You are on page 1of 16

CÂU HỎI GIAI ĐOẠN 1930-1945

Câu 9: Trình bày chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược giải phóng dân tộc
của Đảng được thể hiện trong 3 nghị quyết BCH trung ương tháng 11/1939-
11/1940 5/1941: Mối quan hệ chống đế quốc và chống phong kiến?
- Do sớm dự báo được chiến tranh thế giới thứ hai sẽ nổ ra, nên Đảng ta không bị
bất ngờ về cuộc chiến tranh này. Trong thời kỳ 19361939 Đảng đã có một số chủ
trương, hoạt động thích hợp khi chiến tranh bùng nổ.
- Một tháng sau khi chiến tranh thế giới nổ ra, ngày 2991939 Trung ương Đảng
gửi thông cáo cho các cấp bộ Đảng, vạch rõ cách mạng Đông Dương sẽ tiến đến
mục tiêu giải phóng dân tộc, chỉ thị cho toàn Đảng kịp thời rút vào bí mật và
chuyển hướng hoạt động.
- Hội nghị trung ương Đảng lần thứ 6 (111939)
Nhận định chế độ cai trị ở Đông Dương đã trở thành chế độ phát xít quân phiệt tàn bạo,
mâu thuẫn chủ yếu gay gắt nhất là mâu thuẫn giữa đế quốc và các dân tộc Đông Dương;
dự báo Nhật sẽ vào Đông Dương và Pháp sẽ đầu hàng Nhật.
Hội nghị xác định mục tiêu chiến lược trước mắt: Là đánh đổ đế quốc và tay sai, giải
phóng Đông Dương hoàn toàn độc lập; tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, chỉ chủ
trương tịch thu ruộng đất của đế quốc và địa chủ phản động, chống tố cáo, chống lãi
nặng; thay khẩu hiệu lập chính quyền Xôviết công nông binh bằng khẩu hiệu lập Chính
phủ cộng hoà dân chủ. Hội nghị quyết định thành lập mặt trận thống nhất dân téc phản
đế Đông Dương bao gồm lực lượng chính là công dân, nông dân, đoàn kết với tiểu tư
sản thành thị và nông thôn , đồng minh hoặc trung lập tạm thời với giai cấp tư sản bản
xứ, trung và tiểu địa chủ.
Về phương pháp cách mạng: Hội nghị nêu ra mét số chuyển hướng về tổ chức, xây
dựng các đoàn thể quần chúng bí mật, hướng các cuộc đấu tranh của quần chúng vào đế
quốc và tay sai, "dự bị những điều kiện bước tới bạo động làm cách mệnh giải phóng
dân tộc". Hội nghị cũng quyết định các chủ trương và biện pháp nhằm củng cố Đảng về
mọi mặt, thực hiện sự thống nhất ý chí và hành động trong toàn Đảng.

Câu 10: Nguyên nhân thắng lợi của cách mạng tháng 8 năm 1945?
Với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, dân tộc Việt Nam bước vào một kỷ nguyên
mới, kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Nhân dân ta từ người nô lệ trở thành
người chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Đảng ta trở thành một Đảng lãnh đạo
chính quyền trong cả nước. Nước ta từ một nước thuộc địa và nửa phong kiến trở thành
một nước độc lập, một nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam châu Á.
- NN khách quan
+ Cách mạng Tháng Tám nổ ra trong hoàn cảnh khách quan rất thuận lợi: kẻ thù trực
tiếp của nhân dân ta là phát xít Nhật đã bị Liên Xô và Đồng minh đánh bại, quân đội
Nhật ở Đông Dương mất hết tinh thần chiến đấu, chính phủ Trần Trọng Kim rệu rã.
Đảng Cộng sản Đông Dương đã chớp thời cơ đó phát động toàn dân nổi dậy nên đã
giành được thắng lợi nhanh chóng và ít đổ máu.
- NN chủ quan:
Cách mạng tháng 8 là kết quả tổng hợp của 15 năm đấu tranh gian khổ của toàn dân ta
dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã được rèn luyện qua 3 cao trào cách mạng rộng lớn: Cao
trào cách mạng 19301931, cao trào 19361939 và cao trào giải phóng dân tộc 19391945.
Quần chúng cách mạng được Đảng tổ chức, lãnh đạo và rèn luyện bằng thực tiễn đấu
tranh đã trở thành lực lượng hùng hậu, có lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt.
Cách mạng tháng Tám thành công là do Đảng ta chuẩn bị được lực lượng vĩ đại toàn
dân đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh, dựa trên cơ sở liên minh công nông, dưới sự
lãnh đạo của Đảng.
Đảng là người tổ chức và lãnh đạo cách mạng tháng Tám, vì Đảng có đường lối cách
mạng đúng đắn, dày dặn kinh nghiệm đấu tranh, nắm đúng thời cơ và chỉ đạo, kiên
quyết khôn khéo tạo nên sức mạnh tổng hợp áp đảo kẻ thù.
Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định, chủ yếu của cách mạng tháng Tám.

Câu 11: Kết quả thắng lợi của cách mạng Tháng 8 năm 1945?
Thắng lợi này đã đập tan xiềng xích nô lệ của thực dân pháp trong gần 1 thế kỉ, lật
nhào chế độ quân chủ hàng mấy nghìn năm và ách thống trị của phát xít Nhật, lập nên
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở ĐNÁ. Nhân
dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người dân của nước độc lập tự do làm chủ
vận mệnh của mình.
Thắng lợi của cách mạng tháng Tám là thắng lợi của chủ nghĩa Maclenin được vận
dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của cách mạng Việt Nam, là thắng
lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng đúng đắn và đầy sáng tạo của
đảng ta đã gắn độc lập dân tộc với CNXH, gắn sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công mau lẹ và ngoạn mục không phải là sự
ngẫu nhiên mà là kết quả của một quá trình đấu tranh lâu dài, kiên cường bất khuất của
nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo sáng suốt, đúng đắn của 1 đảng Macxit đó là đảng
cộng sản Việt Nam.
Cách mạng tháng Tám đánh dấu 1 bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách mạng Việt
Nam. Đây là quá trình phát triển tất yếu của lịch sử dân tộc trải qua mấy nghìn năm
phấn đấu, đỉnh cao của ý trí quật cường, sức mạnh cố kết cộng đồng, tầm cao trí tuệ dân
tộc hòa quyện với những tư tưởng của C.Mac, Ăng ghen, Lê nin, Hồ Chí Minh, với xu
hướng của thời đại vì hòa bình dân chủ và tiến bộ xã hội, vì độc lập dân tộc và chủ
nghĩa XH.

Câu 12: Ý nghĩa thắng lợi cách mạng tháng 8 năm 1945?
* Đối với dân tộc:
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc điển hình
do Đảng Cộng sản lãnh đạo, lần đầu tiên giành thắng lợi ở một nước thuộc địa. Với
thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, nhân dân Việt Nam đã đập tan xiềng xích nô lệ
của chủ nghĩa đế quốc trong gần một thế kỷ trên đất nước ta, chấm dứt sự tồn tại của
chế độ quân chủ chuyên chế ngót nghìn năm, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, nhà nước do nhân dân lao động làm chủ.
Cách mạng tháng 8 năm 1945 đã đánh dấu một trang sử vẻ vang của dân tộc ta, đánh
dấu sự đổi đời của một dân tộc. Cách mạng Tháng Tám đã đưa nước ta từ một nước
thuộc địa trở thành một nước độc lập dân chủ, đưa Đảng ta từ một Đảng không hợp
pháp trở thành một Đảng nắm chính quyền, đưa dân tộc ta lên hàng các dân tộc tiên
phong trên thế giới.
Cách mạng Tháng Tám đã mở ra một kỷ nguyên mới cho cách mạng nước ta kỷ
nguyên của độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội.
Cách mạng tháng Tám là minh chứng hùng hồn cho vai trò lãnh đạo của giai cấp công
nhân Việt Nam với đội tiên phong của mình là Đảng Cộng sản. Đây là một cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc điển hình do Đảng Cộng sản lãnh đạo, là thắng lợi đầu tiên của
chủ nghĩa Mác Lênin ở một nước thuộc địa.
Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, "Chẳng những giai cấp lao động mà nhân
dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi
khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các
dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành
công, đã nắm chính quyền toàn quốc"
* Đối với quốc tế:
Cách mạng Tháng Tám đã nâng cao vị thế quốc tế của dân tộc Việt Nam. Lần đầu tiên
một dân tộc nhược tiểu đã tự giải phóng khỏi ách đế quốc thực dân.
Cách mạng Tháng Tám đã phá tan một mắt xích quan trọng của chủ nghĩa đế quốc, mở
đầu cho sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ. Mở đầu thời kỳ suy sụp và tan rã không
gì cứu vãn nổi của chủ nghĩa thực dân cũ, góp phần cống hiến lớn lao vào sự nghiệp
giải trừ chủ nghĩa thực dân và giải phóng dân tộc trên thế giới.
Thắng lợi của cách mạng tháng Tám đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc
ở các nước thuộc địa trong cuộc đấu tranh giành độc lập. Cách mạng Tháng Tám là
thắng lợi của tư tưởng độc lập tự do của Hồ Chí Minh và đường lối giải phóng dân tộc
đúng đắn, sáng tạo của Đảng. Nó chứng tỏ rằng: ở thời đại chúng ta, một cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc do giai cấp công nhân lãnh đạo hoàn toàn có khả năng thắng
lợi ở một nước thuộc địa. Cuộc cách mạng đó quan hệ mật thiết với cách mạng
vô sản ở "chính quốc", nhưng không lệ thuộc vào cách mạng ở "chính quốc". Trái lại,
nó có thể giành được thắng lợi trước khi giai cấp công nhân "chính quốc" lên nắm chính
quyền.

Câu phụ: Bài học kinh nghiệm.


Cách mạng Tháng Tám thành công để lại cho Đảng và nhân dân Việt Nam nhiều kinh
nghiệm quý báu, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận về cách mạng giải
phóng dân tộc và khởi nghĩa dân tộc.
Những kinh nghiệm chính là:
- Một là: Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ
chống đế quốc và chống phong kiến. Con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc
và Cương lĩnh của Đảng đã xác định cách mạng nước ta trải qua hai giai đoạn,
trước hết là cách mạng dân tộc dân chủ, sau đó chuyển lên cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của đường lối gắn liền
độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Trong cách mạng dân tộc dân chủ, Đảng ta
đã xác định nhiệm vụ chống đế quốc và nhiệm vụ chống phong kiến không thể
tách rời nhau. Trải qua ba cao trào cách mạng, Đảng ta nhận thức sâu sắc hơn về
mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ đó và xác định: tuy hai nhiệm vụ không tách rời
nhau nhưng nhiệm vụ chống đế quốc là chủ yếu nhất, nhiệm vụ chống phong
kiến phải phục tùng nhiệm vụ chống đế quốc và phải thực hiện từng bước với
những khẩu hiệu cụ thể như: giảm tô, giảm tức, chia ruộng đất công, chia ruộng
đất của bọn phản động cho nông dân nghèo, tiến tới cải cách ruộng đất. Phân tích
mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra,
Đảng chủ trương chĩa mũi nhọn của cách mạng vào đế quốc phátxít Nhật Pháp
và bè lũ tay sai nhằm tập trung giải quyết yêu cầu chủ yếu cấp bách của cách
mạng là giải phóng dân tộc. Thắng lợi Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của sự
kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến.
- Hai là: Toàn dân nổi dậy trên nền tảng khối liên minh công nông Cách mạng
Tháng Tám thắng lợi là nhờ cuộc đấu tranh yêu nước anh hùng của hơn 20 triệu
người Việt Nam. Nhưng cuộc nổi dậy của toàn dân chỉ có thể thực hiện được khi
có đạo quân chủ lực là giai cấp công nhân và giai cấp nông dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng. Đạo quân chủ lực này được xây dựng, củng cố qua ba cao trào cách
mạng và lớn mạnh vượt bậc trong tổng khởi nghĩa. Dựa trên đạo quân chủ lực
làm nền tảng. Đảng xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc, động viên toàn dân
tổng khởi nghĩa thắng lợi.
- Ba là: Lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù. Đảng ta đã lợi dụng được mâu
thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa đế quốc phátxít, mâu thuẫn giữa chủ
nghĩa đế quốc và một bộ phận thế lực địa chủ phong kiến, mâu thuẫn trong hàng
ngũ ngụy quyền tay sai của Pháp và của Nhật, cô lập cao độ kẻ thù chính là bọn
đế quốc phátxít và bọn tay sai phản động; tranh thủ hoặc trung lập những phần tử
lừng chừng. Như vậy, Cách mạng Tháng Tám giành được thắng lợi nhanh gọn, ít
đổ máu.
- Bốn là: Kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và biết sử dụng bạo lực cách mạng
một cách thích hợp để đập tan bộ máy nhà nước cũ, lập ra bộ máy nhà nước của
nhân dân. Trong Cách mạng Tháng Tám, bạo lực của cách mạng là sự kết hợp
chặt chẽ giữa lực lượng chính trị với lực lượng vũ trang; kết hợp nổi dậy của
quần chúng với tiến công của lực lượng vũ trang cách mạng ở cả nông thôn và
thành thị, trong đó vai trò quyết định là các cuộc tổng khởi nghĩa ở Hà Nội, Huế,
Sài Gòn. Cách mạng Tháng Tám là kết quả của sự kết hợp tất cả các hình thức
đấu tranh kinh tế và chính trị, hợp pháp và không hợp pháp của quần chúng, từ
thấp đến cao, từ ở vài địa phương lan ra cả nước, từ khởi nghĩa từng phần tiến
lên tổng khởi nghĩa, đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp thống trị, lập ra bộ
máy nhà nước của nhân dân.
- Năm là: Nắm vững nghệ thuật khởi nghĩa, nghệ thuật chọn đúng thời cơ Đảng ta
coi khởi nghĩa là một nghệ thuật, vừa vận dụng nguyên lý của chủ nghĩa Mác
Lênin và kinh nghiệm của cách mạng thế giới, vừa tổng kết những kinh nghiệm
các cuộc khởi nghĩa ở nước ta. Trong rất nhiều văn kiện của Đảng từ năm 1939
đến nửa đầu năm 1945, Đảng đã vạch ra những điều kiện làm thời cơ cho tổng
khởi nghĩa thắng lợi. Cách mạng Tháng Tám thắng lợi chứng tỏ Đảng đã chọn
đúng thời cơ. Đó là lúc bọn cầm quyền phátxít ở Đông Dương hoang mang đến
cực độ sau khi Nhật đầu hàng; nhân dân ta không thể sống nghèo khổ như trước
được nữa (khi hơn hai triệu người đã bị chết đói...). Đảng đã chuẩn bị sẵn sàng
các mặt chủ trương, lực lượng và cao trào chống Nhật, cứu nước làm điều kiện
chủ quan cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
- Sáu là: Xây dựng một Đảng Mác Lênin đủ sức lãnh đạo tổng khởi nghĩa giành
chính quyền Đảng ta ngay từ đầu đã xác định đúng đường lối chiến lược và sách
lược cách mạng, không ngừng bổ sung và phát triển đường lối chiến lược và
sách lược đó. Điều đó đòi hỏi Đảng phải biết vận dụng sáng tạo nguyên lý của
chủ nghĩa Mác Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta, kịp thời tổng kết kinh
nghiệm thực tiễn cách mạng. Đảng ta rất coi trọng việc quán triệt đường lối
chiến lược và sách lược, chủ trương của Đảng trong đảng viên và quần chúng
cách mạng, không ngừng đấu tranh khắc phục những khuynh hướng lệch lạc.
Đảng chăm lo công tác tổ chức, cán bộ, giáo dục rèn luyện cán bộ, đảng viên về
ý chí bất khuất, phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng, xây dựng Đảng vững
mạnh và trong sạch. Đảng biết phát huy triệt để vai trò của Mặt trận Việt Minh
với hàng triệu hội viên và thông qua Mặt trận để lãnh đạo nhân dân đấu tranh.
Với những yếu tố như trên và được tôi luyện qua 15 năm đấu tranh mặc dù chỉ
có 5.000 đảng viên, Đảng đã lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám thành công.
Câu 13: Nguyên nhân thắng lợi của cách mạng chống thực dân Pháp xâm lược?
Thắng lợi vẻ vang của sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta là
do các nhân tố cơ bản sau đây:
Có sự lãnh đạo vững vàng của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh với đường lối
chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính, có sức
mạnh động viên và tổ chức toàn dân đánh giặc.
Có sự đoàn kết chiến đấu của toàn dân tập hợp trong mặt trận dân tộc thống nhất rộng
rãi Mặt trận Liên Việt được xây dựng trên nền tảng khối liên minh công nông và trí
thức vững chắc.
Có lực lượng vũ trang gồm ba thứ quân do Đảng ta trực tiếp lãnh đạo ngày càng vững
mạnh, chiến đấu dũng cảm, mưu lược, tài trí là lực lượng quyết định tiêu diệt địch trên
chiến trường, đè bẹp ý chí xâm lược của địch, giải phóng đất đai của Tổ quốc.
Có chính quyền dân chủ nhân dân, của dân, do dân và vì dân được giữ vững, củng cố
và lớn mạnh, làm công cụ sắc bén tổ chức toàn dân kháng chiến và xây dựng chế độ
mới.
Có sự liên minh chiến đấu keo sơn giữa ba dân tộc Việt Nam, Lào, Campuchia cùng
chống một kẻ thù chung; có sự đồng tình, giúp đỡ của Trung Quốc, Liên Xô, các nước
xã hội chủ nghĩa, của các dân tộc yêu chuộng hòa bình trên thế giới, kể cả nhân dân tiến
bộ Pháp. Với ý chí "thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nô lệ", nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã chiến đấu kiên cường
và chiến thắng ngày càng to lớn, tiêu biểu là chiến thắng lẫy lừng Điện Biên Phủ.
Chúng ta đã bảo vệ được chính quyền cách mạng, đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược
của đế quốc Pháp được đế quốc Mỹ giúp sức ở mức độ cao, giải phóng hoàn toàn miền
Bắc, tạo điều kiện tiến lên hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ trên phạm vi cả nước.

Câu 14: Bối cảnh lịch sử, nội dung, ý nghĩa của chủ trương chuyển hướng chỉ đạo
chiến lược của Đảng tại hội nghị Trung ương lần thứ 8 (5/1941).
-Bối cảnh lịch sử:
+ Thế giới:
• Tháng 9 năm 1939, chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ và nhanh chóng lan ra khắp
châu Âu.
• Tháng 6 năm 1940, Đức tiến công Pháp
• Tháng 6 năm 1941, Đức tấn công Liên Xô, buộc Liên Xô phải tham chiến khiến cho
tính chất chiến tranh thay đổi (từ cuộc chiến giữa các nước đế quốc thành các nước dân
chủ tiến bộ và phát xít).
+ Việt Nam:
• Thực dân Pháp thi hành chính sách thời chiến tàn bạo.
• Nhật tấn công nước ta, Pháp ký hiệp định đầu hàng Nhật, nhân dân ta phải chịu cảnh
“một cổ hai tròng”.
• Ngày 28/01/1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về nước và làm việc tại Cao Bằng
• Vào tháng 5 năm 1941 Đảng chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược tại Hội
nghị Trung ương lần thứ VIII do Nguyễn Ái Quốc chủ trì tại Pác Bó (Cao Bằng).
- Nội dung:
• Thứ nhất, nhấn mạnh mâu thuẫn phải được giải quyết cấp bách giữa Việt Nam với
phát xít Pháp – Nhật, bởi “quyền lợi tất cả các giai cấp bị cướp giật, vận mạng dân tộc
nguy vong”.
• Thứ hai, thay đổi khẩu hiệu thành tịch thu ruộng đất từ đế quốc và việt gian chia cho
dân nghèo, giảm tô, giảm tức. Đảng khẳng định: “Chưa chủ trương làm CMTS dân
quyền mà chủ trương làm cách mạng giải phóng dân tộc”.
• Thứ ba, thi hành chính sách “dân tộc tự quyết”. Theo đó, thành lập ở mỗi nước Đông
Dương một mặt trận riêng đoàn kết dân tộc, đồng thời đoàn kết ba dân tộc chống kẻ thù
chung.
• Thứ tư, tập hợp rộng rãi mọi lực lượng dân tộc, 0 phân biệt xuất thân, nguồn gốc. Các
tổ chức quần chúng trong mặt trận Việt Minh đều mang tên “cứu quốc”.
• Thứ năm, khi cách mạng thành công, thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa –
nhà nước “của chung cả toàn thể dân tộc”, chứ không phải “công nông liên hiệp và
chính quyền Xô viết”.
• Thứ sáu, nhiệm vụ trung tâm là chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang; “phải luôn luôn chuẩn bị
một lực lượng sẵn sàng, nhằm vào cơ hội thuận tiện hơn cả mà đánh lại quân thù”, xác
định những điều kiện chủ quan, khách quan và dự đoán thời cơ tổng khởi nghĩa.
-Ý nghĩa:
• Có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của p. trào CM, đi tới thắng lợi của
CMT8/1945
• Hoàn chỉnh chủ trương chiến lược từ Hội nghị tháng 11/1939, khắc phục triệt để
những hạn chế của Luận cương chính trị tháng 10/1930
• Khẳng định lại đường lối cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn trong Cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng và lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái
Quốc.
• Kiên quyết giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, lấy đó làm nhiệm vụ hàng đầu.
• Giải quyết đúng đắn mqh giữa 2 nhiệm vụ chiến lược là chống đế quốc và chống
phong kiến.
• Phát triển và làm phong phú kho tàng lý luận Mác Lê-nin về CM giải phóng dân tộc

Câu 15: Nội dung, ý nghĩa của Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của
chúng ta” (12/3/1945).
-Bối cảnh:
• Cuối năm 1944 – đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết
thúc, với những thắng lợi liên tiếp của quân đội Liên Xô và các nước đồng minh cùng
các lực lượng dân chủ, hoà bình và tiến bộ xã hội trên thế giới.
• Nhật – Pháp cấu kết với nhau đàn áp phong trào cách mạng Việt Nam. Song mâu
thuẫn giữa hai đế quốc ngày càng gay gắt. Đêm ngày 9/3/1945, Nhật tiến hành làm đảo
chính Pháp để độc chiếm Đông Dương.
• Đứng trước tình thế đó, ngay trong đêm 9/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng
đã họp hội nghị mở rộng tại Từ Sơn (Bắc Ninh) để phân tích tình hình và quyết định
phát động cao trào kháng nhật, cứu nước làm tiền đề cho Tổng khởi nghĩa.
• Ngày 12/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau
và hành động của chúng ta.”
-Nội dung:
Chỉ thị nhận định: Cuộc đảo chính của Nhật lật đổ Pháp để độc chiếm Đông Dương đã
tạo ra một cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc, nhưng điều kiện khởi nghĩa chưa chín
muồi. Tuy nhiên , hiện đang có những cơ hội tốt làm cho những điều kiện khởi nghĩa
nhanh chóng được chín muồi.
Chỉ thị xác định: Sau đảo chính phát xít Nhật là kẻ thù trước mắt và duy nhất của nhân
dân Đông Dương, vì vậy phải thay khẩu hiệu “ Đánh đuổi đế quốc phát xít Pháp- Nhật”
bằng khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật”
Chỉ thị chủ trương: Phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề
cho cuộc tổng khởi nghĩa.
 Muốn vậy những hình thức đấu tranh và tuyên truyền phải cao hơn và mạnh bạo
hơn như tuyên truyền xung phong có vũ trang, biểu tình tuần hành thị uy.......
Chỉ thị nêu rõ phương châm đấu tranh: Phát động chiến tranh du kích, giải phóng từng
phần, mở rộng căn cứ địa.
 Đây là phương pháp duy nhất đóng vai trò chủ động trong việc đánh đuổi phát
xít Nhật và sẵn sàng chuyển sang hình thức tổng khởi nghĩa khi có điều kiện.
Chỉ thị dự kiến: Điều kiện thuận lợi để tiến hành tổng khởi nghĩa là khi quân Đồng
Minh kéo vào Đông Dương đánh Nhật, quân Nhật kéo ra mặt trận ngăn cản để phía sau
sơ hở. Hay cách mạng Nhật bùng nổ và chính quyền cách mạng nhân dân được thành
lập, hoặc Nhật để mất nước như Pháp năm 1940 và quân đội viễn chinh của Nhật mất
tinh thần.
-Tuy nhiên Đảng ta cũng nêu rõ rằng ta không được ỷ lại vào người mà bó tay mình
trong khi tình thế chuyển biến thuận lợi mà phải nêu cao tinh thần dựa vào sức mình là
chính, khẳng định tính tích cực và chủ động của ta.
-Ý nghĩa
• Thể hiện sự nhận định sáng suốt, có những chủ trương kiên quyết, kịp thời của Đảng
ta, nhờ đó đẩy lên 1 cao trào CM, thúc đẩy tình thế CM mau chóng chín muồi
• Là kim chỉ nam cho hành động của toàn Đảng, toàn dân để thực hiện KN vũ trang
từng phần, tiến tới Tổng KN. có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của cuộc Tổng
khởi nghĩa T8 năm 1945.
• Thể hiện năng lực của Đảng trong việc nắm bắt thời cơ và đưa ra đường lối phù hợp
• Từ giữa tháng 03/1945, phong trào kháng Nhật cứu nước diễn ra sôi nổi, mạnh mẽ.

Câu 16: Nội dung và ý nghĩa Hội nghị toàn quốc của Đảng (13-15/8/1945)
• Tháng 8-1945, Trung ương Đảng quyết định cần khẩn trương, tích cực chuẩn bị cho
cuộc Hội nghị toàn quốc của Đảng và Quốc dân Đại hội đại biểu. Bác Hồ liên tục thúc
giục chuẩn bị 2 hội nghị quan trọng này ngay từ tháng 7/1945, Bác nói: “Có thể còn
thiếu một số đại biểu nào đó chưa về kịp cũng họp, nếu không thì không kịp trước tình
hình chung”.
• Ngày 13-8-1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng Cộng sản Đông Dương chính thức
khai mạc tại Tân Trào (Tuyên Quang). Tham dự Hội nghị có đủ đại biểu các Đảng bộ
Bắc, Trung, Nam và một số đại biểu hoạt động ở nước ngoài.
• Ngày 14/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào, do lãnh tụ Hồ Chí
Minh và Tổng Bí Thư Trường Chinh chủ trì.
- Nội dung:
Hội nghị quyết định phát động toàn dân nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền từ
tay phát xít Nhật trước khi quân Đồng Minh vào Đông Dương. (do điều kiện khởi nghĩa
đã chín muồi: quân Nhật tan rã, mất tinh thần; bọn Việt gian thân Nhật nhật hoảng sợ;
toàn dân tộc đang sôi nổi đợi giờ khởi nghĩa, giành quyền độc lập)
+ Nguyên tắc chỉ đạo khởi nghĩa:
• Khẩu hiệu đấu tranh:
o “Phản đối xâm lược!”
o “Hoàn toàn độc lập!”
o “Chính quyền nhân dân!”.
• • Ba nguyên tắc cơ bản để chỉ đạo khởi nghĩa:
o Tập trung-tập trung lực lượng vào những việc chính.
o Thống nhất-thống nhất về mọi phương diện quân sự chính trị, hành động và chỉ huy.
o Kịp thời-kịp thời hành động không bỏ lỡ cơ hội.
• • Phương châm hành động:
o “Đánh chiếm ngay những nơi chắc thắng, không kể thành phố hay thôn quê”,
o “quân sự và chính trị phải phối hợp”,
o “làm tan rã tinh thần quân địch và dụ chúng hàng trước khi đánh”,
o “chớp lấy những căn cứ chính (cả các đô thị) trước khi quân Đồng Minh vào”,
o “thành lập những Ủy ban Nhân dân ở những nơi ta làm chủ”.
+Đối nội: chủ trương tiếp tục thi hành 10 chính sách của Việt Minh đã được ban hành
từ Hộinghị Trung ương 8 (tháng 5-1941).
+ Đối ngoại:
• Bình đẳng, hợp tác, “thêm bạn bớt thù”
• Tránh đối đầu với nhiều kẻ thù cùng một lúc
• Triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù
• Tranh thủ sự ủng hộ của Liên Xô, Trung Quốc và bạn bè quốc tế...

- Ý nghĩa:
• Quyết định vấn đề chiến lược và sách lược chỉ đạo cách mạng Đông Dương, góp phần
làm nên thắng lợi Cách mạng Tháng Tám vĩ đại của dân tộc Việt Nam.
• Tiền đề cho cuộc họp toàn dân diễn ra ở Tân Trào.
• Thể hiện sự tiếp thu và phát triển truyền thống đoàn kết, yêu nước của dân tộc ta trong
điều kiện lịch sử mới.
• Có ý nghĩa trực tiếp đối với cuộc đấu tranh giành chính quyền, là di sản của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân ta.

Câu 17: Một số kinh nghiệm về lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền.
- Thứ nhất, về chỉ đạo chiến lược phải giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, giải
quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ độc lập dân tộc và cách mạng
ruộng đất. Phải đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, còn nhiệm vụ
cách mạng ruộng đất cần tạm gác lại, thực hiện từng bước.
- Thứ hai, về xây dựng lực lượng, cần khơi dậy tinh thần dân tộc trong mọi tầng
lớp nhân dân, tập hợp mọi lực lượng yêu nước trong mặt trận Việt Minh, đưa cả
dân tộc vùng dậy khởi nghĩa giành chính quyền.
- Thứ ba, về phương pháp cách mạng, bạo lực cách mạng của quần chúng, kết hợp
đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, tiến hành chiến tranh du kích cục bộ
và khởi nghĩa từng phần, tiến lên chớp đúng thời cơ, phát động tổng khởi nghĩa
giành chính quyền toàn quốc.
- Thứ tư, về xây dựng Đảng, phải xây dựng một Đảng cách mạng tiên phong của
toàn dân tộcViệt Nam, tuyệt đối trung thành với lợi ích giai cấp và dân tộc; vận
dụng và phát triển lý luậnMác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, để ra đường lối
chính trị đúng đắn; xây dựng mộtđảng vững mạnh về tư tưởng, chính trị và tổ
chức, liên hệ chặt chẽ với quẫn chúng. Chú trọng vai trò lãnh đạo ở cấp chiến
lược của Trung ương Đảng, đồng thời phát huy tính chủ động,sáng tạo của đảng
bộ các địa phương.

1. Nội dung và ý nghĩa Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (2/1930).
 Nội dung:
- Hoàn cảnh ra đời:
Tại Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành lập một chính đảng duy nhất của Việt
Nam tại Cửu Long – Hương Cảng (Trung Quốc) được tiến hành trong thời gian từ ngày
6-1-1930 đến ngày 7-2-1930 (sau này tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của
Đảng 1960 quyết nghị “từ nay trở đi sẽ lấy ngày 3/2 dương lịch mỗi năm làm ngày kỷ
niệm thành lập Đảng”.
Hội nghị thảo luận, tán thành ý kiến chỉ đạo của Nguyễn Ái Quốc, thông qua các văn
kiện quan trọng, trong đó có 2 văn kiện : Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt của
Đảng đã phản ánh về đường hướng phát triển và những vấn đề cơ bản về chiến lược và
sách lược của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, 2 văn kiện trên là Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Nội dung:
Cương lĩnh chính trị đầu tiên xác định mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt
Nam: Từ việc phân tích thực trạng và mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam-một xã hội
thuộc địa nửa phong kiến, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam trong đó có công nhân,
nông dân với đế quốc ngày càng gay gắt cần phải giải quyết, đi đến xác định đường lối
chiến lược của cách mạng Việt Nam “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và
thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản". Như vậy, mục tiêu chiến lược được nêu ra
trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã làm rõ nội dung của cách mạng thuộc địa nằm
trong phạm trù của cách mạng vô sản
Xác định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng Việt Nam: “Đánh đổ đế
quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến”, “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc
lập". Cương lĩnh đã xác định: Chống đế quốc và chống phong kiến là nhiệm vụ cơ bản
để giành độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho dân cày, trong đó chống đế quốc, giành
độc lập cho dân tộc được đặt ở vị trí hàng đầu.
Về phương diện xã hội, Cương lĩnh xác định rõ: “a) Dân chúng được tự do tổ chức. b)
Nam nữ bình quyền,v.v... c) Phổ thông giáo dục theo công nông hoá”

Về phương diện kinh tế, Cương lĩnh xác định:


 Thủ tiêu hết các thứ quốc trái; thâu hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận
tải, ngân hàng, v.v.) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính
phủ công nông binh quản lý;
 thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày
nghèo; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo, mở mang công nghiệp và nông
nghiệp;
 thi hành luật ngày làm tám giờ...
Xác định lực lượng cách mạng: giai cấp công nhân lãnh đạo, đồng thời đoàn
kết tất cả các giai cấp và lực lượng tiến bộ, yêu nước để tập trung chống đế quốc và tay
sai. “Còn với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản
cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập”.
Xác định phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, bằng con
đường bạo lực cách mạng của quần chúng, có sách lược thích hợp để lôi kéo tiểu tư sản,
trí thức và trung nông về phía giai cấp vô sản nhưng kiên quyết: “bộ phận nào đã ra mặt
phản cách mạng thì phải đánh đổ”.
Xác định tinh thần đoàn kết quốc tế: tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của các dân
tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là Pháp. “Trong khi tuyên truyền cái khẩu
hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng thời tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp
bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới”.
Vai trò lãnh đạo của Đảng: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp phải
thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được
dân chúng".
 Ý nghĩa:
- Giá trị lý luận: (9)
+ Phản ánh 1 cách súc tích các luận điểm cơ bản của cách mạng VN
+ Cương lĩnh đã xác định đúng đắn những vấn đề chiến lược, sách lược của cách mạng
Việt Nam, đồng thời xác định phương pháp CM, nhiệm vụ CM và lực lượng CM để
thực hiện đường lối chiến lược và sách lược đã đề ra, đáp ứng được yêu cầu cấp bách và
cơ bản của cách mạng Việt Nam, phù hợp với xu thế thời đại.
+ Cương lĩnh chính trị đầu tiên ngay khi mới ra đời đã đáp ứng được nguyện vọng của
nhân dân và thâm nhập vào quần chúng trở thành sức mạnh vật chất, biến thành phong
trào cách mạng, chấm dứt tình trạng bế tắc, khủng hoảng về đường lối cách mạng.
+ Thể hiện bản lĩnh chính trị độc lập, tự chủ, sáng tạo trong việc đánh giá đặc điểm, tính
chất xã hội thuộc địa nửa phong kiến Việt Nam trong những năm 20 của TK XX (không
lệ thuộc vào quan điểm tổ chức quốc tế cộng sản, đề cao vấn đề giai cấp chứ không phải
dân tộc.)
+ Chỉ rõ những mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu của DT Việt Nam lúc đó, đặc biệt là việc
đánh giá đúng đắn, sát thực thái độ các giai tầng XH đối với nhiệm vụ giái phóng DT
+ Những nội dung của Cương lĩnh chính trị là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác -
Lênin vào điều kiện nước ta, giải quyết đúng đắn hàng loạt vấn đề như: mối quan hệ
giữa dân tộc và giai cấp, giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến, về lực
lượng cách mạng… Qua đó, cương lĩnh đã góp phần bổ sung, phát triển làm phong phú
CN Mác – Lênin.
+ Cương lĩnh chính trị đầu tiên ghi đậm dấu ấn tư tưởng Hồ Chí Minh, phản ánh công
lao to lớn của Hồ Chí Minh đối với Đảng và cách mạng Việt Nam.
+ Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng trở thành ngọn cờ dẫn dắt nhân dân ta đi từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác, đưa dân tộc Việt Nam từ dân tộc thuộc địa trở thành
dân tộc độc lập, đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước,
làm chủ vận mệnh của mình.
Cương lĩnh ra đời gần một thế kỷ, nhưng đến nay nó vẫn giữ nguyên giá trị, vẫn là ngọn
cờ dẫn lối cho cách mạng Việt Nam tiến bước trên con đường mà Đảng, chủ tịch Hồ
Chí Minh và dân tộc đã lựa chọn. Cương lĩnh đã, đang, sẽ được toàn Đảng, toàn dân
trung thành, vận dụng vào công cuộc đổi mới hiện nay.
Chỉ rõ tính đúng đắn của Cương lĩnh qua thực tiễn Cách mạng VN năm 1930 –
1945
Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã thể hiện nhất quán xuyên suốt toàn bộ đường lối
cách mạng nước ta và khẳng định giá trị khoa học và tính đúng đắn của con
đường mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn
1. Ngay từ khi mới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, cương lĩnh đầu tiên đã xác định
rõ mục tiêu cuối cùng của cách mạng Việt Nam không chỉ dừng lại ở giai đoạn hoàn
thành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mà phải thực hiện tiếp cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa, đưa cả nước đi lên CNXH. Về thực chất, đó là con đường cách mạng giành
độc lập dân tộc, thực hiện khẩu hiệu “người cày có ruộng” và các quyền dân chủ chính
trị, kinh tế, văn hóa… cho các tầng lớp nhân dân, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đi tới
xã hội cộng sản mà chủ nghĩa xã hội là giai đoạn đầu của nó. Hai cuộc cách mạng này
liên quan mật thiết với nhau, ảnh hưởng và thúc đẩy lẫn nhau, cuộc cách mạng trước
thành công tạo điều kiện cho cuộc cách mạng sau giành thắng lợi. Vì vậy, giữa hai giai
đoạn cách mạng này: giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội không có bức
tường ngǎn cách.
2. Việc giải quyết mối quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế quốc và nhiệm vụ chống phong
kiến là vấn đề phức tạp. Trong 2 nhiệm vụ chiến lược “phản đế, phản phong”, cương
lĩnh chính trị cũng đã nêu rõ mặc dù cả 2 nhiệm vụ phải được tiến hành đồng thời và
khắng khít với nhau, song về chỉ đạo chiến lược, Đảng xác định phải đặt nhiệm vụ giải
phóng dân tộc lên hàng đầu, với khẩu hiệu "Tổ quốc trên hết". Vào thời kì này, ta
không lệ thuộc vào quan điểm tổ chức quốc tế cộng sản - tổ chức lãnh đạo chung của
phong trào công nhân quốc tế, đề cao chủ nghĩa quốc tế chứ không phải dân tộc. Chúng
ta đã không đi theo quốc tế cộng sản mà đưa ra quan điểm phù hợp với điều kiện cụ thể
thời điểm hiện tại của VN: vấn đề dân tộc cấp bách hơn, là mâu thuẫn được đẩy lên
hàng đầu, đặt nhiệm vụ giải phóng, giành độc lập dân tộc lên cao nhất và chỉ khi đó mới
huy động được lực lượng toàn dân.
Việc xác định đúng kẻ thù chủ yếu và nhiệm vụ chủ yếu để nắm vững ngọn cờ dân tộc
để tập hợp lực lượng, phát huy cao độ sức mạnh dân tộc nhưng không coi nhẹ những
nhiệm vụ giải phóng giai cấp là một những tư tưởng đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta bắt
nguồn từ việc khéo kết hợp yếu tố dân tộc với yếu tố giai cấp để xem xét vấn đề xã hội.
3. Cương lĩnh xác định rõ cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải dựa trên
lực lượng cách mạng là liên minh công – nông làm nòng cốt, trong đó giai cấp công
nhân giữ vai trò lãnh đạo nhưng đồng thời phải lôi kéo, tập hợp cả những người yêu
nước ở tầng lớp tiểu tư sản, trí thức, trung nông và lợi dụng, trung lập phú nông, trung
và tiểu địa chủ, tư sản dân tộc. Sự phân chia giai cấp tư sản, địa chủ ra thành những
nhóm đối tượng khác nhau để có chính sách đối xử phù hợp, tranh thủ lôi kéo những
người có lòng yêu nước, trung lập những người có thể trung lập nhằm làm suy yếu kẻ
thù và cương quyết trừng trị đối với kẻ thù là thể hiện sự nhận thức và đánh giá đúng
của Đảng ta đối với mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp trong xã hội, mỗi dân tộc trong cộng
đồng, thừa nhận tính tích cực và sự đóng góp của họ trong sự nghiệp giải phóng dân
tộc, xây dựng và bảo vệ đất nước.
4. Cương lĩnh đầu tiên khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là
nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Sức mạnh của Đảng cộng
sản Việt Nam nằm ở chỗ Đảng kết nạp đảng viên không chỉ là những công nhân tiên
tiến, mà còn kết nạp cả những người ưu tú, tiên tiến trong nông dân lao động, trí thức
cách mạng và trong các tầng lớp khác. Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của
giai cấp vô sản, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng.
5. Cương lĩnh khẳng định cách mạng Việt Nam phải tiến hành bằng bạo lực cách mạng
của quần chúng, để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, rồi dựng ra
chính phủ công nông binh chứ không phải bằng con đường cải lương. Đây là kinh
nghiệm được rút ra từ các cuộc đấu tranh cách mạng của các dân tộc trên thế giới đã
khẳng định rằng bản chất của chủ nghĩa Đế quốc và giai cấp vô sản với hai bản chất giai
cấp hoàn toàn đối lập, là một cuộc chiến đấu không khoan nhượng; phải dùng bạo lực
cách mạng đánh đổ bạo lực phản cách mạng mới giành được thắng lợi hoàn toàn.
6. Cương lĩnh khẳng định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng vô sản
thế giới, đứng trong mặt trận cách mạng của các dân tộc bị áp bức và giai cấp công
nhân thế giới mà đội quân tiên phong của mặt trận này là Liên Xô. Nguyễn Ái Quốc
cho rằng : “Những tư tưởng dân tộc chân chính đồng thời cũng là những tư tưởng quốc
tế chân chính”. Sự bóc lột thuộc địa không chỉ là một nguồn sống của bọn tư bản mà
còn là cái “nền móng” của chủ nghĩa đế quốc. Do đó, cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc không những phải trở thành bộ phận khắng khít của cuộc cách mạng vô sản mang
tính toàn cầu mà còn có vai trò là một trào lưu lớn của cách mạng trong thế kỷ này.
Như vậy, ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nắm vững bản chất khoa học
và cách mang của chủ nghĩa Mác - Lênin, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa yếu tố
dân tộc và yếu tố giai cấp, sớm kết hợp yếu tố giai cấp với yếu tố dân tộc một cách sáng
tạo, gắn chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản, phát huy được
truyền thống yêu nước, đánh giá đúng vị trí của từng giai cấp cách mạng, đoàn kết được
các lực lương yêu nước, nhờ đó mà Đảng đã nắm được quyền lãnh đạo cách mạng.
Chúng ta cũng không thể phủ nhận được rằng những chủ trương, mục tiêu, nhiệm vụ
mà Cương lĩnh đã nêu thời gian qua đã chứng tỏ sự đúng đắn, khoa học và như một thứ
động lực tinh thần hợp lòng người nhất, để trên nền móng đó phát huy sức mạnh của
lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là trong công cuộc đổi mới xây dựng
CNXH ngày nay.

Làm rõ sự linh hoạt của Đảng về chớp thời cơ để giành thắng lợi, trong CMT8
năm 1945.
Thời cơ ấy là gì?
Thứ nhất, đó là bắt đầu từ sự kiện ngày 12/8/1946, sau khi nhận được tin phát xít Nhật
Bản đã bị thua to trên hầu khắp các chiến trường châu Á - Thái Bình Dương trong thế
chiến II, nên phải gửi công hàm cho các nước Đồng minh đề nghị ngừng bắn. Bằng
nhãn quan chính trị nhạy bén, tầm nhìn chiến lược, nắm bắt thời cuộc kịp thời, đồng chí
Hồ Chí Minh và Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã nhóm họp ngay tại Tân Trào để
quyết định Tổng khởi nghĩa vũ trang trong cả nước. Ngay sau cuộc họp, “Mệnh lệnh
khởi nghĩa” đã được phát ra.
Chiều tối ngày hôm sau, 13/8/1945, đang trong lúc Ban Thường vụ Trung ương Đảng
họp để nhận định tình hình, phân công nhiệm vụ chỉ đạo khởi nghĩa vụ trang, thì tiếp
tục nhận được thêm một tin rất quan trọng, đó là phát xít Nhật đã bại trận và chuẩn bị
đầu hàng quân Đồng minh. Điều đó khiến cho quân Nhật ở Đông Dương hoang mang
cực độ, đồng thời chính phủ thân Nhật ở Việt Nam cũng tỏ ra hoàn toàn tê liệt. Đến
đây, kẻ thù của cách mạng Việt Nam đã suy yếu, không còn có khả năng thống trị như
cũ được nữa, thời cơ “ngàn năm có một” cho chúng ta giành chính quyền đã xuất hiện,
đòi hỏi chúng ta phải hành động mau lẹ và kiên quyết. Nếu không kịp thời phát động
tổng khởi nghĩa giành chính quyền thì “vạn năm” cũng không thể được bởi lúc này
quân Tưởng và Anh đang sẵn sàng nhảy vào Việt Nam để giải giáp quân đội Nhật
nhưng thực chất là để thực hiện âm mưu mới của chủ nghĩa đế quốc trên danh nghĩa
đồng minh.
Ngay lập tức, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh đã thành lập Ủy ban Khởi nghĩa
toàn quốc; đồng thời soạn thảo “Quân lệnh số 1”. Đến 23 giờ đêm cùng ngày, bản
“Quân lệnh số 1” hoàn thành và được phát đi ngay, hạ lệnh Tổng khởi nghĩa trên toàn
quốc.
Ngày 14/8/1945, sau khi nghe tin Mỹ ném bom nguyên tử xuống thành phố Hirôsima
của Nhật Bản, đồng chí Hồ Chí Minh đề nghị họp Hội nghị toàn quốc của Đảng tại Tân
Trào. Hội nghị đã nhận định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành quyền độc lập đã tới”. Trên cơ
sở đó, đồng chí Hồ Chí Minh đã chỉ thị: “Chúng ta cần tranh thủ từng giây, từng phút.
Tình hình sẽ chuyển biến nhanh chóng. Không thể để lỡ cơ hội”.
Và chỉ từ ngày 14 đến ngày 28-8-1945, với sự kết hợp linh hoạt các hình thức, phương
pháp đấu tranh cả đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, tuyên truyền kết hợp với
bạo lực cách mạng, nhằm phân hóa, cô lập kẻ thù, cuộc Tổng khởi nghĩa đã giành thắng
lợi một cách nhanh, gọn, không đổ nhiều máu và thành công triệt để.
3. Một số kinh nghiệm về lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền.
 Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về vấn đề tập hợp lực lượng toàn dân tộc
trong cuộc đấu tranh giành chính quyền (1930-1945)
2. Chủ trương của Đảng (3)
Chủ tịch HCM và ĐCSVN đã có bước nhận định tình hình: rất chính xác, đúng đắn so
với chiều hướng phát triển của tình hình thế giới và trong nước, từ đó cho phép chúng ta
đề ra chuyển hướng chiến lược phù hợp. Trong đó, Đảng đã quyết định gác lại nhiệm
vụ dân chủ, tập trung vào nhiệm vụ dân tộc (chống đế quốc), giương cao ngọn cờ giải
phóng dân tộc, trong đó tập trung sâu sắc vào việc tập hợp lực lượng toàn dân tộc trong
cuộc đấu tranh giành chính quyền.
 Đảng đã xác định đúng tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo của cương lĩnh
chính trị đầu tiên 1930. Đảng quyết định tập hợp rộng rãi mọi lực lượng dân tộc,
“ai có lòng yêu nước thương nòi sẽ cùng nhau thống nhất mặt trận, thu góp toàn
lực đem tất cả ra giành quyền độc lập, tự do cho dân tộc”.
 1936 – 1939: Mặt trận Dân chủ Đông Dương ra đời, và để thực hiện mục đích
mới: đấu tranh giải phóng dân tộc, mang tính chất hiệu triệu hơn -> Thành lập
mặt trận Việt Minh. Mặt trận VM thành lập để đoàn kết, tập hợp mọi tầng lớp
nhân dân để hoàn thành số 1 của CM VN là đấu tranh giải phóng dân tộc. Đồng
thời cũng thành lập các hội: Nông dân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ
cứu quốc…
 Đây là một Chủ trương đúng đắn, thay thế sai lầm trước đây. Tổ chức Mặt trận
trong khuôn khổ dân tộc Việt Nam nhằm khơi dậy mạnh mẽ tinh thần dân tộc,
yêu nước nhằm vào mục tiêu độc lập dân tộc. Sự ra đời của mặt trận Việt Minh
đóng góp vai trò cực kỳ quan trọng, là nhân tố hàng đấu để quyết định sự thành
công của CM tháng 8. Đây cũng là quan điểm sáng tạo trong tập hợp lực lượng
cách mạng của Người
3. Chỉ đạo của Đảng (3)
 Những hoạt động của các tổ chức cứu quốc cũng như mặt trận Việt Minh ngày
càng sôi nổi và táo bạo, gây tiếng vang rộng rãi trong quần chúng, đưa khí thế
cách mạng Đảng cao; phát triển rộng khắp trên các địa bàn, tạo nên những
chuyển biến mạnh mẽ trong phong trào cách mạng thời kỳ tiền khởi nghĩa. Mặt
trận Việt Minh chính là cầu nối giữa Đảng với nhân dân, làm cho “ý Đảng thấm
tới lòng dân”; tạo thời cơ phát động cuộc Tổng khởi nghĩa trong cả nước. Đảng
ta đã xây dựng được một lực lượng chính trị quần chúng mạnh mẽ, được rèn
luyện qua nhiều phong trào cách mạng.
 Sau thắng lợi sẽ thành lập “Việt Nam Dân chủ cộng hòa”, nhà nước của toàn thể
dân tộc
 Coi trọng công tác đào tạo cán bộ, năng lực tổ chức và lãnh đạo của Đảng, đẩy
mạnh công tác vận động quần chúng
4. Ý nghĩa thực tiễn
Khi thời cơ lịch sử xuất hiện, Đảng ta đã phát động quần chúng tiến hành cuộc khởi
nghĩa giành chính quyền. Lực lượng cách mạng tổng hợp - bao gồm lực lượng chính trị,
lực lượng vũ trang, lực lượng lãnh đạo, lực lượng quần chúng đã kết hợp chặt chẽ với
nhau, tạo thành sức mạnh to lớn của khởi nghĩa toàn dân đè bẹp mọi sự phản kháng của
kẻ thù, lật đổ ách thống trị của đế quốc, phong kiến. Chỉ trong ngày 19/8/1945, chính
quyền ở Hà Nội đã hoàn toàn thuộc về tay nhân dân. Và cũng chỉ trong vòng 2 tuần,
cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám đã thắng lợi trọn vẹn trên phạm vi cả nước. Lịch sử
Việt Nam đã sang một trang mới. Đó chính là minh chứng rõ ràng nhất cho sự đúng
đắn, sáng tạo của chủ trương tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân.
5. Vận dụng thực tế
Nhiệm vụ
Bài học kinh nghiệm về tập hợp lực lượng cách mạng, xây dựng và phát huy sức mạnh
của khối đại đoàn kết toàn dân tộc từ cuộc Cách mạng T8 còn nguyên giá trị trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay, đặt ra những yêu cầu mới cho Đảng và
nhà nước
 Thường xuyên quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước về công tác vận động quần chúng; nâng cao nhận thức
cho đội ngũ cán bộ, Đảng viên về yêu cầu, mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng
của việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc
 Đề cao trách nhiệm, tổ chức thực hiện nghiêm túc; không ngừng đổi mới, tự
chỉnh đốn
 Tập trung nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, ngăn chặn, đẩy lùi tình
trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; khắc phục những biểu
hiện tham nhũng, lãng phí, quan liêu xa rời quần chúng nhân dân.
 Cán bộ, Đảng viên phải thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng, giữ vững
tính tiền phong, gương mẫu, gắn bó mật thiết với quần chúng, luôn luôn đặt lợi
ích của Đảng, của dân tộc lên trên lợi ích của cá nhân, phấn đấu vì mục tiêu, lý
tưởng của Đảng, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì
hạnh phúc của nhân dân.
 Tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, lấy đoàn kết trong Đảng làm
cơ sở để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
 Kiên định đường lối đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc
tế; chăm lo lợi ích thiết thực, chính Đảng, hợp pháp của các giai cấp, các tầng
lớp nhân dân; nhất là đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa; giải quyết
kịp thời các mâu thuẫn phát sinh.
 Chủ trương của Đảng về chớp thời cơ trong cách mạng T8/1945
Bài học quý giá về chớp thời cơ, đem sức ta mà tự giải phóng cho ta.
Cách mạng Tháng Tám đã chọn đúng thời cơ lịch sử để phát động tổng khởi nghĩa, làm
cho sức mạnh của toàn dân ta được nhân lên gấp bội, giành thắng lợi triệt để một cách
nhanh, gọn, ít đổ máu.
Đảng chuyển hướng, chủ trương giành chính quyền trước khi quân Đồng minh kéo vào
Đông Dương vì:
 Thời cơ quá chín muồi, thuận lợi, không cần sự giúp đỡ của quân Đồng minh mà
vẫn có thể giành chính quyền.
 Cần nhanh chóng giành chính quyền vì nếu ta chậm, chính quyền sẽ thuộc về
quân đông minh, ta vĩnh viễn không thể có được chính quyền, không có chỗ dựa
đấu tranh để chống lại lực lượng quân đồng minh, cụ thể là Pháp. Khoảng thời
gian 8-1945 đó xuất hiện khoảng trống quyền lực, xuất hiện cuộc chạy đua nước
rút giữa ta và quân ĐM chiếm chính quyền.
 Nếu để quân ĐM vào khi ta chưa có chính quyền, họ sẽ lấy cớ ở lại lâu trên đất
nước ta, giải phóng nước ta, đẩy ta vào tình thế phải đối mặt với nhiều kẻ thù
cùng 1 lúc.
Ngày nay, bối cảnh thế giới biến động nhanh chóng, phức tạp, khó lường, đặt dân tộc ta
trước hàng loạt thời cơ, thuận lợi và không ít khó khăn, thách thức. Vận dụng sáng tạo
bài học chớp thời cơ trong bối cảnh mới hiện nay đòi hỏi Đảng phải nâng cao năng lực
phân tích thực tiễn sâu sắc, tầm nhìn xa trông rộng, trên cơ sở thấm nhuần và vận dụng
một cách xuất sắc lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện lịch sử cụ thể, nhận
diện và nắm bắt đúng thời cơ để đưa ra các quyết sách có lợi cho cách mạng, cho đất
nước.
Trong quá trình hội nhập khu vực và thế giới, trên cơ sở giữ vững quyền độc lập và tự
chủ, giữ gìn môi trường hòa bình và với nguyên tắc bình Đảng, cùng có lợi, Việt Nam
phải tạo ra được một năng lực nội sinh làm nền tảng cho sự phát triển bền vững. Chủ
động ngăn chặn suy giảm kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng
kinh tế hợp lý, bền vững; tập trung giải quyết những vấn đề dân sinh bức xúc, bảo đảm
an sinh xã hội và những yếu tố định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị
trường; tăng cường quốc phòng an ninh; thực hiện có hiệu quả đường lối đối ngoại độc
lập, tự chủ, đa Đảng hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế vì hòa bình, hợp tác, phát
triển; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải thiêng liêng của
Tổ quốc. Vận hội mới, điều kiện mới càng thấy rõ yêu cầu nâng cao tầm nhìn chiến
lược, nắm bắt thời cơ của người tổ chức, lãnh đạo cách mạng- Đảng Cộng sản Việt
Nam.
 Lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù
Lợi dụng mâu thuẫn và hòa hoãn: là yêu cầu tất yếu, là nghệ thuật chỉ đạo cách
mạng sáng suốt của Đảng
Lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù vừa là yêu cầu khách quan, vừa là một nghệ
thuật chỉ đạo cách mạng. Ở Việt Nam, suốt thời kỳ đấu tranh giành chính quyền, những
năm 1930-1945, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn phân tích đúng các kẻ thù, trong từng
giai đoạn, thời điểm; phát hiện và kịp thời lợi dụng, khoét sâu mâu thuẫn giữa chúng
và trong nội bộ chúng; do đó, làm phân hoá, giảm sức mạnh, tiến tới làm suy yếu kẻ
thù; tạo điều kiện thay đổi so sánh lực lượng có lợi cho sự phát triển của cách mạng.
2. Cơ sở thực tiễn:
Giai đoạn 1936-1939
 Trước sự biến đổi sâu sắc của tình hình thế giới và trong nước, nhất là sự xuất
hiện của chủ nghĩa phát-xít và nguy cơ Chiến tranh thế giới lần thứ hai, Đảng ta
đã phân tích, chỉ rõ mâu thuẫn trong hàng ngũ bọn thống trị Pháp ở Đông Dương
là giữa phái Cộng hòa dân chủ với phái phát-xít.
 Từ đó, Đảng chủ trương hướng vào thực hiện mục tiêu trực tiếp, trước mắt là
chống chế độ phản động thuộc địa, đồng thời đẩy mạnh đấu tranh đòi tự do, dân
sinh, dân chủ, hòa bình; tập trung mũi vào kẻ thù chủ yếu là bọn phản động
thuộc địa và bọn tay sai bán nước. Chủ trương này đã tạo được sự hưởng ứng
tích cực của đông đảo các thành phần, thu hút cả những người thuộc tầng lớp
trên, như: người Pháp dân chủ, địa chủ vừa và nhỏ,… tạo sức mạnh to lớn, thúc
đẩy phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ, rộng khắp.
Giai đoạn 1939-1945
 Ta đã phân tích mâu thuẫn giữa quân đồng minh và phe phát xít (ngay trong nội
bộ của chính quyền Trần Trọng Kim), cụ thể là giữa phát-xít Nhật với thực dân
Pháp ở Đông Dương và đi đến nhận định: mâu thuẫn giữa chúng lúc này cũng
giống như hai con thú Đảng tranh nhau một miếng mồi, cùng giành giật, cắn xé
lẫn nhau và kết cục sẽ tự suy yếu.
 Từ nhận định và phân tích kẻ thù đó, Chỉ thị Nhật, Pháp bắn nhau và hành động
của chúng ta đã ra đời, chỉ rõ kẻ thù chính và mục tiêu CM của từng giai đoạn.
Giai đoạn 1939-1940: tập trung chống Pháp, 1940-1945: chống Nhật-Pháp và tay
sai. Sau khi Nhật tiến hành đảo chính, lật đổ chính quyền cai trị của Pháp ở Đông
Dương (9-3-1945), Đảng ta xác định kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương là
phát-xít Nhật và tay sai. Vì vậy, Đảng đã quyết định thay đổi khẩu hiệu “Đánh
đuổi phát xít Nhật - Pháp” bằng khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật”.
> Như vậy, có thể thấy được sự sắc bén, nhanh nhạy, vận dụng sáng tạo từng
hoàn cảnh cụ thể, biến bất lợi thành có lợi, lợi dụng sự mâu thuẫn phân hoá của
kẻ thù mà Đảng ta đã giữ vững chính quyền cách mạng trong bối cảnh hết sức
khó khăn. Trong bối cảnh ấy bản lĩnh tư duy chính trị của Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh lại càng được khẳng định.

You might also like