You are on page 1of 29

BỘ CÂU HỎI VẤN ĐÁP MÔN LUẬT HIẾN PHÁP

Câu 1: Luật sư Lý Ba (người Trung Quốc) nêu quan điểm: “Ở một quốc gia
tự do dân chủ, bản hiến pháp không chỉ ràng buộc chính quyền mà còn ràng
buộc nhân dân nữa. Thông qua hiến pháp, tập thể dân chúng cam kết tuân
theo một thủ tục tổ chức nhất định về cách thức quản trị công việc chung và
giải quyết xung đột xã hội”. Hãy bình luận về quan điểm trên.

Đúng vì: Một quốc gia dân chủ thì cần có một bản Hiến pháp như vậy nhằm
giới hạn quyền lực của nhà nước và bảo vệ quyền con người.

- Thông qua hiến pháp, người dân ý thức được trách nhiệm, quyền và nghĩa
vụ của mình nhằm xây dựng một đất nước dân chủ. Mọi công dân vi phạm
vào HP thì đều bị xử lí theo luật định. Và để giải quyết các vấn đề chung thì
việc cần thiết đó là mọi người phải tuân theo một thủ tục tổ chức nhất định.

- Ngược lại, dựa vào ý chí của HP, nhân dân quản lí nhà nước thông qua
HP, soi chiếu nhà nước dưới những quy định trong Hiến Pháp. Cũng từ đó
mà nhà nước sẽ làm việc nghiêm túc hơn.

Sai vì: chủ thể của Hiến pháp đó chính là nhân dân, vì vậy Hiến pháp trước
tiên là để ràng buộc nhân dân, sau đó mới ràng buộc chính quyền.

Câu 2: Bộ trưởng Bộ A ban hành một Quyết định theo đó mỗi người chỉ được
sở hữu 01 xe gắn máy. Hãy bình luận từ góc độ Hiến pháp đối với Quyết định
trên. Giả sử Quyết định đó được coi là bất hợp hiến thì cơ chế xử lý theo Hiến
pháp hiện hành của Việt Nam là như thế nào? Hãy bình luận cơ chế đó.

- Từ góc độ Hiến Pháp, quyết định trên là bất hợp hiến. Bởi vì sở hữu xe
gắn máy thuộc về Quyền sở hữu tư nhân và được quy định trong Hiến pháp.

Tại Điều 32, Khoản 1,2 có nêu :"1.Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập
hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt...; 2.Quyền sở hửu tư
nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ ".

Quyết định của Bộ trưởng A được coi là bất hợp hiến, thì cơ chế xử lí theo
Hiến Pháp hiện hành sẽ như sau:
- Theo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 và Nghị
định số 40 năm 2010 của Chính phủ về kiểm tra và xử lý văn bản quy
phạm pháp luật, Thủ tướng Chính phủ có quyền đình chỉ thi hành, hủy bỏ,
bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ nội dung đối với thông tư do Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang Bộ ban hành, liên tịch ban hành trái với Hiến pháp,
luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, nghị định của Chính phủ,
quyết định của Thủ tướng Chính phủ, các quy định về ngành, lĩnh vực quản
lý nhà nước của Bộ, cơ quan ngang Bộ khác.

=> Trong trường hợp này, Bộ trưởng Bộ tư pháp sẽ trình Thủ tướng Chính
phủ xem xét quyết định bãi bỏ quyết định của Bộ trưởng Bộ A vì trái với
Hiến pháp. Tuy nhiên cơ chế xử lí hành vi vi hiến ở Việt Nam còn nhiều
hạn chế như: quy định xử lý dài dòng; chỉ đình chỉ thi hành, hủy bỏ, bãi bỏ
một phần hoặc toàn bộ nội dung đối với thông tư mà không hề xử lí hành vi
vi phạm của Bộ trưởng, như thế là pháp luật vẫn còn lỏng lẻo, chưa hà khắc
và các sai phạm vẫn có thể lặp lại. Cần phải có cơ chế xử lý, truy cứu trách
nhiệm của những người ban hành, soạn thảo văn bản sai đồng thời nên có sự
quản lý, kiểm tra, kiểm định nghiêm ngặt hơn các văn bản sắp được ban
hành

Câu 3: Bộ C ban hành Thông tư quy định mỗi cá nhân chỉ được đăng ký 01 xe
gắn máy. Điều này có vi phạm luật và Hiến pháp không? Nếu có thì cơ chế xử
lý hiện hành như thế nào? Đánh giá về cơ chế xử lý đó.

Thông tư này cũng tría với HP và PL, hạn chế quyền sở hữu của công dân được
quy định trong Điều 32 Hiến pháp 2013 và Theo quy định tại Điều 58 Hiến pháp
và Điều 221 Bộ luật Dân sự, công dân có quyền sở hữu tài sản không bị hạn chế
về số lượng, giá trị.

Hành vi của Bộ C là vi phạm hiến pháp chủ động. Vi hiến chủ động là hình thức
vi phạm khi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành 1 quy phạm pháp luật
thuộc quyền hạn và trách nhiệm của mình đã đặt ra những quy định trái với những
quy định của Hiến Pháp hoặc là trái với tinh thần của Hiến Pháp. Do ý kiến chủ
quan của các cơ quan nhà nước, thực hiện để có lợi cho mình và vô hình chung,
đẩy bất lợi về phía nhân dân.
Bình luận: Tương tự câu trên

Câu 4: HĐND tỉnh N ra Nghị quyết quy định việc tuyển công chức vào các cơ
quan hành chính trong tỉnh sẽ hạn chế tiếp nhận những người có bằng đại học
tại chức hoặc đại học dân lập. Điều này có vi phạm luật và Hiến pháp không?
Nếu có thì sẽ được cơ quan có thẩm quyền xử lý như thế nào? Đánh giá về cơ
chế xử lý đó.

Theo điều Điều 36, Luật Cán bộ, Công chức quy định điều kiện đăng ký dự
tuyển công chức như sau:

1. Người có đủ các điều kiện sau đây không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần
xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo được đăng ký dự tuyển công chức:

a) Có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam;

b) Đủ 18 tuổi trở lên;

c) Có đơn dự tuyển; có lý lịch rõ ràng;d) Có văn bằng, chứng chỉ phù hợp;đ) Có
phẩm chất chính trị, đạo đức tốt;e) Đủ sức khỏe để thực hiện nhiệm vụ;g) Các điều
kiện khác theo yêu cầu của vị trí dự tuyển

Và xét điều 16 trog chương Quyền con người: "Không ai bị phân biệt, đối xử trong
đời sống chính trị, dân sự, văn hóa, xã hô ̣i", ở đây là vi phạm quyền dân sự của
người lao động.

Bộ nội vụ có đưa ra phát ngôn của mình về vấn đề này: "Không chấp nhận bằng tại
chức là vi phạm PL. Hệ tại chức ở VN có nhữg yếu kém là do khâu quản lí yếu
kém, không phải do bản chất hình thức đào tạo này. Hơn nữa còn có một thực tế là
chưa chắc nhữg người có bằg tại chức đã kém hơn người có bằng chính quy (nhiều
người làm cán bộ giỏi rồi mới đi học tại chức, vì trước đó họ không có điều kiê ̣n
học) Nếu muốn loại bỏ bằg tại chức, phải lập ra một hội đồng tuyển dụng minh
bạch, công bố điểm thi cụ thể, chứng tỏ cho người dân thấy nhữg người có bằng tại
chức không đáp ứng đủ nhu cầu tuyển dụng, thì mới được phép gạt bỏ hồ sơ của
họ. Đây là xâm phạm nghiêm trọng quyền công dân.Nếu quốc hội ban hành chế
định mới ko tuyển dụng bằg tại chức thì nó mới được luật hóa.

Tuy nhiên thực tế hiện nay việc học tại chức tràn lan, không hiệu quả, không có
năng lực thực sự, chỉ vì mục đích kiếm cái bằng để dễ xin việc nên mới dẫn đến
vẫn đề các cơ quan hành chính hạn chế tiếp nhận những người có bằng đại học tại
chức là vì thế.

Câu 5. HĐND thành phố Đ (là thành phố trực thuộc trung ương), ra nghị
quyết dừng đăng ký thường trú mới vào khu vực nội thành đối với những
người không có nghề nghiệp hoặc nhiều tiền án, tiền sự. Nghị quyết của
HĐND nói trên có vi phạm Luật và Hiến pháp không? Nếu có thì cơ chế xử lý
hiện hành như thế nào? Đánh giá cơ chế xử lý đó.

Việc dừng đăng ký thường trú vào khu vực nội thành với những người không có
nghề nghiệp hoặc có tiền án tiền sự là vi phạm hiến pháp, pháp luật.

Vì:

- Theo điều 68 hiến pháp 2013 “công dân có quyền tự do cư trú”

- Theo điều 20 luật cư trú thì mọi công dân có quyền đăng ký hộ khẩu thường trú
khi có chỗ ở hợp pháp, đã tạm trú tại thành phố đó liên tục từ một năm trở lên
(trường hợp chỗ ở hợp pháp do thuê, mượn, ở nhờ mà người cho thuê, cho mượn,
cho ở nhờ đồng ý bằng văn bản)

Cơ chế xử lý: theo khoản 4, điều 98

Thủ tướng có quyền “đình chỉ việc thi hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với hiến pháp, luật và các văn bản của
cơ quan nhà nước cấp trên, đồng thời đề nghị Ủy ban thường vụ quốc hội bãi bỏ”.

Đánh giá cơ chế xử lý: cơ chế xử lý còn hạn chế vì

- Việt Nam không có một cơ quan bảo hiến chuyên trách vì thế cơ chế giám sát, xử
lý các văn bản vi hiến, vi luật không đạt được hiệu quả cao, mang tính chính trị,
thiếu khách quan,….

- Việc thu hồi, thay thế, tạm đình chỉ hay bãi bỏ văn bản đó không phù hợp với luật
là chưa đủ. Cần phải có cơ chế xử lý và truy cứu trách nhiệm của những người ban
hành, soạn thảo văn bản sai, đồng thời nên có sự quản lý, kiểm tra, kiểm định
nghiêm ngặt hơn đối với các văn bản sắp được ban hành.

Câu 6. HĐND thành phố Đ (là thành phố trực thuộc trung ương), ra nghị
quyết dừng đăng ký thường trú mới vào khu vực nội thành đối với những
người không có nghề nghiệp hoặc nhiều tiền án, tiền sự. Nhiều tổ chức cá
nhân cho rằng nghị quyết này vi phạm Luật cư trú (trái luật). Trong khi đó,
HĐND thành phố H lại cho rằng họ ban hành Nghị quyết này theo quy định
của Luật tổ chức và hoạt động của HĐND, do đó không thể nói rằng Nghị
quyết đó trái luật. Đánh giá quan điểm trên.

- Theo điều 68 hiến pháp “công dân có quyền tự do cư trú”

- Theo điều 20 Luật cư trú thì mọi công dân có quyền đăng ký hộ khẩu thường trú
khi có chỗ ở hợp pháp, đã tạm trú tại thành phố đó liên tục từ một năm trở lên
(trường hợp chỗ ở hợp pháp cho thuê, mượn, ở nhờ mà người cho thuê, mượn, cho
ở nhờ đồng ý bằng văn bản)

Tuy nhiên HĐND thành phố H lại cho rằng họ ban hành Nghị quyết này theo quy
định của Luật tổ chức HĐND và UBND, do đó không thể trái luật là có lý do. Bởi
theo điều 12, 18, Luật tổ chức HĐND và UBND thì HĐND có quyền “phân bổ
dân cư và cải thiện đời sống nhân dân địa phương”; “quyết định biện pháp quản
lý dân cư thành phố và tổ chức đời sống đô thị”

- Nhận xét: quan điểm trên của HĐND thành phố H là không có căn cứ bởi thẩm
quyền chung của HĐND theo quy định của Luật tổ chức HĐND và UBND phải
phù hợp với những quy định riêng (chuyên ngành) về các điều kiện đăng ký hộ
khẩu thường trú. Trong trường hợp này thì Luật tổ chức HĐND và UBND đóng
vai trò là Luật chung , Luật cư trú là Luật riêng, luật riêng sẽ được ưu tiên áp
dụng trước. Hơn nữa các hành vi lạm dụng quy định về hộ khẩu làm hạn chế
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân đều bị nghiêm cấm.

Câu 7: Căn cứ vào Nghị quyết của HĐND thành phố H, một thành phố trực
thuộc trung ương về việc dừng đăng ký thường trú mới vào khu vực nội thành
đối với những người không có nghề nghiệp hoặc có nhiều tiền án, tiền sự,
UBND cùng cấp đã không giải quyết các hồ sơ xin đăng ký hộ khẩu thường
trú của những đối tượng trên. Hành vi của UBND nói trên có vi phạm luật và
Hiến pháp không? Nếu có thì cơ chế xử lý hiện hành như thế nào? Đánh giá
về cơ chế xử lý đó.

Quyết định của HĐND và hành vi của UBND là vi phạm Hiến pháp, pháp luật.
Theo điều 23 Hp 2013,công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong
nước...viê ̣c thực hiê ̣n quyền này do PL quy đinh hay điều 3 luâ ̣t cư trú: CD có
quyền tự do cư trú theo quy định của luật cư trú và các quy định khác của PL có
liên quan. Cd có đủ điều kiê ̣n đăng ký thường trú, tạm trú thì có quyền yêu cầu cơ
quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký thường trú,tạm trú...

Cơ chế xử lí và đánh giá về cơ chế tương tự các câu trên.

Câu 8: Ủy ban nhân dân tỉnh X ban hành một Quyết định theo đó xe gắn máy
ngoài ngoại tỉnh không được vào tỉnh X. Hãy bình luận từ góc độ Hiến pháp
đối với Quyết định trên. Giả sử Quyết định đó được coi là bất hợp hiến thì cơ
chế xử lý theo Hiến pháp hiện hành của Việt Nam là như thế nào? Hãy bình
luận cơ chế đó.

Đây là một quyết định bất hợp hiến, trái với Hiến pháp ở chương II: Quyền con
người, Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân cụ thể điều 23 nêu rõ: "Công dân
có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước". Ở điều 14 cũng cho biết " Quyền
con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong
trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội,
đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng". Ủy ban nhân dân tỉnh X không có quyền ban
hành quyết định không cho xe ngoại tỉnh được vào tỉnh X. Đây là quyết định vi
phạm quyền tự do đi lại của công dân.

Trong trường hợp này theo Hiến pháp hiện hành thì Bộ Tư pháp sẽ đưa ra ý kiến
đến quyết định mà tỉnh X ban hành, chỉ ra đây là quyết định trái với Hiến pháp.
Yêu cầu UBND tỉnh X rút kinh nghiệm trong việc soạn thảo, ban hành, kiểm tra,
xử lý VBQPPL, không để lặp lại những thiếu sót như trong quyết định trên. Các
nội dung trong quyết định ban hành cần phải được cơ quan Tư pháp tỉnh thẩm định
và tổ chức lấy ý kiến của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của các quy định.
Trước những hành vi trái luật và Hiến pháp của các văn bản quy phạm pháp luật
của HĐND Tỉnh, cơ chế xử lý hiện hành đang đặt ra nhiều vấn đề. Bộ tư pháp với
tư cách là cơ quan chịu trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về công tác
kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật có thể kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp
của các cơ quan chính quyền địa phương, trong đó có UBND Tỉnh. Tuy nhiên,
Bộ tư pháp không có quyền đình chỉ, bãi bỏ các văn bản của UBND, mà chỉ có
quyền kiến nghị các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về kết quả kiểm tra của mình
và việc hủy bỏ hay bãi bỏ quyết định của HĐND là thuộc về Thủ tướng Chính phủ.

Câu 9: Ủy ban nhân dân tỉnh X ban hành một quyết định theo đó người nào
đua xe trái phép thì tịch thu xe và bán đấu giá. Giải sử điều này được xác định
là không phù hợp với Luật xử lý vi phạm hành chính. Hỏi phải xử lý như thế
nào đối với Quyết định nói trên? Hãy bình luận về cơ chế xử lý đó.

Theo Khoản 3 Điều 38 Luật xử lí vi phạm hành chính

Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có quyền:

a) Phạt cảnh cáo;

b) Phạt tiền đến mức tối đa đối với lĩnh vực tương ứng quy định tại Điều 24 của
Luật này;

c) Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ
hoạt động có thời hạn;

d) Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính;

đ) Áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản 1 Điều 28 của Luật
này.

UBND Tỉnh X có quyền tịch thu xe của những người có hành vi vi phạm, tuy
nhiên lại không có quyền mang tài sản tịch thu đi bán đấu giá, đây là 1 hành vi vi
phạm Luật

Đối với trường hợp này, người dân khiếu nại cấp đó tự hủy bỏ hoặc cấp trên trực
tiếp hủy hoặc theo thủ tục tư pháp khởi kiện ra tòa hành chính.

Câu 10: Thông tư số 29/2001/TT-BVHTT ngày 05/06/2001 của Bộ văn hoá


thông tin hướng dẫn Quyết định số 46/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
phủ, tại Điều 2.IV quy định: “Hàng hoá nhập khẩu là các hàng hoá ấn phẩm,
là tác phẩm điện ảnh phải được Bộ văn hoá-thông tin phê duyệt nội dung và
kế hoạch nhập khẩu”. Trong khi đó, theo Bản phụ lục 3 được ban hành kèo
theo Quyết định số 46/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ thì đối với các
loại ấn phẩm và tác phẩm điện ảnh nhập khẩu chỉ phê duyệt nội dung. Hỏi
Thông tư có hợp pháp không ? Nếu bất hợp pháp thì cơ chế xử lý như thế nào
? Hãy bình luận về cơ chế đó

Thông tư trên của bộ văn hóa thông tin là không hợp pháp vì thông tư của bộ văn
hóa thông tin phải căn cứ vào hiến pháp, luật nghị quyết, quyết định chỉ thị của cấp
trên ban hành. Theo Bản phụ lục 3 được ban hành kèo theo quyết định số
46\201\qđ-ttg của thủ tướng chính phủ thì đối với các loại ấn phầm và và tác phẩm
điện ảnh nhập khẩu " chỉ phê duyệt nội dung " mà theo thông tư hướng dẫn quyết
định số 46\2001\qđ-ttg của bộ văn hóa thông tin còn yêu cầu phê duyệt cả kế
hoạch nhập khẩu.

Cơ chế xử lý văn bản quy phạm pháp luật không hợp pháp được thực hiện theo cơ
chế tự xử lý (cơ quan có quyền ban hành thì phải tự xử lý) hoặc cơ quan cấp trên
trực tiếp (trong trường hợp này là Thủ tướng Chính phủ có quyền xử lý). Thủ
tướng chính phủ có quyền bãi bỏ hoặc đình chỉ thông tư đó.

Song cơ chế trên thực tế vẫn có nhiều bất cập như việc xử lý các văn bản trái luật,
với chủ thể ban hành các văn bản đó vẫn chưa có chế tài cụ thể và trình tự cụ thể.
Phổ biến vẫn đang dừng lại ở mức kiểm điểm, rút kinh nhiệm trong nội bộ. Theo
em cần phải nghiên cứu nhiều hơn và tìm ra những giải pháp, trình tự, chế tài cụ
thể để xử lý những văn bản trái luật và đối với chủ thể ban hành.

Câu 11: Luật sư X cho rằng một điều khoản trong Bộ luật Hình sự không phù
hợp với một quy định về quyền công dân trong Hiến pháp hiện hành. Luật sư
X có thể kiến nghị đến cơ quan nào để xem xét?

Luật sư đó có thể bằng nhiều con đường khác nhau để kiến nghị xem xét lại điều
khoản đó như: Kiến nghị lên Liên đoàn Luật sư và liên đoàn LS sẽ kiến nghị lên
MTTQ; hoặc kiến nghị lên Bộ tư pháp -> Quốc hội;… Tuy nhiên, cách thông dụng
nhất vẫn là thông qua đại biểu Quốc hội.

Câu 12: Công dân A đã viện dẫn Hiến Pháp trong một phiên tòa để bảo vệ
quyền và lợi ích liên quan của mình. Hội đồng xét xử không đồng ý cách viện
dẫn của công dân A, vì cho rằng Hội đồng xét xử không có thẩm quyền căn cứ
vào Hiến pháp để giải quyết vụ việc. Hãy bình luận về cách giải quyết của Hội
đồng xét xử.
Cách giải quyết của HĐXX như vậy là sai. Vì để giải quyết, xem xét một vụ kiện,
để đưa ra được bản án cuối cùng, HĐXX phải dựa vào những quy định có trong
luật pháp. Mà hiến pháp là đạo luật cơ bản của mỗi quốc gia, là luật gốc, tất cả các
văn bản PL đều phải dựa vào Hiến Pháp, vì vậy đáng ra các thẩm phán trong
HĐXX phải dựa vào hiến pháp đầu tiên.

Tuy nhiên, vì HPVN chưa có đạo luật trực tiếp nên việc HĐXX chưa quên và chưa
áp dụng HP là điều dễ hiểu. Hp muốn đi vào đời sống phải có luật, đây là thói quen
pháp lí

Câu 13: Trong ngày bầu cử, công dân A đủ điều kiện đi bầu cử, có tên trong
danh sách cử tri nhưng không đi bầu. Sau đó, khi anh ta đến Ủy ban nhân
dân xã X nơi anh ta cư trú để làm hổ khẩu. Nhân viên của Ủy ban nhân dân
đã không tiến hành làm thủ tục cho anh ta với lý do anh ta đã không đi bầu
cử. Nhân viên Ủy ban nhân dân hành động có đúng Hiến pháp không?

+ Thứ nhất: Nhân viên UBND hành động không đúng Hiến pháp vì: Việc đi bầu
cử và việc đăng kí hộ khẩu là khác nhau, không thể vì việc không đi bầu cử mà
không dăng kí hộ khẩu cho một công dân. Theo hiến pháp, người dân có quyền
được khai sinh, được tự do cư trú (bao hàm cả việc đăng kí hộ khẩu). Quyền này
không phụ thuộc vào việc người đó đã hoàn thành nghĩa vụ bầu cử hay chưa.

+ Thứ hai: Việc công dân A không đi bầu là chưa hoàn thành nghĩa vụ của mình,
Quyền bầu cử là quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp, pháp luật quy định
nhằm bảo đảm cho mọi công dân có đủ điều kiện thực hiện việc lựa chọn người đại
biểu của mình vào cơ quan quyền lực nhà nước. Quyền của công dân không tách
rời nghĩa vụ của công dân. Tuy nhiên hiện nay VN vẫn chưa có cơ chế xử phạt
những người không đi bầu cử, mà nhà nước ta chỉ vận động, khuyến khích nhân
dân đi bầu cử vì đó là quyền làm chủ của nhân dân.

Câu 14: Một cán bộ của một cơ quan nhà nước tham gia biểu tình về một vấn
đề chính trị-xã hội trong nước, nhưng bị cơ quan đó kiểm điểm và kỷ luật, với
lập luận là nước ta chưa có Luật Biểu tình nên việc tham gia biểu tình là vi
phạm pháp luật. . Hãy bình luận vụ việc này từ góc độ các quy định liên quan
của Hiến pháp?
Theo điều25 HP 2013 "công dân có quyền tự do ngôn luận tự do báo chí,tiếp cận
thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật
quy định"

Tuy nhiên nước ta chưa có luật biểu tình cho nên biểu tình (được coi là một hoạt
động xã hội) và bị các quy phạm xã hội khác điều chỉnh. Biểu tình hợp pháp là
cuộc biểu tình lành mạnh không gây rối trật tự xã hội đảm bảo trật tự an ninh. Nếu
vì lí do chính trị mà cuộc biểu tình mang lại kết quả xấu thì có thể bị đình chỉ. Như
vậy cán bộ cơ quan đó có quyền tham gia biểu tình nhưng bản thân là một công
chức nhà nước nên sáng suốt khi tham gia vào các cuộc biểu tình. Cơ quan nhà
nước sai do chưa có luật biểu tình nên cán bộ đó không thể bị coi là vi phạm pháp
luật để bị kiểm điểm và kỷ luật.

Câu 15. Công dân H yêu cầu một Bộ cung cấp thông tin về một vấn đề mà Bộ
đang chịu trách nhiệm quản lý trực tiếp. Bộ không cung cấp thông tin với lập
luận rằng Hiến pháp chỉ quy định quyền tiếp cận thông tin, tức là quyền được
truy cập các thông tin mà cơ quan nhà nước công khai, chứ không quy định
quyền của công dân được yêu cầu cơ quan nhà nước cung cấp thông tin mà cơ
quan đó đang nắm giữ. Hãy bình luận về hành động và sự giải thích của bộ.

Cách giải quyết của bộ là sai với hiến pháp vì theo điều 25 hiến pháp 2013 “công
dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội,
biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật định”.

Sự giải thích của Bộ là không có căn cứ bởi hiện nay chưa có Luật cụ thể nào quy
định về quyền tiếp cận thông tin của người dân.

Hầu hết các văn bản hiện hành mới chỉ dừng lại ở việc xác định trách nhiệm cung
cấp thông tin của cơ quan nhà nước cũng như quyền tự do thông tin mang tính
nguyên tắc, tính khái quát hơn là tính thực tiễn. Các quy định về tiếp cận thông tin
chủ yếu giao quyền tự quyết định việc cung cấp thông tin cho cơ quan quản lý
thông tin thuộc lĩnh vực mà cơ quan đó phụ trách do đó mỗi cơ quan, mỗi lĩnh vực
lại có những quy định khác nhau về cách thức, quy trình cung cấp thông tin.

Do các quy định pháp luật hiện hành còn nhiều bất cập nên việc tiếp cận thông tin
do các cơ quan nhà nước nắm giữ vẫn khó khăn, dẫn tới tính công khai, minh bạch
trong hoạt động của cơ quan công quyền chưa được thực hiện, biểu hiện rõ nhất là
trên lĩnh vực đất đai, đền bù giải toả, dự án ưu đãi, các khoản tín dụng, cứu trợ
thiên tai… Vì thế, hiện tượng quan liêu, tham nhũng, cửa quyền, hách dịch, lợi
dụng các kẽ hở của pháp luật trong cơ quan nhà nước vẫn phổ biến, dẫn tới hiện
tượng khiếu kiện đông người, khiếu kiện kéo dài, khiếu kiện vượt cấp.

Đặt ra vấn đề: cần ban hành luật tiếp cận thông tin để xác định rõ những thông tin
nào được tiếp cận, chưa được tiếp cận hoặc không được tiếp cận; quy định trình tự,
thủ tục về việc tiếp cận thông tin; cơ sở từ chối cung cấp thông tin để tạo cơ sở
pháp lý cho cá nhân, tổ chức thực hiện quyền tiếp cận thông tin của mình…

Câu 16: Công dân A không tham gia bỏ phiếu trong cuộc bầu cử Quốc hội, vì
cho rằng bầu cử là quyền chứ không phải là nghĩa vụ. Nhưng các tổ chức
chính trị-xã hội khu vực dân cư nơi công dân A yêu cầu công dân A phải thực
hiện nghĩa vụ bầu cử. Hãy đánh giá về tranh cãi trên.

Nếu căn cứ vào hiến pháp 2013 :Tại điều 27 trong chương II chỉ ghi" công dân đủ
18 tuổi có quyền đi bầu cử " thì quan điểm công dân A là không sai. Tuy nhiên

- Ở nước ta, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện
quyền lực nhà nước thông qua các hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện.

Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của cử tri, bởi vì:

- Cử tri tham gia bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân là thực hiện quyền cơ bản về
bầu cử và ứng cử của công dân - những quyền chính trị cơ bản trong một nhà nước
dân chủ được Hiến pháp quy định.

- Thông qua bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, cử tri vừa thực hiện quyền chính
trị của công dân đồng thời thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm của công dân trong
việc xây dựng, tổ chức bộ máy chính quyền địa phương bằng việc lựa chọn, giới
thiệu và bầu người được nhân dân tín nhiệm vào Hội đồng nhân dân - cơ quan
quyền lực Nhà nước ở địa phương.

Câu 17: Qua những thông tin về vụ án oan 10 năm áp dụng đối với ông
Nguyễn Thanh Chấn (Bắc Giang), anh/chị hãy làm rõ các quyền con người
nào không được bảo đảm theo quy định của Hiến pháp hiện hành.

Trong vụ việc của ông Nguyễn Thanh Chấn, các quyền con người không được bảo
đảm theo quy định của HP hiện hành là:
- Điều 20: Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được PL bảo hộ về
sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình
hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm than thể, sức khỏe, xúc phạm danh
dự, nhân phẩm.

Ở đây, ông Chấn rõ ràng bị oan nhưng cuối cùng lại thừa nhận việc mình không
làm. Tại sao vậy? Đương nhiên là có công lao không nhỏ của các cán bộ làm công
tác lấy lời khai. Hẳn ông đã phải chịu những tra tấn, bạo lực thậm chí có thể là sự
đe doạ về an toàn của ông và những người thân.

- Điều 25: Công dân có quyền tự do ngôn luận.

Khi ông Chấn bị tra hỏi lấy khẩu cung, quyền này đã bị xâm phạm. Bởi, nếu ông tự
do ngôn luận, luôn nói rằng mình không làm việc xấu đó, thì lại bị khép vào tội cản
trở người thi hành công vụ.

- Điều 31: (khoản 1 và khoản 4) hiến pháp 2013 :

1.Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo
trình tự của luật định và có bản kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật

4. Người bị bắt giữ, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền
tự bào chữa hoặc nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa: Những lời tự bào chưa
của ông Chấn đều bị phủ nhận

+) Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam,… thi hành án trái PL có quyền được bồi
thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự, nhân phẩm: Việc ông Chấn đòi
bồi thường số tiền 10 tỷ hiện vẫn dậm chân tại chỗ, chưa có 1 cá nhân hay 1 cơ
quan có thẩm quyền nào lên tiếng.

Câu 18: Trước kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khóa 12, một phóng viên hỏi một
vị lãnh đạo của Văn phòng Quốc hội: “Trong kỳ họp tới đây, nếu đại biểu
Quốc hội giới thiệu thêm ứng cử viên khác ngoài danh sách đề cử thì sẽ xử lý
như thế nào, thưa ông?”. Vị lãnh đạo trả lời: “Sau khi Chủ tịch nước, Thủ
tướng giới thiệu nhân sự, nếu đại biểu giới thiệu thêm ứng cử viên thì Quốc
hội xem xét, quyết định danh sách”. Đánh giá về câu trả lời.

Câu hỏi của phóng viên không nói rõ là đại biểu quốc hội giới thiệu vào danh sách
đề cử chức vụ gì. Nhưng qua câu trả lời của vị lãnh đạo có nhắc đến chức vụ Thủ
tướng và Chủ tịch nước thì có thể hiểu vấn đề liên quan đến chức danh Thủ tướng
và các thành viên của nội các. Theo điều 84, 85 Luật tổ chức Quốc hội (sửa đổi, bổ
sung năm 2007), Chủ tịch nước giới thiệu người làm Thủ tướng chính phủ, Chánh
án tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao trong số
các đại biểu quốc hội để quốc hội bầu, còn Quốc hội phê chuẩn đề nghị của Thủ
tướng về việc bổ nhiệm các Phó thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của
Chính phủ theo danh sách đề cử chức vụ từng người. Như vậy luật không trao
quyền cho đại biểu quốc hội được giới thiệu, đề cử ứng cử viên cho những
chức vụ đã nêu. Vì vậy câu trả lời của vị lãnh đạo là không chính xác.

Câu 19: Một đại biểu Quốc hội có dự định đề xuất một dự án luật nhưng
không biết trình tự, thủ tục cho việc này thế nào? Hãy tư vấn cho đại biểu đó.

Việc lập dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh được quy định cụ thể trong
Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) năm 2008 và các văn bản
hướng dẫn thi hành. Theo đó, Luật ban hành VBQPPL năm 2008 dành hẳn một
chương riêng quy định cụ thể về quy trình, thủ tục, quyền hạn của các chủ thể
trong việc lập dự kiến Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội (từ
Điều 22 đến Điều 29). Nghị định số 24/NĐ-CP ngày 05-3-2009 của Chính phủ quy
định chi tiết quy trình lập dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh (từ Điều 1
đến Điều 19) cũng quy định cụ thể, rõ ràng, bảo đảm tính khả thi trong trình tự, thủ
tục, hồ sơ, thời hạn đề xuất xây dựng chương trình xây dựng luật, pháp lệnh.

Hồ sơ dự án, dự thảo gửi Chính phủ tham gia ý kiến bao gồm:

a) Tờ trình về dự án, dự thảo;

b) Dự thảo văn bản;

c) Bản thuyết minh chi tiết về dự án, dự thảo và báo cáo đánh giá tác động của dự
án, dự thảo;

d) Báo cáo tổng kết việc thi hành pháp luật, đánh giá thực trạng quan hệ xã hội
liên quan đến nội dung chính của dự án, dự thảo;

đ) Tài liệu khác (nếu có)

Câu 20: Có quan điểm cho rằng việc Quốc hội không thông qua luật để thực
thi các quy định Hiến pháp là vi hiến. Bình luận về quan điểm đó.
Trước hết, có ý kiến cho rằng một trong các hành vi vi hiến là hành vi không thực
hiện thẩm quyền và nghĩa vụ đã được Hiến pháp quy định. Cơ quan, tổ chức, cá
nhân được Hiến pháp giao thẩm quyền, nếu không thực hiện hoặc thực hiện không
kịp thời những thẩm quyền và nghĩa vụ đó thì sẽ bị coi là vi phạm Hiến pháp
(không hành động). Vậy, trong các trường hợp mà cơ quan, cá nhân có thẩm quyền
chậm trễ hoặc không thực hiện thẩm quyền ban hành văn bản quy định cụ thể về
các quyền và tự do hiến định của công dân thì có bị coi là vi phạm Hiến pháp hay
không? Để trả lời một cách thấu đáo câu hỏi này, cần lưu ý một nguyên tắc quan
trọng của Nhà nước pháp quyền: trong mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân,
khi Nhà nước ghi nhận và khẳng định quyền và tự do của công dân đồng nghĩa với
việc Nhà nước xác định nghĩa vụ, trách nhiệm của mình phải bảo đảm thực hiện
các quyền và tự do đó. Một trong những bảo đảm quan trọng nhất đó là bảo đảm
pháp lý, tức là các văn bản pháp luật về quyền và tự do của công dân. Do vậy, sự
thiếu hụt hay chậm trễ ban hành của các văn bản quy phạm phạm luật quy định
quyền và tự do hiến định của công dân cũng phải được coi là vấn đề Hiến pháp và
xem xét tính hợp hiến của hành vi không hành động của cơ quan, cá nhân được
trao thẩm quyền.

Ví dụ như về quyền biểu tình, điều 25 Hiến pháp 2013 quy định: “Công dân có
quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình.
Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Thế nhưng hiện nay ở Việt
Nam chưa hề có luật biểu tình. Đề xuất có Luật Biểu tình đã đưa ra từ lâu, ngay từ
Hến pháp năm 1959 điều 25 cũng đã quy định công dân có quyền biểu tình. Nhưng
vấn đề này đã được bỏ qua để tập trung cho vấn đề lớn hơn đó là giành độc lập cho
dân tộc, phát triển đất nước. Thế nhưng đến nay, đất nước ta đã giành được thái
bình, điều luật này vẫn chưa được thông qua mặc dù được khẳng định tính cấp
thiết và có nhiều cuộc biểu tình xảy ra.Do không có Luật bảo vệ, người biểu tình
rất dễ bị quy vào tội "tụ tập đông người", "gây rối trật tự công cộng" theo Nghị
định 38 của Chính phủ ban hành năm 2005.

Tuy nhiên cũng còn tuỳ thuộc vào tình hình chính trị xã hội hoặc bối cảnh của đất
nước cùng sự phù hợp của điều luật nên Quốc hội có thể điều chỉnh, chỉ đạo mà
không thông qua luật miễn sao là phù hợp với thực tại và mang lại lợi ích cho nhân
dân, vì vậy chưa thể kết luận được rằng có vi hiến hay không mà theo cá nhân em,
đó chỉ là một mặt hạn chế trong việc đảm bảo thực thi Hiến pháp.
Câu 21: Sinh viên Nguyễn Văn A, không phải là đại biểu Quốc hội, nhận thấy
rằng cần thiết phải có một đạo luật về giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
Anh ta cũng đã có những ý tưởng cơ bản thuộc nội dung của đạo luật đó. Anh
A phải làm thế nào để đề xuất ý tưởng của mình thành luật?

Do sinh viên Nguyễn Văn A không phải là đại biểu Quốc Hội nên không có điều
kiện để trình bày nguyện vọng của mình:”trích dẫn đề bài ” trước Quốc Hội 1 cách
trực tiếp qua các phiên họp quốc hôi về dự án luật . nhưng gián tiếp, anh có thể
thông qua HĐND, UBND , chính đại biểu QH của địa phương mình để trình bày ý
kiến của mình lên quốc hội.Anh sẽ phải đến cơ quan thẩm quyền đó là HĐND,
UBND nơi ở, trình bày trước đại biểu Quốc Hội ở địa phương và đề đạt mong
muốn QH xem xét. Như đã biết, theo định kỳ chính phủ tổ chức các buổi tiếp dân
trực tiếp tại các trụ sở tiếp dân của nhà nước theo nghị định số 64/2014/NĐ-CP,
quy định chi tiết 1 số điều luật tiếp công dân có hiệu lực từ ngày 1/7/2014,do có
tới 90% luật do Chính phủ đề đạt và cat thẩm định. Theo đó,A có thể tìm hiều về
thời gian và địa điểm làm việc cụ thể của buổi tiếp dân đó qua các phương tiện
thông tin đại chúng và tới các buổi tiếp công dân đó do các Bộ trưởng hay Thanh
tra chính phủ làm việc để trình bày , đề đạt mog muốn và nguyện vọng của mình.
Anh A nên chuẩn bị cho mình 1 vốn kiến thức khá toàn diện và đầy đủ về vấn đề
đó , đặc biết vấn đề mà anh mong muốn trở thành luật phải phù hợp với Hiến pháp
hiện hành để có thể thuyết phục được cơ quan nhà nước.

Câu 22: Một số cử tri trong cùng một khu vực dân cư cho rằng cần sửa đổi
một đạo luật hiện hành để có thể gần hơn với thực tiễn đời sống và áp dụng
hiệu quả hơn. Các cử tri này nên làm gì?

Hiện nay chỉ các cơ quan quốc hội, đại biểu quốc hội, mặt trận tổ quốc và chính
phủ mới được quyền trình dự án luật, pháp lệnh và nghị quyết. Các tổ chức cá nhân
không thuộc các đối tượng trên không có quyền trình hoặc đề xuất dự án luật. Vì
vậy công dân không có quyền trình dự án luật. Tuy nhiên điều 79 Hiến pháp 2013
quy định : “ Đại biểu Quốc hội (…) thu thập và phản ánh trung thực ý kiến, nguyện
vọng của cử tri với Quốc hội, các cơ quan, tổ chức hưũ quan”, vì vậy các cử tri có
thể bày tỏ ý kiến của mình với các đại biểu Quốc hội để họ xem xét và trình lên
cấp trên
Hiện tại, các tổ chức phi chính phủ và người dân có thể góp ý vào Luật qua một số
kênh. Thứ nhất, người dân góp ý trực tiếp khi văn bản được đưa lên Trang thông
tin điện tử của chính phủ, hoặc của cơ quan chủ trì soạn thảo. Một kênh thứ hai
quan trọng hơn đó là các cơ hội trao đổi góp ý trực tiếp với Tổ thư ký hoặc Ban
soạn thảo. Việc này thường được tổ chức ở hình thức hội nghị, hội thảo góp ý cho
các vấn đề do Ban soạn thảo đưa ra, thường là những vấn đề phức tạp, còn nhiều ý
kiến khác nhau

Câu 23: Sau khi Quốc hội thông qua một đạo luật và chuyển sang cho Chủ
tịch nước công bố nhưng Chủ tịch nước nhận thấy đạo luật có dấu hiệu bất
hợp hiến. Theo em Chủ tịch nước có thể làm gì trong trường hợp này? Hãy
bình luận về quy định của Hiến pháp hiện hành về vấn đề này.

CHỦ TỊCH NƯỚC PHẢI CÔNG BỐ

Trong trường hợp này Chủ tịch nước có quyền đề nghị ban thường vụ Quốc hội
xem xét lại pháp lệnh trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày đạo luật được thông qua,
nếu pháp pháp lệnh đó vẫn được Ủy ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành
mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định
tại kỳ họp gần nhất

Quy định của hiến pháp hiện hành về vấn đề này được thể hiện qua khoản 1,điều
88 trong chương VI- Chủ tịch nước. Trong mối quan hệ với Quốc hội: Hiến pháp
đã quy định về thẩm quyền công bố Hiến pháp, luật, pháp lệnh và đề nghị Ủy ban
thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh

Câu 24: Sau khi Ủy ban thường vụ Quốc hội ban thông qua một Pháp lệnh và
chuyển sang cho Chủ tịch nước công bố nhưng Chủ tịch nước nhận thấy rằng
pháp lệnh này có dấu hiệu bất hợp hiến. Theo em, Chủ tịch nước có thể làm gì
trong trường hợp này? Hãy bình luận về quy định của Hiến pháp hiện hành
về vấn đề này.

- Theo em, Chủ tịch nước có thể: đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại
pháp lệnh trong 10 ngày kể từ ngày pháp lệnh đó được thông qua, nếu pháp lệnh
đó vẫn được Uỷ ban thường vụ QH tán thành mà Chủ tich nước vấn không nhất trí
thì Chủ tịch nước trình QH quyết định tại kỳ họp gần nhất.
- Theo em, quy định của HP về vấn đề này khá hợp lý về trình tự giải quyết.
Nhưng, nó lại không đề cao vai trò của Chủ tich nước.

CÂU HỎI THÊM CỦA THẦY: Chủ tịch nước như vậy cũng không gọi là có
quyền "phủ quyết tương đối". Theo em hiểu , "Phủ quyết tương đối" nghĩa là sự
phủ quyết của Chủ tịch nước đã chiếm đến ít nhất 50% biểu quyết. Mà ở đây, Chủ
tịch nước chỉ có quyền " Đề nghị", cao nhất cũng chỉ là Đề nghị ở kỳ họp QH tiếp
theo. Còn tán thành hay không thì lại do QH bàn bạc rồi mới đưa ra quyết định.
Nói chung, em cảm thấy quyền này của Chủ tịch nước giống như quyền của người
tư vấn nhà đất vậy, nêu ra những cái được, cái không của mảnh đất đó nhưng cuối
cùng cũng không có quyền quyết định mua hay không.

Câu 25: Sau khi kỳ họp thứ 11, kỳ họp cuối cùng của Quốc hội khoá X kết
thúc, trả lời phỏng vấn của Phóng viên một tạp chí chuyên ngành về về chức
năng của Quốc hội trong việc quyết định những vấn đề quan trọng của đất
nước, một đại biểu Quốc hội cho rằng trong thời gian qua, Quốc hội “chưa
thực sự thực hiện quyền quyết định của mình mà phần lớn là dựa vào đề nghị
của Chính phủ rồi đồng ý.” Hãy bình luận nhận định trên.

Trên đây chỉ là ý kiến chủ quan của một đại biểu quốc hội, nhưng có phần đúng,
phần nào đã phản ánh chức năng của Quốc hội trong việc quyết định những vấn đề
quan trọng của đất nước chưa thực sự hiệu quả, còn tồn tại nhiều hạn chế. Còn thụ
động, phần lớn là dựa vào đề nghị của Chính phủ rồi đồng ý. Từ góc độ thực hiện
quy trình xem xét, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước trong hoạt động
của Quốc hội cho thấy những tồn tại, vướng mắc làm giảm hiệu lực, hiệu quả hoạt
động của Quốc hội.

Tồn tại đầu tiên cần đề cập là chưa có sự phân biệt các lĩnh vực cần ra nghị quyết
với các nội dung, hình thức thể hiện trong nghị quyết để xây dựng quy trình xem
xét phù hợp. Quy định thời gian cho các khâu chuẩn bị chưa được rõ ràng, không
phù hợp với từng loại vấn đề mà Quốc hội bàn bạc, quyết định. Chưa phân biệt và
quy định rõ ràng trách nhiệm của cơ quan chủ trì soạn thảo và cơ quan phối hợp
soạn thảo, chỉnh lý dự thảo nghị quyết. Lúng túng, bị động trong việc phối hợp
hoặc có sự đùn đẩy trách nhiệm, "miễn cưỡng" tham gia. Hầu hết các nghị quyết về
các vấn đề quan trọng của đất nước thường chỉ do Đoàn thư ký kỳ họp soạn thảo,
chỉnh lý và xin ý kiến các cơ quan hữu quan. Trong khi đó, có những nghị quyết
quan trọng như nghị quyết về nhiệm vụ kinh tế- xã hội hàng năm với những chỉ
tiêu, giải pháp lẽ ra phải do Bộ kế hoạch và Đầu tư đứng ra chủ trì dự thảo năm
trước rồi gửi cho các cơ quan của Quốc hội tiến hành thẩm tra trước khi trình Quốc
hội quyết định. Nghị quyết là văn bản quy phạm pháp luật nhưng trên thực tế hầu
như các nghị quyết không chứa đựng cá quy phạm pháp luật, chủ yếu thể hiện thái
độ chung của Quốc hội là đồng tình hay không đồng tình việc đã làm hoặc dự kiến
làm của các cơ quan nhà nước, có khi là lời kêu gọi, là khẩu hiệu, mục tiêu phấn
đấu. Một số nghị quyết có chỉ tiêu cụ thể, có chứa các quy phạm pháp luật lại ít
được Quốc hội xem xét, đánh giá về việc triển khai thực hiện nên có tư tưởng xem
nhẹ tính ràng buộc pháp lý của nghị quyết nói chung và quy trình xem xét thông
qua nghị quyết. Nhìn tổng thể chúng ta chưa có một quy trình đầy đủ, chặt chẽ, phù
hợp với thực tiễn tổ chức và hoạt động của Quốc hội, phù hợp với yêu cầu nâng
cao vị trí, vai trò của Quốc hội trong việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất
nước. Các quy định của quy trình còn tản mạn, thiếu thống nhất, thiếu cụ thể dẫn
đến việc áp dụng rất lúng túng và chưa hình thành một nền nếp quy củ, rõ ràng, cụ
thể, khoa học để giúp cho việc Quốc hội xem xét, quyết định các vấn đề quan trọng
của đất nước một cách thực chất. Từ đây cho thấy muốn nâng cao hiệu lực, hiệu
quả hoạt động của Quốc hội thì việc hoàn thiện quy trình là một nhiệ vụ cấp thiết.
Hoàn thiện quy trình là một vấn đề hết sức phức tạp, đòi hỏi phải có nhận thức
đúng, đầy đủ, toàn diện về các công việc đã được tiến hành và sẽ phải tiến hành.
Đây còn là một quá trình vừa làm, vừa rút kinh nghiệm. Ở thời điểm hiện nay, việc
hoàn thiện quy trình hướng vào việc nghiên cứu sửa đổi Luật ban hành văn bản
quy phạm pháp luật, các quy chế hoạt động của Đại biểu Quốc hội, các cơ quan
của Quốc hội, Nội quy kỳ họp quốc hội và các nghị quyết, đạo luật liên quan.

Câu 26: Đại biểu Quốc hội Nguyễn Văn A cho rằng hoạt động của Bộ trưởng
Bộ B không hiệu quả. Đại biểu A muốn Bộ trưởng B phải bị bỏ phiếu tín
nhiệm trước Quốc hội. Hỏi Đại biểu A phải làm gì theo đúng trình tự của
Hiến pháp hiện hành.

Đại biểu A phải vận động các đại biểu (ít nhất 1/4 số đại biểu đồng ý thì cuộc bỏ
phiếu tín nhiệm trước quốc hội mới xảy ra)

Câu 27: Trả lời chất vấn trước Quốc hội sáng ngày 27/11/2006, Chánh án Tòa
án nhân dân tối cao đã nói: “Để đảm bảo chất lượng công tác xét xử, cần phải
có 5 điều kiện: (1) Người tiến hành tố tụng tốt; (2) hệ thống pháp luật tốt; (3)
người tham gia tố tụng tốt;(4) hệ thống các cơ quan hỗ trợ tư pháp tốt; (5) và
thực hiện tốt nguyên tắc độc lập tư pháp, tuân theo pháp luật”. Hãy bình luận
nhận định trên.

Tôi đồng tình với nhận định trên của chánh án tòa án nhân dân tối cao. Tuy vậy cá
nhân tôi thấy 5 nhận định trên chưa cụ thể và nhấn mạnh vào điều kiện quan trọng
nhất . Tất nhiên tất cả các yếu tố này đều tác động đến hoạt động xét xử. Nếu các
yếu tố tốt thì hđ xét xử có thể tốt và ngc lại. Mặc dù 5 điều kiện là cần thiết xong
tôi thấy rằng yếu tố Người tiến hành tố tụng tốt là điều kiện quan trọng hơn cả.
Một bản án cụ thể là kết quả tổng hợp từ quá trình tác nghiệp của các cơ quan tố
tụng, nhưng phán quyết cuối cùng của Tòa án là quan trọng hơn cả. Những bản án
nghiêm minh, đúng người, đúng tội luôn nhận được sự đồng tình, ủng hộ của nhân
dân. Tuy nhiên, vì lý do nào đó mà bản án được tuyên theo kiểu "giơ cao, đánh
khẽ", hoặc oan, sai, thì người dân chúng sẽ không thể chấp nhận.tôi rất đồng tình
với ý kiến của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng: Phải đào tạo, bồi dưỡng, xây
dựng đội ngũ cán bộ Tòa án, nhất là Thẩm phán, thật sự có năng lực, phẩm chất để
đáp ứng yêu cầu xét xử hiện nay. Có như vậy mới góp phần làm giảm những vụ án
bị xét xử oan, sai. Vậy càng chứng tỏ điều kiện tiên nhất để đảm bảo chất lượng
công tác xét xử là ng tiến hành tố tụng tốt và sau đó là các yếu tố kia ....

Và điều quan trong hơn cả đối với công tác xét xử đó chính là Tư pháp phải độc
lập hoàn toàn với hành pháp và lập pháp.

Câu 28: Chất vấn Chánh án Tòa án nhân dân tối cao tại Quốc hội sáng ngày
27/11/2006, một đại biểu Quốc Hội có đề cập đến vụ nhà số 83 Đội Cấn. Ông
Chánh án tỏ ý thắc mắc về việc đại biểu này ở tận Vũng Tàu mà sao có rất
nhiều công văn chất vấn, giám sát gửi đi các cơ quan về vụ việc ở tận Hà Nội.
Hãy đánh giá về phát biểu của Chánh án.

Đây là một phiên chất vấn Chánh án tòa án nhân dân tối cao, tuy nhiên những câu
trả lời trong phiên chất vấn của Chánh án Nguyễn Văn Hiện không mang lại sức
thuyết phục cho các đại biểu, trong đó có đại biểu Nguyễn Hồng Sinh ( Vũng Tàu )
đã đưa ra những câu hỏi nhạy cảm về việc số lượng các vụ án oan sai có quá nhiều
và các biện pháp xử lý thì cũ và không mang lại hiệu quả. Ông Chánh án đã tỏ thái
độ bực tức khi bà Sinh đề cập đến vụ nhà số 83 Đội Cấn. Ông Hiện tỏ ý thắc mắc
về việc bà Sinh ở tận Vũng Tàu mà sao có rất nhiều công văn chất vấn, giám sát
gửi đi các cơ quan về vụ việc ở tận Hà Nội. Hành động cho thấy ông Chánh án đã
không có thái độ cởi mở, cầu thị, tiếp thu để thay đổi mà đang cố gắng bảo vệ
mình, trong khi đó có rất nhiều vấn đề nổi cộm chưa giải quyết được. Ông chưa có
những giải pháp cụ thể mà chỉ nói chung chung và vòng vo, càng giải trình càng
thấy cái khó và chưa làm hài lòng được các đại biểu và cả Chủ tịch Quốc hội.

Câu 29: Quốc hội bỏ phiếu bãi nhiệm một đại biểu Quốc hội vì có nhiều ý
kiến cho rằng đại biểu không còn được cử tri tín nhiệm. Có 60% tổng số đại
biểu tán thành việc bãi nhiệm đại biểu này. Kết quả bỏ phiếu này có giá trị
như thế nào? Giá trị của bỏ phiếu bãi nhiệm khác gì so với bỏ phiếu tín
nhiệm?

Theo Hiến pháp : “Luật , Nghị Quyết phải được quá nửa tổng số đại biểu QH
biểu quyết tán thành, trừ các trường hợp QH bãi nhiệm ĐBQH, rút ngắn kéo dài
nhiệm kỳ QH thì phải được ít nhất 2/3 tổng số đại biểu QH biểu quyết tán
thành ...”

Do vậy , QH bỏ phiếu bãi nhiệm 1 đại biểu QH vì có nhiều ý kiến cho rằng ĐBQH
đó không còn được cử tri tín nhiệm. Có 60% tổng số đại biểu tán thành việc bãi
nhiễm đại biểu này. Thì , kết quả bỏ phiếu như vậy sẽ không được QH thông qua,
vì mới 60% tổng số đại biểu tán thành, chưa đủ so với con số ít nhât 2/3 tổng đại
biều QH. Nên đại biểu đó sẽ không phải từ chức mà sẽ hoạt động công tác theo
nhiệm kỳ của mình. Nhưng đại biểu này cần phải xem xét lại việc thực hiện pháp
luật của mình,trách nhiệm của mình với nhân dân, tại sao nhiều cử tri của mình lại
lên tiếng bất tín nhiệm như vậy .

Giá trị của bỏ phiếu bãi nhiệm và bỏ phiếu tín nhiệm:

Bỏ phiếu bãi nhiệm : đại biểu quốc họi đại diện cho thực hiện ý chí mong
muốn của nhân dân, thay mặt dân thực hiện quyền lợi cho nhân dân, khi không còn
được cử tri tín nhiệm nếu đại biểu đại biểu QH nhận được ít nhất là ¼ tổng số của
tri tình, thành phố trực thuộc trung ương đã bầu ra đại biều đó, đại biểu sẽ bị QH
bãi nhiệm khi có ít nhất 2/3 tổng số đại biểu QH biểu quyết tán thành việc bãi
nhiệm , đại biểu đó phải từ chức . Có thể thấy khi không có trách nhiệm với nhân
dân , không đáp ứng được nhu cầu nguyện vọng ý chí của nhân dân thì đại biểu sẽ
bị nhân dân bãi nhiễm, QH chỉ là đại diện cho quyền lực của nhân dân , thay nhân
dân tìm ra những người đại biểu có năng lực , trách nhiệm phục vụ nhà nước, phục
vụ nhân dân.

Bỏ phiếu tín nhiệm:

- Giá trị của bỏ phiếu tín nhiệm là niềm tin của cử tri

- Là kiểm chứng tính liên tục , bền vững về năng lực, phẩm chất những người được
tín nhiệm cao, đồng thời là dịp để đánh giá , khắc phục hạn chế trong quá trình
thực thi nhiệm vụ của những cán bộ có nhiều phiếu tín nhiệm thấp trong lần lấy
phiếu trước đó, và là cơ hội để các đại biểu có nhiều phiếu tín nhiệm thấp lần này
cố gắng lỗ lực hơn nữa với trách nhiệm của mình với nhân dân.

- Việc lấy phiếu tín nhiệm đảm bảo được tính khách quan , dân chủ , phản ánh
được ý chí của nhân dân trong việc đặt niềm tin của đại biểu của mình.

- Đây là cách đbQH thay mặt cử tri cua mình đánh giá mức độ hoàn thành công
việc , nhiệm vụ trách nhiệm của các cán bộ chủ chốt trong bộ máy nhà nước. Khi
các ĐBQH lấy phiếu tín nhiệm những chức danh mà mình đã bầu và phê chuẩn thì
lá phiếu không còn là của chính họ mà là của cử tri đã bầu ra họ. Do đó nếu đại
biểu QH làm méo mó giá trị của lá phiếu thì tức là họ đã tự tước đi quyền lợi và
quyền lực chính dáng của mình.

Có 3 mức lấy phiếu tín nhiệm đó là:

- Tín nhiệm cao

- Tín nhiệm

- Tín nhiệm thấp

Câu 30: Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm một đại biểu Quốc hội vì có nhiều ý kiến
cho rằng đại biểu không còn được cử tri tín nhiệm. Có 40% tổng số đại biểu
tín nhiệm đại biểu này. Kết quả bỏ phiếu này có giá trị như thế nào? Giá trị
của bỏ phiếu tín nhiệm khác gì so với lấy phiếu tín nhiệm?

Theo nghị quyết 35/2012/QH13 của Quốc hội quy định: “Người có quá nửa tổng
số đại biểu đánh giá “tín nhiệm thấp” có thể xin từ chức nếu xét thấy bản thân
không đủ tín nhiệm hoặc không đủ khả năng đảm nhiệm chức vụ đó” và “Người có
02 năm liên tiếp có quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội đánh giá “tín nhiệm thấp”
thì Ủy ban thường vụ Quốc hội, Thường trực Hội đồng nhân dân trình Quốc hội,
Hội đồng nhân dân bỏ phiếu tín nhiệm .”

Bỏ phiếu tín nhiệm khác lấy phiếu tín nhiệm:

Lấy phiếu tín nhiệm định kỳ hằng năm là để đánh giá mức độ tín nhiệm của đại
biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân đối với người giữ chức vụ do Quốc hội,
Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn làm cơ sở cho việc đánh giá cán bộ của cơ
quan có thẩm quyền.

Bỏ phiếu tín nhiệm là việc đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân thể hiện sự tín
nhiệm hoặc không tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng
nhân dân bầu hoặc phê chuẩn làm cơ sở choviệc miễn nhiệm chức vụ đối với người
mà Quốc hội hoặc Hội đồng nhân dân không còn tín nhiệm

Câu 31: Trong thời qian qua, Quốc hội đã tổ chức lấy phiếu tín nhiệm các
chức danh do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn dựa trên 3 mức đánh giá: tín
nhiệm cao, tín nhiệm và tín nhiệm thấp. Hãy bình luận quy định pháp luật và
thực tiễn thực thi việc lấy phiếu tín nhiệm ở nước ta.

- Mục đích của việc lấy phiếu tín nhiệm:


+ Nhằm nâng cao hiệu quả giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân đối
với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn;
giúp những người này nhận thấy được mức độ tín nhiệm để có biện pháp
phấn đấu, rèn luyện, nâng cao trách nhiệm và hiệu quả hoạt động của mình.
+ Làm cơ sở cho việc đánh giá cán bộ của cơ quan có thẩm quyền.
+ Bỏ phiếu tín nhiệm làm cơ sở cho việc miễn nhiệm chức vụ đối với người
mà Quốc hội hoặc Hội đồng nhân dân không còn tín nhiệm.
- Việc lấy phiếu tín nhiệm ở Việt Nam có 3 mức: tín nhiệm cao, tín nhiệm và
tín nhiệm thấp để lựa chọn các đối tượng yếu kém dành cho bước tiếp theo
đó là bỏ phiếu tín nhiệm. Tuy nhiên với 3 mức này, làm cho tất cả đều được
tín nhiệm, hoàn toàn triệt bước bỏ phiếu tín nhiệm và rất khó định lượng
giữa “tín nhiệm thấp” và “tín nhiệm cao”. Vì lấy có thể thấy lấy phiếu tín
nhiệm là việc làm vô ích, không ai bị cách chức, mọi thứ vẫn y nguyên.
- Việc lấy phiếu tín nhiệm ở VN chưa hiệu quả, cần đảm bảo tính công khai,
minh bạch, công tâm, tránh các mục đích vụ lợi, trục lợi. Cần thay đổi 3 mức
lấy phiếu tín nhiệm thành 2 mức: “Tín nhiệm” và “Không tín nhiệm”.
Câu 32: Trong phiên thảo luận về dự án Luật Đầu tư Công tại Ủy ban
Thường vụ Quốc hội chiều ngày 21 tháng 2 năm 2014, khi nói đến trách
nhiệm của Quốc hội trong việc thông qua các chủ trương đầu tư kém hiệu
quả, Chủ tịch Quốc hội cho rằng: Quốc hội là cơ quan lập pháp, nếu quyết sai
cũng phải nhận khuyết điểm chứ không phải kỷ luật, Chủ tịch Quốc hội cũng
không phải người đứng đầu Quốc hội. Vì thế, không thể vì cả 500 đại biểu bỏ
phiếu mà kỷ luật cả 500 vị hay kỷ luật ông Chủ tịch. Quốc hội tức là dân, dân
quyết sai thì dân chịu, chứ kỷ luật ai. Hãy bình luận nhận định trên.

- Quốc hội là cơ quan Đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất của nước CHXHCNVN. Ở VN, chưa có một cơ chế hay cơ
quan nào xử lí các sai phạm của Quốc hội. Vì vậy ý kiến của Chủ tịch Quốc
hội cho rằng: “, nếu quyết sai cũng phải nhận khuyết điểm chứ không phải
kỷ luật” là ý kiến đúng. Trên thực tế, "Không phải tất cả công trình đều đưa
ra QH, UBND, chỉ những công trình quan trọng, phạm vi ảnh hưởng rộng,
tác động nhiều môi trường dân cư, di dân, xã hội, nền kinh tế quốc dân mới
đưa ra QH xem xét cho làm hay không. Ý chí của QH là cho biểu quyết, trên
51% thì được đánh giá là quan trọng. Ý chí của QH thể hiện trong tham
mưu, thảo luận đi - lại để cuối cùng đa số ĐBQH thấy là đồng ý chủ trương
làm rồi mới xây dựng dự án để đầu tư, qua hội đồng thẩm định, quan kênh
A, B, nhà khoa học, tham khảo, tư vấn... rồi mới đến quyết định đầu tư dự
án của ông Thủ tướng.”
- Tuy nhiên, QH cũng không thể đổ trách nhiệm về nhân dân, “Quốc hội tức
là dân, dân quyết sai thì dân chịu” mà QH phải tìm ra một giải pháp tối ưu
nhất để đẩm bảo lợi ích của người dân chứ không thể để tình trạng Quốc hội
làm, dân chịu và cần thiết có 1 cuộc bỏ phiếu tiếp quyết định lại chủ trương
để đạt hiệu quả cao nhất và cần hết sức thận trọng khi quyết định một chủ
trương.

Câu 33: Trả lời phỏng vấn của các phóng viên tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa
13, Bộ trưởng Bộ Y tế nêu quan điểm về tình trạng quá tải ở những bệnh viện
tuyến trên, rằng: “Thiếu giường bệnh thì phải hỏi Nhà nước”. Hãy bình luận
quan điểm trên của người đứng đầu ngành Y tế Nhà nước.

- Quan điểm của Bộ trưởng Bộ Y tế là hoàn toàn Sai, thể hiện sự vô trách
hiệm của Bộ trưởng.
- Điều 99 Hiến pháp 2013 thì:
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ là thành viên Chính phủ và là
người đứng đầu bộ, cơ quan ngang bộ, lãnh đạo công tác của bộ, cơ quan
ngang bộ; chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực được phân
công; tổ chức thi hành và theo dõi việc thi hành pháp luật liên quan đến
ngành, lĩnh vực trong phạm vi toàn quốc.
- Và nghị định 188/2007/NĐ-CP về chức năng nhiệm vụ,quyền hạn và cơ
cấu tổ chức của bộ y tế,khoản 3 điều 2 quy định nhiệm vụ quyền hạn của
bộ y tế: “Chủ trì, phối hợp với bộ tài chính, trình thủ tướng chính phủ quyết
định danh mục dữ trữ quốc gia; tổ chức thực hiện dự trữ quốc gia về thuốc,
hóa chất, trang thiết bị y tế, phương tiện phòng chống dịch bệnh, thiên tai
thảm họa theo quy định của pháp luật.”
- Nhà nước chịu trách nhiệm trước nhân dân để quản lý toàn bộ hoạt động
của đời sống xã hội. Còn việc “thiếu giường bệnh” là vấn đề của Bộ Y tế, vì
thế Bộ trưởng phải có trách nhiệm với các lĩnh vực liên quan đến ngành của
mình. Trong tình huống này, nếu như bộ trưởng bộ y tế nhận thấy thiếu
giường bệnh mà không đề xuất phối hợp với bộ tài chính và trình thủ tướng
chính phủ cấp chi phí khắc phục vấn đề trên thì bộ trưởng bộ y tế phải chịu
trách nhiệm về việc không thực hiện đúng nhiệm vụ của mình. Còn trong
trường hợp bộ trưởng đã báo cáo đến chính phủ nhưng không được phê
duyệt thì lại là trách nhiệm của thủ tướng chính phủ.

Câu 34: Trong phiên họp Quốc hội sáng ngày 04 tháng 6 năm 2011, bàn về
chương trình làm luật cho năm 2011, một đại biểu nêu quan điểm: “Tôi đề
nghị Quốc hội lên tiếng để Chính phủ và các cơ quan giải thích vì sao đưa vào
(đưa dự luật vào chương trình làm luật) rất nhiều lập luận, đưa ra (rút dự
luật khỏi chương trình làm luật) lại rất nhẹ nhõm. Nhiều bộ luật lấy lý do
nhạy cảm liên quan quốc phòng an ninh hay quan hệ quốc tế thì đồng ý,
nhưng nhiều vấn đề không nhạy cảm thì sao?” Hãy bình luận về vai trò của
Chính phủ trong qui trình lập pháp hiện nay thông qua phát ngôn trên.

+ Quyền lập pháp của Chính phủ được thực hiện trên cơ sở quyền trình dự án luật,
pháp lệnh.

+ Việc đưa vào (đưa dự luật vào chương trình làm luật) rất nhiều lập luận cho thấy:
CP muốn thể hiện tính đúng đắn, cần thiết của các dự án luật do CP trình QH thông
qua. Còn việc đưa ra (rút dự luật khỏi chương trình làm luật) lại rất nhẹ nhõm cho
thấy Chính phủ không muốn công khai với tàn thể nhân dân sự bất cập, bất hợp lí
trong các bộ luật do mình đề xuất, thể hiện sự thiếu trách nhiệm của CP, nhất là
trách nhiệm giải trình trước QH mà nếu có thì chỉ là những lí do hết sức đơn giản.

 Vì vậy, trong qui trình lập pháp, Chính phủ phải cân nhắc thật kĩ, bản thân
các Đại biểu cũng phải có trách nhiệm trong việc đưa vào và rút ra các dự án
luật.

Câu 35: Quốc hội tổ chức bỏ phiếu để kéo dài nhiệm kỳ của mình thêm một
năm.Kết quả có 60% tổng số đại biểu tán thành việc kéo dài. Kết quả bỏ
phiếu này đã đủ để Quốc hội kéo dài nhiệm kỳ không?

KHÔNG vì:

Theo Khoản 3 Điều 71 HP 2013 có quy định rõ: 3. Trong trường hợp đặc biệt, nếu
được ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành thì Quốc
hội quyết định rút ngắn hoặc kéo dài nhiệm kỳ của mình theo đề nghị của Ủy ban
thường vụ Quốc hội. Việc kéo dài nhiệm kỳ của một khóa Quốc hội không được
quá mười hai tháng, trừ trường hợp cóchiến tranh.

Tuy nhiên, trong tình huống mới chỉ có 60% tổng số đại biểu tán thành chưa đạt
2/3 vì vậy không đủ.

Câu 36: Ông H. là Giám đốc Công ty điện lực tỉnh C, đồng thời là đại biểu
Quốc hội. Cơ quan Công an phát hiện ông H có hành vi tham ô, muốn ra lệnh
bắt để tạm giam ông này phục vụ cho việc điều tra. Để bắt ông H, cơ quan
chức năng phải thực hiện thủ tục gì theo quy định của Hiến pháp hiện hành?

+ Điều 20 Hiến pháp 2013

2. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc
phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt,
giam, giữ người do luật định.

+ Điều 81 Hiến pháp 2013 “ Không được bắt, giam, giữ, khởi tố đại biểu Quốc hội
nếu không có sự đồng ý của Quốc hội hoặc trong thời gian Quốc hội không họp,
không có sự đồng ý của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; trong trường hợp đại biểu
Quốc hội phạm tội quả tang mà bị tạm giữ thì cơ quan tạm giữ phải lập tức báo
cáo để Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định.”

Trong trường hợp này cơ quan Công an không bắt quả tang vị đại biểu này nên
không được phép tạm giữ. Mà cơ quan công an cần phải trình lên Ủy ban thường
vụ Quốc hội xem xét, nếu ủy ban thường vụ Quốc hội đồng ý thì cơ quan công an
mới có quyền bắt giữ để điều tra.

Câu 37: Trả lời phỏng vấn báo chí, một đại biểu Quốc hội phát biểu về vai
trò của luật sư: “Luật sư ở Việt Nam chỉ bào chữa cho những người có tiền”.
Phản ứng trước phát biểu này, Liên đoàn Luật sư đã có công văn đề nghị Chủ
tịch Quốc hội và Chủ tịch Ủy ban tư pháp xem xét tư cách và trách nhiệm của
đại biểu Quốc hội đó. Hãy bình luận về vụ việc trên.

Theo điều 25, Hiến pháp 2013 quy định: Công dân có quyền tự do ngôn luận. Tuy
nhiên trong trường hợp phát ngôn của vị đại biểu quốc hội này đã đưa ra một cách
đánh giá phiến diện, “mang tính quy chụp và thiếu căn cứ đối với nghề luật sư”

Phát ngôn này của đại biểu quốc hội là một nhận định thiếu căn cứ và trái với quy
định tại Điều 3, Luật luật sư (được sửa đổi bổ sung năm 2012) về chức năng xã hội
của luật sư, theo đó: “Hoạt động nghề nghiệp của luật sư góp phần bảo vệ công
lý, các quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền lợi ích hợp pháp của cá nhân,
cơ qua, tổ chức, phát triển kinh tế-xã hội, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”

Bởi vậy có thể nói việc phát ngôn của đại biểu quốc hội trên cần được xem xét
lại và đại biểu quốc hôi trên cần phải xin lỗi hoặc có câu trả lời thỏa đáng cho
những luật sư làm việc với lương tâm và đạo đức nghề nghiệp.

Tuy nhiên, câu nói của đại biểu quốc hội này cũng nêu lên được thực trạng xã hội
Việt Nam hiện nay, đó là việc những người nghèo thường không có tiền thuê luật
sư bào chữa. Một con số đáng để chúng ta suy nghĩ đó là trong 100 vụ án hiện nay,
có đến 80% không có luật sư bào chữa. Một phần do thiếu luật sư và cũng vì 80%
cá vụ án đó liên quan đến người nghèo không có tiền thuê luật sư để bào chữa. Thê
nhưng điều ngược lại 100% số vụ án kinh tế như tham nhũng, tranh chấp đất đai
thì rất nhiều luật sư bào chữa,..
Từ thực trạng nêu trên, điều đặt ra cho giới luật sư, những người muốn đảm bảo
công bằng, công lý cho xã hội đó là tập trung giải quyết vấn đề làm sao để xóa bỏ
thực tế chỉ người có tiền mới nhờ được luật sư?

Vì nhiều hạn chế mà hiện nay ở Việt Nam, chỉ trong một số trường hợp cụ thể
Nhà nước mới đứng ra trả tiền cho luật sư bào chữa thay cho các bị can, bị cáo
không được bào chữa vì lý do kinh tế trước tòa án. Để cải thiện điều này, giới luật
sư Việt Nam cần góp ý một cách thỏa đáng hơn trong bộ luật Tố tụng hình sự, kêu
gọi mở rộng quyền được bào chữa của bị can, bị cáo cho những vụ án hình sự lớn
nhỏ và nếu bị can, bị cáo không thể trả tiền thuê mướn luật sư, nhà nước sẽ phải trả
tiền cho họ. Đó là cách giải quyết tốt hơn cho xã hôi và phản ánh được lập trường
của giới luật sư Việt Nam.

+ Mặc dù vậy, ĐBQH Đỗ Văn Đương vẫn khẳng định “điều tôi nói là tiếng nói của
dân, xuất phát từ thực tế” và ông cũng cho rằng: “Hiến pháp quy định đại biểu phát
ngôn được quyền miễn trừ trách nhiệm” Nhưng quyền không chịu trách nhiệm về
phát biểu của đại biểu chỉ ở tại phiên họp, chứ không phải ở ngoài đường, hay bên
ngoài hành lang thế này có lẽ cũng không được coi là ở trong phiên họp. Các phát
biểu bên ngoài thì đại biểu vẫn phải chịu trách nhiệm như người bình thường.

Thiết nghĩ, nếu đã phát biểu tại tổ, hay hội trường thì cũng phải cân nhắc, thận
trọng, chứ không phải suồng sã, hay xúc phạm người khác. Đại biểu có quyền như
thế nhưng nếu phát biểu xúc phạm người ta thì họ cũng có quyền lên tiếng.

Câu 38: Trên một diễn đàn blog cá nhân của mình, một đại biểu Quốc hội đã
có những nhận định rất gay gắt về một vị đại biểu Quốc hội khác. Cho rằng
phát biểu của đại biểu Quốc hội này là không phù hợp với chuẩn mực văn hóa
tranh luận và làm ảnh hưởng đến ủy tín của Đoàn đại biểu, Đoàn đại biểu
Quốc hội đã họp yêu cầu đại biểu Quốc hội đó xin lỗi công khai. Hãy bình
luận về vụ việc trên.

+ Trước hết cần phải biết rằng Blog cá nhân như là một cuốn nhật kí online nhằm
thông báo, chia sẻ những cảm xúc, sự kiện diễn ra hằng ngày, mọi người đều có
thể xem và chia sẻ.

+ Vấn đề thứ nhất: Đại biểu A có những nhận định gay gắt về đại biểu B trên Blog
cá nhân là không đúng. Bởi vì Blog cũng là 1 loại mạng xã hội, thông tin rất nhanh
và sẽ được nhiều người biết đến. Việc có những nhận định gay gắt về đại biểu B có
nghĩa là đại biểu A đã xâm phạm đến quyền tự do ngôn luận của A và sẽ ảnh
hưởng đến uy tín và danh dự của ĐB A, như thế là không nên mà nếu có bức xúc
gì thì ĐB A nên gặp trực tiếp ĐB B để cùng trao đổi về quan điểm của cả 2 người

+ Vấn đề thứ hai: khi nghe ý kiến của đại biểu A , Đoàn đại biểu đã đưa ra yêu cầu
ĐB B phải xin lỗi là chưa đảm bảo tính khách quan. Vì Đoàn đại biểu chưa có 1
cuộc họp hay 1 hoạt động xem xét nào mà đã họp đưa ra kết luận đại biểu B phải
xin lỗi với nhận đinh của mình. Đoàn đại biểu mới chỉ nghe ý kiến đưa ra từ phía
Đại biểu A. Do đó nếu như bị buộc xin lỗi công khai khi chưa được xem xét rõ
ràng thì danh dự của đại biểu B sẽ bị ảnh hưởng. Nhưng nếu thực sự đại biểu B đã
sai thì việc xin lỗi công khai thì không có gì phải bàn cãi .Điều quan trọng ở đây là
thấy được cái hạn chế trong cách làm việc của Đoàn đại biểu là chưa khách quan
và đảm bảo quyền con người .

Câu 39: Sáng 30/7/2007, tại Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ đã thuyết trình
phương án thay đổi bộ máy Chính phủ từ 26 bộ, cơ quan ngang bộ xuống còn
22. Những bộ, cơ quan nganh bộ nào đã được điều chỉnh? Tại sao lại có sự
điều chỉnh đó?

+ Những bộ, cơ quan ngang bộ đã được điều chỉnh đó là:

- Hợp nhất Bộ Thủy sản với Bộ NNPTNT thành Bộ NNPTNT - sẽ thành lập
Cục hoặc Tổng cục Thuỷ sản trực thuộc Bộ NNPTNT;
- Hợp nhất Bộ Công nghiệp và Bộ Thương mại thành Bộ Công thương, thực
hiện chức năng quản lý nhà nước từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm;
- Giải thể Uỷ ban Dân số Gia đình và Trẻ em - chuyển chức năng quản lý nhà
nước về dân số sang Bộ Y tế - thành lập Cục hoặc Tổng cục Dân số; Chuyển
chức năng quản lý nhà nước vềgia đình sang Bộ Văn hoá Thể thao và Du
lịch; Chuyển chức năng quản lý nhà nước về trẻ em sang các bộ có liên
quan;
- Hợp nhất Ủy ban Thể dục thể thao với Bộ Văn hóa Thông tin, giao Bộ này
quản lý Tổng cục Du lịch và đổi tên thành Bộ Văn hóa Thể thao và Du
lịch.
 Có sự điều chỉnh này là do:
+ Xác nhập các bộ có chức năng gần tương tự để dễ quản lý nhằm khắc phục
những hạn chế tồn tại lâu nay như chưa bao quát hết các chức năng nhiệm
vụ, thủ tục rườm rà, phong cách làm việc quan liêu.
+ Cách thay đổi mới sẽ theo xu hướng một bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực.
Mỗi việc phải có một người chuyên sâu chịu trách nhiệm.
+ Hạn chế tình trạng đùn đẩy trách nhiệm giữa các bộ, khi làm tốt thì tất cả
các bộ đều nhận, khi có vấn đề thì không thấy bộ nào, VDnhư vụ sữa và
thực phẩm chức năng.

Câu 40: Bộ trưởng Bộ A cho rằng một lĩnh vực do Bộ mình đang chịu trách
nhiệm nhưng lại được giao cho một Bộ khác quản lý. Bộ trưởng A có thể xử lý
như thế nào?

Trong trường hợp này Bộ trưởng Bộ A cần phải thương lượng với Bộ Trưởng kia
để cùng giải quyết vấn đề một cách tốt nhất. Trong trường hợp không thương
lượng được, Bộ trưởng Bộ A phải đề nghị lên Chính phủ để xem xét, giải quyết
vấn đề.

You might also like