You are on page 1of 3

22 BÀI TẠP CHÍ

BÀN VỀ CƠ CẤU CỦA QUY PHẠM PHÁP LUẬT


Nguyễn Quốc Hoàn
Quy phạm pháp luật là "tế bào" của hệ thống pháp luật, nó đóng vai trò như
là những "viên gạch" để xây nên "tòa nhà" pháp luật, do đó việc tạo ra các quy
phạm pháp luật hoàn chỉnh và có cơ sở khoa học mang ý nghĩa thiết thực đối với
việc hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Trong khoa học pháp lí, nhất là trong lí luận về nhà nước và pháp luật, có
nhiều quan điểm khác nhau về cơ cấu của quy phạm pháp luật cũng như các
thành phần cụ thể của quy phạm pháp luật. Có quan điểm cho rằng, quy phạm
pháp luật bao gồm đầy đủ ba bộ phận là giả định, quy định và chế tài. Có quan
điểm thì đồng nhất quy phạm pháp luật với điều luật được ghi trong các văn bản
quy phạm pháp luật vì thế mà có quy phạm pháp luật thì có đầy đủ ba bộ phận,
có quy phạm pháp luật thì có hai bộ phận, thậm chí có quy phạm pháp luật chỉ
có một bộ phận là quy định.
Chúng ta biết rằng pháp luật là hệ thống quy tắc xử sự do nhà nước ban
hành và đảm bảo thực hiện, chính vì thế mà một trong những đặc trưng cơ bản
của pháp luật là tính nhà nước. Nhưng cưỡng chế không phải là phương pháp
duy nhất mà nhà nước sử dụng để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình.
Để đảm bảo cho pháp luật được thực hiện, ngoài biện pháp bắt buộc bằng sức
mạnh cưỡng chế, nhà nước còn đưa ra biện pháp khuyến khích về vật chất và
tinh thần cũng như biện pháp giáo dục, động viên mọi người tôn trọng và tự giác
thực hiện pháp luật. Vì vậy, nếu chúng ta cho rằng pháp luật chỉ được đảm bảo
thực hiện bằng sự cưỡng chế của nhà nước và theo đó mà "tế bào" của nó (quy
phạm pháp luật) cũng được đảm bảo bằng sự cưỡng chế của nhà nước thì không
hoàn toàn chính xác.
Mặt khác, pháp luật mang tính bắt buộc chung là do các "tế bào" của nó có
mối liên hệ mật thiết với nhau tạo thành hệ thống thống nhất, do đó nếu có quy
phạm pháp luật nào đó xác định quyền của chủ thể này thì sẽ có quy phạm pháp
luật tương ứng với nó xác định nghĩa vụ của chủ thể khác. Do đó, việc các chủ
thể của pháp luật tôn trọng các quyền của chủ thể nào đó tức là họ đã xử sự theo
những quy phạm mà trong đó xác định nghĩa vụ của họ chứ không phải là thực
hiện quy phạm pháp luật xác định quyền cho chủ thể kia. Có những quy phạm
pháp luật lại chỉ xác định một loại chủ thể đặc biệt nào đó mà thôi. Vì vậy,

TRƯƠNG THỊ MỸ TRÚC – 2353801015216


22 BÀI TẠP CHÍ

không thể cho rằng tất cả quy phạm pháp luật mang tính bắt buộc chung đối với
mọi người.
Vì những lí do nêu trên, chúng ta có thể đưa ra khái niệm về quy phạm
pháp luật như sau: Quy phạm pháp luật là tắc xử sự do nhà nước đặt ra hoặc
thừa nhận và đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Trên
cơ sở nhận thức đó, chúng ta đi xem xét cấu trúc của các quy phạm pháp luật.
Vì vậy, nếu chúng ta cho rằng bộ phận quy định nêu lên cách xử sự buộc
chủ thể phải tuân theo khi gặp điều kiện và hoàn cảnh được nêu ra ở phần giả
định của quy phạm pháp luật là không hoàn toàn chính xác bởi vì nếu phần quy
định chỉ xác định quyền cho chủ thể thì rõ ràng nó không thể được coi là chủ thể
bắt buộc phải tuân theo như đã phân tích ở trên. Do đó, bộ phận quy định xác
định khuôn mẫu hành vi cho chủ thể khi họ ở vào điều kiện hay hoàn cảnh đã
được xác định trong phần giả định của quy phạm pháp luật.
Bộ phận chế tài theo quan điểm chung là bộ phận xác định biện pháp tác
động mà nhà nước dự kiến áp dụng đối với chủ thể không thực hiện đúng mệnh
lệnh được nêu trong phần quy định của quy phạm pháp luật. Thực chất, chế tài
là biện pháp nhằm đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ pháp lí của chủ thể. Tuy
nhiên, đó không phải là biện pháp duy nhất mà nhà nước sử dụng để đảm bảo sự
tôn trọng pháp luật của chủ thể như đã phân tích ở trên.
Với những nội dung đó thì quy phạm pháp luật thường có ba bộ phận là giả
định, quy định và chế tài. Thực tế, có nhiều cách trình bày các quy phạm pháp
luật trong các văn bản mà khi nghiên cứu điều luật cụ thể chúng ta thường thấy
không có đầy đủ cả ba bộ phận nêu trên. Tuy nhiên, nếu chúng ta loại trừ những
trường hợp nêu trên thì cũng vẫn có quy phạm pháp luật không có bộ phận chế
tài nếu xét theo góc độ logic của nội dung quy phạm pháp luật. Chúng ta hãy
nghiên cứu hai trường hợp sau đây:
- Thứ nhất, phần quy định của quy phạm pháp luật chỉ xác định quyền của
chủ thể (quy phạm pháp luật cho phép)
Thực tế hoạt động xây dựng pháp luật cho thấy không có quy phạm pháp
luật cho phép nào xác định phần chế tài đối với chủ thể nếu chủ thể không thực
hiện quyền của mình. Ví dụ, Điều 57 Hiến pháp 1992 quy định: "Công dân có
quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật"; Điều 1 Luật khiếu nại, tố
cáo ghi: "Công dân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại quyết định hành chính,

TRƯƠNG THỊ MỸ TRÚC – 2353801015216


22 BÀI TẠP CHÍ

hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, ...lợi ích hợp công dân từ
chối thực hiện quyền hợp pháp của mình"; hoặc trong trường kháng cáo bản án
hay quyết định nào đó của toà án nhân dân theo quy định của pháp luật.
- Thứ hai, quy phạm pháp luật mà nội dung của nó liên quan đến thủ tục
pháp lí hoặc trường hợp mà nội dung của nghĩa vụ gắn liền với lợi ích của chủ
thể pháp luật
Trong một số trường hợp quy phạm pháp luật quy định về thủ tục pháp lí
nhất định mà khi thực hiện những hành vi này, nếu chủ thể của pháp luật không
làm đúng những yêu cầu của pháp luật thì cũng không có biện pháp chế tài nào
được đặt ra. Ví dụ, điểm a khoản 2 Điều 17 Luật khiếu nại, tố cáo quy định về
nghĩa vụ của người khiếu nại: "Khiếu nại đến đúng người có thẩm quyền".
Trong trường hợp như vậy, ta thấy rằng nếu chủ thể pháp luật xử sự theo đúng
yêu cầu của pháp luật thì mới có thể đảm bảo cho thủ tục pháp lí xuất hiện hoặc
tiếp tục diễn ra các giai đoạn tiếp theo, ngược lại thì thủ tục pháp lí sẽ không
xuất hiện hoặc không tồn tại các giai đoạn tiếp theo nữa.
Trong trường hợp nghĩa vụ của chủ thể gắn liền với lợi ích của họ, nếu chủ
thể không thực hiện nghĩa vụ thì lợi ích của họ có thể bị thiệt hại. Ví dụ, Điều 2
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động quy định: "Các đương sự
có nghĩa vụ cung cấp tài liệu, chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình". Như vậy, nếu các đương sự không thực hiện hành vi này thì cũng không
cần biện pháp chế tài nào bởi vì nghĩa vụ này gắn liền với lợi ích của chính họ.
Bên cạnh đó, trên thực tế có những quy phạm pháp luật xác định nghĩa vụ
của chủ thể pháp luật nhưng không đặt ra phần chế tài do nhiều lí do khác nhau.
Vì vậy, phần chế tài của pháp luật không được đặt ra trong các quy phạm pháp
luật đó.
Một vài điểm được phân tích trên cho chúng ta thấy tính chất phức tạp của
vấn đề cấu trúc của quy phạm pháp luật. Nó tạo ra hướng nghiên cứu mới cho
chúng ta về các quy phạm pháp luật nhằm xác định sự cần thiết của việc tồn tại
những thành phần khác nhau gắn liền với những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể
của mỗi quy phạm pháp luật. Điều đó có ý nghĩa rất lớn đối với việc nghiên cứu
và làm sáng tỏ các hình thức khác nhau của điều chỉnh pháp luật cũng như
những thành tố của cơ chế điều chỉnh pháp luật./.

TRƯƠNG THỊ MỸ TRÚC – 2353801015216

You might also like