You are on page 1of 45

 Chỉ thị số 05-CT/TW : VỀ ĐẨY MẠNH HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ

TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH


Sau 5 năm thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XI về “Tiếp tục đẩy
mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đã đạt được kết quả
bước đầu, góp phần quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI "Một số
vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Tuy nhiên, việc học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh còn có những hạn chế, chưa trở thành việc làm
thường xuyên, chưa thành ý thức tự giác của không ít tổ chức đảng, cơ quan, địa
phương, đơn vị và một bộ phận cán bộ, đảng viên.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, phát huy
những kết quả đã đạt được, khắc phục những hạn chế trong việc thực hiện Chỉ thị số
03-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XI về "Tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh”, Bộ Chính trị yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng, chính
quyền, tổ chức chính trị - xã hội các cấp quán triệt và thực hiện tốt một số nội dung
sau:

1- Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức
và hành động trong Đảng, hệ thống chính trị và nhân dân, đưa việc học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thành công việc tự giác, thường
xuyên của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tổ chức
chính trị - xã hội các cấp, của từng địa phương, cơ quan, đơn vị, trước hết là của
người đứng đầu, của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên.

Đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là
một nội dung quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; góp phần xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, xây dựng đội
ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ năng lực, phẩm chất, ngang tầm
nhiệm vụ; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và
những biểu hiện "tự diễn biến”, "tự chuyển hóa" trong nội bộ, đẩy mạnh đấu tranh
phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu.

Tiếp tục làm cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhận thức ngày càng sâu sắc hơn
những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh; làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người thật sự trở thành nền tảng
tinh thần vững chắc của đời sống xã hội, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp
ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì Mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

2- Tổ chức học tập, quán triệt và tuyên truyền sâu rộng, thường xuyên, liên tục và có
hệ thống bằng nhiều hình thức phong phú, sinh động các nội dung chủ yếu về tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Đó
là hệ thống quan Điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, giải phóng xã hội và con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội;
về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, về
khối đại đoàn kết toàn dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước
của dân, do dân, vì dân; về quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân; về xây dựng, phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng; về chăm
lo, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng,... Đó là các quan
Điểm và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về: tuyệt đối trung thành, kiên định lý
tưởng cách mạng, đặt lợi ích của Đảng, của đất nước, dân tộc lên trên tất cả; hết lòng,
hết sức phục vụ Tổ quốc, phụng sự nhân dân, tận trung với nước, tận hiếu với dân; hết
lòng yêu thương đồng bào, đồng chí, yêu thương con người; cần, kiệm, liêm chính,
chí công vô tư, thật sự là công bộc của nhân dân, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân,
cơ hội,... Đó là phong cách Hồ Chí Minh, phản ánh những giá trị cốt lõi trong tư
tưởng, đạo đức của Người và được thể hiện vô cùng sinh động, tự nhiên, độc đáo, có
sức thu hút, cảm hóa kỳ diệu trong hoạt động, ứng xử hằng ngày. Đó là: phong cách
tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, luôn gắn chặt lý luận với thực tiễn; phong cách làm
việc dân chủ, khoa học, kỹ lưỡng, cụ thể, tới nơi, tới chốn; phong cách ứng xử văn
hóa, tinh tế, đầy tính nhân văn, thấm đậm tinh thần yêu dân, trọng dân, vì dân; phong
cách nói đi đôi với làm, đi vào lòng người; nói và viết ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ
làm; phong cách sống thanh cao, trong sạch, giản dị; phong cách quần chúng, dân
chủ, tự mình nêu gương,...

3- Đưa việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vào
chương trình, kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, nghị
quyết của cấp ủy và nội dung sinh hoạt thường xuyên của chi bộ, gắn với các cuộc
vận động, các phong trào thi đua yêu nước, với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị và
giải quyết các vấn đề bức xúc, nổi cộm ở từng địa phương, cơ quan, đơn vị; gắn với
việc xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam, xây dựng hệ giá trị văn hóa
và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Lấy kết quả học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là một
trong những tiêu chuẩn đánh giá, bình xét, phân loại đảng viên, tổ chức đảng hằng
năm.

4- Lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ việc triển khai thực hiện theo phương châm trên trước,
dưới sau; trong trước, ngoài sau; học đi đôi với làm theo, chú trọng việc làm theo
bằng những hành động và việc làm cụ thể. Xây dựng, tổng kết và nhân rộng những
điển hình tiên tiến về làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh, kết
hợp giữa "xây" với "chống”.

Đề cao trách nhiệm nêu gương, tự giác học trước, làm theo trước để nêu gương của
người đứng đầu và cán bộ chủ chốt các cấp, của cán bộ, đảng viên trong học tập và
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, gắn với đánh giá, nhận xét cán bộ, đảng viên,
công chức, viên chức hằng năm và cả nhiệm kỳ. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện chuẩn
mực đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công vụ ở từng địa phương, cơ quan, đơn vị với
phương châm "sát chức năng, nhiệm vụ, ngắn gọn, dễ nhớ, dễ thực hiện và đánh giá
việc thực hiện”. Hoàn thiện chính sách, pháp luật liên quan đến đạo đức công vụ.

5- Tiếp tục chỉ đạo biên soạn chương trình, giáo trình về tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh để giảng dạy trong hệ thống giáo dục quốc dân và các học viện,
trường chính trị, trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ các cấp, bảo đảm phù hợp với từng
cấp học, bậc học và với yêu cầu giáo dục, đào tạo.

Đối với học sinh phổ thông, dạy nghề, trung học chuyên nghiệp, học tập về đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh gắn với giáo dục công dân, đạo đức nghề nghiệp. Đối với
học sinh đại học, cao đẳng, có các bài giảng, chuyên đề về tư tưởng Hồ Chí Minh. Đối
với học sinh đại học chuyên ngành lý luận chính trị, học viên trường chính trị, đoàn
thể và lực lượng vũ trang cần xây dựng hệ thống các bài giảng, chuyên đề học tập tư
tưởng Hồ Chí Minh.

6- Về tổ chức thực hiện

Việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh do cấp ủy các
cấp, trực tiếp là ban thường vụ cấp ủy, đồng chí bí thư cấp ủy chỉ đạo.

Ban Bí thư Trung ương Đảng, đồng chí Tổng Bí thư chỉ đạo việc học tập và làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong toàn Đảng và xã hội.

Căn cứ Chỉ thị của Bộ Chính trị, các tỉnh ủy, thành ủy, ban cán sự đảng, đảng đoàn,
đảng ủy trực thuộc Trung ương lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức và hướng dẫn việc thường
xuyên học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh ở địa phương,
ngành, tổ chức, cơ quan, đơn vị mình.

Ban Tuyên giáo Trung ương là cơ quan giúp việc Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung
ương Đảng chỉ đạo tổ chức thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị; ban tuyên giáo cấp ủy
và cơ quan tuyên giáo các ngành, đoàn thể là cơ quan giúp việc cấp ủy và lãnh đạo
các ngành, đoàn thể cùng cấp chỉ đạo tổ chức thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị.

Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì, phối hợp với các cơ quan nghiên cứu làm sâu sắc
thêm những nội dung cơ bản của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; đồng
thời, xây dựng chương trình, hướng dẫn nội dung học tập, sinh hoạt định kỳ, sinh hoạt
chuyên đề của các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể các cấp; định hướng
nội dung, chương trình giảng dạy về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
trong hệ thống giáo dục quốc dân; xây dựng kế hoạch sơ kết, tổng kết hằng năm và
toàn khóa trình Ban Bí thư ban hành; chỉ đạo các cơ quan thông tin đại chúng, đội ngũ
báo cáo viên tuyên truyền về các điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt, những
cách làm sáng tạo trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh, đồng thời uốn nắn những biểu hiện lệch lạc, những cách làm hình thức, kém
hiệu quả.

 Hội nghị lần thứ 6, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
XIII
Thực hiện Chương trình làm việc toàn khóa, từ ngày 03/10/2022 đến ngày
09/10/2022, tại Thủ đô Hà Nội, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII họp Hội
nghị lần thứ sáu để xem xét thảo luận, cho ý kiến các tờ trình, đề án, báo cáo của Bộ
Chính trị liên quan một số vấn đề lớn, cơ bản và quan trọng:

(1) Về tình hình kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước năm 2022, dự kiến Kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách nhà nước năm 2023 và Kế hoạch tài
chính - ngân sách nhà nước 3 năm 2023 - 2025;
(2) Định hướng Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm
2050;

(3) Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm
nhìn đến năm 2045;

(4) Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
trong giai đoạn mới;

(5) Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa X về tiếp tục đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị; một số công
việc quan trọng khác và về công tác cán bộ.

Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chủ trì và có các bài phát biểu quan trọng
khai mạc, bế mạc Hội nghị.

1. Về tình hình kinh tế-xã hội, ngân sách nhà nước năm 2022 và phương hướng,
nhiệm vụ năm 2023
Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã dành nhiều thời gian nghiên cứu, xem xét, thảo
luận kỹ lưỡng, đóng góp nhiều ý kiến sâu sắc, cụ thể, toàn diện vào các báo cáo về
tình hình kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước năm 2022; kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội, dự toán ngân sách nhà nước năm 2023; kế hoạch tài chính ngân sách nhà nước
3 năm 2023 - 2025; phương án điều chỉnh tiền lương, lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã
hội và trợ cấp ưu đãi người có công trong năm 2023.

Ban Chấp hành Trung ương Đảng cơ bản tán thành nội dung các báo cáo, thống nhất
nhận định: Năm 2022, tình hình thế giới có nhiều biến động nhanh, phức tạp, khó
lường, chưa từng có tiền lệ, vượt ngoài dự báo, tác động đến các nền kinh tế trên thế
giới, ảnh hưởng trực tiếp, tiêu cực đến việc triển khai thực hiện các mục tiêu, nhiệm
vụ phát triển kinh tế - xã hội và Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế của nước
ta.

Trong bối cảnh đó, với sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, sự tin tưởng,
tham gia tích cực của nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp dưới sự lãnh đạo của
Đảng, mà trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đứng đầu là đồng chí
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng; sự quản lý, điều hành của Chính phủ; sự đồng hành,
ủng hộ của Quốc hội, chúng ta đã thực hiện thắng lợi, khá toàn diện mục tiêu, nhiệm
vụ: Vừa tập trung phòng, chống, kiểm soát dịch bệnh, vừa thúc đẩy phục hồi và phát
triển kinh tế - xã hội, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ gắn với chủ động, tích cực
hội nhập quốc tế sâu rộng và hiệu quả.

Trên cơ sở phân tích, dự báo các khả năng có thể xảy ra, bám sát với tình hình thực
tiễn, Trung ương thống nhất ban hành Kết luận về kinh tế - xã hội năm 2022 - 2023,
trong đó, xác định rõ quan điểm, mục tiêu tổng quát, các chỉ tiêu cơ bản, quan trọng
và những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cho năm 2023, bảo đảm tính khả thi, đáp ứng
được yêu cầu của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, tài chính ngân sách nhà nước
hằng năm, gắn với việc phòng, chống, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh; phục hồi, phát
triển kinh tế - xã hội.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng giao Bộ Chính trị, căn cứ ý kiến thảo luận của
Trung ương và báo cáo tiếp thu, giải trình của Bộ Chính trị, chỉ đạo tiếp thu, hoàn
chỉnh, ban hành Kết luận; chỉ đạo Ban cán sự đảng Chính phủ hoàn chỉnh các báo cáo
nêu trên để trình Quốc hội khóa XV xem xét, quyết định.

2. Về định hướng Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến
năm 2050
Trung ương coi quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm
2050 là nhiệm vụ chính trị rất quan trọng có ý nghĩa chiến lược, cơ bản, lâu dài.

Phát huy tinh thần trách nhiệm, thẳng thắn, với kinh nghiệm và thực tiễn phong phú,
các đồng chí Ủy viên Trung ương đã nghiên cứu, thảo luận kỹ lưỡng, đóng góp nhiều
ý kiến sâu sắc, có giá trị vào dự thảo Định hướng Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ
2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Trung ương yêu cầu nội dung của Quy hoạch
phải xác định rõ và đúng những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo; những mục tiêu, chỉ tiêu
chủ yếu cần phấn đấu để đạt được; tập trung ưu tiên cho việc hình thành cơ bản bộ
khung kết cấu hạ tầng quốc gia; hình thành và phát triển các hành lang kinh tế theo
trục Bắc - Nam và trục Đông - Tây...

Trên cơ sở đó, Trung ương thống nhất ban hành Kết luận của Trung ương về Định
hướng Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 -2030, tầm nhìn đến năm 2050.

3. Về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm
nhìn đến năm 2045
Trung ương nhất trí cần phải tiếp tục đổi mới tư duy, nhận thức và hành động quyết
liệt, đúng đắn, đồng bộ hơn trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
để Việt Nam xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tự cường, phát triển kinh tế nhanh
và bền vững, trở thành nước phát triển, có thu nhập cao; bảo đảm sự hài hòa giữa mục
tiêu phát triển kinh tế đi đôi với yêu cầu giữ gìn tiến bộ và công bằng xã hội, bồi đắp
và phát huy giá trị văn hóa của dân tộc.

Sau khi xem xét, thảo luận các tờ trình, đề án và báo cáo của Bộ Chính trị, Ban Chấp
hành Trung ương Đảng đã quyết nghị thông qua Nghị quyết về Tiếp tục đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Việc ban hành Nghị quyết nhằm tạo sự thống nhất cao trong toàn Đảng, toàn dân về
mục tiêu, quan điểm, tư tưởng chỉ đạo và những nhiệm vụ, giải pháp lớn cần được
quán triệt, triển khai thực hiện để tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ mà Đại hội
XIII của Đảng đã đề ra đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

4. Về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam trong giai đoạn mới
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khẳng định quá trình xây dựng, hoàn thiện Đề án
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
trong giai đoạn mới được chuẩn bị bài bản, công phu, dân chủ, khoa học.

Để tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Ban Chấp
hành Trung ương Đảng yêu cầu bám sát quan điểm, tư tưởng chỉ đạo: Kiên định và
vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; thực
hiện nhất quán nguyên tắc tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về Nhân dân; bảo đảm
yêu cầu Thượng tôn Hiến pháp và pháp luật; bám sát thực tiễn Việt Nam và xu thế
phát triển của thời đại; bảo đảm tính tổng thể, đồng bộ, liên thông giữa đổi mới lập
pháp, cải cách hành chính, cải cách tư pháp.

Ban Chấp hành Trung ương Đảng thống nhất cao ban hành Nghị quyết của Trung
ương về Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam trong giai đoạn mới.

5. Về tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa X về tiếp tục đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị
Ban Chấp hành Trung ương Đảng đánh giá cao các kết quả đã đạt được của 15 năm
thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa X (năm 2007) về tiếp tục đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị (Nghị quyết 15);
khẳng định việc tổng kết Nghị quyết 15 và ban hành Nghị quyết mới về Tiếp tục đổi
mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai
đoạn mới là yêu cầu cần thiết để tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo đổi mới, hoàn thiện
phương thức lãnh đạo của Đảng, phát huy có hiệu quả sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị thật sự trong sạch, vững
mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn phát triển mới.

Ban Chấp hành Trung ương Đảng giao Bộ Chính trị ngay sau Hội nghị Trung ương 6
chỉ đạo ban hành Kế hoạch thực hiện Nghị quyết; tổ chức Hội nghị cán bộ chủ chốt
nghiên cứu, quán triệt, triển khai Nghị quyết, Kế hoạch thực hiện.

Trung ương kỷ luật cán bộ


6. Căn cứ quyết định hiện hành, ý kiến của các cơ quan liên quan và chủ trương của
Bộ Chính trị về bố trí công tác đối với cán bộ sau khi bị kỷ luật; trên cơ sở đề nghị
của cấp ủy, tổ chức đảng, ý kiến của các cơ quan chức năng và xem xét nguyện vọng
của cán bộ; Ban Chấp hành Trung ương Đảng biểu quyết, thống nhất để 03 đồng chí:
Nguyễn Thành Phong, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung
ương; Bùi Nhật Quang, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học
xã hội Việt Nam; Huỳnh Tấn Việt, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Đảng ủy Khối
các cơ quan Trung ương thôi tham gia Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII.

Theo đề nghị của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng xem xét, cho ý kiến
kỷ luật đồng chí Phạm Xuân Thăng, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ
tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Hải Dương.

Căn cứ nội dung, tính chất, mức độ, hậu quả của vi phạm, căn cứ quy định của Đảng,
Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã biểu quyết, quyết định thi hành kỷ luật Khai trừ
Đảng đối với đồng chí Phạm Xuân Thăng.

Ban Chấp hành Trung ương Đảng cho ý kiến về nhân sự


7. Ban Chấp hành Trung ương Đảng cho ý kiến về nhân sự để Bộ Chính trị quyết định
giới thiệu Quốc hội bầu, phê chuẩn các chức danh Tổng Kiểm toán Nhà nước, Bộ
trưởng Bộ Y tế, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải tại Kỳ họp thứ tư Quốc hội khóa
XV.
8. Ban Chấp hành Trung ương Đảng kêu gọi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân tăng
cường đoàn kết, thống nhất, phát huy những kết quả quan trọng, toàn diện đã đạt được
của 9 tháng năm 2022; nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn, thách thức, hoàn thành
thắng lợi các mục tiêu đã đề ra cho năm 2022 và các năm tiếp theo; thực hiện có hiệu
quả các nghị quyết, kết luận của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương
Đảng, phấn đấu hoàn thành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2023, góp phần
thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng./.

Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến
năm 2050
Nghị quyết nêu rõ, tầm nhìn đến năm 2050, Việt Nam là nước phát triển, thu nhập
cao, có thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, đồng bộ, hiện
đại, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; quản trị xã hội trên nền tảng xã hội số hoàn
chỉnh.

Nền kinh tế vận hành theo phương thức của kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần
hoàn; khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là động lực tăng trưởng chủ yếu.

Việt Nam thuộc nhóm các nước công nghiệp phát triển hàng đầu khu vực châu Á; là
một trung tâm tài chính khu vực và quốc tế; phát triển kinh tế nông nghiệp sinh thái
giá trị cao thuộc nhóm hàng đầu thế giới.

Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh, một trung tâm kinh tế biển của khu vực châu
Á-Thái Bình Dương; tham gia chủ động, có trách nhiệm vào giải quyết các vấn đề
quốc tế và khu vực về biển và đại dương.

Giai đoạn 2031-2050, phấn đấu tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP)
bình quân khoảng 6,5-7,5%/năm. Đến năm 2050, GDP bình quân đầu người theo giá
hiện hành đạt khoảng 27.000-32.000 USD, tỷ lệ đô thị hóa đạt 70-75%, chỉ số phát
triển con người (HDI) đạt từ 0,8 trở lên, đời sống của người dân hạnh phúc, quốc
phòng, an ninh được bảo đảm vững chắc.

Mục tiêu phát triển đến năm 2030, về kinh tế, phấn đấu tốc độ tăng trưởng GDP cả
nước bình quân đạt khoảng 7%/năm giai đoạn 2021-2030. Đến năm 2030, GDP bình
quân đầu người theo giá hiện hành đạt khoảng 7.500 USD.

Tỷ trọng trong GDP của khu vực dịch vụ đạt trên 50%, khu vực công nghiệp-xây
dựng trên 40%, khu vực nông, lâm, thủy sản dưới 10%. Tốc độ tăng năng suất lao
động xã hội bình quân đạt trên 6,5%/năm. Đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp
(TFP) vào tăng trưởng đạt trên 50%.

Phát huy lợi thế của từng vùng kinh tế - xã hội; tập trung phát triển hai vùng động lực
phía Bắc và phía Nam gắn với hai cực tăng trưởng là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí
Minh, hành lang kinh tế Bắc-Nam, hành lang kinh tế Lào Cai-Hà Nội-Hải Phòng-
Quảng Ninh, hành lang kinh tế Mộc Bài-Thành phố Hồ Chí Minh-Biên Hòa-Vũng
Tàu với kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, có tốc độ tăng trưởng cao, đóng góp lớn
vào phát triển chung của đất nước.
Phát triển đô thị bền vững theo mạng lưới; tỷ lệ đô thị hóa đạt trên 50%; phấn đấu từ
3-5 đô thị ngang tầm khu vực và quốc tế. Xây dựng nông thôn mới phát triển toàn
diện, bền vững và gắn với đô thị hóa; tỷ lệ số xã đạt chuẩn nông thôn mới đạt trên
90%, trong đó 50% số xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao.

Phát triển đất nước thành 6 vùng kinh tế-xã hội


Nghị quyết cũng nêu rõ định hướng phát triển không gian kinh tế-xã hội, tổ chức
không gian phát triển đất nước thành 6 vùng kinh tế-xã hội; xây dựng mô hình tổ
chức, cơ chế điều phối vùng để thực hiện liên kết nội vùng và thúc đẩy liên kết giữa
các vùng, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực.

Định hướng phát triển vùng và liên kết vùng gồm có: Vùng trung du và miền núi phía
Bắc, phấn đấu tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) bình quân đạt
khoảng 8-9%/năm.

Vùng Đồng bằng sông Hồng phấn đấu tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân đạt
khoảng 9%/năm.

Vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung phấn đấu tốc độ tăng trưởng GRDP
bình quân đạt khoảng 7-7,5%/năm.

Vùng Tây Nguyên phấn đấu tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân đạt khoảng 7-
7,5%/năm.

Vùng Đông Nam Bộ phấn đấu tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân đạt khoảng 8-
8,5%/năm.

Vùng Đồng bằng sông Cửu Long phấn đấu tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân đạt
khoảng 6,5-7%/năm.

Nghị quyết xác định phát triển vùng động lực phía Bắc, bao gồm Thủ đô Hà Nội và
các địa bàn cấp huyện dọc theo trục quốc lộ 5 và quốc lộ 18 qua các tỉnh Bắc Ninh,
Hưng Yên, Hải Dương, thành phố Hải Phòng và tỉnh Quảng Ninh, trong đó, thành
phố Hà Nội là cực tăng trưởng.

Phát triển vùng động lực phía Nam, bao gồm Thành phố Hồ Chí Minh và các địa bàn
cấp huyện dọc theo trục quốc lộ 22, quốc lộ 13, quốc lộ 1, quốc lộ 51 qua các tỉnh
Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu, trong đó Thành phố Hồ Chí Minh là cực
tăng trưởng. Trong giai đoạn sau năm 2030, tiếp tục mở rộng phạm vi của vùng động
lực.

Hình thành, phát triển vùng động lực miền Trung, bao gồm khu vực ven biển (các địa
bàn cấp huyện từ đường cao tốc Bắc-Nam phía Đông đến biển) thuộc các tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương: Thừa Thiên-Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi;
trong đó thành phố Đà Nẵng là cực tăng trưởng. Trong giai đoạn sau năm 2030, tiếp
tục mở rộng phạm vi của vùng động lực.

Hình thành, phát triển vùng động lực đồng bằng sông Cửu Long bao gồm thành phố
Cần Thơ, các địa bàn cấp huyện của các tỉnh An Giang, Kiên Giang, Vĩnh Long,
Đồng Tháp gắn với khu vực kết nối các tuyến đường cao tốc (cao tốc Bắc-Nam phía
Đông đoạn Cần Thơ-Vĩnh Long, cao tốc An Hữu-Cao Lãnh, cao tốc Bắc-Nam phía
Tây từ Cao Lãnh đến Rạch Sỏi) và thành phố Phú Quốc; trong đó thành phố Cần Thơ
là cực tăng trưởng. Trong giai đoạn sau năm 2030, tiếp tục mở rộng phạm vi của vùng
động lực gắn với cảng biển Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng.

Ngoài ra, từng bước xây dựng, hình thành vùng động lực tại vùng trung du và miền
núi phía Bắc; khu vực Bắc Trung Bộ (Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh) kết nối giữa
miền Trung và đồng bằng sông Hồng; vùng Tây Nguyên; khu vực duyên hải Nam
Trung Bộ (khu vực Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận và phụ cận).
 Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng, hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới
I - TÌNH HÌNH
Qua hơn 35 năm đổi mới và hơn 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991, bổ sung, phát triển
năm 2011), công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân dưới sự lãnh đạo của Ðảng đã đạt được
những thành tựu rất quan trọng.

Nhận thức, lý luận về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày càng
thống nhất, đầy đủ và sâu sắc hơn. Hệ thống pháp luật đã được hoàn thiện một bước
cơ bản; vai trò của pháp luật và việc thực thi pháp luật được chú trọng trong tổ chức,
hoạt động của Nhà nước và xã hội. Cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các
cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp ngày càng
rõ hơn và có chuyển biến tích cực.

Bộ máy nhà nước từng bước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Tổ chức và hoạt
động của Quốc hội có nhiều đổi mới, chất lượng được nâng cao. Hoạt động của Chính
phủ chủ động, tích cực, tập trung hơn vào quản lý, điều hành vĩ mô, tháo gỡ rào cản,
phục vụ, hỗ trợ phát triển.

Cải cách hành chính, cải cách tư pháp có bước đột phá trên một số lĩnh vực. Tổ chức
bộ máy của tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi
hành án, cơ quan bổ trợ tư pháp tiếp tục được kiện toàn, chất lượng hoạt động được
nâng lên.

Quyền con người, quyền công dân theo Hiến định tiếp tục được cụ thể hóa bằng pháp
luật và thực hiện tốt hơn trên thực tế; dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện được tăng
cường.

Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội từng bước
được đổi mới. Mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam không
ngừng được hoàn thiện, vận hành theo cơ chế "Ðảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
Nhân dân làm chủ", góp phần quan trọng vào những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch
sử của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Tuy nhiên, công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vẫn
còn những hạn chế, bất cập, có mặt chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, quản lý và bảo
vệ đất nước trong tình hình mới.
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn chưa được luận giải một cách đầy đủ, thuyết phục;
tổ chức bộ máy nhà nước, hệ thống pháp luật còn một số bất cập, chưa đáp ứng yêu
cầu thực tiễn.

Quyền lực nhà nước chưa được kiểm soát hiệu quả, cơ chế kiểm soát quyền lực chưa
hoàn thiện; vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị-xã
hội và Nhân dân chưa được phát huy mạnh mẽ; ý thức chấp hành pháp luật của một
bộ phận cán bộ, công chức, đảng viên và Nhân dân chưa nghiêm; cơ chế bảo đảm
quyền làm chủ của Nhân dân, quyền con người, quyền công dân có mặt chưa được
phát huy đầy đủ; cải cách hành chính, cải cách tư pháp chưa đáp ứng yêu cầu phát
triển đất nước...

Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập nêu trên chủ yếu là do: Việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là vấn đề lớn, phức tạp, lâu dài; công tác
tổng kết thực tiễn, nghiên cứu, hoàn thiện lý luận chưa được quan tâm đúng mức;
quyết tâm chính trị, công tác lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp ủy, tổ chức đảng, chính
quyền trong thực hiện các chủ trương, nhiệm vụ về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam chưa tương xứng với yêu cầu đặt ra.

II - QUAN ÐIỂM
1. Kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi
mới và bảo đảm sự lãnh đạo, cầm quyền của Ðảng.

Nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn giữa Ðảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và
Nhân dân làm chủ; giữa nhà nước, thị trường và xã hội; giữa thực hành dân chủ xã hội
chủ nghĩa và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội.

Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân dưới sự lãnh đạo của Ðảng là nhiệm vụ
trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị; luôn phải đặt trong tổng thể công tác xây
dựng, chỉnh đốn Ðảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị với
quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, kiên trì, hiệu quả; thực hiện thắng lợi
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.

2. Thực hiện nhất quán nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, phát
huy quyền làm chủ của Nhân dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt
chẽ, kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp dưới sự giám sát của Nhân dân.

3. Bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội
bằng Hiến pháp và pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức xã hội
chủ nghĩa; thể chế hóa kịp thời, đầy đủ và tổ chức thực hiện hiệu quả chủ trương,
đường lối của Ðảng; lấy con người là trung tâm, mục tiêu, chủ thể và động lực phát
triển đất nước; Nhà nước tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công
dân.
4. Bám sát thực tiễn đất nước và xu thế phát triển của thời đại, kế thừa những thành
tựu đã đạt được, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam; kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh quốc gia với sức mạnh quốc
tế; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia, chế độ xã hội chủ nghĩa.

5. Bảo đảm tổng thể, đồng bộ, liên thông giữa đổi mới lập pháp, cải cách hành chính,
cải cách tư pháp; kết hợp hài hòa giữa kế thừa, ổn định với đổi mới, phát triển; tiến
hành khẩn trương, nghiêm minh, nhất quán, có trọng tâm, trọng điểm và lộ trình, bước
đi vững chắc.

Những vấn đề thực tiễn đòi hỏi, đã rõ, được thực tiễn chứng minh là đúng, có sự
thống nhất cao thì kiên quyết thực hiện; những vấn đề chưa rõ, còn nhiều ý kiến khác
nhau thì tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, thực hiện thí điểm khi cơ quan có
thẩm quyền cho phép; những chủ trương đã thực hiện, nhưng không phù hợp thì
nghiên cứu điều chỉnh, sửa đổi kịp thời.

III - MỤC TIÊU, TRỌNG TÂM


1. Mục tiêu
1.1. Mục tiêu tổng quát
Hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân
dân, vì Nhân dân, do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; có hệ thống pháp luật hoàn
thiện, được thực hiện nghiêm minh, nhất quán; thượng tôn Hiến pháp và pháp luật,
tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân; quyền lực nhà
nước là thống nhất, được phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm soát hiệu
quả; nền hành chính, tư pháp chuyên nghiệp, pháp quyền, hiện đại; bộ máy nhà nước
tinh gọn, trong sạch, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức có đủ phẩm chất, năng lực, thực sự chuyên nghiệp, liêm chính; quản trị quốc gia
hiện đại, hiệu quả; đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh, bền vững, trở thành
nước phát triển, có thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào năm 2045.

1.2. Mục tiêu cụ thể đến năm 2030


- Hoàn thiện cơ bản các cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân, bảo đảm và
bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trở
thành chuẩn mực ứng xử của mọi chủ thể trong xã hội.

Hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp
thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, mở đường cho đổi mới sáng
tạo, phát triển bền vững và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, nhất
quán.

Hoàn thiện cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, bảo đảm quyền lực nhà nước
là thống nhất, được kiểm soát hiệu quả.

- Tiếp tục đổi mới tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội; bảo đảm
Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất, nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của
Hiến pháp.
- Hoàn thành cơ bản việc xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ Nhân dân, dân
chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh
bạch; bảo đảm Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền
hành pháp, cơ quan chấp hành của Quốc hội; phân cấp, phân quyền hợp lý giữa Trung
ương và địa phương; cơ bản hoàn thiện tổ chức bộ máy chính quyền địa phương.

- Hoàn thành cơ bản việc xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng,
nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, bảo vệ công lý, bảo
vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân.

- Tổ chức bộ máy nhà nước cơ bản tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đội ngũ cán
bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực, chuyên nghiệp, liêm chính, chí
công, vô tư.

2. Trọng tâm
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh,
nhất quán; bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật; nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực pháp luật.

- Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, đẩy mạnh phòng, chống tham
nhũng, tiêu cực; tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường phân cấp, phân
quyền, làm rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức, cá nhân trong bộ máy
nhà nước đi đôi với nâng cao năng lực thực thi; xây dựng tổ chức bộ máy nhà nước
tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

- Ðẩy mạnh cải cách tư pháp, bảo đảm tính độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử,
thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

IV - NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP


1. Ðẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, nâng cao nhận thức về Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
- Tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện hệ thống lý luận
về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Thống nhất nhận thức về các đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, đó là: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Ðảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo; Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; quyền con
người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ theo Hiến pháp và
pháp luật; Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý
xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước
trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; hệ thống pháp luật dân chủ,
công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh
bạch, ổn định, dễ tiếp cận, được thực hiện nghiêm minh và nhất quán; độc lập của tòa
án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật; tôn trọng và bảo đảm thực hiện các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ
sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp Quốc và luật pháp quốc tế.
- Ðẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng
viên và Nhân dân về Hiến pháp và pháp luật, về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam và yêu cầu, nhiệm vụ tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.

Quán triệt sâu sắc việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị; được tiến hành
đồng bộ với thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.

2. Bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân, thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, tôn
trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân
- Thể chế hóa đầy đủ và thực hiện đúng đắn, hiệu quả cơ chế Nhân dân thực hiện
quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, nhất là dân chủ ở cơ sở.
Tổng kết việc thực hiện và nghiên cứu hoàn thiện các quy định pháp luật theo hướng
phát huy tốt hơn các hình thức dân chủ trực tiếp của Nhân dân; có cơ chế bảo đảm
thực hiện quyền của Nhân dân tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước
về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước; công khai, minh bạch trong việc tiếp
nhận, xử lý, giải quyết, phản hồi ý kiến, kiến nghị, phản ánh, khiếu nại, tố cáo của
Nhân dân.

Ðổi mới cơ chế bầu cử để lựa chọn được những người xứng đáng đại diện cho Nhân
dân; nghiên cứu việc bỏ phiếu bầu cử của công dân Việt Nam đang ở nước ngoài, làm
rõ những trường hợp không được bầu cử.
Phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế, đề cao đạo đức xã hội và trách
nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, đấu tranh kiên quyết với những biểu
hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức; xử lý nghiêm mọi hành vi lợi dụng dân chủ
để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân,
xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.

- Xây dựng ý thức và lối sống thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trong hệ thống
chính trị và toàn xã hội; đưa nội dung phù hợp về Hiến pháp và Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam vào chương trình đào tạo, bồi dưỡng của hệ thống giáo
dục quốc dân.
Nâng cao ý thức trách nhiệm, năng lực của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức
trong thực thi Hiến pháp, pháp luật. Cụ thể hóa và xây dựng cơ chế để các chủ thể
thực hiện đầy đủ quyền và trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp.

- Tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa kịp thời, đầy đủ quan điểm, chủ trương của Ðảng và
quy định của Hiến pháp về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân;
nội luật hóa các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia; xác
định rõ trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong việc tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân.

Thực hiện tốt nguyên tắc công dân được làm tất cả những gì pháp luật không cấm;
quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân, việc thực hiện quyền con người,
quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia-dân tộc, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân.
3. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật
nghiêm minh, hiệu quả, bảo đảm yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững
- Xây dựng hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, kịp thời, đồng
bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, ổn định, khả thi, dễ tiếp cận, đủ khả năng điều
chỉnh các quan hệ xã hội, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, tổ
chức, doanh nghiệp làm trung tâm, thúc đẩy đổi mới sáng tạo.

Tập trung hoàn thiện hệ thống pháp luật trên tất cả các lĩnh vực, tháo gỡ kịp thời khó
khăn, vướng mắc, khơi dậy, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới
cho phát triển nhanh và bền vững của đất nước.

Nhất là: Hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước và hệ thống
chính trị; phát huy dân chủ, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân; thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Nhà nước, thị
trường và xã hội; phát triển giáo dục-đào tạo, khoa học và công nghệ; phát triển
nguồn nhân lực, thu hút, trọng dụng nhân tài; văn hóa, thông tin, truyền thông, thể
thao, y tế, an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu; phát triển
kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn; tư pháp, quốc phòng, an ninh quốc gia, trật
tự, an toàn xã hội; đối ngoại và hội nhập quốc tế.

- Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật, bảo đảm chuyên nghiệp,
khoa học, kịp thời, khả thi, hiệu quả. Quy định rõ hơn quy trình xây dựng chính sách,
phân định rõ quy trình lập pháp và quy trình xây dựng văn bản dưới luật. Phát huy
tính năng động, sáng tạo, tích cực, vai trò, trách nhiệm của các chủ thể, đặc biệt là
Chính phủ trong quy trình lập pháp.

Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị-xã hội và Nhân
dân, chuyên gia, nhà khoa học tham gia xây dựng pháp luật. Hoàn thiện cơ chế phản
biện xã hội, giải trình và tiếp thu ý kiến của Nhân dân đối với dự thảo văn bản quy
phạm pháp luật. Bảo đảm đồng bộ, kịp thời trong xây dựng chính sách, pháp luật giữa
Quốc hội với Chính phủ, giữa các bộ, giữa Trung ương và địa phương.

Ða dạng hóa nguồn pháp luật, đề cao và coi trọng đạo luật, đơn giản hóa, giảm tầng
nấc, loại hình văn bản trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Xác định đúng, rõ
các cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật, hạn chế đến mức
thấp nhất sử dụng hình thức pháp lệnh để ban hành quy phạm pháp luật; luật hóa đến
mức tối đa những vấn đề quan trọng của đất nước thuộc thẩm quyền quyết định của
Quốc hội.

Tăng cường xây dựng các đạo luật có nội dung cụ thể, hiệu lực trực tiếp; khắc phục
tình trạng luật thiếu tính ổn định, chậm ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn
thi hành. Tăng cường kiểm tra, giám sát, xử lý văn bản quy phạm pháp luật trái pháp
luật; siết chặt kỷ luật, kỷ cương, đề cao trách nhiệm, nhất là trách nhiệm người đứng
đầu, kiên quyết chống tiêu cực, "lợi ích nhóm" trong công tác xây dựng pháp luật.

- Tiếp tục đổi mới công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Xây dựng mạng lưới, nâng
cao năng lực của hệ thống dịch vụ pháp lý, trợ giúp pháp lý và hỗ trợ pháp lý để
người dân và doanh nghiệp dễ tiếp cận pháp luật.
Ðổi mới cơ chế thi hành pháp luật, gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật với thực
hiện pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện công bằng, nghiêm minh, nhất
quán, kịp thời, hiệu lực, hiệu quả.
Xác định rõ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu
trong tổ chức thi hành pháp luật. Hoàn thiện các quy định về giải thích pháp luật.

Tăng cường giám sát, kiểm tra, thanh tra, phát hiện và xử lý nghiêm minh, kịp thời
các hành vi vi phạm pháp luật; tăng cường thi hành pháp luật trong các lĩnh vực quan
trọng liên quan đến lợi ích thiết yếu của người dân; hoàn thiện cơ chế tiếp nhận, xử lý
kịp thời, hiệu quả kiến nghị, phản ánh của người dân, doanh nghiệp.

- Phát triển nguồn nhân lực pháp luật, hiện đại hóa phương thức, phương tiện xây
dựng pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật. Củng cố, kiện toàn tổ chức pháp chế,
tổ chức làm công tác pháp luật; nâng cao năng lực, trình độ, bản lĩnh chính trị của đội
ngũ cán bộ, công chức làm công tác xây dựng và thi hành pháp luật.

Phát triển khoa học pháp lý, nâng cao chất lượng các cơ sở nghiên cứu và đào tạo
pháp luật. Có cơ chế thích hợp bảo đảm và tăng cường nguồn lực đầu tư, đổi mới cơ
chế phân bổ, sử dụng hiệu quả kinh phí xây dựng và thi hành pháp luật.

4. Tiếp tục đổi mới tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội
- Tiếp tục xây dựng Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, đại
diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân, là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất;
phát huy tính dân chủ, pháp quyền, hiện đại, chuyên nghiệp, khoa học, công khai,
minh bạch, hiệu lực, hiệu quả trong tổ chức và hoạt động, bảo đảm Quốc hội thực
hiện tốt chức năng lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, giám sát
tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.

- Ðề cao vai trò trung tâm của đại biểu Quốc hội; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động, bảo đảm tiêu chuẩn, cơ cấu đại biểu Quốc hội; tăng hợp lý số lượng đại biểu
Quốc hội chuyên trách, giảm số lượng đại biểu công tác ở các cơ quan hành pháp, tư
pháp.

Gắn trách nhiệm của đại biểu Quốc hội với đơn vị bầu cử và cử tri; đổi mới mạnh mẽ
nội dung, hình thức tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội; hoàn thiện cơ chế giám sát
của cử tri và cơ chế, phương thức, tiêu chí đánh giá đối với đại biểu Quốc hội; bảo
đảm các điều kiện để đại biểu Quốc hội thực hiện tốt vai trò trung tâm của mình.

- Tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của Quốc hội theo hướng nghiên cứu tăng hợp
lý số kỳ họp của Quốc hội; kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ do Hiến pháp quy
định; đề cao vị trí, vai trò, kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực hoạt động của Hội
đồng dân tộc, các ủy ban của Quốc hội, các cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc
hội theo hướng rành mạch, chủ động, trách nhiệm, chuyên sâu, nhạy bén; hoàn thiện
thiết chế Tổng Thư ký Quốc hội, Ban Thư ký Quốc hội; xây dựng Quốc hội điện tử.

- Tiếp tục đổi mới căn bản, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động lập pháp, bảo
đảm quản trị quốc gia bằng Hiến pháp và pháp luật, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc
tế.
- Tiếp tục nghiên cứu để xác định rõ hơn phạm vi, đối tượng, phương pháp, hình thức
giám sát tối cao của Quốc hội phù hợp thực tiễn; nâng cao chất lượng hoạt động chất
vấn, giải trình, giám sát văn bản quy phạm pháp luật, chú trọng việc theo dõi, xem
xét, đôn đốc việc thực hiện các kiến nghị sau giám sát; thực hiện nghiêm việc lấy
phiếu tín nhiệm của Quốc hội.

- Ðổi mới quy trình quyết định về ngân sách nhà nước bảo đảm thực chất, đi đôi với
giám sát việc thực hiện ngân sách, từng bước thay thế việc ban hành các nghị quyết
bằng các đạo luật về tài chính, ngân sách.

5. Tiếp tục thực hiện tốt thiết chế Chủ tịch nước theo Hiến pháp
Nhận thức đúng, đầy đủ, sâu sắc về vị trí, quyền hạn, nhiệm vụ của Chủ tịch nước với
vai trò là nguyên thủ quốc gia. Tiếp tục nghiên cứu làm rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn
của Chủ tịch nước trong vai trò thống lĩnh các lực lượng vũ trang, Chủ tịch Hội đồng
quốc phòng và an ninh, trong hoạt động đối nội, đối ngoại, trong mối quan hệ với
Quốc hội, Chính phủ, tòa án nhân dân, viện Kiểm sát nhân dân theo quy định của
Hiến pháp.

6. Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ, chính quyền địa phương; xây
dựng nền hành chính nhà nước phục vụ Nhân dân, chuyên nghiệp, pháp quyền, hiện
đại, hiệu lực, hiệu quả
- Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ, chính quyền địa phương theo
hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; tổ chức các bộ, các cơ quan chuyên
môn đa ngành, đa lĩnh vực; giảm hợp lý số lượng các bộ, cơ quan ngang bộ và cơ
quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện.

Tăng cường vai trò, nâng cao trách nhiệm của bộ trưởng với tư cách thành viên Chính
phủ trong quản lý vĩ mô và xây dựng chính sách.

Thực hiện nguyên tắc một việc chỉ giao cho một cơ quan chủ trì, chịu trách nhiệm
chính, các cơ quan có liên quan phối hợp thực hiện; từng bước xóa bỏ cơ chế phối
hợp liên ngành, gắn với việc xác định rõ trách nhiệm của người đứng đầu.

Phát huy đầy đủ vị trí, vai trò của Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao
nhất, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội; đề cao tính chủ
động, sáng tạo, tập trung vào quản lý vĩ mô, xây dựng chính sách, pháp luật, chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch, công cụ kiểm tra, giám sát, bảo đảm tính thống nhất, thông
suốt, kỷ luật, kỷ cương, hiệu lực, hiệu quả của nền hành chính quốc gia.

Ðổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu lực, hiệu quả, tập trung quản lý
phát triển; bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, nâng cao tính minh bạch,
trách nhiệm giải trình và sự tham gia của người dân.

- Xác định rõ và thực hiện đầy đủ vị trí, vai trò, thẩm quyền, trách nhiệm của Chính
phủ trong xây dựng pháp luật, nâng cao năng lực phản ứng chính sách; bảo đảm chủ
động tham gia, phối hợp chặt chẽ, tăng cường kiểm soát của Chính phủ đối với nền
hành chính quốc gia và việc thực hiện quyền lập pháp.
- Xây dựng nền hành chính phục vụ Nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp,
hiện đại, khoa học, trong sạch, công khai, minh bạch, tạo môi trường thuận lợi cho
người dân, doanh nghiệp.

Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, trọng tâm là nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ, công chức, viên chức với ba trụ cột chính: Tổ chức bộ máy; công vụ, công chức;
hành chính điện tử và chuyển đổi số.

Ðơn giản hóa thủ tục hành chính, cắt bỏ các thủ tục không cần thiết, gây phiền hà cho
người dân và doanh nghiệp, cản trở cạnh tranh lành mạnh; áp dụng hiệu quả dịch vụ
công trực tuyến; xây dựng nền kinh tế số, chính phủ số, xã hội số.

Tiếp tục cải cách, nâng cao hiệu quả quản lý tài chính công, chất lượng dịch vụ công;
sắp xếp lại các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng tinh gọn, bảo đảm chất lượng,
hoạt động hiệu quả.

- Hoàn thiện tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với các địa bàn đô thị, nông
thôn, miền núi, hải đảo, đơn vị hành chính-kinh tế đặc biệt; giảm cấp chính quyền phù
hợp ở một số địa phương; xây dựng mô hình quản trị chính quyền địa phương phù
hợp với từng địa bàn, gắn với yêu cầu phát triển các vùng, khu kinh tế.

- Tiếp tục sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã; nghiên cứu thí điểm sắp
xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh phù hợp với quy hoạch tổng thể các đơn vị hành chính
của quốc gia và từng địa phương; xây dựng cơ chế, thể chế, chính sách đặc thù thúc
đẩy phát triển vùng, liên kết vùng đủ mạnh, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội,
bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất nước.

- Ðẩy mạnh phân cấp, phân quyền khoa học, hợp lý, đi đôi với nâng cao trách nhiệm,
gắn với bảo đảm nguồn lực, năng lực thực hiện pháp luật cho các địa phương và các
bộ; tăng cường kiểm tra, giám sát; bảo đảm quản lý thống nhất của Chính phủ, phát
huy vai trò chủ động, sáng tạo, tự chịu trách nhiệm của từng địa phương và các bộ.

Xác định rõ trách nhiệm giữa Chính phủ với các bộ; giữa các bộ với nhau; giữa Chính
phủ, các bộ với chính quyền địa phương; khắc phục triệt để tình trạng chồng chéo
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; phân định rõ trách nhiệm giữa cá nhân và tập thể, đề
cao vai trò, trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu trong các cơ quan hành chính
nhà nước.

- Tập trung phát triển toàn diện và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu
cầu của nền hành chính quốc gia; cải cách mạnh mẽ chế độ công vụ, công chức; hoàn
thiện hệ thống tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm, tiêu chuẩn nghiệp vụ, tiêu chí
đánh giá cán bộ, công chức, viên chức dựa trên kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao
bằng sản phẩm cụ thể và sự hài lòng của người dân, doanh nghiệp.

7. Xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm
chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân
- Hoàn thiện chính sách, pháp luật liên quan đến tư pháp, bảo đảm tôn trọng và bảo vệ
quyền con người, quyền công dân. Hoàn thiện cơ chế phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý
mọi hành vi can thiệp trái pháp luật vào hoạt động tư pháp; bảo đảm tính độc lập của
tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật.

- Xây dựng chế định tố tụng tư pháp lấy xét xử là trung tâm, tranh tụng là đột phá; bảo
đảm tố tụng tư pháp dân chủ, công bằng, văn minh, pháp quyền, hiện đại, nghiêm
minh, dễ tiếp cận, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Áp dụng
hiệu quả thủ tục tố tụng tư pháp rút gọn; kết hợp các phương thức phi tố tụng tư pháp
với các phương thức tố tụng tư pháp.

Ðổi mới và nâng cao hiệu quả cơ chế Nhân dân tham gia xét xử tại tòa án. Tổng kết
thực tiễn, nghiên cứu hoàn thiện quy định pháp luật về khởi kiện vụ án dân sự trong
trường hợp chủ thể các quyền dân sự là nhóm dễ bị tổn thương hoặc trường hợp liên
quan đến lợi ích công nhưng không có người đứng ra khởi kiện.

- Hoàn thiện cơ chế để khắc phục tình trạng quan hệ giữa các cấp tòa án là quan hệ
hành chính, bảo đảm độc lập giữa các cấp xét xử và độc lập của thẩm phán, hội thẩm
khi xét xử. Phân định rõ nhiệm vụ xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, xét lại bản án,
quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm; xây dựng tòa án điện tử.

Xác định thẩm quyền của tòa án để thực hiện đầy đủ, đúng đắn quyền tư pháp; mở
rộng thẩm quyền của tòa án trong xét xử các vi phạm hành chính, quyết định một số
vấn đề liên quan đến quyền con người, quyền công dân. Nghiên cứu làm rõ thẩm
quyền hội đồng xét xử khởi tố vụ án tại phiên tòa, những trường hợp tòa án thu thập
chứng cứ trong hoạt động xét xử.

- Hoàn thiện thể chế để viện kiểm sát nhân dân thực hiện tốt chức năng thực hành
quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; hoàn thiện cơ chế tăng cường trách
nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, tăng cường kiểm soát bên trong việc thực
hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động xét xử phù hợp với nguyên tắc thẩm phán,
hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

- Tiếp tục rà soát, điều chỉnh, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của cơ
quan điều tra và các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
theo hướng tinh, gọn, chuyên nghiệp, chất lượng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ được giao và góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân đối với
người bị giữ, bị bắt, tạm giữ, tạm giam theo quy định của pháp luật.

Nghiên cứu hoàn thiện cơ chế cơ quan điều tra kiến nghị xem xét, giải quyết trường
hợp các lệnh, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra bị viện kiểm sát hủy bỏ hoặc
không phê chuẩn không phù hợp với quy định của pháp luật.

- Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan thi hành án. Hoàn thiện
cơ chế thi hành án hình sự theo hướng nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác quản lý
giáo dục, cải tạo phạm nhân, quản lý, giám sát, giáo dục người chấp hành án hình sự
tại cộng đồng; bảo đảm và bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân đối với
người chấp hành án theo quy định của pháp luật.

Hoàn thiện cơ chế nâng cao chất lượng, hiệu quả thi hành án dân sự, hành chính theo
hướng rút ngắn thời gian, giảm thiểu chi phí. Nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các cơ
quan trong thi hành án hình sự, dân sự và hành chính; thực hiện xã hội hóa một số
hoạt động thi hành án dân sự với cơ chế bảo đảm và lộ trình phù hợp.

- Hoàn thiện thể chế về luật sư và hành nghề luật sư, bảo đảm để luật sư thực hiện tốt
quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm theo quy định của pháp luật. Nâng cao hiệu lực, hiệu
quả quản lý nhà nước và trách nhiệm tự quản của tổ chức xã hội-nghề nghiệp đối với
luật sư, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động hành nghề luật sư.

Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng và phát triển đội ngũ luật sư có
bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức nghề nghiệp trong sáng, am hiểu pháp luật, giỏi
về kỹ năng hành nghề và ngoại ngữ, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập
quốc tế. Củng cố hội luật gia các cấp, nâng cao vai trò, trách nhiệm của thành viên hội
luật gia trong thực hiện nhiệm vụ đúng quy định pháp luật.

- Tiếp tục hoàn thiện cơ chế huy động nguồn lực để xã hội hóa và phát triển các lĩnh
vực công chứng, hòa giải, trọng tài, thừa phát lại, giám định tư pháp; xây dựng đội
ngũ hành nghề công chứng, hòa giải, trọng tài, thừa phát lại, giám định tư pháp đủ về
số lượng và bảo đảm chất lượng, hoạt động chuyên nghiệp, tuân thủ pháp luật và
chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, đáp ứng tốt nhu cầu của xã hội.

- Nâng cao vai trò, tính chuyên nghiệp và chất lượng trợ giúp pháp lý, nhất là trong
hoạt động tố tụng tư pháp; hiện đại hóa, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin
trong hệ thống trợ giúp pháp lý; mở rộng đối tượng được trợ giúp pháp lý phù hợp với
điều kiện của đất nước.

- Phát triển nhân lực tư pháp đủ số lượng, bảo đảm chất lượng, có cơ cấu hợp lý. Nâng
cao chất lượng đào tạo nhân lực tư pháp; rà soát, sắp xếp hợp lý các cơ sở đào tạo cử
nhân luật. Xác định rõ hệ tiêu chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị,
phẩm chất đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp, kiến thức pháp luật, kinh tế, xã hội và
kinh nghiệm thực tiễn đối với từng chức danh, nhân lực tư pháp.

Mở rộng nguồn, đẩy mạnh thực hiện cơ chế thi tuyển để bổ nhiệm các chức danh tư
pháp. Ðổi mới chính sách, chế độ tiền lương, thời hạn bổ nhiệm và cơ chế bảo đảm để
đội ngũ cán bộ tư pháp yên tâm công tác, liêm chính, công tâm, chuyên nghiệp, đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, nhất là đối với đội ngũ thẩm phán.

8. Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước; đẩy mạnh phòng, chống tham
nhũng, tiêu cực
- Hoàn thiện cơ chế thực thi quyền lực nhà nước, xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của mỗi cơ quan và mối quan hệ giữa các cơ quan
nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; bảo đảm quyền lực
nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường
kiểm soát quyền lực bên trong mỗi cơ quan và giữa các cơ quan nhà nước, giữa Trung
ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương và giữa các cơ quan trong
cùng một cấp chính quyền.

Quy định rõ hơn thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan hành pháp trong kiểm soát các
cơ quan thực hiện quyền lập pháp, quyền tư pháp; của cơ quan tư pháp trong kiểm
soát các cơ quan thực hiện quyền hành pháp, quyền lập pháp.
Mọi quyền lực phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế, phải được ràng buộc bằng
trách nhiệm, quyền lực đến đâu trách nhiệm đến đó, quyền lực càng cao trách nhiệm
càng lớn; lạm dụng, lợi dụng quyền lực phải bị truy cứu trách nhiệm và xử lý. Kiểm
soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của Nhà nước và
cán bộ, công chức, viên chức.

- Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả các cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực nhà
nước của Ðảng, Nhà nước và Nhân dân; thực hiện đầy đủ nguyên tắc tập trung dân
chủ, trách nhiệm giải trình, công khai, minh bạch trong từng cơ quan nhà nước.

Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan kiểm tra đảng, cơ
quan tham mưu, giúp việc của Ðảng, cơ quan thanh tra, kiểm toán nhà nước. Hoàn
thiện cơ chế để Nhân dân trực tiếp kiểm soát quyền lực nhà nước; bảo đảm quyền tiếp
cận thông tin, quyền kiến nghị, phản ánh, khiếu nại, tố cáo và các quyền khác của
công dân theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.

Phát huy hơn nữa vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị-xã hội,
đoàn thể và các cơ quan báo chí trong giám sát, kiểm soát quyền lực nhà nước.

- Kiên quyết, kiên trì đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực. Nghiên cứu
thành lập các thiết chế mới về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu
cực; ban hành các quy định về kiểm soát quyền lực để phòng, chống tham nhũng, tiêu
cực trong công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án;
trong công tác xây dựng pháp luật và quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công.

Hình thành cơ chế phòng ngừa chặt chẽ để không thể tham nhũng, tiêu cực; phát hiện,
xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi tham nhũng, tiêu cực để không dám tham
nhũng, tiêu cực; đẩy mạnh cải cách chính sách tiền lương, nâng cao đời sống của cán
bộ, công chức, viên chức; xây dựng văn hóa liêm chính, tiết kiệm để không cần,
không muốn tham nhũng, tiêu cực.

9. Tăng cường, chủ động hội nhập quốc tế đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình
hình mới
- Tiếp tục hoàn thiện cơ chế để chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu
rộng, thực chất, hiệu quả, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa
bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc trên
cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp Quốc và pháp luật quốc tế;
giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia, chế
độ xã hội chủ nghĩa.

Chủ động tham gia, đóng góp vào việc xây dựng, định hình các thể chế đa phương và
trật tự quốc tế, khu vực. Hoàn thiện pháp luật điều chỉnh mối quan hệ giữa pháp luật
Việt Nam và pháp luật quốc tế; giải quyết hiệu quả các xung đột về thẩm quyền và
pháp luật giữa Việt Nam và các quốc gia khác, bảo đảm tốt các quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của cá nhân, tổ chức, cơ quan nhà nước Việt Nam.

Hoàn thiện cơ chế và nâng cao năng lực của các cơ quan, tổ chức có liên quan, thực
hiện đầy đủ, hiệu quả các cam kết, điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc
tham gia.
- Nâng cao hiệu quả, chất lượng đào tạo nhân lực hợp tác pháp luật quốc tế; xây dựng
cơ chế thúc đẩy sự tham gia và hiện diện của chuyên gia pháp luật Việt Nam trong
các thiết chế pháp luật quốc tế; hoàn thiện cơ chế pháp lý về bảo hộ, bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp, chính đáng của công dân, pháp nhân Việt Nam ở nước ngoài.

- Tăng cường công tác thông tin đối ngoại về chủ trương, đường lối của Ðảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, những thành tựu trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm và bảo vệ quyền con
người, quyền công dân của Việt Nam.

10. Tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và nhân dân trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam
- Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện,
thống nhất của Ðảng, phát huy trách nhiệm, tính chủ động, sáng tạo và hiệu lực, hiệu
quả trong quản lý, điều hành của Nhà nước. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng
xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện nghị quyết của Ðảng.

Tăng cường lãnh đạo xây dựng tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
các cấp đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Phát huy vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu. Chú trọng
lãnh đạo đổi mới, nâng cao chất lượng lập pháp, cải cách hành chính và cải cách tư
pháp.

Tiếp tục cụ thể hóa phương thức lãnh đạo của Ðảng thông qua việc ban hành, sửa đổi,
bổ sung các quy chế, quy định, quy trình cụ thể, công khai để cán bộ, đảng viên và
Nhân dân biết, giám sát việc thực hiện.

Tăng cường kiểm tra, giám sát việc cụ thể hóa, thể chế hóa và tổ chức thực hiện các
chủ trương, đường lối của Ðảng; khắc phục triệt để tình trạng thực hiện không đầy đủ,
không nghiêm, không hiệu quả.

- Tiếp tục cụ thể hóa, thể chế hóa, hoàn thiện, thực hiện tốt cơ chế "Ðảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ" và phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng".

Mọi chủ trương, đường lối của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi
ích và hạnh phúc của Nhân dân; phát huy đầy đủ quyền làm chủ, tính tích cực, sáng
tạo của Nhân dân.

Hoàn thiện cơ chế để phát huy vai trò của Nhân dân tham gia xây dựng Ðảng và hệ
thống chính trị trong sạch, vững mạnh, các quy định cụ thể để tăng cường và bảo đảm
Ðảng gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân
dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình; bảo đảm các tổ
chức đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, thực sự
gương mẫu, đi đầu trong việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật.
- Tiếp tục đổi mới tổ chức bộ máy, cơ chế hoạt động, phát huy đầy đủ, hiệu quả vai
trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị-xã hội, đoàn thể trong xây
dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Xây dựng và hoàn thiện cơ chế để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính
trị-xã hội thực hiện tốt vai trò nòng cốt trong việc phát huy quyền làm chủ của Nhân
dân, giám sát, phản biện xã hội, tham gia xây dựng Ðảng, Nhà nước, kiểm soát quyền
lực nhà nước và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần tăng cường sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

V - TỔ CHỨC THỰC HIỆN


1. Bộ Chính trị ban hành Kế hoạch thực hiện Nghị quyết; lãnh đạo, chỉ đạo triển khai
đồng bộ, kịp thời, hiệu quả, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, hành động của
cả hệ thống chính trị và toàn xã hội về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.

2. Các tỉnh ủy, thành ủy, các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực
thuộc Trung ương tổ chức nghiên cứu, học tập, quán triệt, xây dựng chương trình, kế
hoạch và tổ chức thực hiện Nghị quyết.

3. Ðảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng Chính phủ, Ban cán sự đảng Tòa án nhân
dân tối cao, Ban cán sự đảng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao chỉ đạo rà soát sửa đổi,
bổ sung các văn bản pháp luật có liên quan, bảo đảm đồng bộ, thống nhất, tạo cơ sở
pháp lý thực hiện nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam và giám sát việc thực hiện Nghị quyết.

4. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội tăng cường công tác
giám sát, phản biện xã hội, đẩy mạnh vận động các tầng lớp Nhân dân tích cực tham
gia xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và giám sát việc thực
hiện Nghị quyết.

5. Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì, phối hợp với Ban Nội chính Trung ương giúp
Bộ Chính trị, Ban Bí thư hướng dẫn, tổ chức nghiên cứu, học tập, quán triệt, tuyên
truyền, phổ biến về Nghị quyết; chỉ đạo các cơ quan báo chí tăng cường tuyên truyền
về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và quá trình thực hiện Nghị
quyết.

6. Ban Nội chính Trung ương chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan thường
xuyên đôn đốc, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc thực hiện Nghị quyết; định kỳ sơ
kết, tổng kết, báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

 Nghị quyết số 28-NQ/TW về tiếp tục đổi mới phương thức


lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
I- TÌNH HÌNH
Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khoá X, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính
trị đã có nhiều đổi mới, đạt được nhiều kết quả quan trọng. Nhận thức, trách nhiệm
của cấp ủy, tổ chức đảng, tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, người
đứng đầu trong tuyên truyền, vận động, tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của
Đảng được nâng cao. Bảo đảm thực hiện đúng cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý, Nhân dân làm chủ".

Việc sắp xếp tổ chức bộ máy, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, phát huy tính chủ
động, sáng tạo của các cấp uỷ, tổ chức đảng được tăng cường, từng bước khắc phục
tình trạng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo của Đảng. Chất lượng
đội ngũ cán bộ được nâng lên, việc phân công, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ của Đảng
vào các vị trí lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị ngày càng chặt chẽ. Công tác
kiểm tra, giám sát được đẩy mạnh, góp phần siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng.

Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, cải cách hành chính, đổi mới phong
cách, lề lối làm việc của Đảng được chú trọng. Đã ban hành nhiều quy định, cơ chế để
phát huy dân chủ, vai trò giám sát của cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
các tổ chức chính trị - xã hội và Nhân dân trong xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống
chính trị. Việc đổi mới phương thức lãnh đạo gắn với xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã
góp phần quan trọng vào việc nâng cao năng lực cầm quyền, bảo đảm sự lãnh đạo
toàn diện, hiệu quả của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị và trên các lĩnh
vực phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thúc đẩy sự
nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tăng cường niềm tin của Nhân dân đối
với Đảng.

Tuy nhiên, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị vẫn còn
những hạn chế: Một số chủ trương, định hướng lớn của Đảng chưa được thể chế kịp
thời, đầy đủ hoặc đã thể chế nhưng không khả thi. Chậm khắc phục tình trạng ban
hành nhiều văn bản, một số văn bản còn chung chung, dàn trải, chậm bổ sung, sửa
đổi, thay thế.

Mô hình tổng thể của hệ thống chính trị chưa hoàn thiện; chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn, mối quan hệ công tác của tổ chức, cá nhân, người đứng đầu có nội dung chưa rõ;
phân cấp, phân quyền chưa mạnh.

Một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa chú trọng công tác kiểm tra, giám sát; chưa phát
huy hết vai trò, trách nhiệm kiểm tra, giám sát của các cơ quan tham mưu, giúp việc.
Công tác tuyên truyền, giáo dục chưa tác động đến một số đối tượng, địa bàn...

Chưa phát huy tốt vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã
hội và Nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị. Cải cách hành
chính, đổi mới phong cách, lề lối làm việc trong Đảng chưa đáp ứng yêu cầu của tình
hình mới.

Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế nêu trên là do: Nhận thức của một số cấp
ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với hệ thống chính trị chưa đầy đủ, sâu sắc, thiếu thống nhất, đồng bộ trong quá trình
tổ chức thực hiện. Năng lực cụ thể hoá và lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện chủ
trương, đường lối của Đảng còn hạn chế, hiệu quả chưa cao.

Chính sách cán bộ chưa thực sự tạo động lực để cán bộ toàn tâm, toàn ý với công
việc. Một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu gương mẫu, năng lực, phẩm chất, uy tín
hạn chế, vi phạm kỷ luật đảng, pháp luật Nhà nước ảnh hưởng đến niềm tin của Nhân
dân đối với Đảng.
Một số cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu chưa thực hiện nghiêm nguyên tắc của
Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ; còn để xảy ra tình trạng cục bộ, mất đoàn
kết, bao biện, làm thay, áp đặt, lạm dụng quyền lực, né tránh, sợ trách nhiệm, buông
lỏng lãnh đạo.

II- QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU


1. Quan điểm
- Đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng phải kiên định, vận dụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; thực hiện nghiêm
các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân
chủ; làm rõ hơn nữa chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, đẩy mạnh phân cấp, phân
quyền, gắn với nêu cao trách nhiệm của tổ chức và cá nhân, nhất là người đứng đầu;
giữ vững sự lãnh đạo tập trung, thống nhất, kỷ luật, kỷ cương; bảo đảm nguyên tắc
quyền lực đi đôi với trách nhiệm, mọi cán bộ, đảng viên phải hoạt động trong khuôn
khổ pháp luật, nguyên tắc và kỷ luật của Đảng.

- Phải chủ động, tích cực, có quyết tâm chính trị cao, đồng thời cần thận trọng, có
bước đi vững chắc; vấn đề đã rõ thì kiên quyết đổi mới, vấn đề cần thiết nhưng chưa
rõ, còn ý kiến khác nhau thì phải nghiên cứu, thí điểm, không nóng vội nhưng cũng
không bỏ qua hoặc để chậm, ảnh hưởng đến sự phát triển; kế thừa, phát huy những
thành tựu, kết quả, kinh nghiệm tốt trong phương thức lãnh đạo của Đảng đã được
thực tiễn chứng minh là đúng.

Ở mỗi cấp, mỗi lĩnh vực phải vừa quán triệt các nguyên tắc chung, vừa phải phù hợp
với đặc điểm, yêu cầu, nhiệm vụ lãnh đạo của từng cấp, từng lĩnh vực và của từng loại
hình cơ quan nhà nước, từng tổ chức chính trị - xã hội.

- Phải có quyết tâm cao, nỗ lực lớn trong tổ chức thực hiện, tạo sự chuyển biến mạnh
mẽ, sâu sắc về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới, triển
khai thực hiện đồng bộ các phương thức lãnh đạo của Đảng.

Đẩy mạnh đổi mới, nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu xây dựng, ban hành, tổ
chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng; đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác tổ chức, cán bộ; đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo
dục, vận động; phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên; đồng
thời, đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới phong cách lãnh đạo, phương pháp công
tác, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương tới cơ sở.

2. Mục tiêu
- Tạo chuyển biến mạnh mẽ, thực chất trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với hệ thống chính trị, bảo đảm hiệu quả, thiết thực, sát thực tiễn, đáp ứng yêu cầu
lãnh đạo toàn diện của Đảng trong giai đoạn mới. Giữ vững nguyên tắc của Đảng,
đồng thời phát huy sự chủ động, sáng tạo của các cấp uỷ, tổ chức đảng và cán bộ,
đảng viên, của từng cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hệ thống chính trị.

- Nâng cao năng lực tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, nhất là thể
chế hoá, cụ thể hoá thành luật và các văn bản dưới luật; tạo chuyển biến thực sự, đạt
kết quả cao trong thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng ở các cấp. Đề cao trách
nhiệm của tập thể, phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên,
người đứng đầu trong thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước, gắn với kiểm soát quyền lực chặt chẽ.

- Xây dựng phương pháp công tác, lề lối làm việc của các cấp uỷ, tổ chức đảng, thực
sự khoa học, dân chủ, sát với thực tiễn; bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng thông
suốt từ Trung ương đến cơ sở.

III- NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP


1. Đổi mới, nâng cao chất lượng ban hành và tổ chức thực hiện đạt hiệu quả cao chủ
trương, đường lối của Đảng
- Đổi mới, nâng cao chất lượng xây dựng, ban hành văn bản của Đảng theo hướng
đồng bộ, toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, tính dự báo cao, bám sát thực tiễn. Chỉ
ban hành văn bản mới khi thật sự cần thiết.

Đối với những văn bản quan trọng, tác động sâu rộng, trước khi ban hành cần lấy ý
kiến của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội,
cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên. Tiếp tục hoàn thiện quy định về ban hành
văn bản của Đảng; khắc phục tình trạng ban hành văn bản không sát với thực tiễn, nội
dung chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu tính khả thi, không rõ trách nhiệm, thiếu nguồn
lực tổ chức thực hiện.

- Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, bảo
đảm đạt hiệu quả cao với các biện pháp chủ yếu như: Tổ chức cho cán bộ, đảng viên
và Nhân dân nghiên cứu, học tập quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng; xây dựng
chương trình, kế hoạch để triển khai thực hiện phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và
điều kiện cụ thể của cơ quan, đơn vị, địa phương; tập trung nghiên cứu, thể chế thành
luật và các văn bản dưới luật; xây dựng các quy định, quy chế của Đảng; tăng cường
kiểm tra, giám sát quá trình tổ chức thực hiện; đổi mới cách thức thông tin, báo cáo
kết quả thực hiện của địa phương, đơn vị.

Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cấp ủy, tổ chức đảng
thường xuyên lãnh đạo, định hướng, cho chủ trương đối với những vấn đề lớn, mới,
phức tạp, nhạy cảm trong quá trình tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng
hoặc cho chủ trương thí điểm một số nội dung cần thiết.

- Nâng cao chất lượng tham mưu văn bản của các cơ quan tham mưu, giúp việc của
Đảng, nhất là trong tham mưu chiến lược, hoạch định chủ trương, đường lối; hướng
dẫn, đôn đốc, kiểm tra, giám sát thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng.

- Tập trung lãnh đạo các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị thực hiện tốt các
nội dung sau:

Đối với Quốc hội: Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác bầu cử đại biểu Quốc hội và
hội đồng nhân dân các cấp. Đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc
hội trong thực hiện chức năng lập pháp, giám sát tối cao, quyết định các vấn đề quan
trọng của đất nước.

Đặc biệt coi trọng xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, khả thi,
công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người
dân, tổ chức, doanh nghiệp làm trọng tâm; chống tiêu cực, lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ
trong xây dựng pháp luật.

Phát huy dân chủ, pháp quyền, hiện đại, chuyên nghiệp, khoa học; nâng cao chất
lượng đại biểu Quốc hội, nhất là đại biểu hoạt động chuyên trách, bảo đảm Quốc hội
thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao
nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Đối với Chính phủ: Tập trung lãnh đạo xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ
Nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh,
công khai, minh bạch, hiệu quả; tăng cường quản lý vĩ mô, xây dựng thể chế, chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch đồng bộ, thống nhất.

Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, làm rõ hơn
nữa chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng tổ chức, cá nhân trong bộ máy hành
chính, cải cách hành chính, đi đôi với nâng cao năng lực thực thi và tăng cường kiểm
tra, giám sát, kiểm soát quyền lực, bảo đảm Chính phủ thực sự là cơ quan hành chính
nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội.

Đối với các cơ quan tư pháp: Lãnh đạo tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng,
hiệu lực, hiệu quả hoạt động của toà án nhân dân, xác định việc lãnh đạo đổi mới tổ
chức, nâng cao chất lượng hoạt động toà án nhân dân các cấp là trọng tâm trong lãnh
đạo cải cách tư pháp; viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan điều tra, thi hành án, bổ trợ
tư pháp đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp; xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện
đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, bảo
vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá
nhân.

Đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội: Lãnh đạo đổi mới
nội dung, phương thức hoạt động, hướng mạnh về cơ sở, nâng cao hiệu quả công tác
tuyên truyền, vận động thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng; thực hiện tốt vai
trò đại diện cho quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng, phản ánh tâm tư, nguyện vọng
của đoàn viên, hội viên và Nhân dân; nâng cao chất lượng các phong trào thi đua yêu
nước, các cuộc vận động, hoạt động giám sát, phản biện xã hội; xây dựng và chỉnh
đốn tổ chức, phát triển đoàn viên, hội viên; làm cầu nối vững chắc giữa Đảng với
Nhân dân.

2. Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, vận động
- Đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên
truyền, vận động cán bộ, đảng viên và Nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước bảo đảm thiết thực, phù hợp với từng đối
tượng.

Chú trọng tiếp thu ý kiến góp ý, phản biện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ
chức chính trị - xã hội và Nhân dân trong thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng,
nhất là những vấn đề mới phát sinh từ thực tiễn. Phát huy vai trò của cơ quan báo chí,
truyền thông, đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên trong công tác tuyên truyền, đi
đôi với việc đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ
thông tin, công nghệ số.
- Nâng cao trách nhiệm, tính tự giác, gương mẫu của các cấp uỷ, tổ chức đảng, cơ
quan, tổ chức, cán bộ, đảng viên trong thực hiện và vận động thực hiện chủ trương,
đường lối của Đảng, kịp thời biểu dương, tôn vinh những tấm gương tiêu biểu, nhân
tố mới, điển hình tiên tiến.

Chú trọng định hướng chính trị, tư tưởng; tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng, kiên quyết đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch; tích cực đấu tranh
phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

- Thực hiện tốt quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về dân chủ ở cơ sở và
Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị, nhất là công tác dân vận của các cơ
quan nhà nước với phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám
sát, dân thụ hưởng".

Phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, lấy quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của
Nhân dân làm trung tâm trong thực hiện quy chế và pháp luật về dân chủ ở cơ sở.
Tiếp tục đổi mới công tác tuyên truyền, vận động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các
tổ chức chính trị - xã hội, tăng cường sự đồng thuận, hưởng ứng tham gia của Nhân
dân, góp phần thực hiện hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng.

3. Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tổ chức, cán bộ
3.1. Về tổ chức bộ máy
- Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện mô hình tổng thể tổ chức bộ máy của hệ thống chính
trị, vận hành thông suốt cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm
chủ". Chú trọng lãnh đạo xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.

- Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của đảng đoàn, ban
cán sự đảng từ Trung ương đến địa phương đáp ứng yêu cầu lãnh đạo của Đảng, phù
hợp với thực tiễn.

Đẩy mạnh phát triển tổ chức cơ sở đảng, nhất là trong khu vực ngoài nhà nước và ở
xã, phường, thị trấn, thôn, tổ dân phố; sắp xếp hợp lý tổ chức đảng ở địa phương, tổ
chức đảng theo ngành dọc bảo đảm yêu cầu lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chuyên môn
và xây dựng Đảng.

Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác của các loại hình
tổ chức đảng. Nghiên cứu mô hình tổ chức đảng của các cơ quan dân cử và Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam phù hợp với tính chất hoạt động.

- Nâng cao trách nhiệm của các cấp uỷ, tổ chức đảng trong chấp hành, thực hiện có
hiệu quả các chủ trương của Đảng liên quan đến tổ chức bộ máy; tiếp tục đổi mới, sắp
xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

Rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn, mối quan hệ công tác của từng cơ quan, tổ chức; khắc phục tình trạng trùng lặp,
chồng chéo, bỏ sót hoặc không rõ chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực quản lý.
Phân cấp, phân quyền hợp lý, rõ ràng giữa Trung ương và địa phương, giữa cấp trên
và cấp dưới, gắn quyền hạn với trách nhiệm. Khắc phục tình trạng cấp dưới hỏi cấp
trên việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình hoặc cấp trên trả lời
chung chung không rõ trách nhiệm khi có vướng mắc…

Hoàn thiện cơ chế bảo đảm kiểm soát quyền lực trong hoạt động của các cơ quan, tổ
chức, nhất là trong các cơ quan quản lý nhà nước, những lĩnh vực quan trọng, nhạy
cảm, dễ lạm dụng quyền lực.

- Thực hiện nghiêm chủ trương của Đảng về công tác quản lý biên chế của hệ thống
chính trị, tinh giản biên chế theo vị trí việc làm, có trọng tâm, trọng điểm gắn với
nâng cao chất lượng, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.

Đến năm 2025, cơ bản hoàn thiện xây dựng vị trí việc làm trong từng cơ quan, tổ
chức, làm cơ sở để xác định tổng biên chế của hệ thống chính trị giai đoạn 2026 -
2031.

3.2. Về công tác cán bộ


- Bảo đảm nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo trực tiếp, toàn diện công tác cán bộ
và quản lý đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị. Đảng trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo,
xem xét, phân công, giới thiệu cán bộ vào các vị trí lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu
cấp uỷ, tổ chức đảng, cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị và thông qua đội ngũ
cán bộ để lãnh đạo thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng.

Các cấp ủy, tổ chức đảng chú trọng lựa chọn, bố trí cán bộ đủ tiêu chuẩn để bầu vào
cấp ủy, chức danh lãnh đạo của các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ
chức chính trị - xã hội các cấp; lãnh đạo việc bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm theo quy
định của pháp luật, điều lệ của các tổ chức.

- Hoàn thiện quy định lựa chọn, phân công, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ của các cấp
ủy, tổ chức đảng theo hướng dân chủ, công khai, minh bạch, bảo đảm tiêu chuẩn, điều
kiện quy định. Tổng kết việc thí điểm thi tuyển một số chức danh lãnh đạo, quản lý.

Thực hiện nghiêm quy định của Đảng về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ,
chống chạy chức, chạy quyền. Tiếp tục hoàn thiện các quy định về cơ chế tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách, trách nhiệm người đứng đầu trong công tác cán bộ, nhất là
trong đánh giá, giới thiệu, bổ nhiệm cán bộ.

- Tiếp tục cụ thể hóa, thực hiện có hiệu quả chủ trương của Đảng về xây dựng đội ngũ
cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm
nhiệm vụ, bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ; các chủ
trương, quy định liên quan đến công tác cán bộ như tiêu chuẩn chức danh, đánh giá,
đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch, luân chuyển, bổ nhiệm, chế độ, chính sách; tăng
cường phân cấp, phân quyền trong quản lý cán bộ.

- Xây dựng cơ chế, chính sách thu hút, tuyển dụng nhân tài vào làm việc trong hệ
thống chính trị; thể chế chủ trương của Đảng về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng
động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; sửa đổi
chính sách, pháp luật để liên thông cán bộ từ cấp xã tới cấp huyện, cấp tỉnh.
Khuyến khích cán bộ từ chức khi có khuyết điểm; kịp thời thay thế cán bộ bị kỷ luật,
cán bộ năng lực hạn chế, uy tín giảm sút mà không chờ hết nhiệm kỳ, hết thời hạn bổ
nhiệm; kiên trì thực hiện "có vào, có ra, có lên, có xuống" trong công tác cán bộ. Tổ
chức thực hiện nghiêm kết luận của Bộ Chính trị về chủ trương bố trí công tác đối với
cán bộ sau khi bị kỷ luật, góp phần bảo đảm kỷ cương, củng cố niềm tin của cán bộ,
đảng viên, Nhân dân đối với Đảng và chế độ.

- Khắc phục hạn chế, yếu kém, hình thức trong đánh giá cán bộ. Đánh giá cán bộ phải
toàn diện, chặt chẽ, thực chất, khách quan, nhiều chiều cùng với phẩm chất, bản lĩnh
chính trị, ý thức, trách nhiệm, uy tín trong tập thể, trong Nhân dân, phải đặc biệt chú
trọng kỹ năng công tác, chất lượng, hiệu quả công việc được giao, bằng sản phẩm, kết
quả cụ thể; gắn đánh giá cá nhân với tập thể và kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị
của cơ quan, đơn vị, địa phương.

Thường xuyên cảnh báo, nhắc nhở giúp cán bộ nhận diện nguy cơ, không mắc sai
lầm, kịp thời khắc phục khuyết điểm. Xác định rõ trách nhiệm người đứng đầu khi để
cấp phó, cán bộ dưới quyền trực tiếp tiêu cực, tham nhũng.

Thực hiện nghiêm quy định của Đảng về việc lấy phiếu tín nhiệm trong lãnh đạo cấp
uỷ, các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội
bảo đảm dân chủ, khách quan, công bằng, minh bạch. Kết quả lấy phiếu tín nhiệm là
cơ sở quan trọng cho việc đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ.

Phát huy vai trò của cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị -
xã hội và Nhân dân trong giám sát việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ và giữ gìn
phẩm chất, đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ các cấp.

- Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cơ quan tham mưu, giúp việc của Đảng ở các
cấp, nhất là cán bộ tham mưu cấp chiến lược có đủ bản lĩnh, phẩm chất, trình độ, năng
lực, kinh nghiệm, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của Đảng.

4. Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát
- Tăng cường, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Phát
huy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan tham mưu, giúp việc của Đảng trong kiểm
tra, giám sát các hoạt động thuộc lĩnh vực được giao. Phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa
công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với công tác thanh tra, kiểm toán, điều tra của
Nhà nước.

- Thực hiện hiệu quả Chiến lược kiểm tra, giám sát của Đảng đến năm 2030. Chú
trọng kiểm tra, giám sát việc cụ thể hoá chủ trương, đường lối của Đảng; tổ chức thực
hiện nghị quyết đại hội đảng các cấp; thực hiện kết luận kiểm tra của cấp uỷ, tổ chức
đảng. Thường xuyên kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên, người đứng đầu trong thực
hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, trong công
tác cán bộ và vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên.

- Đổi mới phương pháp, quy trình, nâng cao kỹ năng kiểm tra, giám sát, bảo đảm
khách quan, dân chủ, khoa học, đồng bộ, thống nhất, thận trọng, chặt chẽ. Thực hiện
giám sát mở rộng, kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm; chủ động phòng ngừa, ngăn
chặn khuyết điểm, vi phạm của tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên từ sớm, từ xa, không
để vi phạm nhỏ tích tụ thành sai phạm lớn.
Tập trung kiểm tra, giám sát tổ chức đảng, người đứng đầu, cán bộ chủ chốt ở những
nơi dễ xảy ra vi phạm, nơi có nhiều bức xúc, dư luận quan tâm, các lĩnh vực dễ phát
sinh vi phạm. Xử lý kiên quyết, nghiêm minh, kịp thời tổ chức đảng, đảng viên sai
phạm.

- Nghiên cứu quy định phân cấp thẩm quyền kiểm tra, giám sát của các cấp uỷ đảng,
uỷ ban kiểm tra các cấp. Xây dựng cơ chế chỉ đạo, điều phối, khắc phục tình trạng
chồng chéo, trùng lặp, hình thức, kém hiệu quả trong các hoạt động kiểm tra, giám
sát, thanh tra, kiểm toán. Thực hiện tốt việc kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham
nhũng, tiêu cực trong công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán.

- Tập trung xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm tra các cấp theo
hướng liêm chính, chuyên nghiệp hơn.

5. Phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên
- Hoàn thiện quy định và đề cao trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là
cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh, góp phần lan toả trong xã hội những hành động tốt,
tấm gương tiêu biểu của cán bộ, đảng viên.

- Các cấp ủy, tổ chức đảng chú trọng nâng cao năng lực, sức chiến đấu của tổ chức cơ
sở đảng, đảng viên; nêu cao tinh thần tự giác, tự kiểm tra, tự phê bình và phê bình
trong việc chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, tuân thủ pháp luật, tu dưỡng,
rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức. Đồng thời, nêu cao trách nhiệm của cán bộ,
đảng viên trong việc vận động gia đình, người thân xây dựng lối sống gương mẫu.

- Mọi đảng viên phải gương mẫu, nói đi đôi với làm, thực hiện nghiêm Điều lệ Đảng,
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao, phục tùng tuyệt đối sự phân công của Đảng; giữ mối liên hệ mật
thiết với Nhân dân; học tập, rèn luyện, nâng cao năng lực, phẩm chất, lối sống; giữ
gìn đoàn kết, thống nhất trong Đảng.

- Kịp thời khen thưởng tập thể, cá nhân đảng viên tiêu biểu, gương mẫu. Phát hiện,
chấn chỉnh hành vi thiếu gương mẫu của cán bộ, đảng viên; xử lý nghiêm cán bộ,
đảng viên sai phạm.

6. Đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới phong cách lãnh đạo, phương pháp công
tác, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương tới cơ sở
- Đổi mới phong cách, phương pháp công tác, lề lối làm việc bảo đảm khoa học, dân
chủ, sâu sát, cụ thể. Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện quy chế làm việc của cấp uỷ, tổ chức
đảng các cấp, quy định chặt chẽ nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ, quy trình công
tác, khắc phục tình trạng bao biện, làm thay, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, áp
đặt hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo của cấp uỷ, tổ chức đảng.

- Hoàn thiện quy định về ban hành văn bản của Đảng bảo đảm khoa học, thực tiễn, hệ
thống, chặt chẽ. Rà soát, phát hiện, khắc phục những nội dung còn chồng chéo, mâu
thuẫn trong các văn bản của Đảng đã ban hành, hủy bỏ những văn bản không còn phù
hợp. Hoàn thiện quy định về việc tổ chức thực hiện và sơ kết, tổng kết chủ trương,
đường lối của Đảng. Tiếp tục đổi mới chương trình, nội dung, cách thức tổ chức hội
nghị của cấp uỷ, tổ chức đảng các cấp.

- Đổi mới, nâng cao chất lượng học tập, quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng
theo hướng mở rộng đối tượng tham gia, hình thức linh hoạt, phù hợp, tăng cường hội
nghị chuyên đề trên các lĩnh vực. Sử dụng hài hòa hình thức trực tuyến với trực tiếp
và tuyên truyền miệng; phát huy vai trò của cấp uỷ trong việc tổ chức học tập, quán
triệt chủ trương, đường lối của Đảng tại cấp mình.

- Thực hiện có hiệu quả việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh; giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, khách quan, toàn diện, công tâm,
công khai, minh bạch, chính xác, chống cục bộ, địa phương, bè phái.

- Đẩy mạnh cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong
các cơ quan, tổ chức của hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương; mở rộng
hình thức họp trực tiếp kết hợp với trực tuyến; giảm hội họp không cần thiết.

Xây dựng cơ sở dữ liệu tổ chức cơ sở đảng, đảng viên và văn kiện của Đảng, kết nối
từ Trung ương tới cơ sở. Xây dựng và áp dụng tiêu chí, chỉ số đánh giá hiệu quả, chất
lượng hoạt động của các cơ quan, tổ chức như quản trị công, cải cách hành chính, chỉ
số hài lòng của cán bộ, đảng viên, người dân, làm cơ sở để nâng cao chất lượng, cải
tiến phong cách, lề lối làm việc, cải cách hành chính.

- Tiếp tục đổi mới công tác thông tin, báo cáo trong Đảng, bảo đảm nhanh, chính xác,
kịp thời, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin.

IV- TỔ CHỨC THỰC HIỆN


1. Bộ Chính trị ban hành Kế hoạch thực hiện Nghị quyết; lãnh đạo, chỉ đạo triển khai
đồng bộ, kịp thời, hiệu quả, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, hành động của
cả hệ thống chính trị về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống
chính trị.

2. Các tỉnh uỷ, thành uỷ, các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng uỷ, cơ quan,
đơn vị trực thuộc Trung ương cụ thể hoá Nghị quyết bằng chương trình, kế hoạch, đề
án để tổ chức triển khai thực hiện.

3. Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng Chính phủ lãnh đạo, chỉ đạo rà soát, sửa đổi,
bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan bảo đảm đồng bộ, thống nhất,
tạo cơ sở pháp lý cho việc đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối
với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới.

4. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương ban
hành quy định, hướng dẫn, chỉ đạo thực hiện theo yêu cầu của Nghị quyết.

5. Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức
nghiên cứu, học tập, quán triệt, tuyên truyền sâu rộng về nội dung Nghị quyết và kết
quả thực hiện Nghị quyết.
7. Ban Tổ chức Trung ương chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan thường xuyên
theo dõi, đôn đốc, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc thực hiện Nghị quyết, định kỳ
sơ kết, tổng kết báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

 Nghị quyết 29-NQ/TW về tiếp tục đẩy mạnh CNH-HĐH đất


nước đến năm 2030
I- TÌNH HÌNH
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là chủ trương xuyên suốt và nhất quán của Ðảng, Nhà
nước ta trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sau hơn 35 năm đổi mới, nhất là
trong 10 năm (2011-2020), công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế ở mức cao, đạt bình quân 6,17%/năm, chất lượng tăng trưởng được cải thiện,
quy mô nền kinh tế tăng nhanh, cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động chuyển dịch tích
cực với tỷ trọng đóng góp vào GDP của công nghiệp và dịch vụ đạt 72,7% vào năm
2020, đưa nước ta trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình.

Công nghiệp được cơ cấu lại theo hướng giảm tỷ trọng ngành khai khoáng, tăng
nhanh tỷ trọng ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; đã hình thành được một số ngành
công nghiệp có quy mô lớn, có khả năng cạnh tranh và vị trí vững chắc trên thị trường
quốc tế.

Ngành nông nghiệp tăng trưởng ổn định và bền vững, từng bước được cơ cấu lại theo
hướng hiện đại. Ðóng góp của ngành dịch vụ vào tăng trưởng kinh tế ngày càng tăng;
đã hình thành được một số ngành dịch vụ có hàm lượng khoa học, công nghệ cao.
Phát triển văn hóa, xã hội, con người được quan tâm; đời sống vật chất, tinh thần của
Nhân dân không ngừng được cải thiện.

Tuy nhiên, mục tiêu trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020
không hoàn thành; tăng trưởng kinh tế không đạt mục tiêu chiến lược đề ra, tốc độ có
xu hướng giảm dần theo chu kỳ 10 năm; có nguy cơ tụt hậu và rơi vào bẫy thu nhập
trung bình. Nội lực của nền kinh tế còn yếu, năng suất lao động thấp, chậm được cải
thiện; năng lực độc lập, tự chủ thấp, phụ thuộc nhiều vào khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài; khu vực kinh tế tư nhân trong nước chưa đáp ứng được vai trò là một động lực
quan trọng thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa; doanh nghiệp nhà nước còn nhiều
hạn chế; đổi mới và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể còn nhiều khó khăn.

Công nghiệp phát triển thiếu bền vững, giá trị gia tăng thấp, chưa tham gia sâu vào
chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu; các ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu
tiên, công nghiệp mũi nhọn, công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp thông minh phát triển
chậm. Các ngành dịch vụ quan trọng chiếm tỷ trọng nhỏ, liên kết với các ngành sản
xuất yếu. Ðô thị hóa chưa gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Phát triển văn hóa, xã hội, con người, môi trường còn nhiều hạn chế, bất cập.

Nguyên nhân của những hạn chế tồn tại chủ yếu là do: Nhận thức, lý luận, mô hình,
mục tiêu, tiêu chí về công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn nhiều nội dung chưa rõ, chưa
sát thực tiễn, còn chủ quan, duy ý chí; chưa có nghị quyết chuyên đề của Ðảng về
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Chưa xác định rõ trọng tâm ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp nền tảng, công
nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn. Việc huy động, phân bổ và sử dụng nguồn lực
còn nhiều hạn chế, chưa hiệu quả; nguồn lực của Nhà nước bố trí cho phát triển khoa
học-công nghệ, đổi mới sáng tạo còn thấp, phân bổ, sử dụng chưa hiệu quả; thiếu
nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là trong lĩnh vực khoa học-công nghệ, đổi mới
sáng tạo.

Thể chế, cơ chế, chính sách còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; hệ
thống các tiêu chuẩn, định mức còn lạc hậu, không khuyến khích, thúc đẩy phát triển
và ứng dụng khoa học-công nghệ.

Chỉ đạo và tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu, chậm được khắc phục; năng lực thể chế
hóa, cụ thể hóa, tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Ðảng còn hạn chế. Chưa
quan tâm kiểm tra, giám sát trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, địa phương và
người đứng đầu trong thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

II- QUAN ÐIỂM CHỈ ÐẠO, MỤC TIÊU VÀ TẦM NHÌN


1. Quan điểm chỉ đạo
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện
nền kinh tế và đời sống xã hội, dựa chủ yếu vào sự phát triển của công nghiệp và dịch
vụ trên nền tảng khoa học-công nghệ, đổi mới sáng tạo; là nhiệm vụ trung tâm của
chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, chủ động,
tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, phát triển nhanh và bền vững, trở thành nước phát
triển, có thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

- Ðẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là sự nghiệp của toàn dân và cả
hệ thống chính trị, lấy con người là trung tâm, doanh nghiệp là chủ thể, bảo đảm hài
hòa giữa phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ
môi trường; gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với quá trình đô thị hóa, xây dựng nông thôn
mới, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế và chuyển dịch cơ cấu lao
động.

- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải khai thác và phát huy tốt nhất mọi tiềm năng, lợi
thế của đất nước, của từng vùng và địa phương; lợi thế của nền kinh tế đi sau và đang
trong thời kỳ dân số vàng; kết hợp đồng bộ, hiệu quả giữa phát triển tuần tự với đi tắt
đón đầu; chuyển dịch nhanh từ gia công, lắp ráp sang nghiên cứu, thiết kế và sản xuất
tại Việt Nam, tập trung phát triển một số ngành dịch vụ có lợi thế, có hàm lượng tri
thức và công nghệ cao, chú trọng đẩy mạnh dịch vụ hóa các ngành công nghiệp.

Coi phát triển công nghiệp chế tạo, chế biến là then chốt; chuyển đổi số là phương
thức mới có tính đột phá để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa; công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là một trong những nhiệm vụ ưu tiên
hàng đầu.

- Thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần có lộ trình và bước đi cụ thể, có trọng
tâm, trọng điểm; ưu tiên nguồn lực, có các cơ chế, chính sách đột phá, phù hợp để
phát triển các cực tăng trưởng, các ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên,
công nghiệp mũi nhọn, công nghiệp hỗ trợ, các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao;
tăng cường liên kết ngành và liên kết vùng; xác định nguồn lực trong nước là cơ bản,
chiến lược, lâu dài và quyết định, nguồn lực bên ngoài là quan trọng, đột phá; doanh
nghiệp trong nước (bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân) là
động lực chính, chủ đạo; doanh nghiệp FDI có vai trò quan trọng, đột phá.
- Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô;
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, hiệu quả; khơi dậy khát vọng phát
triển, tinh thần khởi nghiệp quốc gia, đổi mới sáng tạo; phát huy giá trị tinh hoa văn
hóa dân tộc, bản lĩnh và trí tuệ con người Việt Nam và truyền thống của giai cấp công
nhân, vai trò xung kích, đi đầu của đội ngũ trí thức và doanh nhân Việt Nam.

2. Mục tiêu tổng quát đến năm 2030: Việt Nam cơ bản đạt được các tiêu chí của nước
công nghiệp, là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình
cao; đời sống của Nhân dân được nâng cao.

Xây dựng nền công nghiệp quốc gia vững mạnh với năng lực sản xuất mới, tự chủ,
khả năng thích ứng, chống chịu cao, từng bước làm chủ công nghệ lõi, công nghệ nền
của các ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn.

Nông nghiệp phát triển nhanh, bền vững theo hướng sinh thái, ứng dụng mạnh mẽ
khoa học-công nghệ tiên tiến. Các ngành dịch vụ được cơ cấu lại đồng bộ, hiệu quả
trên nền tảng công nghệ hiện đại, công nghệ số với chất lượng, hiệu quả và năng lực
cạnh tranh được nâng cao, hình thành được nhiều ngành dịch vụ mới, có giá trị gia
tăng cao.

3. Một số chỉ tiêu cụ thể đến năm 2030


- Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân khoảng 7%/năm; GDP bình quân đầu người theo
giá hiện hành đạt khoảng 7.500 USD; GNI bình quân đầu người theo giá hiện hành
đạt trên 7.000 USD. Ðóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng
kinh tế ở mức trên 50%; chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) thuộc nhóm 40 nước
dẫn đầu thế giới.

- Tỷ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội dưới 20%, tỷ lệ lao động qua
đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ đạt 35-40%; tỷ lệ người dân trong độ tuổi lao động
được đào tạo kỹ năng số cơ bản đạt trên 80%; đạt khoảng 260 sinh viên trên một vạn
dân.

- Thuộc nhóm 3 nước dẫn đầu ASEAN về năng lực cạnh tranh công nghiệp; tỷ trọng
công nghiệp đạt trên 40% GDP; tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo đạt khoảng
30% GDP; tỷ trọng giá trị sản phẩm công nghiệp công nghệ cao trong các ngành chế
biến, chế tạo đạt trên 45%; giá trị gia tăng công nghiệp chế tạo, chế biến bình quân
đầu người đạt trên 2.000 USD. Tỷ trọng của khu vực dịch vụ đạt trên 50% GDP, trong
đó du lịch đạt 14 - 15% GDP.

- Hình thành được một số tập đoàn, doanh nghiệp công nghiệp trong nước có quy mô
lớn, đa quốc gia, có năng lực cạnh tranh quốc tế trong các ngành công nghiệp nền
tảng, công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn; xây dựng và phát triển được một số
cụm liên kết ngành công nghiệp trong nước có quy mô lớn, có năng lực cạnh tranh
quốc tế; làm chủ một số chuỗi giá trị công nghiệp, nông nghiệp.

- Xây dựng được ngành công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh tự lực, tự
cường, lưỡng dụng, hiện đại.
- Tỷ trọng kinh tế số đạt khoảng 30% GDP. Hoàn thành xây dựng chính phủ số, thuộc
nhóm 50 quốc gia hàng đầu thế giới và xếp thứ ba trong khu vực ASEAN về chính
phủ điện tử kinh tế số.

- Tỷ lệ đô thị hóa đạt trên 50%. Phấn đấu đạt được các chỉ tiêu về sử dụng hiệu quả tài
nguyên (đất, nước, khoáng sản), tái sử dụng, tái chế chất thải tương đương với các
nước dẫn đầu ASEAN; chỉ số hiệu quả môi trường (EPI) đạt trên 55. Chỉ số phát triển
con người (HDI) duy trì trên 0,7.

4. Tầm nhìn đến năm 2045: Việt Nam trở thành nước phát triển, có thu nhập cao,
thuộc nhóm các nước công nghiệp phát triển hàng đầu khu vực châu Á.

III- NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU


1. Ðổi mới tư duy, nhận thức và hành động quyết liệt, tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước
- Xác định nội dung cốt lõi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước giai
đoạn 2021-2030 là thúc đẩy ứng dụng mạnh mẽ khoa học-công nghệ, đổi mới sáng
tạo, nhất là thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tạo ra bứt phá về
năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của các ngành, lĩnh vực và cả nền kinh
tế; thực hiện chuyển đổi số toàn diện, thực chất, hiệu quả, bền vững; nâng cao năng
lực tự chủ về sản xuất, công nghệ và thị trường, bảo vệ và phát huy tốt thị trường
trong nước.

Chuyển dịch cơ cấu nội ngành công nghiệp sang các ngành có tính nền tảng, ưu tiên,
mũi nhọn, có hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao; chuyển đổi các ngành công
nghiệp thâm dụng tài nguyên, năng lượng sang các ngành công nghiệp xanh, công
nghiệp phát thải các-bon thấp.

Cơ cấu lại các ngành nông nghiệp và dịch vụ dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại,
công nghệ số, phát triển các loại dịch vụ mới có tính liên ngành và giá trị gia tăng cao,
đẩy nhanh dịch vụ hóa các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo. Giai đoạn 2031-
2045, tập trung nâng cao chất lượng công nghiệp hóa và đẩy mạnh hiện đại hóa toàn
diện trên tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế và đời sống xã hội.

- Nâng cao nhận thức của các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, doanh nghiệp và
người dân; cụ thể hóa các quan điểm, gắn kết các mục tiêu, nhiệm vụ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước với xây dựng và thực hiện luật pháp, chính sách, hệ thống
quy hoạch quốc gia và các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch liên quan.

Thực hiện phân công, phân cấp triệt để trong quản lý nhà nước về phát triển công
nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ; bảo đảm nguyên tắc một cơ quan thực hiện nhiều việc,
một việc chỉ giao cho một cơ quan chủ trì thực hiện và chịu trách nhiệm chính. Nâng
cao năng lực dự báo; xây dựng bộ tiêu chí đánh giá kết quả công nghiệp hóa, hiện đại
hóa trên phạm vi cả nước, từng vùng và địa phương; tăng cường công tác kiểm tra,
giám sát, gắn trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy và chính quyền các ngành, các cấp
trong tổ chức thực hiện.

2. Xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước
- Ðẩy nhanh thể chế hóa các nghị quyết, kết luận của Ðảng có liên quan đến công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ưu tiên xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật chuyên
ngành về phát triển công nghiệp quốc gia và các lĩnh vực công nghiệp đặc thù như
công nghiệp công nghệ số, công nghiệp quốc phòng, an ninh, năng lượng...; tạo lập
khung pháp luật cho phát triển sản xuất thông minh, mô hình nhà máy thông minh,
xây dựng và ban hành các tiêu chuẩn quốc gia về sản xuất thông minh; đẩy nhanh
hoàn thiện các tiêu chuẩn, định mức kinh tế-kỹ thuật của các ngành, lĩnh vực sát với
thực tiễn, tiệm cận với chuẩn mực quốc tế.

Xây dựng lộ trình, hoàn thiện các cơ chế, chính sách cho thực hiện chuyển đổi năng
lượng xanh, bền vững, phù hợp với xu thế của thế giới, bảo đảm vững chắc an ninh
năng lượng quốc gia.

- Hoàn thiện cơ chế, chính sách cho phát triển khoa học- công nghệ, đổi mới sáng tạo
phù hợp với thực tế Việt Nam và thông lệ quốc tế. Có chính sách ưu đãi phù hợp về
thuế, tài chính, tín dụng, đất đai... cho nghiên cứu khoa học-công nghệ; khuyến khích
doanh nghiệp đầu tư cho nghiên cứu và triển khai; tạo thuận lợi cho trích lập và sử
dụng hiệu quả quỹ đầu tư cho khoa học-công nghệ, đổi mới sáng tạo của doanh
nghiệp.

Ban hành cơ chế, chính sách về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho các
ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn thông qua
tăng cường chính sách đặt hàng đào tạo và thực hiện hỗ trợ tài chính của Nhà nước
đối với cơ sở đào tạo và người học.

Rà soát, hoàn thiện chính sách khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp nền
tảng, công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn theo hướng không ưu đãi theo diện
rộng, dàn trải đến các phân ngành công nghiệp, tập trung vào các lĩnh vực được xác
định theo tiêu chí phù hợp cho từng giai đoạn; bổ sung các chính sách khuyến khích
phát triển vùng nguyên liệu, công nghệ, vốn đầu tư, mua bán, sáp nhập doanh
nghiệp...

Tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung khắc phục chồng chéo, bất cập không phù hợp trong
chính sách ưu đãi thuế theo ngành, lĩnh vực đầu tư và theo địa bàn; có các chính sách
thuế nhằm khuyến khích phát triển khoa học-công nghệ, đổi mới sáng tạo phù hợp với
mục tiêu thúc đẩy phát triển và ứng dụng công nghệ mới, các công nghệ ưu tiên phát
triển, xây dựng và phát triển các trung tâm đổi mới sáng tạo.

- Xây dựng khung pháp luật cho phát triển kinh tế số, xã hội số, chính phủ số; ban
hành cơ chế thử nghiệm có kiểm soát, các chính sách thí điểm, đặc thù cho các hoạt
động phát triển, thử nghiệm và áp dụng các sản phẩm, giải pháp, dịch vụ, mô hình
kinh doanh dựa trên công nghệ số và nền tảng số; tăng cường chính sách đặt hàng,
giao nhiệm vụ sản xuất, chính sách mua sắm công theo hướng ưu tiên sử dụng hàng
hóa trong nước, nâng cao giá trị gia tăng và tỷ lệ nội địa hóa. Thể chế hóa các cơ chế,
chính sách đặc thù cho phát triển công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh theo
hướng lưỡng dụng, hiện đại.

- Tiếp tục đổi mới chính sách đất đai, tín dụng, tài chính, khoa học, công nghệ, phát
triển nguồn nhân lực, thu hút đầu tư tư nhân, đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp,
nông thôn để thúc đẩy và hỗ trợ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn.

- Rà soát, hoàn thiện luật chuyên ngành về du lịch, thương mại, đường sắt, bưu chính,
công nghệ thông tin, viễn thông và các luật có liên quan; tiếp tục hoàn thiện chính
sách, pháp luật, đẩy mạnh xã hội hóa để cơ cấu lại các ngành dịch vụ dựa trên nền
tảng công nghệ hiện đại, nhất là trong các lĩnh vực thương mại điện tử, tài chính, ngân
hàng, bảo hiểm, y tế, giáo dục, logistics, du lịch, các dịch vụ mới của nền kinh tế số...

Có chiến lược, cơ chế, chính sách mới vượt trội, cạnh tranh quốc tế cao để thúc đẩy
hình thành một số trung tâm du lịch, trung tâm logistics, trung tâm đổi mới sáng tạo
tầm cỡ khu vực và quốc tế tại một số đô thị.

- Hoàn thiện cơ chế, chính sách, thí điểm thực hiện các cơ chế phù hợp để tạo đột phá
cho phát triển kết cấu hạ tầng, nhất là đường bộ, đường sắt. Rà soát, sửa đổi pháp luật
về ngân sách nhà nước và các quy định liên quan theo hướng tăng cường phân cấp
huy động, sử dụng nguồn lực đầu tư ở Trung ương và địa phương, tạo điều kiện thuận
lợi cho các địa phương cùng đầu tư ngân sách vào các hạ tầng dùng chung, hạ tầng
liên kết vùng.

Nghiên cứu hình thành quỹ phát triển hạ tầng. Ban hành cơ chế, chính sách phù hợp
về đền bù, hỗ trợ tái định cư, thu hồi đất phục vụ cho các dự án kết cấu hạ tầng quan
trọng cấp quốc gia, cấp vùng.

Ðổi mới mô hình tổ chức, cơ chế hoạt động của các khu công nghệ cao, khu nông
nghiệp ứng dụng công nghệ cao, khu công nghệ thông tin tập trung. Xây dựng khung
tiêu chí và hoàn thiện hành lang pháp lý cho phát triển các khu công nghiệp sinh thái,
thông minh, khu đô thị công nghiệp-thương mại-dịch vụ.

- Hoàn thiện các tiêu chí về đầu tư để lựa chọn, ưu tiên thu hút đầu tư phù hợp với
chiến lược, quy hoạch, định hướng phát triển các ngành, lĩnh vực, địa bàn trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Có cơ chế, chính sách ưu đãi vượt trội, cạnh tranh quốc tế tạo điều kiện kinh doanh
thuận lợi thu hút các dự án lớn, trọng điểm quốc gia, dự án công nghệ cao, thu hút
FDI từ các đối tác thuộc các nước phát triển. Hoàn thiện khung pháp luật cho hoạt
động đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp, mua bán và sáp nhập doanh nghiệp,
thoái vốn đầu tư tại nước ngoài, mua bán, chuyển giao công nghệ. Hoàn thiện các cơ
chế, chính sách, tiêu chí giám sát, đánh giá, xếp loại doanh nghiệp nhà nước và người
quản lý theo mục tiêu và hiệu quả tổng thể.

3. Xây dựng nền công nghiệp quốc gia vững mạnh, tự lực, tự cường; nâng cao năng
lực ngành xây dựng
- Ðẩy nhanh thực hiện các chủ trương của Ðảng về định hướng xây dựng chính sách
phát triển công nghiệp quốc gia. Tiếp tục cơ cấu lại ngành công nghiệp; thực hiện
điều chỉnh phân bố không gian phát triển công nghiệp của vùng, địa phương theo
hướng gắn với các vùng động lực, cực tăng trưởng, hành lang kinh tế trọng điểm, phù
hợp với quy hoạch tổng thể quốc gia, lợi thế của từng vùng, bảo đảm tính chuyên môn
hóa cao, tăng cường tính liên kết nội vùng và liên vùng.
Hình thành các vùng công nghiệp, vành đai công nghiệp, cụm liên kết ngành công
nghiệp, khu công nghiệp, trọng tâm là hình thành các cụm liên kết ngành công
nghiệp; xây dựng và triển khai có hiệu quả quy hoạch vùng nguyên liệu cho các
ngành công nghiệp, đặc biệt là đối với các ngành dệt may, da giày, chế biến nông sản,
thực phẩm.

- Xây dựng và triển khai chương trình quốc gia về nâng cao năng lực độc lập, tự chủ,
tự lực, tự cường của nền sản xuất Việt Nam đến năm 2045 (Make in Vietnam 2045)
theo hướng chú trọng nâng cao tự chủ về nguyên liệu, công nghệ, sản xuất và thị
trường, tăng cường năng lực sáng tạo và thiết kế, phát triển các ngành công nghiệp sử
dụng nhiều công nghệ, có giá trị gia tăng cao và các ngành công nghiệp phát thải các-
bon thấp; khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào đổi mới, hấp thụ và làm chủ
công nghệ, nhất là công nghệ lõi, công nghệ nguồn.

Ưu tiên nguồn lực và có cơ chế, chính sách khuyến khích đủ mạnh để phát triển
những lĩnh vực ưu tiên của các ngành công nghiệp nền tảng: Luyện kim (ưu tiên phát
triển thép hợp kim, thép đặc chủng phục vụ công nghiệp chế tạo máy thế hệ mới, nhất
là cho quốc phòng, an ninh); cơ khí chế tạo (ưu tiên phát triển cơ khí chế tạo cho sản
xuất máy nông nghiệp, ô-tô, tàu biển, thiết bị công trình, thiết bị năng lượng, thiết bị
điện, thiết bị y tế); hóa chất (ưu tiên phát triển các loại hóa chất cơ bản, hóa dầu, hóa
dược, phân bón); công nghiệp năng lượng (ưu tiên phát triển công nghiệp năng lượng
tái tạo, năng lượng mới); vật liệu (ưu tiên phát triển vật liệu mới); công nghệ số (ưu
tiên phát triển trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, chuỗi khối, điện toán đám mây, internet kết
nối vạn vật, thiết bị điện tử-viễn thông, thiết kế và sản xuất chíp bán dẫn).

- Chú trọng phát triển một số ngành công nghiệp mũi nhọn: Công nghiệp sản xuất rô-
bốt, ô-tô, thiết bị tích hợp vận hành tự động, điều khiển từ xa; công nghiệp chế biến,
chế tạo phục vụ nông nghiệp; công nghiệp sinh học (tập trung vào gen, dược phẩm và
các chế phẩm sinh học); công nghiệp dệt may, da giày ở các khâu tạo giá trị gia tăng
cao dựa trên quy trình sản xuất thông minh, tự động hóa; công nghiệp văn hóa...

Khuyến khích các tập đoàn, doanh nghiệp trong nước liên kết, liên doanh với doanh
nghiệp nước ngoài sản xuất thiết bị năng lượng sạch, tái tạo, hệ thống pin lưu trữ,
công nghệ và sản phẩm tiết kiệm năng lượng, đào tạo, chuyển giao công nghệ.

- Phát triển công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh theo hướng lưỡng dụng,
hiện đại, tự lực, tự cường, liên kết chặt chẽ với công nghiệp dân sinh, trở thành mũi
nhọn của công nghiệp quốc gia. Tăng cường liên kết, chuyển giao, chuyển đổi công
nghệ giữa công nghiệp dân sinh và công nghiệp quốc phòng, hình thành một số nền
tảng đổi mới sáng tạo dùng chung.

Tăng cường hợp tác, liên doanh, liên kết, đầu tư nguồn lực hỗ trợ các cơ sở dân sinh
phục vụ công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh. Cơ cấu lại các cơ sở công
nghiệp quốc phòng, hình thành các cơ sở công nghiệp an ninh bảo đảm tinh gọn, hiệu
quả, hiện đại theo hướng lưỡng dụng, hiện đại.

- Xây dựng và triển khai chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ đến năm 2030,
chú trọng đáp ứng các quy tắc về nguồn gốc xuất xứ trong các hiệp định thương mại
tự do, tập trung vào các lĩnh vực: Ðiện tử thông minh, ô-tô, dệt may-da giày, cơ khí và
tự động hóa, nông nghiệp và công nghệ sinh học, công nghệ cao; có cơ chế khuyến
khích và thúc đẩy các doanh nghiệp FDI chuyển giao công nghệ; quy hoạch và có cơ
chế, chính sách đột phá, khuyến khích phát triển các khu, cụm công nghiệp hỗ trợ tập
trung.

Hình thành hệ thống khu công nghiệp hiện đại quy mô lớn theo hướng sinh thái đi đôi
với phát triển khu công nghiệp, cụm công nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, tạo điều kiện
cho phát triển công nghiệp tại khu vực nông thôn, miền núi.

Tiếp tục nghiên cứu và triển khai thí điểm các mô hình khu kinh tế đặc thù, khu
thương mại tự do, trung tâm tài chính quốc tế, các mô hình kinh tế mới tại một số địa
phương có tiềm năng và đáp ứng các điều kiện, tiêu chí.

- Có chiến lược và chính sách nâng cao năng lực ngành xây dựng. Khuyến khích phát
triển một số tập đoàn xây dựng quy mô lớn, hoạt động hiệu quả, có khả năng cạnh
tranh quốc tế.

Phát triển ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng thành ngành kinh tế mạnh,
đạt trình độ tiên tiến, hiện đại, đáp ứng cơ bản nhu cầu trong nước; hạn chế, tiến tới
dừng các hoạt động sản xuất vật liệu xây dựng sử dụng không hiệu quả tài nguyên
thiên nhiên, gây ô nhiễm môi trường, ưu tiên phát triển vật liệu xanh, vật liệu mới
thân thiện với môi trường.

4. Ðẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; tiếp tục cơ cấu
lại ngành dịch vụ dựa trên nền tảng khoa học-công nghệ, đổi mới sáng tạo
- Triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương
Ðảng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Ưu tiên đầu tư phát triển hệ thống kết cấu
hạ tầng nông nghiệp, nông thôn, hạ tầng kết nối nông thôn với đô thị, nhất là hạ tầng
thủy lợi, giao thông vận tải, hạ tầng thương mại, kho bãi, bảo quản, chế biến nông
sản; đẩy nhanh xây dựng hạ tầng số và dữ liệu số nông nghiệp, nông thôn; nâng cấp,
hiện đại hóa và phát triển sàn giao dịch cho các nông sản chủ lực, xây dựng các trung
tâm hậu cần biên mậu.

Hình thành các khu, cụm công nghiệp, dịch vụ hỗ trợ phát triển sản xuất, kinh doanh
nông nghiệp tại một số vùng sản xuất nông nghiệp tập trung. Khuyến khích phát triển
công nghiệp cơ khí, hóa chất và công nghệ sinh học phục vụ sản xuất nông nghiệp và
chế biến nông, lâm, thủy sản.

Tiếp tục phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, gắn với công
nghiệp chế biến và thị trường, thúc đẩy cơ giới hóa đồng bộ, hiện đại hóa trong toàn
bộ chuỗi cung ứng; chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng nhanh tỷ
trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ, tổ chức lại sản
xuất theo chuỗi giá trị, phát triển các cụm liên kết sản xuất-chế biến-tiêu thụ nông sản.

Thúc đẩy chuyển đổi số toàn diện, thực chất, hiệu quả nông nghiệp, nông thôn; ưu
tiên bố trí nguồn lực và có cơ chế, chính sách đặc thù để xã hội hóa, thực hiện có hiệu
quả chuyển đổi số trong xây dựng nông thôn mới, hướng tới nông thôn mới thông
minh giai đoạn 2021-2025.
- Thúc đẩy dịch vụ hóa các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; tiếp tục cơ cấu lại
các ngành dịch vụ dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại, công nghệ số, phát triển dịch
vụ công nghệ cao, các loại dịch vụ mới của nền kinh tế số.

Tập trung phát triển mạnh một số ngành dịch vụ có lợi thế và có hàm lượng tri thức,
công nghệ cao như: Du lịch, thương mại, viễn thông, công nghệ thông tin, logistics,
dịch vụ kỹ thuật, dịch vụ tư vấn pháp lý... Xây dựng hệ sinh thái đồng bộ, hiện đại
hóa và mở rộng các dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, y tế và
chăm sóc sức khỏe, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, công nghiệp văn hóa
và dịch vụ văn hóa, thể thao, dịch vụ thương mại...

Hình thành một số trung tâm dịch vụ du lịch, y tế, giáo dục, tài chính, logistics tầm cỡ
khu vực và quốc tế. Ðẩy nhanh tiến trình xây dựng và có cơ chế vượt trội để phát triển
Thành phố Hồ Chí Minh và các đô thị có tiềm năng trở thành các trung tâm tài chính
quốc tế.

5. Phát triển khoa học-công nghệ, đổi mới sáng tạo và nguồn nhân lực chất lượng cao
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
- Ðẩy nhanh thể chế hóa và cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Ðảng về phát triển
khoa học-công nghệ, đổi mới sáng tạo. Ưu tiên đầu tư cho khoa học-công nghệ, đổi
mới sáng tạo đi trước một bước; có lộ trình tăng tỷ lệ chi từ ngân sách nhà nước tính
trên GDP cho nghiên cứu và phát triển, phấn đấu đến năm 2030 đạt tỷ lệ thuộc nhóm
3 nước đứng đầu ASEAN, tiệm cận tỷ lệ bình quân chung của các nước thuộc khối
OECD.

- Phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo trong các ngành công nghiệp, nông nghiệp
và dịch vụ gắn với các chuỗi giá trị nội địa, khu vực và toàn cầu các cụm liên kết
ngành với vai trò dẫn dắt của các doanh nghiệp lớn, tập trung vào các ngành có giá trị
xuất khẩu và doanh thu lớn như dệt may, da giày, điện tử, thiết bị, máy móc, chế biến
gỗ, chế biến nông sản, khai thác khoáng sản, dược phẩm...

Phát triển hệ thống trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia, các trung tâm đổi mới sáng
tạo ngành, vùng, các trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo nhằm phát triển, tích hợp
hình thành các cụm liên kết đổi mới sáng tạo với các khu công nghệ cao, khu dân cư,
trung tâm tài chính, quỹ đầu tư mạo hiểm, trường đại học, viện nghiên cứu.

Triển khai mạnh mẽ các vườn ươm công nghệ, nền tảng đổi mới sáng tạo mở, mạng
lưới đổi mới sáng tạo mở. Khuyến khích doanh nghiệp thành lập các trung tâm nghiên
cứu, trung tâm đổi mới sáng tạo.

- Thực hiện thí điểm cơ chế, chính sách mới, đặc thù về khoa học, công nghệ và đổi
mới sáng tạo tại một số địa phương, trường đại học, viện nghiên cứu, doanh nghiệp
được giao nhiệm vụ nghiên cứu và phát triển công nghệ lõi, công nghệ nguồn.

Rà soát, cơ cấu lại các chương trình, nhiệm vụ khoa học và công nghệ theo hướng ưu
tiên phát triển các ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi
nhọn, nông nghiệp công nghệ cao, các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao.

Rà soát, nâng cấp và đổi mới cơ chế vận hành hệ thống các phòng thí nghiệm do Nhà
nước đầu tư. Ðẩy mạnh nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng trong các lĩnh vực
Việt Nam có thế mạnh như toán học, vật lý, hóa học, khoa học sự sống, khoa học trái
đất và khoa học biển... làm chủ công nghệ lõi, công nghệ nguồn.

- Rà soát, hoàn thiện các chiến lược về giáo dục, đào tạo, phát triển nhân lực quốc gia
phù hợp với yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Quy hoạch lại mạng lưới cơ sở
giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học thuộc lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ. Triển khai
các hoạt động đào tạo kiến thức, kỹ năng về khoa học-công nghệ và đổi mới sáng tạo
trong các trường phổ thông.

Hình thành các chương trình cấp quốc gia và cấp địa phương, ngành, lĩnh vực về đào
tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài, lao động có kỹ năng, chuyên môn cao. Xây dựng và
triển khai chương trình đào tạo chuyên gia, nhân lực chất lượng cao, lao động kỹ thuật
trong các lĩnh vực công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn.

Quan tâm đào tạo, nâng cao trình độ lao động nông thôn; tăng số lượng lao động kỹ
thuật có tay nghề; phát triển nhân lực nghiên cứu, chuyên gia trong nông nghiệp.
Khuyến khích phát triển các nền tảng dạy và học trực tuyến mở, các mô hình đại học
mới thích ứng với quá trình chuyển đổi số.

6. Phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại; thúc đẩy đô thị hóa nhanh và bền
vững, gắn kết chặt chẽ và tạo động lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
- Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội; ưu tiên
phát triển một số công trình hạ tầng trọng điểm quốc gia và vùng về giao thông, thích
ứng với biến đổi khí hậu, năng lượng, hạ tầng số, các công trình hạ tầng xã hội về y
tế, giáo dục của vùng.

Phát triển hệ thống đường bộ cao tốc đạt mục tiêu 5.000km vào năm 2030. Quan tâm
đúng mức và phát triển kết cấu hạ tầng đường sắt có trọng tâm, trọng điểm; tập trung
cải tạo, nâng cấp để tiếp tục khai thác có hiệu quả các tuyến đường sắt hiện có; nghiên
cứu, sớm đầu tư xây dựng tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc Nam, các tuyến đường sắt
đô thị tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và một số thành phố khác, một số tuyến
đường sắt kết nối với các khu kinh tế, khu công nghiệp, cảng hàng không, cảng biển.

Ðẩy nhanh xây dựng danh mục các dự án kêu gọi đầu tư hạ tầng giao thông giai đoạn
2021-2030. Xây dựng đề án tổng thể thống nhất về cơ chế giao quản lý, khai thác các
tài sản kết cấu hạ tầng giao thông hàng hải, hàng không, đường bộ, đường sắt và
đường thủy nội địa theo hướng tăng cường xã hội hóa, tách biệt rõ vai trò quản lý nhà
nước với vai trò quản lý, khai thác kết cấu hạ tầng giao thông vận tải; nghiên cứu áp
dụng thí điểm mô hình đầu tư công - quản trị tư, đầu tư tư - sử dụng công; đa dạng
hóa nguồn lực, huy động tối đa nguồn lực từ quỹ đất trong đầu tư phát triển kết cấu hạ
tầng.

- Xây dựng và triển khai chiến lược phát triển hạ tầng thông tin, hạ tầng số, quy hoạch
hạ tầng thông tin và truyền thông cho giai đoạn tới theo định hướng hạ tầng số là thiết
yếu, bảo đảm an toàn thông tin mạng là then chốt, ưu tiên đầu tư phát triển nhanh, đi
trước một bước. Phát triển đồng bộ, hiện đại hạ tầng văn hóa, xã hội.

- Phát triển hệ thống đô thị bền vững theo hướng đô thị xanh, thông minh, thích ứng
với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai và dịch bệnh, có tính kết nối theo mạng
lưới cao và gắn kết chặt chẽ với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hoàn thiện
mô hình khu kinh tế, khu công nghiệp sinh thái ven biển gắn với hình thành phát triển
đô thị và phát triển các trung tâm kinh tế biển mạnh.

Khuyến khích phát triển mô hình khu công nghiệp-đô thị-dịch vụ, nhất là tại các đô
thị, vùng đô thị có mật độ dân số cao. Tiếp tục nghiên cứu, điều chỉnh tiêu chí nông
thôn mới, nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu tiệm cận với tiêu chí đô
thị sinh thái.

7. Phát triển các thành phần kinh tế nhằm thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa
- Thực hiện đồng bộ, quyết liệt chủ trương của Ðảng về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và
nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, phát triển doanh nghiệp tư nhân, thu hút
FDI. Xây dựng và triển khai định hướng phát triển một số tập đoàn kinh tế, doanh
nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân trong nước có quy mô lớn, hoạt động hiệu
quả, có năng lực cạnh tranh quốc tế, đóng vai trò dẫn dắt, trụ cột trong một số lĩnh
vực quan trọng của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa như năng lượng, công
nghiệp chế biến, chế tạo, tài chính-ngân hàng, nông nghiệp, viễn thông, kết cấu hạ
tầng...

Tăng cường cơ chế đặt hàng, giao nhiệm vụ cho một số tập đoàn, doanh nghiệp nhà
nước và doanh nghiệp tư nhân trong nước có quy mô lớn, có đủ năng lực thực hiện
một số nhiệm vụ có tính chiến lược, dẫn dắt quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa;
chú trọng chính sách mua sắm công và các chính sách nâng cao năng lực doanh
nghiệp trong nước của Việt Nam.

- Xây dựng tiêu chí để phân cấp, phân quyền thu hút FDI giữa Trung ương và địa
phương; coi trọng chất lượng, có trọng tâm, trọng điểm; ưu tiên các dự án đầu tư có
công nghệ cao, bảo đảm tiêu chuẩn về môi trường, thu hút lao động có kỹ năng của
các công ty đa quốc gia lớn gắn với yêu cầu phải chuyển giao tri thức, công nghệ và
quản trị; nâng cao tỷ lệ nội địa hóa.

- Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của kinh tế tập thể, nòng
cốt là các hợp tác xã; ưu tiên phát triển các tổ chức kinh tế tập thể gắn với phát triển
nông nghiệp công nghệ cao, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn.

8. Ðổi mới chính sách tài chính, tín dụng thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước nhanh, bền vững
- Nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác, huy động, phân bổ, sử dụng các nguồn lực tài
chính theo nguyên tắc thị trường; tiếp tục đa dạng hóa các hình thức huy động và sử
dụng nguồn lực; thúc đẩy xã hội hóa, thu hút mạnh mẽ nguồn lực đầu tư ngoài nhà
nước cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo hướng lấy đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư
nhân; ưu tiên nguồn lực tài chính nhà nước đầu tư cho phát triển hạ tầng liên kết vùng,
hạ tầng năng lượng, chuyển đổi số, khoa học-công nghệ, đổi mới sáng tạo.

Nâng cao hiệu quả đầu tư công; tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong giải ngân vốn đầu
tư công, gắn trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy và chính quyền các ngành, các cấp
liên quan trong sử dụng nguồn vốn đầu tư công.

Ðẩy nhanh cơ cấu lại thị trường tài chính, tiền tệ đáp ứng yêu cầu huy động và sử
dụng vốn có hiệu quả; phát triển thị trường chứng khoán bền vững, trở thành kênh
huy động quan trọng vốn trung và dài hạn cho thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.

- Hoàn thiện cơ chế, chính sách phù hợp về đầu tư, tài chính, ngân sách đối với một số
địa phương; rà soát, xác định tỷ lệ nguồn thu giữ lại hợp lý đối với các đô thị đặc biệt
và các đô thị lớn để bảo đảm phát huy vai trò của các cực tăng trưởng kinh tế trong
thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Sử dụng hiệu quả chính sách đặt hàng sản xuất và chính sách mua sắm công để thúc
đẩy chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, nâng cao năng lực tự chủ về công nghệ và sản
xuất. Ðổi mới chính sách ưu đãi về thuế phù hợp với thông lệ quốc tế, hướng tới trọng
tâm ưu tiên thúc đẩy phát triển hệ sinh thái và chuỗi giá trị sản xuất, dịch vụ hiện đại.

Thực hiện đồng bộ cơ chế, chính sách để hướng tín dụng tập trung vào lĩnh vực sản
xuất, lĩnh vực ưu tiên; thực hiện các chính sách ưu đãi về tài chính, tín dụng đủ mạnh
để thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên, công
nghiệp mũi nhọn, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, các ngành dịch vụ có giá trị
gia tăng cao; phát triển mạnh tài chính xanh, tín dụng xanh.

9. Quản lý, sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ môi trường, chủ động thích
ứng với biến đổi khí hậu; tăng cường hội nhập quốc tế sâu rộng, hiệu quả đi đôi với
bảo vệ và phát triển thị trường trong nước
- Khai thác và sử dụng tài nguyên hiệu quả; có lộ trình phát triển năng lượng tái tạo
phù hợp với điều kiện, trình độ phát triển của đất nước trên cơ sở đánh giá tổng thể về
lợi ích và chi phí của nền kinh tế; sớm xây dựng cơ chế phân bổ hạn ngạch phát thải
khí nhà kính và thị trường tín chỉ các-bon. Xây dựng cơ chế ưu tiên để phát triển
mạnh công nghiệp tái chế và công nghiệp tái tạo.

Quản lý chặt chẽ và toàn diện việc sử dụng quặng và chất thải chứa kim loại màu,
nguyên tố đất hiếm. Có chiến lược phát triển khai thác, chế biến quặng đất hiếm và
một số loại khoáng sản có giá trị cao có lợi thế cạnh tranh. Phát triển công nghiệp sử
dụng triệt để chất thải rắn, chất thải công nghiệp, tái chế chất thải xây dựng.

- Phát triển mạnh ngành công nghiệp môi trường. Mở rộng phạm vi, tăng tỷ trọng mua
sắm chính phủ đối với sản phẩm thân thiện môi trường. Khuyến khích phát triển dịch
vụ cải tạo, phục hồi môi trường, hệ sinh thái tự nhiên.

Thực hiện chứng thực, công nhận dán nhãn sinh thái, hiệu quả năng lượng đối với sản
phẩm trong các lĩnh vực công nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải và hàng tiêu dùng,
chứng nhận sản phẩm tiết kiệm năng lượng. Có lộ trình phù hợp để giảm tối đa, tiến
tới không sử dụng sản phẩm nhựa dùng một lần.

Thí điểm, nhân rộng và phát triển các mô hình sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên
nhiên, tái sử dụng, tái chế chất thải phù hợp với từng ngành, vùng, miền. Nghiên cứu,
thử nghiệm áp dụng hệ thống hạch toán vốn tự nhiên trong nền kinh tế theo thông lệ
quốc tế và phù hợp với thực tiễn Việt Nam.

Triển khai mạnh mẽ, đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả công tác ngoại giao kinh tế phục vụ
phát triển đất nước; tận dụng, khai thác hiệu quả mạng lưới các đối tác chiến lược,
toàn diện để xây dựng và triển khai các chiến lược, chương trình, kế hoạch công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Nghiên cứu, thiết lập quan hệ đối tác chiến lược trong một số ngành, lĩnh vực công
nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên, phát triển xanh, bền vững. Chủ động xây dựng
và hoàn thiện hệ thống phòng vệ để bảo vệ nền kinh tế, doanh nghiệp, thị trường trong
nước phù hợp với các cam kết quốc tế và yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

10. Phát huy giá trị văn hóa, bản lĩnh, trí tuệ con người Việt Nam, xây dựng giai cấp
công nhân hiện đại, lớn mạnh; đội ngũ trí thức và doanh nhân xung kích, đi đầu trong
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; bảo đảm tốt an sinh xã hội
- Xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam
gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Hình thành môi trường văn hóa số. Phát triển
nhanh, bền vững, hiệu quả các ngành công nghiệp văn hóa và dịch vụ văn hóa gắn với
phát triển du lịch.

Có cơ chế, chính sách sớm khắc phục khoảng cách chênh lệch về hạ tầng văn hóa
giữa thành thị và nông thôn, đồng bằng và miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải
đảo; chênh lệch về mức thụ hưởng văn hóa giữa các giai tầng, các nhóm xã hội, các
cộng đồng dân cư.

- Tập trung ưu tiên đầu tư thích đáng, tạo điều kiện thuận lợi phát triển mạnh mẽ giai
cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng, có bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn,
chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong tình hình mới.

Quan tâm chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, nhà ở và phúc lợi xã hội cho công
nhân; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân. Ưu tiên quỹ đất, vốn
và có các chính sách ưu đãi, tạo thuận lợi cho triển khai xây dựng đến năm 2030 được
ít nhất 1 triệu nhà ở xã hội cho công nhân và người có thu nhập thấp; bảo đảm đáp
ứng đồng bộ hạ tầng xã hội thiết yếu về giao thông, y tế, giáo dục, văn hóa của các
khu nhà ở, tạo chỗ ở ổn định, nâng cao đời sống để công nhân an tâm lao động sản
xuất.

Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác đưa người lao động và chuyên gia Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài. Ðẩy mạnh trí thức hóa công nhân thông qua đào tạo,
đào tạo lại và bồi dưỡng nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề
nghiệp, kỹ năng số cho công nhân.

- Ðổi mới tư duy, nâng cao nhận thức và phát huy vai trò đặc biệt quan trọng của đội
ngũ trí thức và doanh nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
trong tình hình mới. Xây dựng và triển khai Chiến lược phát triển đội ngũ trí thức,
Chiến lược phát triển đội ngũ doanh nhân đến năm 2030, chương trình quốc gia về
đào tạo doanh nhân, xây dựng văn hóa kinh doanh Việt Nam tiên tiến, giàu bản sắc và
hội nhập quốc tế.

- Xây dựng hệ thống an sinh xã hội tiên tiến, hiện đại, hướng tới bao phủ toàn dân,
nhất là về chăm sóc sức khỏe và bảo hiểm y tế; quan tâm trợ giúp cho các nhóm đối
tượng yếu thế. Tiếp tục cải cách mạnh mẽ hệ thống bảo hiểm xã hội theo hướng đa
tầng dựa trên nguyên tắc đóng-thưởng, chia sẻ bền vững.

Triển khai đồng bộ các giải pháp giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững, bảo đảm
mức sống tối thiểu và các dịch vụ cơ bản; khuyến khích và có chính sách ưu đãi phát
triển đa dạng các mô hình sản xuất và dịch vụ có sự tham gia của các hộ nghèo, cận
nghèo; hỗ trợ phát triển các mô hình sản xuất kinh doanh phù hợp với người nghèo,
nhất là ở vùng nông thôn, miền núi.

You might also like