Professional Documents
Culture Documents
tư tương tôn giáo Phg Đông toàn tập edited1.2023
tư tương tôn giáo Phg Đông toàn tập edited1.2023
1
Lời nói đầu
Tập bài giảng “Các tư tưởng và tôn giáo phương Đông” được
thiết kế 9 chương giảng dạy bao gồm lý thuyết, thảo luận và thực hành
trong 45 tiết (3 tín chỉ), cụ thể như sau:
- Chương 1 Lịch sử tư tưởng Trung Quốc, 8
- Chương 2 Lịch sử tư tưởng Ấn Độ, 4
- Chương 3 Lịch sử tư tưởng Việt Nam, 4
Khái lược về tôn giáo, lịch sử tôn giáo Phương Đông,
- Chương 4
4
- Chương 5 Tôn giáo ở Ấn Độ, 4
- Chương 6 Tôn giáo ở Trung Hoa, 4
- Chương 7 Tôn giáo ở Ba Tư (Iran), 4
- Chương 8 Tôn giáo ở Nhật Bản, 4
- Chương 9 Tôn giáo ở Việt Nam, 9
Mỗi bài, ngoài phần lý thuyết, còn có phần bài tập nhằm củng
cố kiến thức đã học.
Đây là Tập bài giảng được biên soạn giảng dạy cho sinh viên
năm thứ 3, khoa Quốc tế học, ngành Đông phương học, bậc đại học hệ,
chính quy tại Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Đà Nẵng có tham
khảo các công trình về tư tưởng, tôn giáo phương Đông của các tác
giả trong nước và ngoài nước đã công bố trong thời gian qua.
Nhân đây tác giả xin có lời cám ơn.
Trong quá trình biên soạn chắc hẳn còn những thiếu sót và sẽ
được hiệu chỉnh trong những lần tiếp theo.
Tác giả
PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chinh
2
MỤC LỤC
Trang
Chương 4. Khái lược về tôn giáo, lịch sử tôn giáo Phương 72-91
Đông ...............................................................……………...
3
DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH
Bảng 4.1. Các tôn giáo, số lượng và phân bổ trên thế giới 76
Bảng 9.1. Dân số các tôn giáo tại Việt Nam (2019) 155
4
Hình 5.9. Biểu tượng đạo Sikh 107
Hình 6.2. Chùa Linh Thạch Ninh Ba—chùa phật giáo nổi 113
tiếng Chiết Giang
Hình 6.3. Biểu tượng Đạo giáo 114
Hình 6.4. Thánh địa Đạo giáo-nui Thanh thành Tứ Xuyên 115
Hình 6.5 Nhà thờ Thiên chua tại Vương Phủ Tỉnh Bắc 116
Kinh
Hình 7.1. Bản đồ Iran 118
Hình 7.3. Các nhánh khác nhau của đạo Hồi 121
Hình 7.4. Râu và tóc của Nhà tiên tri Mohammet (Волосы 122
из бороды пророка Мухаммеда)
5
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CN Con người
KT Kinh tế
PG Phật giáo
TG Tôn giáo
TK Thế kỷ
XH Xã hội
6
Chương 1
Lịch sử tư tưởng Trung Quốc
1.1. Những đặc điểm về lịch sử, xã hội của Trung Quốc
1.2. Nho gia
1.3. Đạo gia và đạo giáo
1.4. Mặc gia
1.5. Pháp gia: Quản Trọng, Thương Uởng, Hàn Phi
1.6. Tư tưởng cải lương và cách mạng tư sản
1.7. Sự truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Trung Quốc
1.1. Những đặc điểm về lịch sử, xã hội của Trung Quốc
Trung Quốc là một nước lớn ở miền Đông châu Á. Nền văn
minh Trung Hoa là một trong những nền văn minh xưa nhất trong số
các nền văn minh của thế giới cổ đại, hình thành từ thiên niên kỷ thứ
III TCN.
1.1.1. Các thủ lĩnh liên minh bộ lạc từ Hoàng đế đến Nghiêu,
Thuấn, Vũ
Thời tiền sử/ thượng cổ (bắt đầu từ thiên niên kỷ X đến giữa
thiên niên kỷ II TCN), xã hội nguyên thuỷ hình thành và phát triển
trên chặng đường tiến hoá tới các xã hội văn minh.
1.1.2. Thời kì cổ đại: Hạ, Thương, Chu
Nhà Hạ (XXI - XVII TCN)
Triều đại mở đầu thời kỳ chiếm hữu nô lệ ở Trung Quốc. Kinh
tế chưa phát triển, các tri thức mới ở giai đoạn phôi thai. Luc cường
thịnh nhất, nhà Hạ đã thống trị cả một vùng đất đai rộng lớn ở vùng
trung lưu sông Hoàng Hà. Vương triều trung ương theo chế độ thế tập,
đóng đô ở Am ấp (nay thuộc tỉnh Sơn Tây). Để bảo vệ quyền lợi của
giai cấp quý tộc, bộ máy quan lại, nhà tù, quân đội đã được thiết lập
7
tuy còn rất đơn giản.
Mặc dù vậy, thì tổ chức thiết chế xã hội của triều Hạ đã là một
bước tiến lớn, là một tiêu chí để đánh dấu xã hội Trung Quốc đã vượt
qua giai đoạn "dã man" sang giai đoạn văn minh.
32
Chương 2
Lịch sử tư tưởng Ấn Độ
34
Ngày nay, Ấn Độ là một quốc gia Cộng hòa Lập hiến Liên
bang theo thể chế Nghị viện và Cộng hòa Tổng thống, kết hợp với dân
chủ đại nghị và dân chủ trực tiếp, lãnh thổ bao gồm có 29 bang và 7
lãnh thổ liên bang. Nền kinh tế Ấn Độ có quy mô lớn thứ 6 trên thế
giới xét theo GDP danh nghĩa và lớn thứ 3 toàn cầu tính theo sức mua
tương đương (thống kê năm 2020). Kể từ sau khi ban hành các cải
cách kinh tế mới dựa trên cơ sở mở cửa nền kinh tế cũng như hình
thành kinh tế thị trường hoàn chỉnh vào năm 1991, Ấn Độ trở thành
một trong những nền kinh tế lớn có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trên
thế giới, được công nhận là một nước công nghiệp mới.
Ấn Độ là quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân và là một cường
quốc, có quân đội thường trực với số lượng lớn thứ 3 trên thế giới,
đứng thứ 4 về sức mạnh quân sự tổng hợp và xếp hạng 3 toàn cầu về
chi tiêu quân sự, Ấn Độ được đánh giá là một siêu cường tiềm năng.
Ấn Độ là thành viên của hầu hết các tổ chức quốc tế lớn, trong đó tiêu
biểu như: Liên Hợp Quốc, G-20, Khối Thịnh vượng chung Anh, WTO,
IAEA, SAARC, NAM và BIMSTEC,... Xã hội Ấn Độ hiện đại là một
xã hội đa nguyên, đa ngôn ngữ, văn hóa và dân tộc, đây cũng là nơi có
sự đa dạng về các loài hoang dã nhiều nhất trong khu vực và cần được
bảo tồn, bảo vệ. Tuy nhiên, quốc gia này vẫn tiếp tục phải đối mặt với
những thách thức kìm hãm sự phát triển của đất nước như: nghèo đói,
phân hóa giàu nghèo cao, nạn tham nhũng, tranh chấp lãnh thổ với các
nước láng giềng, nhiều tư tưởng phân biệt đẳng cấp và hủ tục tôn giáo
lạc hậu vẫn còn tồn tại, tình trạng suy dinh dưỡng, giáo dục và y tế
công thiếu thốn ở vùng nông thôn, cùng chủ nghĩa khủng bố.
2.2. Tư tưởng Bàlamôn và Hinđu giáo
2.2.1. Đạo Bà La Môn
Bà-la-môn (zh. 婆羅門, sa., pi. brāhmaṇa) là danh từ chỉ một
đẳng cấp, một hạng người tại Ấn Độ. Thuộc về đẳng cấp Bà-la-môn là
các tu sĩ, triết gia, học giả và các vị lĩnh đạo tôn giáo. Dân chung Ấn
Độ rất tôn trọng đẳng cấp này.
35
Đạo Bà La-Môn (Brahmanism) cũng gọi Ấn giáo hay Ấn Độ
giáo (Hinduism), là đạo bản địa của người Ấn (Hindus), hình thành ở
Ấn Độ khoảng năm 1.500 trước Công nguyên hoặc sớm hơn nữa, tức
là có trước Phật giáo ít lắm cũng khoảng 10 thế kỷ. Không xác định ai
là giáo chủ hay người mở đạo. Bậc chân sư đắc đạo hướng dẫn tâm
linh cho tín đồ được gọi là guru.
Tôn giáo này chủ trương đa thần (polytheism). Trời hay
Thượng đế của Ấn giáo là một Trimurti (tam vị nhất thể) gồm ba ngôi:
Brahma (đấng sáng tạo), Vishnu (đấng bảo tồn), và Shiva (đấng hủy
diệt).
Các bộ kinh chính viết bằng tiếng Sanskrit: Vedas (Phệ đà),
Upanishads (Áo nghĩa thư), Bhagavad Gita (Chí tôn ca)…
Vũ trụ quan. Thực tại tuyệt đối sinh thành và bảo tồn vũ trụ,
vạn vật được gọi là Brahman, có thể xem như tương đồng với khái
niệm Đạo của Trung Hoa, hay Logos của Hy Lạp cổ đại vào thế kỷ 5
trước Công nguyên.
Nhân sinh quan. Con người bị ràng buộc trong vòng vô minh
(ngu dốt) và huyễn ảo nhưng lại có khả năng thoát khỏi chung.
Kinh Vệ Đà (Veda) xem như là cỗi gốc của Bà La Môn Giáo
và là suối nguồn của nền văn minh Ấn. Trong kinh có những bản
thánh ca để ca tụng các vị thần, như thần lửa, thần nui, thần sông ...
Phần lớn ca tụng những vẻ đẹp huy hoàng, tưng bừng và mầu nhiệm
của cuộc sống trong vũ trụ. Toàn thể bộ kinh gồm bốn tạng:
1. Rig Veda: thi tụng cái biết.
2. Yajur Veda: nghi thức tế tự.
3. Sama Veda: ca vịnh thần chu.
4. Atharva Veda: (triển khai ý nghĩa ba bộ kinh kia).
Tư tưởng chủ yếu của Vệ Đà được biến đổi từ Đa thần qua
Nhất thần, từ Nhất thần sang lãnh vực Triết học ngang qua ba thời đại:
Vệ Đà Thiên Thư (Veda), Phạm Thiên Thư (Brahmana) và Áo Nghĩa
Thư (Upanishad).
36
2.2.1.1. Tư tưởng Đạo Bà La Môn
Theo trình tự thời gian, tư tưởng Vệ Đà đã đạt tới quan niệm
một đấng Thượng Đế hữu ngã sáng tạo vũ trụ và một bản thể tuyệt đối
vô ngã làm cội nguồn chung cho vũ trụ. Tuy nhiên, trên đại thể, kinh
Vệ Đà vẫn thiên trọng về quan niệm một đấng Thượng Đế hữu ngã
hơn.
Thời Vệ Đà Thiên Thư, dân chung sùng bái cung tế để cầu xin
sự trợ giup của các thần linh, hình thức phần chính thuộc về Đa Thần
giáo. Sang thời kỳ Phạm Thiên Thư, tín đồ chán việc tế lễ và thờ tự
nhiều Thần, nên tuyển lọc lại vài vị Thần quan trọng để phụng thờ,
sau thờ một Thần là đấng Phạm Thiên (Brahma), vị thần tối cao toàn
năng, siêu việt, sáng tạo ra vạn vật vũ trụ. Thế là đối tượng tín ngưỡng
của đa phần dân Ấn Độ chuyển từ Đa thần giáo sang Nhất thần giáo.
Qua đến thời kỳ Áo Nghĩa Thư không chỉ giới hạn trong nghi thức tế
tự, mà bao gồm môn triết học cao siêu.
Áo Nghĩa Thư là những bộ kinh luận được các giáo sĩ Bà La
Môn trước tác nhằm khai triển nền giáo lý Vệ Đà trên phương diện
triết học. Trong khi các kinh Vệ Đà chu trọng về nghi thức thờ phụng
thì Áo Nghĩa Thư muốn tìm hiểu thêm về tự ngã và tự thể của con
người và mối liên hệ của chung với bản thể tuyệt đối của vũ trụ vạn
vật. Nội dung căn bản của Áo Nghĩa Thư cho rằng con người, cũng
như mọi chung sinh đều có một tự thể bất sinh, bất diệt, thường tịch và
vô trụ như Bản thể tuyệt đối, thường được gọi là Atman hay Tiểu ngã
(một linh hồn bất diệt). Khi tự ngã của con người hay của chung sinh
chưa hoà nhập với Bản thể tuyệt đối (Brahman, đấng Phạm Thiên hay
Đại Ngã), thì Tự ngã của con người vẫn còn phải luân hồi trong vòng
sinh tử. Họ chủ trương “Brahma-Atman đồng nhất” và con người giải
thoát là con người hoà đồng vào bản thể của vũ trụ. Tiểu Ngã hoà
đồng với Đại Ngã vô biên trong một trạng thái hằng hữu vĩnh cửu.
Trên địa hạt xã hội, dân chung Ấn Độ hồi đó được phân chia
thành bốn giai cấp:
37
1. Hàng Tăng lữ thuộc giai cấp Bà La Môn (Brahman).
2. Vua chua thuộc giai cấp Sát Đế Lỵ, (Kshastriya).
3. Thương buôn, nông phu và thợ thuyền (Vaisya).
4. Tiện dân bần cùng thuộc giai cấp Thủ Đà La (Sùdra).
5. Ba-ri-a (Pariah) giống người cùng khổ, bị coi như sống ngoài
lề xã-hội loài người, bị các giai-cấp trên đối-xử như thu-vật, vô
cùng khổ nhục, tối tăm.
Hệ thống giai cấp này theo chế độ cha truyền con nối, các
người khác giai cấp không được cưới nhau, không được cùng nhau
hành lễ tế tự và không được ăn chung bàn. Giai cấp Thủ Đà La là giai
cấp cùng đinh bị khinh miệt và bị hành hạ, nên đời đời làm nô lệ phục
vụ cho ba giai cấp trên. Giai cấp này bị khinh bỉ đến nỗi một người
Thủ Đà La đến gần một giếng nước, thời giếng nước ấy xem như đã
trở thành dơ bẩn, không dùng được cho ba giai cấp trên và người Thủ
Đà La nào vi phạm tội ấy có thể bị ném đá cho đến chết.
Chính sự kỳ thị này đã gây ra một tổ chức xã hội cực kỳ bất
công. Cho đến cuối thế kỷ thứ 6 trước Tây lịch đẳng cấp Bà La Môn
hoàn toàn ngự trị trên toàn thể dân chung Ấn, họ hợp nhất quyền lực
chính trị vào quyền lực tôn giáo, đặt thêm nhiều nghi lễ tế tự phiền
toái để trói buộc dân chung nhằm củng cố giai cấp thống trị. Thời kỳ
này có nhiều luận chấp về Tự Ngã và nảy sinh nhiều phe phái, từ
những luận chấp về quá khứ, về tương lai, cho đến luận chấp về hiện
tại Niết Bàn. Tất cả các luận chấp này đều dựa vào sự xuc đối phân
biệt của sáu giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý thức).
2.2.1.2. Tư tưởng Triết học Đạo Bà La môn
Vào thời kỳ đầu, với trình độ nhận thức con người còn thấp
kém, tư tưởng triết học Bà-la-môn giáo chủ yếu dựa vào hình thức tế
tự, mang tính chất đa thần. Vì họ tin tưởng rằng, nhờ những nghi thức
tế lễ mà người ta có thể thông cảm với thần linh, được thần linh che
chở và giup đỡ cho giải thoát. Tới khi trình độ nhận thức ngày càng
cao, con người bắt đầu ý thức về sự tồn tại của mình. Họ suy ngẫm về
38
cuộc đời, số phận và đi tìm lẽ sống cho con người. Để đáp ứng nhu
cầu đó nên tư tưởng triết học Upanishad đã ra đời.
Đây là đỉnh cao của triết học Bà-la-môn giáo. Mọi tư tưởng của
bất kỳ môn phái nào sau này, chung ta sẽ không biết gì đến nơi đến
chốn nếu không tìm hiểu cội nguồn của tất cả các hệ thống Upanishad.
Vì vậy triết gia Schopenhauer đã thốt lên rằng: “Khắp thế giới không
có gì lợi ích nâng cao tâm hồn con người bằng các Upanishad. Nó đã
an ủi đời sống của tôi, nó sẽ an ủi tôi khi tôi chết”. Sự xuất hiện của
Upanishad đánh dấu bước chuyển tiếp từ thế giới quan thần thoại tôn
giáo sang tư duy triết học. Tư tưởng đó được thể hiện trong các vấn đề
chủ yếu sau:
1. Thực tại Tối cao Brahman
“Cái gì là thực tại đầu tiên, duy nhất, tối cao, là căn nguyên của
tất cả, mà khi nhận thức được nó người ta sẽ biết được mọi cái và có
thể giải thoát được linh hồn con người khỏi mọi lo âu khổ não của
cuộc đời”. Upanishad đã cho rằng:đó là “Tinh thần vũ trụ tối cao
Brahman”. Brahman là thực tại có trước nhất và là thực thể duy nhất,
tuyệt đối, tối cao, vĩnh viễn, vô danh vô sắc v.v… là bản thể của tất cả,
ở ngoài mọi giới hạn của thời gian và không gian… Brahman là thực
tại siêu việt khách quan, ở ngoài và ở trong con người.
Chandogya Upanishad nói: “Toàn thể vũ trụ là Brahman” và
cũng nói “cái ngã tiềm ẩn trong lòng ta, đó là Brahman”. Cả Mundak
và Katha Upanishad đều xác nhận: “Tự ngã không thể đạt được bởi
học vấn, trí tuệ hay kiến thức. Ngài có thể đạt được bởi người nào mà
Ngài lựa chọn. Đối với người ấy Tự ngã tự thể hiện bản tính của
mình”. Taittiriya Upanishad có nhắc đến lời dạy của đạo sĩ Varuna về
Brahman cho con như sau:
“Cái ở đấy mọi sự vật sinh ra, cái ở đấy mọi sự vật sống được
và cái ở đấy mọi sự vật trở về sau khi chết. Con hãy tự hiểu lấy, cái đó
là Brahman”.
39
Như vậy, Brahman là nguyên lý siêu việt, thường tại, vô thủy
vô chung, là quỹ đạo chi phối vạn vật theo một trật tự như là điều lý
có sẵn. Trong khi đó, vạn vật là những thực tại hữu thủy, hữu chung,
được điều lý và định hướng trong Brahman.
Brahman là một thực tại đồng nhất, vượt ngoài các ý niệm, các
tổng số ý niệm; nhưng để lý giải cho những người chưa có trình độ
thực nghiệm tâm linh thì phải mượn những ý niệm. Vì thế, Taittiriya
Upanishad đã hình tượng hóa Brahman như một cái tổ chim có ba con
chim nhô cái đầu ra là Viraj, Hiranya Garbha và Ishvara: “Khi tuyệt
đối được quan niệm là độc lập, tự hữu thì gọi là Brahman. Khi được
coi là hiện thân thành vũ trụ thì gọi là Hiranya garbha, khi được coi là
thượng đế sáng tạo hữu ngã thì gọi là Ishvara. Ishvara trở thành
Brahman, Vishnu và Shiva khi ba chức phận của Ngài được phân
biệt”
Không thể miêu tả Brahamn, nhưng Mundaka Upanishad đã
lấy hình tượng con nhện giăng tơ để miêu tả hành động sáng tạo và
thu hồi của Brahamn như sau: “Cũng như con nhện giăng tơ và rut tơ
về, cũng như cỏ sinh trên mặt đất, cũng như lông mộc trên thân người
sống, thì nơi đây trong vũ trụ, phàm cái hữu tồn là xuất tự Bất di bất
dịch”.
Bất lực trong việc miêu tả Brahman, Brihad Aranyaka
Upanishad dùng toàn bộ những chữ “không” để nói: “Brahman không
lớn, không nhỏ, không ngắn, không dài, không rực rỡ, không tối tăm,
không mùi, không vị, không mắt, không tai, không tiếng nói, không
hơi thở, không trong, không ngoài, không tiêu hủy mà cũng không bị
tiêu hủy”.
Mặc dù không thể miêu tả được Brahman là gì, nhưng
Brahman vẫn có những tính thiết yếu là: Thực hữu (Chat), Ý thức
(Chit), An lạc (Ananda). Brahman là thực hữu vì không phải là hư
không, Brahman là ý thức vì là nguồn gốc của mọi nhận biết,
Brahman là an lạc vì đó là hạnh phuc vĩnh hằng.
40
Mandukya Upanishad cho rằng con người chỉ có thể cảm nhận
Brahman bằng trực giác tâm linh (Turiya). “Turiya là bản chất của ý
thức về tự ngã duy nhất, nơi mà tất cả muôn vật trong thế giới đều trở
về, yên vui, thanh tịnh, không hai”.
2. Tự ngã Atman
Tự ngã Atman là một thực thể nội tại trong mỗi cá nhân. Hơi
thở là nguồn sống vật chất thì Atman là hơi thở siêu nhiên, là nguồn
sống thiêng liêng. Atman là thực thể làm cho con nguời vượt lên trên
vạn vật. Có thể nói Atman là thành phần của Brahman trong con
người. Brahman là cái ngã vũ trụ đại đồng, còn Atman là cái ngã cá
nhân. Braman chỉ có một, Atman là số nhiều, nhưng cái nhiều ấy chỉ
là giả tưởng vì bản chất cả hai chỉ là một. Cho rằng khi thân xác chết
thì Tự ngã (Atman) lại trở về hợp nhất với Đại ngã (Brahman).
Tự ngã Atman không phải là lý trí, tình cảm và giác quan,
nhưng Atman là nguồn cội của các sinh hoạt tinh thần ấy. Không có
Atman, tất cả sinh hoạt tinh thần và thể chất đều chấm dứt. Nhưng
ngay khi cả sinh hoạt tinh thần và thể chất chấm dứt thì Atman vẫn tồn
tại bất diệt. Với nhiều nỗ lực, nhưng Upanishad cũng không thể nói rõ
về Atman, cho nên luôn cảnh giác rằng tự ngã không thể hiểu được, tự
ngã phải cần được thực hiện. Katha Upanishad nói: “Atman không thể
nhận biết được bởi sức mạnh của trí óc, cũng không thể nhận biết
được bởi giác quan”.
3. Giải thoát và thực trạng giải thoát
Cứu cánh của mọi triết học, tôn giáo chính là vấn đề giải thoát.
Brihad Aranyaka Upanishad nói: “Bậc chân tri sau khi chết sẽ vượt
qua không gian lên tới cõi hạnh phuc vĩnh hằng”. Cõi hạnh phuc vĩnh
hằng là cảnh giới dành cho những người đạt giải thoát thực sự. Còn
những kẻ tội lỗi thì phải chịu sự chi phối của định luật nghiệp báo, bị
đọa đày khổ sở trong vòng luân hồi cho tới khi dứt nghiệp và đạt được
chân tri. Ngoài ra Chândogya Upanishad cũng nói đến hai nẻo đường
41
giải thoát: đường của tố phụ (Patri Yana) và đường của thần linh
(Deva Yana).
Đường của tố phụ dành cho những người ra sức hành thiện,
những người ấy sau khi chết sẽ được vào cõi trời (thiên đường).
Nhưng khi hưởng hết phước báo trong một khoảng thời gian tương
ứng, họ sẽ trở lại trần gian. Chỉ khi nào con người đi vào nẽo đường
của thần linh, không bị nô lệ bởi vật chất, đồng nhất được Brahman
với Atman ngay tại chính mình, bấy giờ mới được giải thoát và được
hưởng hạnh phuc viên mãn vĩnh hằng.
Nhưng, muốn được giải thoát thì phải trải qua tiến trình tu tập.
Phải toàn tâm kiên trì tu luyện đạo đức (karma-yoga) và tu luyện tri
thức (jnàna-yoga), nhằm diệt mọi dục vọng, lo âu, phiền não, rũ bỏ hết
mọi ràng buộc, lôi kéo bởi thế giới vật dục biến ảo, vô thường của thế
giới trần tục; dày công thiền định (dhyàna) suy tư chiêm nghiệm nội
tâm, “thực nghiệm tâm linh” bằng trực giác; nhận cho ra chân bản
tánh của mình, để đạt chân lý tối thượng hòa nhập vào bản thể tuyệt
đối. Đó chính là sự giải thoát, ý nghĩa tối cao của cuộc sống.
Nhưng nhận thức được sự đồng nhất đó với linh hồn bất tử
không phải là điều cảm giác hay trí tuệ thông thường có thể đạt được.
Nó có thể đạt được nhờ vào sự thực nghiệm tâm linh. Thực nghiệm
tâm linh là sự thực nghiệm ngay trong sâu thẳm tâm hồn mình. Phải
trải qua mức cảm nghiệm, nhưng trước hết là phải đưa nhận thức quay
về chính mình. Kinh Upanishad đã nói: “Atman chẳng có thể nhận
biết được bởi học vấn, bởi sức mạnh của trí óc. Atman chẳng thể nhận
thức được bằng giác quan. Tự ngã mở các giác quan ra ngoài, bởt thế
người ta chỉ trông ra thế giới bên ngoài mà không nhìn về bản ngã”.
Có 3 con đường chính để đạt đến giải thoát:
- Con đường tri thức đòi hỏi tu hành khổ hạnh, chuyên tâm rèn
luyện, sẵn lòng thoát ly thế giới trần tục.
- Con đường hành động theo nguyên tắc tâm linh vị tha, vì lợi
ích chung, vì cái thiện, vì đại ngã.
42
- Con đường cuối cùng, rộng rãi nhất, dành cho mọi người đó
là con đường sùng tín, hết lòng tin yêu, tôn kính Đấng tối cao – Atman
có thể hoà nhập với Braman trong tình yêu và bằng tình yêu cao cả
thiêng liêng.
Giải thoát là con người không còn bị đau khổ nữa, bởi vì đau
khổ là trạng thái con người bị giới hạn. Ta không còn khao khát, ghét
bỏ, mơ tưởng… con người ra khỏi thế giới nhị nguyên tương đối,
bước vào cảnh giới nhất nguyên tuyệt đối.
4. Tự ngã
Upanishad thừa nhận một Atman hiện hữu trong con người. Và
cũng cho rằng có tự ngã bất biến, cuộc sống con người như thế nào là
do sự quyết định của đấng tối cao Brahman. Sự mặc khải của đấng
sáng tạo sẽ quyết định sự giải thoát của một con người
Tóm lại, nói đến Ấn Độ là nói đến một nền văn hóa với nhiều
truyền thống tôn giáo. Nơi đây có nhiều triết thuyết ra đời với nhiều tư
tưởng khác nhau. Nhưng tất cả các học thuyết sau này đều dựa vào tư
tưởng triết học Upanishad; vì từ rất sớm, nó đã chiếm một vị thế cực
kỳ trọng yếu trong mọi khái niệm và xã hội của con người cổ đại và
cho đến hiện nay.
2.2.2. Tư tưởng (Kinh điển) của Ấn độ giáo chủ yếu có ba bộ lớn
2.2.2.1. Bộ Veda (Vệ đà)
Veda bắt nguồn từ căn ngữ “Vid”, nghĩa là tri thức, kiến thức,
hiểu biết. Như vậy Veda là bộ sách của sự hiểu biết, bộ sách về tri
thức. Bộ này vốn không do một ai sáng tạo ra cả mà nó là bộ sách
được sưu tập và biên soạn lại bằng tiếng Sanskrit vào khoảng từ năm
1000 đến 800 trước CN, được mọi người tôn xưng là “Thánh kinh
Veda”. Theo các học giả hiện đại, Veda được sắp xếp theo bốn tập sau:
Bốn tập Samhitas (Sam có nghĩa là cùng với nhau, hita là sắp
xếp hay sưu tập), cũng gọi là bốn bộ Veda
Rig Veda (thường được phiên âm là Lê câu vệ đà): Gồm có
1028 bài thánh ca nhằm ca tụng, tán dương các vị thần linh. “Những
43
bài thánh ca này ngoài ý nghĩa tín ngưỡng, nó còn là tác phẩm văn học
có giá trị và thông qua đây chung ta cũng hiểu được về nhân sinh quan
và vũ trụ quan của người Ấn độ cổ đại” [27, 11]…Đây là quyển xưa
nhất và quan trọng nhất trong bốn quyển Veda.
Sama Veda (Sa ma vệ đà): Gồm có 1549 bài tán ca được trích
ra từ Rig Veda kết hợp với một ít bài mới. Nó được coi là “tri thức về
các giai điệu ca chầu, cầu nguyện thần linh khi hành lễ”.
Yajur Veda (Da du vệ đà): Bộ này tập hợp những nghi thức
khấn vái thần linh và cách bố trí các lễ vật trong khi cung tế. Có nhiều
đoạn trong này được rut ra từ Rig Veda. Tuy nhiên Yajur Veda lại có
những đoạn văn xuôi ngắn và một số đoạn tán ca có chung một đề tài.
Atharva Veda (A thát bà vệ đà): Là bộ ghi chép những câu
thần chu, ma thuật…dùng để cầu phuc, cầu an, giải hạn, cầu cho mọi
người tai họa được tiêu trừ… nhằm đem lại điều may mắn tốt lành cho
bản thân, gia đình và xã hội. Mặt khác nó còn có thể gây thương tổn
cho kẻ thù, nguyền rủa kẻ thù….
2.2.2.2. Upanishad (Áo nghĩa thư) có ba nghĩa chủ yếu
- Theo Max Muller, Upanishad có nghĩa là lớp học trong rừng,
ở đây những người học trò ngồi xung quanh thầy và nghe thầy giảng.
- Theo Deussen, thì Upanishad có nghĩa là giáo lý bí mật, mà
người thầy chỉ truyền trao cho một số ít học trò đã được thử thách và
lựa chọn.
- Theo Sankara, nhà sớ giải nổi tiếng của tập Upanishad, thì
Upanishad có nghĩa là đoạn trừ, tiêu hủy tức là triết lý này đoạn trừ sự
si mê, ngu dốt và mở đường cho chánh kiến và giác ngộ, giải thoát.
Upanishad có tổng cộng 180 cuốn, được biên soạn vào cuối
thời kỳ Veda. Cho nên nó còn có tên là Vedanta, nghĩa là sự kết thuc
của Veda (sự kết thuc ở đây tức là sự hoàn chỉnh, hoàn thiện của tư
tưởng Veda).
Nội dung chủ đạo của Upanishad là nhất nguyên và duy tâm
Nhất nguyên là vì các tác giả của Upanishad cho rằng: “Atman
44
là Brahman, ẩn sâu trong con người” [5, 25]. Cũng có nghĩa bản thể
của vũ trụ vạn hữu là cái bí mật của con người và biết được Atman tức
cũng biết được Brahman. Mà muốn “hiểu biết về Atman không thể đạt
được bởi lý luận. Atman sẽ trở nên dễ dàng lĩnh hội khi được giảng
giải bằng cách khác (nhận thức trực giác, hướng nội hay thực nghiệm
tâm linh). Bây giờ ngươi đã đạt được sự hiểu biết đó” [8, 100]. Như
vậy muốn nhận ra được Atman, chung ta phải quay về bên trong bằng
con đường thực nghiệm tâm linh thì mới có thể thấy được bản chất
của con người tức là Atman. Có khi người ta còn đồng nhất Atman với
hơi thở.
Duy tâm là vì Atman là cái nằm ẩn sâu bên trong, là cái bản
chất của con người, của mỗi chung sanh, “Atman ẩn dấu sâu kín trong
trái tim của vạn vật đang sinh tồn. Người thoát khỏi sự ràng buộc của
dục vọng và thế giới vật dục là người thấy được vẻ uy nghiêm của
Atman qua sự yên tĩnh của tri giác và trí tuệ, người đó sẽ đạt được tự
do từ khổ đau” [8, 103].
Trong Upanishad, chung ta cũng tìm thấy được những thuyết
nghiệp (Karma), luân hồi và các phương pháp thực tập đưa đến giải
thoát…….
2.2.2.3. Bhagavad Gita (Chí Tôn Ca )
Mahabharata là tác phẩm sử thi của Ấn độ nói riêng và của
nhân loại nói chung, được xem là cuốn “Bách khoa toàn thư”. Ngạn
ngữ Ấn cũng đã khẳng định: “Cái gì không được thấy trong
Mahabharata thì cũng không thể thấy được ở Ấn độ”. Bộ sử thi này
gồm có 200.000 câu thơ, dài gấp bảy lần tổng số câu của hai bộ sử thi
cổ Hy Lạp Iliade và Odyssee cộng lại. Nó được biên soạn vào khoảng
năm 500 trước công nguyên, đây là công trình sáng tác tập thể của
nhiều thi nhân và trải qua nhiều thế hệ.
Dưới triều đại các vua của Gupta, Bhagavad Gita được bổ sung
vào bộ sử thi này và trở thành cuốn VI của toàn tập Mahabharata.
45
Theo một số học giả thì. Bhagavad Gita gồm có 700 câu thơ và được
chia thành 18 đoạn.
Bhagavad Gita là bộ thánh điển quan trọng của Ấn độ giáo. Nó
không những là tác phẩm văn học có giá trị mà còn cô đuc được hầu
như tất cả những nguyên lý chính của đời sống tâm linh ấn độ cổ đại.
Nội dung chủ yếu của thánh ca này là trình bày về:
- Con đường tri thức
“Nhờ ánh sáng của Jnana (tri thức), nhà ngươi sẽ nhận biết
Brahma trong chính Atman của mình và ở trong Ta”.
- Con đường của hành động:
“Hành động của ai thoát khỏi dục vọng, được ngọn lửa của tri
thức soi sáng, người đó xứng đáng là bậc hiền giả ở đời”
- Con đường của sự sùng tín:
“…..Những ai có lòng thành kính, vọng tưởng đến Ta…..những
người đó mới thật là tông đồ mộ đạo, hiện hữu gần nhất bên Ta”.
46
2.3. Tư tưởng triết học và quan điểm xã hội
2.3.1. Giới thiệu chung về triết học Ấn Độ
Ấn Độ cổ đại là một vùng đất thuộc Nam Châu Á với đặc điểm
khí hậu, đất đai đa dạng và khắc nghiệt cùng sự án ngữ của vòng cung
dãy Hy - Mã - Lạp - Sơn kéo dài hàng ngàn km. Đây là yếu tố địa lý
có ảnh hưởng nhất định tới quá trình hình thành văn hoá, tôn giáo và
tư tưởng triết học của người Ấn Độ cổ đại. Thêm vào đó người Ấn Độ
cổ đại đã tích luỹ được những tri thức rất phong phu về các lĩnh vực
toán học thiên văn, lịch pháp nông nghiệp,… [5]
Tất cả những yếu tố tự nhiên, kinh tế, chính trị và tri thức đã
hợp thành cơ sở hiện thực cho sự phát triển những tư tưởng triết học -
tôn giáo Ấn Độ cổ đại.
Triết học Ấn Độ cổ đại chia làm hai giai đoạn: [2], [3]
Giai đoạn thứ nhất: Từ giữa thế kỷ III TCN đến khoảng giữa
thế kỷ II TCN, đây là giai đoạn thường được gọi là “Nền văn hoá
Harappa” (hay nền văn minh sống Ấn)-Khởi đầu của nền văn hoá Ấn
Độ mà cho tới nay người ta còn biết quá ít về nó ngoài những tư liệu
khảo cổ học vào những thập kỷ đầu thế kỷ XX.
Giai đoạn thứ hai: Giai đoạn thứ nhất tới thế kỷ thứ VII TCN,
đây là thời kỳ có sự thâm nhập của người Arya (gốc Ấn - Âu) vào khu
vực của người Dravida (người bản địa). Đó là một sự kiện quan trọng
về lịch sử, đánh dấu sự hoà trộn giữa hai nền văn hoá - tín ngưỡng của
hai chủng tộc khác nhau và quá trình này đã làm xuất hiện một nền
văn hoá mới của người Ấn Độ nền văn hóa Vê-đa.
Giai đoạn thứ ba: Trong khoảng 5-6 thế kỷ tức từ thế kỷ thứ VI
TCN đến thế kỷ I TCN, đây là thời kỳ Ấn Độ cổ đại có những biến
động lớn cả về kinh tế, chính trị, xã hội, tư tưởng và cũng là thời kỳ
hình thành các trường phái triết học - tôn giáo lớn. Đó là 9 hệ thống tư
tưởng lớn, được chia làm hai phái: chính thống và không chính thống.
So với các nền triết học cổ đại khác nền triết học Ấn Độ biểu
hiện ra là một nền triết học chịu ảnh hưởng lớn của những tư tưởng
47
tôn giáo. Chung ta đi xét những tư tưởng triết học cơ bản của trường
phái Phật giáo. Phật giáo là một trường phái triết học-tôn giáo điển
hình của nền tư tưởng ấn Độ cổ đại và có nhiều ảnh hưởng rộng rãi và
lâu dài trên phạm vi thế giới. Ngày nay với tư cách là một tôn giáo,
Phật giáo là một trong ba tôn giáo lớn nhất trên thế giới, có tầm ảnh
hưởng mạnh mẽ đến các nước phía bên ngoài Ấn Độ.
2.3.2. Triết học Phật giáo nguyên thủy
2.3.2.1. Thế giới quan của phật giáo
Thế giới quan Phật giáo là một thế giới quan có tính duy vật và
vô thần đồng thời có chứa đựng nhiều yếu tố biện chứng sâu sắc.
Tính duy vật và vô thần thể hiện rõ nét nhất ở quan niệm về
tính tự thân sinh thành, biến đổi của vạn vật, không do sự chi phối
quyết định của một lực lượng thần linh hay thượng đế tối cao nào.
Trái lại vạn vật đều tuân theo tính tất định và phổ biến của luật nhân
quả. Điều này được thể hiện trong việc lý giải những vấn đề của cuộc
sống nhân sinh như: hạnh phuc, đau khổ, giàu nghèo, thọ, yểu,… [6]
Tính biện chứng sâu sắc của triết học Phật giáo đặc biệt thể
hiện rõ qua việc luận chứng về tính chất “vô ngã” và “vô thường” của
vạn vật.
Phạm trù “vô ngã” bao hàm tư tưởng cho rằng vạn vật trong vũ
trụ vốn không có tính thường hằng nó chỉ là sự “giả hợp” do sự hội đủ
nhân duyên nên thành ra “có”. Ngay bản thân sự tồn tại của thực tế
con người chẳng qua cũng là do “ngũ uẩn” (năm yếu tố) hội hợp lại:
sắc (vật chất), thụ (cảm giác), tưởng (ấn tượng), hành (suy lý) và thức
(ý thức). Nói một cách tổng quát thì vạn vật chỉ là sự “hội hợp” của
hai loại yếu tố là vật chất “sắc” và tinh thần “danh”. Như vậy thì
không có cái gọi là “tôi” (vô ngã).
Phạm trù “vô thường” gắn liền với phạm trù “vô ngã”. Vô
thường là không thường còn, là chuyển biến thay đổi, luật vô thường
chi phối cũ trụ, vạn vật, thân và tâm ta. Sự vật luôn luôn biến đổi
48
không có gì là thường trụ và luôn luôn bất biến. Sự chuyển biến diễn
ra ở hai hình thức Kshana vô thường và nhất kỳ vô thường.
Như vậy thì thế giới quan của Phật giáo là thế giới quan nhân
duyên. Tất cả sự vật đều có danh, có tướng, có thể nhận thức được.
Dùng ngôn ngữ luận bàn trong Phật giáo được gọi là Pháp, các pháp
đều thuộc một giới gọi là pháp giới và bản tính là các pháp duyên khởi.
2.3.2.2. Nhân sinh quan Phật giáo
Nhân sinh quan Phật giáo là phần trọng tâm của triết học. Cũng
như nhiều trường phái khác của triết học ấn Độ cổ đại, Phật giáo đặt
vấn đề tìm kiếm mục tiêu cứu cánh nhân sinh ở sự “giải thoát” khỏi
vòng luân hồi, nghiệp báo để đạt tới trạng thái tồn tại Niết bàn. Tính
quần chung của luận điểm nhân sinh Phật giáo thể hiện ở chỗ nêu cao
tinh thần “bình đẳng giác ngộ”, tức là quyền thực hiện sự giải thoát là
cho tất cả mọi người mà cao hơn nữa là của mọi “chung sinh”. Điều
này mang tính nhân bản sâu sắc, vượt qua giới hạn đẳng cấp khắc
nghiệt vốn là một truyền thống chính trị ấn Độ nói lên khát vọng “tự
do cho tất cả mọi người”, không thể là độc quyền của một đẳng cấp
nào.
Nội dung triết học nhân sinh của Phật giáo tập trung ở bốn
luận điểm gọi là “tứ diệu đế”: [5]
Khổ đế: Theo triết học Phật giáo, trong cuộc sống nhân sinh sẽ
bao gồm sự đau khổ, ràng buộc hệ luỵ, không có tự do. Đó là 8 nỗi
khổ trầm lâm bất tận mà bất cứ ai cũng phải gánh chịu: sinh, lão, bệnh,
tử, thụ biệt ly (yêu thương chia lìa), Oán tăng hội (oán ghét nhau mà
phải sống với nhau), sở cầu bất đắc (cái mong muốn mà không đạt
được), và ngũ thụ uẩn (5 yếu tố vô thường nung nấu làm khổ).
Nhân đế: Trong luận điểm giải thích những nguyên nhân sự
thật đau khổ nơi cuộc sống nhân sinh. Đó là 12 nguyên nhân: vô minh,
hành, thức, danh sắc, lục nhập, xuc, thụ, ái, thủ, hữu, linh, lão tử.
Trong 12 nhân duyên ấy thì “vô minh” là nguyên nhân chủ đạo. Bởi
thế cho nên diệt trừ vô minh là diệt trừ tận gốc rễ sự đau khổ nhân
49
sinh. Dưới góc độ nhận thức vô minh là ngu tối, không sáng suốt,
thiếu giác ngộ chân lý.
Diệt đế: Luận điểm về khả năng có thể tiêu diệt được sự khổ
nơi cuộc sống nhân sinh, đạt tới trạng thái Niết bàn và cứu cánh của
hành động tự do. Bộc lộ tinh thần lạc quan tôn giáo của Phật giáo, thể
hiện khát vọng nhân bản của nó muốn hướng con người đến niềm
hạnh phuc chân – thiện – mỹ.
Đạo đế: Luận điểm về con đường thể hiện sự diệt khổ, đạt tới
giải thoát. Không phải là con đường sử dụng bạo lực mà là con đường
tu đạo. Con đường này thể hiện sự hoàn thiện đạo đức cá nhân, sự giải
phóng mang ý nghĩa của sự thự hiện cá nhân, không mang ý nghĩa của
những phong trào cách mạng hay cải cách xã hội. Đây là nét đặc biệt
của “tinh thần giải phóng nhân sinh” của Phật giáo.
Con đường giải phóng cá nhân gồm 8 nguyên tắc: Chính kiến,
chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính mệnh, chính tinh tiến,
chính niệm và chính định.
2.3.3. Triết học Phật giáo hiện đại
2.3.3.1. Duyên khởi
Duyên khởi là tư tưởng cơ bản nhất và là giáo lí cơ bản nhất
của Phật giáo, nó thể hiện cách nhìn căn bản của Phật giáo đối với đời
người, với tồn tại và sinh mệnh. Tư tưởng Duyên khởi là cơ sở triết
học của giáo thuyết cụ thể và tư tưởng quan trọng của Phật giáo như
nhân quả, không hữu, trung đạo, bình đẳng, từ bi, giải thoát,… Các
giáo thuyết cụ thể và tư tưởng quan trọng của Phật giáo đều là sự triển
khai của tư tưởng Duyên khởi. Thuyết Duyên khởi khác với thuyết Vô
nhân, thuyết Ngẫu nhiên, thuyết Thần tạo và thuyết Định mệnh, nó là
một luận thuyết tương đối hợp lí về sự sinh thành diễn biến và về bộ
mặt vốn có của thế giới. Duyên khởi luận là thế giới quan độc đáo của
Phật giáo, đặc sắc lớn nhất và đặc trưng căn bản để phân biệt Phật
giáo với các tôn giáo khác. Tư tưởng Duyên khởi của Phật giáo chứa
50
đựng hai tư tưởng quan trọng là “quan hệ” và “quá trình”, là thế giới
quan của thuyết quan hệ, thuyết quá trình. [7]
Phật giáo cho rằng do vạn vật trong vũ trụ đều là Duyên khởi
nên đều có tứ tướng sinh, tru, dị, diệt, một quá trình không ngừng biến
dị. Cũng vậy, con người sống trong quá trình sinh, lão, bệnh, tử và
sinh tử lưu chuyển cần thừa nhận tư tưởng quá trình đó hàm chứa tư
tưởng vận động, biến hóa, phát triển, nên coi đó là biểu hiện của tư
duy biện chứng.
2.3.3.2. Nhân quả
Duyên khởi nói nhân duyên hòa hợp mà sinh ra “quả”. Cái có
thể sinh kết quả là nhân, cái do nguyên nhân mà sinh là kết quả. Nhân
quả tồn tại trong diễn biến trước sau nối nhau, trong sự hòa hợp liên
quan đến nhau. Có nguyên nhân thì sẽ có kết quả, có kết quả thì sẽ
có nguyên nhân. Mọi sự vật đều biến đổi sinh diệt theo phép Nhân quả.
Luật Nhân quả là lí luận cơ bản Phật giáo dùng để giải thích mối quan
hệ tương hỗ của mọi sự vật. Phật giáo đưa ra tư tưởng Nhân quả báo
ứng nhằm giải thích mối quan hệ giữa hoạt động thân tâm (thể xác và
tinh thần) của các chung sinh với kết quả. Về luân lí, tư tưởng này
trình bày thuyết thiện có thiện báo, ác có ác báo, tức thiện nhân lạc
quả, ác nhân khổ quả. Học thuyết đó cho ta cơ sở tư tưởng vững chắc
và hữu hiệu để quảng đại tín đồ tu trì đạo đức bỏ ác theo thiện. [7]
Phật giáo cho rằng hoạt động thân tâm của chung sinh không
những đem lại quả báo cho cuộc sống của chính mình mà còn mang
lại quả báo cho không gian, môi trường sinh tồn của sinh mệnh. Phật
giáo còn cho rằng bối cảnh thời đại, môi trường sống, quốc thổ, nui
sông đều là quả báo do đa số chung sinh cùng chiêu cảm được. Các tư
tưởng quả báo này của Phật giáo thể hiện sự hiểu rõ mối quan hệ
Duyên khởi đối với mối quan hệ tương hỗ giữa thế giới chủ thể và thế
giới khách thể, thế giới chủ quan và thế giới khách quan, thể hiện sự
quan tâm đối với kết quả hoạt động của các loại chung sinh, sự quan
51
tâm đối với môi trường tự nhiên, môi trường sống, môi trường sinh
thái.
2.3.3.3. Trung đạo
Đó là con đường Trung chính không lệch về bên nào, vượt trên
sự cực đoan, lệch về hai bên hữu vô, nhất dị, khổ lạc, yêu ghét. Trung
đạo là lập trường căn bản và đặc sắc cơ bản của Phật giáo. Thích Ca
Mâu Ni phản đối thuyết Thần ngã của đạo Bàlamôn và đề xuất phép
Duyên, từ đó nhấn mạnh “Li vu nhị biên, thuyết vu Trung đạo”. Trong
thực tiễn, Thích Ca Mâu Ni đề xuất “Bát Chính đạo”, vừa phản đối
chủ nghĩa khoái lạc lại phản đối chủ nghĩa khổ hạnh, đề xướng Trung
đạo hạnh bất khổ bất lạc, tức tư duy, lời nói, hành vi, ý chí, đời sống
của con người đều nên hợp lí vừa phải, giữ ở mức ở giữa không lệch
bên nào. [7]
Không và Hữu (có) là hai cách nhìn cơ bản của Phật giáo đối
với vũ trụ nhân sinh. Phật giáo dạy Pháp có thể không nói ra Không là
có hai nghĩa, sau khi có Đức Thích Ca, nội bộ Phật giáo dần dần diễn
hóa thành hai tông Không, Hữu. Trong Phật giáo Tiểu thừa, hệ Câu
Xá là Hữu tông, hệ Thành Thực là Không Tông. Phật giáo Đại thừa
cũng chia làm hai hệ thống lớn, Trung Quan học phái là Không tông,
Du Già (Yoga) hành phái là Hữu tông. Hai tông Không, Hữu đều thừa
nhận lập trường lí luận cơ bản Duyên khởi tính Không, nói một cách
tương đối thì Không tông tương đối nhấn mạnh mặt tính Không của
chư pháp, Hữu tông thì tương đối nhấn mạnh mặt Hữu của chư pháp
với tư cách là hiện tượng Duyên khởi.
Không lại chia làm hai loại Nhân không và Pháp không. Nhân
không còn gọi là Ngã không, là sự nhân vô tự tính của chủ thể, Pháp
không là sự pháp vô tự tính của khách thể. Về vấn đề chư pháp có hay
không có thực thể, tức cách nhìn mối liên hệ và khu biệt Duyên khởi
với Thực hữu, sự vật với tự tính, hiện tượng với bản chất. Đây là vấn
đề vô cùng phức tạp. Tuy rằng nói về tổng thể thì các phái Phật giáo
đều thừa nhận thuyết Duyên khởi tính Không. [7]
52
Từ các điều nói trên có thể hiểu, xét về mặt hiện tượng, Duyên
khởi pháp là tồn tại, là Hữu còn xét về mặt bản chất của Duyên khởi
pháp, là không tồn tại, là Không. Hữu và Không là cách nhìn hai mặt
với một sự vật.
2.3.3.4. Bình đẳng
Phật giáo tuyên truyền và đề xướng bình đẳng có 4 tầng nấc:
[7]
Bình đẳng giữa người với người. Chủ trương bình đẳng tứ
chủng tính của Phật giáo thể hiện tư tưởng bình đẳng nhân quyền, là
phong trào nhân quyền đặc biệt phản đối sự phân biệt chủng tính và áp
bức giai cấp, nó nhất trí với yêu cầu bình đẳng nhân quyền của xã hội
hiện đại.
Bình đẳng chung sinh. Thông thường Phật giáo coi 9 giới từ Bồ
Tát tới địa ngục (trong 10 giới không kể Phật) nhất là lục đạo từ Trời
đến địa ngục, là chung sinh. Phật giáo cho rằng chung sinh khác nhau
tuy có tính khác biệt nhưng bản chất sinh tồn và sinh mệnh của chung
sinh thì bình đẳng. Phật giáo đặc biệt nhấn mạnh mọi chung sinh đều
có Phật tính. Kinh Niết Bàn về lí thuyết khẳng định mọi chung sinh
đều có Phật tính tức là bình đẳng với nhau về nguyên nhân, căn cứ và
khả năng thành Phật.
Bình đẳng giữa chung sinh với Phật. Phật giáo tuyên truyền tư
tưởng “sinh Phật bất nhị, sinh Phật nhất như”, cho rằng chung sinh và
Phật về bản chất đều có đủ Chân như Phật tính. Chung sinh mê vọng
hoàn toàn không diệt Chân như Phật tính. Phật giác ngộ cũng hoàn
toàn không tăng thêm Chân như Phật tính mà đều như nhau, có khả
năng thành Phật. Chung sinh và Phật là bình đẳng bất nhị.
Bình đẳng giữa chung sinh với vô tình. “Vô tình” tức là không
có ý thức tình cảm, là thứ không có tính tinh thần. Xét về điểm cùng
có Phật tính như nhau thì vật vô tình và chung sinh không có khác biệt
bản chất, bình đẳng vô nhị với nhau. Đây là sự xác nhận tôn nghiêm
53
đối với các sinh vật và vô sinh vật trong giới tự nhiên và là sự kính
trọng đối với muôn vật. Quan niệm bình đẳng của Phật giáo dựa trên
học thuyết Duyên khởi, xây dựng trên sự bình đẳng nhân quả. Chung
sinh và Phật bình đẳng nhân quả, không có gì khác biệt. Tư tưởng
bình đẳng nhân quả này của Phật giáo là nói về khả năng, có tính phi
hiện thực, nó cung cấp cơ sở lí luận cho thuyết giải thoát.
2.3.3.5. Từ bi
Trên cơ sở tư tưởng Duyên khởi, Bình đẳng, Phật giáo cho rằng
trong đại hoàn lưu sinh thái vũ trụ, mọi chung sinh đều có thể từng là
người thân của ta. Ta nên có tâm thái bình đẳng, tình nghĩa báo ơn,
tâm nguyện từ bi để đem lại cho chung sinh sự an lạc trừ bỏ sự đau
khổ của chung sinh. Phật giáo tuyên truyền tư tưởng “Tam duyên từ
bi”, chia đối tượng từ bi làm 3 loại từ đó quy kết thành 3 loại từ bi:
chung sinh duyên bi, pháp duyên bi, vô duyên bi. [7] Trong 3 loại đó
“vô duyên bi” là loại cao nhất. Từ bi là tư tưởng đặc thù của Phật giáo,
nó không hoàn toàn giống với nhân ái do các giáo phái khác đề xướng.
Từ bi không bị hạn chế bởi đẳng cấp, giai cấp, nó cũng loại trừ tính
thiên tư hẹp hòi.
2.3.3.6. Giải thoát
Phật giáo lấy giải thoát làm lí tưởng cuối cùng cho chung sinh.
Giải thoát là không có ô nhiễm, không có chấp trước, là được coi tự
do tự tại, cũng gọi là cõi Niết Bàn. Phật giáo cho rằng chung sinh có
nhiều phiền muộn như tham dục, sân huệ, ngu si, chung trở ngại cho
sự thành trưởng thiện căn làm cho chung sinh lưu chuyển trong nỗi
khổ sinh tử không bao giờ hết. Giải thoát là thoát ra khỏi nỗi khổ
phiền muộn và sự trói buộc của lưu chuyển sinh tử, được giải phóng,
được siêu việt, được tự do, tiến lên cõi lí tưởng. Phật giáo cao độ coi
trọng đạo giải thoát. Phật giáo thời kì đầu lấy Bát chính đạo, thời kì
sau lấy sự lĩnh hội chân lí làm con đường giải thoát. Phật giáo còn đề
xướng “Nhất thiết duy tâm tạo” cho rằng sự lưu chuyển luân hồi hoặc
giải thoát Niết bàn của chung sinh đều quyết định ở lòng người. Giải
54
thoát không phải là việc của cá nhân chỉ có tự giác ngộ và người khác
cùng giác ngộ thì mới được giải thoát thật sự. [7]
2.3.4. Ảnh hưởng triết học Phật giáo Ấn Độ đến xã hội Việt Nam
Phật giáo truyền vào Việt Nam khoảng thế kỷ II sau Công
Nguyên. Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, Phật giáo có ảnh hưởng sâu
đậm và lâu dài. Trong quá trình phát triển, Phật giáo Ấn Độ với tư
cách là một tôn giáo đã có nhiều đóng góp cho Văn hoá Việt Nam.
2.3.4.1. Văn tự
Chung ta biết rằng miền Trung và miền Nam nước Việt, vào
thời điểm đó nơi này là các vương quốc Chămpa và Phù Nam. Các
thương nhân và nhà truyền giáo Ấn Độ đều đã đến đây có thể cùng
một luc hay sớm hơn thời gian họ đến Dâu. Các nhà truyền giáo đã sử
dụng văn tự Sanscrit để truyền giáo. Bi kí và minh văn thuộc niên đại
khoảng đầu Công Nguyên đã được phát hiện trước năm 1945 và hiện
nay vẫn còn đang được phát hiện chứng minh diều đó một cách hùng
hồn. Còn ngôn ngữ thì đã có sẵn cho nên sau đó một khoảng thời gian
thì xuất hiện chữ Chăm, chữ Khmer trên cơ sở chữ Sanscrit. [1] Nam
Đại Việt đã thừa hưởng của Bàlamôn giáo loại văn tự mà họ chưa có,
tức là bàlamôn giáo, phật giáo đem đến cho cư dân đó một loại văn tự.
Đó là một cống hiến của Bàlamôn giáo và Phật giáo đối với miền nam
nước ta. Bắc Đại Việt thì người truyền giáo Ấn Độ đã gặp ở đây một
văn tự ngoại quốc nhưng quan phương cho nên họ dùng loại văn tự
Hán.
2.3.4.2. Kiến trúc
Cho đến khi chùa xuất hiện thì xóm làng Việt vẫn còn là một
quần thể nhà tranh. Chùa chiếm ngay đến địa vị trung tâm của làng và
trở thành nơi quần tụ văn hoá. Người dân đi học, đi chợ, đi chơi hội, đi
xem mua rối nước cũng đều ở tại chùa. Cảnh quan xóm làng nông
thôn đổi sắc với sự xuất hiện của chùa. Chùa cao ráo hoặc mái rạ hoặc
mái ngói với cây tháp gạch, một cây, hai cây hoặc cả một vườn tháp
nổi bật lên giữa một quần thể nhà tranh vách đất. [1]
55
Chùa Việt không hoàn toàn giống như chùa Trung Quốc. Buổi
đầu chùa Việt mô phỏng chùa hang Ấn Độ cho nên hình thành kiến
truc chuôi vồ rất phổ biến trong các chùa làng. Chùa Ấn Độ là mô
hình một hang đá gồm có tiền đường và một hậu cung đặt biểu tượng
Phật và một số tăng phòng xung quanh. Chuyển sang kiến truc gỗ thì
ngôi nhà ba gian được nối thêm một chuôi vồ, còn các thiền phòng
thành những hành lang và nhà Tổ. Một số ngôi chùa tiêu biểu ở Hà
Nội hiện nay thuộc mô hình này như chùa Hồng Phuc, chùa Liên Phái,
chùa Linh Quang,… [4]
Loại hình kiến truc tháp cũng cực kỳ phong phu. Phật tử cũng
như ngoại đạo đều biết đến tên tuổi của chùa Báo Thiên, tháp Sùng
Thiện Diên Linh gắn với tấm bia về mua rối, chùa tháp Chương Sơn
với nét kiến truc đặc trưng của hai tay vịn vũ nữ tạc theo tư thế
Tribhanga mang dấu ấn Chăm rõ rệt.
2.3.4.3. Lối tư duy người Việt Nam
Có thể nhận thấy, người Việt tư duy trừu tượng về phồn thực với
hình thức ma thuật mô phỏng là một dạng tôn giáo tín ngưỡng nguyên
thuỷ. Các nhà nghiên cứu đã phân tích các hình vẽ được khắc trên
thân trống đồng như cảnh chim bay, cảnh miêu tả các động vật như
trâu, bò để chứng minh cho luận thuyết: Người Việt cổ đã có quan
niệm về vũ trụ quan với 3 thế giới: Trời - Đất - Nước. Điều đó cho
thấy, tư duy của người Việt đã nhận thức được sự vận động vòng tròn
để từ đó làm cơ sở cho việc tiếp nhận dễ dàng thuyết luân hồi của Phật
giáo. [4]
Tiếp thu Phật giáo Ấn Độ, tư duy người Việt Nam có thêm một
số khái niệm và phạm trù nói nên bản thể luận là những vấn đề cơ bản
của triết học.
Triết học Phật giáo Ấn Độ là một trong những hệ tư tưởng ảnh
hưởng lâu đời và sâu sắc nhất không chỉ đối với nhân dân Ấn Độ mà
còn đến các nước khu vực, việc tiếp thu và duy trì hệ tư tưởng đến qua
từng thời kì đó thực sự là một quán trình rất dài. Nhìn nhận lại tiến
56
trình lịch sử của triết học Phật giáo từ thờ kì nguyên thủy sơ khai đến
thời kì hiện đại với các tư tưởng tiến bộ. Chung quy lại đều hướng đến
cuộc sống nhân sinh, những cảnh giới con người sẽ, đã và phải đạt
được để hướng đến cái gọi là chân – thiện – mỹ, để có cuộc sống an
nhàn, bình lặng.
Những ảnh hưởng của Phật giáo tuy chỉ xét về những khía cạnh
như kiến truc với những tòa tháp, đền chùa với những tín ngưỡng tồn
tại trăm năm đến văn hóa chữ viết, ngôn ngữ và cuối cùng là hình
thành lối tư duy phồn thực của nhân dân Việt Nam. Nó thực sự đã trở
thành cái nôi của những nền văn hóa trên đất nước nghìn năm văn
hiến này.
Tài liệu tham khảo
[1] Several comments on the Buddhist cultural role in Vietnam culture.
[2] History of Buddhist philosophy, https://www.slideshare.net/
[3] The history of Buddhism, https://roundtableindia.co.in
[4] Triết học Phật giáo Ấn Độ và ảnh hưởng của nó đến văn hóa, xã
hội Việt Nam,
[5] Triết học Phật giáo của Ấn Độ,
[6] Giá trị của triết học Phật giáo trong xã hội hiện tại,
57
hay các trường phái triết học khác nhau chẳng những không đối lập
nhau mà còn bổ sung cho nhau. Điều đó có nghĩa là: có sự khoan dung
về mặt trí tuệ.
Một trong những nhân tố thống nhất và làm cho các trường
phái triết học nhích lại gần nhau là niềm tin cho rằng: tri thức triết học
không phải là mục đích tự thân, mà nó chỉ là một phương tiện để
chuyển hóa nội tâm nhằm đạt tới giải thoát tức mukti hay nirvana
(Niết bàn). Ngay những người sáng lập ra những hệ thống triết học
trừu tượng nhất cũng đều thừa nhận mục đích chung này. Mục đích ấy
coi trí thức triết học chỉ là một trong những khía cạnh của sự thông
thái cao nhất. Trong đó còn có sự trong sạch về đạo đức của người
hiền và sự nhạy cảm của người thi sĩ, nghệ sĩ. Các nhà triết học Ấn Độ
(trừ các nhà duy tâm triệt để nhất) còn thống nhất với nhau ở một
điểm nữa là cho rằng không thể đạt tới sự giải thoát – tức là mục đích
của tri thức – bằng một ngoại lực, chẳng hạn như “số mệnh”, mà bằng
sự tu thân tích đức của mọi con người (karma) qua các kiếp luân hồi.
Trường phái triết học Jaina thừa nhận sự tồn tại của nhiều loại
thực thể (dravya), trong đó có những thực thể vô sinh (pudgala) và
những thực thể hữu sinh (jiva). Mọi sinh vật đều có linh hồn, kể từ
những hình thức sơ đẳng nhất, những sinh vật hoàn thiện (tirthankara)
đã vượt qua được những thuộc tính có hạn chế để đạt tới tri thức tuyệt
đối (kaivalya). Những tirthankara ấy là thực tại tối cao, bởi trong thế
giới quan của triết học Jaina không có chỗ cho Thượng đế.
Ít nhất là ở trong buổi sơ khai, đạo Phật chủ yếu là một quan
điểm đạo lý, bởi vì đức Phật đã cố tránh đề cập đến vấn đề siêu hình
để tập trung vào vấn đề “khổ”. Nhưng khi đức Phật nhấn mạnh đến
tính phổ biến của luật nhân quả và tính vô thường của mọi sự vật và
hiện tượng trên đời là đức Phật đã mở đường cho siêu hình học, nhất
là sau khi xuất hiện tông phái Đại thừa (Mahayana). Nagarjuna (Long
Thọ) (150 – 250 TCN) người vĩ đại nhất trong các nhà triết học Phật
giáo, là tác giả học thuyết “Chân không – Shunyavada”, thuyết cho
58
rằng: muốn hiểu được bản chất cơ bản nhất của thực tại thì phải “làm
cho rỗng hết” mọi khái niệm và thuộc tính có hạn.
Nhưng trong cả tư tưởng của Hindi nữa, ở những bài thánh ca
đầu tiên trong kinh Veda (khoảng 1500 – 1200 TCN) cũng đã thể hiện
khuynh hướng nhất nguyên luận, khuynh hướng sau đó thống trị toàn
bộ tư tưởng Ấn Độ: đằng sau mọi cái đa dạng có một thực tại duy nhất
được gọi bằng nhiều tên khác nhau. Nhiều thế kỷ sau, các tập kinh
Upanishad lại hướng vào nội tâm và khẳng định rằng: cái tinh thần
phổ biến ở trong mỗi con người (atman – tiểu ngã) với cái thực tại tối
cao (brahman – đại ngã), căn nguyên của Vũ trụ, chỉ là một. Sau nữa,
thi phẩm Bhagavadgita (Bài ca của Đấng tối cao) ra đời khoảng 200
năm TCN đã cố tổng hợp quan điểm triết học và tôn giáo khác nhau
thành “Sáu học phái”.
Sáu trào lưu lớn này trong triết học Hindi xưa nay được xếp
thành ba cặp: Samkhya và Yoga; Nyaya và Vaisheshika; Mimansa và
Vedanta. Mặc dù có sự khác nhau căn bản giữa các trào lưu đó, song
về mặt hình thức thì tất cả đều thừa nhận uy thế của tập kinh Veda,
Upannishad và Bhagavadgita.
Trường phái Samkhya là một hệ thống nhị nguyên, thừa nhận
hai thực thể độc lập là Tinh thần (Purusha) va Tự nhiên (Prakriti).
Tinh thần là ý thức thuần tuy, Tự nhiên là nguồn gốc của mọi tiềm
năng sinh lực. Tinh thần và Tự nhiên không bao giờ gặp nhau, nhưng
hoạt động của Tinh thần có thể thuc đẩy hoạt động của Tự nhiên. Sự
cân bằng giữa ba yếu tố của Tự nhiên bị phá vỡ làm cho Vũ trụ tiến
hóa. Trường phái Yoga chấp nhận cơ sở triết học của Samkhya và vận
dụng nó vào mặt thực hành của việc tự nhận thức mình. Mục đích của
Yoga là loại trừ những lệch lạc, méo mó do ý thức gây ra để tìm về
với bản chất chân thực của Tinh thần.
Trường phái Nyaya (Phân tích) quan tâm đến logic và các
thuyết ngụy biện, và nghiên cứu về nguồn gốc tri thức con người.
Trường phái Vaisheshika lại bàn tới những phạm trù khác nhau của
59
thực thể, khẳng định rằng: mọi thực thể đều hợp thành bởi 4 nguyên tử
bất diệt và không thể chia nhỏ.
Trường phái Mimansa (Nghiên cứu) quan tâm đến nguyên lý
nhân quả để dẫn ra một cơ sở triết học biện minh cho uy lực của kinh
Veda và nghi lễ Veda. Sau cùng, trường phái Vedanta (Sự hoàn thành
của Veda) là sự hoàn thiện của triết học cổ điển Ấn Độ, là đỉnh cao
của truyền thống Veda. Vedanta có nhiều phái; có nhiều ảnh hưởng
nhất là phái Nhất nguyên, tức “Phi nhị nguyên” (Advaita). Ramanuja
(mất 1137) khẳng định rằng: “Thế giới và mỗi người đều bắt nguồn từ
cái Tổng thế siêu phàm, mặc dù không đồng nhất với Thượng đế”.
Nhà triết học vĩ đại Shankara (780 – 820) còn theo thuyết nhất nguyên
triệt để hơn nữa vì ông cho rằng: “thực tại duy nhất là brahman hay
cái Tuyệt đối. Bản ngã (java) đồng nhất với cái Đại ngã (brahman)
còn thế giới (jagat) chỉ là bề ngoài. Nếu như ta thấy cái tôi và thế giới
tách rời nhau, thành những thực thể riêng biệt, thì đó chỉ là do một
quyền năng vũ trụ bí ẩn (maya, tức ảo ảnh) gây ra sự ngu dốt.”
Thuyết Advaita Vedanta của Shankara đã thống trị tư tưởng Ấn
Độ từ 12 thế kỷ nay. Ta có thể đánh giá được uy tín của nó qua câu
ngạn ngữ dân gian nói rằng: “không có trường phái triết học nào chọi
được với Advaita, cũng như mọi sinh linh trong rừng đều im bặt khi
sư tử cất tiếng gầm”.
( www.vanhoaphatgiaovietnam.net)
60
Chương 3
Lịch sử tư tưởng Việt Nam
3.1. Nho giáo
3.2. Tư tưởng dân chủ tư sản
3.3. Sự truyền bá chủ nghĩa Mác-Lê nin vào Việt Nam
62
mạnh về sau. Khoa thi đầu tiên ở nhà Trần là thi Tam giáo, nghĩa là
thi cả Nho Phật Lão. Cách thi này lấy được sở trường của ba nhà,
khiến cho phong thái triều đại vô cùng phát triển, nhân tài rất nhiều.
Sau đó vua Trần Thái Tông lại mở khoa thi Thái học sinh có lấy Tam
khôi, là Trạng nguyên, Bảng nhãn và Thám hoa, và đặt Quốc học viện
để giảng dạy tứ Thư và ngũ Kinh. Đến cuối đời nhà Trần, vua Duệ
Tông (1374 - 1377) mở Đình thí lấy Tiến sĩ xuất thân. Vua Thuận
Tông (1388 - 1398) thi cử nhân, lệ cứ năm trước thi hương, năm sau
thi hội rồi vào thi đình, để chọn lấy Tam khôi.
3.1.1.5. Thời hậu Lê và Lê Trung Hưng, Mạc Nguyễn
Sau khi nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần, thế nước ta từ thịnh
chuyển suy. Nhà Minh luc này vừa thống nhất Trung Quốc, khí thế
mạnh mẽ của một bá chủ mới đang lên, đem quân diệt nhà Hồ và đô
hộ nước ta 20 năm. Trong thời gian đó, họ đặt học quan ở các phủ,
châu, huyện và đem cái học của Tống nho dạy cho dân ta và lấy
những sách Tứ Thư, Ngũ Kinh của họ Trình, họ Chu đã chu thích,
cùng sách Tính Lý truyền bá ra khắp mọi nơi. Từ đó Nho học tông
phái của Trình, Chu từ đó càng ngày càng thịnh tại nước ta. Lê Thái
Tổ đánh bại nhà Minh, khôi phục lại được nước nhà, nhận thấy Nho
giáo là tối cần thiết để trị lý nhà nước, nên ngài hết lòng lo mở mang
việc học, lập Quốc tử giám ở Thăng Long đào tạo nho sinh làm quan,
đặt học quan ở các phủ, các lộ, để trông coi việc giáo hóa. Thời đó,
các quan từ tứ phẩm trở xuống phải đi thi Minh kinh, nghĩa là quan
văn thì phải thi các kinh sử, quan võ thì phải thi võ kinh (binh pháp).
Đến thời Lê Thánh Tông (1460 - 1497), Nho giáo nước ta đạt cực
thịnh, nước nhà cũng trở nên hùng mạnh. Thánh Tông định ra ba năm
một lần thi: mùa thu năm trước thi hương, mùa xuân năm sau thi hội
và thi đình. Những người đỗ tiến sĩ được khắc tên vào bia đá để ở Văn
miếu. Từ đời nhà Lê về sau, trải qua nhà Mạc, nhà Hậu Lê trung hưng
và nhà Nguyễn, Nho học ở Việt Nam trở nên rất thịnh hành. Tuy
nhiên, cái dở lớn nhất là các Nho sĩ chỉ chăm chăm học Nho để cầu đỗ
63
đạt công danh (lối học từ chương) chứ ít có ai thật sự đạt đến trình độ
cao thâm (ngộ được nghĩa lý thâm ảo của Thánh nhân), có thể phò vua
giup nước nhà trở nên thịnh vượng.
Từ Tống Nho đến Việt Nho: Như đã nói ở trên, sau thời Minh
đô hộ, Việt Nam ta chịu ảnh hưởng từ Nho gia thời Tống rất nhiều.
Đặc biệt là hệ phái Trình Chu, đại biểu choTống Nho. Tống Nho khai
thác sâu các nội dung của Kinh dịch, Phật giáo, Đạo giáo để giải thích
nguồn gốc vũ trụ và các nội dung kinh sách của Nho gia. Họ cho rằng
thế giới do "Lý" (tinh thần) và "Khí" (vật chất) tạo thành, trong đó Lý
có trước, thuộc về phái duy tâm khách quan theo cách phân loại của
phương Tây.
Nho giáo hệ Tống Nhó có thể xem là hệ tư tưởng có ảnh hưởng
sâu rộng và lâu dài nhất đến xã hội Việt Nam thời trung và cận đại. Nó
đóng vai trò là nền tảng đạo đức giáo dục con người, tổ chức nhà nước,
duy trì trật tự xã hội, phát triển kinh tế, sáng tác văn học trong suốt các
triều đại quân chủ từ thời Lê đến hết thời Nguyễn. Suốt hơn 600 năm
đó nó đã dung hòa với đời sống người Việt hình thành nền Nho giáo
bản sắc Việt Nam. Nhìn tổng quan thì Tống Nho mang tính bảo thủ,
coi trọng thái độ cư xử ôn hòa, lương thiện, hướng cái nhìn về đời
sống tâm linh nhiều hơn, trọng tín nghĩa và sự chính trực, đã hình
thành nên những nét đẹp văn hóa trong cung cách sống của người Việt
thời cận đại vậy.
3.1.2. Những giá trị và ảnh hưởng của Nho giáo đến văn hóa Việt
Nam
3.1.2.1. Nền giáo dục và khoa bảng
Khoa bảng ( 科 榜 ) là cái bảng danh dự, liệt kê tên họ các thí
sinh đỗ đạt học vị trong các kỳ thi cử này, phần lớn được tuyển chọn
làm quan chức cho triều đại phong kiến Việt Nam. Khoa bảng là tĩnh
từ để chỉ những người đỗ đạt này. Thí dụ: "Gia đình khoa bảng" là gia
đình có học, có người trong họ đỗ đạt cao trong những kỳ thi cử do
triều đình tổ chức và chấm khảo.
64
Các sách xưa dùng chữ Nho dạy Nho giáo cho thí sinh dự các
kỳ thi Hương, thi Hội gồm có: Nhất thiên tự, Sử học vấn tân, Ấu học
ngũ ngôn thi, Minh tâm bảo giám, Minh đạo gia huấn, Tam tự kinh và
bộ sách giáo khoa là Tứ Thư (Luận ngữ, Mạnh tử, Đại học và Trung
dung), Ngũ Kinh (Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch và Kinh
Xuân Thu). Nhiều nho sĩ còn đọc thêm cả bách gia chư tử, các sách
Phật giáo, Đạo giáo nữa
Nho giáo là cơ sở hình thành hệ thống giáo dục chính thống của
Việt Nam trung đại ở bốn cấp kinh đô - tỉnh/đạo - phủ - huyện/châu,
và chế độ thi tuyển gồm bốn cấp khảo hạch - thi Hương - thi Hội - thi
Đình, để đào tạo ra quan lại nhà nước, quan viên làng xã. Hệ thống
giáo dục chính thống này tồn tại song hành với mạng lưới giáo dục
dân gian trong gia đình, làng xóm, làng nghề, nhằm giáo dục cách ứng
xử với gia đình, cha mẹ, ông bà, tổ tiên, họ hàng, làng xóm, thần linh...
Từ thời Hậu Lê, việc thi cử được tiến hành đều đặn và quy củ.
Các kỳ thi theo thứ tự là Thi Hương, Thi Hội, Thi Đình. Người đỗ đầu
cả ba được gọi là Tam Nguyên (như Tam Nguyên Nguyễn Khuyến).
Thi Hương được tổ chức mỗi 3 năm, vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu.
Thi Hội sau thi Hương 1 năm, vào năm Sửu, Mùi, Thìn, Tuất.
Nhà nước quân chủ Việt Nam cũng thường tổ chức những kỳ
thi để chọn người tài ra làm quan hoặc đảm nhiệm những chức vụ
trong chính quyền trung ương và địa phương. Các kỳ thi Nho học ở
Việt Nam bắt đầu có từ năm 1075 dưới triều Lý Nhân Tông và chấm
dứt vào năm 1919 đời vua Khải Định. Trong 845 năm đó, đã có nhiều
loại khoa thi khác nhau, ở mỗi triều đại lại có những đặc điểm khác
nhau, song trong các đời Lý, Trần, Hồ có một đặc điểm chung là các
khoa thi đều do triều đình đứng ra tổ chức, chỉ đạo thi. Hệ thống thi cử
tuyển người làm quan này gọi là khoa cử (chữ Nho: 科舉).
3.1.2.2. Đạo đức nhân văn và phong khí xã hội
Tại Việt Nam, Nho giáo đã bản địa hoá nên thành nền Việt nho,
cung cấp các giá trị làm nền tảng cho nền văn hoá Việt Nam để tạo
65
nên một truyền thống tốt đẹp về tư tưởng, đạo đức và nếp sống. Đó là
ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ và tình cảm đạo đức của mỗi người đối
với cộng đồng; là sự hiếu học, coi trọng nhân tài, coi trọng người có
học vấn và tôn sư trọng đạo; là sự tích cực nhập thế, tích cực dấn thân
vào các hoạt động xã hội; là việc coi trọng gia đình, trọng tình nghĩa.
Câu châm ngôn "Tiên Học Lễ, Hậu Học Văn" phổ biến ở các trường
học tại Việt Nam hiện nay chính là lấy từ Nho giáo. Tuy nhiên trải qua
nghìn năm lịch sử, dù Nho giáo có vẻ thịnh vượng nhờ giáo dục và
khoa cử được mở khắp nơi nhưng chất lượng của Nho sinh ngày càng
đi xuống. Không chỉ ở Việt Nam mà cả Trung Hàn Nhật đều thế, vì
người ta chuộng lối học từ chương vô dụng cầu thi đậu kiếm công
danh. Trong khi đó cái học của Nho giáo bản chất là để tu thân thành
Đạo, viên mãn rồi mới đem tài đức giup đời mà làm nên nghiệp lớn, vì
thế mà đến thời cận đại sự trì trệ của Nho sinh và Nho học đã khiến
các nước Đồng văn (trừ Nhật Bản) đều buông tay đầu hàng trước văn
minh thực dụng của phương Tây. Từ đó mà chung ta đã tổn thất mất
đi một nền triết học luân lý tốt đẹp cao thượng nhất của ông cha, quả
đáng tiếc thay.
Nho giáo được xem là có sức lan tỏa và ảnh hưởng đến Văn
học Việt Nam, điển hình như hai bản tuyên ngôn độc lập như "Nam
Quốc Sơn Hà" của Lý Thường Kiệt và "Bình Ngô Đại Cáo" của
Nguyễn Trãi đề cao tính dân tộc, nguyện vọng dành độc lập của Nhân
dân Việt Nam, trong đó ở tác phẩm "Nam Quốc Sơn Hà" có kể đến
câu: "Sông nui nước Nam, vua Nam ở, rành rành định phận tại sách
Trời" đã nhắc đến nước Nam đã có chủ quyền và luôn chống lại sự uy
hiếp từ phía phương Bắc, chủ quyền đó đã được Trời cao công nhận
và do đó xâm chiếm nước Nam là hành động chống lại mệnh Trời. Ý
tưởng này chịu ảnh hưởng từ tư tưởng mệnh trời của Hán Nho.
Nho giáo đã góp phần làm hình thành các thể văn khoa cử
(kinh nghĩa, chiếu, biểu, luận, văn sách, thơ, phu...), các thể loại văn
học mô phỏng Trung Hoa (thơ Đường luật, phu, từ, đối...), các điển
66
tích văn học, các sách giáo khoa truyền thụ Nho giáo, các tác phẩm
văn học và nghệ thuật chịu ảnh hưởng của Nho giáo. Những sản phẩm
ấy làm thành dòng văn học nghệ thuật quan phương chính thống, tồn
tại song hành với dòng văn học dân gian, nghệ thuật dân gian.
3.1.2.3. Ngôn ngữ văn tự
Nho giáo đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ và chữ viết
ở Việt Nam. Về ngữ âm, tiếng Việt, tiếng Mường đã biến đổi các phụ
âm cuối, hình thành thanh điệu và rơi rụng các âm tiết phụ của thời
Môn - Khơme; riêng tiếng Việt hiện đại còn rơi rụng các tổ hợp phụ
âm đầu. Về ngữ pháp, tiếng Việt, tiếng Mường đã rơi rụng các phụ tố
tạo từ của thời Môn - Khơme; riêng tiếng Việt hiện đại còn hình thành
các phụ tố tạo từ gốc Hán - Việt, và mượn nhiều cách diễn đạt của
tiếng Hán. Về từ vựng, trong tiếng Việt, tiếng Mường đều có nhiều
yếu tố gốc Hán; riêng tiếng Việt có đến 70% từ gốc Hán. Hiện nay,
tiếng Việt đang sử dụng một bộ phận từ vựng gốc Hán có số lượng và
tần suất sử dụng rất lớn, bao gồm Hán - Việt cổ, Hán - Việt trung đại,
Hán - Việt cận đại (khẩu ngữ của người Hoa Nam bộ), từ ngữ có yếu
tố Hán - Việt. Trong vốn từ tiếng Việt, đặc biệt là lớp từ vựng văn hóa,
số lượng các yếu tố gốc Hán chiếm một tỷ lệ áp đảo, cả ở ba cấp độ:
từ, ngữ, phụ tố. Bộ phận từ vựng gốc Hán này bao gồm hầu hết các
bình diện văn hóa mà cư dân Việt chịu ảnh hưởng của văn hóa Hán.
Về văn tự, chữ Hán là văn tự chính thức của Việt Nam trong
suốt thời phong kiến , phương tiện chuyên dùng chuyển tải Nho giáo,
nên chữ Hán thường được gọi là chữ Nho, chữ Thánh hiền. Quá trình
tiếp biến văn hóa Hán và Nho giáo trong chữ viết ấy tồn tại song hành
với quá trình Việt hóa các văn tự ngoại lai. Từ khi ra đời dưới thời
Trần, chữ Nôm, loại văn tự phái sinh từ chữ Hán, vừa được dùng để
chuyển tải văn hóa dân gian. Và đến đầu thế kỷ XX, với phong trào
Duy Tân - Đông Du, chữ Quốc ngữ, nhưng con người lại không hiểu
được ý nghĩa văn tự, và những ý sâu xa mà các bật thánh nhân ngày
xưa rất nhiều vì chữ Quốc Ngữ đã mất đi cái tinh hoa đó.
67
3.1.2.4. Tín ngưỡng tập tục
Thời Khổng Tử vốn không có Nho giáo. Nho giáo luc đó gọi là
Nho gia, nó đơn thuần chỉ được xem là những lời chỉ dạy của Bậc
thánh hiền để con người noi theo và học tập để có thể tu dưỡng tâm
thân giup vua trị quốc. Nhưng sau khi hậu thế tôn sùng Khổng Tử là
Thánh Nhân, các triều đại lập Miếu thờ Khổng Tử và các đệ tử thì
Nho giáo được coi như một tôn giáo quan trọng nhất trong Tam giáo
của người Trung Hoa, là gốc rễ của văn minh Trung Hoa (Nho Phật
Lão). Khi du nhập vào Việt Nam, một quốc gia có cùng chiều sâu tâm
linh và nền tảng văn minh nhiều ngàn năm. Các triết lý Nho giáo cũng
như Tam Giáo được chấp nhận và khuyến khích phát triển, đặc biệt
các triết lý của Nho giáo về Thiên mệnh, Hiếu đạo, Lễ nghĩa trong
việc tế lễ, thờ cung tổ tiên,... Vì vậy mà Nho giáo cũng như Tam giáo
đã trở thành trụ cột trong nền tảng tâm linh của người Việt cùng với
đức tin thờ ông bà tổ tiên.
Sự tác động của Nho giáo và văn hóa Hán đã làm Hán hóa một
phần các phong tục vòng đời, đặc biệt là phong tục hôn nhân, phong
tục đám ma. Trong thời trung đại, các phong tục này đều lấy hình mẫu
của Nho giáo và văn hóa Hán làm chuẩn mực. Chính vì vậy mà cho
đến ngày nay, vẫn còn nhiều người viết sách mô tả các phong tục và
nghi thức ấy trong văn hóa Việt Nam hiện đại như thể chung là bản
sao của phong tục Trung Hoa trung đại! Thật ra, bên cạnh các phong
tục hôn nhân, phong tục mai táng theo hình mẫu của Nho giáo và văn
hóa Hán trước đây, người Việt ở các vùng miền khác nhau và các tôn
giáo ở Việt Nam đều có cách thức riêng để thực hiện các phong tục ấy.
3.1.2.5. Sự biến mất của tư tưởng Nho gia tai Việt Nam và sự phát
triển của “Xã Hội Gia”
Nhìn vào các mặt ảnh hưởng của Nho giáo ngày xưa chắc hẳn
các bạn cũng hiểu con người Việt Nam đã in đậm những nét Văn Hóa
từ đâu. Ngày nay Việt nho "không được xem trọng" trong văn hóa
phương tây ảnh hưởng đang làm đạo đức một bộ phận giới trẻ xuống
68
cấp. Ngày càng xuất hiện nhiều những trào lưu thác loạn lan truyền
khắp mạng các mạng xã hội, những vụ án trái luân thường, những vụ
án khắp các mặt báo con giết cha, trò đánh thầy, giáo viên quan hệ bất
chính với học trò,... đây là một hồi chuông cảnh báo cho sự băng hoại
đạo đức trong thời kỳ Việt Nho suy yếu. Giải pháp có thể là phục
hưng Nho giáo lấy những khía cạnh tích cực đem vào giáo dục. Tinh
giản, lược bỏ những điều câu nệ rườm rà, bó buộc không phù hợp với
bối cảnh hiện đại từ đó có thể vừa cải thiện, duy trì luân lý đạo đức gia
đình, xã hội vừa có thể hội nhập và phát triển cùng thế giới.
.......................................................................
72
Chương 4
Khái lược về tôn giáo, lịch sử tôn giáo Phương Đông
4.1. Định nghĩa về tôn giáo
4.2. Thành tố và cấu trúc của tôn giáo
4.3. Tôn giáo và cuộc sống
4.4. Nguồn gốc của tôn giáo
4.5. Các tôn giáo dân tộc: Shinto, Cao Đài
75
tượng của sự sinh sôi (thờ giống cái, hình ảnh phụ nữ, phồn thực…),
đó là các vị thần của các thị tộc Mẫu hệ.
- Tôn giáo như Phật, Nho, Kitô, Hồi… đã xuất hiện
- Xu thế toàn cầu hóa đang chi phối mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội, sự nâng cao về trình độ học vấn và đặc biệt là những thành tựu
của khoa học và công nghệ đã làm cho các tôn giáo ngày càng trở nên
thế tục hóa kéo theo sự đa dạng trong đời sống tôn giáo
4.1.5. Một số hình thức tôn giáo trong lịch sử
+ Tôn giáo trong xã hội chưa có giai cấp (Tôn giáo nguyên
thủy)
+ Tô tem giáo (thờ vật tổ):
+ Ma thuật giáo : Ma thuật theo tiếng Hi lạp cổ là phép phù
thủy.
+ Bái vật giáo: Bái vật theo tiếng Bồ Đào Nha là bùa hộ mệnh,
phép lạ.
+ Vật linh giáo: Vật linh giáo là lòng tin ở linh hồn.
Tôn giáo trong xã hội có giai cấp:
+ Tôn giáo dân tộc:
+ Tôn giáo thế giới: Phật giáo, Thiên chua giáo, Hồi giáo…
Cột Tô-tem tại Vancouver Canada
77
10. Thần đạo 30 triệu Nhật Bản
11. Sikh giáo 23 triệu Ấn Độ, Pakistan, Canada, Mỹ,
Anh
12. Do Thái giáo 14 triệu Israel, Mỹ, châu Âu
13. Bahá'í giáo 9 triệu Tín đồ phân bố rải rác nhiều nơi
trên thế giới
14. Nh/Chứng 8,2 triệu Khắp thế giới
Giêhôva
15. Đạo Cao Đài 2,4 triệu Việt Nam, Bắc Mỹ, Châu Âu, Úc
16. Jaina giáo 1,2 triệu Ấn Độ, Pakistan, Canada, Mỹ,
Anh
78
thức, con người nảy sinh những yếu tố suy diễn, tưởng tưởng xa lạ với
hiện thực khách quan, hình thành nên các biểu tượng TG.
- Nguồn gốc tâm lí . Tình cảm, cảm xuc, tâm trạng lo âu, sợ hãi,
buồn chán, tuyệt vọng đã dẫn con người đến sự khuất phục, không
làm chủ được bản thân là cơ sở tâm lí để hình thành tôn giáo. Mặt
khác, lòng biết ơn, sự tôn kính đối với những người có công khai phá
tự nhiên trị áp bức bóc lột và mê hoặc q/chung. Các cuộc chiến tranh
TG đã, đang xảy ra, thực chất vẫn là xuất phát từ lợi ích của những lực
lượng XH khác nhau lợi dụng TG để thực hiện mục tiêu ch/trị của
mình.
4.5. Các tôn giáo dân tộc: Shinto giáo, Cao Đài
4.5.1. Đạo Shinto
4.5.1.1. Sự đa dạng của Thần đạo
Trong suốt lịch sử của Nhật Bản, Thần đạo đã liên tục thay đổi
để đáp ứng điều kiện và nhu cầu của những người theo đạo. Trải qua
quá trình lịch sử lâu dài, Thần đạo luôn thay đổi để thích nghi và tồn
tại cho đến ngày nay.
Thần đạo quốc gia (国家神道 - Kokkashintō)
Cuối những năm 1800 dưới thời Thiên hoàng Minh Trị, Thần
đạo hồi sinh trở lại sau hàng thập kỉ bị che khuất dưới cái bóng Phật
giáo. Ông khuyến khích Thần đạo phát triển, thiết lập hệ thống các
đền Thần đạo và sử dụng ngân sách Chính phủ để ủng hộ cho các đền
thờ và những người làm lễ, chăm sóc ngôi đền. Thần đạo quốc gia
phát triển dưới thời Minh Trị, nó nhấn mạnh vào lòng yêu nước và
trung thành với Thiên hoàng, xem Thiên hoàng như con cháu thần linh,
là đấng tối cao đại diện cho các vị thần.
Thần đạo phái (教派神道 - Kyōha shintō)
Trong khi Thần đạo quốc gia phát triển dưới thời Minh Trị thì
sự phục hưng của tôn giáo cũng diễn ra trong tầng lớp nông dân. Nông
dân bắt đầu đi theo những Giáo chủ - những người được coi là vô
cùng thông thái khi theo học và tiếp thu Thần đạo, Đạo Phật và những
81
tôn giáo bản địa khác. Những Giáo chủ được coi là những vị thần, vì
vậy những tôn giáo mới mà họ sáng lập ra thu hut rất nhiều người tin
theo. Trong số 13 giáo phái đã được nhận diện thì Tenrikyo (天理教)
được coi là giáo phái lớn nhất, nổi tiếng nhất và vẫn thu hut người mới
tin theo cho đến nay.
Thần đạo dân gian (民俗神道 - Minzoku shintō)
Nhiều người thực hiện các nghi lễ Thần đạo mà không cần lệ
thuộc vào ngôi đền nào trong hệ thống Jinja Honcho. Họ thờ cung tổ
tiên, cầu khấn các vị thần ở địa phương, trong nhà hoặc ngoài đồng
ruộng, ở các đền miếu nhỏ. Hình thức này được gọi là Thần đạo dân
gian. Chính hình thức này mang những phong tục của Thần đạo từ xa
xưa, từ đó mà hình thành nên những tập tục và đức tin của Thần đạo
ngày nay [10].
4.5.1.2. Kiến trúc
Một nét độc đáo của Thần đạo đó là kiến truc của các đền thờ,
nét kiến truc độc đáo chỉ có thể được tìm thấy ở Nhật Bản. Những đặc
điểm kiến truc không những là điểm thu hut khách du lịch đến thăm,
thu hut các nhiếp ảnh gia mà còn trở thành biểu tượng cho văn hóa
Nhật Bản.
Cấu trúc đền
Một ngôi đền truyền thống được xây dựng bằng các vật liệu tự
nhiên như gỗ, rơm, và đá. Các ngôi đền chỉ cần đủ rộng để thần chủ
làm lễ bên trong, những người khác sẽ đứng bên ngoài cầu khấn. Bên
trong ngôi đền là một bệ thờ chính và thần điện, nơi linh thiêng nhất,
chứa vật biểu tượng cho vị thần của ngôi đền. Những ngôi đền lớn
thường có cấu truc phức tạp với nhiều điện thờ và các công trình kiến
truc phụ. Một đền thờ lớn thường bao gồm nhà nguyện, một sảnh
đường gần nguồn nước để thực hiện nghi thức thanh tẩy, một phòng
ban quản lí đền, một khu để mọi người đặt đồ lễ, một gian để mọi
người đến cầu nguyện, hoặc ngày nay thì có nhiều hơn những gian
82
hàng hoặc cửa hàng nhỏ chuyên bán các loại quẻ, bùa cầu may cho
khách đến thăm…
89
9 Viện như nam phái, nhưng nữ phái chỉ có một vị Nữ Chánh Phối sư,
nên vị này phụ trách tất cả Cửu viện nữ phái.
2.2.2. Tổ chức cấp cơ sở
Trước đây, tổ chức hành chính cấp địa phương của đạo Cao
Đài có 4 cấp gồm: Trấn đạo, Châu đạo, Tộc đạo và Hương Đạo. Trấn
đạo là khu vực địa lý được giao phụ trách nhiều tỉnh, thành phố có đạo
Cao Đài do chức sắc phẩm Giáo sư đảm nhiệm gọi là Khâm Trấn đạo.
Châu đạo là địa bàn một tỉnh, thành phố có đạo Cao Đài do chức sắc
phẩm Giáo hội đảm nhiệm gọi là Khâm Châu đạo. Tộc đạo là địa bàn
một huyện, quận thuộc tỉnh, thành phố do phẩm Lễ sanh đảm nhiệm
gọi là Đầu Tộc đạo. Hương đạo là địa bàn hành chính của một xã,
phường do phẩm Chánh Trị sự đảm nhiệm được các chức việc Bàn Trị
sự Hương đạo bầu lên gọi là Đầu Hương đạo.
Tộc đạo là cấp cơ sở của đạo Cao Đài hay còn gọi là Họ đạo.
Mỗi Tộc đạo có một Thánh thất để thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế và
quy tụ tín đồ tổ chức sinh hoạt tôn giáo. Về tổ chức hành chính, Tộc
đạo có văn phòng giup việc Đầu Tộc đạo do Đầu Phòng văn đảm
nhiệm, nếu không có Đầu Phòng văn thì cử một Thư ký giup việc Đầu
Tộc đạo. Mỗi Tộc đạo hay Thánh thất có Ban Tứ vụ để điều hành việc
đạo. Ban Tứ vụ gồm 4 vụ: Hộ vụ phụ trách việc thu chi tài chính; Lễ
vụ phụ trách việc nghi lễ và sắp xếp các ban trực thuộc: lễ, nhạc, đồng
nhi thực hiện tang sự cho người đạo; Lương vụ phụ trách về lương
thực và quản lý nhà bếp; Công vụ phụ trách việc xây dựng, sửa chữa
cơ sở thờ tự và nhà làm việc của Tộc đạo. Ngoài ra, Lễ vụ còn có các
ban chuyên môn trực thuộc gồm: Ban nhạc, Ban lễ sỹ, Ban đồng nhi,
Ban kiểm đàn. Ban nhạc do một nhạc sỹ phụ trách. Ban lễ sỹ do một
Lễ sỹ phụ trách. Ban đồng nhi do một Giáo nhi phụ trách. Ban kiểm
đàn có nhiệm vụ sắp đặt và gìn giữ trật tự trong đàn cung.
Thực tế hiện nay, tổ chức hành chính của đạo Cao Đài có một
số thay đổi. Cấp Trung ương giáo hội tại Toà thánh có cơ quan
Thượng hội và Ban Thường trực Hội thánh (hoặc Thường trực, Hội
90
đồng Chưởng quản, Ban Điều hành) cùng cơ quan Cửu viện nam nữ
và các cơ quan giup việc Hội thánh tại Toà thánh. Cấp địa phương
không còn Trấn đạo và Hương đạo. Châu đạo được gọi là Ban Đại
diện Hội thánh hoạt động trên địa bàn một tỉnh, thành phố có nhiệm
vụ hướng dẫn Ban Cai quản các Họ đạo trên địa bàn phụ trách hoạt
động theo Hiến chương, luật đạo của Hội thánh. Đứng đầu Ban Đại
diện Hội thánh ở tỉnh, thành phố là Trưởng Ban Đại diện. Tộc đạo
được gọi là Họ đạo hoạt động trong phạm vi Thánh thất có Ban Cai
quản phụ trách. Đứng đầu Ban Cai quản là Cai quản, có Phó Cai quản
và Thư ký hoạt động theo nhiệm kỳ 3 năm hoặc 5 năm. Ngoài ra, Họ
đạo còn có bộ phận Tứ vụ giup việc Ban Cai quản và các thành viên
Chánh Trị sự, Phó Trị sự, Thông sự cùng Ban Nghi lễ.
Tại các tỉnh, thành phố có đông chức sắc, tín đồ được thành lập
Ban Đại diện hoặc Đại diện để giup Hội thánh ở trung ương hướng
dẫn các hoạt động tôn giáo ở cơ sở là Họ đạo. Hiến chương Cao Đài
Tây Ninh quy định: “Ở tỉnh, thành phố có nhiều Họ đạo Cao Đài Toà
thánh Tây Ninh thì Hội thánh bổ nhiệm Ban Đại diện Hội thánh; Ban
Đại diện Hội thánh gồm 01 Trưởng ban và 02 đến 05 Phó Ban, chọn
từ hàng Giáo hữu nam, nữ và tương đương trở lên do Hội thánh bổ
nhiệm; Ban Đại diện Hội thánh có phận sự truyền đạt và hướng dẫn
các Ban Cai quản Họ đạo thông hiểu và tổ chức thực hiện đung các
Đạo lịnh, Thánh lịnh, Huấn lịnh, Thông tri về Đạo sự của Hội thánh
tới các Họ đạo,...”. Hiện nay, đạo Cao Đài có 64 Ban Đại diện, 16 Đại
diện ở 35/38 tỉnh, thành phố.
Họ đạo là cấp cơ sở của đạo Cao Đài, nơi nào có 500 tín đồ trở
lên được lập một Họ đạo có Thánh thất làm nơi thờ tự. Ban Cai quản
có nhiệm vụ quản lý công việc tại Thánh thất, phụ trách 4 phòng Công
- Lương - Thơ - Lễ. Ban Trị sự gồm các chức việc có nhiệm vụ lo về
luật đạo giup đỡ tín đồ chấp hành tốt và lo việc từ thiện chăm sóc cuộc
sống của tín đồ tại địa phận quản lý./.
91
Câu hỏi hướng dẫn ôn tập Chương 4
1. Định nghĩa, quan niệm về tôn giáo?
2. Bản chất của tôn giáo?
3. Tính chất của tôn giáo?
4. Nêu 1 số hình thức sơ khai của tôn giáo?
5. Nêu các thành tố của tôn giáo?
6. Nêu mối quan hệ tôn giáo và cuộc sống?
7. Nêu nguồn gốc tôn giáo?
8. Hãy kể tên 1 số tôn giáo trên thế giới?
9. Nêu khái quát các tôn giáo dan tộc: Shinto giáo và Cao Đài giáo
Tài liệu tham khảo
1. Tài liệu bắt buộc
1. Lê Văn Anh-Phạm Hồng Việt (2000), Giáo trình lịch sử tư tưởng
phương Đông và Việt Nam, NXB Huế.
2. Đỗ Minh Hợp (2009), Tôn giáo phương Đông: Quá khứ và hiện tại, NXB Tôn
giáo.
2. Tài liệu tham khảo
3. W.Cole Durham, Jr-Brett G.Scharffs, (2010), Law and Religion, Wolters
Kluwer, NY.
4. Nguyễn Văn Dũng (2012), Tôn giáo với đời sống chính trị-xã hội ở
một số nước trên thế giới, NXB Chính trị Quốc gia.
5. Nguyễn Đăng Duy (1998), Văn hóa tâm linh, Nxb Hà Nội.
6. Đỗ Minh Hợp (2009), Tôn giáo học nhập môn, NXB Tôn giáo.
7. Lewis M. Hopfe- Mark R. Woodwa (2011), Các tôn giáo trên thế giới, NXB
Thời đại
8. Hoàng Minh Thảo (2007), Những nền văn minh thế giới, Nxb Văn
hóa Thông tin, H.
9. Lê Sỹ Thắng (CB), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, T.2, Nxb KHXH, HN, 1997.
10. Lương Duy Thứ (chủ biên) (2000), Đại cương văn hóa phương Đông, Nxb
ĐHQG HCM.
11. Nguyễn Đăng Thục, Lịch sử triết học phương Đông, Nxb Tp HCM, bộ 5 tập.
12. Nguyễn Tài Thư (CB), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, T.1, Nxb KHXH, HN, 1993.
13. Nguyễn Minh Tường (2012), Lịch sử tư tưởng phương Đông và Việt
Nam, Nxb Khoa học Xã hội.
14. Nguyễn Thanh Xuân (2012), Một số tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Tôn
giáo.
92
Chương 5
Tôn giáo ở Ấn Độ
Ấn giáo Tì-thấp-nô
Tì-thấp-nô giáo (viṣṇuism, vaiṣṇavism) là một tôn giáo nhất
thần với cơ sở xuất phát từ sự đồng hoá vị thần Tì-thấp-nô (sa. viṣṇu)
trong tôn giáo Phệ-đà và vị thần siêu việt Na-la-diên-na (zh. 那羅延那,
sa. nārāyaṇa), cũng như từ sự hoà nhập của một số lễ nghi phổ biến,
đặc biệt là việc tôn xưng Hắc Thần (sa. kṛṣṇa) ở Bắc Ấn Độ giữa TK
6 và 2 TCN.
Ấn giáo Thấp-bà
96
Thấp-bà giáo (śivaism) là một tôn giáo phần lớn theo thể hệ
nhất thần, nhưng một vài nhánh thiên về mối quan hệ nhị nguyên
Thấp-bà (śiva)-Tính lực (śakti) hoặc thừa nhận tính đa nguyên với
nhiều linh hồn vĩnh cửu.
Thần Lỗ-đặc-la được miêu tả là hung bạo, nguy hiểm.
97
Giáo lí Bất nhị Phệ-đàn-đa nhất nguyên (monistic
advaitavedānta) cũng tự phát triển thành một giáo phái riêng biệt.
Thuyết đã kiến lập một thế giới quan và một giáo lí giải thoát đi
xa những quan điểm của Phệ-đà giáo trước đây: Thế giới, cùng với
các vị thần, là sản phẩm của huyễn ảnh (māyā), là huyễn tượng.
Tân Ấn Độ giáo
Tân Ấn Độ giáo (neo-hinduism) khởi đầu như một phong trào
cải cách, đã góp phần rất lớn trong phong trào đấu tranh giành độc lập
tự do của Ấn Độ trong thế kỉ 19, 20 và đặc biệt được phổ biến trong
giới thượng lưu thành thị.
Ảnh hưởng đến các tôn giáo khác
Sikh giáo (en. sikhism),
Jaina giáo (sa. jaina, en. jainism, jinism) và
Phật giáo được pháp luật Ấn Độ quy vào Ấn Độ giáo, nhưng
được cả thế giới công nhận là những tôn giáo độc lập.
Cơ sở chung các nhánh Ấn Độ giáo:
Luân hồi;
Chủng tính.
Tôn thờ Thánh tượng: điểm có chung của tất cả các nhánh Ấn
Độ giáo là việc tôn thờ Thánh tượng. Việc tôn thờ này - thường có đối
tượng là một vị thần nhất định - đã được phổ biến đến mực độ được
thu nhập vào nhánh Bất nhị Phệ-đàn-đa nhất nguyên (monistic
advaitavedānta), mặc dù theo giáo lí này, sự thể hiện của một thần
linh vẫn còn nằm trên tầng cấp vô minh, hư huyễn.
Hình 5.6. Chùa phía Nam (Chùa Dơi-Sóc Trăng) - Nam Tông
99
Hình 5.7. Chùa Đại Từ Ân (HN)-Bắc Tông
Tập đế/Nguyên đế
(zh. 集 諦 , sa. samudayāryasatya, bo. kun `byung bden pa ཀནུ
འབྱུགདེནུཔུ), chân lí về sự phát sinh của khổ: khổ đau đều có nguyên
nhân thường thấy do tham ái, sân hận, si mê, chấp thủ. Cần truy tìm
đung nguyên nhân sinh ra khổ, nguồn gốc sâu xa sinh ra khổ trong
sinh tử luân hồi là do vô minh và ái dục, những mắt xích liên quan
nằm trong 12 nhân duyên.
Diệt đế
(zh. 滅 諦 , sa. duḥkhanirodhāryasatya, bo. `gog pa`i bden pa
འྡོྡུཔའིུགདེནུཔུ), chân lí về diệt khổ: là trạng trạng thái không có đau khổ,
là một sự an vui giải thoát chân thật, là một hạnh phuc tuyệt vời khi
chấm dứt lòng ham muốn, và có sự hiểu biết của trí tuệ chấm dứt vô
minh.
Đạo đế
(zh. 道諦, sa. duḥkhanirodhagāminī pratipad, mārgāryasatya,
bo. lam gyi bden pa བམུགིུགདེནུཔུ), chân lí về con đường dẫn đến diệt khổ:
Phương pháp để đi đến sự diệt khổ là con đường diệt khổ tám nhánh,
101
Bát chính đạo. Phương tiện hay pháp môn để thành tựu con đường bát
chánh đạo là 37 phẩm trợ đạo.
Bát chính/chánh đạo
Nhóm trí tuệ:
Chính kiến: hiểu biết chân chính: hiểu biết về nhân quả, duyên
khởi, hiểu biết về sự vật hiện tượng chân thực, như chung đang là,
không kèm theo cảm xuc, cảm tính, hiểu biết 4 chân lý về khổ và cách
thoát khổ, từ đó biểu hiện thái độ sống không làm khổ mình, khổ
người.
Chính tư duy: suy nghĩ chân chính: suy nghĩ dựa trên nền tảng
hiểu biết, suy nghĩ tích cực, suy nghĩ giải quyết vấn đề.
Nhóm đạo đức/Giới:
Chính ngữ: lời nói chân chính: lời nói sự thật, lời nói hòa hợp,
đoàn kết, mang tính xây dựng, mang lại an vui HP cho người khác.
Chính nghiệp: hành vi chân chính: không sát sanh, không trộm
cắp, không ngoại tình, không sử dụng rượu bia ma tuy. Các hành vi
được KK: trồng cây bảo vệ MT, chia sẻ sở hữu hợp pháp với những
người kém may mắn hơn, sống chung thủy 1 vợ 1 chồng, giữ sức khỏe
để chăm sóc bảo vệ người thân.
Chính mạng : NN chân chính để nuôi sống thân mạng: không
làm nghề đồ tể vì giết động vật hàng loạt; không làm nghề buôn bán
vũ khí vì tạo ra giết người hàng loạt; không làm nghề buôn bán MT vì
tiếp tay cho con nghiện, hủy hoại đời sống cá nhân và mất ổn định XH;
không làm nghề BB độc dược vì tổn hại sức khỏe, sinh mạng nhiều
người; không làm nghề mại dâm vì phá hoại HP nhiều gia đình.
Chính tinh tấn: nỗ lực kiên trì chân chính: tiếp tục làm những
việc thiện đang làm, hiện thực hóa những việc thiện có ý định làm, từ
bỏ những việc bất thiện đang làm, loại bỏ ý định về những việc bất
thiện sẽ làm.
Nhóm thiền định:
Chính niệm: sự làm chủ các giác quan trong các tư thế: đi,
102
đứng, nằm, ngồi, nói, nín, động, tịnh, thức và ngủ, làm chủ cảm xuc
và thái độ sống.
Chính định: tầng thiền: sơ thiền (ly dục ly ác pháp sinh hỷ lạc,
có tầm, có tứ), nhị thiền (diệt tầm, diệt tứ, định sinh hỷ lạc, nội tĩnh,
nhất tâm), tam thiền (ly hỷ, tru xả), tứ thiền (xả lạc, xả khổ, xả niệm
thanh tịnh) cùng với những PP hỗ trợ như tứ niệm xứ, định niệm hơi
thở, định sáng suốt, v.v... được đề cập trong kinh tạng Pali. Sau khi đã
đạt tứ thiền, hành giả dẫn tâm về Tam minh gồm: Tuc mạng minh,
Thiên nhãn minh, Lậu tận minh. Chứng tam minh xong, hành giả giải
thoát hoàn toàn, thành tựu thánh quả A-la-hán, các vị A-la-hán tuyên
bố "Tái sinh đã tận, hạnh thánh đã thành, việc nên đã làm, không còn
trở lại sinh tử này nữa".
103
vương Rasabbla.
Là 1 tôn giáo lâu đời ở Ấn Độ do Mahavir (540-468 TCN)
cùng thời với Phật giáo.
Triết lý là nỗ lực của bản thân để tới cõi Niết Bàn. Thời gian
dài được truyền bá, suy yếu từ TK 8 do sự ph triển mạnh mẽ của
Hindu và Hồi.
Hiện là TG với 4,2 triệu tín đồ, là TG có trình độ biết chữ cao
nhất, ở thư viện bản thảo của họ là cổ nhất ở AĐ
Chua trời -> vũ trụ. Chua trời ko có hận thù, ko sợ hãi, luôn yêu
thương -> mãi tồn tại. Chua trời trong lòng mỗi chung ta -> Sikh là
TG tại tâm = Chính Phật tại tâm (Truc Lâm Yên Tử) = Lòng tin
104
nơi chính mình (Martin Luther–sáng lập Tin lành)
Giống Ấn giáo: luân hồi-samsara, nghiệp báo-karma, coi trọng
phụ nữ.
Nhận xét: Ra đời do bất công; Nhân văn hơn ADG, HG; TG
hòa bình; Ảnh hưởng lớn -> Hiện có 23 triệu tín đồ, phần lớn ở Pụnjab,
sống dung hòa.
...................................................
105
Chương 6
Tôn giáo ở Trung Hoa
106
Đán. Từ bộ "Chu dịch" đó, Khổng Tử đã giảng giải sâu rộng thêm và
trình bày thứ tự rõ ràng cho dễ hiểu, dễ dùng hơn.
5. Kinh Xuân Thu nguyên là sử kí của nước Lỗ quê hương
Khổng Tử, được ông dụng công chọn lọc sự kiện, kèm theo những lời
bình, thậm chí sáng tác thêm những lời thoại để giáo dục các vua chua.
Tứ thư
Luận ngữ: lời bàn luận
Đai học: dạy phép làm người quân tử (Tàng Sâm-Tăng Tử)
Trung dung: sống dung hòa, không thiên lệch (Khổng cấp-Tử
Tư)
Mạnh Tử: Mạnh Kha (khoảng 390-305 trCN),
"Đại học”, "Trung dung", "Luận ngữ", "Mạnh Tử"
Nho giáo nguyên thủy, Nho giáo tiên Tần (trước thời Tần)
hay còn được gọi là tư tưởng Khổng- Mạnh.
107
Hình 6.1. Khổng Tử
Hình 6.2. Chùa Linh Thạch Ninh Ba—chùa phật giáo nổi tiếng
Chiết Giang
110
Biểu tượng/Symbol
Người ta không biết rõ Đạo giáo khởi phát luc nào, chỉ thấy
được là tôn giáo này hình thành qua một quá trình dài, thâu nhập
nhiều trào lưu thượng cổ khác. Đạo giáo thâu nhiếp nhiều tư tưởng đã
phổ biến từ thời nhà Chu (1040-256 trước CN). Thuộc về những tư
tưởng này là vũ trụ luận về thiên địa, ngũ hành (Thổ, kim, mộc, thủy,
hỏa - thuyết về năng lượng, chân khí), thuyết âm dương và Kinh Dịch.
Đạo trong sự trình bày của Lão Tử là một khái niệm trừu tượng
chỉ cái tự nhiên, cái có sẵn một cách tự nhiên: "Người ta bắt chước
Đất, Đất bắt chước Trời, Trời bắt chước Đạo, Đạo bắt chước Tự
nhiên". Nó là nguồn gốc của vạn vật. Đức là biểu hiện cụ thể của Đạo
trong từng sự vật. Đạo sinh ra vạn vật, nhưng làm cho vật nào hình
thành ra vật ấy và tồn tại được trong vũ trụ là do Đức. Nếu Đạo là cái
Tĩnh vô hình thì Đức là cái Động hữu hình của Đạo. Nếu Đạo là bản
chất của vũ trụ thì Đức là sự cấu tạo và tồn tại của vũ trụ
Sự sinh hóa từ Đạo ra Đức, từ Đức trở về ở Lão Tử thấm nhuần
sâu sắc tinh thần biện chứng âm dương. Được chi phối bởi luật quân
bình âm dương, vạn vật tồn tại theo lẽ tự nhiên một cách rất hợp lý,
công bằng, chu đáo, và do vậy mà mầu nhiệm. Hợp lý, vì theo Lão Tử,
lẽ tự nhiên giống như việc giương cung, cao thì ghìm xuống, thấp thì
111
nâng lên. Công bằng, vì nó luôn bớt chỗ thừa mà bù vào chỗ thiếu.
Chu đáo, vì nó như cái lưới trời lồng lộng, tuy thưa mà khó lọt. Bởi
vậy mà nó mầu nhiệm tới mức không cần tranh mà chiến thẳng, không
cần nói mà ứng nghiệm. Mọi sự bất cập hay thái quá đều trái với lẽ tự
nhiên, và do vậy sẽ tự điều chỉnh theo luật âm dương chuyển hóa: "vật
hễ bớt thì nó thêm, thêm thì nó bớt".
Hình 6.5 Nhà thờ Thiên chúa tại Vương Phủ Tỉnh Bắc Kinh
114
Chương 7
Tôn giáo ở Ba Tư (Iran)
7.1. Đạo Hồi (trong đó khoảng 8% theo hệ phái Sunni, còn lại là
hệ phái Shi'a)
Dân số tôn giáo ở Iran
Dân số: 73,970,000
1. Kitô hữu: Dân số: 147,940 - 0.2%
2. Người Hồi giáo: Dân số: 73,600,150 - 99.5%
3. Người Do thái: Dân số: 0 - 0%
4. Phật tử: Dân số: 0 - 0%
5. Người Hindu: Dân số: 20,000 - 0.03%
6. Không liên kết: Dân số: 73,970 - 0.1%
7. Tôn giáo dân gian: Dân số: 0 - 0%
8. Tôn giáo khác: Dân số: 147,940 - 0.2%
Nằm ở Tây Á, đất nước Iran có một lịch sử lâu đời, một nền
văn hóa đa dạng cùng nền văn chương phong phu với nhiều tác gia nổi
tiếng.
Ngoài cảnh sắc thiên nhiên đẹp, Iran còn có vị trí địa-chính trị
chiến lược (nằm giữa và gần nhiều nước quan trọng khác trong khu
vực Tây Á, cạnh vịnh Persian và biển Capsian, ở vào vị trí khống chế
eo biển Hormuz). Không phải ngẫu nhiên Iran (trước gọi là Ba Tư)
từng bị nhiều nước và tộc người khác nhòm ngó rồi xâm chiếm.
Người Arab khi chinh phục Iran đã Hồi giáo hóa mọi mặt xã
hội nước này. Tuy nhiên, có 1 điều thu vị là khác với Ai Cập, Iran vẫn
115
giữ được “tiếng mẹ đẻ” của mình là tiếng Ba Tư (tiếng Farsi). Tất
nhiên, ngôn ngữ Ba Tư chịu nhiều ảnh hưởng của tiếng Arab nhưng
đó vẫn là bản ngữ chứ không phải là tiếng Arab ngoại nhập.
Với diện tích rộng, dân số đông (khoảng 75 triệu người), trữ
lượng và sản lượng dầu khí lớn, cùng tiềm lực đáng gờm về khoa học
kỹ thuật và quân sự, Iran hiện giữ 1 vị thế quan trọng ở cả Trung
Đông và trên thế giới. Dù có bị bao vây và trừng phạt trong một thời
gian dài, đất nước này vẫn được thừa nhận là 1 cường quốc khu vực.
Cách mạng Hồi giáo long trời lở đất năm 1979 lật đổ triều đại của
các Shah (vua chua) thân phương Tây và được phương Tây - đứng đầu
là Mỹ - hậu thuẫn.
Cuộc cách mạng trên đã thay đổi toàn diện xã hội Iran, đưa Hồi
giáo lên vị trí thống trị về chính trị và văn hóa. Chính quyền Cộng hòa
Hồi giáo Iran đã thực thi nhiều biện pháp và chính sách nhằm giữ các
yếu tố bản sắc Iran và đánh đổ các yếu tố ngoại lai của phương Tây.
Việc các giáo chủ lên nắm quyền đã đặt dấu chấm hết cho các lợi ích
kinh tế, chính trị và quân sự của Mỹ ở đây. Về mặt văn hóa, nét dễ
thấy sau cách mạng Hồi giáo là phụ nữ phải mặc áo choàng kín người
và trùm khăn đầu. Luật Hồi giáo nước này có nhiều quy định chặt chẽ
và nghiêm khắc đối với mối quan hệ giữa nam và nữ.
116
Hình 7.1. Bản đồ Iran
Cộng hòa Hồi giáo Iran, gọi đơn giản là Iran, là một quốc gia
ở Trung Đông, phía tây nam của châu Á. Trước 1935, tên của nước
này là Ba Tư. Hiện tại, tên Hán-Việt của Iran là Y Lãng.
Iran giáp với Armenia, Azerbaijan, và Turkmenistan, Pakistan
và Afghanistan, Thổ Nhĩ Kỳ, Iraq. Nó cũng giáp biển Caspia về phía
bắc. Vịnh Ba Tư (thuộc Iran) là vùng vành đai nông của Ấn Độ
Dương nằm giữa Bán đảo Ả Rập và vùng tây nam Iran.
Tôn giáo
Niềm tin tôn giáo chính thống là chi phái Mười hai giáo trưởng
(imam) của phái Jafari, trong hệ phái Shi‘a của Islam. Theo thống kê
1986, 98,5% dân số theo đạo Hồi (trong đó khoảng 8% theo hệ phái
Sunni, còn lại là hệ phái Shi'a).
Các tôn giáo khác gồm có Hỏa giáo (Zoroastrianism), Cơ Đốc
giáo, và Do Thái giáo.
117
Hình 7.2. Logo Hỏa giáo
Lịch năm
• Năm mới theo lịch Ba Tư (Norouz) bắt đầu từ 21 tháng 3 lịch
Gregory. Thứ Sáu là ngày cầu nguyện chính và cũng là ngày
nghỉ cuối tuần. Ngôn ngữ chính là tiếng Ba Tư. Thảm dệt tay
Ba Tư của Iran nổi tiếng trên thế giới. Iran là nước đứng thứ tư
trên thế giới về xuất khẩu dầu mỏ. Iran là một quốc gia cũng áp
dụng tiết kiệm ánh sáng ban ngày vào mùa hè.
Sunni
• Hồi giáo Sunni là nhánh lớn nhất của đạo Hồi, còn được gọi là
Ahl as-Sunnah wa’l-Jamā‘ah (tiếng Ả Rập: (أهل السنة والجماعة
hay ngắn hơn là Ahl as-Sunnah (tiếng Ả Rập:
• Abu Bakr, người bạn và cũng là cha của Aisha, vợ của nhà tiên
tri -> thủ lĩnh
• .( أهل السنةGần 9 trong 10 tín đồ Hồi giáo trên thế giới là Sunni
và còn lại là Shia, Ahmadiyya và Kharijite.
118
Hình 7.3. Các nhánh khác nhau của đạo Hồi
Muhammad
Năm 632, Sau khi người sáng lập ra Hồi giáo là nhà tiên tri
Muhammad tạ thế, đạo Hồi đã được truyền bá một cách nhanh chóng
trên khắp bán đảo Ả Rập. Vào thời điểm đó, Hồi Giáo có hai lực
lượng chính: một bên là chu trọng truyền thống của các trưởng lão của
những bộ lạc phương Bắc nằm ở lưu vực sông Lưỡng Hà (sông Tigris
và Euphrates, )và các thương nhân Người Ba Tư, còn một bên chu
trọng những di sản tôn giáo Muhammad của tín chung phía Nam.
Sống vào khoảng 570 – 632) được những tín đồ Islam (I xơ lam,
Hồi giáo) tin là vị ngôn sứ cuối cùng mà Thiên Chua (tiếng Ả Rập gọi
là Allah) gửi xuống để dẫn dắt nhân loại với thông điệp của Ixơlam.
Ông được gọi là "sứ giả của Thượng đế“ bởi những người theo đạo,
còn những người không theo đạo xem ông là người sáng lập
Islam.Tên của ông Mohammad/ Mohammed/ Muhammed và
Mahomet. Trong VH và NN Việt Nam thông thường, à là Đấng tiên
tri hoặc Đại Tiên tri Mô-ha-mét.
Phối ngẫu của Mohamet
1. Khadijah bint Khuwaylid(595–619)
2. Sawda bint Zamʿa (619–632)
3. Aisha bint Abi Bakr (619–632), cha là Abu Bakr
4. Hafsa bint Umar (624–632)
5. Zaynab bint Khuzayma (625–627)
119
6. Hind bint Abi Umayya (629–632)
7. Zaynab bint Jahsh (627–632)
8. Juwayriya bint al-Harith (628–632)
9. Ramlah bint Abi Sufyan (628–632)
10. Rayhana bint Zayd (629–631)
11. Safiyya bint Huyayy (629–632)
12. Maymuna bint al-Harith (630–632)
13. Maria al-Qibtiyya (630–632)
Hình 7.4. Râu và tóc của Nhà tiên tri Mohammet (Волосы из бороды
пророка Мухаммеда)
Koran
Kinh Koran là những lời mặc khải từ Thượng đế được mang
đến cho ông qua trung gian thiên thần Gabriel đối với tín đồ Islam.
Một số câu trong Koran phản ánh những biến cố, những tình huống
trong đời ông. Mặc dù các câu không theo thứ tự thời gian, và không
có ghi rõ năm, nhưng kinh Koran được coi là TLTK quan trọng nhất
bởi là tài liệu xưa nhất và được người trong đạo tôn trọng nhất. Mặt
khác, ngày nay trên khắp thế giới các ấn bản để trì tụng của Koran đều
giống y nhau từng chữ, nên Koran cũng được các học giả trong và
ngoài đạo coi là tài liệu ít bị sai lệch so với nguyên bản nhất.
134
Chương 9
Tôn giáo ở Việt Nam
136
- Vô thường (vận động biến đổi không ngừng): có nghĩa là
không có gì ổn định, luôn có sự thay đổi, bất biến. Phật Giáo cho rằng
thế giới sẽ không có gì gọi là vĩnh hằng, luôn biến đổi liên tục, không
ngừng. Sự biến đổi này diễn ra trong khoảnh khắc gọi là niệm vô
thường, và sự biến đổi theo chu kì nhất định gọi là nhất kì vô thường,
mỗi chu kì sẽ được chia làm 4 giai đoạn, ở thế giới vật thể gọi là sinh -
trụ - dị - diệt, còn ở thế giới sinh vật nói riêng là sinh-lão-bệnh-tử.
Đức Phật có dạy: “tất cả những gì trong thế gian đó là biến đổi, hư
hoại, đều là vô thường”, Đức Phật cũng đã dạy rằng không phải là bất
cứ sự vật hay hiện tượng nào sinh ra mới gọi là sinh, mất (hay chết đi)
mới gọi là diệt, mà trong sự sống sẽ có sự chết, chết không phải là hết,
cũng không phải là hết khổ mà chết là điều kiện của một sinh thành
mới.
- Duyên (điều kiện cho nguyên nhân trở thành kết quả): là điều
kiện, mối liên hệ để tạo ra nhân và quả. Và chính kết quả ấy lại nhờ có
duyên mà trở thành nhân khác, nhân khác lại nhờ có duyên mà trở
thành kết quả mới. Như vậy quan hệ nhân duyên bao trùm lên toàn bộ
thế giới, thế giới đa dạng, nhiều hình nhiều vẻ cũng chỉ là một dòng
biến hoá hư ảo vô cùng không có gì gọi là thường định, là thực.
Các quan điểm biện chứng về thế giới tuy còn mộc mạc chất
phát nhưng rất đáng trân trọng. Và đó cũng là quan điểm duy vật biện
chứng về thế giới.
9.1.2.2. Quan điểm của Phật Giáo về nhân sinh quan
Nội dung triết lý nhân sinh của Phật Giáo được thể hiện tập
trung trong thuyết “Tứ Diệu Đế”, tức là 4 chân lý tuyệt diệu đòi hỏi
mọi người phải nhận thức được.
- Khổ đế: đây là quan niệm của Phật Giáo về những sự khổ của
cuộc đời. Theo Phật, cuộc đời con người là những bể khổ, không trọn
vẹn. Ở đời có vạn cái khổ mà vạn sự có thể biến thành sự khổ mà khái
quát thành tám cái khổ đó là: sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, thụ
biệt khổ (yêu thương nhau phải xa nhau), oán tăng hội khổ (ghét nhau
137
phải gần nhau), sở cầu bất đắc khổ(mong muốn mà không đạt được)
và ngũ uẩn khổ (do 5 yếu tố tạo nên con người). Như vây, cái khổ về
mặt hiện tượng là cảm giác khổ về thân, sự bức xuc của hoàn cảnh, sự
không toại nguyện của tâm lý về bản chất. Về phương triết học, khổ
đau là một thực tại như thực đối với con người. Khổ đế là một chân lý
khách quan hiện thực. Khổ hay hình thái bất an là kết quả hàng loạt
nhân duyên được tạo tác từ tâm thức. Đạo Phật đã cho rằng đời là bể
khổ, nỗi đau khổ là vô tận, là tuyệt đối. Do đó, con người dù ở đâu thì
làm gì cũng khổ. Cuộc đời là sự đau khổ không còn tồn tại nào khác.
Ngay cả cái chết cũng không chấm dứt sự khổ mà là tiếp tục sự khổ
mới. Phật ví sự khổ của con người bằng hình ảnh: “Nước mắt của
chung sinh nhiều hơn nước biển”, chết vẫn chưa hết khổ vì kiếp luân
hồi.
- Tập đế (còn gọi là Nhân đế): là những nguyên nhân gây ra sự
khổ của con người. Nguyên nhân của khổ là từ chính sự ham muốn,
tìm sự thoả mãn dục vọng, thoả mãn được trở thành, thoả mãn được
hoại diệt… Các loại ham muốn này là gốc của luân hồi. Đạo Phật cho
rằng nguyên nhân sâu xa của sự khổ, phiền não là do “thập nhị nhân
duyên”, tức 12 nhân duyên tạo ra chu trình khép kín trong mỗi con
người. Mười hai nhân duyên gồm: vô minh, duyên hành, duyên thức,
duyên danh sắc, duyên lục nhập, duyên xuc, duyên thụ, duyên ái,
duyên thủ, duyên hữu, duyên sinh và duyên lão tử. Mười hai nguyên
nhân và kết quả nối tiếp nhau tạo ra cái vòng lẩn quẩn của nổi khổ đau
nhân loại. Chung ta có thể nhận thấy một cách rõ ràng, khổ hay không
là do lòng mình. Hay nói cách khác, tùy theo cách nhìn của mỗi người
đối với cuộc đời mà có khổ hay không. Nếu không bị sự ham muốn và
dục vọng, ích kỉ hay phiền não khuấy động, chi phối, ngự trị trong tâm
thì cuộc đời đầy an lạc hạnh phuc.
- Diệt đế: đây chính là chân lí về diệt khổ, là khả năng của con
người về tiêu diệt những nguyên nhân gây ra sự khổ. Theo lời Phật
138
dạy, ta có thể tiêu diệt được khổ do đã biết nguyên nhân dẫn đến khổ,
có thể đoạ hết kiếp nghiệp, thoát được vòng sinh tử và tu đến niết bàn.
- Đạo đế: là chân lí về con đường dẫn đến diệt khổ. Đây là con
đường tu đạo để con người hoàn thành đạo đức cá nhân, dẫn đến trạng
thái niết bàn. Có 8 con đường chân chính để đạt sự diệt khổ dẫn đến
niết bàn gọi là “Bát chính đạo”. Bát chính đạo bao gồm:
Chính kiến: hiểu biết đung đắn về Tứ diệu đế và giáo lí vô
ngã.
Chính tư duy: suy nghĩ đung đắn.
Chính ngữ: lời nói đung đắn, không nói dối, phù phiếm.
Chính nghiệp: Hành vi đung, không làm điều xấu và nên làm
việc thiện.
Chính mệnh: sống lương thiện, tiết chế dục vọng.
Chính tinh tiến: cố gắng, nỗ lực một cách đung đắn, siêng
năng học tập và tu luyện.
Chánh niệm: ghi nhớ đến những điều hay lẽ phải, những
điều lợi lạc cho mình cho người, những đạo lý chân chính
quý trọng cao siêu.
Chính định: tập trung tư tưởng cao độ suy nghĩ về Tứ điệu
đế, vô ngã, vô thường, tâm ý đạt bốn định xuất thế gian.
Ngoài ra Phật Giáo còn đưa ra 5 điều nhằm răn đe đem lại lợi
ích cho con người và xã hội, bao gồm: bất sát (không sát sinh), bất
dâm (không dâm dục), bất vọng ngữ (không nói năng thô tục, bậy bạ),
bất âm tửu (không rượu trà) và bất đạo (không trộm cướp). Theo con
đường bát chính đạo nói trên, con người có thể diệt trừ vô minh, đạt
tới sự giải thoát, nhập vào niết bàn là trạng thái hoàn toàn yên tĩnh,
sáng suốt, chấm dứt sinh tử luân hồi.
9.1.2. Những đặc trưng cơ bản của Phật Giáo Việt Nam
9.1.2.1. Phật Giáo có tính tổng hợp
139
Tính tổng hợp là một trong những đặc trưng của lối tư duy
nông nghiệp, chi phối đến thái độ ứng xử với Phật Giáo làm nên sắc
thái riêng của Phật Giáo Việt Nam:
- Dung hợp giữa Phật Giáo với các tín ngưỡng và truyền thống
văn hóa bản địa: Phật Giáo thờ Phật trong chùa, tín ngưỡng truyền
thống Việt Nam là thờ thần trong miếu và thờ Mẫu trong phủ, bốn vị
thần được thờ nhiều nhất là Tứ pháp: Mây-Mưa-Sấm-Chớp. Tuy nhiên
bốn vị thần này đã được "Phật hóa". Các pho tượng này thường được
gọi tượng Phật Pháp Vân, Phật Pháp Vũ, Phật Pháp Lôi và Phật Pháp
Điện, trên thực tế các tượng này hoàn toàn điêu khắc theo tiêu chuẩn
của một pho tượng Phật. Người Việt Nam đưa các vị Thần, Thánh,
Mẫu, Thành Hoàng thổ địa, anh hùng dân tộc... vào thờ trong chùa. Đa
số các chùa còn để cả bia hậu, bát nhang cho các linh hồn đã khuất.
- Dung hợp giữa các tông phái Phật Giáo. Các tông phái Phật
giáo Đại thừa sau khi du nhập vào Việt Nam trộn lẫn với nhau. Dòng
thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi pha trộn với Mật giáo. Các điện thờ ở chùa
miền Bắc có vô cùng phong phu các loại tượng Phật, Bồ Tát, La Hán
của các tông phái khác nhau. Các chùa miền Nam còn có xu hướng
kết hợp Tiểu thừa với Đại thừa. Nhiều chùa mang hình thức Tiểu thừa
(thờ Phật Thích Ca Mâu Ni, sư mặc áo vàng) nhưng lại theo giáo lý
Đại thừa; bên cạnh Phật Thích Ca Mâu Ni còn có các tượng Phật nhỏ
khác, bên cạnh áo vàng còn có áo nâu, áo lam.
- Dung hợp giữa Phật Giáo với các tôn giáo khác: Tín ngưỡng
truyền thống đã tiếp nhận Phật Giáo ngay từ đầu Công nguyên. Sau đó
Phật Giáo cùng tín ngưỡng truyền thống tiếp nhận Đạo Giáo. Rồi tất
cả cùng tiếp nhận Nho Giáo để làm nên "Tam giáo đồng nguyên" (cả
ba tôn giáo có cùng một gốc) và "Tam giáo đồng quy" (cả ba tôn giáo
có cùng một mục đích). Ba tôn giáo trợ giup lẫn nhau: Nho Giáo lo tổ
chức xã hội, Đạo Giáo lo thể xác con người, Phật Giáo lo tâm linh,
kiếp sau của con người. Trong nhiều thế kỷ, hình ảnh "Tam giáo tổ
sư" với Thích Ca Mâu Ni ở giữa, Lão Tử ở bên trái, Khổng Tử ở bên
140
phải đã in sâu vào tâm thức mọi người Việt. Ngoài ra Phật Giáo Việt
Nam còn được hòa trộn với tất cả các tôn giáo khác để hình thành Đạo
Cao Đài vào thập niên 1920 với quan điểm là "Thiên nhân hợp nhất"
và "Vạn giáo nhất lý". [1]
9.1.2.2. Tính hài hoà âm dương
Sau tính tổng hợp, hài hòa âm dương là một trong những đặc
tính khác của lối tư duy nông nghiệp, nó ảnh hưởng rất lớn đến Phật
Giáo Việt Nam làm cho Phật Giáo Việt Nam có phần thiên về nữ tính.
Các vị Phật Ấn Độ xuất thân là nam giới, khi vào Việt Nam bị
biến thành "Phật ông - Phật bà". Phật Bà Quan Âm (biến thể của Quán
Thế Âm Bồ Tát) là vị thần hộ mệnh của vùng Nam Á nên còn được
gọi là Quan Âm Nam Hải. Ngoài ra người Việt còn có những vị Phật
riêng của mình như Man Nương Phật Mẫu (tên khác: Phật Mẫu),
Quan Âm Thị Kính (tên khác: Quan Âm Tống Tử), Quan Âm Diệu
Thiện (tên khác: Phật Bà Chùa Hương, Bà chua Ba). [2]
9.1.2.3. Tính linh hoạt
Phật Giáo Việt Nam còn có một đặc điểm là rất linh hoạt, mà
nhà Phật thường gọi là "tùy duyên bất biến; bất biến mà vẫn thường
tùy duyên" nghĩa là tùy thuộc vào tình huống cụ thể mà người ta có
thể tu, giải thích Phật giáo theo các cách khác nhau. Nhưng vẫn không
xa rời giáo lý cơ bản của nhà Phật.
9.1.3. Các lễ hội Phật Giáo lớn tại Việt Nam
9.1.3.1. Lễ Phật Đản
Lễ Phật Đản là ngày Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chào đời tại
vườn Lâm Tỳ Ni, (ngày 15 tháng tư âm lịch, năm 624 Trước Công
Nguyên), một ngày rất quan trọng trong truyền thống Phật Giáo trên
thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Ở Việt Nam, lễ Phật Đản đã
có từ lâu và trở thành lễ hội lớn của dân tộc, được Giáo hội Phật Giáo
Việt Nam tổ chức một cách trang trọng. Lễ Phật Đản nhằm mục đích
dẫn dắt con người đến với đạo, xoa dịu bớt những nỗi khổ đau khổ của
cuộc đời. Và mục đích quan trọng hơn hết là: "Hãy bước vào cửa đạo",
141
chứ không phải chỉ bước vào cửa chùa rồi thôi, chứ không phải tu mù,
ai bảo sao làm vậy, ai nói sao nghe vậy. Vào ngày lễ, Phật tử thường
vinh danh Tam bảo: Phật, Pháp, Tăng (qua các hình thức như dâng
cung, tặng hoa, đến nghe thuyết giảng), và thực hành ăn chay và giữ
Ngũ giới, Tứ vô lượng tâm (từ bi hỷ xả), thực hành bố thí và làm việc
từ thiện, tặng quà, tiền cho những người yếu kém trong cộng đồng.
Ở Việt Nam, lễ Phật Đản luôn được tổ chức trang trọng. Ngoài
việc tổ chức buổi lễ chính vào ngày rằm tháng 4, Giáo hội các tỉnh
thành còn tổ chức diễu hành, làm lễ, thả hoa đăng trên sông, tổ chức
thuyết giảng về Phật pháp xen kẽ các buổi văn nghệ, đèn lồng, làm lễ
đài tổ chức...
Vào ngày Phật Đản, các Phật tử không sát sinh, mọi người đều
ăn chay, lau dọn vệ sinh nhà cửa và trang trí bàn thờ Phật thật đẹp.
Các Phật tử có thể đến chùa để phụ giup làm công quả, nghe các bài
thuyết giảng về cuộc sống, tự chiêm nghiệm về hành động của bản
thân để làm cho tâm hồn được thanh tịnh. Tại các chùa, Phật tử
thường dựng lên lễ đài lớn, trang trí các xe hoa. Tuy nhiên, tất cả
những việc này đều được thực hiện sao cho không gây tốn kém nhiều,
không phung phí, tất cả được thể hiện bằng tấm lòng thành vốn là đạo
lý nhà Phật. [3]
9.1.3.2. Lẽ Vu Lan
Lễ Vu Lan xuất phát từ sự tích Bồ tát Mục Kiền Liên đại hiếu
đã cứu mẹ mình ra khỏi kiếp ngạ quỷ (quỷ đói). Vu Lan trở thành
ngày lễ hằng năm để tưởng nhớ công ơn cha mẹ và tổ tiên nói chung,
nhắc nhở mỗi người biết trân trọng những gì mình đang có, nhắc nhở
bổn phận làm con phải luôn nhớ đến công ơn sinh dưỡng của cha mẹ
mà làm những việc hiếu nghĩa để thể hiện tình cảm, lòng biết ơn. Lễ
Vu Lan báo hiếu luôn là một trong những ngày lễ có sức sống văn hóa
mãnh liệt nhất trong đời sống tinh thần của mỗi người dân Việt Nam
chung ta. Kể từ khi Phật giáo được truyền vào Việt Nam, ngày Lễ Vu
Lan (ngày Rằm tháng Bảy âm lịch hằng năm) đã trở thành truyền
142
thống của tinh thần báo hiếu, báo ân, phù hợp với tinh thần tín ngưỡng
thờ tổ tiên thiêng liêng của người dân Việt.
Ngày lễ Vu Lan là dịp nhắc nhở các thế hệ con cháu chung ta
nhớ tới công ơn dưỡng dục sinh thành của ông bà, cha mẹ cũng như tổ
tiên và các anh hùng dân tộc đã có công với đất nước. Không riêng gì
đối với mỗi Phật tử, Lễ Vu Lan mở ra cả một mùa báo ân, báo hiếu.
Báo hiếu ở đây là đối với bố mẹ, người đã sinh và nuôi dưỡng chung
ta không chỉ ở kiếp này mà còn ở nhiều kiếp khác, bởi Phật Giáo luôn
nhìn nhận con người trong mối tương quan nhân quả, trong vòng báo
luân hồi. Điều này dẫn đến việc chung ta phải mở rộng vòng báo hiếu
ra tất cả các chung sinh. “Phổ độ chung sinh”, ”cứu nhân độ thế”, “xá
tội vong nhân”. Qua hàng nghìn năm, Vu Lan báo hiếu luôn là một
trong những ngày lễ có sức sống văn hóa mãnh liệt nhất trong đời
sống tinh thần của mỗi người dân Việt Nam chung ta. [4]
9.1.4. Ảnh hưởng Phật Giáo về mặt tư tưởng và đạo lí
9..1.4.1. Ảnh hưởng của Phật Giáo về mặt tư tưởng
Tư tưởng hay đạo lý căn bản của Phật Giáo là đạo lý Duyên
Khởi, Tứ Diệu Đế và Bát chánh Đạo. Ba đạo lý này là nền tảng cho tất
cả các tông phái Phật Giáo, nguyên thủy cũng như Đại Thừa đã ăn sâu
vào tư tưởng của người dân Việt.
Tư tưởng bình đẳng và công bằng của Phật Giáo khi du nhập và
phát triển ở Việt Nam đã hòa nhập với tư tưởng công bằng, bình đẳng
của người Việt Nam. Cơ sở của sự ảnh hưởng hòa nhập này dường
như bắt nguồn từ tư tưởng bình quân nguyên thủy của nền văn minh
làng xã. Phật Giáo chủ trương thiết lập quan hệ công bằng, bình đẳng
giữa mọi người và cho rằng mọi người đều bình đẳng như nhau, trong
mỗi người đều có Phật tính; trong quan hệ với người khác, mỗi cá
nhân không được cầu lợi cho mình… có ảnh hưởng rất lớn đối với
quan niệm sống của người Việt, điển hình như: “Một người vì mọi
người, mọi người vì một người”. Và con người Việt Nam luôn với
143
tinh thần tương thân tương ái nên tư tưởng này của Phật Giáo có lẽ đã
ăn sâu trong máu của mỗi người dân.
Về giáo lý nghiệp báo hay nghiệp nhân quả báo của Đạo Phật
đã được truyền vào nước ta rất sớm. Giáo lý này đương nhiên đã trở
thành nếp sống tín ngưỡng hết sức sáng tỏ đối với người Việt Nam có
hiểu biết, có suy nghĩ. Có thể nói mọi người dân Việt điều ảnh hưởng
ít nhiều qua giáo lý này. Vì thế, lý nghiệp báo luân hồi đã in dấu đậm
nét trong văn chương bình dân, trong văn học chữ nôm, chữ hán, từ
xưa cho đến nay để dẫn dắt từng thế hệ con người biết soi sáng tâm trí
mình vào lý nhân quả nghiệp báo mà hành động sao cho tốt đẹp đem
lại hòa bình an vui cho con người. [5]
9.1.4.2. Ảnh hưởng của Phật Giáo về mặt đạo lí
Đạo lý ảnh hưởng nhất là giáo lý từ bi, tinh thần hiếu hòa, hiếu
sinh của phật giáo đã ảnh hưởng và thấm nhuần sâu sắc trong tâm hồn
của người Việt.
Đều này ta thấy rõ qua con người và tư tưởng của Nguyễn Trãi
(1380-1442), một nhà văn, nhà chính trị, nhà tư tưởng việt Nam kiệt
xuất, ông đã khéo vận dụng đạo lý Từ Bi và biến nó thành đường lối
chính trị nhân bản đem lại thành công và rất nổi tiếng trong lịch sử
nước Việt. Ông nói điều đó trong Bình Ngô Đại Cáo rằng:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Tính thiện, tình nghĩa và tình thương mang bản sắc Việt Nam
được con người Việt Nam hun đuc trong quá trình dựng nước và giữ
nước. Cái thiện của con người Việt Nam mang tinh thần bình đẳng, vị
tha, tôn trọng, yêu thương con người. Phật Giáo đã hòa hợp với tư
tưởng truyền thống Việt Nam để xây dựng tính thiện, tình nghĩa và
tình thương. Đó là, tình “thương người như thể thương thân”, “lá lành
đùm lá rách”, … Tình thương, tình nghĩa, tính thiện không chỉ thể
hiện trong quan hệ với hiện tại mà còn được thể hiện trong quan hệ
144
với quá khứ như: uống nước nhớ nguồn hoặc ăn quả nhớ kẻ trồng
cây, …
Phật Giáo đã góp phần cùng với dân tộc Việt Nam trong việc
xây dựng tấm lòng bao dung rộng lớn, vô ngã, vị tha. Tinh thần bao
dung rộng lớn được thể hiện trước lỗi lầm của con người. Trong cách
ứng xử của người Việt thể hiện rất rõ như: “biển cả mênh mông, quay
đầu là bờ”, “đánh kẻ chạy đi không ai đánh người chạy lại”, … Tinh
thần bao dung còn được thể hiện trong cách ứng xử với kẻ thù khi
chung bại trận, trong chính sách nhân đạo đối với tù binh, hàng binh...
[6]
9.1.5. Ảnh hưởng của Phật Giáo qua góc độ nhân văn và nghệ
thuật
9.1.5.1. Ảnh hưởng Phật Giáo qua ngôn ngữ
Trong đời sống giao tiếp thường nhật, ta bắt gặp những từ ngữ
chịu ảnh hưởng ít nhiều của Phật Giáo được nhiều tầng lớp trong xã
hội sử dụng. Tuy nhiên không phải ai cũng biết những từ ngữ ấy được
bắt nguồn từ Phật Giáo, chẳng hạn như từ “tội nghiệp’’ đó là từ ngữ
chuyên môn của Phật Giáo. Theo Đạo Phật tội nghiệp là tội của
nghiệp, do nghiệp tạo ra từ trước, dẫn tới nhân quả tại hiện tại, theo
giáo lý nhà Phật thì không có một hiện tượng nào xảy ra là ngẫu nhiên
hay tình cờ, mà chỉ là kết quả tập thành của nhiều nguyên nhân tạo ra
từ trước. Những nguyên đó theo đạo Phật gọi đó là nhân duyên khi
chín mùi, thì đem lại kết quả. Cũng như việc mọi người sử dụng từ
“tội nghiệp’’ nhưng ít ai biết được đó là một từ ngữ liên quan mật thiết
đến chủ thuyết rất căn bản của Phật là thuyết nhân quả báo ứng.
Thuyết này cũng đi sâu vào nhận thức dân gian như người Việt qua
những quan niệm như "ở hiền gặp lành, gieo gió gặp bão".
Hay khi có những tiếng ồn người ta thường nói "om sòm bát
nhã", do khi đến chùa vào những ngày sám hối, chùa thưởng chuyển
những hồi trống bát nhã, do đó mà phát sinh ra cụm từ trên. Lại có
những người nay đây mai đó, ít khi dừng chân ở một chỗ thì thường
145
được gọi là “ta bà thế giới’’. Ta bà thế giới là thế giới của Đức Phật
Thích Ca giáo hóa, theo thế giới quan của phật giáo thì thế giới ta bà
to gấp mấy lần quả địa cầu, vì thế người Việt đã sử dụng linh hoạt từ
ngữ đó khi nhắc về những người thường xuyên đi lại khắp nơi. Ngoài
ra thì có những từ như: từ bi, hỷ xã, giác ngộ, sám hối… cũng được
người Việt sử dụng một cách linh hoạt trong giao tiếp. Những từ ngữ
đó có những ý nghĩa sâu xa là như vậy, nhưng khi Phật Giáo truyền bá
vào Việt Nam thì lại trở thành những từ ngữ đơn thuần được sử dụng
ngay chính trong cuộc sống thường nhật. Sự ảnh hưởng phật giáo
không dừng ở phạm vi từ ngữ mà nó còn lan rộng, ăn sâu ngay cả
trong những câu ca dao và thơ ca của người dân Việt Nam.
9.1.5.2. Ảnh hưởng Phật Giáo qua ca dao và thơ ca
Ca dao dân ca là một thể loại văn vần truyền khẩu, quen thuộc
trong dân gian, được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Không ai
biết rõ xuất xứ của những lời ca tiếng hát đó từ đâu, nhưng ta lại dễ
dàng bắt gặp trong cuộc sống thường ngày qua câu hát ru, những câu
hò đối đáp giữa các chàng trai cô gái tuổi đôi mươi hay trong mỗi câu
chuyện cổ tích mà các cụ già kể cho con cháu nghe. Ca dao dân ca
thường phổ biến dưới dạng thơ lục bát với nhiều đề tài khác nhau, một
trong những đề tài phổ biến được ông cha ta đề cập đó là tư tưởng đạo
lý của Phật Giáo với mục đích nhằm để nhắc nhở, khuyên răn dạy bảo
con cháu, xây dựng một cuộc sống an vui phù hợp với truyền thống
đạo đức của dân tộc Việt Nam.
Là người Việt Nam không ai không biết đến đạo hiếu kính cha
mẹ, niềm tri ơn và báo ơn ấy đã trở thành bản tính tự nhiên, ăn sâu vào
tâm khảm của người Việt. Tinh hoa và tinh thần cao đẹp này không
phải tự nhiên mà có, mà nó chịu sự ảnh hưởng một phần lớn trong đạo
Phật, mà đạo Phật cũng chính là đạo hiếu, lời dạy của phật về việc nhớ
ơn và báo ơn cha mẹ là những cảm giác suy tư in đậm trong lòng của
người Việt, và đã thể hiện linh động qua ca dao dân ca, mà chung ta
thấy tràn ngập khắp dân gian Việt Nam:
146
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con
Bên cạnh việc làm trọn đạo hiếu thì người Việt Nam thường
nhắn nhủ nhau chớ có vì danh lợi phù hoa, làm ác hại người để rồi
chuốc lấy đau khổ. Hãy ăn ở cho lương thiện rồi thế nào cũng gặp
điều tốt lành, may mắn và hạnh phuc:
Ai ơi hãy ở cho lành
Kiếp này chẳng gặp đề dành kiếp sau
Ngang qua các câu ca dao của Việt Nam về quan niệm hiếu
hạnh, quan niệm nhân quả, ta thấy sự ảnh hưởng của Phật Giáo đã ăn
sâu, bám rễ vào đời sống của dân tộc Việt Nam.
9.1.5.3. Ảnh hưởng Phật Giáo qua các tác phẩm văn học
Bên cạnh ca dao bình dân, trong các tác phẩm văn học của các
nhà thơ, nhà văn chung ta cũng bắt gặp nhiều bài thơ, tác phẩm có
phần ảnh hưởng bởi Phật Giáo. Nổi bật như tác phẩm nổi tiếng ở thế
kỷ 18 là Cung Oán Ngâm Khuc của nhà thơ Nguyễn Gia Thiều, là
khuc ngâm của người cung nữ bị vua ruồng bỏ, oán than về thân phận
mình. Nội dung tác phẩm chịu nhiều ảnh hưởng của Phật Giáo, nhất là
triết lý ba pháp ấn Vô Thường, Khổ, Vô Ngã.
Qua thế kỷ 19, với thi hào Nguyễn Du đã để lại một áng văn
bất hủ là Truyện Kiều. Đây là một truyện thơ chịu nhiều ảnh hưởng
của Phật Giáo, trong đó ta thấy nổi bật nhất là thuyết về Khổ Đế, một
phần quan trọng của giáo lý Tứ Diệu Đế, kế đó là tinh thần về hiếu
đạo và thuyết về nhân quả và nghiệp báo. Nếu ở đầu thế kỷ 19 chung
ta có Nguyễn Du thì cuối thế kỷ 19 lại có Chu Mạnh Trinh, những tác
phẩm của ông cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc tinh thần của Phật Giáo,
chẳng hạn như bài Hương Sơn Phong Cảnh.
Qua những bài thơ đó, ta thấy thơ của Chu Mạnh Trinh đã phản
chiếu được lòng tin của ông đối với giáo lý nhà Phật và qua cái nhìn
147
ông một cảnh vật ở đó thật giải thoát, an lạc, thanh vắng, và có thể nói
cảnh vật Hương Sơn với ông trở thành một cõi riêng của Phật trong đó
không những người tín đồ mà cho đến cả chim, cá, khe, động đều
thấm nhuần được ánh sáng của Chánh Pháp.
Hay với Vũ Hoàng Chương - nhà thơ nổi danh khác của Việt
nam lại đi xa hơn, mượn ngay những giáo lý của Phật như nhân quả,
luân thường, khổ đau…để diễn tả nổi niềm khao khát vượt ra khỏi bờ
mê, để đến bến giác:
Ta còn để lại gì không?
Kìa non đá lở, nay sông cát bồi
Lang thang thừ độ luân hồi
U minh nẻo trước, xa xôi dặm về
Trông ra bến hoặc bờ mê
Nghìn thu cửa chớp, bốn bề một phương.
Điểm qua một số thơ văn Việt nam có những ảnh hưởng của
Phật Giáo như trên ta thấy tư tưởng, triết học Phật Giáo đã để lại dấu
ấn của mình sâu đậm trên diễn đàn tư tưởng của Việt Nam.
9.1.5.4. Ảnh hưởng Phật Giáo qua phong tục tập quán
Phong tục tập quán thể hiện đặc sắc và tính đặc thù về văn hóa
của mỗi dân tộc. Đối với người Việt, những phong tục tập quán chịu
ảnh hưởng một phần lớn từ Phật Giáo.
- Ảnh hưởng phật giáo qua tập tục ăn chay, thờ Phật, phóng
sanh và bố thí:
Ăn chay hay ăn lạt xuất phát từ quan niệm từ bi của Phật Giáo.
Vì khi đã trở về với Phật pháp, mỗi người phật tử phải thọ giới và trì
giới, trong đó giới căn bản là không sát sanh hại vật, mà trái lại phải
thương yêu mọi loài vì vậy người phật tử phải dùng đến phương pháp
ăn chay. Cố nhiên người xuất gia ăn chay trường, còn phật tử tại gia
còn nhiều trở ngại nên chỉ ăn chay kỳ. Thông thường người Việt Nam,
cả phật tử lẫn người không phải phật tử cũng theo tục lệ này, họ ăn
chay mỗi tháng hai ngày, là ngày mùng một và ngày rằm mỗi tháng.
148
Ăn chay và thờ Phật là việc đi đôi với nhau của người Việt Nam. Việc
thờ Phật trong dân gian cũng được nhiều người thực hiện kể cả những
người không phải là phật tử. Cũng xuất phát từ tinh thần từ bi của đạo
Phật, tục lệ bố thí và phóng sanh đã ăn sâu vào đời sống sinh hoạt của
quần chung. Đến ngày rằm và mùng một, người Việt thường hay mua
chim, cá, rùa…để đem về chùa chu nguyện rồi đi phóng sanh. Tuy
nhiên, trong xã hội hiện nay những biểu hiện mang tính chất hình thức
trên này càng bị thu hẹp. Thay vào đó mọi người tham gia vào những
đợt cứu trợ, tương tế cho các đồng bào gặp thiên tai, hoạn nạn, hoàn
cảnh sống gặp khó khăn đung với truyền thống đạo lý của dân tộc lá
lành đùm lá rách.
- Ảnh hưởng Phật Giáo qua tập tục cúng rằm, mùng một và lễ
chùa:
Theo đung truyền thống tập tục cung rằm, mùng một là tập tục
cung sóc vọng, tức là ngày mặt trời mặt trăng thông suốt nhau, cho
nên thần thánh, tổ tiên có thể liên lạc, thông thương với con người, sự
cầu nguyện sẽ đạt tới sự cảm ứng với các cõi giới khác. Ngoài việc đi
chùa sám hối, ở nhà vào ngày rằm và mùng một, họ sắm đèn, nhang,
hương hoa để dâng cung Tam Bảo và tổ tiên Ông Bà, thể hiện lòng tôn
kính, thương nhớ những người quá cố và cụ thể hóa hành vi tu tâm
dưỡng tánh của họ.
Bên cạnh việc đi chùa sám hối vào ngày rằm, mùng một, người
Việt Nam còn có tập tục khác là đi viếng chùa, lễ Phật vào những
ngày hội lớn như ngày rằm tháng giêng, rằm tháng tư (Phật Đản) và
rằm tháng bảy (lễ Vu Lan).
Ngoài những phong tục của người Việt Nam chịu ảnh hưởng
Phật Giáo đã được kể trên, chung ta còn thấy một số tập tục khác như:
tập tục đốt vàng mã, tập tục coi ngày giờ, tập tục cung sao hạn, cũng
tương đối phổ biến và có ít nhiều liên quan đến Phật Giáo trong đời
sống người Việt.
149
Phong tục tập quán tại Việt Nam trong quá trình tồn tại và phát
triển đã chịu nhiều tác động của trào lưu văn hóa khác nhau đặc biệt là
từ Trung Quốc. Trong đó Phật Giáo đã dự phần quan trọng trong việc
định hình và duy trì không ít các tập tục dân gian mà chung ta thấy
vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay. Tuy nhiên, không phải các tập tục có
sự ảnh hưởng của Phật Giáo đều tốt, mà trong đó có tập tục cần phải
chắt lọc lại để phù hợp với phong tục tập quán của người Việt hiện
nay.
9.1.6. Ảnh hưởng Phật giáo qua các loại hình nghệ thuật
9.1.6.1. Ảnh hưởng của Phật Giáo qua nghệ thuật sân khấu.
Nghệ thuật sân khấu là một loại hình văn hóa, nhất là các
chủng loại này thuộc về di sản mang tính bản sắc của văn hóa dân tộc.
Ta dễ dàng nhận thấy Phật Giáo ảnh hưởng sâu sắc trong nghệ thuật
sân khấu qua các bài ca tuồng, vở diễn khác nhau. Trước hết, loại hình
hát chèo xuất hiện ban đầu chủ yếu ở các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, thu
hut nhiều tinh hoa nghệ thuật dân gian như mua, hát và diễn các vở
truyện Nôm truyền thống. Đáng kể nhất là vở "Quan Âm Thị Kính" đã
đi vào dạng tuồng tiêu biểu chính thống khi nhắc đến môn nghệ thuật
này. Còn có các vở "Trương Viên", "Lưu Bình Dương Lễ", "Kim
Nhan"... đều mang tính thưởng thiện phạt ác.
Thứ hai, hát bội ban đầu xuất hiện trong nếp sống cung đình,
nghệ thuật này là loại hình giải trí cao cấp dành cho vua chua và giới
thượng lưu. Có thể nói xuyên suốt thế kỷ thứ 19 là thời đại hoàng kim
của nghệ thuật hát bội. Các vở "San Hậu"; "Tam Nữ Đồ Vương";
"Diễn Võ Đình", "Nghêu Sò Ốc Hến"... là những vở mang tính chất
dân tộc chính thống và chứa đựng toàn vẹn triết lý "nhân quả báo ứng"
và hướng thiện một cách cao đẹp.
Từ nhạc cổ, nhạc tài tử dần dần trở thành nghệ thuật sân khấu
cải lương từ đầu những năm 1922 ở Nam Bộ. Chính vì yếu tố phóng
khoáng, có sức cuốn hut mạnh mẽ mà cải lương dễ dàng tiến sâu vào
chân lý của Phật giáo, mở ra cánh cửa được sự tích Phật Thích Ca và
150
nhiều điển tích khác của Phật giáo vào gia sản nghệ thuật của mình.
Đây là một loại hình nghệ thuật được đông đảo bà con lao động người
Việt ưa thích. Giáo lý "nhân quả báo ứng, thưởng thiện phạt ác"...
được các soạn giả thể hiện các vở cải lương và đã được khán giả say
mê thưởng thức và đã đứng vững trên diễn đàn sân khấu. Tiêu biểu
như các vở "Thích Ca Đắc Đạo", "Quan Âm Thị Kính", "Quan Âm
Diệu Thiện", đặc biệt đầu thập niên 90 có hai vở đáng chu ý là "Thoát
Vòng Tục Lụy" và 'Thái Tử A Xà Thế" của soạn giả Giác Đạo Dương
Kinh Thành, là hai vở tuồng chuyên chính đầu tiên của Phật Giáo Việt
Nam. Ngoài ra còn có các vở chịu ảnh hưởng ít nhiều tư tưởng Phật
Giáo như các vở "Phạm Công Cuc Hoa", "Tấm Cám", "Kim Vân
Kiều"... do sự ảnh hưởng tinh thần từ bi hỷ xả của Phật Giáo nên luôn
luôn các tuồng cải lương ở phần kết thuc đều có hậu. Sau cùng là kịch
nói, đây là loại hình nghệ thuật được du nhập từ phương Tây, kịch nói
chưa có đóng góp gì đáng kể cho Phật Giáo như các loại hình nghệ
thuật khác. Tuy nhiên nội dung cũng hàm chứa nhiều căn bản đạo đức
dân tộc trong đó có ảnh hưởng Phật Giáo.
9.1.6.2. Ảnh hưởng Phật Giáo qua nghệ thuật tạo hình
- Về kiến truc: Khi Phật Giáo truyền vào Việt Nam, cố nhiên đã
đem theo các kiểu kiến truc chùa tháp, lầu chuông gác trống theo mô
hình kiến truc của Ấn Độ, Miến Điện và Trung Hoa. Tuy nhiên theo
thời gian, với tinh thần khai phóng của Phật giáo phối hợp cùng lối tư
duy tổng hợp của dân tộc đã tạo ra một mô hình kiến truc rất riêng cho
Phật Giáo ở Việt Nam. Chùa tháp ở Việt nam thường được xây dựng
với lối kiến truc đặc biệt, mái chùa bao giờ cũng ẩn dấu sau lũy tre
làng, dưới gốc cây đa. Theo mô hình kiến truc kiểu chữ "Công": bái
đường và điện Phật được nối nhau bằng nhà thiên hương; kiểu chữ
"Đinh": trước; kiểu chữ "Tam": có ba nếp nhà song song với nhau,
hay kiểu "Nội công ngoại Quốc": phía trước là tiền đường và điện
Phật, sau là mảnh sân hình vuông trồng cây cảnh, đặt hòn non bộ, phía
sau là nhà hậu tổ, hai bên là nhà Đông và nhà Tây. Phật giáo đã để lại
151
nhiều quần thể kiến truc độc đáo và danh lam thắng cảnh, nhiều ngôi
chùa nổi tiếng như ở miền Bắc có chùa Một Cột, chùa Tây phương,
chùa Hương, ở miền Trung có chùa Thiên Mụ, chùa Báo Quốc và ở
miền Nam có các chùa Giác Lâm, chùa Vĩnh Tràng, ...
- Về điêu khắc: Ngày nay tại các viện bảo tàng lớn ở Việt Nam,
chung ta sẽ thấy nhiều cốt tượng, phù điêu của Phật Giáo được trưng
bày, đó không những là một niềm tự hào của nền văn hóa dân tộc Việt
mà còn là dấu vết chứng minh sự ảnh hưởng của Phật Giáo có mặt
trong lĩnh vực này. Tiêu biểu ta thấy có các tác phẩm như tượng Quan
Âm nghìn mắt nghìn tay tại Chùa Hạ (Vĩnh Phuc, cao 3,2m), 16 pho
tượng tổ gỗ của chùa Tây Phương (Hà Tây), Bộ tượng Thập Bát La
Hán chùa Phước Lâm (Hội An, Quảng Nam), Bộ tượng Thập Bát ở
chùa Tràng (Mỹ Tho), hay tượng Phật Thích Ca, cao 1,07m bằng đồng
là hiện vật Bảo tàng lịch sử thành phố Hồ Chí Minh, tượng "Phật
Nhập Niết Bàn" dài 49m ở nui Trá Cu, Phan Thiết. Đó là những tác
phẩm nghệ thuật điêu khắc vừa mang những nét độc đáo bên cạnh đó
còn chứa đựng tính lịch sử đầy ý nghĩa.
- Về hội họa: Mái chùa cổ kính giữa nui non tĩnh mịch hay các lễ
hội viếng chùa ngày đầu xuân hoặc tư tưởng độc đáo của triết học, của
thiền học Phật Giáo luôn là đề tài gây nhiều cảm hứng cho các nghệ
nhân và họa sĩ Việt Nam. Nhiều tranh lụa, tranh màu nước, sơn dầu,
sơn mài đề cập đến Phật giáo đã được các họa sĩ, nghệ nhân tên tuổi ở
Việt Nam thể hiện một cách sống động và tinh tế qua các tác phẩm
như "chùa Thầy" của Nguyễn Gia Trí sáng tác năm 1938, "Lễ Chùa"
của Nguyễn Siêu, "Bức Tăng" của Đỗ Quang Em, "Đi Lễ Chùa" của
Nguyên Khắc Vịnh. Đặc biệt từ thập niên tám mươi trở lại đây, có
"Thiền Quán", "Quan Âm Thị Hiện"; "Bích Nhãn", "Rừng Thiền" của
họa sĩ Phượng Hồng, …
Tài liệu tham khảo
Các phần trích dẫn
152
[1]: Đặc điểm của Phật Giáo Việt Nam, https://voer.edu.vn/m/dac-diem-
cua-phat-giao-viet-nam/23430785, truy cập ngày 16/11/2020.
[2]: Đặc điểm của Phật Giáo Việt Nam, https://voer.edu.vn/m/dac-diem-
cua-phat-giao-viet-nam/23430785, truy cập ngày 16/11/2020.
[3]: Nguồn gốc, ý nghĩa của lễ Phật Đản và những nghi thức nên làm trong
ngày linh thiêng, https://khoahoc.tv/nguon-goc-y-nghia-cua-le-
phat-dan-va-nhung-nghi-thuc-nen-lam-trong-ngay-linh-thieng-
80211, truy cập ngày 20/11/2020.
[4]: Vũ Dũng. Nguồn gốc và ý nghĩa của đại lễ Vu Lan báo hiếu,
https://phatgiaovietnam.vn/nguon-goc-va-y-nghia-cua-dai-le-vu-
lan-bao-hieu/, truy cập ngày 20/11/2020.
[5]: Thích Nguyên Tạng (1996). Ảnh hưởng của Phật Giáo trong đời sống
người Việt, https://www.chuabuuchau.com.vn/luan-van-hoi-
thao/anh-huong-phat-giao-trong-doi-song-nguoi-viet_1060.html ,
truy cập ngày 18/11/2020.
[6]: Nguyễn Thị Huyền Chi (2018). Ảnh hưởng của tư tưởng Phật Giáo đến
suy nghĩ của người Việt,
https://tcnn.vn/news/detail/39636/Anh_huong_cua_tu_tuong_Phat
_giao_den_suy_nghi_cua_nguoi_Viet_Namall.html, truy cập ngày
18/10/2020.
Các link tham khảo có liên quan
1) Linh mục Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn (2012). Đạo Thiên Chua hay
Đạo Công Giáo?, http://conggiao.info/dao-thien-chua-hay-dao-
cong-giao-d-8989, truy cập ngày 20/11/2020.
2) Thích Đức Tĩnh (2013). Phật giáo là gì?,
https://www.niemphat.vn/phat-giao-la-gi/, truy cập ngày
20/11/2020.
3) Các khái niệm về tin lành, http://www.mondohoa.com/tai-liu/47-cac-
khai-nim-v-tin-lanh.html, truy cập ngày 20/11/2020.
4) Đạo tin lành là gì?, https://www.35express.org/dao-tin-lanh-la-gi/,
truy cập ngày 20/11/2020.
5) Dương Thanh Tuyền. Khái quát về Hồi giáo và Hồi giáo ở Việt Nam,
http://btgcp.gov.vn/gioi-thieu-cac-to-chuc-ton-giao-da-duoc-cong-
153
nhan/Khai_quat_ve_Hoi_giao_va_Hoi_giao_o_Viet_Nam-
postDBmZOe4W.html, truy cập ngày 20/11/2020.
6) Thích Nguyên Tạng (1996). Ảnh hưởng của Phật Giáo trong đời sống
người Việt, https://www.chuabuuchau.com.vn/luan-van-hoi-
thao/anh-huong-phat-giao-trong-doi-song-nguoi-viet_1060.html ,
truy cập ngày 18/11/2020.
9.2. Thiên chúa giáo
Tại Việt Nam, từ Thiên Chúa giáo thường được dùng để gọi
Công giáo. Đây là hệ phái tôn giáo thờ Thiên Chua được truyền bá
vào Việt Nam sớm nhất, từ thế kỷ 16 và phát triển mạnh từ thế kỷ 17
(dù rằng việc thờ Ông Trời theo tín ngưỡng dân gian Việt Nam về
phương diện nào đó có thể coi là thờ Thiên Chua). Đây cũng là tôn
giáo đầu tiên và chủ yếu dùng thuật từ Thiên Chúa để đề cập đến thần
linh tối cao và duy nhất, theo thuật từ trong tiếng Hán: 天 主
(pinyin: Tiānzhǔ, âm Hán Việt: Thiên Chủ, âm Hán Nôm-hóa: Thiên
Chúa) do các nhà truyền giáo Dòng Tên tại Trung Hoa sử dụng từ thế
kỷ 16. Các (hệ phái) tôn giáo khác tại Việt Nam ít dùng từ Thiên
Chúa mà thường dùng từ Đức Chúa Trời, hoặc Thượng Đế. Tiếng
Trung Quốc cho tới ngày nay vẫn gọi Công giáo là Thiên Chúa giáo.
Còn trong tiếng Việt, từ Thiên Chúa giáo gần đây được mở rộng ra
cho cả Kitô giáo, và các tôn giáo độc thần nói chung.
9.3. Hòa Hảo
Phật giáo Hòa Hảo, là một tông phái Phật giáo do Huỳnh Phu
Sổ khai lập năm Kỷ Mão 1939, lấy pháp môn "Học Phật - Tu Nhân"
làm căn bản và chủ trương tu hành tại gia (Tại gia cư sĩ). Tôn giáo này
lấy nền tảng là Đạo Phật, kết hợp với những bài sấm kệ do chính
Huỳnh Phu Sổ biên soạn. Hòa Hảo là một phong trào tôn giáo được
miêu tả như là một sự pha trộn tín ngưỡng dân gian hay là một nhánh
của Phật giáo. Nó là một trong những tôn giáo chính ở Việt Nam với
khoảng từ một đến tám triệu tín đồ, hầu hết ở đồng bằng sông Cửu
Long.
154
Triết lý tôn giáo của Hòa Hảo phát xuất từ đồng bằng sông Cửu
Long, căn bản bắt nguồn từ Phật giáo. Nó cải cách và xét lại giáo lý
của Bửu Sơn Kỳ Hương, và sở hữu những yếu tố giống như một
phong trào cải cách xã hội. Hòa Hảo là một hỗn hợp của đạo Phật, thờ
cung ông bà, những nghi thức vật linh, những yếu tố của Nho giáo và
Bạch liên giáo, được biến đổi và thích nghi với tập quán của người
nông dân trong vùng. Đến từ vùng biên viễn của miền Nam Việt Nam,
nó đối lập với cuộc sống đô thị và thích hợp hơn với lối sống cộng
đồng. Không như Phật giáo chính thống, Hòa Hảo từ chối những nghi
thức và đền miếu, không duy trì thứ bậc như trong tu viện và tu tại gia.
Nó cũng biện luận rằng Phật tại tâm, và điều đó quan trọng hơn những
nghi thức bên ngoài. Nghi thức thông thường của Hòa Hảo được giới
hạn trong bốn lạy một ngày, trong khi tín đồ tuân theo Tam cương
Ngũ thường.
Tác động của nền cai trị thực dân, cường độ chiến tranh tăng
lên từ cuối thập niên 1930 tới giữa thập niên 1970, và xung đột ý thức
hệ tạo nên sự khởi đầu và phát triển sau đó của Hòa Hảo. Cùng với
phong trào Việt Minh của Hồ Chí Minh và một phong trào tôn giáo
khác là Đạo Cao Đài, một trong những nhóm đầu tiên xung đột vũ
trang với những thế lực thực dân, đầu tiên là người Pháp sau đó là
người Nhật. Hòa Hảo hưng thịnh dưới sự chiếm đóng của người Nhật
trong thế chiến thứ hai, với sự gắn kết rộng lớn của nó với nông dân,
tá điền và người làm công trong nông nghiệp. Nó biến thành một tôn
giáo vũ trang theo chủ nghĩa dân tộc, và nhanh chóng phát triển một
quân đội riêng hoạt động chủ yếu vì lợi ích của những lãnh đạo của nó,
trong khi thiết lập một nhà nước tự trị của nó trong khu vực. Hòa Hảo
tồn tại như một lực lượng tự trị trong nền chính trị Việt Nam sau chiến
tranh, đối lập với cả thực dân Pháp và phong trào Việt Minh.
Trong suốt chiến tranh Đông Dương, bất đồng với những phe
phái khác làm Hòa Hảo trở thành một giáo phái tôn giáo chính trị
quân sự có nhiều xung đột với các lực lượng khác. Huỳnh Phu Sổ bị
155
Việt Minh bắt cóc và xử tử trong khi quay về từ một cuộc họp không
thành công để giải quyết xung đột với lực lượng cộng sản. Nhiều tín
đồ Hòa Hảo ca ngợi ông như là một đấng cứu thế đã giáng thế trong
thời điểm khủng hoảng. Cái chết của Huỳnh Phu Sổ dẫn tới chủ nghĩa
bè phái, chủ nghĩa kỳ thị, và tác động mang tính tổ chức. Hòa Hảo tiến
hành một cuộc chiến tranh chống cộng sản, bị dán nhãn như là "nhân
tố chống Việt Minh mạnh mẽ nhất đất nước". Tuy nhiên, Hòa Hảo
cùng với những tổ chức chính trị - tôn giáo khác, thống trị khung cảnh
chính trị xã hội của miền Nam Việt Nam trong thập niên 1950, góp
phần hình thành nên một miền Nam Việt Nam phi cộng sản. Sau năm
1954, Hòa Hảo có những hoạt động chống lại chính quyền của tổng
thống Ngô Đình Diệm được người Mỹ hỗ trợ. Họ kiểm soát những
khu vực khác nhau ở phía Nam và phía Tây miền Nam Việt Nam vào
thời điểm Diệm chết năm 1963
9.4. Cao Đài
Xem chương 4
9.5. Tin Lành
Tại Việt Nam, thuật ngữ Đạo Tin Lành (Evangelicalism)
thường được chỉ về một nhánh tôn giáo thuộc Cơ Đốc giáo (Kitô giáo)
thuộc phong trào Kháng Cách, để phân biệt với Giáo hội Công
giáo. "Tin Lành" cũng có thể coi là một cách gọi khác của "Tin
Mừng" hay "Phúc Âm".
Ngay từ cuối thế kỷ 19, một nhóm tín hữu Kháng Cách
người châu Âu đã đến Việt Nam để thành lập một nhà thờ tại Hải
Phòng vào năm 1884, rồi thêm những giáo đoàn khác được thành lập
ở Hà Nội và Sài Gòn trong năm 1902, nhưng năm 1911 được xem là
thời điểm đánh dấu đức tin Kháng Cách truyền đến Việt Nam khi
những nhà truyền giáo thuộc Hội Truyền giáo Phuc âm Liên
hiệp (C&MA) đặt chân đến Tourane (nay là Đà Nẵng) để thiết lập cơ
sở truyền giáo tại đây.
Năm 1927, Hội thánh Tin Lành Việt Nam (hỗ trợ bởi Hội
156
Truyền giáo Phuc âm Liên hiệp) được chính thức thành lập. Chính vì
đây là tổ chức thuộc Phong trào Kháng Cách được ra đời sớm nhất tại
Việt Nam nên thuật ngữ "Đạo Tin Lành" cũng thường để chỉ chung về
các nhóm, hệ phái Kháng Cách. Sau đó, các hệ phái Kháng Cách khác
tiếp bước Hội thánh Tin Lành Việt Nam thành lập tổ chức của mình
và nỗ lực rao giảng Phuc Âm, tham gia các hoạt động xã hội tại quốc
gia này.
Theo những ước tính khác nhau, có khoảng từ 1 triệu đến hơn
1,4 triệu tín hữu thuộc cộng đồng Kháng Cách tại Việt Nam. Tin
Lành được xem là một trong những tôn giáo phát triển nhanh và ổn
định nhất tại Việt Nam, và số lượng tín hữu Tin Lành tại miền Bắc
cũng đang gia tăng nhanh chóng.
157
STT Tên Tôn Giáo Tổng (người) Nam (người) Nữ (người)
Tứ Ân Hiếu
8 30.416 15.192 15.224
Nghĩa
Bửu Sơn Kỳ
11 2.975 1.542 1.433
Hương
Tịnh độ cư sĩ
12 Phật hội Việt 2.306 1.080 1.226
Nam
158
STT Tên Tôn Giáo Tổng (người) Nam (người) Nữ (người)
Hiếu Nghĩa Tà
14 401 213 188
Lơn
159
Tài liệu tham khảo
Tài liệu tham khảo chính
1. Anne Cheng (2022), Lịch sử tư tưởng Trung Quốc, Nxb Thế giới.
2. Đỗ Minh Hợp (2009), Tôn giáo phương Đông: Quá khứ và hiện tại, NXB Tôn
giáo.
3. Trần Đình Hượu (2001), Các bài giảng về tư tưởng phương Đông, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội.
4. Nguyễn Gia Phu (1996), Lịch sử tư tưởng Phương Đông và Việt
Nam, Tủ sách ĐHTH TP. Hồ Chí Minh.
Tài liệu tham khảo phụ
5. Nguyễn Văn Dũng (2012), Tôn giáo với đời sống chính trị-xã hội ở
một số nước trên thế giới, Nxb Chính trị Quốc gia.
6. Nguyễn Hồng Dương (2004), Tôn giáo trong mối quan hệ văn hóa
và phát triển ở Việt Nam, Nxb Khoa học - Xã hội.
7. X..Carpusina và Carpusin (2004), Lịch sử văn hóa thế giới, Nxb Thế giới, Hà
Nội.
8. Đỗ Minh Hợp (2009), Tôn giáo học nhập môn, Nxb Tôn giáo.
9. W.Cole Durham, Jr-Brett G.Scharffs, (2010), Law and Religion, Wolters
Kluwer, NY.
10. Lewis M. Hopfe-Mark R. Woodwa (2011), Các tôn giáo trên thế giới, Nxb
Thời đại
11. Hoàng Minh Thảo (2007), Những nền văn minh thế giới, Nxb Văn
hóa Thông tin, H.
12. Lê Sỹ Thắng (CB), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, T.2, Nxb KHXH, HN, 1997.
13. Trần Ngọc Thêm (2000), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục.
14. Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam: Cái
nhìn hệ thống - loại hình, NXB Tp. HCM.
160
15. Ngô Đức Thịnh (2012), Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt
Nam, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
16. Lương Duy Thứ chủ biên (2000), Đại cương văn hóa phương Đông, Nxb
ĐHQG HCM.
17. Nguyễn Tài Thư (CB), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, T.1, Nxb KHXH, HN,
1993.
18. Nguyễn Đăng Thục, Lịch sử triết học phương Đông, Nxb Tp HCM, bộ 5 tập.
19. Trần Quốc Vượng (CB), (1996), Văn hóa học đại cương và cơ sở
văn hóa Việt Nam, Nxb KHXH.
Đà Nẵng, 7/2023. NNC
161