You are on page 1of 12

MỞ ĐẦU

Nhật Bản là nước luôn luôn đứng top đầu trong xếp hạng các quốc gia trên
thế giới, con người nơi đây nổi tiếng với sự thông minh, đức tính cần cù và biết
khắc phục những khó khăn với tinh thần đoàn kết cao, ý thức cộng đồng mà tất
cả thế giới đều phải ngưỡng mộ. Có được điều đó phải nói đến sự quản lý khoa
học và hiệu quả của nền hành chính Nhật Bản, một bộ máy nhà nước được sắp
đặt khá quy cũ và rõ ràng của từng bộ phận. Nền hành chính Nhật Bản có từ lâu
đời và tạo được bước phát triển trong sự quản lí của mình. Hệ thống thể chế
hành chính cụ thể, điều chỉnh chính xác các hành vi trong xã hội và do đó rất
đồ sộ, cồng kềnh và phức tạp. Đội ngũ công chức được đào tạo chuyên nghiệp
và có ý thức phục vụ cao, mở rộng nền hành chính dịch vụ trên toàn quốc, đáp
ứng đầy đủ nhu cầu và nguyện vọng của nhân dân.
1.Khái quát về tổ chức nhà nước Nhật Bản
- Hình thức chính thể của Nhật Bản: quân chủ lập hiến
- Đứng đầu là nhà vua (Hoàng đế) nhưng Thủ tướng là người là người nắm
quyền cao nhất về các phương diện quản lí quốc gia và chịu sự giám sát của hai
viện (Thượng viện và Hạ viện) cùng tòa Hiến pháp có thẩm quyền ngăn chặn
các quyết định vi hiến của chính phủ.
- Thiên hoàng cũng thực hiện việc bổ nhiệm Thủ tướng và Chánh án Toà án
Tối cao theo chỉ định của Quốc hội và Nội các.
* Cấu trúc Nhà nước Trung ương Nhật Bản
- Gồm Cơ quan lập pháp - Nghị viện hoặc Quốc hội, Cơ quan hành pháp -
Nội các và Cơ quan tư pháp - Tòa án
1.1. Cơ quan lập pháp - Nghị viện hoặc Quốc hội
- Là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan duy nhất thực hiện quyền
lập pháp và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước như thông qua ngân
sách quốc gia hàng năm, phê chuẩn các điều ước quốc tế, kiến nghị sửa đổi
Hiến pháp
- Quốc hội gồm: Hạ viện và Thượng viện
Trong đó:
+ Hạ viện đại diện cho ý kiến và nguyện vọng của nhân dân; nhiệm kì 4
năm. Các ứng cử viên bầu vào Hạ viện phải từ 25 tuổi trở lên. Hạ viện có thể
bị giải tán trước khi kết thúc nhiệm kỳ.
+ Thượng viện giám sát quyền lực và sự phán quyết của Hạ viện; nhiệm kì
6 năm. Các ứng cử viên để bầu vào Thượng viện phải trên 30 tuổi. Thượng
viên không bị giải thể như Hạ viện.
- Quốc hội Nhật Bản có quyền bổ nhiệm Thủ tướng, thông thường là đại
biểu của chính đảng hoặc liên minh chính đảng thắng cử. Thủ tướng có quyền
giải tán và bầu lại Hạ viện. Mặt khác, Hạ viện có quyền giải tán Nội các bằng
một cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm hoặc từ chối bỏ phiếu tín nhiệm Nội các. Nếu
Hạ viện thông qua nghị quyết không tín nhiệm hoặc từ chối bỏ phiếu tín nhiệm
Nội các thì toàn bộ Nội các, bao gồm cả Thủ tướng phải từ chức. Nội các vẫn
phải điều hành công việc cho đến khi có một Thủ tướng mới được bổ nhiệm.
Trong quan hệ giữa hai viện của Quốc hội Nhật Bản, Hạ viện có ưu thế hơn
Thượng viện. Trong trường hợp các quyết định được đưa ra Quốc hội mà
không đạt được sự thống nhất ý kiến giữa hai viện thì quyền quyết định cuối
cùng thuộc về Hạ viện.
1.2. Cơ quan hành pháp - Nội các
- Ngoài ra, Nội các còn còn có Hội đồng Kiểm toán. Hội đồng Kiểm
toán là một tổ chức độc lập theo Hiến pháp, có chức năng kiểm toán báo cáo
quyết toán của Nhà nước, của các tập đoàn và cơ quan khác trực thuộc bộ
máy nhà nước Nhật Bản.
- Đứng đầu là Thủ tướng; giúp việc cho Thủ tướng là các bộ trưởng. Theo
Hiến pháp Nhật Bản, Thủ tướng do Quốc hội bổ nhiệm, các bộ trưởng được
Thủ tướng lựa chọn và bổ nhiệm.
- Phần lớn thành viên của Nội các, bao gồm cả Thủ tướng phải là đại biểu
của một trong hai viện Quốc hội. Theo Luật Nội các năm 2001, số lượng bộ
trưởng không được quá 14 người, tuy nhiên, trong trường hợp đặc biệt có thể
lên đến 17 người.
- Thủ tướng Nhật Bản thường tại vị trong thời gian ngắn (trung bình mỗi
Thủ tướng chỉ tại vị được 2,5 năm). Chánh án Tòa án Tối cao được Thiên
hoàng bổ nhiệm theo lựa chọn của Nội các. Mười bốn thẩm phán khác được
Nội các lựa chọn và bổ nhiệm. Cứ sau 10 năm, nhiệm kỳ của một thẩm phán
phải được xác nhận bằng trưng cầu dân ý. Trong thực tế, các thẩm phán hầu
như luôn được chọn lại và được phép phục vụ cho đến 70 tuổi.
1.3. Cơ quan Tư pháp - Tòa Án
- Gồm Tòa án tối cao, 8 Tòa án cấp cao, 50 Tòa án quận, 50 Tòa án gia đình ,
và 438 Tòa án sơ thẩm giải quyết các vụ việc nhỏ, đơn giản, thủ tục nhanh
gọn. Nhật Bản không có Tòa án Hiến pháp.
- Chánh án của Tòa án Tối cao được bổ nhiệm bởi Thiên Hoàng theo chỉ định
của Nội cá nhằm nhấn mạnh địa vị của Tòa án là độc lập với chính phủ
được bầu. Các Thẩm phán của các toà án cấp dưới được Nội các bổ nhiệm từ
danh sách các ứng viên do Toà án Tối cao đề cử.
- Đối với các vụ kiện liên quan đến vi hiến, được giải quyết theo vụ việc cụ
thể. Đầu tiên, có thể khởi kiện tại Tòa án địa phương, nếu không thuyết phục,
có thể kiện lên Tòa án cấp cao. Tòa án tối cao sẽ kết luận vụ việc có vi hiến hay
không
2. Quá trình cải cách nền hành chính của Nhật Bản
2.1. Nguyên nhân thúc đẩy và phương pháp cải cách nền hành chính
của Nhật Bản
 Nguyên nhân thúc đẩy cải cách nền hành chính của Nhật Bản

Trong thế chiến hai, đất nước Nhật Bản đã bị tàn phá nặng nề. Vì vậy, khi
chiến tranh kết thúc, xứ sở mặt trời mọc đứng trước áp lực phải nhanh chóng
khôi phục đất nước.
Do vậy, Nhiệm vụ cải cách trong giai đoạn này là hướng vào các giải pháp
khẩn cấp để đối phó vối tình trạng khủng hoảng kinh tế và thiết lập cơ cấu
chính quyền mới, trong đó xây dựng thể chế được xác định là khâu ưu tiên
hàng đầu. Chính vì vậy người Nhật gọi cải cách nhà nước thời kỳ này là cải
cách về mặt thể chế. Quá trình cải cách hành chính ở Nhật Bản cơ bản gồm ba
giai đoạn: từ sau Chiến tranh thế giới thứ Hai đến đầu những năm 60; từ đầu
những năm 60 đến cuối những năm 70; và từ năm 1980 (khi thành lập Uỷ ban
Cải cách hành chính lần thứ hai) đến nay.
Giai đoạn từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến đầu năm 1960:
Nhật Bản ban hành Hiến pháp mới (ngày 03/5/1947) để thu hẹp vai trò của nhà
vua, thay đổi mối quan hệ giữa Nội các với Quốc hội, quy định tính chất độc
lập của cơ quan tư pháp, tổ chức lại hệ thống hành chính địa phương theo
nguyên tắc áp dụng chế độ nhân dân trực tiếp bầu người đứng đầu. Các cơ quan
mới được thành lập như Bộ Tự trị (làm trung gian chính quyền nhà nước và
điều tiết mối quan hệ giữa các cơ quan hành chính với nhau), Tổng cục Quy
hoạch kinh tế, Tổng cục Khoa học - Kỹ thuật, Ủy ban Năng lượng nguyên tử,
Cục Lương hưu và các tập đoàn kinh tế nhà nước. Xóa bỏ hoàn toàn bộ máy
hành chính thời chiến.
Giai đoạn những năm 1960 - 1970: trong giai đoạn này, nền hành
chính bị tụt hậu so với sự phát triển kinh tế - xã hội. Trước tình hình đó, Thủ
tướng Ikeda Hoyata đề ra chủ trương cải cách triệt để. Theo đó, Ủy ban Cải
cách hành chính lâm thời (Rincho) lần thứ nhất được thành lập vào tháng
02/1962 gồm 07 thành viên là những nhà hoạt động chính trị và chuyên gia
giàu kinh nghiệm, có uy tín, đưa ra kế hoạch tổng thể về CCHC gồm 16
khuyến nghị cụ thể, trọng tâm là cải cách hệ thống bộ máy hành chính nhà
nước, giảm thiểu số lượng biên chế.
Chính phủ yêu cầu tất cả cơ quan hành chính nhà nước phải rà soát lại chức
năng, nhiệm vụ của mình để trên cơ sở đó tiến hành điều chỉnh, sắp xếp lại phù
hợp, đặc biệt là các cơ quan có chức năng tổng hợp như Bộ Tài chính, Bộ Công
Thương. Đến năm 1968, đã giảm 18 vụ, cục và trên 16.300 biên chế ở các
bộ(1). Nội các liên tục chỉ đạo các bộ thực hiện những khuyến nghị của Uỷ ban
cải cách hành chính lâm thời của Nhật Bản, đã cố gắng giảm số lượng các cơ
quan tư vấn theo luật định từ 277 cơ quan vào năm 1965 xuống còn 212 cơ
quan vào năm 1978(2). Tháng 5/1969, Luật về số lượng công chức, viên chức
trong các cơ quan hành chính nhà nước được thông qua, tạo cơ sở pháp lý để
giám sát quá trình quản lý và sử dụng công chức, viên chức, ngăn ngừa tình
trạng “phình biên chế” đang có xu hướng phổ biến ở nhiều cơ quan của Chính
phủ.
Giai đoạn những năm 1980 đến nay: đầu những năm 80 của thế kỷ XX, sự
chuyển dịch của chiến lược kinh tế lấy nhu cầu trong nước làm động lực tăng
trưởng khiến nhiều giải pháp điều hành trong giai đoạn trước của Chính phủ tỏ
ra không thực sự hiệu quả. Chính phủ Nhật Bản đề ra chủ trương đưa CCHC đi
vào chiều sâu với những trọng tâm ưu tiên: cắt giảm chi phí hành chính để hạn
chế thâm hụt ngân sách; giảm biên chế viên chức hành chính đi đôi với chương
trình cải cách lương hưu; giảm thiểu số lượng các tổ chức kinh tế nhà nước và
hợp lý hóa công tác quản lý, tập trung đơn giản hóa các thủ tục hành chính. Ủy
ban Cải cách hành chính lần thứ hai được thành lập vào tháng 03/1981 với 09
thành viên thường xuyên để xử lý nỗ lực cải cách tổng thể và 21 thành viên
chuyên môn để xử lý kế hoạch cụ thể(3). Ủy ban đã đề xuất một số biện pháp
CCHC, bao gồm xem xét lại cơ bản các hệ thống, chính sách và lĩnh vực trách
nhiệm hành chính.
 Nguyên nhân thúc đẩy cải cách nền hành chính của Nhật Bản
Nhật Bản tiến hành cuộc cải cách này với những lý do : Thứ nhất,sau những
thành công rực rỡ về kinh tế, Nhật bản có tâm lý chung là ỷ lại , các đơn vị
hành chính cấp dưới chờ đợi cấp trên, thiếu chủ động, không dám tự quyết ,
nhân dân cũng có tâm lý ỷ lại vào nhà nước.
Thứ hai,trong nội bộ đảng cầm quyền có sự phân hóa sâu sắc, chia thành
nhiều phe phái, mỗi phe phái có thủ lĩnh riêng. Vì sự tồn tại của mình, thủ
tướng luôn coi trọng mối quan hệ giữa các phe phái trong đảng và làm sao cố
gắng giữ mối quan hệ hài hòa giữa họ. Mặt khác, theo cơ chế hiện hành, chủ
tịch đảng cầm quyền đương nhiên sẽ trở thành thủ tướng, làm cho thủ tướng
luôn có những hạn chế nhất định.
Thứ ba,bản thân nền hành chính Nhật Bản cũng có những hạn chế nhất định,
nhất là sự chia rẽ theo ngành dọc. Mỗi bộ dường như là một lãnh địa riêng. Các
chính trị gia cũng có những quyền lợi riêng trong việc hoạch định chính
sách .Trên thực tế, trong Chính phủ Nhật Bản hiện nay hình thành các nhóm lợi
ích cục bộ. Nền hành chính Nhật Bản vì thế, được đánh giá là không thông
suốt, thiếu ổn định và thiếu khả năng thay đổi chính sách một cách hiệu quả,
thiếu khả năng phản ứng nhanh trong các tình huống cấp bách về thiên tai,
chưa nói đến những vấn đề lớn khác như an ninh, quốc phòng.
Thú tư,giảm chi tiêu công. Những vấn đề trên đặt ra yêu cầu về một cuộc cải
cách lớn nhằm nâng cao tinh thần tự lập, giảm bớt sự ỷ lại vào chính phủ; tăng
cường vai trò lãnh đạo, kiểm soát của thủ tướng đối với các phe phái trong
đảng cầm quyền và đối với nền hành chính, đồng thời, xây dựng bộ máy chính
phủ gọn nhẹ, minh bạch và hiệu quả hơn.
 Phương pháp cải cách nền hành chính của Nhật Bản
Mục tiêu cải cách của Nhật Bản là xây dựng một chính phủ có BMHC gọn
nhẹ, hiệu quả cao nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Thủ tướng và nội các.
Phương pháp thực hiện là tổ chức lại và giảm số lượng các Bộ, xây dựng hệ
thống các CQHC độc lập, quy định rõ phạm vi thẩm quyền và nâng cao hiệu
quả việc phối hợp công tác giữa các cơ quan; thiết lập một hệ thống tiêu chí
nhằm đánh giá các chính sách, tách bộ phận hoạch định chính sách khỏi các cơ
quan có chức năng tổ chức, đẩy mạnh tư nhân hóa, thuê khoán bên ngoài một
loạt dịch vụ…
2.2. Các thành tựu và thách thức trong quá trình cải cách
 Các thành tựu trong quá trình cải cách
Một số kết quả đạt được
Một là, tăng cường chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của nội các và
thủ tướng
Điều này được thực hiện thông qua việc bổ sung, sửa đổi luật về nội các với
các quy định nâng cao vai trò của phủ nội các so với các bộ , đồng thời , cũng
nhằm tăng cường quyển lực và khả năng kiểm soát của thủ tướng đối với các
bộ .
Phủ nội các có hai cơ quan khác nhau: ban thư ký nội các và văn phòng nội
các, đều có chức năng giúp việc cho thủ tướng, quan hệ chặt chẽ với nhau,
trong đó , văn phòng nội các là cơ quan hỗ trợ hành chính cho ban thư ký nội
các:
- Ban thư ký nội các là cơ quan hoạch định và điều phối có quyền lực để hỗ trợ
trực tiếp cho thủ tướng, hoạch định các chính sách cơ bản để quản lý đất nước,
chịu trách nhiệm về chương trình nghị sự của nội các và những vấn đề chung
liên quan đến nội các,
- Văn phòng nội các là cơ quan hành chính có vai trò kép. Một mặt, có trách
nhiệm hỗ trợ cho nội các (trong vai trò này, văn phòng nội các có vị trí cao hơn
so với các bộ), mặt khác, văn phòng nội các được xếp ngang các bộ trong việc
tiếp nhận, xử lý các vấn đề của các cơ quan trong bộ máy hành chính.
Quyền lực và khả năng kiểm soát của thủ tướng đối với các bộ cũng được nâng
lên. Thủ tướng có thể khởi xướng các chính sách và thông qua ban thư ký nội
các cùng văn phòng nội các.
Đây là những biện pháp nhằm tập trung quyền lãnh đạo, tăng cường vai trò của
thủ tướng. Trước đây, các chính sách nói chung được đề xuất từ các bộ, đến
nay những chính sách quan trọng có tầm chiến lược chủyếu sẽ được đề xuất từ
thủ tướng.
Hai là, tinh giản bộ máy hành chính.
Qua hai lần cải cách, bộ máy chính phủ ở trung ương đã được thu gọn đáng kể.
Lẩn thứ nhất giảm từ 24 đầu mối xuống còn 13 đầu mối (12 bộ và văn phòng).
Lần thứ hai giảm xuống còn 10 đầu mối (bao gồm: Bộ Quản lý công cộng, nội
vụ và bưu chính viễn thông; Bộ Đất đai, cơ sở hạ tầng và vận tải; Bộ Tư pháp;
Bộ Ngoại giao; Bộ Tài chính; Bộ Giáo dục, văn hóa, thể thao, khoa học và
công nghệ; Bộ Y tế, lao động và phúc lợi; Bộ Nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư
nghiệp; Bộ Kinh tế, thương mại và công nghiệp; Bộ Môi trường). Ủy ban An
toàn công cộng quốc gia và Cục Phòng vệ được đưa về trực thuộc văn phòng
nội các.
Cùng với việc thu gọn các bộ, Nhật Bản cũng đã tiến hành giảm đáng kể số
lượng các tổ chức bên trong của các bộ thông qua việc chuyển một số cơ quan
của chính phủ thành cơ quan hành chính độc lập ngoài bộ hoặc tư nhân hóa. Cụ
thể, từ 128 đơn vị cấp vụ, cục và tương đương thuộc các cơ quan hành chính
trước đây, nay đã giảm xuống còn 96 đơn vị, từ 1.600 đơn vị cấp phòng và
tương đương thuộc các cơ quan, tổ chức này giảm xuống còn 995 đơn vị.
Ba là, thu tục hành chínhđược tinh gián và minh bạch hóa
Tháng 11 - 1993, Nhật Bản đã ban hành Luật Thủ tục hành chính. Đây là cơ sở
pháp lý quan trọng để đảm bảo lợi ích của các cá nhân, tổ thúc khi tham gia vào
quan hệ hành chính, giúp cho việc giải quyết các thủ tục hành chính đạt hiệu
quả hơn. Sự xuất hiện của đạo luật này đã góp phần nâng cao chất lượng và khả
năng cạnh tranh của Nhật Bản, giúp giảm thiểu các thủ tục hành chính và mở
rộng cơ hội tiếp cận với các quy định quốc tế trong lĩnh vực hành chính có liên
quan.
Tính đến nay, Chính phủ Nhật Bản đã áp dụng khá nhiều giải pháp nhằm giảm
bớt các thủ tục hành chính và minh bạch hóa các hoạt động hành chính, chẳng
hạn như coi trọng các ý kiến tư vấn, đóng góp của các hiệp hội nghề nghiệp,
các nhà chính trị, hành chính và dân chúng về cải cách thủ tục hành chính. Từ
năm 2003 đưa vào sử dụng hệ thống thủ tục hành thính không dùng giấy tờ
(No-Action-Letter) để giúp cho hoạt động kinh doanh trở nên thuận lợi, hiệu
quả hơn, nhất là trong xuất nhập khẩu và đầu tư sử dụng các phương tiện thông
tin hiện đại, hệ thống Internet trong giải quyết thủ tục hành chính; cải cách thủ
tục hải quan, đặc biệt là mô hình một cửa trong xuất nhập khẩu, thông quan
hàng hóa, nhanh chóng chuẩn hóa các thủ tục và tiêu thuần theo thông lệ quốc
tế trong kinh tế và các lĩnh vục khác.
Bốn là,phân quyền và cải cách chính quyền địa phương
Nhật Bản đã tiến hành sắp xếp lại các tỉnh, thành, cơ quan tự quản với mục
đích hợp nhất các tỉnh hiện có thành 7 - 9 tiểu bang để cơ cấu lại chính quyền 2
cấp vấn được hình thành từ sau Thế chiến thứ II, đáp ứng yêu cầu của tình hình
mới, tạo ra những cơ quan tự quản xử lý các công việc hành chính, “thực hiện
dân giàu nước mạnh và đóng góp tích cực cho cộng đồng quốc để”.
Năm là, nâng cao phẩm chất, đạo đức công chức
Chuẩn mực đạo đức trong nền công vụ đã trở thành một nội dung thiết yếu đối
với nền hành chính công của Nhật Bản. Từ rất sớm, nhằm góp phần ngăn chặn
tệ quan liêu, tham nhũng và sự suy giảm lòng tin của công chúng đối với nền
hành chính công, thể chế công vụ Nhật Bản đã được thiết kế hệ thống quản lý
đạo đức phù hợp. Theo đó, Chính phủ Nhật Bản đã xây dựng hai đạo luật rất
quan trọng liên quan đến công chức là Luật Công chức và Luật Đạo đức công
chức. Trên thực tế, phẩm chất, đạo đức và ý thức công dân của công chức, cũng
như việc bồi dưỡng, nâng cao phẩm chất, đạo đức công chức là những vấn đề
mà Chính phủ Nhật Bản hết sức quan tâm.
 Thách thức trong quá trình cải cách
Bên cạnh những kết quả tích cực đạt được, thực tế cải cách, đặc biệt là cải cách
bộ máy đã phát sinh những mâu thuẫn mới. Đáng chú ý là cơ chế phân cấp
mạnh cùng với việc đề cao và tăng cường tính tự quản của chính quyền địa
phương đã làm tình trạng cát cứ, tùy tiện, khuynh hướng muốn thoát ly sự kiểm
soát của trung ương ngày càng gia tăng. Để kịp thời khắc phục tình trạng này,
chương trình cải cách hành chính của Nhật Bản trong giai đoạn 3 đã có những
sự điều chỉnh quan trọng.
Tháng 6/1998, đạo Luật về cải cách cơ cấu chính phủ được thông qua. Tiếp đó,
gần 20 đạo luật về tổ chức hoạt động của các cơ quan chính phủ được ban
hành. Với mục tiêu xây dựng bộ máy chính phủ gọn nhẹ, hiệu quả, minh bạch,
cơ cấu chính phủ được thu gọn từ 24 bộ xuống còn 12 bộ, cơ cấu bên trong của
các bộ cũng được thu gọn.
Cùng với việc tăng cường vai trò kiểm soát của trung ương đối với hoạt động
của chính quyền địa phương, chính phủ trao thêm thẩm quyền cho các cơ quan
trực tiếp tham mưu cho thủ tướng để thực hiện chức năng điều hành và giám
sát, trong đó có việc đưa một loạt các cơ quan về trực thuộc Văn phòng Nội
các, như Cục Phòng vệ, Cơ quan Giám sát tài chính, Cục Nhân sự quốc gia,
Cục An toàn công cộng quốc gia…
2.3. Vai trò của chính phủ, các cơ quan quản lý và xã hội dân sự
trong quá trình cải cách
1. Vai trò của Chính phủ:
- Lãnh đạo và quyết định chính sách: Chính phủ đóng vai trò quan trọng trong
việc lãnh đạo và đưa ra các quyết định chính sách cần thiết để thúc đẩy quá
trình cải cách hành chính.

- Tạo điều kiện và hỗ trợ: Chính phủ cần tạo ra môi trường thuận lợi và cung
cấp hỗ trợ cần thiết cho các cơ quan quản lý và xã hội dân sự tham gia vào quá
trình cải cách.
- Đảm bảo thực hiện và đánh giá: Chính phủ có trách nhiệm đảm bảo rằng các
biện pháp cải cách được thực hiện đúng thời hạn và đánh giá hiệu quả của quá
trình cải cách.
2. Vai trò của Các cơ quan quản lý:
- Thực thi chính sách: Các cơ quan quản lý có trách nhiệm thực thi chính sách
và biện pháp cải cách hành chính được đưa ra bởi chính phủ.

- Đổi mới và cải thiện quy trình: Các cơ quan quản lý cần đổi mới và cải thiện
quy trình làm việc để tăng cường hiệu quả và năng suất trong cung cấp dịch vụ
công.
- Hợp tác và truyền đạt thông tin: Các cơ quan quản lý cần hợp tác chặt chẽ với
chính phủ và xã hội dân sự, đồng thời truyền đạt thông tin một cách minh bạch
và đồng nhất.
3. Vai trò của Xã hội dân sự:
- Đóng góp ý kiến và phản biện: Xã hội dân sự có vai trò quan trọng trong việc
đóng góp ý kiến, phản biện và đưa ra đề xuất cải cách hành chính.
- Giám sát và theo dõi: Xã hội dân sự có thể giám sát và theo dõi quá trình cải
cách hành chính để đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả của các biện pháp cải
cách.
- Tham gia và hỗ trợ. Xã hội dân sự có thể tham gia vào quá trình cải cách hành
chính và cung cấp hỗ trợ cần thiết để đạt được mục tiêu cải cách.
Sự hợp tác chặt chẽ giữa chính phủ, các cơ quan quản lý và xã hội dân sự là rất
quan trọng trong quá trình cải cách hành chính của Nhật Bản, giúp tạo ra môi
trường làm việc tích cực và hiệu quả để thúc đẩy sự phát triển và cải cách của
đất nước.
3. Một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Dù vẫn còn không ít những vấn đề tồn tại, song cải cách hành chính của
Nhật Bản đã thu được những kết quả đáng khích lệ. Nhìn lại tiến trình cải cách
hành chính của Nhật Bản Việt Nam có thể rút ra được một số bài học kinh
nghiệm sau đây.

Thứ nhất, cải cách hành chính tiếp tục phải đặt dưới sự lãnh đạo trực
tiếp, toàn diện của các cấp ủy Đảng, sự quản lý điều hành của chính quyền và
sự tham gia tuyên truyền, vận động và giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và các đoàn thể quần chúng. Cần nâng cao
nhận thức của các cấp, các ngành về mục tiêu, ý nghĩa, tầm quan trọng
của cải cách hành chính đối với công cuộc xây dựng và phát triển đất
nước. Từ đó, coi trọng công tác tuyên truyền, quán triệt sâu rộng các chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về cải cách hành
chính đối với các cấp chính quyền và toàn thể nhân dân để tạo ra sự đồng
thuận chung trong toàn xã hội về thực hiện các nhiệm vụ cải cách hành
chính; xác định những lợi ích thiết thực, hiệu quả mà công cuộc cải cách hành
chính đem lại cho người dân, tổ chức, doanh nghiệp.

Thứ hai, phải xác định cải cách hành chính là nhiệm vụ trọng tâm
thường xuyên, lâu dài gắn với công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính
quyền các cấp trong sạch, vững mạnh. Bảo đảm sự nhất quán, kiên trì, liên tục,
có đổi mới, sáng tạo, theo định hướng trong triển khai cải cách hành chính của
Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương và các địa phương. Duy trì và tăng
cường công tác chỉ đạo triển khai thực hiện cải cách hành chính thống nhất,
đồng bộ từ Chính phủ tới chính quyền địa phương các cấp. Thực hiện cải cách
hành chính phải đồng bộ với từng bước đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng, cải cách kinh tế, cải cách lập pháp và cải cách
tư pháp.

Thứ ba ,nhằm đảm bảo tính hiệu quả, cải cách hành chính cần được bắt
đầu từ khâu xây dụng thể chế. Cụ thể là không chỉ chủ trương, chính sách
mà cả các giải pháp thực hiện phải được "thể chế hóa" theo nguyên tắc
nhất quán từ trên xuống nhằm tạo ra cơ sở pháp lý cần thiết trong việc thục
hiện các mục tiêu đề ra. Đặc biệt, cần thực hiện nhất quán chính sách phân cấp,
coi việc phân cấp mạnh cho chính quyền địa phương là điều kiện phát huy nội
lực để thúc đẩy tiến trình cải cách hành chính công.

Thứ tư, xây dựng, đào tạo đội ngũ công chức nhà nước đủ năng lực, có
khả năng đáp ứng được các yêu cầu ngày càng cao trong giai đoạn mới.
Việc xây dựng được đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước đủ năng lực chuyên
môn, tinh thần thái độ, có trách nhiệm trong thực hiện công vụ có vai trò rất
quan trong trong thành công của cải cách. Nhu cầu cần đáp ứng của xã hội
ngày càng cao và đa dạng, vì vậy đội ngũ cán bộ, công chức cần được thường
xuyên đào tạo, nâng cao trình độ, nâng cao năng lực thực hành, kỹ năng giải
quyết các vấn đề mới mà thực tiễn luôn đặt ra. Việc đưa ra các quyết sách phù
hợp với từng ngành, từng địa phương, với từng hoàn cảnh và điều kiện, trên cơ
sở các mục tiêu chung, đòi hỏi cán bộ, công chức phải có năng lực phù hợp và
liên tục được tăng cường.

Thứ năm, tăng cường hơn nữa vai trò, trách nhiệm và quyết tâm chính
trị của người đứng đầu cơ quan hành chính các cấp, của đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức trong từng cơ quan, đơn vị, phải xác định mọi việc vì
lợi ích thiết thực, đặt lợi ích của người dân lên hàng đầu là điều kiện quan
trọng đảm bảo sự thành công của cải cách hành chính. Người đứng đầu cơ quan
hành chính các cấp phải thực hiện nghiêm túc việc tiếp dân định kỳ hoặc đột
xuất để tiếp nhận thông tin, lắng nghe, đối thoại trực tiếp và xử lý những phản
ánh, kiến nghị của nhân dân.

Thứ sáu, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, theo dõi,
đánh giá quá trình triển khai thực hiện công tác cải cách hành chính. Coi
trọng thí điểm, tổng kết, nhân rộng những mô hình, sáng kiến trong cải cách
hành chính. Chú trọng việc đánh giá, biểu dương những cơ quan đơn vị cá nhân
thực hiện tốt và xử lý nghiêm các cá nhân, đơn vị vi phạm.

Thứ bảy, tăng cường đầu tư xây dựng, phát triển cơ sở kỹ thuật hạ
tầng phục vụ nền hành chính quốc gia. Trong thời đại internet, cùng với việc
khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão là xu thế hội nhập quốc tế thì tăng
cường đầu tư xây dựng, phát triển cơ sở kỹ thuật hạ tầng phục vụ nền hành
chính cần được coi như một trong các giải pháp quan trọng hàng đầu để nâng
cao hiệu quả, hiệu lực của BMHC nhà nước.

Thứ tám, vận dụng các bài học kinh nghiệm, tăng cường giao lưu hợp
tác quốc tế về CCHC. Các quốc gia tiến hành cải cách nền hành chính đều
nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về CCHC, mặc dù không có khuôn mẫu hay
trình tự nhất định cho CCHC của từng nước, tuy nhiên việc cử các tổ chức, cá
nhân đi nghiên cứu học tập CCHC tại các quốc gia đã tiến hành cải cách để về
vận dụng vào nước mình là việc làm rất cần thiết.

KẾT LUẬN
Với sự nổ lực và quyết tâm của những người lãnh đạo và dân chúng cải cách
hành chính ở Nhật Bản đã thu được kết quả khá tốt. Điểm hết sức quan trọng là
cải cách hành chính ở Nhật Bản đã chuyển từ số lượng sang chất lượng trong
môi trường thị trường mở. Thực tế cải cách hành chính của Nhật Bản vẫn còn
nhiều vấn đề tồn tại. Song, những kinh nghiệm cải cách thời gian qua của Nhật
Bản sẽ là những bài học bổ ích cho công cuộc cải cách hành chính của Việt
Nam hiện nay và trong tương lai.

You might also like