You are on page 1of 7

1. Trình bày mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân.

*Khái niệm, cách thức thành lập:


+ HĐND: là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và
quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa
phương và cơ quan Nhà nước cấp trên. HĐND do dân bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm theo nguyên tắc phổ
thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín (Điều 113 Hiến pháp 2013).
+ Ủy ban nhân dân ở cấp chính quyền địa phương do HĐND cùng cấp bầu là cơ quan chấp hành
của HĐND, cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước HĐND và cơ quan
hành chính Nhà nước cấp trên (Điều 114 Hiến pháp 2013).
*Trong cách thức tổ chức:
+ HĐND là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền
làm chủ của nhân dân địa phương, HĐND được coi là một bộ phận hợp thành quyền lực Nhà nước
chung từ trung ương đến địa phương cùng với UBND.
+ UBND là một cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương, đồng thời là một cơ cấu thuộc
HĐND với nhiệm vụ chính là “chấp hành” HĐND đồng thời được giao thực hiện các nhiệm vụ quản lý
hành chính Nhà nước ở địa phương.
=> Vậy cả hai cơ quan này đều thuộc cơ cấu chính quyền địa phương thống nhất, cùng có chức
năng quản lý địa phương theo quy định của pháp luật, tuy nhiên hiện tại giữa UBND và HĐND vẫn
còn sự phân định bởi: UBND là cơ quan trực thuộc hai chiều vừa trực thuộc HĐND, vừa trực thuộc cơ
quan hành chính Nhà nước cấp trên (UBND cấp trên). Nên UBND có tính độc lập tương đối không lệ
thuộc hoàn toàn vào HĐND. HĐND và UBND được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung
dân chủ thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mình theo hiến pháp, Luật và các văn bản của cơ Nhà
nước cấp trên.
*Trong hoạt động:
Chính vì mối quan hệ đặc biệt của HĐND và UBND trong cách thức thành lập nên hoạt động của
hai cơ quan này cũng có mối quan hệ mật thiết với nhau, thể hiện như sau:
– HĐND có quyền giám sát đối với hoạt động của UBND cùng cấp;
UBND chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước HĐND cùng cấp và trước cơ quan hành chính
Nhà nước cấp trên trực tiếp.
UBND còn có trách nhiệm cung cấp tài liệu liên quan đến hoạt động giám sát khi HĐND có yêu
cầu.
– UBND còn phối hợp với thường trực HĐND và các ban của HĐND cùng cấp chuẩn bị nội dung
báo cáo trước các kì họp để HĐND xem xét, quyết định.
– HĐND có quyền bỏ phiếu tín nhiệm đối với các thành viên trong UBND.

1
– Khi quyết định những vấn đề thuộc nhiệm vụ quyền hạn của mình HĐND ra nghị quyết và
giám sát việc thực hiện nghị quyết đó của UBND. Trong phạm vi quyền hạn do pháp luật quy định,
UBND ra quyết định chỉ thị và tổ chức thực hiện kiểm tra việc thi hành các văn bản đó. Các văn bản
của UBND ban hành không được trái với nghị quyết của HĐND cùng cấp và các văn bản của cơ quan
Nhà nước cấp trên các quyết định của UBND mà không thích đáng thì HĐND có quyền sửa đổi hoặc
bãi bỏ.
– Trong hoạt động của mình, HĐND và UBND phối hợp chặt chẽ với Mặt trận tổ quốc VN và
các tổ chức thành viên của mặt trận, các tổ chức xã hội khác chăm lo và bảo vệ lợi ích của nhân dân
vận động nhân dân tham gia vào việc quản lý Nhà nước.
– Nhiệm kì của UBND theo nhiệm kì của HĐND cùng cấp (5 năm).
– Trong nhiệm kì hoạt động của HĐND được bảo đảm bằng hiệu quả của các kì họp HĐND, hiệu
quả hoạt động của thường trực HĐND các ban của HĐND, các đại biểu của HĐND còn hiệu quả hoạt
động của UBND được bảo đảm bằng hiệu quả hoạt động của tập thể UBND, chủ tịch UBND các thành
viên khác của UBND và các cơ quan chuyên môn thuộc UBND.
2. Anh (Chị) hãy giải thích vì sao Ủy ban nhân dân được tổ chức và hoạt động theo nguyên
tắc “trực thuộc hai chiều” và hãy cho biết Luật Tổ chức Chính quyền địa phương 2015 đã có
những quy định mới nào để khắc phục bất cập trong việc vận hành Ủy ban nhân dân theo
nguyên tắc này?
 Chứng minh UBND tổ chức theo nguyên tắc trực thuộc hai chiều
Về chiều ngang: Ủy ban nhân dân trực thuộc Hội đồng nhân dân cùng cấp để làm rõ điều này
chúng ta sẽ bám sát theo ba vấn đề về tổ chức, về hoạt động, về kiểm tra giám sát:
+ Về mặt tổ chức: Hội đồng nhân dân thành lập ra Ủy ban nhân dân cùng cấp, nội dung này
chúng ta đã nghiên cứu trong phần HĐND. Cụ thể, Hội đồng nhân dân bầu các thành viên của Ủy ban
Nhân dân gồm: Chủ tịch Ủy ban nhân dân, các phó Chủ tịch và Ủy viên Ủy ban nhân dân.
+Về hoạt động: Ủy ban nhân dân chấp hành các nghị quyết của Hội đồng nhân dân
+ Về giám sát: Ủy ban nhân dân phải báo cáo công tác chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân
đồng thời chịu sự giám sát của Hội đồng nhân dân.
Về chiều dọc: Ủy ban nhân dân trực thuộc Ủy ban nhân dân cấp trên trực tiếp để làm rõ điều này
chúng ta bám sát theo ba vấn đề về tổ chức, về hoạt động và về kiểm tra giám sát:
+Về mặt tổ chức: kết quả bầu đối với Chủ tịch, phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp dưới phải
được Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp trên trực tiếp phê chuẩn (đối với cấp tỉnh thuộc thẩm quyền phê
chuẩn của Thủ tướng Chính phủ).
+Về hoạt động: Ủy ban nhân dân chịu sự chỉ đạo đôn đốc hoạt động công tác của Ủy ban nhân
dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp trên.
+Về kiểm tra giám sát: phương diện này được thể hiện thông qua 3 nội dung sau đây:
2
-Thứ nhất, Ủy ban nhân dân chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Ủy ban nhân dân cấp
trên. 
-Thứ hai, về việc xử lý nhân sự Ủy ban nhân dân cấp dưới, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp trên có
quyền phê chuẩn kết quả miễn nhiệm, bãi nhiệm, điều động, đình chỉ công tác, cách chức đối với Chủ
tịch Ủy ban nhân dân, phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp dưới (đối với cấp tỉnh thuộc thẩm quyền của
Thủ tướng Chính phủ).
- Thứ ba là về xử lý văn bản trái pháp luật. Cụ thể:
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp trên có quyền đình chỉ, bãi bỏ văn bản trái pháp luật của Ủy ban
nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp dưới trực tiếp. Lưu ý: đây là thẩm quyền của cá nhân Chủ
tịch Ủy ban nhân dân chứ không phải là thẩm quyền của Ủy ban nhân dân (Điều 22, 29 LTCCQ
2015).

 Vì sao Ủy ban nhân dân được tổ chức theo nguyên tắc trực thuộc hai chiều
 Trực thuộc theo chiều ngang: tạo điều kiện cho các địa phương phát huy dân chủ thế mạnh của
các địa phương để hoàn thành nhiệm vụ và cấp trên đã giao phó.
Trực thuộc theo chiều dọc: nhằm giúp cho cấp trên có thể tập trung quyền lực nhà nước để chỉ
đạo hoạt động của cấp dưới, nhằm bảo đảm sự thống nhất trong hệ thống cơ quan hành chính nhà
nước.
Nhìn chung lý do Ủy ban nhân dân được tổ chức theo nguyên tắc trực thuộc hai chiều là để nhằm
bảo đảm sự thống nhất giữa lợi ích của cả nước với lợi ích của địa phương.

 Những quy định mới nào để khắc phục bất cập trong việc vận hành Ủy ban nhân dân
theo nguyên tắc này
+ Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 mở rộng ủy viên Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
cấp huyện là người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cùng cấp có ý nghĩa sau
đây:
- Phát huy trí tuệ tập thể của thành viên UBND
Ví dụ rõ nét nhất đó là tại phiên họp của Ủy ban nhân dân khi bàn về các vấn đề đều có ủy viên là
người đứng đầu cơ quan chuyên môn quản lý chuyên sâu đối với ngành lĩnh vực đó đóng góp ý kiến
vào
- Tăng cường sự giám sát của Hội đồng nhân dân. Trước đây khi chỉ là người đứng đầu cơ quan
chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân thì người đứng đầu này chỉ phải báo cáo công tác trước Hội đồng
nhân dân khi có yêu cầu. Còn nay với tư cách là người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban
nhân dân đồng thời là ủy viên của Ủy ban nhân dân cùng cấp phải chịu sự giám sát của Hội đồng nhân
dân với nhiều hình thức hơn như bị Hội đồng nhân dân chất vấn, bỏ phiếu tín nhiệm, lấy phiếu tín
nhiệm…

3
- Với tư cách là ủy viên của Ủy ban nhân dân, người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban
nhân dân được tham gia vào phiên họp bàn và biểu quyết các vấn đề tại phiên họp của Ủy ban nhân
dân. Do vậy mà họ sẽ nắm bắt nhanh các chủ trương quyết định của Ủy ban nhân dân và triển khai áp
dụng trong ngành lĩnh vực mình phụ trách một cách nhanh chóng.
+ Tại khoản 4 Điều 5 của Luật năm 2015 xác định UBND hoạt động theo chế độ tập thể UBND
kết hợp với trách nhiệm của Chủ tịch UBND. Quy định này khác với Luật năm 2003 chỉ quy định các
vấn đề thuộc tập thể UBND và vấn đề thuộc trách nhiệm cá nhân mà trong thực tế được thực hiện
không rõ ràng, thường bị lẫn lộn.
Tuy nhiên, hoạt động của UBND kết hợp cả hoạt động tập thể và hoạt động của người đứng đầu
có thể chỉ là bước chuyển giao từ chỗ coi trọng chế độ hoạt động tập thể của UBND sang chế độ thủ
trưởng. Trong quản lý hành chính nhà nước, chế độ thủ trưởng mang lại kết quả hoạt động tốt hơn bởi
các quyết định được ban hành nhanh nhạy phù hợp với sự biến động không ngừng của đời sống xã hội
trong điều kiện kinh tế thị trường. Vì vậy, cần xem xét nghiêm túc, có sự đổi mới tư duy về khả năng
thiết lập cơ quan hành chính nhà nước địa phương được tổ chức và hoạt động theo chế độ thủ trưởng
cách thức tổ chức hành chính nhà nước như vậy đã từng tồn tại trong lịch sử nhà nước Việt Nam và
hiện nay tương đối phổ biến ở các quốc gia trên thế giới. Cần nhấn mạnh thêm rằng, quy định chế độ
làm việc tập thể với trách nhiệm của Chủ tịch UBND vốn đã có những phức tạp, mâu thuẫn nội tại.
Chủ tịch UBND chịu trách nhiệm về lãnh đạo, điều hành công việc của Ủy ban, nhưng không chi phối
được quyết định của tập thể UBND là bất cập. Thực hiện chế độ thủ trưởng cũng góp phần khắc phục
tình trạng không rõ trách nhiệm cá nhân của các thành viên UBND như là yếu tố vốn có của chế độ
làm việc tập thể.
3. Anh (Chị) hãy nêu và phân tích những tư tưởng về tổ chức chính quyền địa phương
trong Hiến pháp 1946 đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
+ Về tổ chức chính quyền địa phương: Theo quy định của Sắc lệnh số 63/SL và Sắc lệnh số
77/SL, do Hồ Chí Minh ký năm 1945, thì chính quyền nhân dân ở địa phương chỉ gồm có HĐND và
UBHC. Đến năm 1958, Điều 1 của Luật số 110 Về tổ chức chính quyền địa phương (Quốc hội khóa I
thông qua tại kỳ họp thứ 8 ngày 31/5/1958) cũng quy định chính quyền địa phương gồm có HĐND và
UBHC. 
Ở nông thôn, chỉ có cấp xã và tỉnh mới có HĐND và UBHC, ở thành thị, chỉ có cấp thành
phố (tương đương cấp tỉnh) mới có HĐND và UBHC. Như vậy, HĐND chỉ được tổ chức ở hai
cấp: tỉnh, thành phố tương đương cấp tỉnh và cấp xã (lúc này, nước ta có bốn cấp đơn vị hành chính là
kỳ - tỉnh, thành phố - huyện - xã). Còn cấp kỳ (sau đổi thành bộ) và cấp huyện chỉ là cấp trung gian,
đại diện cho chính quyền cấp trên trong mối quan hệ với chính quyền cấp dưới nên không là cấp chính
quyền hoàn chỉnh (không có cơ quan dân cử là HĐND, mà chỉ có UBHC).  
+ Ở những nơi có HĐND, thì UBHC sẽ do HĐND bầu, còn UBHC khu phố sẽ do cử tri ở khu
phố trực tiếp bầu. Quy định này ghi nhận rõ nét quyền dân chủ trực tiếp của người dân, ngoài việc bầu
ra HĐND, họ còn có quyền bầu ra UBHC khu phố - nơi họ sống - để thực hiện các công việc hành
4
chính nhà nước trên địa bàn; đồng thời, UBHC khu phố - tuy mới chỉ được làm có bốn việc theo quy
định của Sắc lệnh số 77/SL, là: (1) đạo đạt nguyện vọng nhân dân khu phố lên UBHC thành phố; (2)
giúp UBHC thành phố trong việc thi hành mệnh lệnh cấp trên và quyết nghị HĐND thành phố trong
khu phố; (3) giúp các cơ quan chuyên môn trong phạm vi khu phố; (4) thị thực các giấy tờ trong khu
phố theo Sắc lệnh số 39 ngày 15/11/1945 - nhưng đã hàm chứa trong nó ý thức về một cấp chính
quyền tự quản, tự lo công việc trên địa bàn, được dân bầu (và có thể bị bãi miễn) trực tiếp.
+ Có sự phân biệt khi phân chia đơn vị hành chính: Điều 57 Hiến pháp 1946 quy định: “Nước
Việt Nam… gồm có ba bộ: Bắc, Trung, Nam. Mỗi bộ chia thành tỉnh, mỗi tỉnh chia thành huyện, mỗi
huyện chia thành xã”. Như vậy, các đơn vị hành chính của nước ta được phân chia thành bốn cấp,
ngoài các cấp xã, huyện, tỉnh, còn có cấp bộ - thay cho cấp kỳ (Bắc bộ, Trung bộ, Nam bộ). Kỳ hay bộ
đều là loại đơn vị hành chính có tính chất vùng, miền. Đặc biệt, đối với đơn vị hành chính thành phố và
thị xã, tuy Hiến pháp 1946 không trực tiếp quy định đơn vị hành chính thành phố và thị xã, nhưng
Điều 58 đã gián tiếp quy định đơn vị hành chính này, giống như trong Điều thứ 1 của Sắc lệnh số
77/SL, đã quy định: “...Các tỉnh lỵ và những nơi đô hội mà lâu nay về mặt hành chính được biệt lập và
trực tiếp với tỉnh, từ nay sẽ gọi là thị xã”. Như vậy, Hồ Chí Minh đã không “đánh đồng” tất cả các đơn
vị hành chính như nhau mà phân biệt rõ đơn vị hành chính cơ bản, mang tính “tự nhiên” (xã, tỉnh) với
đơn vị hành chính có tính chất trung gian, mang tính “nhân tạo” (bộ, huyện và khu phố, thị xã, thành
phố). Từ sự phân biệt này mà mô hình chính quyền địa phương ở đô thị khác với mô hình chính quyền
địa phương ở khu vực nông thôn. Điều này chắc chắn có được từ nhận thức: nông thôn khác với thành
thị. Đối tượng làm chủ và quản lý khác nhau nên việc làm chủ và quản lý nhà nước ở nông thôn cũng
phải khác với đô thị.  
Có thể nói, việc xác định mô hình chính quyền ở đô thị khác với mô hình chính quyền ở nông
thôn đã thể hiện sự tôn trọng thực tiễn khách quan của Hồ Chí Minh và thể hiện một tư duy khoa học
về xây dựng chính quyền địa phương. Bởi lẽ, việc tổ chức chính quyền địa phương phải căn cứ vào đặc
điểm địa bàn lãnh thổ, đồng thời hiểu rõ lịch sử hình thành nên các lãnh thổ hành chính trực thuộc.
Trên thế giới, đơn vị lãnh thổ địa phương được hình thành theo hai nguyên tắc cơ bản: tự nhiên và
nhân tạo. Lãnh thổ hành chính tự nhiên tức là lãnh thổ hình thành một cách tự nhiên. Còn đơn vị lãnh
thổ - hành chính nhân tạo là những đơn vị được nhà nước trung ương chia lãnh thổ thành các đơn vị
hành chính trực thuộc theo nhu cầu quản lý. Và “chính quyền nông thôn được tổ chức trên đơn vị hành
chính lãnh thổ hình thành một cách tự nhiên. Ngược lại, chính quyền đô thị được tổ chức trên đơn vị
hành chính lãnh thổ hình thành một cách nhân tạo. Lãnh thổ hành chính tự nhiên là lãnh thổ hình thành
một cách tự nhiên mà không do nhà nước sắp xếp phân chia, đó là sản phẩm của quá trình hình thành
và phát triển tự nhiên của các cộng đồng tùy thuộc vào đặc điểm dân cư, địa lý, phong tục tập quán,
truyền thống văn hóa và lịch sử. Đây là cộng đồng dân cư bền vững, nhà nước buộc phải thừa nhận.
Các đơn vị hành chính lãnh thổ này thường là các đơn vị cơ sở, nhà nước không nên chia nhỏ ra nhiều
đơn vị cơ sở khác, trừ trường hợp đặc biệt. Bởi các đơn vị hành chính lãnh thổ hình thành một cách tự
nhiên thường có tính tự quản cao hơn đơn vị hành chính hình thành nhân tạo. Vì vậy việc tổ chức chính
quyền ở đơn vị hành chính hình thành một cách tự nhiên ngoài các cơ quan quản lý nhà nước do nhà
5
nước lập ra còn có các cơ quan do dân cư hình thành một cách trực tiếp có vai trò tự quản rất quan
trọng. Ngược lại đối với các lãnh thổ nhân tạo là lãnh thổ do nhà nước trung ương thành lập theo nhu
cầu quản lý. Vì vậy chính quyền địa phương hình thành trên các lãnh thổ nhân tạo chủ yếu là để thực
hiện chức năng quản lý”
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về thiết kế chính quyền địa phương ít tầng nấc, có phân biệt sự khác
nhau giữa vùng đô thị và vùng nông thôn tiếp tục trở thành hiện thực, ngay cả sau khi chúng ta đã có
Hiến pháp năm 1959. Song, cùng với các diễn biến của lịch sử, mô hình chính quyền địa phương đã có
sự thay đổi để phù hợp với tình hình, điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội ở mỗi giai đoạn. Đến Hiến
pháp năm 1980, mô hình chính quyền địa phương ba cấp (tỉnh, huyện, xã) có cả HĐND và UBND theo
từng cấp, đã được tổ chức thống nhất trong cả nước, không phân biệt đó là chính quyền ở vùng đô thị
hay chính quyền ở vùng nông thôn. Mô hình tổ chức chính quyền địa phương này tiếp tục được kế thừa
trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và Luật tổ chức HĐND và UBND năm 1994
và năm 2003.
Tuy nhiên, trong thực tiễn hoạt động, mô hình chính quyền địa phương ba cấp (tỉnh, huyện, xã)
có cả HĐND và UBND theo từng cấp đã bộc lộ nhiều vấn đề bất cập, tạo nên nhiều thực trạng và quan
điểm khác nhau về sự hợp lý hay không của mô hình này. Thực ra, từ khi chuẩn bị xây dựng Hiến pháp
năm 1992, các đại biểu Quốc hội, các nhà khoa học, nhà quản lý cũng đã phát hiện sự bất hợp lý trong
việc tổ chức các cấp chính quyền địa phương mà không phân biệt địa bàn nông thôn (tỉnh, huyện, xã)
cũng như địa bàn đô thị (thành phố, quận, phường), nên đều tổ chức ba cấp chính quyền hoàn chỉnh,
cấp nào cũng có tổ chức HĐND và UBND. Nhưng do còn thiếu sự đồng thuận, nên chúng ta vẫn giữ
nguyên cách tổ chức chính quyền địa phương không phân biệt sự khác nhau giữa vùng đô thị và vùng
nông thôn.
Từ các bất cập trong thực tiễn hoạt động của mô hình chính quyền địa phương ba cấp có cả
HĐND và UBND theo từng cấp, việc tổ chức chính quyền đô thị khác với chính quyền nông thôn đã
được nhiều văn kiện của Đảng đề cập và yêu cầu thay đổi. Chi tiết và cụ thể nhất chính là Nghị quyết
hội nghị Trung ương 5 khóa X (năm 2007). Tinh thần của việc đổi mới mô hình chính quyền địa
phương theo Nghị quyết này là tạo lập được chính quyền địa phương ở các đô thị có sự khác biệt hợp
lý với chính quyền địa phương ở vùng nông thôn. Thể chế hóa chủ trương của Đảng, Quốc hội khoá
XII đã thông qua Nghị quyết số 26/2008/QH12 về "Thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND huyện,
quận, phường" tại kỳ họp thứ 4 ngày 15/11/2008. Ngày 16/01/2009, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã
ban hành Nghị quyết số 724/2009/UBTVQH12 về "Danh sách huyện, quận, phường của các tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường". Theo
danh sách này, cả nước tiến hành thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường tại 67 huyện, 32
quận và 483 phường của 10 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.  
Cho đến nay, chúng ta đang trở lại với nguyên tắc phải xác định rõ đơn vị hành chính nào cần
phải tổ chức cấp chính quyền địa phương có cả cơ quan đại diện quyền lực nhà nước (HĐND) và cơ
quan hành chính - chấp hành - điều hành (UBND); còn đơn vị hành chính nào “chỉ có tính chất trung

6
gian, hoặc chỉ là địa hạt hành chính trong chỉnh thể thống nhất của một đô thị nên không tổ chức cấp
chính quyền địa phương đầy đủ (gồm cả HĐND và UBND), chỉ tổ chức cơ quan hành chính để đại
diện cho chính quyền cấp trên, thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính và dịch vụ công”.
Vì thế, Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Namđược Quốc hội khóa XIII thông qua ngày
28/11/2013 (Hiến pháp năm 2013) đã quy định tại Điều 111 (Chương IX) như sau:
“1. Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam.
2. Cấp chính quyền địa phương gồm có HĐND và UBND được tổ chức phù hợp với đặc điểm
nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định”.
Theo quy định này của Hiến pháp, thì “chính quyền địa phương” và “cấp chính quyền địa
phương” rõ ràng là hai khái niệm khác nhau. “Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành
chính...” (hiện các đơn vị hành chính ở nước ta có 3 cấp, 9 loại và “đơn vị hành chính tương đương”
cấp huyện, quận, thành phố thuộc tỉnh, thị xã), tuy nhiên, có phải tất cả các đơn vị hành chính đều phải
tổ chức “cấp chính quyền địa phương gồm có HĐND và UBND” hay không, thì sẽ do “luật định”, sao
cho “phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt”.
Đây là một quy định hết sức mới mẻ, có sức khái quát hóa cao và mang “tính chất mở”, chỉ đưa
ra định hướng tổ chức cấp chính quyền địa phương và giới hạn bằng yêu cầu “phù hợp với đặc
điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt...”. Như vậy, khi xây dựng Luật
Tổ chức Chính quyền địa phương theo tinh thần của Hiến pháp 2013, chúng ta phải căn cứ vào yêu cầu
“phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị....” để thiết kế “cấp chính quyền địa phương gồm có HĐND
và UBND”, chứ không phải chính quyền địa phương nào cũng đều có cả HĐND và UBND. Nếu không
nhận thức đầy đủ như vậy, dễ hiểu sai Hiến pháp và có quan điểm tuyệt đối hóa, coi chính quyền địa
phương nào cũng có đủ cả HĐND và UBND.
Quy định này của Hiến pháp 2013 một lần nữa lại cho thấy, việc tổ chức chính quyền địa phương
đang “trở lại” với tư tưởng Hồ Chí Minh từ năm 1945, đó là phải căn cứ vào đặc điểm nông thôn, đô
thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt... để tổ chức cấp chính quyền địa phương gồm có
HĐND và UBND. Nếu vào năm 1945, ở nông thôn chỉ có xã và tỉnh mới có HĐND và UBHC, còn ở
thành thị, chỉ có cấp thành phố tương đương cấp tỉnh mới có HĐND và UBHC, thì bây giờ, khi khi
xây dựng Luật Tổ chức Chính quyền địa phương, chúng ta có nên xác định: HĐND chỉ nên được tổ
chức ở hai cấp: tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp xã? Hay phải dựa vào sự phát triển toàn
diện của nền kinh tế - xã hội đất nước mà có quy định khác? 

You might also like