You are on page 1of 53

Cho ý kiến của anh/chị về việc tổ chức chính quyền đô thị tại TPHCM theo NQ số

131/QH14 ngày 16/11/2020

Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố thuộc Thành phố

Tuy nhiên, xét một cách khách quan, pháp luật hiện hành đã có sự điều chỉnh đáng ghi
nhận về thẩm quyền của UBND thành phố thuộc thành phố nói chung và UBND thành
phố Thủ Đức nói riêng. Ngoài những nhiệm vụ, quyền hạn được quy định tại Điều 56
Luật Tổ chức chính quyền địa phương[3], nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước trong
điều kiện cụ thể của “thành phố thuộc thành phố”, UBND thành phố Thủ Đức còn được
tăng cường thêm một số nhiệm vụ, quyền hạn sau:

Một là, xây dựng, trình HĐND cùng cấp quyết định các nội dung như: dự toán thu ngân
sách nhà nước trên địa bàn; dự toán thu, chi ngân sách địa phương và phân bổ dự toán
ngân sách cấp mình, trong đó bao gồm dự toán ngân sách của phường trực thuộc; điều
chỉnh dự toán ngân sách địa phương trong trường hợp cần thiết; phê chuẩn quyết toán
ngân sách địa phương; quyết định chủ trương đầu tư chương trình, dự án đầu tư công
nhóm B, nhóm C sử dụng vốn ngân sách phường trực thuộc theo quy định của Luật Đầu
tư công; tổ chức thực hiện chương trình, dự án đầu tư công theo phân cấp quản lý; phê
duyệt kế hoạch đầu tư công trung hạn và hằng năm của UBND phường trực thuộc và tổ
chức thực hiện nghị quyết của HĐND.
Hai là,căn cứ vào nghị quyết của HĐND thành phố Thủ Đức về kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội dài hạn, trung hạn và hằng năm của thành phố, quyết định giao nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội cho UBND phường trực thuộc.
Ba là, quyết định và tổ chức thực hiện nhiệm vụ về quốc phòng, an ninh, biện pháp bảo
đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh, phòng, chống tội phạm và các hành vi vi phạm
pháp luật khác trên địa bàn các phường trực thuộc[4].
Bên cạnh đó, Chủ tịch UBND thành phố Thủ Đức cũng được trao thêm một số quyền hạn
như: bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động, luân chuyển, biệt phái, khen thưởng, kỷ luật, đình
chỉ công tác Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND phường trực thuộc; tuyển dụng, sử dụng,
quản lý công chức phường trực thuộc; đình chỉ việc thi hành, bãi bỏ một phần hoặc toàn
bộ văn bản trái pháp luật của UBND phường trực thuộc[5]…
Như vậy, thẩm quyền của UBND và Chủ tịch UBND thành phố Thủ Đức đều được bổ
sung theo xu hướng tăng cường mối quan hệ giữa cấp trên với cấp dưới trong hệ thống
hành chính nhà nước, nhằm đảm bảo sự vận hành thống nhất, thông suốt của bộ máy thực
thi công vụ ở địa phương. Điều này bắt nguồn từ việc chính quyền đô thị tại Thành phố
Hồ Chí Minh tới đây sẽ không thành lập HĐND phường. Và vì không có HĐND phường,
để thực hiện chức năng giám sát việc thi hành pháp luật và quyết định những vấn đề quan
trọng của địa phương nên CQHCNN phường, thay vì “trực thuộc hai chiều” như trước
đây, sẽ trực thuộc CQHCNN cấp trên, chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành trực tiếp của
UBND và Chủ tịch UBND thành phố thuộc thành phố.

Tuy nhiên, theo chúng tôi, nếu so với UBND quận trong mô hình chính quyền đô thị vừa
được Quốc hội phê chuẩn, “diện mạo” UBND thành phố Thủ Đức khá bình thường.
Trong khi UBND quận được xác định là cơ quan đại diện của chính quyền địa phương ở
quận, “làm việc theo chế độ thủ trưởng, bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ”[6] thì
UBND thành phố Thủ Đức, cơ quan hành chính của một thành phố thuộc thành phố,
được sáp nhập từ quận 2, quận 9 và quận Thủ Đức, vẫn theo mô hình truyền thống cả về
tổ chức và hoạt động. Đành rằng chính quyền địa phương ở thành phố Thủ Đức được xác
lập trên lãnh thổ tự nhiên cần có cấp chính quyền đầy đủ, còn chính quyền địa phương ở
quận dựa trên “lãnh thổ nhân tạo”, không nhất thiết phải thành lập thiết chế đại diện mà
chỉ cần “mũi nhọn chủ lực” là UBND tập trung điều hành, quản lý, chủ động giải quyết
vô số các vấn đề đặt ra hàng ngày, hàng giờ trong đời sống đô thị, dưới sự giám sát của
Hội đồng nhân dân thành phố trực thuộc trung ương. Song nếu chỉ tạo ra “thành phố
thuộc thành phố” tương đương một đơn vị hành chính cấp huyện thì e rằng Đề án thành
lập thành phố Thủ Đức đã hướng tới mục tiêu khá khiêm tốn, không tương xứng với định
hướng về việc phát triển một “vùng lõi của vùng kinh tế trọng điểm”, “khu đô thị sáng
tạo, tương tác cao”…

sau khoảng 3 năm thực hiện Nghị quyết về tổ chức chính quyền đô thị tại TPHCM, Chính
phủ sẽ sơ kết. Qua thảo luận, phần lớn các ĐBQH đề nghị tăng số lượng chuyên trách
cho HĐND Thành phố (vì sẽ bỏ HĐND quận, phường) để bảo đảm chức năng giám sát.
Do đó, Bộ Nội vụ - cơ quan trình Nghị quyết mong muốn Quốc hội ủng hộ phương án
tăng đại biểu chuyên trách cho HĐND TPHCM. Mặc dù không có HĐND quận, phường
nhưng trách nhiệm của chính quyền địa phương thuộc thẩm quyền của HĐND quận và
phường đã được chuyển giao cho HĐND Thành phố.

Theo Nghị quyết được thông qua sáng nay (16/11), chính quyền địa phương ở TPHCM là
cấp chính quyền địa phương gồm có HĐND TP và UBND TP. Nghị quyết cho phép
TPHCM tổ chức HĐND TP thuộc TP. Theo đó, HĐND TP thuộc TP được quyết định dự
toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn; dự toán thu, chi ngân sách địa phương và phân
bổ dự toán ngân sách cấp mình, trong đó bao gồm dự toán ngân sách của phường trực
thuộc; điều chỉnh dự toán ngân sách địa phương trong trường hợp cần thiết; phê chuẩn
quyết toán ngân sách địa phương cũng thuộc thẩm quyền của HĐND.
HĐND TP thuộc TP cũng được quyết định chủ trương đầu tư chương trình, dự án đầu tư
công nhóm B, nhóm C sử dụng vốn ngân sách phường trực thuộc theo quy định của Luật
Đầu tư công; tổ chức thực hiện chương trình, dự án đầu tư công theo phân cấp quản lý;
phê duyệt kế hoạch đầu tư công trung hạn và hằng năm của UBND phường trực thuộc.

Giám sát việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật và việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng
nhân dân cấp mình trên địa bàn phường trực thuộc; giám sát hoạt động của UBND, Chủ
tịch UBND phường trực thuộc.Vì tphcm tổ chức theo chính quyền đô thị tại NQ 17 là
không tổ chức HĐND huyện nhưng thành phố Thủ Đức là thành phó trực thuộc thành
phố HCM tức alf tương đương với cấp huyện nhưng mad nghị quyết 131/2020 lại có quy
định tổ chức HNND ở TP.Thủ Đức vậy đây chính là điêmt khác biệt so với các quận khác
trong thành phố HCM rồi

Và còn được quy định thêm các quyền mới so với luật tổ chức chính quyền địa phương
2015 thì có thể thấy ..... ( này tự bịa được ce )

Báo cáo thẩm tra nêu rõ, với phạm vi diện tích tự nhiên rộng, quy mô dân số lớn nhất cả
nước như Thành phố Hồ Chí Minh thì vấn đề giám sát, kiểm soát quyền lực đối với chính
quyền địa phương ở cơ sở là một yêu cầu hết sức quan trọng và việc giám sát thông qua
hoạt động của HĐND vẫn là phương thức chủ yếu hiện nay. Vì vậy, đề nghị Chính phủ
cần nghiên cứu kỹ hơn việc đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND Thành phố để nâng
cao hiệu lực, hiệu quả, bảo đảm thực hiện tốt chức năng đại diện của người dân và việc
kiểm soát quyền lực đối với chính quyền ở quận, phường.
1. Anh chị hãy nêu định hướng đổi mới đơn vị hành chính ở nước ta
1. Có quan điểm cho rằng: Ở huyện, do đặc điểm là đơn vị hành chính trung
gian, không tổ chức Hồi đồng nhân dân, chỉ tổ chức Uỷ ban nhân dân để thực hiện
nhiệm vụ quản lý nhà nước. Anh chị hãy trình bày ý kiến của mình về vấn đề này.

* mở bài

*thân bài
Lý do không tổ chức Hội đồng Nhân dân cấp huyện là trong ba cấp hành chính địa
phương ở Việt Nam cấp huyện là cấp hành chính trung gian, được bao hàm trong cấp
hành chính tỉnh. Trong cấp hành chính này hình thành nên 1 cấp chính quyền không đầy
đủ có lúc có Hội đồng Nhân dân, có lúc không có Hội đồng Nhân dân chỉ có Ủy ban hành
chính. Sự thực cấp chính quyền không đầy đủ này được bao hàm trong cấp chính quyền
tỉnh.

Không tổ chức Hội đồng Nhân dân cấp huyện là tinh giản cơ quan đại diện bao hàm
trong chính quyền cấp tỉnh sẽ đảm bảo cho bộ máy hành chính nhà nước thông suốt hoạt
động có hiệu lực, hiệu quả, gần dân, sát dân, phục vụ nhân dân tốt hơn, nhân dân được
tiếp xúc trực tiếp với chính quyền (Ủy ban Nhân dân), được chính quyền trực tiếp nghe
các ý kiến phản ánh tâm tư, nguyện vọng của mình và được chính quyền trực tiếp giải
quyết các vấn đề bức xúc của mình. Đồng thời được trực tiếp đóng góp ý kiến của mình
cho việc xây dựng chính quyền. Được Ủy ban Nhân dân trực tiếp báo cáo hoạt động của
Ủy ban Nhân dân, có thông tin đầy đủ để trực tiếp giám sát các hoạt động của Ủy ban
Nhân dân.

Có thể nói không tổ chức Hội đồng Nhân dân ở cấp huyện là một giải pháp quan trọng
chuyển từ hình thức dân chủ đại diện sang hình thức dân chủ trực tiếp để phát huy quyền
làm chủ và quyền dân chủ trực tiếp của người dân đồng thời đề cao trách nhiệm của
chính quyền, của Ủy ban Nhân dân trước người dân.

*ví dụ

*kết bài

4.Có quan điểm cho rằng: Ở phường, do đặc điểm đô thị, không tổ chức HĐND chỉ
tổ chức UBND để thực hiện nhiệm vụ của chính quyền địa phương tại phường.
Anh chị hãy trình bày ý kiến của mình về vấn đề này.

* mở bài

*thân bài
Không tổ chức Hội đồng Nhân dân ở quận, phường để tổ chức chính quyền nhân dân
theo mô hình chính quyền đô thị.

Không tổ chức Hội đồng Nhân dân ở quận, phường là thực hiện chủ trương của Đảng và
Nhà nước về tổ chức hợp lý chính quyền địa phương ở Việt Nam trên cơ sở phân biệt rõ
đặc điểm đặc thù, sự khác nhau về chức năng nhiệm vụ, quản lý trên hai địa bàn đô thị và
nông thôn để chọn mô hình tổ chức và cách thức điều hành, quản lý cho phù hợp.

Do đặc điểm, đặc thù, đặc trưng riêng và do yêu cầu, nhiệm vụ quản lý khác với địa bàn
nông thôn đòi hỏi chính quyền đô thị phải hết sức tập trung, hết sức thống nhất, hết sức
năng động và nhanh nhạy trong điều hành, giải quyết công việc, giải quyết các bức xúc
của người dân. Do đó ở các đô thị (các thành phố trực thuộc Trung ương, thành phố thị
xã thuộc tỉnh) chỉ tổ chức một cấp chính quyền gồm có Hội đồng Nhân dân và Ủy ban
Nhân dân còn ở các quận, phường chỉ tổ chức Ủy ban Nhân dân. Đây là sự kế thừa có
chọn lọc những quy định về tổ chức chính quyền nhân dân ở các thị xã, thành phố nêu
trong Sắc lệnh số 77 ngày 21/12/1945 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành như đã nêu
ở trên. Đồng thời là sự vận dụng hợp lý kinh nghiệm tổ chức chính quyền đô thị của các
nước trên thế giới vào Việt Nam trong quá trình mở cửa hội nhập.

Không tổ chức Hội đồng Nhân dân huyện, quận, phường là để nâng cao hiệu lực, hiệu
quả của chính quyền địa phương để chính quyền địa phương phục vụ tốt hơn, có trách
nhiệm hơn với người dân địa phương. Đây là chủ trương đúng và sáng suốt của Đảng và
Nhà nước ta trong tiến trình cải cách, kiện toàn bộ máy nhà nước, kiện toàn bộ máy chính
quyền địa phương, chính quyền của nhân dân.

*ví dụ

*kết bài
3. Anh (chị) hãy trình bày những hiểu biết của mình về việc thực hiện thí điểm
không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường theo Nghị quyết số
26/2008/QH12 ngày 15/11/2008

Chủ trương về đổi mới mô hình tổ chức chính quyền địa phương ở nước ta được khẳng
định trong các Nghị quyết của Đảng, cụ thể:

Nghị quyết số 17-NQ/TW ngày 08/1/2007 đưa ra chủ trương: Tổ chức hợp lí chính quyền
địa phương, phân biệt rõ những khác biệt giữa chính quyền nông thôn và chính quyền đô
thị: Đối với chính quyền nông thôn, không tổ chức HĐND ở huyện. Đối với chính quyền
đô thị, ở quận, phường không tổ chức HĐND.

Tiếp đó, Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 đưa ra định hướng phân định rõ và
tổ chức thực hiện mô hình chính quyền nông thôn, đô thị, hải đảo và đơn vị hành chính –
kinh tế đặc biệt.

Cụ thể hóa chủ trương không tổ chức HĐND ở huyện, quận, phường theo Nghị quyết số
17-NQ/TW, ngày 15/11/2008, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XII đã thông qua nghị
quyết số 26/2008/QH12 về “Thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện,
quận, phường”. Ngày 16/01/2009, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết
số 724/2009/UBTVQH12 về “Danh sách huyện, quận, phường của các tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận,
phường”. Theo danh sách này, cả nước thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận,
phường tại 67 huyện, 32 quận và 483 phường của 10 tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương. Theo đó, 10 tỉnh, thành phố thực hiện thí điểm bao gốm: Lào Cai, Vĩnh Phúc, Hải
Phòng, Nam Định, Quảng Trị, Đà Nẵng, Phú Yên, Thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa –
Vũng Tàu, Kiên Giang.

Theo Nghị quyết số 725/2009/UBTVQH12 có bốn nhiệm vụ chính của HĐND cấp quận,
huyện đã được chuyển giao cho HĐND cấp tỉnh là:

- Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm nhân dân TAND huyện, quận;
- Giám sát hoạt động của UBND, TAND, VKSND huyện, quận;
- Bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ nghị quyết trái pháp luật của HĐND xã, thị trấn;
- Giải tán HĐND xã, thị trấn trong trường hợp HĐND đó làm thiệt hại nghiêm trọng
đến lợi ích của nhân dân

Lý do không tổ chức HĐND ở huyện: Vào thời bao cấp, huyện là cấp kinh tế kế hoạch
và ngân sách hoàn chỉnh và huyện cũng trực tiếp quản lý các hoạt động sản xuất kinh
doanh. Nhưng hiện nay, khi cơ chế quản lý kinh tế xã hội đã được đổi mới theo hướng
chính quyền các cấp sẽ giảm dần sự can thiệp của mình vào các hoạt động sản xuất của
người dân, của doanh nghiệp, và chính quyền chỉ cần tập trung tốt vào nhiệm vụ quản lý
nhà nước trên địa bàn. Do đó, huyện trở thành đơn vị trung gian cấp tỉnh và cấp xã vì vậy
không cần thiết tổ chức HĐND. Và đặc biệt, những vấn đề quan trọng chi phối sự phát
triển tỉnh ở địa phương do HĐND cấp tỉnh quyết định. Những vấn đề cơ sở, gắn với
người dân, cộng đồng dân cư do HĐND xã quyết định. Và hoạt động của HĐND cấp
huyện chủ yếu là triển khai lại những nội dung trong nghị quyết của HĐND cấp tỉnh.
Đem lại những thuận lợi là làm tinh gọn, tinh giảm bộ máy nhà nước, từ đó, hoạt động
của chính quyền ở địa phương sẽ hiệu lực, hiệu quả hơn, gần dân hơn, sát dân hơn, phục
vụ người dân tốt hơn

Lý do không tổ chức HĐND ở quận, phường. Quận, phường là địa bàn ở đô thị, do đặc
điểm đặc thù riêng cũng như là nhu cầu quản lý khác với địa bàn ở nông thôn, tổ chức
chính quyền đô thị phải đảm bảo tính thống nhất và liên thông trên địa bàn về quy hoạch
đô thị, kết cấu hạ tầng (như điện, đường, cấp thoát nước, xử lí rác thải, bảo vệ môi
trường) và đời sống dân cư... Chính quyền đô thi bảo đảm quản lý kịp thời, gọn nhẹ. Đây
là một sự kế thừa có chọn lọc những kinh nghiệm về quy định tổ chức chính quyền nhân
dân theo quy định của sắc lệnh 77/1945, đồng thời chúng ta cũng tiếp thu những kinh
nghiệm về tổ chức chính quyền đô thị của các nước trên thế giới trong quá trình VN mở
cửa hội nhập.

Cũng theo Nghị quyết 725/2009/UBTVQH12, Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Ủy viên UBND
huyện, quận, phường nơi thí điểm không tổ chức HĐND do Chủ tịch UBND cấp trên trực
tiếp xem xét, bổ nhiệm (Điều 16 Nghị quyết 725/2009/UBTVQH12)

Từ ngày 01/04/2009 việc thí điểm được triển khai thực hiện. Việc thực hiện thí điểm
không tổ chức HĐND quận, quyền, phường bên cạnh những kết quả đạt được như là làm
tinh gọn bộ máy nhà nước, tiết kiệm chi tiêu cho kinh tế, kinh phí ngân sách nhà nước...,
cũng nảy sinh một số bất cập sau đây:

Số lượng đại biểu HĐND chuyên trách ở địa phương vốn dĩ đã rất ít mà HĐND ở các địa
phương thực hiện việc không tổ chức HĐND quận, huyện, phường thì khối lượng công
việc này được chuyển giao cho HĐND cấp tỉnh. HĐND cấp tỉnh bên cạnh các nhiệm vụ,
quyền hạn của mình còn đảm đương những nhiệm vụ, quyền hạn khác được chuyển giao.
Điều này dẫn đến HĐND cấp tỉnh rất khó có thể hoàn thành được khối lượng công việc
tương đối lớn như vậy.
Về nhiệm vụ giám sát, ở những nơi không có HĐND cấp quận, hueyenj thì HĐND cấp
tỉnh giám sát thêm các đối tượng UBND, TAND, VKSND quận, huyện. Nhiệm vụ này
cũng khó hoàn thành, vì bản thân HĐND cấp tỉnh không thể đi sâu, đi sát vào từng hoạt
động của đơn vị cấp dưới. Đối tượng giám sát thì gia tăng trong khi đó thì không có sự
thay đổi cơ bản về nguồn lực, về hình thức giám sát, do đó hiệu quả hoạt động giám sát
của HĐND cấp tỉnh đối với các đối tượng trên địa bàn các địa phương thí điểm không tổ
chức HĐND quận, huyện, phường về cơ bản khó đạt được giám sát hiệu quả

Việc thí điểm chấm dứt kể từ khi Luật TCCQĐP năm 2015 có hiệu lực (01/01/2016). Có
thể thời điểm hiện nay chưa phù hợp nhưng sau này có thể tiếp tục nghiên cứu và thực
hiện.

5. Anh (chị) hãy trình bày định hướng đổi mới mô hình tổ chức chính quyền địa
phương ở nước ta
6. Anh (chị) hãy trình bày định hướng đổi mới về cơ quan chuyên môn thuộc Ủy
ban nhân dân
7. anh/chị hãy trình bày hiểu biết của mình về việc thực hiện cơ chế “một cửa”, một
cửa một dấu, một cửa liên thông ở nước ta.

Thủ tục hành chính là một khái niệm quen thuộc, tuy nhiên thường thì thủ tục hành chính
được đánh giá là rườm rà và gây phiền hà cho người dân. Hiện nay, trong quá trình đẩy
mạnh cải cách thủ tục hành chính, Nhà nước ta đã áp dụng nhiều mô hình nhằm cải cách
thủ tục hành chính, nâng cao chất lượng phục vụ nhu cầu của người dân và doanh nghiệp.
Đầu tiên cần phải hiểu rõ về khái niệm của các cơ chế:

Thứ nhất, Cơ chế một cửa là:

Cơ chế một cửa trong thủ tục hành chính là phương thức tiếp nhận hồ sơ, giải quyết và trả
kết quả giải quyết thủ tục hành chính, theo dõi, giám sát, đánh giá việc giải quyết thủ tục
hành chính cho tổ chức, cá nhân của một cơ quan có thẩm quyền thông qua Bộ phận một
cửa theo quy định tại Điều 3 – Nghị định 61/2018/NĐ-CP về thực hiện cơ chế một cửa,
một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính.

Trong số những mô hình thì cơ chế một cửa là một hướng đi thích hợp cho yêu cầu cải
cách thủ tục hành chính theo hướng tinh giản, nhanh gọn và tạo điều kiện thuận lợi cho
tất cả các bên. Đồng thời cũng giúp phát triển chung nền hành chính phục vụ ở nước ta.
có thể hiểu một cách đơn giản, về bản chất cơ chế này sẽ tổ chức lại công việc một cách
khoa học, phân chia rõ ràng giữa việc tiếp nhận và trả lại hợp một cách hợp lý nhất. Từ
đó, giảm bớt các thủ tục hành chính không cần thiết và tập trung cho các giai đoạn khác
nhằm giúp thủ tục được thực hiện một cách hiệu quả.

▪ Nguyên tắc cơ chế một cửa:

Nguyên tắc thực hiện cơ chế một cửa


– Đối với cơ chế này sẽ ưu tiên lấy sự hài lòng của cá nhân tổ chức là thước đo và hiệu
quả phục vụ của cán bộ, công chức, viên chức và các cơ quan có thẩm quyền

– Việc giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông được quản
lý tập trung và thống nhất

– Quá trình giải quyết thủ tục hành chính được đôn đốc, theo dõi, kiểm tra, rà soát bằng
các phương thức trên cơ sở đẩy mạnh việc ứng dụng các công nghệ thông tin và có sự
tham gia của các cá nhân, tổ chức

– Cơ chế một cửa cũng không làm phát sinh các chi phí thực hiện thủ tục hành chính cho
cá nhân, tổ chức ngoài quy định của pháp luật
– Trong việc thực thi công vụ, cán bộ công chức, viên chức và cơ quan có thẩm quyền sẽ
thực hiện trách nhiệm giải trình về việc thực thi này

– Nguyên tắc tiếp theo là việc tuân thủ pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế có
liên quan đến việc thực hiện cơ chế một cửa giải quyết các thủ tục hành chính của Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký.

Từ việc hiểu Cơ chế một cửa là gì cùng thực tế vận hành, chúng ta có thể thấy cơ chế này
mang lại rất nhiều lợi ích nhưng đâu đó vẫn tồn tại những hạn chế cần được khắc phục

Thứ nhất: Về ưu điểm cơ chế một cửa


– Cái đầu tiên có thể thấy đó là cơ chế một cửa sẽ giúp khắc phục được những thủ tục
rườm rà, rút ngắn thời gian chờ đợi và thực hiện thủ tục, tránh được sự chồng chéo về
giấy tờ.

– Bộ máy được tinh giản và gọn nhẹ hơn rất nhiều, bộ máy làm việc và đơn vị quản lý
được xét và tổ chức mang tính tập trung hơn tại một nơi giúp quá trình giải quyết nhanh
hơn.

– Chất lượng phục vụ được nâng cao giúp khắc phục tình trạng hối lộ, cùng chất lượng
kém trước đây chú trọng hơn vào việc trách nhiệm đề cao sự bình đẳng cũng như tránh
được việc gia hạn thêm về hồ sơ.

– Người thực hiện xin không cần thực thi, chuẩn bị làm việc tại nhiều khâu khác nhau,
giảm được thời gian và chi phí cho việc tham gia làm thủ tục nhiều lần.

Thứ hai: Về nhược điểm cơ chế một cửa


– Tình trạng tiêu cực trên thực tế vẫn xảy ra, người dân mặc dù có cơ chế một cửa nhưng
vẫn bị tình trạng lộng quyền, bị đòi hỏi các chi phí không liên quan tơi quy định của pháp
luật nhằm ảnh hưởng hưởng xấu đến hình ảnh cán bộ công chức nhà nước

– Việc tách các phòng ban dẫn đến sự liên kết chưa thực sự chặt chẽ đồng thời với việc
các thủ tục thường xuyên thay đổi, không thống nhất dẫn đến thời gian bị kéo dài và có
sự đùn đẩy chức tranh và quyền hạn.
Tóm lại, trước những thực trạng còn tồn đọng thì Nhà nước cũng cần có những giải pháp
để đưa cơ chế một cửa trở thành một mô hình mang tính hiệu quả cao hơn trong tương
lai.

Thứ hai, cơ chế một cửa một dấu: (không tìm được gì về một cửa một dấu hết nên xem
thử này)
Cuối cùng về cơ chế một cửa liên thông:

Khái niệm:

Cơ chế một cửa liên thông là một hình thức, cơ chế được thực hiện với mục đích giải
quyết, xử lý các vấn đề công việc của một tổ chức, cá nhân đang công tác và hoạt động
trong các đơn vị, cơ quan hành chính Nhà nước. Có thể là đơn vị, cơ quan hành chính
cùng cấp hoặc giữa các đơn vị, cơ quan hành chính, những cá nhân có quyền hạn, nhiệm
vụ thực hiện các công việc, hoạt động trực tiếp hoặc liên quan đến việc xử lý và giải
quyết các thủ tục hành chính. Với cơ chế và hình thức này, với những ích lợi và đặc trưng
hoạt động của nó. Chúng ta có thể hoàn toàn lấy để ứng dụng trong tất cả các hoạt động
hướng đến xử lý, giải quyết công việc một cách tối ưu và mang lại hiệu suất cao nhất có
thể.
Nguyên tắc thực hiện quy chế một cửa liên thông
- Trong cơ chế một cửa liên thông, sự hài lòng và thỏa mãn của các cá nhân, tổ chức là
nguyên tắc đầu tiên, và cũng là cơ sở tiêu chí để bảo đảm việc phục vụ công viên chức,
cán bộ cũng như những cá nhân có thẩm quyền được hiệu quả và chất lượng nhất.
- Thứ hai, tập trung và thống nhất chính là một nguyên tắc tiếp theo khi thực hiện giải
quyết, xử lý công việc mà áp dụng theo cơ chế một cửa liên thông.
- Đảm bảo tiến độ thực hiện kịp thời, công khai, minh bạch, nhanh chóng, khách quan,
công bằng, bình đẳng trong vấn đề xử lý, giải quyết công việc hành chính, đồng thời có
sự chủ động khi cần thiết, hợp tác với các đơn vị, cơ quan có quyền hạn và thẩm quyền là
nguyên tắc thứ ba trong cơ chế một cửa liên thông.
- Ứng dụng công nghệ thông tin cùng với sự tham gia kiểm soát, theo dõi của các đơn
vị, cơ quan cụ thể trong quá trình thực hiện xử lý, giải quyết công việc theo cơ chế một
cửa liên thông, nhằm đảm bảo việc quá trình luôn được đôn đốc, kiểm tra, theo dõi, giám
sát và đánh giá tại các phương tiện, cách thức đa dạng.
- Đảm bảo việc áp dụng cơ chế một cửa liên thông trong quá trình giải quyết công việc
sao cho có hiệu quả. Tuy nhiên, đồng thời cũng đảm bảo không làm phát sinh thêm chi
phí, tiền bạc của các cá nhân và tổ chức hành chính.
- Nguyên tắc thứ sáu là thực hiện áp dụng cơ chế này với việc thực thi đúng quy định,
làm đúng quy trình và đảm bảo không có những vấn đề sai phạm về pháp lý, pháp luật đã
quy định về cơ chế trong cả Việt Nam và quốc tế.
Với bộ sáu nguyên tắc này, đã góp phần đóng vai trò như một căn cứ quy phạm có tính
pháp lý, nhắc nhở, răn đe,... các đơn vị, cơ quan có trách nhiệm và thẩm quyền khi thực
hiện áp dụng cơ chế một cửa liên thông để giải quyết, xử lý công vụ cần chấp hành một
cách nghiêm túc nhất.

Tuy nhiên trên thực tế, nói về cơ chế thông dụng này, chúng ta vẫn nên nhìn trên hai
khía cạnh khách quan, nó có những ưu điểm và nhược điểm gì.
Cơ chế một cửa liên thông có những ưu điểm như sau:
- Ban hành, phát triển và xây dựng trách nhiệm thực thi các văn bản quy phạm pháp
luật. Thông qua đó, hoàn thiện và bổ sung thêm những quy chế, quy định sao cho mang
lại sự hiệu quả nhất, đảm bảo đáp ứng và thỏa mãn những yêu cầu trong bối cảnh xã hội -
kinh tế ngày càng đổi mới.
- Mang lại kết quả chất lượng và hiệu suất làm việc nhanh chóng, thuận tiện, hiệu quả,
tinh gọn các thủ tục hành chính phức tạp, rối rắm, tốn nhiều thời gian và chi phí.
- Việc áp dụng cơ chế một cửa liên thông giúp ban hành và xây dựng những chính
sách, cơ chế hay ứng dụng công nghệ trong việc đổi mới, tối ưu hóa công tác quản lý và
điều hành của các cá nhân đang hoạt động trong bộ máy hành chính Nhà nước.
Bên cạnh ưu điểm, việc áp dụng cơ chế một cửa liên thông cũng mang về những bất
cập như sau:
- Bởi sự ảnh hưởng cũng như tình lâu dài đã ăn sâu vào những tác vụ làm việc ở các
địa phương khi áp dụng các cơ chế lạc hậu truyền thống. Vì vậy, cơ chế một cửa liên
thông khó có thể được các địa phương làm quen và thân thuộc như cơ chế cũ.
- Một số cá nhân, đơn vị, cơ quan ở các cấp địa phương vẫn còn tỏ ra hời hợt trước việc
áp dụng cơ chế một cửa trong cơ cấu bổ nhiệm hay đề xuất bổ nhiệm các cán bộ lên các
vị trị mới. Vì thế, chất lượng quá trình giải quyết còn chưa mang lại kết quả như ý.
- Xét về tính pháp lý, Nhà nước và các đơn vị có thẩm quyền còn chưa thể hiện được
sự quan tâm sâu sát đến cơ chế này. Khiến cho nó khi nhìn về góc độ xã hội còn khá mơ
hồ và không có gì nổi bật rõ rệt.

Việc triển khai thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông tại các cơ quan, đơn
vị đã góp phần đem lại nhiều kết quả trong cải cách thủ tục hành chính, tạo nhiều thuận
lợi cho người dân, doanh nghiệp khi có nhu cầu giải quyết công việc tại các cơ quan hành
chính nhà nước các cấp Trung ương và địa phương.

Tuy nhiên, trên thực tế do nhiều nguyên nhân, Thẩm quyền, trách nhiệm của các cơ quan,
đơn vị, cán bộ, công chức trong việc giải quyết thủ tục hành chính chưa được làm rõ,
trong khi chưa hình thành cơ chế giám sát, đánh giá việc giải quyết thủ tục hành chính
đồng bộ theo thời gian thực từ hệ thống một cửa các cấp. Ngoài ra, cũng còn nhiều hạn
chế trong năng lực cán bộ và trình độ dân trí trong hoạt động tác nghiệp của các Bộ phận
một cửa…

Quá trình phối hợp giữa phường, xã, quận, huyện, tỉnh, thành phố thiếu đồng bộ… Thủ
tục hành chính vẫn còn rườm rà, phức tạp, vừa thừa lại hay thay đổi, Người dân, doanh
nghiệp làm thủ tục hành chính còn bị gây nhũng nhiễu, tiêu cực, nhất là việc tiếp nhận và
giải quyết hồ sơ về đất đai.

Những hạn chế trên không chỉ làm chậm trễ việc cung cấp thông tin cho chỉ đạo, điều
hành, xử lý các bất cập, các hành vi nhũng nhiễu, tiêu cực, mà còn làm khó cho việc tạo
dựng, duy trì, phát triển và phát huy được hiệu quả của các hệ thống thông tin. Để khắc
phục những bất cập, hạn chế nêu trên, nhằm nâng cao chất lượng phục vụ, tăng năng suất
lao động cần thúc đẩy đổi mới việc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong
giải quyết thủ tục hành chính theo hướng: Mở rộng việc tiếp nhận, giải quyết hồ sơ thủ
tục hành chính không phụ thuộc vào địa giới hành chính. Đổi mới tổ chức và xây dựng,
kết nối, chia sẻ các kho dữ liệu quản lý sống, sạch, đủ và chính xác; Coi trọng việc đánh
giá chất lượng giải quyết thủ tục hành chính của Bộ phận một cửa theo thời gian thực, tạo
sự chủ động nâng cao hiệu quả, năng suất lao động trong việc đơn giản hóa chuẩn bị, tiếp
nhận, giải quyết và trả hồ sơ thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông.
Đặc biệt, cần gắn quá trình này với yêu cầu đổi mới cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý nhà
nước các cấp…

Trước mắt, cần tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý quy định về việc thực hiện cơ chế một
cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính; nâng cấp, hoàn thiện hạ tầng
kỹ thuật, các hệ thống công nghệ thông tin để đáp ứng yêu cầu số hóa và sử dụng kết quả
số hóa hồ sơ, giấy tờ, kết quả giải quyết thủ tục hành chính, cũng như việc kết nối, chia sẻ
dữ liệu với các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành
phục vụ giải quyết thủ tục hành chính; nâng cao chất lượng,hiệu quả hướng dẫn, đôn đốc,
kiểm tra, giám sát việc thực hiện thông qua việc ứng dụng công nghệ mới, thực hiện giám
sát theo thời gian thực.

Đồng thời, cần tiếp tục cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản, thuận lợi cho cá
nhân, tổ chức và doanh nghiệp; Xác định rõ hơn nữa vai trò và trách nhiệm, tính pháp lý,
hiệu quả, minh bạch và công bằng của các cơ quan trong sự phối hợp giải quyết các thủ
tục hành chính liên thông; Có cơ chế kiểm tra, giám sát việc tiếp nhận và giải quyết các
thủ tục hành chính, xử lý nghiêm người vi phạm, khen thưởng kịp thời những người thi
hành xuất sắc nhiệm vụ nhằm tiếp tục tạo bước chuyển căn bản trong quan hệ giữa cơ
quan hành chính nhà nước với cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp, giữa các cơ quan hành
chính nhà nước với nhau trong giải quyết và thực hiện các thủ tục hành chính; Đề cao và
cụ thể hóa vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị, của đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức trong thực hiện công tác cải cách hành chính; Lấy kết quả Chỉ số
cải cách hành chính hàng năm, kết quả đánh giá sự hài lòng của người dân, tổ chức đối
với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước là tiêu chí đánh giá kết quả thực hiện
nhiệm vụ hằng năm đối với cơ quan, đơn vị và người đứng đầu cơ quan đơn vị.

Thực hiện thí điểm các mô hình mới về thu gọn tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn đầu
mối, khắc phục chồng chéo, dàn trải, trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ giữa các ngành,
các cấp, gắn với thực hiện chính sách tinh giản biên chế trên địa bàn tỉnh và chuyển giao
một số nhiệm vụ và dịch vụ hành chính công mà Nhà nước không nhất thiết phải thực
hiện cho doanh nghiệp, các tổ chức xã hội đảm nhiệm. năng lực, phẩm chất đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Nâng cao kỹ năng, tinh thần trách nhiệm, đạo đức
công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong xây dựng và tổ chức thực thi
pháp luật.

Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính, xử lý
nghiêm những hành vi nhũng nhiễu, tiêu cực của công chức, viên chức trong thực thi
công vụ, giải quyết công việc cho người dân, doanh nghiệp; gắn kết quả, hiệu quả công
việc của cá nhân, tổ chức với chế độ tiền lương, phụ cấp. Triển khai các quy định về
khoán kinh phí quản lý hành chính và thúc đẩy xã hội hóa cung ứng dịch vụ sự nghiệp
công lập theo cơ chế thị trường…

https://tcnn.vn/news/detail/49321/Thuc-hien-mo-hinh-bi-thu-dang-uy-dong-thoi-la-chu-
tich-uy-ban-nhan-dan-cap-xa-o-An-Giang---Thuc-trang-va-giai-phap.html?
fbclid=IwAR207f0KpjwNkIiMBeRMKe-
sgSaUhS5rb8H4adCdUaiVDv9Nb2RDTR4xYGs

http://tiengiang.gov.vn/chi-tiet-tin?%2Fmo-hinh-bi-thu-ong-thoi-la-chu-tich-ubnd-xa-
giup-nang-cao-suc-chien-au-cua-he-thong-chinh-tri%2F18335233&fbclid=IwAR33-
Bk1zWCE3t7_LEPH77ON23h9rLCzMUFQOhdR8bb1_mNxxnDzihVOA4A

https://baoquangninh.com.vn/bai-9-nhat-the-hoa-cac-chuc-danh-loi-ich-kep-
2520278.html?
fbclid=IwAR3jbKFcJ16Bcvi8Patsp9gjPoSbIiT7WtFaWFJemhsi69eJCX_agfA9BTk

8. trình bày ý kiến của anh/chị về chủ trương hợp nhất chức danh bí thư cấp uỷ với
chủ tịch ubnd cùng cấp.
Việc triển khai thực hiện mô hình bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch UBND cùng cấp là
chủ trương phù hợp thực tiễn. đảm nhiệm đồng thời hai chức danh cho nên việc lãnh đạo,
chỉ đạo và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chính trị được thực hiện kịp thời hơn; Hoạt
động lãnh đạo, điều hành và giải quyết công việc ở địa phương, cơ sở đã phát huy hiệu
quả tích cực. Việc chỉ đạo tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chính trị ở địa phương, cơ sở
kịp thời hơn trước nhờ khắc phục được tình trạng trông chờ, ỷ lại; giảm các cuộc họp,
báo cáo, xin ý kiến qua khâu trung gian; khắc phục tình trạng đùn đẩy trách nhiệm, thiếu
thống nhất, thậm chí thiếu đoàn kết giữa bí thư cấp ủy và chủ tịch UBND cùng cấp. Vai
trò, trách nhiệm và quyền hạn của người đứng đầu thể hiện rõ, tạo thống nhất cao giữa
lãnh đạo và điều hành.

Mô hình này cũng góp phần nâng cao vai trò lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của cấp ủy
Đảng. Giúp tăng cường mối quan hệ phối hợp công tác của cán bộ trong các khối Đảng,
đoàn thể, chính quyền; nâng cao tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ. Đồng thời,
giúp cán bộ rèn luyện, phấn đấu và trưởng thành, trình độ và năng lực công tác cũng
được nâng lên; bộ máy tinh gọn, tiết kiệm và phù hợp chủ trương cải cách hành chính,
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức.

Ưu điểm:

Việc triển khai thực hiện mô hình bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch UBND cấp xã là
chủ trương phù hợp thực tiễn, được sự thống nhất và đồng tình của đội ngũ cán bộ, đảng
viên và các tầng lớp nhân dân trong tỉnh, góp phần tiếp tục đổi mới phương thức, nâng
cao vai trò lãnh đạo của Đảng, tổ chức bộ máy gọn nhẹ, thuận tiện trong lãnh đạo, điều
hành, giảm thời gian họp, nhanh chóng đưa nghị quyết của Đảng, pháp luật Nhà nước vào
cuộc sống.

Hạn chế và nguyên nhân:

Hiện nay, chưa có hướng dẫn chính thức quy chế làm việc của bí thư cấp ủy đồng thời là
chủ tịch UBND cấp xã, các địa phương phải tự nghiên cứu, xây dựng quy chế, chưa có sự
thống nhất trong toàn tỉnh.
Bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch UBND cấp xã do công việc nhiều, quyền lực tập trung
nên yêu cầu phải chọn người vừa có năng lực vừa có đạo đức (cả hai mặt công tác Đảng
và chính quyền phải đáp ứng yêu cầu công việc; phải năng động, sáng tạo; có khả năng
chịu áp lực công việc cao, đoàn kết nội bộ tốt...) mới có thể điều hành công việc thông
suốt, hiệu quả; ngược lại sẽ dẫn đến tình trạng độc đoán, chuyên quyền, dẫn đến mất dân
chủ; hoặc không đảm đương được vai trò lãnh đạo, quản lý

9. anh/chị hãy trình bày định hướng đối với mô hình tổ chức chình quyền địa
phương ở dô thị

ĐƯA PHẦN TÓM TẮT Ý ĐỔI MỚI CQĐP Ở CÂU 5

Các thành phố trực thuộc Trung ương là trung tâm kinh tế, chính trị của cả nước, nơi dân
cư tập trung đông, các hoạt động kinh tế - xã hội diễn ra sôi động, phong phú nên đòi hỏi
cần có phương thức quản lý, triển khai một cách nhanh chóng, thông suốt tạo điều kiện
đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội của đô thị nói riêng, từ đó tạo động lực phát triển của
vùng và cả nước. Do vậy, các thành phố này cần tổ chức bộ máy chính quyền tinh gọn, ít
tầng nấc, hoạt động hiệu lực, hiệu quả nhằm đảm bảo chỉ đạo tập trung, nhưng điều hành,
vận hành thông suốt, kịp thời giải quyết các công việc phát sinh của đô thị. Hiện nay có
hai mô hình về tổ chức chính quyền đô thị, bao gồm:

- Mô hình chính quyền đô thị một cấp: được tổ chức trong phạm vi nội thành của thành
phố trực thuộc Trung ương. Trong đó, chỉ có một cơ quan đại diện là Hội đồng nhân dân
(HĐND) thành phố và không tổ chức HĐND ở quận và phường và Ủy ban nhân dân
(UBND) ở cả ba cấp hành chính (UBND thành phố, UBND quận, UBND phường). Mô
hình này hiện đang được triển khai tại Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Đà Nẵng.

- Mô hình chính quyền đô thị hai cấp: được tổ chức ở khu vực nội thành của thành phố
trực thuộc Trung ương. Trong đó, có hai cơ quan đại diện là HĐND thành phố và HĐND
quận, không tổ chức HĐND ở phường, có đủ ba cấp hành chính là UBND thành phố,
UBND quận và UBND phường. Mô hình này hiện đang được áp dụng ở Thành phố Hà
Nội.
Một số hạn chế khi triển khai, thực hiện mô hình chính quyền đô thị hiện nay

Thứ nhất, về thể chế chính quyền đô thị.

Việc triển khai mô hình chính quyền đô thị đang trong thời gian và phạm vi thí điểm đối
với Thành phố Hà Nội, thành phố Đà Nẵng (mới được triển khai tại Thành phố Hồ Chí
Minh); được quy định tại các nghị quyết của Quốc hội và nghị định của Chính phủ để áp
dụng cho từng đô thị. Mô hình này khác với mô hình chính quyền thành phố trực thuộc
Trung ương quy định tại Luật Tổ chức chính quyền địa phương. Một số quy định về phân
cấp còn hạn chế do mâu thuẫn với các quy định tại Luật Đấu thầu, Luật Xây dựng, Luật
Bất động sản, Luật Đất đai, Luật Hộ tịch…

Thứ hai, về chức năng, nhiệm vụ của UBND quận, UBND phường.

Hiện nay, chức năng, nhiệm vụ của UBND quận, UBND phường chủ yếu được quy định
theo hướng điều chuyển chức năng, nhiệm vụ của HĐND cấp dưới hoặc HĐND cùng cấp
được quy định tại Luật Tổ chức chính quyền địa phương để đảm bảo việc tổ chức và hoạt
động bình thường. Tuy nhiên, một số chức năng, nhiệm vụ của UBND quận, UBND
phường còn chồng lấn chức năng, nhiệm vụ quản lý theo ngành dọc của các cơ quan
chuyên môn. Bên cạnh đó, cơ cấu tổ chức các cơ quan chuyên môn của UBND quận
giống với các đơn vị hành chính cấp huyện khác dẫn đến việc nhiều công việc của chính
quyền đô thị cần được giải quyết ở UBND quận để đảm bảo thuận lợi, nhưng lại thuộc
thẩm quyền của các sở, ngành, phòng.

Thứ ba, quyền dân chủ, đại diện của người dân khi không tổ chức HĐND quận, HĐND
phường.

Khi thực hiện cả hai mô hình chính quyền đô thị nêu trên thì quyền đại diện của người
dân trực tiếp thông qua đại biểu HĐND phường và HĐND quận không còn mà được thực
hiện thông qua các kênh khác như: đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội của thành
phố; Thường trực HĐND, các ban, tổ đại biểu và của đại biểu HĐND thành phố, Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể các cấp… do vậy cũng ảnh hưởng đến việc tiếp nhận, xử lý
các ý kiến của người dân ở đô thị.

Các cấp chính quyền địa phương nói chung và chính quyền ở các đô thị nói riêng được tổ
chức theo các đơn vị hành chính - lãnh thổ, phân thành thang bậc trên dưới nặng theo cơ
chế hành chính, gần như dập một khuôn, không phân biệt đặc điểm, tính chất, quy mô của
các đô thị và đặc thù của mỗi địa phương, vùng, miền. Tổ chức chính quyền ở đô thị còn
chưa bảo đảm tính thống nhất, liên thông, thông suốt và hiệu quả.

Cơ chế bầu cử theo cơ cấu và hoạt động mang tính hành chính càng làm cho hình thức
của HĐND trở nên đậm nét hơn. Việc tổ chức các cơ quan chuyên môn giúp việc cho
UBND hiện nay tuy bước đầu phân biệt chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn,
song chưa phù hợp với mô hình chính quyền đô thị hiện đại. Số lượng các cơ quan
chuyên môn trực thuộc UBND các cấp giống nhau khi các tỉnh, thành phố có đặc điểm,
quy mô khác nhau cũng là điểm bất hợp lý.

Mối quan hệ quản lý ngành và quản lý địa bàn lãnh thổ giữa Bộ, ngành Trung ương và
chính quyền địa phương còn chồng chéo về thẩm quyền, trách nhiệm. Quan hệ giữa
Trung ương và địa phương chưa thực sự rõ ràng, minh bạch, chưa phù hợp với điều kiện
thực tiễn và những nguyên tắc tổ chức nền hành chính. Trong phân cấp quản lý, các Bộ,
ngành Trung ương còn nắm nhiều quyền cụ thể, phong cách quản lý vẫn nặng dấu ấn cơ
chế tập trung; chưa tạo điều kiện cho chính quyền đô thị phát huy quyền chủ động, sáng
tạo trong việc quản trị đô thị. Trong khi đô thị là một chỉnh thể thống nhất về kinh tế - xã
hội, kết cấu hạ tầng, đời sống dân cư… thì việc phân cấp nhiệm vụ, quyền hạn trong quản
lý Nhà nước và cung ứng dịch vụ công theo các cấp chính quyền trong nội bộ đô thị
(quận, phường) giống như của vùng nông thôn (huyện, xã) là không hợp lý, từ đó làm
giảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy chính quyền đô thị và khó khăn, bức xúc
cho người dân đô thị. Phân cấp nhiệm vụ, thẩm quyền chưa gắn liền với trách nhiệm và
nguồn lực về tài chính, nhân sự và tổ chức bộ máy.

Do đó, cần đưa ra các vấn đề để nghiên cứu thêm về hoàn thiện chính quyền đô thị:
Một là, hoàn thiện thể chế về chính quyền đô thị.

Cần tiếp tục nghiên cứu, tổng kết đánh giá việc thực hiện mô hình chính quyền đô thị,
làm căn cứ hoàn thiện thể chế về chính quyền đô thị theo hướng chính quyền đô thị là
một loại hình thức của chính quyền địa phương, một bộ phận của chính quyền địa
phương phù hợp với nguyên tắc nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Cụ thể, Luật Tổ
chức chính quyền địa phương cần sửa đổi, bổ sung quy định về mô hình tổ chức chính
quyền đô thị và mô hình chính quyền nông thôn để áp dụng thống nhất trong phạm vi cả
nước.

Hai là, tăng cường phân cấp cho các cơ quan trong chính quyền đô thị.

Bên cạnh việc sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức chính quyền địa phương, cần tiếp tục rà
soát các quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan để tiếp tục đẩy mạnh
phân cấp cho chính quyền đô thị theo hướng căn cứ vào quy mô của đô thị để trao quyền
quản lý các vấn đề đặc trưng của của đô thị như: quản lý đất đai, xây dựng cơ sở hạ tầng,
kiểm soát phát triển đô thị... Đặc biệt, cần nghiên cứu cơ chế phân cấp về ngân sách đối
với chính quyền đô thị. Đồng thời, thực hiện phân cấp nhiều hơn đối với nhiệm vụ và
quyền hạn của Chủ tịch UBND quận, UBND phường theo cơ chế thủ trưởng, để UBND
quận, phường hoạt động đúng với cơ chế thủ trưởng.

Ba là, đổi mới cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của UBND quận, UBND phường.

Cần quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của UBND quận, UBND phường trong các mô
hình chính quyền đô thị và hoàn thiện mô hình tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc
UBND quận theo hướng xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan chuyên môn
giúp UBND quận quản lý các ngành, lĩnh vực ở đô thị như đất đai, xây dựng cơ sở hạ
tầng, kiểm soát phát triển đô thị... Điều chỉnh nhiệm vụ của các sở, ngành, phòng và
tương đương để khắc phục sự chồng chéo chức năng, nhiệm vụ theo hướng chính quyền
thành phố tăng cường quản lý theo ngành, lĩnh vực; UBND quận, UBND phường chỉ
thực hiện nhiệm vụ theo phân cấp, ủy quyền của chính quyền cấp trên.
Bốn là, tăng cường các hình thức phát huy dân chủ của người dân ở đô thị.

Cần nghiên cứu, bổ sung các hình thức phát huy dân chủ của người dân đô thị như hình
thức dân chủ đại diện thông qua quyền bầu người đại diện của mình trong cơ quan chính
quyền, hướng đến quy định người dân ở đô thị bầu trực tiếp Chủ tịch UBND quận, Chủ
tịch UBND phường. Chủ tịch UBND cấp trên trực tiếp phê chuẩn trên kết quả bầu cử
trực tiếp của người dân thay cho quy định bổ nhiệm như hiện nay. Bên cạnh đó, cần phát
huy hình thức dân chủ trực tiếp của người dân đô thị trong những trường hợp phải quyết
định những vấn đề quan trọng có tính tự quản liên quan trực tiếp đến đời sống của người
dân đô thị./.

=> Một số định hướng và giải pháp tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức chính quyền
đô thị ở Việt Nam hiện nay
- Tổ chức chính quyền đô thị cần có sự phân biệt với chính quyền nông thôn
Thực trạng tổ chức chính quyền địa phương hiện nay đặt ra yêu cầu cần thiết phải làm rõ
sự khác biệt giữa đô thị và nông thôn, từ đó xác định rõ cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm
vụ, thẩm quyền, cơ chế hoạt động phù hợp đối với chính quyền ở địa bàn đô thị và chính
quyền ở địa bàn nông thôn. Việc đổi mới tổ chức chính quyền địa phương ở đô thị theo
tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 khóa XII, Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức chính
quyền địa phương năm 2015 và Luật sửa đổi, bổ sung năm 2019 cần nghiên cứu tiếp cận
theo một số nội dung cơ bản như sau:

Tổ chức hợp lý chính quyền địa phương trên cơ sở phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm
và phương thức hoạt động khác nhau giữa chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn,
bảo đảm tính thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả của hệ thống hành chính Nhà
nước từ Trung ương đến cơ sở theo nguyên tắc Nhà nước đơn nhất, quyền lực Nhà nước
thống nhất thuộc về nhân dân, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với chính
quyền các cấp.

Tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương phải phù hợp với nguyên tắc tập trung
dân chủ và phát huy vai trò của người đứng đầu cơ quan hành chính; phân công phân cấp
rõ ràng, rành mạch giữa Trung ương với địa phương và giữa các cấp chính quyền địa
phương, phát huy quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương các cấp,
đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của cơ quan Nhà nước cấp trên và của Trung
ương.

Tổ chức và hoạt động của chính quyền đô thị phải phù hợp với đặc điểm và yêu cầu quản
lý đô thị, với quá trình hình thành và phát triển đô thị ở Việt Nam, bảo đảm sự phát triển
bền vững của đô thị trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Đổi mới tổ chức của chính quyền đô thị phải gắn với chiến lược cải cách hành chính, xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân; đổi mới đồng bộ hệ thống chính trị, đổi mới nội dung và phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với các cấp chính quyền địa phương.

Hiện nay, thực hiện nội dung mới của Luật sửa đổi, bổ sung năm 2019, Quốc hội đã ban
hành 03 Nghị quyết. Nghị quyết số 97/2019/QH14 ngày 27 tháng 11 năm 2019 của Quốc
hội về thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị tại thành phố Hà Nội; Nghị quyết số
119/2020/QH14 ngày 19/6/2020 của Quốc hội về thí điểm tổ chức mô hình chính quyền
đô thị và một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng; Nghị quyết số
131/2020/QH14 ngày 16/11/2019 của Quốc hội về tổ chức chính quyền đô thị tại Thành
phố Hồ Chí Minh; có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2021. Trong đó, thành phố Hà Nội
không tổ chức HĐND ở phường, Thành phố Hồ Chí Minh và Thành phố Đà Nẵng không
tổ chức HĐND ở quận, phường. Tại các đơn vị hành chính không tổ chức HĐND thì
Chính quyền địa phương là UBND, hoạt động theo chế độ thủ trưởng, bảo đảm nguyên
tắc tập trung dân chủ.

Các Nghị quyết của Quốc hội đã mở đường cho sự đổi mới tổ chức chính quyền đô thị
trong thời gian tới; đồng bộ với đó, cần có những văn bản quy phạm pháp luật quy định
về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cũng như cơ cấu tổ chức riêng cho chính quyền đô thị
và chính quyền nông thôn để tạo điều kiện phát triển thuận lợi, phù hợp cho cả hai địa
bàn này.
- Tiếp tục hoàn thiện tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND ở các đô thị
Đổi mới hoạt động của chính quyền địa phương các cấp gắn với tinh gọn, cải cách tổ
chức bộ máy là một trong những nội dung quan trọng của cải cách hành chính địa
phương. Đối với các cơ quan chuyên môn hoặc UBND cấp tỉnh, cấp huyện thì xu hướng
cải cách theo hướng tinh gọn đầu mối các cơ quan trực thuộc của UBND đã thể hiện
trong chủ trương của Chính phủ khi ban hành Nghị định số 24/2014/NĐ-CP quy định tổ
chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (được
sửa đổi, bổ sung tại Nghị định 107/2020/NĐ-CP và Nghị định số 37/2014/NĐ-CP quy
định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện, quận, thị xã , thành phố thuộc
tỉnh (được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định 108/2020/NĐ-CP). Các nghị định này là cơ sở
pháp lý quan trọng trong việc kiện toàn tổ chức bộ máy, đồng thời xác định rõ chức năng,
nhiệm vụ của các cơ quan chuyên môn giúp UBND cấp tỉnh, cấp huyện quản lý đối với
các ngành, lĩnh vực quản lý. Đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy cơ quan chuyên môn
thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện theo những hướng cơ bản như sau:

Điều chỉnh và bổ sung chức năng, nhiệm vụ của một số Sở, cơ quan ngang Sở, phòng và
tương đương để khắc phục sự chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, phù hợp với
các văn bản quy phạm pháp luật mới có liên quan và phù hợp với chức năng của các Bộ,
cơ quan ngang Bộ ở Trung ương. Trên cơ sở đó, nghiên cứu quy định chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, cấp huyện phù hợp
với chức năng quản lý Nhà nước của Bộ, cơ quan ngang Bộ.

Chính phủ quy định khung các cơ quan chuyên môn giúp việc cho UBND cấp tỉnh, cấp
huyện; căn cứ điều kiện cụ thể, tiêu chí quy định khung của Chính phủ, địa phương có thể
lập (hoặc không lập) cơ quan, tổ chức đặc thù sau khi được sự đồng ý của cấp có thẩm
quyền.

Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung nguyên tắc tổ chức cơ quan chuyên môn; nhiệm vụ, quyền
hạn; chế độ làm việc của cơ quan chuyên môn và trách nhiệm của Giám đốc Sở, Trưởng
phòng chuyên môn cấp huyện; thẩm quyền của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh liên quan đến cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, cấp huyện.
- Hoàn thiện cơ chế phân cấp, phân quyền và điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, thẩm
quyền của HĐND, UBND các cấp
Nghị quyết Trung ương 6 khóa XII đã nêu: Tiếp tục đẩy mạnh phân công, phân cấp, phân
quyền mạnh mẽ, hợp lý giữa Chính phủ, các Bộ, ngành với chính quyền địa phương và
giữa các cấp chính quyền địa phương để tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế, nâng cao
hiệu lực, hiệu quả hoạt động; phát huy tính chủ động, sáng tạo, đề cao tinh thần trách
nhiệm của từng cấp, từng ngành gắn với cơ chế kiểm soát quyền lực. Quy định rõ nhiệm
vụ, quyền hạn, mối quan hệ giữa Chính phủ với các Bộ, ngành; giữa Chính phủ, các Bộ,
ngành với chính quyền địa phương cấp tỉnh và giữa các cấp chính quyền địa phương; quy
định rõ cơ chế phân cấp, ủy quyền và thực hiện nhiệm vụ khi được phân cấp, ủy quyền
giữa các cấp chính quyền địa phương. Đồng thời, Luật Tổ chức chính quyền địa phương
đã quy định các nguyên tắc phân định thẩm quyền, việc phân quyền, phân cấp, ủy quyền
giữa các cấp chính quyền địa phương.

Theo định hướng đó, trong mối quan hệ giữa chính quyền Trung ương và chính quyền
cấp tỉnh; giữa chính quyền cấp tỉnh với cấp huyện, cấp xã cần nghiên cứu các giải pháp
hoàn thiện cơ chế phân cấp, phân quyền, tăng tính chủ động, tự chịu trách nhiệm của từng
cấp chính quyền trong phạm vi được phân cấp, nhằm phát huy mạnh mẽ hơn tính năng
động, sáng tạo, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương các cấp
trong quản lý điều hành các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội tại địa bàn trên cơ sở bảo
dảm sự quản lý thống nhất của Trung ương.

Bên cạnh việc xác định những nội dung phân cấp giữa chính quyền Trung ương và chính
quyền địa phương (cấp tỉnh), việc tiến hành phân quyền, phân cấp giữa các cấp chính
quyền địa phương gắn với xác định rõ hơn, cụ thể hơn nhiệm vụ, thẩm quyền của từng
cấp chính quyền địa phương theo hướng tăng cường phân cấp cho cơ sở, cho cấp dưới
cũng cần được xác định và thực hiện theo các nguyên tắc đã được quy định trong Luật Tổ
chức chính quyền địa phương và Luật sửa đổi, bổ sung năm 2019. Chính quyền thành
phố trực thuộc Trung ương cần tiếp tục thực hiện điều chỉnh việc phân công, phân cấp
trong các lĩnh vực trọng tâm như quản lý cán bộ, công chức, đất đai, tài nguyên, đầu tư
xây dựng cơ bản…phù hợp với tình hình thực tiễn của các địa phương và hướng tới việc
tháo gỡ các khó khăn, giảm nhẹ công việc cho các cơ quan cấp tỉnh, giải quyết công việc
nhanh hơn, sát với tình hình thực tế đối với chính quyền cấp huyện, cấp xã, phát huy
được tính chủ động, sáng tạo của chính quyền địa phương, khai thác các nguồn lực, thúc
đẩy phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Đồng thời cần quy định xác định rõ nhiệm
vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương ở đô thị tăng cường quản lý theo ngành, lĩnh
vực. Quận, phường chủ yếu thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo phân cấp, ủy quyền của
chính quyền cấp trên (phân biệt với chính quyền ở nông thôn chủ yếu quản lý theo lãnh
thổ).

- Đổi mới quản lý công chức, công vụ tại cơ quan hành chính Nhà nước ở các đô thị
Việc đổi mới tổ chức chính quyền địa phương tại các đô thị theo hướng chính quyền địa
phương là Ủy ban nhân dân như quy định tại các Nghị quyết của Quốc hội nêu trên cần
thiết phải có định hướng, giải pháp đổi mới quản lý công chức, công vụ:

Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND cấp dưới do Chủ tịch UBND cấp trên quyết định điều
động, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, luân chuyển…

Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND nơi không tổ chức HĐND là công chức giữ chức vụ lãnh
đạo, quản lý.

Công chức làm việc tại UBND phường thuộc biên chế của UBND quận, thị xã, thành phố
thuộc thành phố trực thuộc Trung ương. Việc tuyển dụng, sử dụng, quản lý công chức
phường theo quy định của Luật cán bộ, công chức và Nghị định của Chính phủ về tuyển
dụng, sử dụng, quản lý công chức từ cấp huyện trở lên. Tiến tới sự đồng nhất chế độ công
vụ của các công chức tại các đô thị.

Trong thời gian tới, tiếp tục tiến trình cải cách nền hành chính địa phương, nâng cao hiệu
lực, hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp, sau khi Hiến
pháp năm 2013, Luật Tổ chức chính quyền địa phương và Luật sửa đổi, bổ sung cùng với
việc thực hiện thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị tại thành phố Hà Nội, Đà
Nẵng, TP.HCM có hiệu quả; cần xây dựng luật mới về chính quyền địa phương trong đó
có sự phân định rõ về tổ chức chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn, đáp ứng yêu
cầu của đất nước trong bối cảnh mới.

10. anh chị hãy trình bày hiểu biết của mình về việc đổi mới chính quyền đô thị tại
TP.
1. Anh (Chị) hãy chứng minh nhận định sau: Ngay từ khi nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa được thành lập, pháp luật về tổ chức chính quyền địa phương đã
có sự phân biệt cấp chính quyền hoàn chỉnh và cấp chính quyền không hoàn
chỉnh. Liên hệ với việc tổ chức chính quyền địa phương hiện nay.

* Chứng minh nhận định: Ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được
thành lập, pháp luật tổ chức chính quyền địa phương đã có sự phân biệt cấp chính
quyền hoàn chỉnh và không hoàn chỉnh. Cụ thể như sau:

- Đối với chính quyền địa phương ở nông thôn, thì tổ chức chính quyền địa phương
được xây dựng dựa trên quy định của Sắc lệnh số 63/1945. Theo đó, trong sắc lệnh
63/1945, thì bao gồm các cấp hành chính như sau: Cấp Kỳ, Tỉnh, Huyện, Xã. Căn cứ
quy định tại Điều 1 của Sắc lệnh số 63/1945 thì theo quy định ở Cấp Kỳ và Cấp
Huyện là cấp chính quyền địa phương không hoàn chỉnh có nghĩa là ở hai cấp này
theo quy định chỉ tiến hành tổ chức Ủy ban Hành chính mà không tổ chức Hội đồng
Nhân dân. Ngược lại, cũng tại Điều 01 Sắc lệnh số 63/1945, thì tại hai cấp chính
quyền là Cấp Tỉnh và Cấp Xã lại là cấp hành chính hoàn chỉnh cụ thể ở hai cấp này
có sự tổ chức đầy đủ cả Ủy ban Hành chính và Hội đồng nhân dân.

- Đối với chính quyền địa phương ở đô thị. Tương tự Sắc lệnh số 63/1945, sắc lệnh
điều chỉnh về tổ chức chính quyền địa phương tại thành thị Sắc lệnh 77/1945, cũng có
sự phân chia phân chia giữa cấp chính quyền Hoàn chỉnh và không hoàn chỉnh, cụ thể
theo quy định tại Điều 01 Sắc lệnh số 77/1945 thì đối với chính quyền địa phương ở
đô thị có hai cấp chính quyền đó là Cấp thành phố và cấp khu phố. Ở cấp thành phố là
cấp chính quyền hoàn chỉnh khi mà cấp này tổ chức đầy đủ cả Hội đồng Nhân dân và
Ủy ban hành chính, đối với cấp Khu phố thì lại cấp chính quyền không hoàn chỉnh ở
chổ ở cấp này chỉ tổ chức Ủy ban Hành chính mà không tổ chức chính Hội đồng
Nhân dân.

à Như vậy, từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào năm 1945, thì tại
sắc lệnh số 63/1945 và sắc lệnh 77/1945 quy định về tổ chức chính quyền địa phương
đã có sự phân định khác nhau giữa chính quyền địa phương hoàn chỉnh và không
hoàn chỉnh.

* Liên hệ thực tế hiện nay:


2. Anh (Chị) hãy trình bày những điểm khác nhau cơ bản giữa tổ chức chính
quyền ở nông thôn theo Sắc lệnh số 63 ngày 22 tháng 11 năm 1945 và tổ chính
quyền địa phương ở đô thị theo Sắc lệnh số 77 ngày 21 tháng 12 năm 1945.
Theo Anh (Chị) trong đổi mới tổ chức chính quyền địa phương ở nước ta hiện
nay có thể kế thừa gì từ hai Sắc lệnh trên?

3. Anh (Chị) hãy chứng minh nhận định sau: Ngay từ khi nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa được thành lập, pháp luật về tổ chức chính quyền địa phương đã
có sự phân biệt nông thôn và đô thị. Liên hệ với việc tổ chức chính quyền địa
phương hiện nay.

* Chứng minh nhận đinh.


- Theo quan điểm của em, ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành
lập thì pháp luật về tổ chức chính quyền địa phương đã có sự phân biệt tổ chức chính
quyền nông thôn và đô thị ở chổ, về mặt hình thức: tại thời điểm này nhà nước đã ban
hành 02 sắc lệnh độc lập để quy định về việc tổ chức chính quyền địa phương ở nông
thôn (Sắc lệnh 63/1945) và Sắc lệnh số 77/1945 để quy định về tổ chức chính quyền địa
phương ở đô thị. Về nội dung, thì có sự phân biệt ở chổ:
· Đối với sắc lệnh số 63/1945:
o Về phân cấp chính quyền: Sắc lệnh này quy định cấp chính quyền địa
phương ở nông thô bao gồm 04 là cấp Kỳ, Tỉnh, Huyện, Xã. Đối với cấp
Tỉnh và Xã là hai cấp chính quyền hoàn chỉnh. Kỳ và Huyện là hai cấp
chính quyền không hoàn chỉnh.
o Về cách thức thành lập Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính: Đối
với cấp tỉnh và xã Hội đồng nhân dân do nhân dân trực tiếp bầu còn Ủy
ban hành chính các cấp do Hội đồng nhân dân bầu ra.
· Đối với sắc lệnh 77/1945:
o Về phân cấp chính quyền: Sắc lệnh này quy định chính quyền địa
phương ở thành thị bao gồm 02 cấp: Thành phố và Khu phố. Ở cấp thành
phố thì có cả Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính, còn đối với cấp
khu phố thì chỉ có Ủy ban hành chính.
o Về cách thức thành lập Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính:
Điểm đặc biệt khác so với sắc lệnh số 63/1945 ở đây là ở cấp thấp nhất
của chính quyền là cấp Khu phố Ủy ban hành chính được bầu trực tiếp bởi
người dân thay vì ở cấp xã thì Ủy ban hành chính được bầu bởi Hội đồng
nhân dân cùng cấp. Đây là điểm khác nổi bật.

à Trên đây là một số phân tích của em, để chứng minh rằng từ khi nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa được thành lập thì pháp luật về tổ chức chính quyền địa phương đã có sự
phân biệt tổ chức chính quyền nông thôn và đô thị.

* Liên hệ.
- Hiện nay, Luật tổ chức chính quyền địa phương 2015 (sửa đổi, bổ sung 2019) cũng
dành ra, phân biệt cơ cấu, tổ chức chính quyền địa phương được tổ chức ở nông thông
và thành thị gần giống như sự phân biệt giữa Sắc lệnh số 63/1945 và sắc lệnh 77/1945.
Cụ thể Luật tổ chức chính quyền địa phương phân biệt chính quyền địa phương ở nông
thô và đô thị ở chổ. Về hình thức: Tuy không được quy định ở hai đạo luật khác nhau,
nhưng Luật quy định tổ chức chính quyền địa phương dành hẳng 01 chương riêng để
quy định về tổ chức chính quyền địa phương ở đô thị (Chương III) và đối với chính
quyền địa phương ở nông thôn luật cũng dành riêng một chương (Chương II) mà không
quy định chung cho cả nông thông và đô thị. Về mặt nội dung, cũng có sự phân biệt
nông thôn và đô thị ở một số điểm nổi bật như sau:

· Đối với chương II.


o Phân cấp chính quyền: Về tên gọi thì ở chính quyền nông thông có các
tên gọi sau đây: Tỉnh; Huyện, Thị xã, Thành phố (thuộc tỉnh); Xã, thị trấn,
phường.
o Về cơ cấu tổ chức: Ở chính quyền nông thông Hội đồng nhân dân các
cấp thường có số lượng đại biểu và cơ cấu tổ chức ít hơn so với hội đồng
nhân dân cùng cấp ở Đô thị.
· Đối với chương III.
o Phân cấp chính quyền: Về tên gọi thì chính quyền ở đô thị có các tên
gọi sau: Thành phố thuộc TW; Quận, Huyện, Thành phố, Thị xã; Xã,
phường, thị trấn.
o Về cơ cấu tổ chức: Chính quyền ở đô thị do đặc thù là dân số đông cho
nên số lượng đại biểu hội đồng nhân dân nhiều hơn so với chính quyền
tương đương ở nông thôn. Các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân
cũng có thể có sự khác biệt, đặc biệt là đối với TP.HCM và Hà Nội.

à Trên đây là một vài vấn đề liên hệ giữa việc phân biệt chính quyền địa phương ở nông
thôn và đô thị năm 1945 với Luật tổ chức chính quyền địa phương hiện nay.

4. Anh (Chị) hãy trình bày tổ chức chính quyền ở xã, huyện, tỉnh, kỳ theo Sắc
lệnh số 63 ngày 22 tháng 11 năm 1945. Hãy nêu ý kiến nhận xét của Anh (Chị)
về tổ chức chính quyền địa phương theo Sắc lệnh này.
* Tổ chức chính quyền ở xã, huyện, tỉnh, kỳ theo sắc lệnh số 63 ngày 22 tháng 11 năm
1945.
- Đối với cấp Xã: Theo quy định tại Điều 01 Sắc lệnh số 63/1945, cấp xã được xem là
cấp hành chính hoàn chỉnh, ở chổ cấp xã tổ chức thành lập cả Hội đồng nhân dân và Ủy
ban hành chính. Về cơ cấu: Thì theo quy định tại Điều 02 của sắc lệnh thì Hội đồng
nhân dân cấp xã sẽ có số lượng hội viên từ 15 đến 25 hội viên chính thức và từ 5 đến 7
hội viên dự khuyết, đối với Ủy ban hành chính thì theo quy định tại Điều 12 sẽ bao gồm
05 ủy viên chính thức và 02 ủy viên dự khuyết, ở giai đoạn này trong sắc lệnh chưa có
sự đề cập đến Cơ quan chuyên môn thuộc UBHC. Về nhiệm kỳ: thì căn cứ quy định tại
Điều 06, nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính cấp xã đều là 02 năm.
- Cấp huyện: Theo quy định tại Điều 01 sắc lệnh số 63/1945 thì cấp huyện được xem là
cấp trung gian không hoàn chỉnh, cho nên ở cấp huyện chỉ tổ chức thành lập Ủy ban
hành chính mà không có thành lập Hội đồng nhân dân. Về cơ cấu tổ chức: thì theo quy
định tại Điều 22 của sắc lệnh, Ủy ban hành chính của cấp huyện sẽ có 03 thành viên
chính thức và 02 thành viên dự khuyết, về cách thức thành lập: Do không có Hội đồng
nhân dân cùng cấp, cho nên theo quy định tại Điều 26 thì Ủy ban hành chính cấp huyện
sẽ do các Hội đồng nhân dân cấp xã trong huyện bầu ra. Về nhiệm kỳ: Theo quy định tại
Điều 27 nhiệm kỳ của Ủy ban hành chính Huyện là 02 năm.
- Cấp tỉnh: Theo quy định tại Điều 01, thì Cấp tỉnh được xem là cấp hành chính hoàn
chỉnh, nên sẽ thành lập cả Ủy ban hành chính và Hội đồng nhân dân. Về cơ cấu: Hội
đồng nhân dân của cấp Tỉnh có số lượng hội viên từ 20 đến 30 đối với hội viên chính
thức và bên cạnh đó là 05 hội viên đối với hội viên dự khuyết, đối với Ủy ban hành
chính căn cứ quy định tại 42 thì Ủy ban hành chính sẽ có 3 ủy viên chính thức và 02 ủy
viên dự khuyết. Về cách thức thành lập: giống với Hội đồng nhân dân cấp xã Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh sẽ do nhân dân trong tỉnh bầu ra với nhiệm kỳ được quy định tại Điều
37 là hai năm, còn đối với Ủy ban hành chính thì theo quy định tại Điều 43 sẽ do Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh bầu ra với nhiệm kỳ là 02 năm.
- Cấp kỳ: Theo quy định tại Điều 01 Sắc lệnh thì cấp kỳ là cấp chính quyền không hoàn
chỉnh chỉ tổ chức thành lập Ủy ban hành chính mà không tổ chức hội đồng nhân dân. Về
cơ cấu: Ủy ban hành chính cấp kỳ có số lượng là 05 thành viên chính thức và 02 thành
viên dự khuyết, được bầu bởi các hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong kỳ đó với nhiệm kỳ
là 03 năm.
* Ý kiến
- Sắc lệnh trên đã có sự phân biệt giữa cấp hành chính hoàn chỉnh và không hoàn chỉnh,
được thể hiện ở chổ đó là ở Điều 01 của sắc lệnh đã gián tiến khẳng định thông qua quy
định rằng ở cấp tỉnh và cấp xã sẽ được tổ chức đầy đủ Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân, còn ở cấp kỳ và cấp huyện sẽ chỉ tổ chức thành lập Ủy ban hành chính. Theo
em phân chia như vậy là hợp lý, bởi lẽ về mặt cơ cấu và hiệu quả sẽ giảm đi được sự
cồng kềnh của bộ máy chính quyền ở địa phương, giúp tiết kiệm được ngân sách khi mà
thời điểm lập quốc còn nhiều thiếu thốn. Tiếp đến là bởi vì thời điểm này các nhà lập
pháp dường như có sự phân biệt rõ cấp đơn vị nào là cấp nhân tạo và tự nhiên. Đối với
cấp xã được xem là cấp tự nhiên bởi vì trong cùng cấp xã người dân thương có chung
phong tục, tập quán, tín ngưỡng, … nên thành lập Hội đồng nhân dân ở cấp này là phù
hợp vì nó sẽ đảm bảo hiệu quả đại diện cho quần chúng có cùng phong tục, tập quán, …
còn đối với cấp tỉnh do cũng tương tự như vậy, tuy nhiên cấp kỳ và cấp huyện chỉ là đơn
vị hành chính nhân tạp, trung gian giữa trung ương xuống tỉnh và tỉnh xuống huyện, cho
nên chỉ cần tổ chức Ủy ban hành chính để làm trung gian truyền tải chính sách của trung
ương và tỉnh xuống địa phương cho nên không cần phải thành lập Hội đồng nhân dân.
- Nhìn nhận trong thực tiễn hiện nay và cả trong quy phạm pháp luật, thì theo Luật tổ
chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2019) thì tuy không có sự
phân biệt rõ ràng, rập khuôn đơn vị hành chính cấp tỉnh và xã là hoàn chỉnh huyện thì
không hoàn chỉnh, tuy nhiên Luật lại cho phép tùy vào điều kiện thực tế, thực tiễn mà sẽ
tổ chức chính quyền địa phương.
5. Anh (Chị) hãy trình bày tổ chức chính quyền ở thành phố, khu phố theo Sắc
lệnh số 77 ngày 21 tháng 11 năm 1945. Hãy nêu ý kiến nhận xét của Anh (Chị)
về tổ chức chính quyền địa phương theo Sắc lệnh này.
- Theo sắc lệnh số 77/1945, thì chính quyền địa phương ở Đô thị được chia thành hai
cấp là cấp thành phố và cấp khu phố:
- Đối với cấp thành phố: Theo quy định tại Điều 03 của Sắc lệnh 77/1945 thì ở cấp
thành phố được xem là cấp chính quyền hoàn chỉnh được tổ chức cả Hội đồng nhân dân
và Ủy ban nhân dân. Về cơ cấu: Theo quy định tại Điều 04, thì trừ Đà Lạt các thành phố
khác có 20 hội viên thực thụ và 04 hội viên dự khuyết, đói với Hà Nội và Sài gòn – Chợ
lớn sẽ là 30 hội viên chính thức và 06 hội viên dự khuyết; Ủy ban hành chính thì trừ Đà
lạt các thành phố khác sẽ có 03 ủy viên chính thức và 02 ủy viên dự khuyết, đối với Hà
Nội và Sài gòn – Chợ lớn sẽ có 05 ủy viên chính thức và 02 ủy viên dự khuyết. Về
nhiệm kỳ và bầu cử: Hội đồng nhân dân thành phố sẽ do nhân dân thành phố bầu ra, còn
đối với Ủy ban hành chính sẽ do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra kết quả bầu sẽ
được Ủy ban hành chính cấp kỳ chuẩn ý, nhiệm kỳ là 02 năm.
- Đới với cấp khu phố: Theo quy định tại Điều 04 Sắc lệnh số 77/1945, thì khu phố là
cấp chính quyền không hoàn chỉnh được tổ chức Ủy ban hành chính mà không tổ chức
Hội đồng nhân dân. Về cơ cấu: Theo quy định tại Điều 29 của sắc lệnh thì trừ các khu
phố ở Đà lạt các Ủy ban hành chính khu phố ở các thành phố khác có 03 ủy viên chính
thức và 02 ủy viên dự khuyết, riêng Hà Nội và Sài gòn – Chợ lớn thì sẽ có số lượng ủy
viên là 05 ủy viên và 02 ủy viên dự khuyết. Về cách thức thành lập: Đặc biệt ở chổ Ủy
ban hành chính của khu phố sẽ do người dân của khu phố trực tiếp bầu ra và có nhiệm
kỳ là 02 năm.
* Nhận xét:
- Sắc lệnh số 77/1945 có sự phân biệt giữa cấp chính quyền địa phương hoàn chính và
không hoàn chỉnh ở chổ theo quy định tại Điều 04 của sắc lệnh có quy định rằng đối với
cấp thành phố mới tổ chức đầy đủ Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính còn đối với
khu phố chỉ tổ chức Ủy ban hành chính. Điều này làm cho bộ máy hành chính ở đô thị
trở nên gọn nhẹ.
- Sắc lệnh 77/1945 có sự phân biệt giữa các đô thị với nhau và dành riêng những quy
định mang tính chất đặc thù với phù hợp với thực tiễn đô thị ở chổ. Về cơ cấu Hội đồng
nhân dân và Ủy ban hành chính thì có sự phân biệt về số lương ủy viên và hội viên của
các đô thị khác so với Hà Nội và Sài gòn – Chợ lớn. Theo em sự phân biệt này là phù
hợp bởi 02 đô thị Hà Nội và Sài gòn – Chợ lớn là hai đầu mối ở hai miền có số lượng
dân đông, trình độ phát triển có sự khác biệt so với các đô thị khác cho nên đòi hỏi cơ
chế về cơ cấu tổ chức cũng phải khác, không nên rập khuôn với các đô thị khác.
- Điểm đặc biệt nữa là ở chổ sắc lệnh 77/1945 mạnh dạng cho phép người dân trong khu
phố trực tiếp bầu ra cơ quan quản lý hành chính ở cấp thấp nhất của đơn vị hành chính.
Đây là một điểm đặc biệt bởi lẽ cho đến thời điểm hiện nay, dù trình độ dân trí đã cao
hơn so với thời điểm đó nhưng quy định pháp luật hiện tại vẫn chưa cho phép thực hiện
phương pháp bầu cử trực tiếp ra cơ quan quản lí hành chính.
6. Anh (Chị) hãy cho biết Thường trực Hội đồng nhân được thành lập từ khi
nào? Vì sao thành lập?
- Cho đến trước khi Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 1989 ra
đời, thì trước đó Thường trực hội đồng nhân dân chưa được thành lập mà Ủy ban nhân
dân sẽ khiêm luôn công việc thường trực cho Hội đồng nhân dân, cụ thể ủy ban nhân
dân sẽ dự kiến nội dung chương trình kỳ hợp, chuẩn bị và triệu tập kỳ họp, … tuy nhiên
do cơ chế Ủy ban nhân dân kiêm chức năng thường trực Hội đồng nhân dân dẫn đến
nhiều bất cập, cho đến năm 1989 Quốc Hội đã thông qua Luật tổ chức Hội đồng nhân
dân và Ủy ban nhân dân năm 1989 theo đó đã cho phép thành lập Hội đồng nhân dân ở
cấp Tỉnh và Huyện.
- Nguyên nhân dẫn đến việc thành lập Thường trực hội đồng nhân dân đó là:
+ Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 1983 đề cao vai trò của
Hội đồng nhân dân, khẳng định Hội đồng nhân dân và cơ quan quyền lực nhà nước ở
địa phương và Ủy ban nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân. Tuy
nhiên, khi cho Ủy ban nhân dân kiêm luôn nhiệm vụ thường trực lại vô tình khiến cho
Hội đồng nhân dân rơi vào tình trạng phụ thuộc ngược vào Ủy ban nhân dân. Điều
này đi ngược với tình thần Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực.
+ Luật Tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân quy định Hội đồng nhân dân
có quyền giám sát việc tuân thủ pháp luật. Tuy nhiên, do có sự phụ thuộc với Ủy ban
nhân dân về việc thường trực cho nên cũng khó thực hiện được quyền hạn này một
cách hiệu quả.
+ Trường hợp có việc quan trọng cần phải hợp bất thường thì Hội đồng nhân dân
cũng khó thể tự chủ đề mà quyết định bởi vì hình thức hoạt động của Hội đồng nhân
dân là hình thức kỳ hợp, cho nên nếu không được ủy ban nhân dân triệu tập thì cuộc
hợp sẽ không được diễn ra, những vấn đề quan trọng sẽ khó được giải quyết kịp thời.
à Chính những điều đó, đã dẫn đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của Hội đồng nhân dân là không hiệu quả nếu cho Ủy ban nhân dân kiêm chức năng
thường trực hội đồng nhân dân. Vì vậy đặc ra vấn đề cần phải thành lập thường trực
hội đồng nhân dân.

7. Anh (Chị) hãy trình bày những điểm mới về đơn vị hành chính theo Hiến
pháp năm 2013 và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 so với Hiến
pháp năm 1992 và Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm
2003. Nêu ý kiến của Anh (Chị) về vấn đề này.

8. Anh (Chị) hãy phân tích vị trí, tính chất pháp của của Hội đồng nhân dân
theo pháp luật hiện hành.

- Theo quy định tại khoản 1 Điều 113 Hiến pháp 2013 và Khoản 1 Điều 06 Luật tổ chức
chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2019) thì Hội đồng nhân dân được
xác định là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương đại diện cho ý chí nguyện vọng
và quyền làm chủ của nhan dân. Do nhân dân địa phương bầu ra. Theo ý nghĩa trên, thì
Hội đồng nhân dân có 2 vị trí, tính chất sau:

+ Cơ quan đại diện cho nhân dân ở địa phương: Ở vị trí, tính chất này được thể hiện
như sau:

· Về cách thức thành lập thì Hội đồng nhân dân cho đến hiện nay là cơ
quan dân cử ở địa phương, được thành lập trực tiếp thông qua hoạt động bầu
cử của nhân dân địa phương.

· Về cơ cấu và thành phần đại biểu: Thành phần và cơ cấu Đại biểu hội
đồng nhân dân đại diện cho mọi dân tộc, tôn giáo, tầng lớp, giai cấp của nhân
dân địa phương.

· Nhiệm vụ: Hội đồng nhân dân thông qua các đại biểu Hội đồng nhân dân
liên hệ chặc chẽ với nhân dân, chịu sự giám sát của cử tri, phải thường xuyên
lắng nghe những tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, cử tri trong địa phương
thông qua hoạt động tiếp xúc cử tri. Sau khi đã thu thập, tiếp xúc cử tri để tiếp
thu tâm tư nguyện vọng của nhân dân, Hội đồng nhân dân sẽ triển khai ý chí
nhân dân thành ý chí nhà nước, thành quyết sách có tính bắt buộc ở địa
phương.

+ Cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương.

· Hội đồng nhân dân quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương;

· Hội đồng nhân dân giám sát việc tuân thủ pháp luật và nghị quyết của
Hội đồng nhân dân.
9. Anh (Chị) hãy phân biệt hoạt động lấy phiếu tín nhiệm và bỏ phiếu tín
nhiệm tại Hội đồng nhân dân.

* Hoạt động lấy phiếu tín nhiệm.

- Khái niệm: Là việc Hội đồng nhân dân thực hiện quyền giám sát, đánh giá mức độ tín
nhiệm đối với người giữ chức vụ quyền hạn do hội đồng nhân dân bầu để làm cơ sở cho
việc xem xét đánh giá cán bộ.

- Đối tượng thực hiện: Chủ tịch, Phó chủ tịch Hội đồng nhân dân; Trương ban Hội đồng
nhân dân; Chủ tịch, Phó chủ tịch, Ủy viên Ủy ban Nhân dân.

- Trường hợp thực hiện: Theo hướng dẫn tại hướng dẫn số 321/HD-UBTVQH14 thì lấy
phiếu tín nhiệm được tổ chức định kỳ, Hội đồng nhân dân tổ chức lấy phiếu tín nhiệm
một lần mỗi nhiệm kỳ vào buổi hợp thường lệ cuối năm thứ 03 của nhiệm kỳ.

- Trình tự tiến hành: Ban đầu, thường trực hội đồng nhân dân sẽ lập danh sách những
người cần lấy phiếu tín nhiệm; sau đó HĐND lấy phiếu tín nhiệm bằng cách bỏ phiếu
kin; tiếp theo Thường trực HĐND trình HĐND thông qua.

- Mức độ: Gồm ba mức “Tín nhiệm cao”, “Tín nhiệm”, “Tín nhiệm thấp”.

- Hậu quả: Ngượi bị quá nữa tổng số đại biểu hội đồng nhân dân đánh giá tín nhiệm
thấp thì có thể xin từ chức. Trường hợp người bị lấy phiếu tín nhiệm bị 2/3 tổng số đại
biểu Hội đồng nhân dân bỏ phiếu tín nhiệm thấp thì Thường trực HĐND trình HĐND
bỏ phiếu tín nhiệm.

* Hoạt động bỏ phiếu tín nhiệm.

- Khái niệm: Là việc HĐND thể hiện sự tín nhiệm hoặc không tín nhiệm đối với người
giữa chức vụ do HĐND bầu để làm cơ sở cho việc Miễn nhiệm, đê nghị miễn nhiệm
người bị HĐND không tín nhiệm.

- Đối tượng thực hiện: HĐND bỏ phiếu tín nhiệm đối với những chức danh do HĐND
bầu (có thêm phó trưởng ban).

- Trường hợp tiến hành: 1. Có kiến nghị của ít nhất 1/3 tổng số đại biểu HĐND; 2. Có
kiến nghị của Ủy ban mặt trận tổ quốc Việt Nam cùng cấp; 3. Người được lấy phiếu tín
nhiệm có ít nhất 2/3 tổng số đại biểu HĐND bỏ phiếu tín nhiệm thấp.
- Trình tự thực hiện: 1. Thường trực HĐND trình HĐND việc bỏ phiếu tín nhiệm. sau
đó Người được bỏ phiếu tín nhiệm trình bày ý kiến của mình, 3. HĐND thảo luận, 4.
HĐND bỏ phiếu tín nhiệm bằng hình thức bỏ phiếu kín, 5. Thường trực HĐND trình
HĐND thông qua nghị quyết xác nhận kết quả bỏ phiếu tín nhiệm.

- Mức độ: Tín nhiệm hoặc không tín nhiệm.

- Hậu quả: người được bỏ phiếu tín nhiệm nếu được quá nữa tổng số đại biểu HĐND bỏ
phiếu không tín nhiệm thì có thể xin từ chức. Trường hợp không từ chức thì cơ quan
hoặc người có thẩm quyền đã đề cử HĐND bầu chức vụ đó có trách nhiệm trình HĐND
xem xét, quyết định miễn nhiệm người không được HĐND tín nhiệm.

10. Anh (Chị) hãy trình bày điểm khác biệt về cơ cấu tổ chức
của Hội đồng nhân cấp tỉnh với Hội đồng nhân dân cấp huyện theo Luật Tổ chức
chính quyền địa phương năm 2015.

11. Anh (Chị) hãy cho biết điểm khác biệt trong cách quy định của
Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 về nhiệm vụ, quyền hạn của Hội
đồng nhân dân tỉnh so với nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân thành phố trực
thuộc trung ương. Tại sao? So sánh với Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân năm 2003 về vấn đề này.

12. Anh (Chị) hãy trình bày mối quan hệ pháp lý cơ bản giữa
Hội đồng nhân dân với Ủy ban nhân dân cùng cấp theo quy định của pháp
luật hiện hành.
- Theo Điều 114 Hiến pháp 2013 và Khoản 1 Điều 08 Luật Tổ chức chính quyền địa
phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2019) thì có quy định rằng “Ủy ban nhân dân ở
cấp chỉnh quyền địa phương do hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra, là cơ quan chấp
hành của Hội đồng nhân dân, …”. Theo quy định trên thì ta có thể giữa Ủy ban nhân
dân và Hội đồng nhân dân có quan hệ thành lập và quan hệ chấp hành, cụ thể như sau:
+ Ủy ban nhân dân được thành lập trên cơ sở của HĐND cùng cấp, được thể hiện ở
chổ: Các thành viên của UBND như Chủ tịch, phó chủ tịch và các ủy viên UBND do
HĐND cùng cấp bầu (Xem Điều 83 Luật 2015).
+ UBND có trách nhiệm, nhiệm vụ đó là chấp hành các nghị quyết của HĐND cùng
cấp, thực hiện các nghị quyết của HĐND cùng cấp (Tìm căn cứ để triển khai).
+ UBND chịu trách nhiệm trước HĐND cùng cấp:
· UBND phải chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước HĐND cùng
cấp.
· Các văn bản do UBND ban hành không được trái với Nghị quyết của
HĐND cùng cấp.
+ UBND chịu sự giám sát trước HĐND cùng cấp.
· Đại biểu HĐND có quyền chất vấn chủ tịch, phó chủ tịch, ủy viên của
UBND.
· HĐND có quyền lấy phiếu, bỏ phiếu tín nhiệm đối với các thành viên
của UBND.
· HĐND có quyền miễn nhiễm, bãi nhiệm các chức danh của UBND như
Chủ tịch, phó chủ tịch và ủy viên của UBND.
· Bãi bỏ các văn bản của UBND, Chủ tịch UBND nếu như trái với Hiến
pháp, pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của HĐND cùng
cấp.

13. Anh (Chị) hãy chứng minh rằng Ủy ban nhân dân các cấp là
cơ quan được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc “trực thuộc hai chiều”. Vì sao
Ủy ban nhân dân được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc này?

A) Chứng minh.

- Theo Điều 114 Hiến pháp 2013 và Khoản 1 Điều 08 Luật Tổ chức chính quyền địa
phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2019) thì có quy định rằng “Ủy ban nhân dân ở cấp
chỉnh quyền địa phương do hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra, là cơ quan chấp hành
của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm
trước Hội đồng nhân dân và cơ quan nhà nước cấp trên”. Dựa trên quy định đó ta có thể
thấy UBND có sự trực thuộc hai chiều, một chiều với HĐND cùng cấp, một chiều với
Cơ quan hành chính nhà nước cấp trên. Cụ thể như sau:

* Đối với HĐND:


- Ủy ban nhân dân được thành lập trên cơ sở của HĐND cùng cấp, được thể hiện ở chổ:
Các thành viên của UBND như Chủ tịch, phó chủ tịch và các ủy viên UBND do HĐND
cùng cấp bầu (Xem Điều 83 Luật 2015).
- UBND có trách nhiệm, nhiệm vụ đó là chấp hành các nghị quyết của HĐND cùng cấp,
thực hiện các nghị quyết của HĐND cùng cấp (Tìm căn cứ để triển khai).
- UBND chịu trách nhiệm trước HĐND cùng cấp:
+ UBND phải chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước HĐND cùng cấp.
+ Các văn bản do UBND ban hành không được trái với Nghị quyết của HĐND
cùng cấp.
- UBND chịu sự giám sát trước HĐND cùng cấp.
+ Đại biểu HĐND có quyền chất vấn chủ tịch, phó chủ tịch, ủy viên của UBND.
HĐND có quyền lấy phiếu, bỏ phiếu tín nhiệm đối với các thành viên của UBND.
+ HĐND có quyền miễn nhiễm, bãi nhiệm các chức danh của UBND như Chủ
tịch, phó chủ tịch và ủy viên của UBND.
+ Bãi bỏ các văn bản của UBND, Chủ tịch UBND nếu như trái với Hiến pháp,
pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của HĐND cùng cấp.

* Đối với cơ quan hành chính nhà nước cấp trên.

- Về cách thành lập: UBND tuy được HĐND cùng cấp bầu, tuy nhiên đối với kết quả bầu
các chức danh Chủ tịch, Phó chủ tịch UBND phải được người đúng đầu cơ quan quản lí
nhà nước cấp trên phê chuẩn.

- Về hoạt động:

+ Chịu sự chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra hoạt động, công tác của cơ quan quản lí hành
chính nhà nước cấp trên trực tiếp.
+ Chủ tịch UBND được mời trực tiếp tham dự phiên hợp của UBND cấp trên trực tiếp
khi bàn về các vấn đề có liên quan.

- Kiểm tra, giám sát:

+ UBND, Chủ tịch UBND chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Cơ quan hành
chính nhà nước cấp trên.

+ Người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước cấp trên (Chủ tịch UBND, Thủ
tướng) điều động chủ tịch, phó chủ tịch UBND cấp dưới trực tiếp.

+ Người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước cấp trên (Chủ tịch UBND, Thủ
tướng) quyết định cách chức Chủ tịch, phó chủ tịch UBND cấp dưới trực tiếp khi Chủ
tịch, phó chủ tịch UBND cấp dưới trực tiếp có hành vi vi phạm pháp luật hoặc thực
hiện không đúng chức trách, nhiệm vụ được giao.

+ Người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước cấp trên (Chủ tịch UBND, Thủ
tướng) có quyền phê chuẩn kết quả bãi nhiệm, miễn nhiệm chủ tịch, phó chủ tịch
UBND cấp dưới trực tiếp.

+ Người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước cấp trên (Chủ tịch UBND, Thủ
tướng) có quyền đình chỉ, bãi bỏ văn bản trái pháp luật của UBND, Chủ tịch UBND
cấp dưới trực tiếp.

+ Người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước cấp trên (Chủ tịch UBND, Thủ
tướng) có quyền yêu cầu Chủ tịch UBND cấp dưới trực tiếp đình chỉ, bãi bỏ văn bản
trái pháp luật của Cơ quan chuyên môn của UBND cấp dưới trực tiếp.

B) Lý giải.

14. Anh (Chị) hãy trình bày điểm khác biệt về cơ cấu tổ chức
của Ủy ban nhân dân cấp huyện với Ủy ban nhân cấp xã theo Luật Tổ chức
chính quyền địa phương năm 2015.

à
15. Anh (Chị) hãy chứng minh rằng cơ quan chuyên môn thuộc Ủy
ban nhân dân là cơ quan được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc “trực thuộc hai
chiều”. Vì sao cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân được tổ chức và hoạt
động theo nguyên tắc này?

16. Anh (Chị) hãy trình bày những điểm mới cơ bản của Luật Tổ
chức chính quyền địa phương năm 2015 so với Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân năm 2003 và ý nghĩa.

17. Anh (Chị) hãy nêu định hướng đổi mới đơn vị hành chính ở
nước ta.

18. Có quan điểm cho rằng: Ở huyện, do đặc điểm là đơn vị hành
chính trung gian, không tổ chức Hội đồng nhân dân, chỉ tổ chức Uỷ ban nhân dân để
thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước. Anh (Chị) hãy trình bày ý kiến của mình về vấn
đề này.

19. Anh (Chị) hãy trình bày những hiểu biết của mình về việc thực
hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường theo Nghị quyết
số 26/2008/QH12 ngày 15/11/2008.

20. Có quan điểm cho rằng: Ở phường, do đặc điểm đô thị, không
tổ chức Hội đồng nhân dân, chỉ tổ chức Uỷ ban nhân dân để thực hiện nhiệm vụ của
chính quyền địa phương tại phường.

Anh (Chị) hãy trình bày ý kiến của mình về vấn đề này.

21. Anh (Chị) hãy trình bày định hướng đổi mới mô hình tổ chức
chính quyền địa phương ở nước ta.

22. Anh (Chị) hãy trình bày định hướng đổi mới về cơ quan chuyên
môn thuộc Ủy ban nhân dân.
23. Anh (Chị) hãy trình bày hiểu biết của mình về việc thực hiện cơ
chế “một cửa, một dấu”, “một cửa”, “một cửa liên thông” ở nước ta.

24. Trình bày ý kiến của Anh (Chị) về chủ trương hợp nhất chức danh
Bí thư cấp ủy với Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp.

25. Anh (Chị) hãy trình bày định hướng đổi mới mô hình tổ chức
chính quyền địa phương ở đô thị.

You might also like