ hay bà-la-môn và hỏi những câu hỏi
“Venerable sir, what is wholesome? như: “Thưa Tôn giả, thế nào là thiện? Thế
What is unwholesome? What is nào là bất thiện? Điều gì là đáng khiển
blameable? What is blameless? What trách? Điều gì không bị khiển trách?
should be cultivated? What should not Điều gì nên được trau dồi? Điều gì không
be cultivated? What kinds of action will nên trau dồi? Loại hành động nào sẽ dẫn
lead to my harm and suffering for a long đến sự tổn hại và khổ đau lâu dài cho
time? What kinds of actions will lead to con? Loại hành động nào sẽ đem lại lợi
my welfare and happiness for a long ích và hạnh phúc lâu dài cho con”?
time? Not visiting and asking such Không viếng thăm và hỏi các câu hỏi như
questions leads to stupidity; visiting a thế sẽ dẫn đến ngu đần; viếng thăm các
recluse or brahmin and asking such vị tu hành ẩn sĩ hay bà-la-môn và hỏi các
questions leads to wisdom. câu hỏi như thế sẽ dẫn đến trí tuệ.
Every result has its own cause. Mỗi quả đều có nhân của chính nó.
Different causes generate different Các nhân khác nhau tạo ra các quả khác
results. These are experienced in our nhau. Điều này được kinh nghiệm ở xung
surroundings, and are the result of our quanh ta, và là kết quả của các hành
previous actions. External beings are not động quá khứ. Chúng sinh bên ngoài
responsible for the conditions of our life. không chịu trách nhiệm đối với các hoàn
It is our own past deeds that condition cảnh của đời ta. Chính các nghiệp quá
our lives. khứ mới quy định cuộc sống của ta.
It is through our own intentions and Thông qua các tác ý và hành động
actions that we cast a mold for our life. của mình mà ta đổ một cái khuôn cho
What we do today will bear fruit cuộc đời mình. Những gì chúng ta làm
tomorrow, not only in this life but also in hôm nay sẽ cho ra quả ở mai sau, không
future lives. chỉ ở kiếp này mà còn trong những kiếp
tương lai.
Just as a skillful artist has the ability Như một họa sĩ tài năng có khả
to produce a masterpiece, in the same năng sáng tác một kiệt tác, cũng vậy,
way, a skillful person has the ability to một người thiện tài thì có khả năng hành
act in ways that will bring into being a động theo những cách mà sẽ tạo ra một
83
G IVING W HAT ? CHO GÌ ?
future life masterpiece. On the other kiệt tác ở đời sau. Mặt khác, các hành
hand, unskillful actions will cause the động vụng về xấu ác sẽ gây ra các kết
opposite effect. quả đối nghịch.
We need the right knowledge and Chúng ta cần có chánh trí và kỹ
skill to produce a masterpiece. năng để tạo ra kiệt tác.
This knowledge can be gained Trí này có thể đạt được qua việc học
through learning the Lord Buddha’s hỏi Giáo Pháp của Đức Phật. Kinh Phật
teaching. The Itivuttaka said: Thuyết Như Vậy (Itivuttaka) có nói:
“There are these three grounds for “Này các Tỷ-kheo, có ba phước
meritorious activity. Which three? The nghiệp sự. Thế nào là ba? Phước nghiệp
ground for meritorious activity made of sự do bố thí tác thành, phước nghiệp sự
giving, the ground for meritorious do giữ giới tác thành, và phước nghiệp
activity made of virtue, and the ground do sự tu tập [thiền] tác thành. Này các
for meritorious activity made of Tỷ-kheo, có ba phước nghiệp sự này”.
development [meditation]. These are the
three grounds for meritorious activity”.
Among the three, let us give Trong ba phước nghiệp này, ở buổi
priority tonight to exploring the ground tối hôm nay, hãy để tôi ưu tiên khám
for meritorious activity made of giving. phá Phước nghiệp do bố thí tác thành.
Through the act of giving, people create Thông qua việc bố thí, con người tạo ra
a better mold for a better life. một bộ khuôn tốt hơn cho một cuộc sống
tốt đẹp hơn.
The Buddha said: Đức Phật bảo:
“If beings knew, as I know, the “Này các Tỷ-kheo, nếu các chúng
results of giving and sharing, they would sinh có thể biết như Ta biết, quả báo của
not eat without having given, nor would sự san sẻ bố thí, họ sẽ không ăn nếu họ
the stain of selfishness overcome their chưa bố thí và uế nhiễm xan tham không
minds. Even if it were their last bite, ám ảnh tâm của họ. Dầu là miếng cuối
their last mouthful, they would not eat cùng của họ, dầu là miếng ăn tối hậu, họ
without having shared, if there were sẽ không ăn nếu họ không san sẻ khi có
someone to receive their gift. But người nhận của họ. Nhưng này, các Tỷ-
because beings do not know, as I know, kheo, bởi vì chúng sinh không biết như
the results of giving and sharing, they Ta biết quả báo của san sẻ bố thí, họ ăn
eat without having given. The stain of mà không bố thí. Và uế nhiễm xan tham
selfishness overcomes their minds”. ám ảnh tâm của họ”.
Because of not knowing the results Bởi vì không biết quả báo của sự
of giving and sharing as the Buddha san sẻ bố thí như Đức Phật biết, sự bủn
knows, stinginess overcomes our minds. xỉn tràn ngập tâm chúng ta. Đó là lý do
That’s why the Buddha said: tại sao Đức Phật dạy:
“Giving seems like a battle. Bố thí như cuộc chiến.
Through stinginess and negligence Với bủn xỉn, phóng túng
A gift is not given”. Vật thí không được trao.
I am going to speak to you tonight Tối nay, tôi sẽ nói với quý vị về lợi
about the benefit of giving and sharing. ích của sự bố thí và chia sẻ.
84
G IVING W HAT ? CHO GÌ ?
This talk is based on a sutta from Bài pháp thoại này dựa trên Kinh
the Devatā Saṃyutta in the Sagātha Tương Ưng Chư Thiên (Devatā
Vagga Saṃyutta that points out the Saṃyutta) trong Tương Ưng Thiên có kệ
importance of knowing what to give. The (Sagātha Vagga Saṃyutta) để chỉ ra tầm
title of the sutta is Kiṅdada which means quan trọng của việc biết cúng dường cái
‘Giving what?’ gì. Tiêu đề bài kinh là Kiṅdada có nghĩa
là “Cho gì”?
Before I begin, let me first explain Trước khi bắt đầu, hãy để tôi giải
the difference between the resultant thích trước sự khác biệt giữa quả của
experience of those who give alms – in những người có bố thí – tương phản với
contrast to those who don’t, by quoting những ai không bố thí, bằng cách trích
a sutta called ‘the Benefits of Alms- dẫn một bài kinh có tên là “Lợi ích của
giving’. It is from the Aṅguttara Nikāya, bố thí”. Bài kinh được trích từ Kinh
chapter five. Therein we read: Tăng Chi Bộ (Aṅguttara Nikāya), chương
5. Ở đó chúng ta đọc thấy:
On one occasion, the Blessed One Một thời, Thế Tôn trú ở Sāvatthi (Xá
was dwelling at Sāvatthi in Jeta’s Grove, Vệ), trong khu vườn Jeta (Kỳ Đà), tịnh xá
Anāthapiṇḍika’s monastery. At that time của ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Độc). Rồi
Princess Sumana, with a following of five công chúa Sumana, với năm trăm cung
hundred court ladies in five hundred nữ hộ tống trên năm trăm cỗ xe, đi đến
chariots, came to see the Blessed One. Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi
Having arrived, she paid homage to the ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một
Blessed One, sat down to one side, and bên, công chúa Sumana bạch với Thế
said: Tôn:
“Buddha, suppose there are two “Ở đây, bạch Thế Tôn, giả dụ có hai
disciples of the Buddha who are equal in đệ tử của Thế Tôn đồng đẳng về tín,
faith, equal in virtue and equal in đồng đẳng về giới, đồng đẳng về tuệ,
wisdom. But one is an alms-giver and một có bố thí, một không bố thí. Sau khi
the other is not. Then these two, after thân hoại mạng chung, cả hai được sanh
death, would be reborn in a happy state, lên cõi lành Thiên giới. Giữa hai vị thiên
in a heavenly world. Having thus ấy, có đặc thù gì, có sai khác gì”?
become devas, Buddha, would there be
any distinction or difference between
them”?
“There would be, Sumana,” said “Có sự sai biệt, này Sumana”, Thế
the Blessed One. “The one who has Tôn đáp: “Người có bố thí, khi được làm
given alms, having become a deva, will vị thiên, vượt qua vị thiên không có bố
surpass the non-giver in five ways: in thí trên năm phương diện. Về thiên thọ
divine life-span, divine beauty, divine mạng, về thiên sắc, về thiên lạc, về
happiness, divine fame and divine thiên danh xưng, về thiên uy lực. Người
power”. có bố thí, này Sumana, khi được làm vị
thiên, vượt qua vị Thiên không bố thí
trên năm phương diện này”.
“But if these two, Buddha, pass “Bạch Thế Tôn, nếu từ đó họ mạng
away from there and return to this world chung, trở lại trạng thái này, khi họ trở
here, would there still be some lại làm người, bạch Thế Tôn, có đặc thù
85
G IVING W HAT ? CHO GÌ ?
86
G IVING W HAT ? CHO GÌ ?
87
G IVING W HAT ? CHO GÌ ?
diminishes and our rational ability is tập bị suy giảm và khả năng tư duy bị sa
reduced. This is due to the active sút. Đây là bởi mối quan hệ tác động
relationship between mind and body. giữa tâm và thân.
When we are hungry we suffer. If Khi chúng ta đói, chúng ta khổ. Nếu
we are hungry for long, we suffer a lot. ta đói càng lâu thì ta khổ càng nhiều. Tất
We all know that this is a fact of life. On cả chúng ta đều biết đây là một sự thật
the other hand, once we have eaten we trong cuộc sống. Mặt khác, khi đã ăn rồi
feel at ease and experience an thì ta cảm thấy thoải mái và nếm trải tức
immediate sense of well-being. With the thì cảm giác khỏe khoắn. Với sự trở lại
return of our strength and energy, we của sức mạnh và năng lượng, chúng ta
are able to once again devote our lives một lần nữa có thể dành cuộc sống của
to more than just our mere survival. mình đến nhiều thứ khác hơn là đơn
thuần chỉ để tồn tại.
The Buddha said: Đức Phật dạy:
“Bhikkhus, there are these five “Này các tỷ-kheo, có năm sự bố thí
timely gifts. What five? đúng thời này. Thế nào là năm”?
“One gives to the guest; to the “Bố thí cho người đến, bố thí cho
traveller; to the sick; when food is hard người đi, bố thí cho người đau bệnh, bố
to get; and the first-fruits of the field he thí trong thời đói, phàm có những hoa
sets before the virtuous”. quả gì mới gặt hái được, dành chúng đầu
tiên để cúng dường đến các bậc giữ
giới”.
“Bhikkhus, these are the five timely “Này các tỷ-kheo, năm pháp này là
gifts”. năm bố thí đúng thời”.
If we need a better life, we need to Nếu ta cần một đời sống tốt hơn, ta
give the five timely gifts. Why? cần phải bố thí đúng thời. Tại sao?
Let us reflect on our own life Ta hãy quán xét về trải nghiệm
experience. cuộc sống của chính mình.
We need food to eat, clothes to Ta cần vật thực để ăn, quần áo để
wear, places to live and medicine to mặc, nơi chốn để sống và thuốc men để
prevent and cure diseases. Can we get ngăn ngừa và trị bệnh. Ta có thể có được
them when we need them? chúng khi ta cần không?
There may be many who go Có lẽ có nhiều người không có được
without. It is because of not having given những thứ này. Đó là bởi vì họ đã không
the five timely gifts”. bố thí năm pháp đúng thời.
That’s why the Lord Buddha further Đó là lý do tại sao Đức Phật chỉ dẫn
instructed: thêm:
“Bhikkhus, do not fear meritorious “Này các tỷ-kheo, chớ có e ngại các
deeds [offering dāna, keeping precepts, việc làm công đức [bố thí, trì giới, hành
practicing meditation]. This is an thiền]. Này các tỷ-kheo, công đức là
expression denoting happiness, what is đồng nghĩa với an lạc, cái gì khả lạc, khả
desirable, wished for, dear and hỷ, khả ái, khả ý, tức là công đức. Này
agreeable, that is, ‘meritorious deeds’. các tỷ-kheo, ta thắng tri quả báo khả lạc,
For I know full well, bhikkhus, that for a khả hỷ, khả ái, khả ý trong một thời gian
88
G IVING W HAT ? CHO GÌ ?
long time I experienced desirable, dài của các công đức đã làm”.
wished for, dear and agreeable results
from performing meritorious deeds”.
How can we experience desirable Làm thế nào chúng ta có thể trải
results by accumulating wholesome nghiệm quả báo khả lạc bởi các thiện
deeds? nghiệp đang tích lũy?
To consider that question, we need Để xem xét câu hỏi đó, chúng ta
to investigate the real meaning of cần khảo sát ý nghĩa thực sự của công
meritorious giving. Let us begin by đức bố thí. Chúng ta hãy tìm kiếm sự chỉ
seeking guidance from the sutta named dẫn từ trong bài kinh có tên là “Cho gì”?
“Giving What”?
“On one occasion the Blessed One “Một thời Thế Tôn trú ở Sāvatthi (Xá
was dwelling at Sāvatthi in Jeta’s Grove, Vệ), trong khu vườn Jeta (Kỳ Đà Lâm),
Anāthapiṇḍika’s monastery. Then, when tịnh xá của ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô
the night had advanced, a certain Độc). Rồi khi đêm gần mãn, một thiên
devata of stunning beauty, illuminating nhân với dung sắc thù thắng, chiếu sáng
the entire Jeta’s Monastery, approached cả vùng tịnh xá Jetavana, tiến đến chỗ
the Blessed One. Having approached, he Thế Tôn. Sau khi đến gần, vị ấy đảnh lễ
paid homage to the Blessed One, stood Thế Tôn, rồi đứng một bên và bạch với
to one side, and said to him: Thế Tôn:
“Giving what does one give Cho gì là cho lực?
strength?
Giving what does one give beauty? Cho gì là cho sắc?
Giving what does one give ease? Cho gì là cho lạc?
Giving what does one give sight? Cho gì là cho mắt?
Who is the giver of all? Cho gì cho tất cả?
Being asked, please explain to me”. Xin đáp điều con hỏi?
The Blessed One stated: Thế Tôn đáp:
“Giving food, one gives strength; Cho ăn là cho lực,
Giving clothes, one gives beauty; Cho mặc là cho sắc,
Giving a vehicle, one gives ease; Cho xe là cho lạc,
Giving a lamp, one gives sight. Cho đèn là cho mắt.
“The one who gives a residence Ai cho chỗ trú xứ,
Is the giver of all. Vị ấy cho tất cả,
But the one who teaches the Ai giảng dạy Chánh pháp,
Dhamma
Is the giver of the Deathless”. Vị ấy cho bất tử.
The first question is: Câu hỏi thứ nhất là:
Buddha, “Giving what does one Bạch Thế Tôn, “Cho gì là cho lực”?
give strength”?
Our Buddha answers, “Giving food, Đức Phật trả lời: “Cho ăn là cho
89
G IVING W HAT ? CHO GÌ ?
90
G IVING W HAT ? CHO GÌ ?
91
G IVING W HAT ? CHO GÌ ?
make this mountain cave neat and cái hang núi này ngăn nắp và gọn
trim”? He knew that he could get it in gàng”? Ngài biết rằng mình có thể lấy
Benares. So, putting on his robes and chúng ở Ba-la-nại (Benares). Do vậy,
with bowl in hand he went into the city Ngài đắp y mang bát trên tay rồi đi vào
and took his stand not far from this thành và dừng lại không xa người phụ nữ
woman. As it happened, she was angry, này. Khi việc tình cờ này xảy ra, cô ta đã
and when she looked at the tức giận khi nhìn thấy vị Độc Giác Phật,
paccekabuddha she thought, “In his cô nghĩ: “Trong cái tâm xấu xa của mình,
wicked heart he is begging for clay as ông ấy đi xin cả đất sét lẫn vật thực”.
well as alms”. The paccekabuddha stood Đức Phật Độc Giác vẫn đứng yên. Cuối
without moving. Finally, when she saw cùng, khi cô ta thấy Ngài vẫn không di
that he remained motionless she had a chuyển, cô đổi ý, nhìn vị ấy lần nữa và
change of heart and, looking at him once nói: “Kính bạch Sa-môn, Ngài muốn có
more she said “Monk, you have not got đất sét nhuyễn”? Sau đó cô lấy một tảng
any clay”. After that she took a big lump đất sét lớn và đặt vào bát của Ngài, và
of clay and put it in his bowl, and with với số đất sét đó Ngài đã có thể làm gọn
this clay he was able to make things gàng mọi thứ trong hang núi.
neat in the mountain cave.
In her subsequent life, as a result of Trong kiếp kế của cô, do quả báo
having given the paccekabuddha that của việc cúng dường Phật Độc Giác một
lump of clay, her body was soft to the tảng đất sét, thân cô rất mềm mại đối
touch. However, because of her angry với việc xúc chạm. Tuy nhiên, vì cái nhìn
look her hands, feet, mouth, eyes and giận dữ mà tay, chân, miệng, mắt và mũi
nose were extremely ugly. In that life, thì cực kỳ xấu xí. Trong kiếp sống đó, cô
she was known by the name of được biết với cái tên Ngũ Xú Nương -
Pañcapapa (The Five Defects). năm bộ phận xấu xí (Pañcapapa).
Is a woman beautiful when she’s Một phụ nữ có xinh đẹp hay không
angry? As we all know, when a woman is khi cô ấy đang giận dữ? Như tất cả
angry she looks ugly, and when that chúng ta đều biết, khi một phụ nữ tức
kamma ripens she will be ugly. If we wish giận, cô ta trông xấu xí và khi nghiệp đó
for beauty and other good rewards, we chín muồi, cô ta sẽ bị xấu xí. Nếu chúng
must avoid anger and be clever and ta mong ước sắc đẹp và các lợi ích tốt
skillful with our thoughts, words and đẹp khác thì chúng ta cần phải tránh
deeds. The kammas we bring into being giận dữ, phải khôn ngoan và khéo léo
give rise to different results. Some trong các suy nghĩ, lời nói và hành động
actions have serious results while the của mình. Các nghiệp (kamma) mà
outcome of others is small and chúng ta làm sẽ quyết định các loại quả
insignificant. khác nhau. Một số hành động thì cho
quả báo hệ trọng còn số khác thì đưa lại
quả báo nhỏ và không đáng kể.
Should we happen to hurt, harm or Nếu chúng ta tình cờ làm tổn
destroy small beings, in general, the thương, tổn hại hay tiêu diệt các chúng
results of that action (kamma) will be sinh nhỏ, nói chung, quả của các hành
relatively minor. But, on the other hand, động (kamma) đó sẽ tương đối nhỏ.
if we hurt, harm or destroy large beings, Nhưng, ngược lại, nếu chúng ta làm tổn
the results will be the opposite other thương hay tiêu diệt các chúng sinh lớn,
92
G IVING W HAT ? CHO GÌ ?
93
G IVING W HAT ? CHO GÌ ?
vehicles. In the same way, a person is cúng dường. Cúng dường những thứ như
offering a vehicle (i.e., anything which vậy được xem là cúng dường phương
can make travel possible, convenient or tiện di chuyển. Theo cách tương tự, một
comfortable) when he repairs roads, người có thể cho phương tiện di chuyển
builds stairs and bridges, or arranges (bất kỳ thứ gì có thể làm việc du hành
car, bus, boat, ship or air tickets for khả thi, tiện lợi và thoải mái) dưới hình
travel. So, we see that by giving a thức sửa đường, xây bậc thang, cầu, hay
vehicle one gives ease. thu xếp vé xe ô-tô, xe bus, tàu, thuyền
hay máy bay cho việc du hành. Như vậy,
chúng ta thấy rằng việc cho xe cộ chính
là cho sự dễ chịu, an lạc.
The deva’s fourth question is: Câu hỏi thứ tư của vị thiên nhân là:
“Giving what does one give sight”? “Cho gì là cho mắt”?
The Buddha answers, “Giving a Đức Phật trả lời: “Cho đèn là cho
lamp, one gives sight”. mắt”.
Even those with good eyes cannot Ngay cả với những người có cặp
see things in the dark. However, when mắt tốt thì vẫn không thể thấy mọi vật
given a lamp to light up the dark, one trong bóng tối. Tuy nhiên, khi đưa một
can see things as they are. So the ngọn đèn để thắp sáng bóng tối, người
Buddha said that by giving a lamp, one ta có thể thấy mọi vật như nó là. Do vậy,
gives sight to those who need sight. Đức Phật bảo rằng ai cho đèn, người đó
Therefore, by giving candles, torch cho mắt đến người cần mắt. Vì vậy, bằng
lights, electric lights and other lights việc tặng cho những ai cần ánh sáng
which make things visible for those who những thứ như đèn cầy, đèn pin, đèn
need light, one is giving sight. điện và các loại đèn khác khiến mọi vật
được thấy, chính là ta đang cho mắt.
The deva’s fifth question is: “Who is Câu hỏi thứ năm của vị thiên nhân
the giver of all”? là: “Cho gì là cho tất cả”?
Our Buddha answered: Đức Phật trả lời:
“The one who gives a residence is “Ai cho chỗ trú xứ,
the giver of all”. Vị ấy cho tất cả,”
Why? Because after going for alms, Tại sao? Bởi vì sau khi đi khất thực,
one feels tired and weak. But when they một người có thể thấy mệt mỏi và yếu
return, take a drink of water, have a sức. Nhưng khi vị ấy quay về, uống nước,
shower and enter a building where they tắm rửa và bước vào trú xá là nơi mà vị
can take rest, they feel safe, as well as ấy có thể nghỉ ngơi, vị ấy cảm thấy an
fresh and strong. So, by giving a toàn cũng như tươi tỉnh và khỏe mạnh.
residence, one gives strength. Như vậy, bằng việc cho nơi trú ngụ,
người ấy cho sức mạnh.
‘Rupatīti Rūpan’ These are the “Rupatīti Rūpan”. Đây là những chữ
words from the Visuddhimagga. They trong Thanh Tịnh Đạo – Visuddhimagga.
mean our body is always changing Chúng có nghĩa là thân thể của chúng ta
because of heat or cold. For instance, luôn luôn bị biến đổi bởi sự nóng hay
when we go outside we are exposed to lạnh. Ví dụ, khi ta đi ra ngoài, ta phơi
the elements. Our appearance can be trần thân tứ đại. Vẻ ngoài của ta có thể
94
G IVING W HAT ? CHO GÌ ?
blemished by blistering sunlight or by bị xấu xí bởi ánh mặt trời làm giộp da
dusty, windy weather. After coming back hay bởi bụi bặm và thời tiết gió máy. Tuy
inside, however, we can clean up, take nhiên, sau khi trở về trú xá, ta có thể lau
rest and quickly regain our appearance chùi, nghỉ ngơi và nhanh chóng lấy lại
and complexion. So, by giving a phong thái và nước da của mình. Như
residence, one also gives beauty. vậy, bằng việc cho nơi trú ngụ, người ấy
cũng cho sắc đẹp.
Moreover, for those of us who Hơn nữa, đối với những ai du hành
wander outside or for anyone who walks ngoài trời hay là bất kỳ ai đi bộ bên
outside, the bites of mosquitoes, snakes, ngoài, sự cắn đốt của muỗi, rắn, rít, bò
scorpions, centipedes and other cạp và các loại côn trùng nguy hiểm
dangerous insects is an ever-present khác là một mối đe dọa thường trực. Ta
threat. We are at risk of coming down luôn phải chịu rủi ro bị gục ngã bởi sốt
with malaria or other painful diseases if rét hay các thứ bệnh đau đớn khác nếu
we are bitten. We also face the on-going ta bị chúng cắn. Ta cũng phải luôn đối
problem of protecting our feet from mặt với các vấn đề bảo vệ đôi chân khỏi
thorns growing on the roadways and các gai góc mọc trên đường đi và các lối
pathways that we wander along. By đi mà chúng ta du hành. Nhờ vào việc
dwelling in buildings or residences, trú ngụ trong các ngôi nhà hay các trú
though, we are freed from all these xá, ta được giải phóng khỏi tất cả các
different types of danger. We are safe loại hiểm nguy khác nhau này. Ta an
and at ease and have a place to study, toàn, an lạc và có nơi để tu tập, học
learn or teach without having to worry hành hay chỉ dạy mà không phải lo lắng
about somewhere to live. So we can see đến nơi chốn trú ngụ. Do vậy, chúng ta
that by giving a residence, one truly có thể thấy rằng bằng việc cho một nơi
gives a gift of ease and well-being. trú ngụ, người ấy thực sự cho một món
quà an lạc và dễ chịu.
In the same way, when we travel or Cũng như thế, khi du hành hay đi
go somewhere and it’s hot and dusty đâu đó ngoài trời nóng và bụi bặm,
outside, we often feel eye strain or eye chúng ta thường cảm thấy căng thẳng
irritation which is a stinging hay đau rát mắt, là cảm giác nhức mỏi,
uncomfortable sensation. But by không thoải mái. Nhưng nhờ bước vào
entering and resting in the protection of trú xá và nghỉ ngơi trong sự bảo vệ của
a dwelling, our eyes soon get back to một nơi trú ngụ, đôi mắt của chúng ta sẽ
normal and our sight clears up. So, by nhanh chóng trở về bình thường và trong
giving a residence, we also see how one sáng. Do vậy, ta thấy rằng bằng việc cho
is giving the gift of sight. một nơi trú ngụ, người ấy cũng cho mắt.
Furthermore, when practicing Hơn nữa, trong khi ngồi một cách
serenity and insight meditation while an toàn bên trong các ngôi nhà và các
sitting safely inside buildings and trú xá để thực hành thiền vắng lặng và
residences, meditators can penetrate thiền minh sát, thiền sinh có thể thấu
the dhamma as they really are and to suốt Pháp như nó thật sự là và chứng
see Nibbāna. So, through the act of ngộ Niết-bàn (Nibbāna). Do vậy, qua
giving a residence, one is also providing hành động cho một nơi trú ngụ, vị ấy
a safe and clean environment in which to cũng cung cấp một môi trường an toàn
practice serenity and insight meditation, và sạch sẽ để thực hành thiền vắng lặng
95
G IVING W HAT ? CHO GÌ ?
in order to know and see the dhamma as và thiền minh sát, để biết và thấy các
they really are and to see Nibbāna. Pháp như nó thật sự là và chứng ngộ
Niết-bàn (Nibbāna).
Before concluding my talk, I will Trước khi kết thúc bài pháp, tôi sẽ
quote a Velāma sutta from Aṅguttara trích dẫn Kinh Velāma trong chương chín
Nikāya, chapter nine. của Kinh Tăng Chi Bộ (Aṅguttara
Nikāya).
On one occasion the Blessed One Một thời, Thế Tôn trú ở Sāvatthi (Xá
was dwelling at Sāvatthi in Jeta’s Grove, Vệ), trong khu vườn Jeta (Kỳ Đà), tịnh xá
Anāthapiṇḍika’s monastery. At that time của ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Độc). Rồi
Anāthapiṇḍika came to see the Blessed gia chủ Anāthapiṇḍika đi đến Thế Tôn,
One. Having arrived, he paid homage to sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi
the Blessed One, sat down to one side, xuống một bên. Thế Tôn nói với gia chủ
and the Blessed One asked him thus: Anāthapiṇḍika đang ngồi xuống một
bên:
“Is alms given in your family, “Này gia chủ, ông có bố thí trong
householder”? “Yes, Buddha, it is given gia đình của ông không”? “Bạch Thế Tôn,
in my family. But it consists of a coarse trong gia đình của con có bố thí, nhưng
mess of broken rice grains together with chỉ có món ăn thô tệ làm bằng hột gạo
sour gruel”. bể, và cháo chua”.
“Householder, whether one gives “Này gia chủ, dầu bố thí các món
coarse alms or choice, if one gives thô hay tế, nếu bố thí không cẩn thận,
casually, without thought or interest, not bố thí không có chú tâm, bố thí không tự
with one’s own hand, but gives as if tay mình, bố thí những vật quăng đi, bố
throwing and with no view to kamma thí không có nghĩ đến nghiệp và quả của
and its result in the future; then when nghiệp; chỗ nào sự bố thí ấy sinh quả
that giving bears fruit, the alms-giver’s báo, thời tâm không thiên về thưởng
mind will not turn to the enjoyment of thức các món ăn thù diệu, tâm không
excellent food, of fine clothing, of rich thiên về thưởng thức y áo thù diệu, tâm
carriages, or to the enjoyment of the five không thiên về thưởng thức các cỗ xe
senses; and one’s sons and one’s thù diệu, tâm không thiên về thưởng
daughters, one’s slaves, servants and thức năm dục công đức thù diệu. Và các
workfolk will have no desire to listen to người con trai, con gái, những người
one, no desire to lend an ear, nor bring phục vụ, những người đưa tin, và những
understanding to bear on what one says. người làm công, họ không có khéo nghe,
And for what reason? Such is the result, họ không có lóng tai, họ không có an trú
householder, of deeds done casually”. tâm hiểu biết. Vì sao? Này gia chủ, như
vậy là quả báo của các nghiệp làm
không có cẩn thận”.
Now we see one cause for taking Bây giờ, chúng ta đã thấy nguyên
little enjoyment in excellent food or fine nhân vì sao tâm không thiên về thưởng
clothing. We also see why sons, thức các món ăn thù diệu hay không
daughters, servants and others refuse to thiên về thưởng thức y áo thù diệu.
be obedient. This is kamma and its Chúng ta cũng thấy tại sao các người
result. con trai, con gái, những người phục vụ
và những người khác không vâng lời. Đó
96
G IVING W HAT ? CHO GÌ ?
97
G IVING W HAT ? CHO GÌ ?
fed one person of right view, a Stream- là một vị Nhập lưu (Sotāpanna), bố thí
enterer (Sotāpanna). này có quả báo lớn hơn bố thí kia.
Though he gave that very rich gift, Này gia chủ, dầu cho bà-la-môn
or though he fed a hundred persons of Velāma có bố thí rộng lớn, hay dầu cho
right view, Stream-enterers, greater ông ta có bố thí cho 100 vị Thánh Nhập
would have been the fruit of that, had he lưu (Sotāpanna), nếu có ai bố thí cho
fed one Once-returner (Saghāthāgāmi). một vị Thánh Nhất lai (Sakadāgāmi), bố
thí này có quả báo lớn hơn bố thí kia.
Though he gave that very rich gift, Này gia chủ, dầu cho bà-la-môn
or though he fed a hundred Once- Velāma có bố thí rộng lớn, hay dầu cho
returners, greater would have been the ông ta có bố thí cho một trăm vị Thánh
fruit of that, had he fed one Non-returner Nhất lai (Sakadāgāmi), nếu có ai bố thí
(Anāgāmi). cho một vị Thánh Bất lai (Anāgāmi), bố
thí này có quả báo lớn hơn bố thí kia.
Though he gave that very rich gift, Này gia chủ, dầu cho bà-la-môn
or though he fed a hundred Non- Velāma có bố thí rộng lớn, hay dầu cho
returners, greater would have been the ông ta có bố thí cho một trăm vị Thánh
fruit of that, had he fed one Arahant. Bất lai (Anāgāmi), nếu có ai bố thí cho
một vị Thánh A-la-hán (Arahant), bố thí
này có quả báo lớn hơn bố thí kia.
Though he gave that very rich gift, Này gia chủ, dầu cho bà-la-môn
or though he fed a hundred Arahants, Velāma có bố thí rộng lớn, hay dầu cho
greater would have been the fruit of ông ta có bố thí cho một trăm vị A-la-
that, had he fed an Undeclared hán, nếu có ai bố thí cho một vị Phật Độc
Enlightened One (paccekabuddha). Giác (Paccekabuddha), bố thí này có quả
báo lớn hơn bố thí kia.
Though he gave that very rich gift, Này gia chủ, dầu cho bà-la-môn
or though he fed a hundred Velāma có bố thí rộng lớn, hay dầu cho
Paccekabuddhas, greater would have ông ta có bố thí cho 100 vị Phật Độc Giác
been the fruit of that, had he fed one (Paccekabuddha), nếu có ai bố thí cho
Tathāgata, Arahant, Fully Awakened một vị Như Lai, A-la-hán, Toàn Giác, bố
One”. thí này có quả báo lớn hơn bố thí kia”.
We now know about the importance Bây giờ chúng ta đã biết về tầm
of how to give and something about the quan trọng của sự bố thí và quả của sự
results of giving. In finishing my talk bố thí như thế nào. Để kết thúc bài pháp
tonight, I want to recount how the tối nay, tôi muốn nhắc lại cách mà Đức
Buddha concluded his talk. These are Phật đã kết thúc bài pháp của Ngài. Đây
the last words of the Buddha in the là những lời cuối cùng của Đức Phật
sutta, the apex of the teaching: “But the trong bài kinh, đỉnh cao của lời dạy: “Ai
one who teaches the Dhamma is the giảng dạy Chánh pháp, Vị ấy cho bất tử”.
giver of the Deathless”.
In the commentary it is explained: Điều này được giải thích trong chú
giải:
The one who gives Dhamma talks, Người nào bố thí Pháp, người nào
who explains the meaning of the giải thích ý nghĩa của chú giải, người nào
98
G IVING W HAT ? CHO GÌ ?
commentaries, who teaches the Pāḷi dạy kinh điển Pāḷi, người nào trả lời các
texts, who answers questions related to câu hỏi liên quan đến Pháp, và người nào
the Dhamma, and who teaches dạy thực hành thiền thì đó là những
meditation practice is one who teaches người dạy con đường dẫn đến Niết-bàn.
the way that leads to Nibbāna. He is the Người đó là người cho sự Bất Tử. Bởi vì vị
giver of the Deathless. Because he ấy dạy Giáo Pháp tối thượng, vị ấy sẽ tự
teaches this supreme teaching he will chính mình, cuối cùng, chứng ngộ Niết-
himself, in the end, attain Nibbāna, the bàn, sự Bất Tử.
Deathless.
In the Itivuttaka it also says: Trong kinh Phật Thuyết Như Vậy
(Itivuttaka) cũng nói:
“There are these two kinds of “Này các tỷ-kheo, có hai loại bố thí:
giving: The giving of material things and Bố thí tài vật và bố thí Pháp. Này các tỷ-
the giving of the Dhamma. Of these two kheo, đây là bố thí tối thượng trong hai
kinds of giving, this is supreme: The loại bố thí này, tức là bố thí Pháp. Này
giving of the Dhamma. There are these các tỷ-kheo, có hai sự phân phát: Phân
two kinds of sharing: The sharing of phát tài vật và phân phát Pháp. Ðây là
material things and the sharing of the phân phát tối thượng trong hai loại phân
Dhamma. Of these two kinds of sharing, phát này, tức là phân phát Pháp. Này các
this is supreme: The sharing of the tỷ-kheo, có hai loại trợ giúp: Trợ giúp tài
Dhamma. There are these two kinds of vật và trợ giúp Pháp. Này các tỷ-kheo,
help: help with material things and help đây là trợ giúp tối thượng trong hai loại
with the Dhamma. Of the two, this is trợ giúp này, tức là trợ giúp Pháp”.
supreme: Help with the Dhamma”.
That’s why our Buddha said in the Đó là lý do tại sao Đức Phật đã dạy
Dhammapada: trong Kinh Pháp Cú (Dhammapada):
“Sabbadānaṃ dhammadānaṃ Sabbadānaṃdhammadānaṃjināti,
jināti,
sabbarasaṃ dhammaraso jināti; sabbarasaṃdhammaraso jināti;
sabbaratiṃ dhammarati jināti, sabbaratiṃdhammarati jināti,
taṇhakkhayo sabbadukkhaṃ taṇhakkhayo sabbadukkhaṃ
jinātī”ti. jinātī”ti.
This means: Các câu kệ này có nghĩa là:
The gift of Dhamma excels all gifts; Pháp thí, thắng mọi thí!
The taste of Dhamma excels all Pháp vị, thắng mọi vị!
tastes;
The delight in Dhamma excels all Pháp hỷ, thắng mọi hỷ!
delights.
Freedom from craving vanquishes Ái diệt, dứt mọi khổ!
all suffering.
May you all be able to give the Cầu chúc tất cả quý vị có thể bố thí
excellent gifts. các vật thí thượng hạng.
May you all be able to taste the Cầu chúc tất cả quý vị có thể nếm
99
G IVING W HAT ? CHO GÌ ?
The talk given on Sunday, Bài pháp được thuyết vào ngày Chủ
Nhật
4th December 2005 at Pa-Auk Tawya in 4 tháng 12 năm 2005 tại Rừng thiền
Myanmar. Pa-Auk, Myanmar.
100
Recollection Of Death
Niệm Sự Chết
Namo tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa
102
R E C OLLECTIO N O F D EATH N IỆ M S Ự C H ẾT
103
R E C OLLECTIO N O F D EATH N IỆ M S Ự C H ẾT
on death, I want to point out that human muốn chỉ ra rằng thái độ của con người
behavior in the face of birth and death khi đối mặt với sanh và chết, thực ra là
is, indeed, very strange. Why? At birth, rất kỳ lạ. Tại sao? Vào lúc sanh, khi một
when a child is born crying, people đứa bé mới sanh ra khóc, mọi người cười.
smile. Their faces shine with happy Gương mặt họ sáng ngời với biểu hiện
delighted expressions. But at death, rất vui mừng hạnh phúc. Nhưng vào lúc
when someone’s last hour arrives, chết, khi giờ phút cuối cùng của một ai
people cry. Their facial expressions đó đến, mọi người khóc. Gương mặt của
convey sorrow and grief. These two họ biểu hiện nỗi buồn và lòng tiếc
behaviors strike me as very odd. When thương. Hai thái độ rất kỳ quặc này đập
someone is born crying, people smile, vào tâm tôi. Khi ai đó khóc lúc mới được
but when someone is awaiting his last sanh ra thì mọi người cười, nhưng khi ai
hour, people cry. đó đang chờ đợi giây phút cuối cùng thì
mọi người khóc.
Actually, instead of only being Thực ra, thay vì chỉ hạnh phúc và
happy and smiling at the birth of a new tươi cười lúc em bé mới được sanh ra,
infant, we ought to also give careful chúng ta cũng phải cân nhắc cẩn thận
consideration to what awaits that child. cái gì đang chờ đợi đứa bé đó. Tại sao?
Why? Because he comes into a world Bởi vì bước vào một thế gian vốn là một
that is a mass of suffering, he, too, will đống khổ đau – nó cũng sẽ phải chịu khổ
suffer. Like all humans beings, that đau. Giống như tất cả mọi người, đứa bé
newborn baby is bound for dukkha, not mới sanh bị buộc chặt bởi khổ đau,
for sukha. Like them he, too, will also be không phải là sung sướng. Giống như họ,
the cause of much dukkha for both đứa bé cũng sẽ là nhân của nhiều khổ
himself and others. đau cho cả chính nó và những người
khác.
That small baby will also Đứa bé nhỏ xíu đó cũng sẽ phải trải
experience the many different types of qua nhiều loại khổ đau khác nhau mà
suffering that we ourselves have chính chúng ta đã trải qua trong cuộc
experienced in this life. He was born and sống. Nó được sanh ra và vì vậy nó phải
is, therefore, subject to sickness. chịu bệnh tật. Vì nó được sanh ra, nó
Because he was born he is subject to phải chịu già đi. Bởi vì nó được sanh ra,
aging. Because he was born he is subject nó phải chịu lo âu. Bởi vì nó được sanh
to worry. Because he was born he is ra, nó phải chịu buồn phiền. Bởi vì nó
subject to sorrow. Because he was born được sanh ra, nó phải chịu sầu khổ. Bởi
he is subject to grief. Because he was vì nó được sanh ra, nó phải chịu sợ hãi.
born he is subject to fear. Because he Bởi vì nó được sanh ra, nó không thoát
was born he cannot escape death. These khỏi cái chết. Đây là những thân phận
are lamentable conditions. Furthermore, đáng thương. Hơn nữa, do bởi vô minh,
because of ignorance, he may continue nó có thể liên tục tích lũy ngày càng
to accumulate more and more nhiều nghiệp bất thiện trong suốt quãng
unwholesome deeds throughout the đời của nó. Hầu hết mọi người đều chất
duration of his life. Most people amass a chứa một kho dự trữ nghiệp bất thiện
stockpile of unwholesome deeds over trong quá trình sống cả cuộc đời. Nếu nó
the course of a lifetime. If he does, he cũng vậy, nó có thể rơi vào một trong
may fall into one of the four woeful bốn cõi dữ khi chết đi. Như vậy, một tình
104
R E C OLLECTIO N O F D EATH N IỆ M S Ự C H ẾT
states upon dying. So, a compelling case huống đáng thuyết phục có thể được tạo
can be made for saying that ‘birth keeps ra để phải nói lên rằng “chính sự sanh
one in bondage’. kiềm giữ người ta trong cảnh bó buộc”.
Upon reflection we see that birth Qua quan sát suy xét ta thấy rằng
brings along with it much suffering and sự sanh mang theo với nó nhiều khổ não
pain. But people don’t like to admit this. và đau đớn. Nhưng nhiều người không
Parents spend their lives trying to thừa nhận điều này. Cha mẹ dành phần
provide for their children’s welfare. They đời của mình để lo cho hạnh phúc của
wear themselves out for their children. con cái. Họ làm kiệt sức mình vì con cái.
Day-by-day their bodies become older Từng ngày trôi qua, thân thể họ trở nên
and older, weaker and weaker. Finally, ngày một già cỗi, ngày càng yếu dần.
one day they die. Birth leads to death. Cuối cùng, một ngày nào đó họ chết đi.
It’s inescapable. Our ending is Sanh dẫn đến chết. Đây là điều không
guaranteed by our beginning. No one thể trốn thoát được. Kết cục của chúng
can avoid death. ta được bảo đảm bằng sự khởi đầu của
chính mình. Không ai thoát khỏi cái chết.
This is the Dukkha that follows Đây là cái Khổ (Dukkha) đi theo sau
birth. This is the Dukkha born of birth. It cái sanh. Đây là Khổ (Dukkha) sanh bởi
is natural for people to be pleased by the sự sanh. Điều tự nhiên này cũng dành
arrival of a baby. Nevertheless, birth is cho những ai hoan hỷ với sự ra đời của
pleasing, in large part, only because một đứa bé. Tuy nhiên, với phần đông,
people don’t see or acknowledge the sanh là khả hỷ, chỉ vì họ không nhìn thấy
inherent Dukkha that exists in it. hay không công nhận sự gắn liền của cái
Khổ (Dukkha) cố hữu trong nó.
Even though people know that Mặc dù, ai cũng biết rằng con người
humans are mortal, they don’t want to là phải chết, nhưng họ không muốn trải
experience their own mortality. Some nghiệm cái chết của chính mình. Thậm
people even think just to see a dead- chí vài người cho rằng chỉ riêng việc thấy
body is inauspicious, so they try to avoid một xác chết thôi thì đã là bất hạnh, do
all such occasions. I have students who vậy họ cố tránh các dịp như vậy. Tôi có
have actually never seen a dead body, một số đệ tử chưa từng trông thấy một
at any time in their lives. When I teach xác chết nào trong cuộc đời mình. Khi tôi
them the meditation practice that is a dạy họ hành thiền niệm sự chết, tôi gặp
recollection of death, I encounter phải khó khăn. Tại sao? Bởi vì để thực
difficulty. Why? Because, in order to hành niệm sự chết, họ cần phải lấy một
practice recollection of death, they need xác chết làm đề mục thiền của mình. Khi
to take a dead body as their meditation tôi chỉ dẫn cho họ, họ nói như thế nào?
object. When I give them the instruction, “Trong đời con, con chưa bao giờ trông
what do they say? “I never saw a dead thấy một xác chết”. Một số thì nói: “Ở
body in my life”. Some say, “In my đất nước của con, trông thấy một xác
country seeing a dead body is chết được xem là điềm gở”. Nên mặc dù
considered inauspicious”. So, even cái chết là một phần của cuộc đời cũng
though death is as much a part of life as như sự sanh vậy, nhưng họ lại không có
birth, they have no direct experience kinh nghiệm trực tiếp thấy một xác chết
with ever having seen a dead body. So, bao giờ. Do đó, khi tôi dạy họ “Thiền
when I teach them the ‘Recollection of Niệm Sự Chết”, tôi phải tìm kiếm các
105
R E C OLLECTIO N O F D EATH N IỆ M S Ự C H ẾT
Death meditation’, I have to search for tấm hình về xác chết cho họ xem. Chỉ
photos of corpses to show them. Only với lúc đó họ mới có thể lấy một xác chết
then are they able to take a dead body làm đề mục thiền của mình.
as their meditation object.
In contrast, whenever I see a Ngược lại, bất kỳ khi nào tôi thấy
corpse I consider it an auspicious một xác chết, tôi xem đó là một dịp may
occasion. Why? It gives me the mắn. Tại sao? Nó cho tôi động lực để
motivation to reflect on my own death. quán xét về cái chết của chính mình. Khi
When I look at a dead body I feel that nhìn một xác chết tôi cảm thấy rằng
I’m seeing something undeniably real. It mình đang thấy một sự thật không thể
gives me an opportunity to think about chối bỏ. Nó cho tôi một cơ hội để nghĩ về
the true nature of the body. This has bản chất thật của thân xác. Đây đã là
been my experience ever since I was a kinh nghiệm của tôi từ khi tôi còn là một
young boy. Whenever I saw a dead body cậu bé. Bất kỳ khi nào tôi thấy một xác
it made me think! Whenever I set eyes chết, nó đều làm tôi phải suy nghĩ. Bất
on the ugly repulsive complexion of a kỳ khi nào tôi đặt mắt vào bộ da ghê
dead body, I also looked at my own tởm xấu xí của xác chết, tôi cũng nhìn
complexion and felt as if it changed. I bộ da của chính mình và cảm thấy như
knew my life would end; that I, too, thể nó biến đổi. Tôi biết đời tôi sẽ chấm
would die. Even then, at that young age, dứt, và tôi cũng sẽ chết. Thậm chí lúc đó,
I felt that life was futile. A compelling lúc còn nhỏ, tôi cảm thấy rằng cuộc sống
sense of urgency arose in me. But là phù du. Một ý thức cấp bách thúc ép
because I was still very young, I didn’t khởi sinh trong tôi. Nhưng bởi vì tôi còn
know what to do about the contradictory quá nhỏ, tôi đã không biết phải làm gì
feelings of futility and urgency. As I grew với các cảm giác mâu thuẫn về sự phù
older, they became an important part of du và cấp bách. Khi tôi lớn hơn, chúng
my practice. trở thành một phần quan trọng trong
pháp hành của tôi.
So, we can say that seeing a dead Như vậy, chúng ta có thể nói rằng
body is really an auspicious occasion. It việc thấy một xác chết thật sự là một dịp
is, in fact, an opportunity to reflect may. Thực tế, nó là cơ hội để quán xét
deeply for those who have wise sâu sắc dành cho những ai có như lý tác
attention, but is lost on those who don’t ý (tác ý khôn khéo), nhưng lại bị bỏ lỡ
have wise attention. Seeing a dead body với những ai không có như lý tác ý. Việc
is an opportunity for liberation. In the thấy một xác chết là một cơ hội cho sự
Buddha’s time he had many disciples giải thoát. Trong thời Đức Phật, Ngài có
who, because of seeing a dead body and nhiều đệ tử nhờ việc thấy xác chết và
meditating on death, were able to make thiền trên sự chết nên đã có thể đoạn
an end of suffering. tận khổ đau.
So, seeing a dead body is truly an Do vậy, thấy một xác chết là một
opportunity for our liberation. cơ hội thật sự cho sự giải thoát của
chúng ta.
I want to share my experience with Tôi muốn chia sẻ kinh nghiệm của
all of you. One of the main causes mình với tất cả quý vị. Một trong những
leading to my ordination was seeing a nguyên nhân chính dẫn đến sự xuất gia
dead body. The mother of one of my của tôi là thấy một xác chết. Thời gian
106
R E C OLLECTIO N O F D EATH N IỆ M S Ự C H ẾT
students had been ill for a long time. I đó một trong những học trò của tôi có
was one of her care-givers. While she người mẹ bị bệnh lâu ngày. Tôi là một
seemed to improve from day-to-day and trong những người chăm sóc bác ấy.
it appeared as though she would Trong khi bác dường như đang khỏe lên
recover, after some time her condition từng ngày và nó có vẻ như sẽ hồi phục,
declined and in the end she died. At that nhưng sau một thời gian tình trạng bác
time, I wasn’t thinking about my own lại suy sụp và cuối cùng bác ấy chết.
death. I was totally focused on trying to Trước lúc đó, tôi đã không nghĩ gì đến cái
build up my life. I was working to earn chết của chính mình. Tôi hoàn toàn tập
money. I was working to amass wealth. It trung vào việc cố gắng xây dựng cuộc
was easy not to think about my death đời tôi. Tôi làm việc để kiếm tiền. Tôi làm
when I was so hard at work collecting việc để tích lũy của cải. Thật là dễ để
‘things’ to inflate and improve my life. chẳng nghĩ đến cái chết của mình khi tôi
But when she died it was a wake-up call. chăm chỉ làm việc thu gom “các thứ” để
A sense of urgency arose in me. tự mãn và cải thiện đời sống tôi. Nhưng
khi bác ấy chết, đó là một cú gọi đánh
thức tôi tỉnh dậy. Một ý thức cấp bách
khởi sinh trong tôi.
We had taken very good care of Chúng tôi đã chăm sóc bác ấy rất
her, providing her with the most tốt, cung cấp cho bác các thứ thuốc
excellent medicines, good food and good thượng hạng, đồ ăn tốt, chỗ nghỉ tốt.
accommodation. But nothing could save Nhưng không có thứ gì có thể cứu được
her. When her time ripened, she died. bác. Khi thời điểm chín muồi, bác ấy
Even though we gave her the best and chết. Mặc dù chúng tôi đã cho bác dùng
most expensive medicine and she các thứ thuốc tốt nhất, đắt tiền nhất và
appeared to be getting better, in the end bác ấy trông có vẻ khỏe lên, nhưng cuối
her condition unexpectedly changed and cùng tình trạng của bác ấy biến chuyển
she died. She was still young. Her death một cách không mong đợi và bác ấy
took me by surprise and gave rise to a chết. Bác vẫn còn trẻ. Cái chết của bác
feeling of urgency in me. ấy thình lình xảy ra làm tôi sửng sốt và
làm khởi lên một ý thức cấp bách trong
tôi.
I understood then that one day my Lúc đó, tôi hiểu rằng một ngày nào
life would also end. I, too, would die. But, đó, mạng sống tôi cũng sẽ chấm dứt.
of course, I didn’t know when I would Cũng vậy, tôi sẽ chết. Nhưng dĩ nhiên,
die, where I would die and how I would tôi không biết khi nào tôi chết, nơi tôi sẽ
die. I wondered: ‘How long will I live?’ I chết và tôi chết như thế nào. Tôi tự hỏi:
didn’t know. I reflected: “Death is “Ta sẽ sống được bao lâu”? Tôi không
certain. Life is uncertain. I will surely die. biết. Tôi quán xét: “Chết là chắc chắn.
My life will end in death. But I don’t know Cuộc sống là không chắc chắn. Ta chắc
when and where I will die”. I considered chắn sẽ chết”. Tôi xem xét khả năng mà
the possibility that I could fall into one of tôi có thể rơi vào một trong bốn cõi dữ.
the four woeful realms. Just the thought Chỉ nghĩ thôi mà đã làm tôi sợ hãi. Tôi
frightened me. I certainly knew that I biết chắc chắn rằng tôi muốn thoát khỏi
wanted to be free from suffering in the khổ đau trong bốn cõi dữ. Câu hỏi “bằng
four woeful realms. The question of cách nào” lúc đó tràn ngập tâm trí tôi.
107
R E C OLLECTIO N O F D EATH N IỆ M S Ự C H ẾT
‘how’ then filled my mind. I realized that Tôi nhận thấy rằng tôi cần phải thay đổi
I needed to change my way of living cách sống của mình trong khi tôi vẫn còn
while I still had the time and opportunity thời gian và cơ hội để làm những gì cần
to do what I needed to do. I realized that làm. Tôi thấy cần thiết phải có sự thay
changes were needed now, before I die”. đổi ngay bấy giờ, trước khi tôi chết. Vào
At that time, the sense of urgency that lúc đó, ý thức cấp bách tràn ngập trong
filled me was overwhelming. It was so tâm tôi. Nó rất mạnh; tôi không muốn
strong; I didn’t want to do anything but làm bất kỳ điều gì ngoại trừ việc hành
practice meditation. Not long afterwards, thiền. Không lâu sau đó, tôi tìm thấy
I found myself in robes. chính mình trong bộ y casa.
This personal story illustrates why Câu chuyện cá nhân này minh họa
seeing a dead body is really an tại sao việc thấy xác chết thật sự là một
auspicious occasion. It is a wake-up call, dịp may mắn. Nó là một cú gọi thức tỉnh,
a teaching that points to liberation, to một bài học dẫn đến sự giải phóng, giải
freedom from suffering. If we see with thoát khỏi khổ đau. Nếu chúng ta nhìn
wise attention, we will be inspired to do với như lý tác ý, ta sẽ có hứng khởi để
good things and to practice with làm điều thiện và tu tập với quyết tâm
determination and diligence. và tinh cần.
Whenever we see a newborn baby Bất cứ khi nào chúng ta gặp một
we know that between his or her birth đứa bé mới sanh, ta biết rằng là một con
and death that human being will come người, khoảng đời nó giữa sanh và chết
into contact with a lot of expected and đó, nó sẽ gặp nhiều điều mong đợi và
unexpected, desirable and undesirable không mong đợi, điều ưa thích và điều
things. Although we are happy to see bất như ý. Mặc dù chúng ta vui khi nhìn
birth, most of us do not want to think thấy sanh, nhưng hầu hết chúng ta lại
about meeting death. But, if the truth be không muốn nghĩ đến việc thấy cái chết.
told, seeing a dead body is an advantage Nhưng nếu nói đúng sự thật thì việc thấy
to someone who reflects well on it. If we một xác chết là cơ hội thuận lợi đối với
talk about death, we must talk about những ai quán xét đúng đắn về nó. Nếu
causes of death, as well. Some die when chúng ta nói đến cái chết, chúng ta cũng
they are young. Some die when they are phải nói đến nguyên nhân của cái chết.
old. Why? The Buddha explains why in Một số người chết khi họ còn trẻ. Một số
the Abhidhamma. There are four causes: chết khi họ đã già. Tại sao? Đức Phật đã
giải thích lý do trong Vi Diệu Pháp
(Abhidhamma). Có 4 nguyên nhân chết:
1. Some die due to the 1. Một số chết do sự chấm dứt của
expiration of their life span (Āyukkhaya- thọ mạng (Āyukkhaya-marana).
marana).
2. Some die due to the 2. Một số chết vì nghiệp lực tái
expiration of their reproductive Kammic sanh chấm dứt (Kammakkhaya-marana).
force (Kammakkhaya-marana).
3. Some die due to the 3. Một số chết vì cả thọ mạng và
expiration of both reproductive Kammic nghiệp lực tái sanh chấm dứt
force and life-span (Ubhayakkhaya- (Ubhayakkhaya – marana).
marana).
108
R E C OLLECTIO N O F D EATH N IỆ M S Ự C H ẾT
109
R E C OLLECTIO N O F D EATH N IỆ M S Ự C H ẾT
stopped singing. There was silence. Nhưng đột nhiên, các thiên nữ trên cây
Subrahmā wondered what happened. He ngừng ca hát. Có sự im lặng. Subrahmā
looked up and saw that the tree was tự hỏi chuyện gì đã xảy ra. Vị ấy nhìn lên
empty. trên cây và thấy rằng chẳng có ai ở trên
cây cả.
Five hundred of Subrahmā’s Năm trăm thiên nữ tùy tùng của
female companions had simply Subrahmā đơn giản là đã biến mất.
vanished.
The desire to know where they Tâm vị thiên nam khởi lên mong
went arose in his mind. When he looked muốn biết được họ đã đến nơi nào. Khi vị
for them with his divine eye, he ấy tìm kiếm bằng thiên nhãn của mình,
discovered that they had suddenly died vị ấy phát hiện ra rằng họ đã đột nhiên
but were immediately reborn in the Avīci chết và ngay tức khắc đã tái sanh ở địa
hell. It’s a very terrible hell. Five hundred ngục A-tỳ (Avīci). Đó là một địa ngục cực
female Devas from his retinue who were kỳ khủng khiếp. Năm trăm thiên nữ
happily singing and throwing flowers trong đoàn tùy tùng của vị ấy đang ca
down from the tree suddenly died and hát và ném hoa từ trên cây xuống thì đột
fell into that terrible hell. nhiên chết và rơi vào địa ngục khủng
khiếp ấy.
As you know separation from those Như quý vị biết, sự chia lìa với
whom we love is suffering. No less so for những người mà ta thương yêu là khổ
Devas; Subrahmā felt very, very sad. He đau. Chư thiên cũng đau khổ không kém;
suffered very much. He felt intense grief. Subrahmā cảm thấy rất, rất đau buồn. Vị
At the same time, heedful attention ấy đau khổ rất nhiều. Vị ấy cảm nhận nỗi
arose in him. He examined his own life- đau đớn dữ dội. Vào lúc đó, sự tinh cần
span and saw that he himself, along with tỉnh thức khởi sinh trong tâm vị ấy. Vị ấy
the remaining five hundred female xem xét thọ mạng của chính mình và
Devas were due to die in seven days and thấy rằng chính vị ấy cùng với năm trăm
that they also would take rebirth in the thiên nữ còn lại sẽ phải chết trong bảy
same hell. ngày nữa và họ cũng sẽ tái sanh trong
cùng địa ngục.
Let me ask you a question. What do Hãy để tôi hỏi quý vị một câu hỏi.
you think? Which grief would be greater, Quý vị nghĩ như thế nào? Nỗi sầu khổ
the grief that arose in the young Deva’s nào sẽ lớn hơn, nỗi sầu khổ sanh ra
mind when he was separated from those trong tâm vị thiên nam trẻ khi vị ấy chia
original five hundred devas whom he lìa với năm trăm thiên nữ mà vị ấy yêu
loved, or the grief that arose in him thương hay nỗi sầu khổ sanh ra trong
when he saw that he and his remaining tâm vị ấy khi vị ấy thấy rằng chính mình
retinue were going to suffer in the same và đoàn tùy tùng còn lại sẽ sớm chịu khổ
hell soon? đau trong cùng địa ngục?
For sure, the stronger grief would Chắc chắn, nỗi sầu khổ cho chính
be that which arose in him for himself mình và đoàn tùy tùng còn lại thì mạnh
and his remaining retinue when he saw mẽ hơn đã sinh khởi trong tâm vị thiên
the coming terrible suffering that they all nam khi vị ấy thấy nỗi đau đớn khủng
were also headed towards. Before, he khiếp mà tất cả bọn họ cũng sẽ phải đối
suffered for those whom he loved and mặt. Trước đó, vị ấy đã khổ đau cho
110
R E C OLLECTIO N O F D EATH N IỆ M S Ự C H ẾT
lost. Now, he suffered for himself. những người mà vị ấy thương yêu và mất
Intense grief arose in his mind. The fear mát. Giờ đây, vị ấy đau khổ cho chính
of suffering in hell is so deep-seated and bản thân mình. Nỗi sầu khổ dữ dội khởi
terrifying that a sense of urgency lên trong tâm vị ấy. Sự sợ hãi với nỗi khổ
immediately arose in him. trong địa ngục quá sâu sắc và khủng
khiếp khiến một ý thức cấp bách tức
khắc phát sinh nơi vị ấy.
Driven by this sense of urgency and Bị dồn ép bởi ý thức cấp bách và sự
in absolute fear, Subrahmā went to see sợ hãi tuyệt đối, Subrahmā đã đến gặp
the Buddha and asked for comfort and Đức Phật để thỉnh cầu sự an ủi và giúp
help. In the presence of the Buddha, he đỡ. Trước Đức Phật, vị ấy ngâm câu kệ
recited this verse: này:
“Always frightened is this mind, Tâm này thường sợ hãi,
The mind is always agitated Ý này thường dao động,
About unarisen problems Ðiều mong ước không khởi,
And about arisen ones. Ðiều không mong lại khởi,
If there exists release from fear, Nếu có, chỗ không sợ,
Being asked, pleased declare it to Xin giải điều con hỏi.
me”.
Even though devas are normally Mặc dù chư thiên thường rất hạnh
very happy, Subrahmā was now anxious phúc, nhưng Subrahmā giờ đây thì vô
and terrified. His fear was so dreadful cùng lo âu và cảm thấy khiếp sợ. Sự sợ
and continuous that he uttered the hãi của vị ấy thì quá khủng khiếp và liên
words ‘always frightened is this mind, tục khiến vị ấy thốt lên lời “Tâm này
the mind is always agitated’. He was thường sợ hãi, Ý này thường dao động,”
concerned about both arisen problems Vị ấy đã liên hệ đến cả vấn đề đã nảy
and unarisen ones. In this case, the sinh và vấn đề chưa nảy sinh. Trong
arisen problem was the sudden death trường hợp này, vấn đề đã nảy sinh là
and shocking destination of the five cái chết bất ngờ và đích đến gây sửng
hundred female devas from his retinue. sốt của năm trăm vị thiên nữ trong đoàn
The unarisen one was even more tùy tùng của vị ấy. Vấn đề chưa sinh khởi
problematic – his own imminent death thậm chí còn khó khăn hơn – cái chết
and descent into hell along with the rest sắp đến và việc rơi xuống địa ngục của
of his remaining retinue. Motivated by a chính Subrahmā cùng với năm trăm
sense of urgency, he asked the Buddha thiên nữ tùy tùng còn lại. Bị thúc đẩy bởi
to make known the way to release. ý thức cấp bách, vị ấy thỉnh cầu Đức
Phật cho biết cách để giải thoát.
The Buddha answered as follows: Đức Phật đã trả lời như sau:
“Not apart from enlightenment and Không ngoài khổ, giác chi
austerity
(i.e., duthaṅga1 practices), (ví dụ như khổ hạnh đầu đà2...),
2
Đây là pháp mà các sa-môn thọ trì để làm viên mãn các phẩm chất nh ư ít mong cầu, biết đủ...
theo cách mà giới hạnh được thanh tịnh.
111
R E C OLLECTIO N O F D EATH N IỆ M S Ự C H ẾT
so, we can’t penetrate the Dhamma as it trong khi vẫn còn thời gian, chúng ta sẽ
really is and, therefore, we too, just like không thể thấu suốt các Pháp như nó
those five hundred female Devas, may thực sự là, vậy thì, chúng ta cũng giống
fall into one of the four woeful states như năm trăm thiên nữ kia, có thể rơi
upon our deaths.. xuống một trong bốn cõi khổ khi chúng
ta chết đi.
Subrahmā and his remaining Subrahmā và đoàn tùy tùng thiên
retinue of Devas foresaw that they would nữ còn lại thấy trước rằng họ sẽ phải
suffer in the hell unless they changed chịu khổ đau trong địa ngục trừ khi họ
their way of living. Urgency arose in thay đổi cách sống của mình. Sự cấp
them. In the same way if we knew that bách phát sinh nơi họ. Theo cách tương
we would die in seven days and suffer in tự, nếu chúng ta biết được rằng chúng ta
hell, would we change our way of living, sẽ chết trong bảy ngày và sẽ phải chịu
would we focus on meditation practice in khổ đau trong địa ngục, chúng ta có thay
order to be free from such a destiny? đổi cách sống không? chúng ta có tập
trung hành thiền để giải thoát khỏi số
phận đó hay không?
The Buddha pointed out to his Đức Phật đã chỉ cho các Tỷ-kheo
monks that the way to deathless is của mình rằng con đường đến bất tử
brought forth through mindfulness on phát sinh qua niệm sự chết. Ngài bảo:
death. He said:
“Monks, Mindfulness of death, if “Niệm sự chết, này các Tỷ-kheo,
developed and cultivated, brings great được tu tập, được làm cho sung mãn, có
fruit and benefit: it merges in the quả lớn, có lợi ích lớn, nhập vào bất tử,
Deathless, ends in Deathless. Therefore, cứu cánh là bất tử. Này các Tỷ-kheo, các
monks, you should develop mindfulness Thầy hãy tu tập niệm chết”.
of death”.
If we reflect on death every day, Nếu chúng ta quán tưởng sự chết
every morning, every evening, and mỗi ngày, mỗi buổi sáng, mỗi buổi chiều
every night; heedfulness will arise and và mỗi buổi tối, sự tinh cần thận trọng sẽ
right attitude will follow. sinh khởi và thái độ đúng đắn sẽ đi theo.
Without mindfulness of one’s own Không có sự nghĩ nhớ về cái chết
certain death, people become heedless. chắc chắn của chính mình, người ta trở
If people really accepted that they too nên phóng dật. Nếu người ta thật sự
would sooner or later depart this life, chấp nhận rằng sớm hay muộn gì họ
they would be more heedful and not be cũng sẽ từ giã cõi đời, họ sẽ thận trọng
so proud and full of self-importance. It’s hơn và không quá tự hào và quan trọng
more likely that they would be humble; hóa chính mình. Với nhiều khả năng rằng
that they would live humbly. họ sẽ khiêm tốn, rằng họ sẽ sống một
cách khiêm tốn.
If they reflected on their death Nếu người nào quán tưởng về cái
everyday they would be gentle. Their chết của chính mình mỗi ngày, người đó
minds would incline towards wholesome sẽ hòa nhã. Tâm người đó sẽ nghiêng về
actions rather than unwholesome phía nghiệp thiện hơn là nghiệp bất
actions. They would mostly choose to do thiện. Họ sẽ chủ yếu chọn làm các điều
113
R E C OLLECTIO N O F D EATH N IỆ M S Ự C H ẾT
wholesome actions. So we see that lành. Do vậy chúng ta thấy rằng những
suffering from greed, hatred, jealousy khổ đau bắt nguồn từ tham ái, sân hận,
and stinginess can be solved by đố kỵ và bủn xỉn có thể được giải quyết
reflecting on death, particularly one’s bởi việc quán xét sự chết, đặc biệt là cái
own death. chết của chính mình.
There is another story from the Có một câu chuyện khác trong Kinh
Dhammapada in which the Buddha Pháp Cú (Dhammapada), trong đó Đức
talked about a young woman, a certain Phật đã thuyết pháp cho một cô gái trẻ,
weaver’s daughter, who developed con người thợ dệt, là người tu tập niệm
mindfulness on death. This practice sự chết. Sự tu tập này đã đem lại kết quả
brought her great fruit and benefit. và sự lợi lạc to lớn cho cô.
One day, when the Blessed One Một thuở nọ, khi Thế Tôn đến Ālavī,
came to Ālavī, the people of Ālavī invited dân chúng Ālavī đã thỉnh Đức Phật thọ
the Buddha to a meal and offered him trai. Thọ trai xong, Đức Phật dạy một bài
alms. At the end of the meal the Buddha pháp ngắn:
gave a talk saying,
“Practice meditation on death, “Hãy quán niệm về sự chết, các
saying to yourselves, ‘Uncertain is my người hãy tự nhủ rằng: “Không chắc
life. Certain is my death. I shall surely chắn là mạng sống của ta. Cái chết của
die. My life will end in death. Life is ta là chắc chắn. Chắc chắn ta sẽ chết.
unstable. Death is sure. Death! Death ! Mạng sống của ta sẽ chấm dứt trong cái
And Death’. chết. Cuộc sống là không chắc chắn. Cái
chết là chắc chắn. Chết! Chết! Và Chết!”
According to the Buddha, those Theo Đức Phật, những ai không
who have not practiced meditation on hành thiền niệm sự chết thì run rẩy và sợ
death tremble and fear when their last hãi khi giờ phút cuối cùng của họ đến.
hour comes. They die confused, often Họ chết một cách bối rối, thường la hét
screaming in terror, much like a man trong sự khiếp sợ, giống như một người
without a stick is stricken with fear when không mang gậy bị tấn công bởi nỗi sợ
he unexpectedly stumbles upon a snake hãi khi người đó đang đi trên đường thì
on his path. Those who practice bất thình lình trượt chân vào một con
meditation on death have no cause to rắn. Với những ai hành thiền niệm sự
fear when their last hour arrives. They chết thì không có lý do nào để họ phải sợ
are like a steadfast man who seeing a hãi khi giờ phút cuối đời của họ đến. Họ
snake, even at a distance, takes it up giống như người đàn ông gan dạ thấy
with his stick and throws it away. If we một con rắn, ngay từ khoảng cách ở xa,
reflect on death while there is still time liền lấy gậy đưa nó lên và hất nó ra xa.
to do so – each day, every morning and Nếu chúng ta quán tưởng sự chết trong
every evening, we will gain great benefit khi vẫn còn thời gian – mỗi ngày, mỗi
which we will be glad about later. buổi sáng và mỗi buổi tối, chúng ta sẽ
Therefore practice meditation on death. đạt được lợi ích to lớn mà sau này chúng
ta sẽ sung sướng. Vì vậy, hãy hành thiền
niệm sự chết.
Meditation on death can be Thiền niệm sự chết có thể được tu
developed by bringing to mind a corpse tập bằng cách dùng một tử thi mà thiền
that we have seen. Here at Pa-Auk Forest sinh đã thấy. Ở Rừng Thiền Pa-Auk,
114
R E C OLLECTIO N O F D EATH N IỆ M S Ự C H ẾT
Monastery we teach Mindfulness of chúng tôi dạy Niệm Hơi Thở để phát triển
Breathing to develop absorption an chỉ định đến tứ thiền. Điều này được
concentration up to fourth jhāna. This is dạy như là một sự dẫn đầu cho việc thực
taught as a lead up to the practice of hành thiền quán bất tịnh. Khi ánh sáng
repulsiveness meditation. When the light phát sinh bởi an chỉ định trở nên rực rỡ
produced by absorption concentration is và chói sáng, chúng tôi hướng dẫn các
bright and clear, we instruct meditators thiền sinh lấy xác chết gớm ghiếc nhất
to take, as their meditation object, the có cùng giới tính mà họ có thể nhớ được
most repulsive corpse of the same sex làm đối tượng thiền của họ. Sau đó, với
that they can ever remember seeing. sự hỗ trợ bởi ánh sáng của định, họ được
Then, with the assistance of the light of hướng dẫn để hình dung xác chết chính
concentration, they are instructed to xác như họ đã thấy nó trước đây. An tịnh
visualize that corpse so that it is exactly tập trung tâm trên đó, họ cần ghi nhận
as they saw it previously. Calmly đó là “bất tịnh, bất tịnh” (Patikkūla,
concentrating their mind on it, they are Patikkūla).
to note it as, ‘repulsive, repulsive’
(Patikkūla, Patikkūla).
When the mind stays constantly on Khi tâm trụ liên tục trên đối tượng
that object for one or two hours, the first đó được một hay hai giờ, họ có thể
jhāna can be attained. chứng đạt được sơ thiền.
According to the Mahasatipatthāna Theo Kinh Đại Niệm Xứ
Sutta and the Visuddhimagga (Mahasatipatthāna Sutta) và Chú giải
Commentary, to practice meditation on Thanh Tịnh Đạo, để thực hành thiền
death we must re-establish the first niệm sự chết, thiền sinh phải thiết lập sơ
jhāna with the repulsiveness of a corpse, thiền nhờ tính bất tịnh của một xác chết,
and with that external corpse as the và với xác chết bên ngoài ấy được xem
object of meditation, we should then là đối tượng thiền, lúc đó chúng ta nên
reflect: ‘This body of mine is also of a quán tưởng: “Thân này của ta đây cũng
nature to die. Indeed, it will die just like có cùng bản chất phải chết như vậy. Quả
this one. It cannot avoid becoming like thực, nó sẽ chết giống như xác chết này.
this’. By keeping the mind concentrated Không thể nào tránh khỏi trở thành như
and mindful on our own mortality, we thế này”. Bằng cách giữ tâm tập trung
also find that the sense of urgency trên xác chết ấy và niệm tưởng đến cái
(Saṃvega) develops. When that urgency chết của chính mình, thiền sinh sẽ thấy
is present, it is possible to see one’s own rằng ý thức cấp bách (saṃvega) được
body in the place of that repulsive phát triển. Khi ý thức cấp bách này hiện
corpse. Then perceiving that the life- diện, thiền sinh có thể thấy chính thân
faculty has been cut off in that image of mình nằm ở chỗ xác chết bất tịnh đó.
their own body, meditators should Nhận thức rằng mạng căn bị cắt đứt
concentrate on the absence of the life- trong hình ảnh thân của mình, thiền sinh
faculty with one of the following nên tập trung vào sự vắng mặt của
thoughts: mạng căn bằng một trong những suy
gẫm sau đây:
1. My death is certain; my life is 1. Cái chết của ta là chắc chắn, còn
uncertain. (maranaṃ me dhuvaṃ, mạng sống của ta là không chắc chắn.
jivitaṃ me adhuvaṃ), (maraṇaṁ me dhuvaṁ, jīvitaṃ me
115
R E C OLLECTIO N O F D EATH N IỆ M S Ự C H ẾT
adhuvaṁ)
2. I shall certainly die (maranaṃ 2. Chắc chắn ta sẽ chết...
me bhavissati), (maranaṃ me bhavissati).
3. My life will end in death 3. Mạng sống của ta sẽ bị chấm dứt
(maranapariyosanaṃme jivitaṃ), trong cái chết. (maraṇapariyosānaṁ me
jīvitaṁ).
4. Death, death (maranaṃ, 4. Chết... chết (maraṇaṁ
maranaṃ). maraṇaṁ).
We should choose one and note it Chúng ta nên chọn một trong bốn
in any language. Simply continue to câu trên và ghi nhớ bằng bất kỳ ngôn
concentrate on the image of the absence ngữ nào cũng được. Tiếp tục tập trung
of the life-faculty in the image of our vào hình ảnh có sự vắng mặt mạng căn
own corpse until the jhāna factors arise. trong chính xác chết của thiền sinh, cho
It should be noted, however, that with tới khi các thiền chi khởi lên. Tuy nhiên,
this meditation subject we can only với đề mục thiền này thì thiền sinh chỉ có
attain access concentration. thể đạt đến cận định.
Back to the story: With the Trở lại câu chuyện: trừ một cô gái
exception of one young woman, all those trẻ, tất cả mọi người sau khi nghe bài
who heard the Buddha’s talk remained pháp của Đức Phật xong thì vẫn tiếp tục
as wrapped up in their worldly duties as bị bao phủ trong công việc thế gian như
before. Only the weaver’s daughter, a trước. Chỉ có cô gái con người thợ dệt,
mere sixteen years of age, said to chỉ mới mười sáu tuổi, tự nhủ: “Thật kỳ
herself, “Marvelous indeed is the speech diệu thay là lời dạy của Đức Phật; ta phải
of the Buddha; it behooves me to có nhiệm vụ thực hành thiền niệm sự
practice meditation on death. It tells me chết, lời dạy bảo ta phải quán niệm sự
that I ought to practice...”. And, she did chết”. Và cô bé không thực hành gì khác
nothing else but practice meditation on ngoại trừ việc hành thiền niệm sự chết
death, day and night, for the next three suốt cả ngày lẫn đêm trong ba năm.
years.
One day, as the Buddha surveyed Một ngày nọ, khi Thế Tôn quán sát
the world at early dawn, he perceived thế gian vào sáng sớm, Ngài nhìn thấy
the young weaver’s daughter had cô con gái của người thợ dệt xuất hiện
entered the Net of his Knowledge. When trong mạng lưới trí giác của Ngài. Khi
he saw her, he pondered within himself, thấy cô bé, Ngài tự hỏi “Những gì sẽ xảy
“What will happen”? He became aware ra”? Ngài nhận biết diễn tiến tiếp theo:
of the following: “From the day when this “Từ ngày nghe Ta thuyết Pháp, cô gái
young woman heard my discourse on này đã thực hành quán niệm sự chết
the Law, she has practiced meditation được ba năm. Ta sẽ đến và hỏi cô gái ấy
on death for three years. I will now go to bốn câu, Ở từng câu, cô bé sẽ trả lời
and ask this young woman four đúng, và Ta sẽ khen cô gái. Ta sẽ giảng
questions. On each of the four points, câu kệ: “Ðời này thật mù quáng”. Cuối
she will answer me correctly and I will thời giảng, cô gái ấy sẽ chứng quả Nhập
congratulate her. I will then recite the Lưu. Nhờ vậy, bài pháp của ta sẽ đem lại
stanza, ‘Blind is this world’. At the end of lợi lạc cho nhiều người”. Do vậy, Thế Tôn
the recitation, she will become a stream- cùng năm trăm vị Tỷ-kheo rời Jetavana,
116
R E C OLLECTIO N O F D EATH N IỆ M S Ự C H ẾT
117
R E C OLLECTIO N O F D EATH N IỆ M S Ự C H ẾT
thirty miles for the sake of a certain ba mươi dặm này chỉ vì một cô gái, cô ấy
young woman, but she has not yet had chưa có mặt được. Khi cô ấy đến, Ta sẽ
the opportunity to be present. When she giảng pháp”. Vì thế, Ngài ngồi im, thính
finds the opportunity to be present, I will chúng cũng lặng yên đợi chờ (Khi đức
give the talk”. Having said this, the Phật im lặng, không có người nào hay vị
Buddha remained silent. So did those trời nào dám thốt ra một tiếng).
who came to hear him remain silent.
(When the Buddha is silent, neither men
nor gods dare utter a sound.)
After the weaver’s daughter had Sau khi đã đánh thoi xong, cô gái
refilled the shuttle, she put it in her bỏ vào giỏ và đem đến xưởng dệt cho
shuttle-basket and set out in the cha. Trên đường đi, cô dừng lại ngoài
direction of her father’s workshop. On vòng thính chúng và chăm chú nhìn Ðức
her way there she stopped in the outer Phật. Thế Tôn ra dấu và nhìn cô chăm
circle of the worshippers gathered chú. Với cái nhìn chăm chú của Ngài, cô
around the Blessed One and stood hiểu ý: “Ðức Bổn Sư ngồi trong hội
gazing at the Buddha. The Buddha lifted chúng, tỏ dấu nhìn ta với ý muốn ta đến
up his head and gazed at her. By gazing gần, Ngài muốn ta đến nghe pháp vào
at her she knew, “The Buddha, sitting in ngay lúc này”. Do vậy, cô đặt giỏ xuống
this group of people, signifies by gazing đất và lại gần Đức Phật.
at me that he wants me to come
forward. His sole desire is I come into his
very presence”. So she set her shuttle-
basket on the ground and stepped into
the presence of the Buddha.
(Why did the Buddha gaze at her? (Vì sao đức Thế Tôn chăm chú nhìn
The following thought arose in him, “If cô bé? Vì Ngài biết rằng “Nếu cô gái này
this young lady goes hence, she will die đi tiếp cô sẽ chết như là một phàm nhân,
as an ordinary one, and uncertain will be kiếp sau của cô sẽ không chắc chắn.
her future state. But if she comes to me, Nhưng nếu cô bé đến nghe pháp, cô sẽ
she will establish the first Path and chứng Đạo và Quả đầu tiên và chắc chắn
Fruition, and her future state will be sẽ tái sanh lên cõi trời Ðâu-suất”.)
certain, for she will be born in the World
of the Tusita gods”.)
Having approached the Buddha Sau khi đến gần Đức Phật và cung
and paid him respect, the young woman kính đảnh lễ, cô gái trẻ im lặng ngồi vào
sat in silence in the middle of the giữa thính chúng vây quanh Thế Tôn. Rồi
worshipers gathered around the Blessed Ðức Thế Tôn hỏi cô bốn câu hỏi:
One. The Buddha then asked her four
questions.
1. “Young lady, where did you come 1. - Con từ đâu đến đây?
from”? “I know not, Venerable Sir”. - Bạch Thế Tôn! Con không biết.
2. “Where will you go”? “I know not, 2. - Con sẽ đi đến đâu?
Venerable Sir”. - Bạch Thế Tôn! Con không biết.
3. “Don’t you know”? “I know, 3. - Con không biết phải không?
118
R E C OLLECTIO N O F D EATH N IỆ M S Ự C H ẾT
119
R E C OLLECTIO N O F D EATH N IỆ M S Ự C H ẾT
The Buddha congratulated her a Ðức Phật khen cô gái lần thứ hai, và
second time and asked her yet another hỏi một câu hỏi khác:
question, “When I asked you, ‘Don’t you - Khi Ta hỏi, “Con không biết phải
know?’ why did you say, ‘I know’”? không”?, vì sao con trả lời “Con biết”.
“Venerable Sir, I do know that one day I - Bạch Thế Tôn! Vì con biết rằng vào một
shall surely die and, therefore, I could ngày nào đó chắc chắn con sẽ chết, nên
respond that ‘I know’”. The Buddha once con đáp “Con biết”.
again said to her, “Well said, well said, Ðức Phật lại bảo:
young lady! You have correctly answered - Lành thay! Lành thay! Này con, con đã
the question I asked you”. trả lời đúng câu hỏi của ta.
The Buddha congratulated her a Ðức Phật khen cô gái lần thứ ba, và
third time, and asked her one final hỏi câu hỏi cuối cùng:
question, “When I asked you, ‘Do you - Vì sao khi Ta hỏi “Con thực sự biết
really know?’ why did you say me, ‘I không”?, con trả lời rằng “Con không
know not’”? “Venerable Sir, I only know biết”?
that I shall surely die. I do not know at - Bạch Thế Tôn! Con chỉ biết chắc chắn là
what time I shall die, whether in the con sẽ chết. Nhưng con không biết con
night or during the day or early in the sẽ chết vào lúc nào, vào ban đêm hay
morning. Therefore, I said ‘I know not’”. ban ngày hay vào sáng sớm. Vì thế con
The Buddha said to her again, “Well said, đáp: “Con không biết”?
well said, young lady! You have correctly Ðức Phật lại khen ngợi:
answered the question I asked you”. - Lành thay! Lành thay! Này con, con đã
trả lời đúng câu hỏi của ta.
The Buddha congratulated her a Ðức Phật khen cô gái lần thứ tư và
fourth time, and having done so, dạy thính chúng: “Các người không hiểu
addressed the group of people ý câu nói của cô gái. Các người đã khó
assembled as follows” “So many of you chịu. Với người không có tuệ nhãn, họ
have failed to understand the words she đui mù, chỉ người nào có tuệ nhãn mới
spoke. You were offended. Those who do thấy được điều này”. Sau khi tuyên bố,
not possess the Eye of Understanding, Ngài dạy câu kệ sau:
they are blind. But those who possess
the Eye of Understanding, they see”.
Having stated this, he recited the
following Stanza:
“Blind is this world; few are there Ðời này thật mù quáng,
here that see; Ít kẻ thấy rõ ràng.
As few go to heaven as birds Như chim thoát khỏi lưới,
escape from a net”. Rất ít đi thiên giới.
At the end of the talk the young Cuối thời pháp cô gái chứng ngộ
weaver’s daughter attained the first Path Đạo và Quả Trí đầu tiên. Cô đã trở thành
and Fruition Knowledge. She became a một vị Thánh Tu-đà-hoàn (Sotāpanna)
Sotāpanna because she had practiced nhờ cô đã thực hành thiền niệm sự chết
meditation on death for 3 years. As you đã ba năm. Như tất cả quý vị đã nghe,
all heard, even though there were a lot mặc dù có rất nhiều người nghe bài pháp
of people who listened to the Buddha’s nguyên bản từ Đức Phật, tất cả mọi
original talk, they all – with the exception người - ngoại trừ cô con gái của người
120
R E C OLLECTIO N O F D EATH N IỆ M S Ự C H ẾT
of the young weaver’s daughter – thợ dệt - vẫn bao phủ mình trong thế sự,
remained wrapped-up in their worldly tham dự các công việc như thường lệ.
duties, attending to business as usual.
When the Buddha came back to the Khi Đức Phật quay lại Ālavī và đặt
Ālavī and asked his four questions, the bốn câu hỏi, chỉ có một người hiểu được,
only one who understood was that young đó là cô gái trẻ. Chúng ta nên nghĩ như
woman. What should we think? We thế nào? Chúng ta nên nghĩ đến Ba-la-
should think about perfections. The mật. Cô con gái của người thợ dệt là
weaver’s daughter was someone who người đã hành thiền trong kiếp quá khứ.
had already practiced meditation in her Do bởi điều này mà khi Đức Phật quán
past life. Because of this when the sát thế gian vào sáng sớm, cô ấy xuất
Buddha surveyed the world at early hiện trong tuệ nhãn của Ngài.
dawn, she appeared in the eye of the
Buddha.
It was for her sake that the Buddha Chính vì lợi lạc của cô ấy mà Đức
went to Ālavī. It was for her sake, that he Phật đến Ālavī. Chính vì lợi lạc của cô ấy
taught the practice of ‘meditation on mà Đức Phật dạy pháp hành “thiền niệm
death’. The young weaver’s daughter sự chết”. Cô con gái của người thợ dệt
appreciated this teaching very much. đánh giá trân trọng pháp hành này rất
She liked it very much. Among the nhiều. Cô ấy rất thích nó. Giữa những
worshiper, she alone took the teaching người mộ đạo, chỉ riêng mình cô tiếp
and put it into practice. After hearing the nhận lời dạy này và đem nó vào tu tập.
Buddha’s teaching, she practiced Sau khi nghe thời pháp đó của Đức Phật,
‘meditation on death’ day and night for 3 cô ấy tu tập “thiền niệm sự chết” cả
years. ngày lẫn đêm trong ba năm.
Today some of my students in this Hiện nay, có một số đệ tử của tôi ở
very monastery are inclined to practice thiền viện này có khuynh hướng tu tập
recollection on death. If they really niệm sự chết. Nếu họ thật sự nhấn mạnh
emphasize this meditation practice, a việc thực hành thiền này, một ý thức cấp
sense of urgency arises in their mind. bách khởi sinh trong tâm họ. Họ biết
They know that one day, sooner or later, rằng một ngày nào đó, sớm hay muộn,
they too will die. This understanding họ cũng sẽ chết. Hiểu biết này làm phát
gives rise to a sense of urgency and they sinh một ý thức cấp bách và họ trở nên
become heedful, always trying to be chú tâm tỉnh giác, luôn luôn cố gắng giữ
mindful of their meditation object. niệm trong đề mục thiền của họ.
Even if you cannot practice Ngay cả khi quý vị không thể tu tập
recollection of death systematically by niệm sự chết một cách có hệ thống bằng
entering into jhāna concentration, you cách nhập vào tầng thiền, tất cả quý vị
all can reflect on death like this: ‘This đều có thể quán tưởng sự chết như sau:
morning I may die. Today I may die. “Sáng nay ta có thể chết. Hôm nay ta có
Tonight I may die’. If you reflect like this thể chết. Tối nay ta có thể chết”. Nếu
again and again every day, you will quý vị quán xét như thế cứ tiếp tục lặp đi
become heedful. You will become lặp lại mỗi ngày, quý vị sẽ trở nên không
established in goodness. You will not phóng dật. Quý vị sẽ an trú trong điều
waste your time. You will always pay thiện. Quý vị sẽ không lãng phí thời gian
attention to your meditation object, if của mình. Quý vị sẽ luôn chú tâm trên đề
121
R E C OLLECTIO N O F D EATH N IỆ M S Ự C H ẾT
you simply remember to reflect on mục thiền của mình nếu quý vị chỉ đơn
death. When you give emphasis to this giản là nhớ quán tưởng đến sự chết. Khi
meditation practice, a sense of urgency quý vị xem trọng pháp tu tập này, một ý
will arise in your mind. Then, when you thức cấp bách sẽ khởi sinh trong tâm
are instructed to practice serenity and quý vị. Lúc đó, khi quý vị được thiền sư
insight meditation step-by-step hướng dẫn tu tập thiền vắng lặng và
systematically by the teacher, and, if thiền minh sát, từng bước một, một cách
your past perfections and present effort có hệ thống, và, nếu quý vị có Ba-la-mật
are strong enough, then when your quá khứ và nỗ lực hiện tại đầy đủ, rồi khi
insight matures, at that time Path and minh sát trí thuần thục, vào lúc đó Đạo
Fruition Knowledge will arise. Trí và Quả Trí sẽ sinh khởi.
Nowadays people have not Thời nay con người không có nhiều
cultivated their perfections to the same ba-la-mật như những người sống ở thời
high level as the people who were alive Đức Phật. Vào thời đó, có nhiều người
in the Buddha’s time. At that time, there chứng đắc quả Nhập Lưu (Sotāpanna),
were many who attained the supreme Nhất Lai (Sakadāgami), Bất Lai
states of Sotāpanna, Sakadāgami, (Anāgāmi) và A-la-hán (Arahant) sau khi
Anāgāmi and Arahant after merely chỉ nghe Đức Phật giảng. Tuy nhiên ngày
listening to the Buddha speak. nay loại người này thật sự khó tìm. Nói
Nowadays though, such people would một cách thực tế, điều này có nghĩa rằng
indeed be hard to find. Practically người tại gia và tu sĩ không thể chứng
speaking, this means that today đắc Đạo và Quả Tuệ chỉ sau khi nghe
laypeople and monastics alike cannot một thời Pháp. Ngày nay, người ta cần
attain Path and Fruition Knowledge after phải tu tập một cách có hệ thống từng
merely listening to a Dhamma talk. bước một.
Today, people need to practice
systematically, step-by-step.
When I was in Singapore one Khi tôi ở Singapore, có một người
layman asked me this question: ‘Is it cư sĩ đã hỏi tôi câu hỏi này: “Có cần phải
necessary to practice in such a tu tập một cách có hệ thống như vậy
systematic way?’ He said to me, “In the không”? Anh ta hỏi tôi: “Vào thời Đức
Buddha’s time many people attained Phật, có nhiều người chứng thánh quả
noblehood after merely listening to a sau khi chỉ nghe một bài Pháp rất ngắn.
very short Dhamma talk. Did they Họ có tu tập theo cách có hệ thống, từng
practice in such a systematic, step-by- bước một không? Có cần phải tu tập Giới
step way? Is it necessary to practice Sīla học (Sīla), Định học (Samādhi) và Tuệ
(the training of morality), Samādhi (the học (Pañña) một cách có hệ thống hay
training of concentration) and Paññā không”? Câu trả lời là “Có”. Tôi đã giải
(the training of insight) systematically? thích với anh ta rằng chúng ta không
The answer is “yes”. I explained to him giống như những người sống vào thời
that we are not like the people who lived Đức Phật. Chúng ta đang sống ở thời
in the time of the Buddha. We are living hiện nay, và đây là thời kỳ mà chúng ta
today, and this is an age wherein we cần thực hành và tu tập một cách có hệ
need to be practical and practice thống.
systematically’.
Even here at Pa-Auk some of my Ngay ở Pa-Auk này, có một vài đệ
122
R E C OLLECTIO N O F D EATH N IỆ M S Ự C H ẾT
students have asked me, ‘Is it necessary tử của tôi đã hỏi: “Có cần thiết phải tu
to practice Rūpa? No one besides Pa-Auk tập Sắc (Rūpa) hay không? Không ai
teachers teach it. The one who asked me ngoài các thiền sư ở Pa-Auk dạy nó.
this question is smiling. He is practicing Người đã hỏi câu hỏi đó với tôi giờ đang
Rūpa meditation now. mỉm cười. Bây giờ người đó đang tu tập
sắc (Rūpa)”.
The answer is again “yes”. Câu trả lời lại là “Có”. Ngày nay, xin
Nowadays please don’t expect to see đừng trông mong chứng ngộ Niết-bàn
Nibbāna without following step-by-step mà không phải theo các chỉ dẫn từng
systematic instructions. bước một một cách có hệ thống.
One day, I will give a more detailed Ngày nào đó, tôi sẽ đưa một giải
explanation about this. What I want to thích chi tiết hơn về điều này. Những gì
point out for the purposes of this talk is tôi muốn đưa ra cho mục đích của bài
that the young woman in our story, after pháp này là cô gái trẻ trong câu chuyện,
hearing the Buddha’s teaching, actually sau khi nghe lời dạy của Đức Phật, cô đã
followed his advice. From that day thực sự thực hành theo lời dạy của Ngài.
onwards, she practiced meditation on Từ ngày đó trở đi, cô tu tập thiền niệm
death for the next three years. When the sự chết trong ba năm. Sau đó, khi Đức
Buddha returned to Ālavi afterwards, it Phật quay lại Ālavi, đó là vì lợi ích của cô.
was for her sake. He gave his talk there Ngài thuyết pháp ở đó vì mục đích chứng
for the sake of her attainment and for ngộ của cô và cho lợi ích của nhiều
the benefit of the many. người.
When you are in the presence of a Khi quý vị sống vào thời Đức Phật,
living Buddha, he will teach you directly. Ngài sẽ dạy quý vị một cách trực tiếp.
If you have already perfected your Nếu quý vị đã viên mãn các ba-la-mật
pāramis, the Buddha can teach you the (pārami), Đức Phật có thể dạy đề mục
most suitable meditation object for you thiền thích hợp nhất để quý vị chứng ngộ
to attain Nibbāna quickly. But now you Niết-bàn một cách nhanh chóng. Nhưng
are not in the presence of the Buddha bây giờ, quý vị không sống vào thời Đức
but rather you are in my presence. I can Phật, mà đúng hơn là quý vị sống trong
only instruct meditation practice step- thời của tôi. Tôi chỉ có thể dạy thiền từng
by-step, systematically, following the bước một, một cách có hệ thống, theo lời
original teachings of the Buddha. dạy nguyên gốc của Đức Phật. Ngày nay,
Nowadays, it is very important to follow thật quan trọng là phải theo sự chỉ dạy
the instructions and practice và tu tập một cách có hệ thống, từng
systematically, day-by-day. By doing so, ngày một. Làm như vậy, thậm chí nếu
even if you cannot now attain Nibbāna, giờ đây quý vị không thể chứng ngộ Niết-
in the future your practice will be bàn, thì sự tu tập của quý vị trong tương
beneficial and will help you to attain lai sẽ được lợi lạc và sẽ giúp quý vị
Nibbāna, to see the Deathless. chứng ngộ Niết-bàn, chứng ngộ sự Bất
Tử.
After the weaver’s daughter heard Sau khi cô con gái của người thợ
the stanza ‘‘Blind is this world..’.’ dệt nghe câu kệ: “Ðời này thật mù
recited by the Buddha, she attained quáng” do Đức Phật dạy, cô đã nhập
stream-entry and became a Sotāpanna. vào dòng thánh và trở thành một vị Tu-
đà-hoàn (Sotāpanna).
123
R E C OLLECTIO N O F D EATH N IỆ M S Ự C H ẾT
She then took up her shuttle-basket Sau đó cô cầm giỏ thoi đi đến chỗ
and proceeded to her father’s workshop. cha mình. Ông đang ngồi ngủ bên khung
When she arrived, he was asleep despite cửi. Không biết cha đang ngủ, cô đưa giỏ
the fact that he was sitting upright at his thoi cho cha. Giỏ thoi chạm nhằm đầu
loom. His daughter didn’t notice that he khung cửi gây nên tiếng động, cha cô
was asleep when she handed him the choàng dậy tiếp tục kéo cửi, đầu thoi
shuttle-basket. As she did so, the basket văng vào ngực cô bé. Cô chết ngay tại
hit the tip of the loom and fell with a đó và ngay tức khắc tái sanh lên cõi trời
clatter, making a loud sound. Her father Ðâu-suất (Tusita). Cha cô giật mình thấy
awoke suddenly and accidentally pulled con gái mình nằm sóng sượt, đầy máu.
the shuttle. The tip of the shuttle struck Ông biết rằng con mình đã chết.
his daughter in her breast. She died
there and was immediately reborn in the
world of the Tusita gods. Her father
looked at her, as she lay there, her
whole body spotted with blood. He knew
that she was dead.
His grief was intense. With eyes Ông đau buồn khủng khiếp. Với cặp
filled with tears he went to see the mắt đẫm lệ, ông đến gặp Đức Phật và kể
Buddha and told him what had lại mọi việc đã xảy ra. Ông khẩn cầu Thế
happened. He appealed to the Blessed Tôn: “Bạch Thế Tôn, xin hãy an ủi con,
One, “Venerable Sir, comfort me, xin dập tắt nỗi đau khổ của con” Đức
extinguish my grief”. The Buddha Phật đã an ủi ông ta: “Chớ ưu sầu, này
comforted him, saying, “Grieve not my thiện nam tử! Trong vòng luân hồi vô tận
disciple, for in the round of existences không biết được khởi đầu, ngươi đã từng
without conceivable beginning, you have khóc cho cái chết của con gái ngươi với
shed, over the death of your daughter, nước mắt nhiều hơn nước bốn bể”. Nhờ
tears more abundant than the waters nghe điều này, ông ta được khuây khỏa,
contained in the four great oceans”. dịu bớt nỗi sầu, và ông ta thỉnh cầu Đức
Upon hearing this he was comforted, his Phật cho phép ông gia nhập Tăng đoàn,
grief reduced, and he requested the cho phép ông xuất gia. Người thợ dệt tu
Buddha to admit him into the Order and tập chuyên cần và không lâu sau đó ông
allow him to ordain. The weaver đã chứng ngộ quả vị A-la-hán (Arahant).
practiced diligently and not long Nhờ tu tập thiền niệm sự chết, con gái
afterwards he too attained Arahantship. của ông chứng quả Nhập Lưu
Because of practicing meditation on (Sotāpanna) và ông thì chứng quả A-la-
death, his daughter attained Sotāpanna hán (Arahant). Thiền niệm sự chết vừa
and he attained Arahantship. Meditation đem lại cho họ lợi lạc to lớn vừa dẫn họ
on death brought them both great đến giải thoát.
benefit and led to their liberation.
So every day we should reflect and Do vậy, mỗi ngày chúng ta nên
meditate on death. We should diligently quán xét và thiền niệm sự chết. Ta nên
and systematically practice recollection tu tập niệm sự chết một cách chuyên
of death. cần và có hệ thống.
One day we will surely die. Một ngày nào đó, ta chắc chắn sẽ
chết.
124
R E C OLLECTIO N O F D EATH N IỆ M S Ự C H ẾT
The day we were born, we were Ngày ta ra đời, ta khóc trong khi
crying while others smiled. mọi người cười.
But on the day of our death, others Nhưng vào ngày chết của ta, mọi
will be crying. người sẽ khóc.
Should we participate with those Ta có nên khóc cùng với họ vào
who are crying on that day? We should ngày đó? Không nên như vậy.
not.
If we practice diligently and Nếu ta tu tập chuyên cần và trở
become noble ones, we will not depart thành bậc thánh, ta sẽ không ra đi với
this life crying. We will die smiling. tiếng khóc. Ta sẽ mỉm cười mà chết.
So, Vậy thì,
May you all practice recollection of Cầu chúc tất cả quý vị tu tập niệm
death. sự chết.
May you all be heedful. Cầu chúc tất cả quý vị chú tâm tỉnh
giác.
May you all attain Nibbāna, the Cầu chúc tất cả quý vị chứng ngộ
Deathless, in this very life. Niết-bàn, sự Bất Tử, ngay trong kiếp
sống này.
May all of us strive diligently for Cầu chúc tất cả chúng ta cố gắng
liberation. chuyên cần để giải thoát.
Sādhu! Sādhu! Sādhu! Lành Thay! Lành Thay! Lành Thay!
The talk given on Sunday, Bài pháp được thuyết vào ngày Chủ Nhật, 18
th
18 December 2005 at Pa-Auk Tawya in tháng 12 năm 2005 tại Rừng thiền Pa-Auk,
Myanmar. Myanmar.
125
Profound Dhamma
Pháp Vi Diệu
Namo tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa
Today is the first day of the new Hôm nay là ngày đầu tiên của năm
year, 2006. On this day people greet one mới 2006. Vào ngày này, người ta chúc
another by saying, ‘Happy New Year’. nhau bằng câu: “Chúc Mừng Năm Mới”.
Even though people all over the world Mặc dù tất cả mọi người trên toàn thế
say ‘Happy New Year’ to one another, I giới nói: “Chúc Mừng Năm Mới” cho
sense they are not really happy. Do you nhau, tôi cảm thấy họ không thật sự
agree? Why? Most people seek hạnh phúc. Quý vị có đồng ý như vậy
happiness in the sensual world. They không? Tại sao? Hầu hết mọi người tìm
seek happiness in the external world, but kiếm hạnh phúc ở thế giới dục trần. Họ
real happiness is not found in the tìm kiếm hạnh phúc ở thế giới bên ngoài,
external world. Real happiness is calm. It nhưng chân hạnh phúc không nằm ở thế
is peaceful and harmless. Real happiness giới bên ngoài. Chân hạnh phúc được tìm
is found within oneself. We attain real thấy trong chính mình. Chúng ta đạt
happiness through self-realization. We do được hạnh phúc nhờ sự tự chứng ngộ.
not find real happiness in the external Chúng ta không thấy hạnh phúc thật sự
world. nằm ở thế giới bên ngoài.
On this first day of each new year, Vào ngày đầu tiên của mỗi năm
people all over the world eagerly make mới, mọi người trên toàn thế giới hăm hở
plans. They hope to fill their lives with lên các kế hoạch. Họ hy vọng làm cuộc
happiness. What could be more natural? sống của mình đầy những hạnh phúc. Có
Unfortunately, most people think that điều nào đương nhiên hơn được nữa?
happiness can be gained through Thật không may mắn, hầu hết mọi người
external activities, acquisitions or nghĩ rằng hạnh phúc có thể đạt được
relationships. The truth is, in spite of all bằng các hoạt động bên ngoài, bằng các
their plans and efforts, real happiness is sự thu thập và các mối quan hệ. Sự thật
unfamiliar to most people. Obsessively là bất chấp tất cả các kế hoạch và các
127
P RO F O U N D D HA M MA P HÁ P VI D I Ệ U
seeking happiness in sensual objects, in nỗ lực, chân hạnh phúc vẫn lạ lẫm với
the sensual world, is exhausting. This hầu hết mọi người. Tìm kiếm hạnh phúc
gives birth to Dukkha whether it is New một cách ám ảnh ở nơi các vật dục trong
Year’s Day or the middle of summer. thế giới dục trần làm họ kiệt sức. Điều
People finally do exhaust themselves in này sanh ra cái Khổ (Dukkha) bất chấp
their habitual pursuit for external đó là vào ngày năm mới hay giữa mùa
happiness. When that happens they hè. Mọi người, cuối cùng, tự làm mình
have to rest and refresh themselves. kiệt sức khi liên tục theo đuổi hạnh phúc
Unfortunately, before long they are up to ở bên ngoài. Thật không may mắn, họ đã
their familiar old habits of seeking lâu dài lệ thuộc thói quen cũ là tìm kiếm
happiness in the sensual world. Such hạnh phúc ở dục trần. Những người này
people are like hungry ghosts, never giống như những con ma đói, không bao
satisfied, always craving for more of one giờ thỏa mãn, luôn luôn tham muốn hết
thing or another. thứ này đến thứ kia.
But, some people are not utterly Nhưng có một số người hoàn toàn
seduced by worldly sensual pursuits. không bị quyến rũ bởi mưu cầu dục trần.
They have stopped looking for happiness Họ dừng việc tìm kiếm hạnh phúc ở bên
outside of themselves. Seeing all of you ngoài. Nhìn thấy tất cả quý vị ở đây vào
here on this New Year’s Day of 2006 is ngày đầu tiên của năm mới 2006 thì thật
wonderful. Knowing that you are in là tuyệt diệu. Biết được quý vị đang đi
search of real happiness and that your tìm chân hạnh phúc làm tôi rất vui, sự nỗ
efforts and practice is helping, not only lực và tu tập không chỉ đang giúp ích cho
yourselves but many other beings as chính quý vị mà còn cho nhiều chúng
well, makes me very happy for you. So, sinh khác nữa. Như vậy, mặc dù chào
even though it is not part of our đón mọi người với câu “Chúc Mừng Năm
Myanmar cultural heritage to greet one Mới” không phải là một phần của di sản
another by saying ‘Happy New Year,’ on văn hóa Myanmar, nhưng vào ngày đầu
this first day of 2006 I heartily say to tiên của năm 2006, tôi nồng nhiệt chúc
each one of you, ‘Happy New Year’. You từng người quý vị câu “Chúc Mừng Năm
are true seekers! You are all here in Mới”. Quý vị là những người tầm cầu
search of true happiness. chân chính! Tất cả quý vị ở đây là để tìm
Congratulations! kiếm chân hạnh phúc. Xin Chúc Mừng!
On the occasion of this New Year’s Vào dịp năm mới này, hãy để tôi so
Day, let us compare the difference sánh sự khác nhau giữa những người
between people in this monastery and trong thiền viện này và những người trên
people in the world. thế giới.
While people in the world are Trong khi mọi người trên thế giới
seeking happiness in the sensual world, tầm cầu hạnh phúc ở nơi dục trần thì
people in the monastery are seeking mọi người trong thiền viện đang kiếm
happiness in the peaceful world, the tìm hạnh phúc trong thế giới an tịnh, thế
world of the Dhamma revealed by the giới Pháp được Đức Phật tuyên thuyết.
Buddha.
While people in the world are Trong khi mọi người trên thế giới
seeking happiness in the external world, đang tìm kiếm hạnh phúc ở thế giới bên
we all are seeking happiness in the inner ngoài thì chúng ta đang tìm kiếm hạnh
world. phúc ở nội tâm.
128
P RO F O U N D D HA M MA P HÁ P VI D I Ệ U
While people in the world are Trong khi mọi người trên thế giới
listening to music, we are listening to the đang nghe nhạc thì chúng ta đang lắng
Dhamma. nghe Pháp.
While people in the world are Trong khi mọi người trên thế giới
watching TV, you are watching đang xem tivi thì quý vị đang xem Tôn
Venerable Revata. (Laughter!) giả Revata (cười!)
While people in the world are Trong khi mọi người trên thế giới
emotionally excited, dancing and đang để xúc cảm kích thích, nhảy múa
singing, we are calmly practicing và ca hát thì chúng ta tu tập thiền vắng
serenity and insight meditation. lặng và thiền minh sát một cách an tịnh.
Life is so different here. That’s why Ở nơi đây cuộc sống thật quá đỗi
I congratulate all of you! khác biệt. Đó là lý do tại sao tôi chúc
mừng tất cả quý vị.
On this remarkable day, I will give Vào ngày đáng ghi nhớ này, tôi sẽ
the remarkable talk that is titled giảng một bài pháp đặc biệt có tên là
‘Profound Dhamma’. But before “Pháp Vi Diệu”. Nhưng trước khi bắt đầu
beginning my talk, let me ask you some bài pháp, hãy để tôi hỏi quý vị một vài
questions. Why does the New Year of câu hỏi. Tại sao Năm Mới 2006 đến? Câu
2006 come into being? The answer is trả lời đơn giản là: bởi vì năm ngoái 2005
simple: Because the previous year, đã kết thúc. Đây là công việc của nhân
2005, has ended. This is the action of và quả. Nếu năm 2005 không kết thúc,
cause and effect. Without 2005 ending, năm 2006 không thể bắt đầu.
2006 can not begin.
A second question: Why are we Câu hỏi thứ hai: Tại sao chúng ta lại
aging, getting older and older day-by- già đi, càng ngày càng già, từng ngày
day? The answer is because there is no từng ngày một. Câu trả lời là: vì ta không
escape from the inevitability of arising thể tránh khỏi tiến trình sanh và diệt,
and passing away that both tiến trình phân biệt và định rõ đặc điểm
differentiates and characterizes the từng giai đoạn khác nhau của đời ta.
various different stages of our lives. Just Giống như ngày chuyển sang đêm, và
as days turn into nights and weeks turn tuần chuyển sang tháng, thời niên thiếu
into months, boyhood soon enough sớm trở thành thời trưởng thành. Theo
becomes manhood. In the same way, the cách tương tự, năm cũ mở đường cho
old year gives way to new year, in the năm mới, trong sự lên xuống liên tục của
constant ebb and flow of endings and thủy triều, của sự kết thúc và khởi đầu.
beginnings. Being subject to this never- Bị lệ thuộc vào tiến trình không bao giờ
ending process, we grow older. We age. kết thúc này, chúng ta dần già đi. Chúng
This happens because of cause and ta đang già đi. Điều này xảy ra do bởi
effect. nhân và quả.
A third question: ‘How did we Câu hỏi thứ ba: “Làm thế nào
become graduates?’ We attended chúng ta tốt nghiệp đại học”? Chúng ta
primary school, secondary school, high đi học tiểu học, trung học cơ sở, trung
school, college, or university. We passed học phổ thông, cao đẳng hay đại học.
from one level to another, and by doing Chúng ta đi từ cấp này sang cấp khác,
so we acquired the skills needed to bằng cách làm như vậy, chúng ta có
129
P RO F O U N D D HA M MA P HÁ P VI D I Ệ U
attend new classes at higher and higher được kỹ năng cần thiết để học lớp mới ở
levels until we eventually graduated. It is cấp độ cao hơn dần, cuối cùng chúng ta
impossible to earn a degree, impossible tốt nghiệp. Không thể lấy được bằng cấp
to become a graduate in any other way. và không thể nào tốt nghiệp theo bất kỳ
Every effect has its cause. This is cách nào khác cả. Mỗi quả đều có nhân
another example of cause and effect in của nó. Đây là một ví dụ nữa về cách
action. làm việc của nhân và quả.
Now let us look at cause and effect Bây giờ chúng ta hãy xem xét nhân
in relation to the Dhamma, the truth. và quả trong mối quan hệ với Pháp –
chân lý.
On this remarkable day, I will give Vào ngày đáng ghi nhớ này, tôi sẽ
the talk ‘Profound Dhamma,’ the thuyết bài pháp “Pháp Vi Diệu”, Pháp đã
Dhamma which was realized by our được Đức Phật chứng ngộ.
Buddha.
How many years did it take the Đức Phật đã làm viên mãn Ba-la-
Buddha to perfect his Pāramis? We can mật (Pārami) của Ngài trong bao nhiêu
not estimate in years. It is said that it năm? Chúng ta không thể ước tính theo
took him four incalculable and one năm. Ngài cần bốn a-tăng-kỳ và một
hundred thousand eons to fulfill his trăm ngàn đại kiếp trái đất để làm viên
Pāramis, his Perfections. How very long mãn Pārami của Ngài. Thật là lâu dài biết
that is! Does it take that long to bao! Để được tốt nghiệp thì có lâu
graduate? Is it very difficult? Truly, it is không? Nó có quá khó không? Sự thực,
not very difficult. Within this very life nó không quá khó. Trong kiếp sống này,
time we can achieve that goal, if we chúng ta có thể thành tựu mục tiêu đó
spend enough time and make the nếu chúng ta dùng đủ thời gian và có nỗ
necessary effort. But the Dhamma which lực cần thiết. Nhưng Pháp mà Đức Phật
was realized by our Buddha is very chứng ngộ thì rất vi diệu và là vấn đề
profound and another matter altogether. khác hoàn toàn. Ngay cả đối với Đức
It required an incalculable amount of Phật, nó đòi hỏi một khoảng thời gian dài
time, even for the Buddha, to perfect his không thể tính kể để làm viên mãn các
Paramis and penetrate the Dhamma. ba-la-mật (Pārami) và thấu suốt Pháp.
It is important to be aware of the Điều quan trọng là phải nhận biết
differences between an ordinary được sự khác biệt giữa nền giáo dục
education, as taught by worldly beings, thông thường, được giảng dạy bởi người
and the teachings of the Dhamma, as phàm, và những lời dạy trong Chánh
taught by the Buddha. Many people are Pháp được Đức Phật thuyết giảng. Nhiều
heedless. They willingly spend fifteen người có tâm phóng dật. Họ sẵn sàng
years or more to get a degree from a dùng mười lăm năm hay hơn nữa để lấy
university, but they don’t want to spend một tấm bằng đại học, nhưng họ không
much time practicing meditation. When muốn dùng nhiều thời gian để hành
it comes to meditation practice, they thiền. Khi hành thiền, họ muốn thành tựu
want success within one week, two chỉ trong một tuần, hai tuần, một tháng
weeks, one month or two months. Is this hay hai tháng. Nó có hợp lý hay không?
reasonable? No, it is not reasonable! If Không, nó không hề hợp lý! Nếu chúng
we want immediate results in meditation ta muốn có kết quả ngay tức khắc trong
and expect to be successful within a hành thiền và mong đợi thành tựu trong
130
P RO F O U N D D HA M MA P HÁ P VI D I Ệ U
short time, we need to examine our một thời gian ngắn, chúng ta cần xem
motives carefully. We might very well xét lại động cơ của mình một cách cẩn
end up ashamed of ourselves. Why? The trọng. Có lẽ giỏi lắm là chúng ta sẽ kết
Dhamma penetrated by our Buddha is cục với sự tự hổ thẹn. Tại sao? Chánh
very profound. It is much more difficult Pháp được Đức Phật thấu suốt thì rất
and nothing at all like a formal worldly thâm sâu vi diệu. Nó khó hơn rất nhiều
education. và không hề giống bất kỳ nền giáo dục
chính quy nào của thế gian.
In school, we are given increasingly Ở trường học, chúng ta được học
difficult lessons. We have to study and các bài học ngày càng khó lên. Ta phải
work hard in order to keep up so we can học và làm bài chăm chỉ để theo kịp
advance from one level to the next. It’s chúng, nhờ vậy chúng ta có thể tiến từ
true that school lessons are difficult but, cấp này lên cấp kế tiếp. Đúng là các bài
compared to the Dhamma, they are học ở trường thì khó, nhưng so với Chánh
easy. Also, as I have mentioned, in order Pháp thì chúng lại dễ dàng. Cũng vậy,
to graduate we have to make methodical như tôi đã đề cập, để tốt nghiệp chúng
progress. This means attending ta phải có sự tiến bộ tuần tự. Điều này có
consecutive classes, one after another, nghĩa là phải theo tuần tự các lớp học,
step-by-step. Without the lessons of hết lớp này đến lớp khác, từng lớp một.
primary school, it would not be easy to Không có các bài học ở trường tiểu học
learn the lessons of secondary school. thì không thể dễ dàng học được các bài
Without secondary school lessons, it học của trường trung học cơ sở. Không
would be impossible for most of us to có các bài học ở trường trung học cơ sở,
undertake high school lessons. Without hầu hết chúng ta không thể học được
high school, a university education các bài học của trường trung học phổ
would be out of the question. So even thông. Không có trường trung học phổ
though a formal worldly education is not thông, nền giáo dục đại học sẽ không
as difficult as the Dhamma, in order to thể tồn tại. Như vậy, dù nền giáo dục
be successful we need to apply chính quy của thế gian không quá khó
ourselves in a systematic way, như Chánh Pháp, để thành tựu, chúng ta
advancing from level-to-level, step- by- cần chuyên tâm theo cách có hệ thống,
step. tiến từ cấp này đến cấp kế, từng cấp
một.
The Dhamma penetrated by the Pháp được Đức Phật thấu suốt thì
Buddha is profoundly deep. It, too, rất thâm sâu vi diệu. Nó cũng đòi hỏi sự
requires systematic, step-by-step tu tập có hệ thống, từng bước một. Đây
practice. This is the only way to là con đường duy nhất để thấu suốt
penetrate the Dhamma. This systematic Pháp. Cách tiếp cận có hệ thống này là
approach is a sure way to con đường chắc chắn để giác ngộ. Nếu
enlightenment. Otherwise, it is không thì không thể. Khi Đức Phật tự
impossible. When the Buddha attained mình giác ngộ, Ngài cũng tu tập một
enlightenment by himself, he too cách có hệ thống, từng bước một. Rồi
practiced systematically, step-by-step. sau khi giác ngộ, trong quá trình bốn
Then, after his Enlightenment, over the mươi lăm năm, Ngài thuyết giảng rộng
course of the next 45 years, he taught rãi và thường xuyên ở nhiều nơi. Tôi trích
extensively and regularly gave talks in dẫn ở đây một trong các bài pháp của
131
P RO F O U N D D HA M MA P HÁ P VI D I Ệ U
132
P RO F O U N D D HA M MA P HÁ P VI D I Ệ U
conventional sense, of course, there is định (quy ước), dĩ nhiên là có đàn ông,
man and woman. But ultimately this is đàn bà. Nhưng theo sự thật tột cùng thì
not true. To comprehend the Buddha’s điều này là không đúng. Để hiểu ý nghĩa
meaning and fully understand this này của Đức Phật và hiểu đầy đủ lời dạy
teaching, we must break through to the này, chúng ta phải thâm nhập Thánh Đế
Noble Truth of Suffering. That is to say về Khổ. Điều đó có nghĩa là chúng ta
we must know and see the five phải biết và thấy năm thủ uẩn. Nghĩa là
aggregates of clinging. This means that chúng ta phải thấu suốt danh - sắc chân
we must penetrate ultimate mentality đế. Nhưng làm thế nào mà chúng ta có
and materiality. But how can we know thể biết và thấy danh - sắc chân đế? Đức
and see ultimate mentality and Phật đã thuyết dạy là phải tu tập định.
materiality? The Buddha instructed Trong Tương Ưng Đại Phẩm (Mahāvagga
meditators to develop concentration. In Saṃyutta Nikāya), Đức Phật dạy:
the Mahāvagga Saṃyutta Nikāya, the
Buddha said:
“Bhikkhus, develop concentration. “Này các Tỷ-kheo, hãy tu tập định.
A bhikkhu who is concentrated knows Tỷ-kheo có định thì như thật rõ biết và
and sees things as they really are. thấy các Pháp như chúng thực sự là”.
And what does he know and see as Và vị ấy như thật rõ biết gì? Như
it really is? He knows and sees as it thật rõ biết: “Ðây là Khổ”. Như thật rõ
really is: ‘This is suffering’. He knows biết: “Ðây là Nguyên nhân của Khổ”.
and sees as it really is: ‘This is the origin Như thật rõ biết: “Ðây là sự Diệt khổ”.
of suffering’. He knows and sees as it Như thật rõ biết: “Ðây là Con Ðường đưa
really is: ‘This is the cessasion of đến sự Diệt khổ”.
suffering’. He knows and sees as it really
is: ‘This is the way leading to the
cessasion of suffering’.
To know and see the first, second Để biết và thấy Thánh Đế thứ nhất,
and third Noble Truths we must practice thứ hai và thứ ba, chúng ta phải tu tập
the fourth Noble Truth, that is the Thánh Đế thứ tư, đó là Thánh Đạo Tám
Eightfold Noble Path. The Eightfold Noble Ngành. Thánh Đạo Tám Ngành bao gồm
Path is comprised of the three trainings: tam học: giới học (sīla), định học
The training of morality (Sīla), the (samādhi), tuệ học (paññā).
training of concentration (Samādhi), and
the training of insight (Paññā).
134
P RO F O U N D D HA M MA P HÁ P VI D I Ệ U
purity of mind. And we undertake the chúng ta tu tập tuệ học (paññā) để giải
training of insight (Paññā) to free us thoát khỏi khổ đau.
from suffering.
In order to develop concentration, Để phát triển định, chúng ta phải tu
we must practice Samatha Meditation. tập Thiền Định (Samatha). Quý vị có biết
Do you know how many different kinds có bao nhiêu đề mục thiền Định
of Samatha Meditation Objects the (Samatha) mà Đức Phật đã dạy hay
Buddha taught? Forty. Among them, không? Bốn mươi. Trong số đó, ba mươi
thirty lead to absorption concentration; đề mục đưa đến an chỉ định (jhāna
and the remaining ten to access samādhi); và mười đề mục còn lại chỉ
concentration only. So, we can say that đưa đến cận định (upacāra samādhi).
the Buddha taught 40 different types of Như vậy chúng ta có thể nói rằng Đức
Samatha meditation objects for the Phật dạy bốn mươi đề mục Thiền Định
cultivation of two different, but related (Samatha) để tu tập hai loại định khác
types of concentration: absorption nhau, nhưng có liên hệ với nhau: an chỉ
concentration and access concentration. định và cận định.
Right Concentration is one of the Chánh Định là một trong tám chi
paths appearing in the Buddha’s đạo của Thánh Đạo Tám Ngành được Đức
comprehensive Eightfold Noble Path. Phật thuyết giảng. Nhưng “Chánh Định”
But, what is ‘Right Concentration?’ In the là gì? Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga)
Visuddhimagga, “The Path of giải thích rằng “Chánh Định” là cận định
Purification,” it explains that ‘Right và tám thiền chứng (jhāna, tức là an chỉ
Concentration’ is access concentration định). Chánh Định rất quan trọng. Nếu
and the Eight Attainments (jhānas, i.e., không có định thì không thể thấu suốt
absorption concentration). Right các Pháp như chúng thật sự là.
Concentration is very important. Without
concentration, it is impossible to
penetrate things as they really are.
When we undertake the training of Khi chúng ta tu tập định học, chúng
concentration, we must practice with ta phải tu tập một trong bốn mươi đề
any one of the meditation objects with mục thiền định mà nhờ nó chúng ta có
which we can attain access thể đạt được cận định hay an chỉ định. Ở
concentration or absorption Trung Tâm Rừng Thiền Pa-Auk này, chúng
concentration. Here at Pa-Auk Tawya tôi thường dạy hầu hết những người sơ
Meditation Center, we usually teach cơ đề mục thiền “Niệm Hơi Thở”
most beginners ‘Mindfulness of (Ānāpānasati). Khi định của họ sung
Breathing’ (Ānāpānasati). When their mãn, họ đạt được an chỉ định vốn rất
concentration develops they attain full thâm sâu và uy lực. Tuy nhiên, có một số
absorption concentration which is very thiền sinh sơ cơ không thể phát triển
profound and powerful. However, some được định bằng Niệm Hơi Thở, do vậy
beginning meditators are unable to chúng tôi thay thế bằng thiền Tứ Đại. Với
develop concentration through thiền Tứ Đại, thiền sinh có thể chứng đạt
Mindfulness of Breathing, so we được cận định.
alternately teach Four Elements
meditation. With Four Elements
meditation meditators can attain access
135
P RO F O U N D D HA M MA P HÁ P VI D I Ệ U
concentration.
We must all try our best to develop Chúng ta phải cố gắng hết sức
either access or absorption mình để phát triển hoặc cận định hoặc
concentration so that we can penetrate an chỉ định để có thể thấu suốt các pháp
ultimate reality. Without access or chân đế (sự thật tột cùng). Không có cận
absorption concentration, we will not be định hay an chỉ định, ta sẽ không thể
able to see ultimate mentality and thấy danh và sắc chân đế. Đơn giản,
materiality. Simply put, this means that điều này có nghĩa là ta sẽ không thể
we will not be able to break through to thâm nhập được Thánh Đế đầu tiên,
the First Noble Truth, the Noble Truth of Thánh Đế về Khổ. Chúng ta sẽ không có
Suffering. We will not be capable of khả năng biết và thấy các Pháp như
knowing and seeing things as they really chúng thực sự là.
are.
There are many in this audience Có nhiều người trong thính chúng ở
who have already penetrated ultimate đây đã thấu suốt danh - sắc chân đế. Họ
mentality and materiality. They hiểu tầm quan trọng của việc phát triển
understand the importance of định để biết và thấy các sự thật tột cùng
developing concentration in order to như chúng thực sự là. Các thiền sinh này
know and see ultimate reality as it really đã thấy các Pháp như chúng thực là.
is. Those meditators have seen things as Cũng có nhiều người trong chúng ta
they really are. There are also many chưa thấu suốt danh - sắc chân đế. Tuy
among us who have yet to penetrate nhiên, họ tiếp tục tu tập một cách tận
ultimate mentality and materiality. tâm hướng đến mục đích đó. Theo Đức
Nevertheless, they continue to practice Phật, toàn bộ thế gian được tạo từ các
conscientiously towards that goal. hạt rất nhỏ. Để các thiền sinh biết và
According to the Buddha, this whole thấy các hạt này một cách trực tiếp, Đức
world is composed of very tiny particles. Phật dạy thiền Tứ Đại. Tứ Đại là gì?
In order for meditators to know and see Chúng là (nguyên tố) đất, nước, lửa và
these particles directly, the Buddha gió. Tất cả các sinh vật hay phi sinh vật
taught ‘Four Elements’ meditation. What đều được cấu tạo nên từ tứ đại. Khi thiền
are the four elements? They are earth, sinh có thể phân biệt tứ đại trong toàn
water, fire and wind. All living and non- thân họ từ đầu đến chân và từ chân lên
living things are made up of these four đầu một cách rõ ràng, cứ thế lặp đi lặp
elements. When meditators can discern lại, họ sẽ kinh nghiệm thân mình như là
these four elements clearly in their một khối tứ đại. Khi điều này xảy ra,
whole body from head to foot and foot to tưởng tri về “ta” tạm thời biến mất. Lúc
head, again and again, they will đó, thiền sinh không còn thấy thân thể
experience their body as a block of the như là một cái “ta”, nhưng giờ đây có
four elements. When this happens the thể nhận thức đúng đắn thân thể chỉ là
perception of ‘self’ temporarily một nhóm tứ đại. Khi định trở nên tốt
disappears. Meditators then no longer hơn, thân thể dần phát ra ánh sáng xám
see the body as a ‘self’, but are now able và nó dần trở nên sáng hơn. Tiếp theo
to correctly perceive the body as a group đó, thân thể chuyển thành một khối ánh
of four elements. As their concentration sáng. Nếu thiền sinh tiếp tục phân biệt
improves, the body gradually begins to tứ đại trong khối ánh sáng đó thì cuối
emit a gray light which becomes brighter cùng nó sẽ bị vỡ thành các phần tử cực
136
P RO F O U N D D HA M MA P HÁ P VI D I Ệ U
and brighter. Next the body turns into a nhỏ luôn sanh và diệt cực kỳ nhanh
block of light. If meditators continue to chóng. Thấy được các phần tử cực nhỏ
discern the four elements in that block of này là một trải nghiệm rất thâm sâu.
light, it finally breaks down into very Nhưng thiền sinh vẫn chỉ là đang thấy
small particles that are rapidly arising các khái niệm vi tế nhất của vật chất chế
and passing away. It is a profound định (quy ước). Vị ấy vẫn chưa thấy được
experience to see these small particles. sắc chân đế (sự thật tột cùng về vật
Yet the meditator is still only seeing the chất). Trong mỗi phần tử cực nhỏ có ít
most subtle concept of conventional nhất tám loại sắc (đặc tính của vật chất).
materiality. He or she is not yet seeing Tám loại sắc này gồm: đất, nước, lửa,
ultimate materiality. In each particle gió, màu, mùi, vị và dưỡng chất. Chỉ khi
there are at least eight aspects of thiền sinh có thể phân tích các khía cạnh
materiality. These eight aspects are the khác nhau của tám loại sắc, từng sắc
elements of earth, water, fire and air, as một trong mỗi phần tử cực nhỏ, lúc đó
well as color, odor, flavor and nutritive họ mới có thể thật sự biết và thấy sắc
essence. It is only when meditators can chân đế.
analyze these eight different aspects of
materiality, one-by-one in each particle,
that they can truly know and see
ultimate materiality.
As soon as meditators can discern Ngay khi thiền sinh có thể quán tứ
the four elements internally, in their own đại bên trong, trong chính thân thể của
bodies, up to directly knowing and họ, cho đến biết và thấy được trực tiếp
seeing ultimate reality, they are then sắc chân đế, lúc đó họ sẽ được hướng
instructed to move on to discerning the dẫn tiến lên phân biệt tứ đại bên ngoài.
four elements externally. The moment Lúc họ có thể phân biệt tứ đại trong tòa
they are able to discern four elements in nhà, họ chỉ thấy các phần tử cực nhỏ. Khi
buildings, they see only small particles. họ phân biệt tứ đại trong cây cối hay
When they discern four elements in trees thậm chí không gian, họ cũng chỉ thấy
or even in space, they likewise only see các phần tử cực nhỏ. Mọi vật đều giống
small particles. Everything becomes the nhau. Vào lúc này, đàn ông, đàn bà, cây
same. At this point, men, women, trees cối và mọi vật quy ước không còn hiện
and all other conventional forms cease diện nữa. Mọi vật và mọi người trở thành
to exist. Everything and everybody và được thấy như là một nhóm các phần
becomes and is seen as a group of small tử cực nhỏ. Đây là sự chứng đạt trí tuệ
particles. This is the attainment of true thật sự. Trí tuệ biết rằng thực sự không
knowledge. It is the knowledge of có đàn ông hay đàn bà. Chỉ có sắc chân
knowing that there are really no men or đế mà thôi. Nhưng khi thiền sinh mở mắt
women. There is just ultimate ra, họ sẽ thấy gì? Họ lại thấy đàn ông và
materiality. But when meditators open đàn bà, và họ đau khổ khi nhìn thấy
their eyes again, what do they see? They chúng. Tại sao như vậy? Đó là vì phiền
once again see men and women, and não ô nhiễm của họ. Nếu thiền sinh
they suffer for seeing them. Why is this? không muốn thấy đàn ông và đàn bà thì
It is because of their defilements. If you đừng mở mắt ra. Thiền sinh phải luôn
don’t want to see men and women, don’t nhắm mắt lại (cười!), nếu không thì dính
open your eyes again. You must keep mắc, tham ái và chấp thủ sẽ sinh khởi và
your eyes closed all the time (laughter!), quý vị sẽ tạo các nghiệp mới.
137
P RO F O U N D D HA M MA P HÁ P VI D I Ệ U
step. With the achievement of the first gốc rễ từng bước một. Với sự thành tựu
Path, they attain the first fruit of Đạo đầu tiên, họ chứng đắc Quả giác
enlightenment and become a Stream ngộ đầu tiên và trở thành vị thánh Nhập
Enterer, (Sotāpanna). As soon as that Lưu (Sotāpanna). Ngay khi điều đó xảy
happens, the three defilements of self- ra, ba phiền não là thân kiến, hoài nghi
identity, doubt and attachment to rites và giới cấm thủ được nhổ tận gốc rễ vĩnh
and rituals are forever eradicated. viễn.
Because they practice the Fourth Vì họ tu tập Thánh Đế thứ tư là
Noble Truth which is the Eightfold Noble Thánh Đạo Tám Ngành hay Tam Vô Lậu
Path or the Three Trainings, they are able Học nên họ mới có thể trực tiếp biết và
to directly know and see the first, second thấy Thánh Đế thứ nhất, thứ hai và thứ
and the third Noble Truths. ba.
When one practices the training of Khi một người tu tập giới (sīla), điều
morality (Sīla) it could be compared to đó có thể được so với việc đi học ở
attending primary school. When one trường tiểu học. Khi người đó tu tập định
develops concentration (Samādhi) it is (samādhi), điều đó giống như việc đi học
like attending secondary school. ở trường trung học cơ sở. Nên nhớ rằng
Remember that one has to pass người đó phải tốt nghiệp trung học cơ sở
secondary school before they can trước khi họ có thể tiến đến các bài học
proceed to high school and university của trường trung học phổ thông và đại
lessons. The practice of insight học. Việc tu tập thiền minh sát (Paññā)
meditation (Paññā) is like attending high cũng giống như việc đi học ở trường
school and university. Continuing with trung học phổ thông và đại học vậy. Tiếp
this example, earning a degree and tục với ví dụ này, việc lấy bằng tốt
graduating from a university is like nghiệp đại học cũng giống như việc
attaining Nibbāna. chứng ngộ Niết-bàn (Nibbāna).
There are sixteen steps of insight Có mười sáu bậc minh sát trí dẫn
knowledge that lead to Nibbāna. What đến Niết-bàn. Mười sáu minh sát trí đó là
are the sixteen insight-knowledges? gì? Đó là:
They are:
1. The Knowledge of analyzing 1. Trí Phân Định Danh - Sắc (nāma-
Mentality-Materiality (nāma-rūpa rūpa pariccheda ñāṇa)
pariccheda ñāṇa)
2. The Knowledge of discerning 2. Trí Phân Biệt Nhân - Quả
Cause and Effect (paccaya-pariggaha (paccaya-pariggaha ñāṇa)
ñāṇa)
3. The Knowledge of 3. Trí Thẩm Sát (sammasana ñāṇa)
Comprehension (sammasana ñāṇa)
4. The Knowledge of Arising and 4. Trí Sanh Diệt (udayabbaya ñāṇa)
Passing away (udayabbaya ñāṇa)
5. The Knowledge of Dissolution 5. Trí Tan Hoại (bhaṅga ñāṇa)
(bhaṅga ñāṇa)
6. The Knowledge of Terror 6. Trí Kinh Úy (bhaya ñāṇa)
(bhaya ñāṇa)
139
P RO F O U N D D HA M MA P HÁ P VI D I Ệ U
sensual pleasures, rejoices in it and ái dục. Ðối với quần chúng ưa ái dục,
engages in it. For those who so delight, khoái ái dục, ham thích ái dục, thật khó
rejoice and engage in sensual pleasures mà thấy được định lý này, tức là y tánh
this matter is hard to see, that is, duyên khởi pháp; thật là khó mà thấy
specific conditionality, dependent được định lý này; tức là tất cả các hành
origination. Equally hard to see would be là tịch tịnh, tất cả sanh y được từ bỏ, ái
the cessation of all volitional formations, tận, ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn. Nếu
the abandonment of all the substrates of nay Ta thuyết pháp mà các người khác
rebirth, the destruction of craving, không hiểu Ta, thời như vậy thật mệt mỏi
dispassion, and cessation (Nibbāna). And cho Ta, như vậy thật phiền phức cho Ta!”
if I were to teach Dhamma to others and
they did not understand me, that would
be weariness and a trouble to me”.
Do you remember these words? Quý vị có nhớ những lời này không?
This reflection arose in the mind of the Tư tưởng này khởi sinh trong tâm Đức
Buddha while he was alone in seclusion, Phật khi Ngài đang ở độc cư một mình,
after he had become the fully sau khi Ngài đã trở thành một bậc Chánh
Enlightened One. At that time, he was Ðẳng Giác. Vào lúc đó, Ngài trú ở
dwelling at Uruvela on the bank of the Uruvela bên bờ sông Nerañjarā tại gốc
river Nerañjarā at the foot of the cây Ajapāla Nigrodha. Bây giờ quý vị có
Goatherd’s Banyan tree. You may thể đã nhớ ra.
remember now.
Shortly after that, this verse arose Nhanh chóng sau đó, những câu kệ
in the mind of the Blessed One: sau được khởi lên trong tâm Thế Tôn:
“This that I’ve attained, why should “Sao nay Ta lại nói lên chánh pháp
I proclaim? mà Ta đã chứng ngộ rất khó khăn?
Those full of lust and hate can Pháp này khó mà chứng ngộ với
never grasp it. những ai bị tham sân chi phối.
Leading upstream this Dhamma, Những ai bị ái nhiễm và vô minh
subtle, deep, bao phủ rất khó thấy pháp này.
Hard to see, no passion-blinded folk Một pháp đi ngược dòng, thâm sâu,
can see it”. vi diệu”.
For this reason, as the Buddha Với lý do này, khi Đức Phật nghĩ
thought about his realization, his mind đến sự giác ngộ của Ngài, tâm Ngài có ý
inclined to living at ease. He was not nghiêng về vô vi thụ động. Ngài không
inclined to teach the Dhamma. But, the có ý muốn thuyết Pháp. Nhưng Phạm
Brahma Sahampati, who knew and saw thiên Sahampati, sau khi biết được tâm
within his mind the Buddha’s reasoning, tư của Đức Phật, nghĩ rằng: “Than ôi, thế
thought: “Alas, this world is lost; alas, giới này sẽ bị tiêu diệt, thế giới này sẽ bị
this world will be destroyed because the hoại vong, nếu tâm của Đấng tìm ra
mind of the Truth-Finder, the Blessed Chân Lý, Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh
One, the Arahant, the fully-enlightened Ðẳng Giác hướng đến vô vi thụ động,
Buddha is inclined to living at ease, not không muốn thuyết pháp”.
to teaching the Dhamma”.
“So this Great Brahma, as swiftly “Thế là vị Đại Phạm thiên này, như
141
P RO F O U N D D HA M MA P HÁ P VI D I Ệ U
as a strong man might stretch his bent một nhà lực sĩ duỗi cánh tay đang co,
arm, bent it again. Whereupon he hay co cánh tay đang duỗi; cũng vậy, vị
disappeared from the Brahma world and ấy biến mất từ thế giới Phạm thiên, và
immediately reappeared before the hiện ra trước mặt Đức Phật.
Buddha.
Arranging his upper robe over one Rồi Phạm thiên Sahampati đắp
shoulder and kneeling on his right knee, thượng y một bên vai và quỳ trên đầu
he paid respect to the Buddha with gối phải, chắp tay hướng về Đức Phật và
joined palms and said: “Venerable Sir, thưa: “Bạch Thế Tôn, hãy thuyết pháp!
may the Blessed One teach the Bạch Thiện Thệ, hãy thuyết pháp! Có
Dhamma, may the Fortunate One teach những chúng sinh ít nhiễm bụi trần sẽ bị
the Dhamma! There are beings with little nguy hại nếu không được nghe Chánh
dust in their eyes who are perishing pháp. Nếu Thế Tôn thuyết Pháp, những vị
through not hearing Dhamma. If the này có thể thâm hiểu Chánh pháp”.
Blessed One teaches the Dhamma, they
will become Knowers of Dhamma!”
‘Then the Brahma Sahampati, Phạm thiên Sahampati nói như vậy.
having said this, continued: Sau khi nói vậy, lại nói thêm như sau:
“In the past there appeared in Xưa tại Magadha,
Magadha before thee Hiện ra pháp bất tịnh,
An unclean dhamma by impure Pháp do tâm cấu uế,
minds devised Do suy tư tác thành.
Open this door of the deathless, let Hãy mở tung mở rộng,
them hear Cánh cửa bất tử này.
The Dhamma awakened to by the Hãy để họ nghe Pháp,
pure one. Bậc Thanh tịnh Chứng Ngộ.
As on a mountain-peak a watcher Như đứng trên tảng đá,
sees the folk below, Trên đỉnh núi tột cao
Có người đứng nhìn xuống,
Ðám chúng sinh quây quần.
So, a Man of Wisdom, seeing all, Cũng vậy, ôi Thiện Thệ,
looks down from Bậc Biến Nhãn cùng khắp,
Leo lên ngôi lâu đài,
Dhamma’s heights! Xây dựng bằng Chánh pháp
Free from woe, look on those who Bậc Thoát Ly sầu muộn,
are sunk in grief, oppressed with birth Nhìn xuống đám quần sanh,
and age. Bị sầu khổ áp bức,
Bị sanh già chi phối,
Arise, hero, victor in battle, leader Ðứng lên vị Anh Hùng,
of the caravan, traverse the world! Bậc Chiến Thắng chiến trường.
Vị trưởng đoàn lữ khách,
Bậc Thoát Ly nợ nần.
Hãy đi khắp thế giới,
142
P RO F O U N D D HA M MA P HÁ P VI D I Ệ U
143
P RO F O U N D D HA M MA P HÁ P VI D I Ệ U
145
P RO F O U N D D HA M MA P HÁ P VI D I Ệ U
146
P RO F O U N D D HA M MA P HÁ P VI D I Ệ U
(Pubbayoga)
They engaged in the practice Họ đã tu tập thiền chỉ - thiền quán
of Samatha-Vipassanā up to the (Samatha – Vipassanā) đến Hành Xả Trí
Knowledge of Equanimity Towards (saṅkhārupekkhā ñāṇa) trong thời kỳ
Formations (saṅkhārupekkhā ñāṇa) Giáo Pháp của chư Phật quá khứ.
during the dispensations of the Buddhas.
It was because of these four causes Do bốn nhân này mà con người thời
that people in those days were able to đó đã có thể nhanh chóng chứng đắc các
rapidly achieve profound states of tầng giác ngộ thâm sâu, vào một trong
attainment, in one of their last lives. And những kiếp sống cuối cùng của họ. Và
because of these four causes, this result bởi vì bốn nhân này mà quả sau xuất
occurred: hiện:
e. Achievement.................. 5. Chứng đắc (adhigama)
(adhigama)
The attainment of the Arahant Chứng đắc A-la-hán thánh đạo và A-
Path and Fruition, or any other Path and la-hán thánh quả, hoặc bất kỳ đạo quả
Fruition. nào.
We now know that those who had Bây giờ chúng ta đã biết rằng
perfected paramis such as mastery of những ai đã tu tập viên mãn các ba-la-
scriptures (Pariyatti), hearing (Savana), mật như tinh thông kinh điển (Pariyatti),
inquiry (Paripuccha) and prior effort nghe (Savana), hỏi (Paripuccha) và tiền
(Pubbayoga) were able to attain Path nỗ lực (Pubbayoga) thì có thể chứng đắc
and Fruition knowledge quickly, Đạo Trí và Quả Trí một cách nhanh
sometimes after only listerning to a very chóng, đôi khi chỉ sau khi nghe một câu
short stanza. Among the paramis, ‘prior kệ rất ngắn. Trong số các ba-la-mật,
effort’ (Pubbayoga) was crucial. Because “tiền nỗ lực” (Pubbayoga) là quyết định.
of their accumulated past practice of Bởi vì sự tu tập tích lũy từ quá khứ về
Samatha-Vipassanā meditation up to the thiền chỉ - quán (Samatha – Vipassana)
Knowledge of Equanimity towards the đến Hành Xả Trí mà những vị đệ tử đầu
Formations (saṅkhārupekkhā ñāṇa) tiên này đã rất gần với Đạo và Quả Trí.
these early disciples were already very Khi họ đi bát, họ hành thiền. Khi họ quay
close to Path and Fruition Knowledge. về, họ cũng hành thiền. Những vị đệ tử
When they went for alms, they practiced đầu tiên này đã có tiền nỗ lực trong suốt
meditation. When they returned, they nhiều đời nhiều kiếp. Do vậy trong kiếp
practiced meditation. Those early cuối cùng, chỉ cần nghe Pháp là đủ để họ
disciples had already made prior effort chứng ngộ Niết-bàn.
over the course of many past lives. So in
their last life, merely listening to the
Dhamma was sufficient for them to see
Nibbāna.
Do we now know that we are not Bây giờ chúng ta biết rằng chúng ta
the first type of person (an Uggaṭitaññū- không phải là loại người đầu tiên
person) or one who can attain profound (Uggaṭitaññū) hay còn gọi là người có
states of realization after merely thể chứng đắc các tầng giác ngộ thâm
listening to condensed instruction? sâu sau khi chỉ nghe một bài Pháp ngắn
147
P RO F O U N D D HA M MA P HÁ P VI D I Ệ U
148
P RO F O U N D D HA M MA P HÁ P VI D I Ệ U
second type of person, a Vipacitannu- ta có thể kết luận chắc chắn rằng mình
person, who can realize Nibbāna simply không phải là loại người thứ hai, loại
after listening to detailed explanation of người Vipacitaññu, người có thể chứng
the Dhamma. ngộ Niết-bàn đơn giản chỉ sau khi nghe
bài Pháp được giảng chi tiết.
The third type of person (a Loại người thứ ba (Neyya, Hạng
Neyya-person) is one who cannot attain Ứng dẫn) là người không thể chứng đắc
merely by listening to condensed or chỉ bằng việc lắng nghe các lời dạy tóm
detailed instruction. But rather by lược hay chi tiết. Nhưng bằng việc thực
practicing the training of morality (Sīla), hành giới học (sīla), định học (samādhi)
the training of concentration (Samādhi) và tuệ học (paññā) từng bước một, có hệ
and the training of insight (Paññā) step- thống, họ có thể chứng ngộ Bốn Thánh
by-step, systematically, they can realize Đế và chứng ngộ Niết-bàn. Tôi tin rằng
the Four Noble Truths and realize có nhiều người trong số thính giả ở đây
Nibbāna. I believe that there are many in là loại người thứ ba này. Ngày nay, loại
this audience who are this third type of người thứ nhất và thứ hai không thể tìm
person. Nowadays the first and second thấy ở bất kỳ nơi nào. Tuy nhiên, ngày
type of persons cannot be found nay có nhiều người Neyya sống giữa
anywhere. However, there are many chúng ta. Để chứng ngộ Niết-bàn
Neyya-persons living amongst us today. (Nibbāna), một người Neyya cần phải
To realize Nibbāna, a Neyya-person học kinh điển Pāḷi, thảo luận những đoạn
needs to learn the Pāḷi text, discuss the kinh khó và các giải thích trong kinh
difficult passages and explanations in điển, chú giải và ghi nhớ những gì mà họ
the texts and commentaries, and keep in đã học được. Họ nên kết giao với một
mind what they have studied. They hay nhiều thiện bằng hữu, họ phải thực
should associate with a good friend or hành thiền. Điều này được đề cập trong
friends and they have to practice chú giải.
meditation. This is mentioned in the
commentary.
Association with a good friend or Việc giao du với các thiện bằng hữu
friends is very important. Even if we là rất quan trọng. Ngay cả khi chúng ta
cannot gain knowledge of the Pāḷi texts không thể đạt được trí tuệ về kinh điển
and commentary, if we associate with a Pāḷi và chú giải, khi chúng ta giao du với
good friend or friends who can các thiện bằng hữu là những người có
thoroughly guide us in the three thể chỉ dẫn tam vô lậu học thấu đáo cho
trainings, even just this much can lead chúng ta, chỉ điều này thôi là có thể dẫn
us to Nibbāna. When the Buddha dắt ta đến Niết-bàn (Nibbāna). Với Phật
surveyed the world with his Buddha’s nhãn, Đức Phật nhìn quanh thế giới, Ngài
eye, he saw beings with little dust in thấy có hạng chúng sinh ít nhiễm bụi
their eyes and with much dust, beings đời, nhiều nhiễm bụi đời, có hạng lợi căn,
with sharp and dull faculties, beings of độn căn, có hạng thiện tánh, ác tánh, có
good and bad dispositions, and beings hạng dễ dạy, khó dạy, và một số ít
both easy and hard to teach. Few of chúng sinh thấy được sự nguy hiểm
them were living in fear of wrongdoing trong sự tái sanh đến thế giới khác và sự
and the world beyond. nguy hiểm trong việc làm các hành động
lỗi lầm.
149
P RO F O U N D D HA M MA P HÁ P VI D I Ệ U
Because of seeing this, the Buddha Vì thấy như vậy, Đức Phật nói lên
addressed the Brahma with verses. bài kệ sau đây với vị Phạm thiên:
“Open to them the door to the “Cửa bất diệt đã được mở rộng,
Deathless!
Let those who have ears release Hỡi những ai được nghe, hãy từ bỏ
their faith. tà kiến của mình.
Foreseeing trouble, I did not preach Vì nghĩ đến mệt mỏi hoài công, này
at first, Phạm Thiên.
The excellent Dhamma for men, Ta không muốn giảng Chánh pháp
Brahma!” vi diệu cho loài người!”
The Buddha has opened the door to Đức Phật đã mở cánh cửa đến Bất
the Deathless. We must entrust our faith Tử. Chúng ta phải giao phó lòng tin của
to the Buddha, Dhamma and Sangha. If mình cho Đức Phật, Đức Pháp và Đức
lack of faith persists it is impossible to Tăng. Nếu thiếu lòng tin kiên cố thì
open the door to the Deathless. Because không thể mở được cánh cửa đến Bất Tử.
of lacking faith in the Buddha, Dhamma, Bởi vì thiếu lòng tin nơi Đức Phật, Đức
and Sangha, we may sometimes think, Pháp và Đức Tăng mà đôi khi chúng ta
‘Is it really possible to attain jhāna có những suy nghĩ như là: “Thật sự có
concentration simply by focusing on the thể chứng đạt các tầng thiền chỉ với việc
breath? Or, is it really possible to see tập trung trên hơi thở à? Hay có thật là
light just by focusing on the in and out có thể thấy ánh sáng chỉ bằng cách tập
breath? These thoughts can be troubling trung trên hơi thở vào ra?” Những suy
and fill our minds with doubts. If this nghĩ này có thể làm tâm ta lo lắng và
happens, those without faith often cease tràn ngập những hoài nghi. Nếu điều này
applying themselves to practice. Their xảy ra, những ai không có lòng tin
minds become filled with doubts and thường ngưng việc tu tập của mình. Tâm
they soon are lost in thoughts and họ sẽ tràn ngập hoài nghi, sớm đắm
complaints about this and that. Such mình trong vọng tưởng và than phiền về
pervasive doubting inhibits benefits from chuyện này chuyện kia. Sự hoài nghi lan
arising in their lives. Because of this, the tràn này ngăn chặn các lợi ích phát sinh
Buddha said: trong kiếp sống của họ. Bởi vì điều này,
Đức Phật nói:
“Let those who have ears release “Hỡi những ai được nghe, hãy từ bỏ
faith; tà kiến của mình.
Foreseeing trouble, I did not preach Vì nghĩ đến mệt mỏi hoài công, này
at first; Phạm Thiên.
The excellent Dhamma for men, Ta không muốn giảng Chánh pháp
Brahma!” vi diệu cho loài người!”
We have known that after the Chúng ta biết rằng sau khi Đức
Buddha had attained enlightenment, he Phật giác ngộ, Ngài không định thuyết
was not inclined to teach the Dhamma. Pháp. Cuối cùng, sau khi được thỉnh cầu
Finally, after being asked for a third time, đến lần thứ ba, Đức Phật mới chấp nhận
our Buddha agreed to the request of the lời thỉnh cầu của vị Đại Phạm Thiên. Vì
Great Brahma. Out of oceanic lòng bi mẫn đối với chúng sinh, với Phật
150
P RO F O U N D D HA M MA P HÁ P VI D I Ệ U
compassion for all beings, he surveyed nhãn, Đức Phật nhìn quanh thế giới. Ngài
the world with his Buddha’s eye. He then thấy loại người thứ nhất, thứ hai và thứ
saw the first, second and third type of ba. Tôi đã giải thích cho quý vị về các
person. I have already given you an loại người đó. Hãy để tôi giải thích tiếp
explanation of them. Let me now explain loại người thứ tư.
the fourth type of person.
The fourth type of person (a Loại người thứ tư (Padaparama,
Padaparama-person) is one whose Hạng Văn cú tối vi) là loại người mà sự
highest attainment is an intellectual chứng đắc cao nhất mà họ có thể đạt
comprehension of the Dhamma texts. được là thông hiểu kinh điển. Mặc dù loại
Even though such persons practice the người này tu tập giới học (sīla), định học
training of morality (Sīla), the training of (samādhi) và tuệ học (pañña) từng bước
concentration (Samādhi) and the một, một cách có hệ thống và ngay cả
training of insight (Paññā) step-by-step, sau khi nghe các chỉ dẫn tóm lược hay
systematically, and even after hearing chi tiết, tuy nhiên, họ vẫn không thể
condensed instruction or detailed chứng ngộ Bốn Thánh Đế và giác ngộ
instruction, they nevertheless are not Niết-bàn (Nibbāna) trong kiếp sống này.
able to realize the Four Noble Truths and Tất cả các nỗ lực của họ là để dành cho
to see Nibbāna in this very life. All their sự giác ngộ và chứng đắc trong tương
effort is for their future realization and lai. Những gì mà họ tích lũy trong kiếp
attainment. What they have hiện tại này là kho báu mà họ sẽ mang
accumulated in this present life is the đi theo mình, như là hành trang cho
treasure that they will carry with them, chuyến hành trình đến Niết-bàn. Chính
as provisions on their journey to nhờ những điều này mà trong tương lai
Nibbāna. Because of this, they will know họ sẽ biết và thấy Pháp như nó thực sự
and see the Dhamma as it really is in là.
future lives.
What should we do if we fall into Ta nên làm những gì nếu ta rơi vào
that fourth kind of person (a loại người thứ tư (Padaparama)? Nếu ta
Padaparama)? If we are the fourth type là loại người thứ tư, hành thiền là điều
of person, meditation is indispensable. In không thể thiếu sót được. Trong trường
this case, it is especially important for us hợp này, điều đặc biệt quan trọng là ta
to practice as much meditation as we cần phải tu thiền đến mức tối đa mà ta
can in this life. It is for our future có thể làm được trong kiếp này. Điều này
realization and attainment. là để dành cho sự giác ngộ và chứng đắc
trong tương lai.
We now know the four categories of Bây giờ, chúng ta đã biết về bốn
persons mentioned in the Aṅguttara loại người được đề cập trong Kinh Tăng
Nikāya and how each type can realize Chi Bộ (Aṅguttara Nikāya) và mỗi loại
Nibbāna. People in this age, however, người có thể chứng đắc Niết-bàn như thế
are either exclusively the third type of nào. Tuy nhiên, con người trong thời đại
person, a Neyya-person, or the fourth này hoặc là loại người thứ ba, loại người
type of person, a Padaparama-person. Neyya, hoặc là loại người thứ tư, loại
(The first two types of persons are not người Padaparama. (Hai loại người đầu
present in our age.) Even though the không còn hiện diện trong thời đại của
third type of person, a Neyya-person, chúng ta). Mặc dù loại người thứ ba, loại
151
P RO F O U N D D HA M MA P HÁ P VI D I Ệ U
can realize Nibbāna through practicing người Neyya, có thể giác ngộ Niết-bàn
the three trainings, the fourth type of qua việc tu tập tam học, nhưng loại
person, a Padaparama-person, cannot. người thứ tư, loại người Padaparama, thì
lại không thể được.
Please do not feel sad if you have Xin đừng cảm thấy buồn nếu quý vị
not yet fully developed the practice of chưa hoàn toàn phát triển pháp hành
Samatha-Vipassanā. The Bodhisatta had thiền chỉ - thiền quán (Samatha –
been perfecting his Pāramis for four Vipassanā). Đức Bồ-tát đã làm viên mãn
incalculable and one hundred thousand các ba-la-mật (Pārami) của mình trong
eons in order to attain full suốt bốn a-tăng-kỳ và một trăm ngàn đại
enlightenment. It took all that time to kiếp trái đất để chứng ngộ Vô thượng
break through the Four Noble Truths for Chánh đẳng giác. Phải mất tất cả chừng
the realization of Nibbāna. This Dhamma đó thời gian để Ngài khai thông Bốn
is really profound. We must all be Thánh Đế, để chứng ngộ Niết-bàn
patient. Please take time to practice (Nibbāna). Giáo Pháp này rất thâm sâu vi
diligently and patiently. diệu. Tất cả chúng ta cần phải nhẫn nại.
Xin hãy dành thời gian để tu tập chuyên
cần và nhẫn nại.
Why are meditators here at Pa-Auk Tại sao các thiền sinh ở Rừng Thiền
Tawya Monastery instructed to develop Pa-Auk lại được dạy phát triển định? Hãy
concentration? Consider that the Buddha cân nhắc rằng chính Đức Phật, trước khi
himself, before attaining full chứng ngộ Vô thượng Chánh Đẳng Giác
enlightenment under the Bodhi tree on dưới cội cây Bồ đề vào đêm trăng rằm,
the full moon day during the first watch trong canh đầu tiên, Ngài thực hành
of the night, practiced Ānāpānasati thiền niệm hơi thở (Ānāpānasati) đến tứ
Meditation up to fourth jhāna thiền. Sau khi chứng đạt pháp đó, Ngài
concentration. When he attained that dẫn tâm, hướng tâm đến túc mạng trí
state he inclined and directed his mind (pubbenivāsānusati ñāṇa). Ngài nhớ đến
to the Knowledge of Recollection of Past các đời sống quá khứ, như một đời, hai
Life (pubbenivāsānusati ñāṇa). He đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời,
recollected his innumerable past lives, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời,
that is to say, he brought to mind and năm mươi đời, một trăm đời, hai trăm
clearly saw one birth, two births, three đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời,
births, four births, five births, ten births, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều
twenty births, thirty births, forty births, hoại và thành kiếp. Ngài nhớ lại với các
fifty births, a hundred births, a thousand nét chi tiết các kiếp quá khứ của Ngài:
births, a hundred thousand births, chẳng hạn như, tại chỗ kia, Ngài có tên
spanning many aeons of world như vầy, dòng họ như vầy, diện mạo như
contraction and world expansion. The vầy, các món ăn như vầy, thọ khổ lạc
Buddha recalled detailed specifics of his như vầy, tuổi thọ chấm dứt như vầy, cái
past life, i.e., there he was so named, of chết như vầy. Sau khi chết tại chỗ kia,
such a race, with such an appearance, Ngài thấy Ngài lại được sanh ra tại chỗ
such was his food, such his experience khác”. Như vậy Ngài nhớ đến vô số đời
of pleasure and pain, such the ending of sống quá khứ cùng với các nét đại cương
his life span, his death. Passing away và chi tiết. Ngài nhớ vô số lần Ngài đã
from there, he saw that he reappeared sanh ra và chết đi. Trong canh đầu của
152
P RO F O U N D D HA M MA P HÁ P VI D I Ệ U
elsewhere. Thus with its aspects and đêm mà Ngài chứng ngộ Vô thượng
particulars the Buddha recollected his Chánh đẳng giác, Ngài đã thấu suốt
innumerable past lives. He saw Danh và Sắc. Ngài chứng đạt Trí Phân
uncountable times when he had been Định Danh Sắc (nāma-rūpa pariccheda
born and died. During that first watch on ñāṇa).
the night of his full enlightenment he
penetrated mentality and materiality. He
attained the Knowledge of Discerning
Mentality and Materiality (nāma-rūpa
pariccheda ñāṇa).
In the second watch of the night, Trong đêm canh thứ hai, Ngài dẫn
he inclined and directed his mind to the tâm, hướng tâm đến Trí Biết Sanh Tử của
Knowledge of the Passing Away and Chúng sinh – Thiên Nhãn Thông
Reappearance of Beings (dibbacakku (dibbacakkhu ñāṇa). Với thiên nhãn
ñāṇa). With his divine eye (which is thuần tịnh siêu nhân, Ngài thấy sự sống
purified and surpasses the human eye), và chết của các chúng sinh. Ngài tuệ tri
he saw countless beings passing away rằng, vô số chúng sinh sanh ra và chết
and reappearing, inferior and superior đi, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp
beings, fair and ugly beings, happy or đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất
unhappy in their destiny. He understood hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ.
that beings reaped according to their Những chúng sinh làm những ác hạnh về
deeds. Unworthy beings who were ill- thân, ác hạnh về lời nói, ác hạnh về ý,
behaved in body, speech and mind, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến,
beings who were revilers of Noble Ones, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người
wrong in their views, who acquired này, sau khi thân hoại mạng chung, phải
kamma due to wrong views, suffer, on sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa
the break up of the body after death, ngục. Còn những chúng sinh nào thành
and appear in a state of loss, in an tựu những thiện hạnh về thân, thành tựu
unhappy destiny, in perdition, in hell. But những thiện hạnh về lời nói, thành tựu
worthy beings who are well-behaved in những thiện hạnh về ý, không phỉ báng
body, speech and mind, who are not các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các
revilers of Noble Ones, who are right in nghiệp theo chánh kiến, những người
their views, who acquire kamma due to này, sau khi thân hoại mạng chung, được
right view, do not suffer on the break up sanh lên các thiện xứ, cõi Trời, trên đời
of the body after death. These beings này. Như vậy với thiên nhãn thuần tịnh
appear in a happy destiny, in the siêu nhân, Ngài thấy sự sống chết của
heavenly worlds. Thus with his divine chúng sinh. Ngài tuệ tri rằng, chúng
eye, the Buddha saw beings passing sinh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người
away and reappearing, inferior and đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ
superior beings, fair and ugly beings, bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ.
happy or unhappy in their destiny. He Với thiên nhãn, Ngài tuệ tri các chúng
understood that beings reaped according sinh sanh ra và chết đi như thế nào.
to their deeds. He perceived with his Ngôn ngữ Pāḷi gọi đó là cutupapāta
divine eye the knowledge of how beings ñāṇa, Sanh Tử Trí. Khi Đức Phật tập trung
are born and die. The Pāḷi word for this is một cách chính xác đến cách mà chúng
cutupapāta ñāṇa, the Knowledge of Birth sinh được sanh ra ở cõi lành hay cõi khổ,
and Death. When the Buddha focused on Ngài chứng đạt Trí Phân Biệt Nhân Duyên
153
P RO F O U N D D HA M MA P HÁ P VI D I Ệ U
154
P RO F O U N D D HA M MA P HÁ P VI D I Ệ U
‘What conditions clinging?’ Through “Do duyên gì, thủ phát sinh?”. Rồi
careful attention the realization dawned Ta, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát
on me: ‘Craving conditions clinging’. sinh minh kiến sau đây: “Do ái có mặt,
thủ mới phát sinh”.
‘What conditions craving?’ Through “Do duyên gì, ái phát sinh?” Rồi Ta,
careful attention the realization dawned sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát
on me: ‘Feeling conditions craving’. sinh minh kiến sau đây: “Do duyên thọ,
ái phát sinh”.
‘What conditions feeling?’ Through “Do duyên gì, thọ phát sinh?” Rồi
careful attention the realization dawned Ta, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát
on me: ‘Contact conditions feeling’. sinh minh kiến sau đây: “Do duyên xúc,
thọ phát sinh”.
‘What conditions contact?’ Through “Do duyên gì xúc phát sinh?” Rồi
careful attention the realization dawned Ta, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát
on me: ‘The six-sense-bases condition sinh minh kiến sau đây: “Do duyên lục
contact’. “ nhập, xúc phát sinh”.
‘What conditions the six sense- “Do duyên gì, lục nhập phát sinh?”
bases?’ Through careful attention the Rồi Ta, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ
realization dawned on me: ‘Mentality phát sinh minh kiến sau đây: “Do duyên
and materiality conditions the six sense- danh sắc, lục nhập phát sinh”.
bases’.
‘What conditions mentality and “Do duyên gì, danh sắc phát sinh?”
materiality?’ Through careful attention Rồi Ta, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ
the realization dawned on me: phát sinh minh kiến sau đây: “Do duyên
‘Consciousness conditions mentality and thức, danh sắc phát sinh”.
materiality’.
‘What conditions consciousness?’ “Do duyên gì, thức phát sinh?” Rồi
Through careful attention the realization Ta, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát
dawned on me: ‘Volitional formations sinh minh kiến sau đây: “Do duyên hành,
condition consciousness’. thức phát sinh”.
‘What conditions volitional “Do duyên gì, hành phát sinh?” Rồi
formations?’ Through careful attention Ta, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát
the realization dawned on me: sinh minh kiến sau đây: “Do duyên vô
‘Ignorance conditions volitional minh, hành mới phát sinh”.
formations’.
‘Origination, origination’ - thus, “Tập khởi, tập khởi” - này các Tỷ-
bhikkhus, in regard to things unheard kheo, từ nơi Ta, khởi sinh pháp nhãn từ
before there arose in me vision, trước chưa từng được nghe, trí sanh, tuệ
knowledge, wisdom, true knowledge and sanh, minh sanh, ánh sáng sanh.
light”.
Then our Bodhisatta directed Rồi Đức Bồ-tát (Bodhisatta) dẫn
careful attention to cessation. tâm, hướng tâm đến sự diệt.
“Then, bhikkhus, it occurred to me: “Này các Tỷ-kheo, rồi Ta suy nghĩ:
‘When what does not exist, does aging “Do cái gì không có mặt, già chết không
155
P RO F O U N D D HA M MA P HÁ P VI D I Ệ U
and death not come to be? With the có mặt? Cái gì diệt, già chết diệt?””
cessation of what, comes the cessation
of aging and death?’
Through careful attention the Rồi Ta, sau khi như lý tư duy, nhờ trí
realization dawned on me: ‘When there tuệ phát sinh minh kiến sau đây: “Do
is no birth, aging and death does not sanh không có mặt, già chết không có
come to be; with the cessation of birth mặt, do sanh diệt, già chết diệt”.
comes cessation of aging and death’.
‘With the cessation of becoming “Do hữu diệt nên sanh diệt”.
comes cessation of birth’.
‘With the cessation of clinging “Do thủ diệt nên hữu diệt”.
comes cessation of becoming’.
‘With the cessation of craving “Do ái diệt nên thủ diệt”.
comes cessation of clinging’.
‘With the cessation of feeling “Do thọ diệt nên ái diệt”.
comes cessation of craving’.
‘With the cessation of contact “Do xúc diệt nên thọ diệt”.
comes cessation of feeling’.
‘With the cessation of the six- “Do sáu xứ diệt nên xúc diệt”.
sense-bases comes cessation of
contact’.
‘With the cessation of mentality “Do danh sắc diệt nên lục nhập
and materiality comes cessation of the diệt”.
six-sense-bases’.
‘With the cessation of “Do thức diệt nên danh sắc diệt”.
consciousness comes cessation of
mentality and materiality’.
‘With the cessation of volitional “Do hành diệt nên thức diệt”.
formations comes cessation of
consciousness’.
‘With the cessation of ignorance “Do vô minh diệt nên hành diệt”.
comes cessation of volitional
formations’.
‘With the cessation of ignorance “Do vô minh diệt nên hành diệt, do
comes cessation of volitional formations, hành diệt nên thức diệt,… Như vậy là sự
with the cessation of volitional đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này”.
formations comes cessation of
consciousness,… Such is the cessation of
this whole mass of suffering’.
‘Cessation, cessation - thus, “Ðoạn diệt, đoạn diệt” - này các Tỷ-
bhikkhus, in regard to things unheard kheo, đối với các pháp từ trước chưa
before there arose in me vision, từng được nghe, chính nơi Ta nhãn khởi
knowledge, wisdom, true knowledge, lên, trí khởi lên, tuệ khởi lên, minh khởi
156
P RO F O U N D D HA M MA P HÁ P VI D I Ệ U
To get a specific degree, we all Để có một bằng cấp cụ thể nào đó,
have attended primary school, chúng ta phải đi học ở các trường tiểu
secondary school, high school, college học, trung học cơ sở, trung học phổ
and university, one after another. thông, cao đẳng và đại học, lần lượt từng
trường một.
To realize Nibbāna, let us attend the Để chứng ngộ Niết-bàn (Nibbāna),
schools of insight-knowledge one after chúng ta hãy theo học các trường minh
another. sát trí lần lượt từng trí một.
May you all attain insight- Cầu chúc tất cả quý vị chứng đạt
knowledge. May you all practice step-by- minh sát trí. Cầu chúc tất cả quý vị tu
step, systematically, for the realization tập từng bước một, một cách có hệ
of Nibbāna, the peace. thống để chứng ngộ Niết-bàn, tịnh lạc.
Sādhu! Sādhu! Sādhu! Lành Thay! Lành Thay! Lành Thay!
The talk given on Sunday, Bài Pháp được thuyết vào Chủ Nhật,
18th December 2005 at Pa-Auk Tawya in Ngày 1 tháng 1 năm 2006 tại Pa Auk
Myanmar. Tawya, Myanmar.
158
What One Wants to Do
The questions to be asked… Những câu hỏi cần được đặt ra...
There are two questions that one Có hai câu hỏi mà một người cần
needs to ask: đặt ra:
1. What does one want to do? 1. Ta muốn làm những gì?
2. What is it that one is doing? 2. Ta đang làm những gì?
When one has the answer to those Người nào có lời giải đáp cho hai
two questions they will know whether or câu hỏi này thì họ sẽ biết những gì họ
not what they want to do and what they muốn làm và những gì họ đang làm có
are doing are in agreement. phù hợp với nhau hay không.
People need to know what it is they Để tìm hiểu xem các hành động và
want to do along with what it is they are ước muốn có đi đôi với nhau hay thực sự
doing, in order to understand whether hoàn toàn khác biệt với nhau, mọi người
their actions and desires are in cần phải biết được họ muốn làm gì và họ
conformity or at variance with each đang làm những gì.
other.
Each of us is at all times doing one Mỗi chúng ta vào mọi lúc đều đang
thing or another. We see that there are làm cái gì đó. Phần lớn những người
those among us who are mainly engaged trong chúng ta bận rộn với các vấn đề
in worldly matters. Others are more thế gian. Một số thì dính líu cả vấn đề
involved with a combination of both thế gian lẫn tôn giáo. Và cũng có những
worldly and religious concerns. And người mà mối quan tâm và mục đích
there are some whose main interest and chính của họ trong đời sống là giải thoát
purpose in life is liberation from the khỏi thế giới của sự hiện hữu. Trong bất
160
W HAT O N E W ANTS TO DO N H Ữ NG VI Ệ C M ỘT N GƯỜI M U Ố N L ÀM
world of existence. Regardless of what cứ hoạt động mà chúng ta tham gia, mỗi
kind of activity we are engaged in, each người luôn cần biết mình có thực sự
person needs to know if they are in fact đang làm điều mình muốn làm hay
doing what they want to do. Some không. Có những người biết điều này,
people are, but there are others who are nhưng có những người không nhận thức
not aware of whether their desired được hành động và ước muốn của họ có
objectives are in accord with their đi đôi với nhau hay không.
actions.
Should we try to do what we want Ta nên cố gắng làm những điều ta
to do or should we strive to do what muốn làm hay nên cố gắng làm những
ought to be done? These are two việc cần phải làm? Đây là hai câu hỏi
important questions that also need to be hết sức quan trọng nữa cũng cần được
asked. We discover, in answering them, đặt ra. Trong khi trả lời ta khám phá ra
that in order to do what we want to do rằng, để thực hiện được điều ta muốn
we must first of all do what we should làm thì trước hết ta phải thực hiện điều
do. By doing what we should do, we ta cần làm. Bằng cách làm những việc
fulfill the prerequisite for doing that cần làm ấy, chính là ta đang thực hiện
which we want to do. We have to các tiền đề cho điều ta muốn làm. Chúng
cultivate perseverance, tolerance and ta phải vun trồng tính kiên nhẫn, bao
patience in order to really do that which dung và nhẫn nại để thực sự làm điều
we want to do. In other words, we have mà ta muốn làm. Nói cách khác, chúng
to train the mind. ta phải rèn luyện tâm mình.
161
W HAT O N E W ANTS TO DO N H Ữ NG VI Ệ C M ỘT N GƯỜI M U Ố N L ÀM
162
W HAT O N E W ANTS TO DO N H Ữ NG VI Ệ C M ỘT N GƯỜI M U Ố N L ÀM
nobility in us nor can they help us make không tạo ra sự cao thượng nào trong
progress towards the goal of liberation. chúng ta mà cũng không giúp ta tiến
đến mục tiêu giải thoát.
The Lord Buddha created the Đức Phật thành lập Tăng đoàn
Sangha solely for the well-being and (Saṅgha) vì hạnh phúc và lợi ích của
benefit of those who, with determination, những ai quyết tâm phấn đấu cho sự giải
strive for liberation through noble thoát bằng cách tu tập đời sống phạm
practice in life. For that reason all hạnh. Vì lý do đó, tất cả các sự cách biệt
disparities and distinctions in race, và phân biệt về chủng tộc, đẳng cấp, vóc
caste, stature and affluence have dáng và tài sản nhất thiết phải bị nhổ bỏ
necessarily been eradicated within the tận gốc rễ trong Tăng Đoàn. Những ai
Sangha. Those who enter the monkhood bước vào đời sống tu sỹ với đầy đức tin
filled with magnanimity and faith, and và lòng cao thượng, thoát khỏi thành
free from prejudice, are en-route to their kiến, là đang trên đường đi đến đích, đến
destination and goal – liberation. In the mục tiêu của mình - sự giải thoát. Trong
Sangha, all bhikkhus are equally Tăng đoàn, tất cả các Tỷ-kheo đều được
venerated as monks of the Sakkya clan. tôn kính như nhau với tư cách là các tu sĩ
Their fellowship is one in which no thuộc dòng họ Sakya (Thích Ca). Trong
discrimination is replaced by seniority tình đoàn kết bằng hữu của họ, sự phân
and mutual respect. biệt đối xử được thay thế bằng sự tôn
kính lẫn nhau dựa theo thâm niên (hạ
lạp).
On the march towards liberation, Trong cuộc hành quân đến sự giải
the course that we follow needs to be thoát, con đường mà chúng ta đi cần
the same. Without following the same giống nhau. Nếu không theo cùng con
course, the ultimate goal cannot be the đường thì mục tiêu tối hậu không thể
same. nào giống nhau.
Because we know that several Bởi vì chúng ta biết rằng nhiều vị
Omniscient Buddhas formerly achieved Phật Toàn Giác trước đây đã thành tựu
the goal of enlightenment, we know that mục tiêu giác ngộ, chúng ta biết rằng
the way to enlightenment already exists. con đường giác ngộ đã có sẵn. Điểm đặc
The distinctive feature here is that the biệt ở đây là con đường hay tiến trình
way or course to enlightenment is the đến giác ngộ là giống nhau. Những ai có
same. Those who share the goal of cùng mục tiêu giác ngộ cũng khám phá
enlightenment, also discover that they rằng họ có cùng con đường hay tiến trình
share the same way or course to tiến đến giác ngộ – đó là con đường cao
enlightenment – that noble way which thượng mà mỗi người phải đi theo để
one must adopt in order to reach that đến được mục tiêu cao thượng.
noble goal.
There is a state wherein the Có một trạng thái mà ở đó các khổ
suffering of old age, illness, and death, đau như già, bệnh, chết cũng như tất cả
as well as all other kinds of suffering các loại khổ đau khác bị ngừng tồn tại.
cease to exist. There is, too, the practice Cũng có phương pháp tu tập và con
and the course by which one can reach đường mà theo đó người ta có thể sang
the yonder shore of Nibbāna where all đến bờ Niết-bàn (Nibbāna) bên kia, nơi
forms of suffering completely cease to mà tất cả các khổ đau hoàn toàn bị diệt
163
W HAT O N E W ANTS TO DO N H Ữ NG VI Ệ C M ỘT N GƯỜI M U Ố N L ÀM
exist. This is called ‘The Practice of the tận. Đây gọi là “Sự Tu Tập Thánh Đạo
Eightfold Noble Path’. Nibbāna is Tám Ngành”. Niết-bàn (Nibbāna) chỉ có
accessible only when this practice and thể đến được khi nào sự tu tập và con
this course are in concurrence with each đường (Đạo) này đi đôi với nhau. Nếu hai
other. If these two do not accord, điều này không phù hợp nhau, thì không
Nibbāna is unattainable. Nibbāna cannot thể chứng đắc được Niết-bàn. Niết-bàn
be perceived by anyone without không thể được chứng đạt bởi những
following this practice and this course. người không theo sự tu tập và con đường
We see in this practice and the pursuit of này. Chúng ta thấy rằng bằng việc tu tập
this course that one is, in fact, doing và theo đuổi con đường này, trên thực tế
what ought to be done. chính là ta đang làm việc cần phải làm.
164
W HAT O N E W ANTS TO DO N H Ữ NG VI Ệ C M ỘT N GƯỜI M U Ố N L ÀM
meditation, wherein one contemplates sát – tức giai đoạn thiền sinh quán sát
the three characteristics of conditioned tam tướng của pháp hữu vi là vô thường
things as impermanence (anicca), (anicca), khổ (dukkha) và vô ngã
suffering (dukkha) and non-self (anatta), (anatta), chỉ có thể khởi sinh sau khi
can only arise after one develops thiền sinh đã tu tập định. Sự viên mãn
concentration. The perfection of định ở đây có nghĩa là thiền sinh đang
concentration means here that one is làm việc cần phải làm. Nhờ định, thiền
doing that which ought to be done. sinh cuối cùng có thể thấy rõ trực tiếp
Because of concentration, one is danh - sắc chân đế. Khi có thể thấy rõ
eventually able to directly discern danh - sắc chân đế, thiền sinh có thể
ultimate mentality and materiality. When thực hành thiền minh sát một cách hiệu
one is able to discern ultimate mentality quả. Chỉ sau khi minh sát trí chín muồi
and materiality, they can practice insight thì thiền sinh mới có thể chứng ngộ
meditation effectively. Only after insight trạng thái an tịnh vô thượng của Niết-
knowledge matures can one realize the bàn. Như vậy, sự tu tập một cách có hệ
truly tranquil state of Nibbāna. Thus, to thống pháp hành giới, định và tuệ có
systematically develop the practices of nghĩa là “làm việc cần phải làm” để vươn
Sīla, Samādhi, and Paññā means that tới mục tiêu tối hậu là Niết-bàn
one is ‘doing what ought to be done’ in (Nibbāna).
order to reach the ultimate goal which is
Nibbāna.
The only way to arrive at the Con đường duy nhất để đến mục
ultimate goal is to make the powerful tiêu tối hậu là lập quyết tâm mãnh liệt
resolve to achieve one’s deepest desire để thực hiện thành tựu ước nguyện sâu
and then to place that resolve in the thẳm nhất của mình và rồi đưa quyết
forefront of one’s mind. When one acts tâm đó lên hàng đầu. Khi thiền sinh làm
motivated by this resolve they are, in điều gì thúc đẩy bởi động cơ quyết tâm
effect, doing what ought to be done. này, trên thực tế, chính là làm việc cần
phải làm.
Human beings are in general doing Con người nói chung đang làm việc
what they ought to do in order to survive cần phải làm chỉ nhằm để tồn tại trong
in society. But simply doing what needs xã hội. Nhưng đơn thuần làm việc cần
to be done, in order to ‘survive’, does phải làm để “tồn tại” không có nghĩa là
not mean that one is automatically then tự động sau đó một người có thể làm
able to do what they want to do. This is điều họ muốn làm. Đó là do hầu hết mọi
because most people don’t yet have the người chưa có cơ hội làm điều họ thật sự
opportunity to do what they really want muốn làm.
to do.
Those who are practicing in order Những ai đang tu tập để giải thoát
to be liberated are also doing what they cũng đang làm điều họ cần làm. Họ tu
need to do. They practice because of tập vì ước nguyện sâu thẳm được giải
their deep desire to be liberated from thoát khỏi sự hiện hữu, và với chủ tâm
existence, with the purpose of fulfilling thực hiện ước nguyện đó. Đây chính xác
that desire. This is doing exactly what là làm việc cần phải làm để ước nguyện
ought to be done so that their desire is được thành tựu. Song trong trường hợp
fulfilled. In this case, however, doing này, làm việc cần phải làm đem lại điều
165
W HAT O N E W ANTS TO DO N H Ữ NG VI Ệ C M ỘT N GƯỜI M U Ố N L ÀM
what ought to be done gives rise to what được ước muốn. Nên hiểu là như vậy.
is desired. That is how it should be
understood.
Obviously, the ‘wanting’ that arises Rõ ràng, “muốn” sinh khởi từ tham
from greed and covetousness is not the ái và ước nguyện thì không giống với
same as the ‘wanting’ that arises out of “muốn” sinh khởi từ sự khao khát giải
the desire for liberation. thoát.
166
W HAT O N E W ANTS TO DO N H Ữ NG VI Ệ C M ỘT N GƯỜI M U Ố N L ÀM
of indulging the defilements of mind. thân đã dẫn ông rơi xuống. Đó là một
trường hợp dễ duôi chiều theo các phiền
não ô nhiễm trong tâm.
167
W HAT O N E W ANTS TO DO N H Ữ NG VI Ệ C M ỘT N GƯỜI M U Ố N L ÀM
wants to do a particular thing. In the rằng mình muốn làm cụ thể điều gì.
past, there were people who understood Trong quá khứ, có những người hiểu biết
this. They consciously did what needed điều này. Họ chủ ý làm những gì cần phải
to be done for that very reason. There làm cho chính mục tiêu đó. Có những
are people in the world today who also người ở thời đại ngày nay cũng hiểu điều
understand this, and there will be such này, và cũng sẽ có những người như thế
people in the future, as well. trong tương lai.
hatred and delusion - lead another way. sân si dẫn đi một đường khác. Một đường
One way leads to freedom. The other dẫn đến sự tự do. Đường kia dẫn đến sự
way leads to suffering. Although no one đau khổ. Mặc dù không ai được dạy các
is taught the formal skills of greed, kỹ năng chính quy về tham, sân, si cũng
hatred or delusion, as goals in như các mục tiêu của chúng, nhưng các
themselves, these base characteristics đặc tính căn bản này lại đan xen vào kết
are so interwoven into the fabric of cấu của đời sống thế gian đến nỗi có vẻ
worldly life it seems almost as though như là chúng đã trở thành một khuynh
they have become a worldly aptitude in hướng của thế giới theo quyền của riêng
their own right. Thus, caught in their chúng. Vì vậy, bị bắt trong vòng kẹp của
grip, people tread the path of suffering, chúng, mọi người bước đi trên con đường
as they make their journey through life. đau khổ trong chuyến hành trình đi suốt
Because of the base nature and quality cuộc đời. Do bản chất tự nhiên và đặc
of these defilements, most people tính căn bản của phiền não ô nhiễm, hầu
commit one transgression after another. hết mọi người vi phạm hết tội này đến lỗi
Greed, hatred and delusion can be so khác. Tham, sân và si có thể thật quá
blinding and deceptive! That is the che đậy và lừa bịp! Đó là lý do tại sao
reason why the Buddha said: Đức Phật nói:
“He who is clothed in greed is “Kẻ bị che phủ bởi tham ái thì
unaware of goodness”. không biết điều tốt”.
“He who is wrapped in hatred is “Kẻ bị bao bọc bởi sân hận thì
unaware of goodness”. không biết điều tốt”.
“He who is immersed in delusion is “Kẻ bị chìm đắm trong si mê thì
unaware of goodness”. không biết điều tốt”.
The Buddha declared that greed, Đức Phật tuyên bố rằng tham, sân
hatred and delusion cloud one’s vision. và si che sầm tầm nhìn của con người.
They have the power to blind us so that Chúng có sức mạnh làm ta mù lòa khiến
we cannot even recognize the issue at ta thậm chí không thể nhận biết hậu quả
hand and know or see our own trước mắt lẫn biết hay thấy sự vi phạm
transgressions. của chính mình.
senses, are the pleasures and joys of dục lạc là thứ mà con người điên cuồng
sensuality. It is these sensual pleasures theo đuổi không ngơi nghỉ.
that people endlessly and madly pursue.
The desire to enjoy such pleasures Thèm muốn tận hưởng dục lạc này
has so overwhelmed humans that it quá áp đảo con người đến nỗi nó có thể
could accurately be termed ‘that which được đặt tên chính xác là “điều mà họ
they want to do’. Sadly, the forces of muốn làm”. Đáng buồn thay, sức mạnh
greed, hatred and delusion blind most của tham ái, sân hận và si mê đã làm lòa
people. These defilements are further mắt hầu hết tất cả mọi người. Các phiền
reinforced by the values of society at não này được củng cố hơn nữa bởi các
large; values rooted in greed, hatred and giá trị xã hội nói chung - các giá trị bắt
delusion. The craving for gratification nguồn từ tham, sân và si. Tham muốn
and sensual pleasures feels completely thỏa mãn các dục lạc được cho là hoàn
natural to most people; so much so, that toàn tự nhiên đối với hầu hết mọi người,
they actually come to believe that đến mức độ mà họ thực sự đi đến chỗ tin
satisfying their craving is really ‘that rằng làm thoả mãn sự thèm muốn hưởng
which they want to do’. This erroneous thụ các dục trong họ chính là “điều mà
belief often changes once they recognize họ muốn làm”. Niềm tin sai lầm này
the inherent danger in pursuing such a thường thay đổi một khi họ nhận ra
course of action. But for those who những hệ lụy hiểm nguy khi theo đuổi
continue to revel in the pleasures of the cách sống đó. Nhưng với những ai tiếp
senses, life is never enough. tục vui chơi trong các khoái lạc của dục
trần, cuộc sống không bao giờ là đủ.
171
W HAT O N E W ANTS TO DO N H Ữ NG VI Ệ C M ỘT N GƯỜI M U Ố N L ÀM
172
W HAT O N E W ANTS TO DO N H Ữ NG VI Ệ C M ỘT N GƯỜI M U Ố N L ÀM
they want, they tend to be sad. They họ muốn, họ có xu hướng buồn bã. Họ
lament and grieve and this is suffering. than khóc, đau buồn và đây chính là khổ.
Suffering, in this instance, begins with Đau khổ, trong trường hợp này, bắt
the craving for sensual pleasures. nguồn bằng sự tham ái thọ hưởng các
dục lạc.
Suffering results not only from Đau khổ không chỉ bởi ham muốn
craving for sensual pleasures, but also đối với dục lạc mà kể cả khi có được dục
from attaining them. Once the sought lạc. Một khi ta đã đạt được các dục lạc
after pleasures are attained, how can we mà ta luôn tìm kiếm, làm thế nào để giữ
hold on to them? We are almost mãi chúng đây? Ta gần như ngay lập tức
immediately troubled by the fear of bồn chồn vì lo sợ mất chúng, nên ta lo
losing them, so we worry and fret and lắng, băn khoăn và bám víu kinh khủng
desperately cling to that which we think vào cái mà ta nghĩ rằng chúng cho ta
gives us pleasure. This, too, is suffering. niềm vui. Đây cũng chính là đau khổ.
Liberation from the anguish and Tu tập hạnh xả ly chính là sự giải
suffering of sensuality is the practice of thoát khỏi đau đớn và khổ não gây ra bởi
renunciation. dục lạc.
suffering. Our bodies are composed of đau khổ. Con người của chúng ta được
the five clinging aggregates. These tạo bởi năm thủ uẩn. Các uẩn là gánh
aggregates are our human burden. Who nặng của loài người chúng ta. Ai mang
carries this burden? We do. As long as gánh nặng này? Chúng ta mang. Chừng
we carry the burden of sensuality, we nào chúng ta còn mang gánh nặng dục,
suffer. Just having a body is already a chúng ta còn phải khổ đau. Chỉ cần có
heavy burden. To take on the added một thân xác đã là một gánh nặng. Gánh
responsibilities of relationships and of vác thêm các trách nhiệm đối với các
owning and maintaining material mối quan hệ, với việc sở hữu và bảo trì
possessions is too much extra burden for tài sản quả là thêm gánh nặng cho một
one to carry. It is almost beyond one’s người. Thật quá sức để một người có thể
capacity to bear this extra burden. chịu đựng thêm gánh nặng này. Khối
Expanding clouds of defilements appear phiền não ô nhiễm bành trướng xuất
to act as a tonic to aid in supporting that hiện để hoạt động như một liều thuốc bổ
burden. They seem to be urging us, “Go làm tăng cường thêm gánh nặng. Chúng
ahead and do it! Take it”. As if it were dường như thúc giục ta, “Tiến lên và làm
not enough just bearing one’s own đi! Mang nó đi!” Lại nữa, có vẻ như
defilements, they seem to be urging us chúng ta chưa có đủ phiền não hay sao
to bear the defilements of others, too. In ấy, chúng còn thúc giục ta gánh thêm
any case, this is asking for suffering and phiền não của những kẻ khác. Trong bất
hardship. It is surely not inviting peace kỳ trường hợp nào, đây chính là hướng
and tranquility. tới đau khổ và khó khăn. Chắc chắn điều
đó không mời gọi sự an tịnh và thanh
bình.
People think that sensuality is the Con người nghĩ rằng hưởng thụ
highest form of pleasure but we see that nhục dục là hình thức cao nhất của khoái
it is suffering. On the other hand, people lạc, nhưng chúng ta thấy nó đau khổ.
think that renunciation is suffering when Mặt khác, mọi người nghĩ rằng xả ly là
it is exactly the opposite. Renunciation đau khổ trong khi nó là ngược lại. Xả ly
leads to delight. It is a state of being đưa đến sự hoan hỷ. Nó là một trạng thái
filled with ecstasy and rapture. It is, in đầy ngất ngây và sung sướng vô ngần.
fact, the way to the highest pleasure. It Thực tế, nó là con đường đi đến sự an lạc
is true bliss. tối thượng. Đó là chân hạnh phúc.
174
W HAT O N E W ANTS TO DO N H Ữ NG VI Ệ C M ỘT N GƯỜI M U Ố N L ÀM
sincerely wishes to be free from lúc nào. Thông qua sự thực hành hạnh
suffering. Through the practice of xả ly, cuối cùng rồi một người có thể xua
renunciation, one is finally able to dispel tan đám sương mù của tất cả các phiền
the fog of defilements once and for all. não ô nhiễm một lần.
Let me explain with the following Hãy để tôi giải thích bằng các ví dụ
example: sau đây:
There are two trees. One is Có hai cái cây. Một cây thì không có
fruitless. The other is fruitful. The latter quả. Cây kia thì sai quả. Cây sau nặng
is heavy with ripe juicy fruit, which is the trĩu với đầy quả chín mọng, tức là đối
object of human sensuality. Such a tree tượng dục của con người. Cây này hấp
attracts those desirous of its fruits. It is dẫn những ai thèm muốn quả của nó.
true that the fruit of sensuality is indeed Đúng là quả của dục trông thực sự xinh
beautiful to behold. People will do almost đẹp. Con người sẽ làm hầu như bất kỳ
anything to get at it. They will pick the điều gì để có được nó. Trong khi cố gắng
tree bare and ruthlessly throw sticks and nhằm có được các quả nằm ở ngoài tầm
stones at it, in an attempt to get at the với, họ sẽ làm cây trơ trụi bằng cách
fruits that are out of reach. Soon enough không ngừng ném gậy và đá vào nó.
that tree is stripped of its beauty. Chẳng bao lâu cái cây bị vặt trụi hết vẻ
đẹp của nó.
The simple beauty of a tree without Tuy nhiên, vẻ đẹp đơn giản của cây
fruit, however, becomes more apparent không ra quả trở nên rõ ràng hơn khi mà
when the fruit-bearing tree gets cây sai quả đã bị phá hại. Khi một người
damaged. When one begins to trust that bắt đầu tin tưởng rằng cuộc sống chẳng
a life with nothing is a worthy life, then có sở hữu gì là một cuộc sống có giá trị,
true peace is at hand. This is the life of lúc đó bình an thật sự nằm trong tay.
one who is practicing renunciation. Đây là cuộc sống của người thực hành
hạnh xả ly.
continue to accumulate so much gián đoạn, chúng sinh liên tục tích lũy
unwholesome kamma. When their rất nhiều nghiệp bất thiện. Khi nghiệp
unwholesome kamma ripens, it can be bất thiện của họ chín muồi, nó có thể là
as if waters rise, fires flare up and nước dâng, lửa cháy và các thế lực thiên
frightening inanimate entities threaten nhiên đáng sợ đe dọa chết chóc và hủy
death and destruction – as though those diệt – làm như thể các thế lực thiên
entities actually possessed a life of their nhiên này thật sự có sự sống vậy. Đây là
own. This is the suffering that arises đau khổ phát sinh bởi tham ái và chấp
from craving and clinging rooted in thủ bắt nguồn từ dục. Vì lý do này, sự
sensuality. For this reason, the dangers nguy hiểm của dục cần phải được xác
of sensuality need to be identified, định, thấy rõ và loại trừ ngay.
discerned and eradicated outright.
176
W HAT O N E W ANTS TO DO N H Ữ NG VI Ệ C M ỘT N GƯỜI M U Ố N L ÀM
Human beings are slaves to lust Con người là nô lệ cho tham lam và
and craving, tormented by the ái dục, bị dày vò bởi các phiền não ô
defilements of their own mind. They nhiễm trong chính tâm mình. Họ không
cannot see the ways in which they cater thể nhìn thấy cách mà họ phục vụ cho
to the whims of their own untrained các ý thích bất chợt của cái tâm chưa
mind. What’s more, they identify with được rèn luyện của chính mình. Hơn nữa,
their defilements. Their ego accepts as họ đồng nhất họ với phiền não ô nhiễm
true the mistaken belief that, “I, myself, của chính họ. Bản ngã của họ chấp nhận
am greed; I, myself, am hatred; I, như thật niềm tin sai lầm rằng, “Ta, tự
myself, am delusion”. In other words, ngã của ta, là tham ái; ta, tự ngã của ta,
they believe that they and their là sân hận; ta, tự ngã của ta, là si mê”.
defilements are one and the same. So, Nói cách khác, họ tin rằng họ và các
instead of leading their mind, such phiền não ô nhiễm của họ là một và như
people are being led by their mind. They nhau. Vì vậy, thay vì dẫn dắt tâm mình,
are being manipulated by ignorance. những người đó lại đang bị dẫn dắt bởi
This is suffering. cái tâm của họ. Họ đang bị điều khiển
bởi sự vô minh. Đây là khổ đau.
177
W HAT O N E W ANTS TO DO N H Ữ NG VI Ệ C M ỘT N GƯỜI M U Ố N L ÀM
inaudible. In order to penetrate the những gì không thể nghe. Để thấu suốt
truth, one must be capable of perceiving chân lý, con người phải có khả năng
that which lies beyond what can merely nhận thức được những gì nằm ngoài
be seen or heard. One must not remain những cái có thể thấy hoặc nghe được.
solely dependent upon the visible and Con người không thể chỉ phụ thuộc duy
the audible. nhất vào những điều chỉ thấy được và
nghe được.
We know that self-aggrandizement Chúng ta nên biết rằng việc phóng
for the sake of being seen or heard has đại bản thân để được mọi người thấy và
kammic consequences. However, the biết tới mình sẽ có nghiệp quả của nó.
value of life cannot be elevated with an Tuy nhiên, giá trị của cuộc sống không
irrational mentality that is only thể được làm cho cao nhã bởi một tinh
concerned with superficial worldly thần cạn cợt chỉ quan tâm đến lớp vỏ vật
appearances. Kamma does not cease to chất bên ngoài. Nghiệp không dừng hoạt
operate just because of pleasant động chỉ vì vẻ ngoài đáng yêu và âm
appearances and harmonious sounds. thanh du dương. Chắc chắn rằng giá trị
Surely, life’s value is not to conform to a cuộc sống không phải là chiều theo một
world that is only interested in thế giới chỉ quan tâm đến các vẻ bề
superficial appearances and hearsay. It ngoài hời hợt và những lời đồn. Chẳng có
isn’t at all important whether one is chút quan trọng nào về việc một người
acclaimed and recognized by the world. có được ca ngợi và công nhận trên thế
On the other hand, it is essential to be giới hay không. Trái lại, phải biết rõ chân
cognizant of the truth. lý mới thật là điều cần thiết.
178
W HAT O N E W ANTS TO DO N H Ữ NG VI Ệ C M ỘT N GƯỜI M U Ố N L ÀM
done in order to attain that which is truly cách dẫn dắt tâm chứ không phải để tâm
desired. It is leading the mind rather dẫn dắt. Tiến trình này là một sự biểu
than being led by the mind. The process hiện của trí tuệ.
is an expression of wisdom.
our suffering. Craving for the sensual gây đau khổ cho chúng ta. Mà chính lòng
pleasures of sight, sound, smell, taste ham muốn đối với dục lạc về hình sắc,
and touch is what causes our suffering. âm thanh, mùi hương, vị nếm và xúc
As long as craving exists, our never- chạm gây ra đau khổ cho chúng ta.
ending journey through saṃsāra shall Chừng nào lòng ham muốn đó còn tồn
continue. tại, cuộc hành trình bất tận trong luân
hồi của chúng ta vẫn còn tiếp diễn.
180
W HAT O N E W ANTS TO DO N H Ữ NG VI Ệ C M ỘT N GƯỜI M U Ố N L ÀM
sensitivities also originate from their kinh còn lại cũng bắt nguồn từ các tham
respective cravings and kamma. ái tương ứng và nghiệp.
Forms and appearances are sought Các hình thể và các biểu hiện hình
after because of eye-sensitivity, which dạng được truy tầm nhờ thần kinh mắt,
arises from kamma and springs from vốn phát sinh từ nghiệp và phát xuất từ
craving to perceive visible objects. In the sự tham muốn nhận biết các đối tượng
same way, sounds are sought after hình sắc. Theo cùng một cách, âm thanh
because of ear-sensitivity, which arises được truy tầm nhờ sắc thần kinh tai,
from kamma and springs from craving to phát sinh từ nghiệp và phát xuất từ tham
perceive auditory objects. muốn nhận biết các đối tượng âm thanh.
Liberation is not possible unless Giải thoát là điều không thể xảy ra
human beings are able to give up the trừ khi con người có thể từ bỏ quan niệm
foolish notion and belief that ‘this is và niềm tin si mê rằng “đây là những gì
what I want to see’ [rather than what the tôi muốn xem” [thay vì là những gì thần
eye-sensitivity desires to see]; ‘this is kinh nhãn muốn xem]; “đây là những gì
what I want to hear’ [rather than what tôi muốn nghe” [thay vì là những gì thần
the ear-sensitivity desires to hear]’. kinh nhĩ muốn nghe].
They believe that it is they Họ tin rằng đó là chính bản thân họ
themselves who want to enjoy the muốn thưởng thức niềm vui sướng (lạc)
pleasures of sight. In fact, they are only của cảnh sắc. Nhưng thực tế chỉ là họ
succumbing to the lust for visual objects. không chống nổi lòng tham muốn đối với
Living in such a misguided way is các đối tượng cảnh sắc. Sống theo cách
dishonorable. sai lạc như vậy thì thật đáng hổ thẹn.
If we were to look into the basic Nếu chúng ta xem xét các nhân căn
causes of the five sense sensitivities, it bản của năm loại sắc thần kinh giác
would point the way to suffering and quan, nó sẽ chỉ ra con đường dẫn đến
delusion. To be enslaved to the senses đau khổ và si mê. Bị làm nô lệ cho các
throughout one’s life is no small matter. giác quan trong suốt cuộc đời không
When one thinks deeply about this, it is phải là vấn đề nhỏ. Khi suy nghĩ sâu sắc
clear that a life of sensory enslavement về điều này, rõ ràng rằng cuộc sống làm
is a life filled with misery and suffering. nô lệ cho giác quan là một cuộc sống
The ordeals and suffering of existence đầy bất hạnh và đau khổ. Những thử
are, indeed, extensive. thách và đau khổ của kiếp sống quả thật
là mênh mông.
181
W HAT O N E W ANTS TO DO N H Ữ NG VI Ệ C M ỘT N GƯỜI M U Ố N L ÀM
182
W HAT O N E W ANTS TO DO N H Ữ NG VI Ệ C M ỘT N GƯỜI M U Ố N L ÀM
cannot be termed ‘what one wants to không thể được gọi là “những việc muốn
do’. It is merely giving in to the desires làm”. Nó chỉ là sự đầu hàng những tham
dictated by craving and lust, and it muốn được sai khiển bởi tham lam và ái
makes one subservient to his or her dục, và nó biến một người thành công cụ
defilements. cho phiền não ô nhiễm của chính họ.
What is it that you actually want to Những gì là việc mà quý vị thực sự
do? Do you merely want to indulge your muốn làm? Có phải quý vị chỉ muốn
desires and defilements or do you want nuông chiều những tham muốn và phiền
to be liberated from defilements? These não ô nhiễm của quý vị hay quý vị muốn
are the two questions that need to be giải thoát khỏi những phiền não? Đây là
asked. hai câu hỏi cần được đặt ra.
If sense gratification is your goal, Nếu làm thỏa mãn các giác quan là
then what you really want to do is simply mục tiêu của quý vị thì những gì quý vị
give in to the insatiable cravings of the thực sự muốn làm chỉ đơn thuần là đầu
defilements. On the other hand, if you hàng lòng tham vô độ của phiền não.
come to see the dangers and futility Mặt khác, nếu quý vị thấy sự nguy hiểm
inherent in indulging sensual pleasures, và sự phù phiếm cố hữu trong việc
you may begin to yearn for liberation nuông chiều dục lạc, có lẽ quý vị sẽ bắt
and may start to practice for liberation. đầu ước muốn giải thoát và khởi sự tu
When that happens it can be said that tập để giải thoát. Khi điều đó xảy ra thì
what you are doing is for freeing yourself có thể nói rằng những gì quý vị đang làm
from the manipulation and control of the là để giải thoát mình ra khỏi sự thao
defilements. túng và kiểm soát của phiền não.
Liberation from defilements is the Sự giải thoát khỏi phiền não ô
most worthy and highest goal that nhiễm là cái đáng quý trọng nhất và là
humankind can achieve. Life is mục tiêu cao nhất mà loài người có thể
meaningful only when one works đạt được. Cuộc sống có ý nghĩa chỉ khi
towards that worthy goal. Otherwise, mọi người làm các việc hướng tới mục
beings are chained to the wheel of tiêu xứng đáng đó. Nếu không, chúng
becoming, taking birth over and over sinh bị xích trong bánh xe của hữu, tiếp
again in the never-ending cycles of tục sanh đi sanh lại trong vòng luân hồi
saṃsāra. This is not the real meaning or (saṃsāra) bất tận. Đây không phải là ý
purpose of existence. nghĩa hay mục đích chân chính của sự
tồn tại.
To be enslaved in the service of Bị làm nô lệ, hầu hạ cho các phiền
one’s defilements is not the meaning of não ô nhiễm không phải là ý nghĩa của
‘doing what one wants to do’. It is just “làm những gì muốn làm”. Nó chỉ là sự
laboring in vain to carry out the wishes lao động vô ích để thực hiện mong muốn
of the defilements. One ought to strive của phiền não. Thay vào đó, người ta
instead for freedom from such an phải phấn đấu cho sự giải thoát khỏi sự
existence. Only then can it be said that hiện hữu này. Chỉ lúc đó mới có thể nói là
‘one is doing what one wants to do’. “một người đang làm những gì muốn
làm”.
183
W HAT O N E W ANTS TO DO N H Ữ NG VI Ệ C M ỘT N GƯỜI M U Ố N L ÀM
184
W HAT O N E W ANTS TO DO N H Ữ NG VI Ệ C M ỘT N GƯỜI M U Ố N L ÀM
185
W HAT O N E W ANTS TO DO N H Ữ NG VI Ệ C M ỘT N GƯỜI M U Ố N L ÀM
stages. That is why the Lord Buddha giai đoạn. Đó là lý do tại sao Ðức Phật
said, “If there were no escape from thuyết: “Nếu không có sự giải thoát khỏi
sensuality, beings would not escape các dục, chúng sinh sẽ không thoát khỏi
from it; but because there is escape from nó; nhưng vì có sự giải thoát khỏi các
sensuality, beings escape from it”. dục, chúng sinh giải thoát khỏi nó”.
The explicit means and practice for Các cách thức và sự tu tập rõ ràng
liberation from sensuality can only be để giải thoát khỏi các dục chỉ có thể tìm
found in the precious teachings of the thấy được trong Giáo Pháp quý báu của
Fully Enlightened Buddhas. Đức Phật Chánh Đẳng Giác.
It is only when a virtuous person Chỉ khi một người có giới hạnh khát
ardently desires liberation that he or she khao giải thoát mãnh liệt thì lúc đó người
is inclined and willing to fervently đó mới có khuynh hướng và sẵn sàng
practice. And, it is only through practice quyết tâm tu tập. Và, chỉ qua sự tu tập,
that he or she can gradually free người đó mới có thể dần tự giải thoát
themselves from the clutches of the mình khỏi các nanh vuốt của phiền não.
defilements. Once they are firmly on the Một khi họ đang chắc chắn ở trên con
path to freedom, such a person is đường dẫn đến tự do, họ có đủ tư cách
qualified to proclaim, “This truly is what I để tuyên bố, “Đây thực là những việc tôi
want to do”. The proclamation is, in muốn làm”. Thực ra, tuyên bố này là về
effect, practicing the Noble Eightfold sự tu tập Thánh Đạo Tám Ngành, đó là
Path, which is that which ought to be những việc cần phải làm và là việc dẫn
done and which leads to the eventual đến sự tận diệt tất cả các tham ái. Nói
termination of all cravings. In other cách khác, bằng cách tu tập Thánh Đạo
words, by following the Noble Eightfold Tám Ngành, người đó từng bước giải
Path one is gradually liberated from the thoát khỏi các phiền não ô nhiễm. Tất cả
defilements. All anxieties and miseries các nỗi lo âu và khổ đau bị dập tắt. Khi
are extinguished. When this happens it điều này xảy ra thì có thể nói rằng việc
could be said that that which ought to be cần làm đã làm xong.
done has been accomplished.
186
W HAT O N E W ANTS TO DO N H Ữ NG VI Ệ C M ỘT N GƯỜI M U Ố N L ÀM
between the cravings born from seeking việc tìm kiếm các thú vui ngắn ngủi,
short-lived pleasures, in contrast to the ngược với trí tuệ sanh ra từ việc tầm cầu
wisdom born from seeking the truth. As chân lý. Chừng nào những đòi hỏi về các
long as the quest for sensuality remains dục còn chưa được suy xét, cái “muốn”
unexamined, one’s true actual ‘want’ or hay cái “cần” thực sự của một người sẽ
‘wants’ will remain unknown. Whenever vẫn là ẩn số. Bất cứ khi nào tham ái còn
craving is present there will always be hiện diện thì sẽ luôn có một dòng chảy
an endless stream of new ‘wants’ bất tận của những cái “muốn” mới phát
arising. This is suffering. sinh. Đây là khổ đau.
Translated from a Pa-Auk Dhamma-Article Từ một bài Pháp xuất bản tại Myanmar vào
published in Myanmar of October 2005. tháng 10 năm 2005.
187
Bibliography Tham Khảo
188
Tawya Sayādaw. Auk Tawya Sayadaw.
Dhammapada Dhammapada
- Pāḷi and Commentary Pāḷi và Chú Giải
- Buddhist Legends by Eugene Buddhist Legends của Eugene
Watson Burlingame, PTS, London. Watson Burlingame, PTS, London.
The Path of Purification Visudhimagga
(Visudhimagga )
- translated from Pāḷi by Bản dịch từ Pāḷi của Bhikkhu
Bhikkhu Ñāṇamoli. Ñāṇamoli.
Majjhima Nikāya Majjhima Nikāya
- Pāḷi and Commentary Pāḷi và Chú Giải
- A Translation of the Majjhima Bản dịch Majjhima Nikāya của
Nikāya by Bhikkhu Ñāṇamoli and Bhikkhu Ñāṇamoli và Bhikkhu Bodhi,
Bhikkhu Bodhi, Second Edition, Wisdom Second Edition, Wisdom Publications.
Publications.
Itivuttaka Itivuttaka
- Pāḷi and Commentary Pāḷi và Chú Giải
- A translation of the Udāna and Bản dịch Udāna và Itivuttaka
the Itivuttaka by John D. Ireland của John D. Ireland
Dīgha Nikāya Dīgha Nikāya
- Pāḷi Pāḷi
- A translation of the Dīgha Bản dịch Dīgha Nikāya của
Nikāya by Maurice Walshe, Wisdom Maurice Walshe, Wisdom Publications.
Publications.
Vinaya Pitaka Vinaya Pitaka
- Mahavagga Pāḷi Mahavagga Pāḷi
The Great Chronicle of Buddhas (in Phật Sử (tiếng Myanmar) – của
Myanmar Language) - by Venerable Tôn Giả Vicittasārābhivaṃsa
Vicittasārābhivaṃsa
189