Professional Documents
Culture Documents
Thực hành điển tích điển cố
Thực hành điển tích điển cố
+ Năm nắng mười mưa: chỉ sự vất vả, cực nhọc, dãi dầu mưa nắng
⇒ Sử dụng thành ngữ đơn giản, ngắn gọn, nhưng diễn đạt đầy đủ, sinh động, diễn tả
nhiều ý nghĩa khác nhau có giá trị biểu cảm cao
- Hai thành ngữ trên phối hợp với nhau theo các cụm từ có ý nghĩa gần giống thành
ngữ lặn lội thân cò, eo sèo mặt nước được khắc họa hình ảnh bà Tú tần tảo, đảm
đang, tháo vát
Câu 2
- Đầu trâu mặt ngựa: biểu hiện tính hung hãn, dã man của bọn nha lại trong hoàn
cảnh gia đình Kiều bị oan
- Chim lồng cá chậu: cảnh sống tù túng, chật hẹp, mất tự do, vẻ ngoài cuộc sống tỏ ra
hào nhoáng, hoa mĩ
- Đội trời đạp đất: biểu hiện lối sống và hành động tự do, không chịu sự bó buộc,
khuất phục trước uy quyền
Câu 3
+ Giường kia: mượn câu chuyện Trần Phồn đời Hậu Hán có bạn tri kỉ là Tử Trĩ,
quý bạn tới mức dành riêng cho bạn một chiếc giường, khi bạn tới chơi hạ xuống, khi
về thì treo lên
- Đàn kia: mượn từ ý câu chuyện về tình bạn giữa Bá Nha và Chung Tử Kì. Bá Nha
người đàn giỏi, Chung Tử Kì nghe tiếng đàn là hiểu được ý tưởng người đánh đàn.
Sau khi Tử Kì chết, Bá Nha treo đàn lên không gảy nữa vì cho rằng không ai hiểu
được tiếng đàn của mình
⇒ Hai điển tích tô đậm cho tình bạn giữa mình và Dương Khuê thêm thắm thiết, tri
kỉ. Mất bạn, không ai hiểu được lòng mình
Câu 4
- Ba thu: điển cố lấy từ ý trong Kinh Thi nói về nỗi nhớ nhung da diết của con người.
⇒ Dùng điển cố với ý: Chàng Kim đã tương tư Thúy Kiều thì một ngày không gặp
cảm giác như ba năm không gặp
- Chín chữ: Kinh Thi kể chín chữ nói về công lao của cha mẹ với con cái
⇒ Thúy Kiều nhớ tới cha mẹ, thương cha mẹ lo cho mình, còn mình thì biền biệt nơi
đất khách
- Liễu Chương Đài: gợi chuyện người đi làm quan ở xa viết thư dạy vợ “ Cây liễu ở
Chương Đài xưa xanh xanh, nay có còn không, hay là tay khác đã vin bẻ mất rồi
⇒ Dẫn đến điển tích Kiều mường tượng tới cảnh Kim Trọng trở lại Kiều đã thuộc về
người khác
- Mắt xanh: Chuyện kể rằng Nguyễn Tịch đời Tần quý ai thì tiếp bằng mắt xanh,
không ưa ai thì mắt trắng
⇒ Từ Hải muốn nói với Kiều rằng chàng biết Kiều ở chốn lầu xanh phải tiếp khách
làng chơi nhưng nàng chưa hề yêu ai
Câu 5
⇒ Nếu thay thế bằng những từ ngữ tương đương thông thường thì mới chỉ đảm bảo
được phần nghĩa cơ bản mà không đảm bảo được hình tượng, sắc thái biểu cảm
Câu 6
- Nói với người không hiểu chẳng khác nào nước đổ đầu vịt.
- Nó nấu sử sôi kinh mấy năm, nay cũng tới lúc công thành danh toại.
- Sống trên đời cần rộng lượng, dĩ hòa vi quý.
- Ai gặp nó chẳng sấn tới, kiểu thấy người sang bắt quàng làm họ.
Câu 7
Xem thêm các bài Soạn văn lớp 11 ngắn gọn, hay khác:
=> Thành ngữ đề cao sức mạnh tập thể. Khuyên đoàn kết để tạo nên sức mạnh.
2. Sưu tầm điển tích điển cố
- Điển cố : Quạt nồng ấp lạnh
Tích “quạt nồng ấp lạnh” bắt nguồn từ trong sách “Nhị thập tứ hiếu” của Quách Cự
Nghiệp đời nhà Nguyên.
- Điển cố tựa cửa hôm mai
Lấy tích mẹ Vương Tôn Giả thời chiến quốc nói với con: “Mày đi buổi sớm, mẹ
tửa cửa mong, mầy đi buổi chiều, mẹ tựa cửa ngóng”
“Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
- Điển cố bể dâu
Điển cố này được lấy từ nguyên gốc câu chuyện “thương hải tang điền” nhằm ám
chỉ sự thay đổi của cuộc đời
“Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”
III. Liên hệ tác giả, tác phẩm
- Thu vịnh là một ưong những bài thơ đặc sắc nhất về mùa thu đồng bằng Bắc Bộ
của thi hào ẩn dật
Nguyễn Khuyến:
Trời thu xanh ngắt may từng cao,
Cành trúc lơ phơ gió hắt hiu.
Nước biếc trông như tầng khói phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào.
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào?
Trong bài thơ này, thi hào Nguyễn Khuyến đã sử dụng hai điển: một là điển “hoa
năm ngoải” và hai là điển “ông Đào”. Trong hai điển được sử dụng, điển “ông
Đào” không có nhiều đặc sắc và được dùng với nghĩa gốc - nghĩa là để giúp người
đọc, người học hiểu về điển “ông Đào”, giáo viên chỉ cần cung cấp thông tin về
cuộc đời, con người, phẩm chất, đặc biệt là thông tin về sự lựa chọn cuộc sống ẩn
dật thanh cao của ông Đào (tức Đào Uyên Minh thời cổ đại Trung Hoa) là đã khá
đủ để học sinh hiểu ra nồi “thẹn” của thi hào Nguyễn Khuyến ở Thu vịnh là nỗi
thẹn gi, thẹn về điều gì và lí do thẹn của Nguyễn Khuyến trong bài thơ. Còn điển
“hoa năm ngoái” thì được sử dụng sáng tạo bởi điển này đã có quá trình biến đổi
ngữ nghĩa, thậm chí biến đổi sang một lượng ngữ nghĩa hoàn toàn mới, trong một
không gian và hoàn cành thân phận cá nhân nhà thơ cũng hoàn toàn mới. Xét về
tổng thể cấu trúc hình thức của bài thơ luật Đường (thất ngôn bát cú Đường luật)
thì câu thơ này là một trong hai câu luận cùa một bài Đường luật bát cú. Tạm thời
không nói tới hai câu kết thì hai câu luận luôn có một vai trò quan trọng hong việc
bộc lộ những tâm sự sâu kín, khó nói ra của thi nhân. Việc bóc tách từ ngữ, hình
tượng của câu thơ là việc làm có tính chất dẫn nhập để hiểu được nội dung tư
tưởng của nó. Vậy mà bao nhiêu năm nay, câu thơ vẫn chưa được hiểu một cách
chuẩn xác và thống nhất tương đối. Âu cũng là lồi của hậu sinh mà rồi đành ngậm
ngùi hổ thẹn và thương cảm cho người xưa, một nhân cách văn hóa lớn của thời
trung đại,...