Professional Documents
Culture Documents
Tổng Hợp Triết Học Cuối Kì - TVĐ - Ump 2022
Tổng Hợp Triết Học Cuối Kì - TVĐ - Ump 2022
THỰC TIỄN XÂY DỰNG VÀ TRIỂN KHAI CHÍNH SÁCH ĐỔI MỚI THÌ ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM
Trong thực tiễn xây dựng và triển khai chính sách Đổi mới thì Đảng Cộng sản Việt Nam vừa
coi trọng việc đổi mới toàn diện các yếu tố kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội,… và vừa nhấn mạnh
“việc đổi mới kinh tế” mới là trọng tâm. Cụ thể:
Đổi mới tư duy lý luận, nhận thức rõ về chủ nghĩa xã hội, về các quy luật khách quan những đặc
trưng của thời kỳ quá độ. Đổi mới tư duy không có nghĩa là phủ nhận những thành tựu lý luận đã đạt
được, phủ nhận những quy luật phổ biến của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, phủ nhận đường lối
đúng đắn đã được xác định, trái lại chính là bổ sung và phát triển những thành tựu ấy.
Đổi mới quan điểm chính sách kinh tế:
Về đổi mới cơ cấu kinh tế, dứt khoát sắp xếp lại nền kinh tế quốc dân theo cơ cấu hợp lý, có
chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế, chính sách đó cho phép sử dụng nhiều
hình thức kinh tế với quy mô và trình độ kỹ thuật thích hợp trong từng khâu của quá trình sản xuất và
lưu thông nhằm khai thác mọi khả năng của các thành phần kinh tế liên kết với nhau, trong đó kinh tế
quốc doanh giữ vai trò chủ đạo.
Cùng với chính sách kinh tế nhiều thành phần, Đại hội VI còn chủ trương bố trí lại cơ cấu sản
xuất, điều chỉnh lại cơ cấu đầu tư, tập trung thực hiện cho được ba chương trình mục tiêu về lương thực
- thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Các chương trình đó là sự cụ thể hoá nội dung chính
của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu.
Về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, Đại hội VI xác định: Phương hướng đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế đã được khẳng định là xoá bỏ tập trung quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế mới phù hợp với
quy luật khách qua: và với trình độ phát triển của nền kinh tế". Đổi mới chính sách đối ngoại, mở rộng
và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Đổi mới về vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước, Đổi mới
nội dung và phong cách lãnh đạo của đảng, tăng cường sức chiến đấu và năng lực tổ chức thực tiễn
của Đảng. Đại hội nêu rõ: "... Đảng phải đổi mới về nhiều mặt: đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh
tế: đổi mới tổ chức; đổi mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác.
Ví dụ: chủ nghĩa Marx vận dụng phong trào công nhân để thành lập Đảng cộng sản. Nhưng Hồ
Chí Minh áp dụng sáng tạo tình hình nước ta là áp dụng chủ nghĩa Marx Lenin vào phong trào công
nhân và thêm vào phong trào yêu nước để thành lập Đảng cộng sản, là bởi vì bác hồ căn cứ vào thực
tiễn dân tộc Việt Nam là công nhân Việt Nam thời điểm đó rất ít, mà nông dân lại đông và có đặc điểm
yêu nước. Bác Hồ dựa vào lực lượng công nhân và nông dân yêu nước để tạo Đảng cộng sản có sức
mạnh.
Ví dụ: tăng lương cơ bản, phải xét hàng loạt các mối liên hệ. Nhà nước phải đàm phán với khối
kinh tế ngoài nhà nước, rồi lại phải tính đến vùng miền ngành nghề độc hại, rồi phải xem xét tăng lương
có làm giá cả hàng hóa tăng không, rồi phải thông báo với các nước ASIAN xem có ảnh hưởng đến các
nước khác không.
VẬN DỤNG
Nhìn nhận xem xét đối tượng cụ thể, cần đặt nó trong chỉnh thể thống nhất của tất cả các mặt,
các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính, các mối liên hệ của chỉnh thể đó. Như khi đánh giá bệnh nhân
phải xem xét nhiều mặt như tình trạng sức khỏe, tổng trạng, việc làm kinh tế, văn hóa, tôn giáo, môi
trường sống=> từ đó có cái nhìn khách quan, toàn vẹn về tình trạng bệnh lý và mối liên hệ với bệnh
nhân => đánh giá nguyên nhân, yếu tố nguy cơ trực tiếp, gián tiếp gây ra bệnh -> Có thể điều bệnh
nhân toàn diện hơn, hiệu quả hơn
Khi tiếp cận điều trị bệnh nhân, phải cân nhắc hiệu quả phác đồ điều trị, hiệu quả trên bệnh
nhân như thế nào, chi phí ra sao, điểm lợi cũng như đánh giá tác dụng phụ, triệu chứng không mong
muốn, liệu bệnh nhân có thể tiếp tục điều trị lâu dài để tư vấn cũng như điều trị đạt hiệu quả cao nhất.
Làm việc phải nhìn nhận mặt lợi, mặt hại, nhiều bệnh không chữa được nhưng vẫn cố điều trị,
làm tốn kém, giảm chất lượng sống của bệnh nhân
Ngoài ra, khi xem xét, đánh giá một sự vật, hiện tượng em phải xem xét đánh giá một cách
toàn diện. Không phiên diện, đánh giá một sự vật, chỉ nhìn một vài mặt, vài mối liên hệ đã đi đến liên
kết. Khi đánh giá 1 người chắc chắn chúng ta đều có những ấn tượng đầu tiên về ngoại hình , tính
cách. Nhưng nếu chỉ qua 1 vài lần gặp mặt mà chúng ta đã đánh giá bạn là người xấu hoặc tốt , dễ
tính hay khó tính. Cách đánh giá như vậy là phiến diện, chủ quan trái với quan điểm toàn diện.Điều
có thể làm cho chúng ta có những quyết định sai lầm., mọi mặt của vấn đề để hiểu được bản chất thật
sự của sự vật hiện tượng. Chúng ta không thể chỉ nhìn bề ngoài mà phán xét về phẩm chất, đạo đức
của người đó.Vẻ bề ngoài không nói lên được tất cả , có thể bạn đó có gương mặt lạnh lùng nhưng
tính bạn rất cởi mở, hòa đồng, dễ gần. Vì vậy muốn đánh giá 1 con người cần phải có thời gian tiếp
xúc lâu dài , nhìn nhận họ trên mọi phương diện , ở từng thời điểm ,từng hoàn cảnh khác nhau.
Trong quan hệ giữa con người với con người, chúng ta phải biết ứng xử sao cho phù hợp với từng con
người. Đối với những người bề trên như ông ,bà ,bố ,mẹ, thầy cô… thì chúng ta cần có thái độ cư xử
lễ phép, tôn trọng họ.
Khi xem xét nguyên nhân của một vấn đề nào đó để giải quyết, chúng ta cần xem xét chúng
trong các mối liên hệ để xem nguyên nhân từ đâu để có cách giải quyết, xử lý tốt . Khi ta học kém đi ,
điểm số giảm cần tìm nguyên nhân do đâu khiến ta như vậy. Do lười học, không hiểu bài, không làm
bài tập hay không có thời gian học. Nếu tìm được nguyên nhân cụ thể, chủ yếu , thì sẽ tìm được cách
giải quyết đúng đắn.
Nhiều thứ muốn học, nhưng muốn hiểu kỷ và sâu sắc thì phải tốn nhiều thời gian, kiên trì, kiên
nhẫn. Từ đó có thể hiểu sâu và rộng vấn đề hơn, cũng như nhớ lâu hơn, có thể áp dụng vào cuộc sống
Phải phát triển bản thân toàn diện, không chỉ về kiến thức, mà còn phải có đạo đức, tác phong, sống
và làm việc theo pháp luật. Như Bác đã từng dạy “Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức
mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”
Con người ta không thể sống một mình, không thể tách rời khỏi gia đình, bạn bè, đồng nghiệp,
nhân dân, nhân loại.
Chúng ta hiện nay đang là những học viên, là những người đang trong quá trình phát triển về
mọi mặt cả về thể lực và trí lực, tri thức và trí tuệ nhân cách... cho nên thời kì này phải tranh thủ điều
kiện để hoàn thiện bản thân, phải rèn luyện cả phẩm chất, năng lực, cả đức cả tài, học hỏi bạn bè, gia
đình, nhà trường và xã hội để trở thành con người mới xã hội chủ nghĩa nhằm đáp ứng nhu cầu của xã
hội hiện nay làm nền tảng cho sự phát triển tiếp tục trong tương lai.
Câu 2: Phân tích nội dung qui luật phủ định của phủ định. Vận dụng ý nghĩa phương pháp luận của
nguyên lý này vào trong hoạt động thực tiễn hàng ngày của anh (chị).
Câu 4: Từ đó rút ra ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
VỊ TRÍ VAI TRÒ CỦA QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH
- Quy luật phủ định của phủ định này vị trí của nó giống như quy luật lượng chất nó cũng là một
trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật và vị trí giống nhau .Nhưng mà vai trò của quy
luật này nó sẽ khác nếu như quy luật lượng chất đã chỉ cho chúng ta cách thân của sự phát triển thì
quy luật phủ định của phủ định chỉ ra cho chúng ta cái khuynh hướng phát triển tức là các sự vật hiện
tượng trong thế giới vật chất nó phát triển, nó diễn ra theo hướng nào (đi lên hay đi xuống đường
thẳng hay đường vòng tròn hay là méo). Đó là chỉ ra cái khuynh hướng phát triển của các sự vật hiện
tượng đó là trong thế giới vật chất và các anh chị thấy rằng quy luật này nó chỉ rằng mọi sự vật hiện
tượng trong thế giới và phẩm chất khi nó phát triển là theo đất đó là tiến lên nhưng mà theo chu kỳ
quanh co phức tạp.
Cuộc cách mạng Việt Nam hiện nay thế này thì rộng quá, hai là vận dụng trong cái hoạt động thực
tiễn
Một là cái ý nghĩa thứ nhất là vận dụng vào hoạt động thực tiễn cái, thứ hai đó là vận dụng vào sự
nghiệp cách mạng Việt Nam hiện nay thì cái này để tôi suy nghĩ lại rồi tôi thì tôi vẫn ưu tiên là vận
dụng vào hoạt động thực tiễn. Phần cô Chinh không ra thi.
Ý NGHĨA QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
Lý luận của Đảng ta dựa trên nền tảng là triết học mác-lênin và tư tưởng hồ chí minh. Đây là
một kho tàng lý luận to lớn mà tài sản lý luận thuộc loại quý giá nhất là lý luận về Phương pháp biện
chứng duy vật được trình bày một cách chặt chẽ, có hệ thống. những lý luận này đã phát hiện và bác
bỏ những điểm yếu, những điểm chưa phù hợp của các hệ thống tư tưởng cổ điển, đồng thời phát triển
những lý luận mới phù hợp với thời đại mới.
Lý luận về Phương pháp biện chứng duy vật đã được tiếp nhận, phát triển và vận dụng đặc biệt
sáng tạo vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam gần 80 năm qua, giúp cho các nhà lý luận của Đảng
Cộng sản Việt Nam, của nhân dân Việt Nam nhận thức đúng đắn hàng loạt vấn đề của tự nhiên và của
xã hội, không chỉ thuộc về quá khứ mà cả về hiện tại và tương lai; vũ trang cho giai cấp vô sản Việt
Nam những nhận thức đúng đắn về những quy luật khách quan của sự phát triển.
Được soi sáng từ Phương pháp biện chứng duy vật, Việt Nam đã phát huy sáng tạo để tự vũ
trang cho mình một hệ thống lý luận làm nền tảng cho sự thắng lợi vĩ đại của những cuộc đấu tranh ác
liệt: Cách mạng Tháng 8 năm 1945, Kháng chiến chống thực dân Pháp 1945- 1954 và Kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước 1954-1975.
Đại hội VI Đảng ta đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện tại. Đại hội đã đánh dấu bước ngoặt
trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đưa nước ta thoát ra khỏi sự khủng hoảng và
ngày càng phát triển. Đường lối đổi mới của Đảng là kết quả của một quá trình Đảng ta tìm tòi, nghiên
cứu tổng kết từ thực tiễn cách mạng nước ta trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tiếp
thu có phê phán, chọn lọc kinh nghiệm của cách mạng thế giới. Thực chất đây là một quá trình phủ
định biện chứng trong quá trình nhận thức về con quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đặc
biệt trong lĩnh vực kinh tế.
Trước thời kỳ đổi mới chúng ta quản lý kinh tế theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao
cấp. cơ chế này ngày càng không phù hợp với hoàn cảnh của đất nước. Nó làm thủ tiêu cạnh tranh, kìm
hãm tiến bộ khoa học – công nghệ, triệt tiêu động lực kinh tế đối với người lao động, không kích thích
tính năng động, sáng tạo của các đơn vị sản xuất kinh doanh. Chính điều này đã làm cho nền kinh tế
rơi vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng.
Trước yêu cầu của thực tiễn đất nước, trên cơ sở tìm tòi, thử nghiệm, đấu tranh giữa quan điểm
mới và quan điểm cũ, đặc biệt trên lĩnh vực kinh tế Đại hội Đại biểu lần thứ VI của Đảng (tháng 12
năm 1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, đưa đất nước vượt qua khó khăn, tiến
lên phía trước.
Đại hội đã nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá thành tựu,
nghiêm túc kiểm điểm, chỉ rõ những sai lầm, khuyết điểm của Đảng trong thời kỳ 1975-1986. Đại hội
xác định thực hiện nhất quán chính sách phát triển nhiều thành phần kinh tế. Đổi mới cơ chế quản lý,
xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, hành chính, bao cấp chuyển sang hạch toán, kinh doanh, kết hợp kế
hoạch với thị trường. Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát trong những năm còn lại của chặng đường
đầu tiên là: Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích lũy; bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý, trong đó
đặc biệt chú trọng ba chương trình kinh tế lớn là Lương thực - thực phẩm, Hàng tiêu dùng và Hàng
xuất khẩu, coi đó là sự cụ thể hóa nội dung công nghiệp hoá trong chặng đường đầu của thời kỳ quá
độ. Thực hiện cải tạo XHCN thường xuyên với hình thức, bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất
phù hợp và lực lượng sản xuất phát triển. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, giải quyết cho được những
vấn đề cấp bách về phân phối, lưu thông. Xây dựng và tổ chức thực hiện một cách thiết thực, có hiệu
quả các chính sách xã hội. Bảo đảm nhu cầu củng cố quốc phòng và an ninh.
Những chủ trương đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của Đảng và Nhà nước nhanh chóng đi vào
cuộc sống, mang lại kết quả tích cực. Nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng nhanh, nhịp độ tăng tổng sản
phẩm trong nước (GDP) bình quân hàng năm thời kỳ 1991-1995 đạt 8,2%. Tình trạng lạm phát bị đẩy
lùi từ 774,7% năm 1986 xuống còn 67,1% năm 1991, 12,7% năm 1995. Đầu tư toàn xã hội bằng nguồn
vốn trong nước và ngoài nước so với GDP năm 1990 là 15,8%, năm 1995 là 27,4%2. Trên cơ sở những
thành tựu kinh tế - xã hội đã đạt được, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (tháng 6/1996) đánh giá:
Đất nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng và kéo dài 15 năm qua, mặc dù
một số mặt còn chưa vững chắc.
Từ Đại hội VI đến đại hội XIII Đảng ta luôn kế thừa và phát huy tinh thần đổi mới và về kinh tế
đã hình thành và ngày ngày càng hoàn thiện mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đó là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường; có nhiều hình thức
sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một
động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và
cạnh tranh theo pháp luật, thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ nguồn lực phát
triển.
Xuyên suốt trong quá trình đổi mới kinh tế của nước ta qua các kỳ đại hội nội dung kinh tế thị
trường định hướng XHCN từng bước được hoàn thiện hơn cả về nhận thức và thực hiện. Đây chính là
quá trình phủ định biện chứng trong quá trình nhận thức về kinh tế. Mô hình kinh tế mới ra đời phủ
định cái cũ, nhưng chỉ phủ định cái lạc hậu, đồng thời kế thừa những giá trị, tinh hoa của cái cũ.
Trong thế giới toàn cầu hóa như hiện nay, Đảng ta phải đối mặt với nhiều vấn đề mới mang tính
đối lập với nhau như Làm thế nào để tỏ thái độ thật đúng đắn, thật chính xác trong cách giải quyết các
mâu thuẫn lớn của thế giới nhưng vẫn giữ được mối liên hệ tốt với các nước. làm sao để có thể cân
bằng mối quan hệ và lợi ích giữa các nước lớn.Làm thế nào để hòa nhập với thế giới mà không bị hòa
tan. Làm thế nào để tạo được sự thống nhất, dù là tương đối, về mặt quan điểm, quan niệm; về đường
lối chiến lược, sách lược, chiến thuật của chúng ta trong các giai đoạn cách mạng mới... Làm thế nào
để tạo được sự nhất trí, đồng tình, đồng thuận trong Đảng Cộng sản và trong nội bộ nhân dân để chống
cho bằng được các âm mưu và hành vi diễn biến hòa bình từ các lực lượng chống đối Việt Nam một
cách cực đoan đang cố sức hoạt động chia rẽ dân tộc.
Như vậy trên cơ sở nghiên cứu quy luật phủ định của phủ định của chủ nghĩa Mác-Lênin về
khuynh hướng của sự phát triển, chúng ta càng tin tưởng vào sự lựa chọn con đường phát triển của đất
nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
BÁO SÀI GÒN GIẢI PHÓNG: (DÙNG CHO CÂU PHỦ ĐỊNH)
Kỷ niệm 90 năm Cách mạng Tháng Mười Nga và 160 năm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản
Từ Việt Nam hôm nay, chúng ta nói gì với Mác và Ăngghen? Thứ Tư, 31/10/2007 23:33
Tuy về hình thức có rất nhiều khác lạ, nhưng tại Việt Nam, cho đến hôm nay vẫn là nơi diễn ra
cuộc đấu tranh giai cấp theo đúng tinh thần và nội dung mà Mác và Ăngghen đã nêu ra ngay trong
chương đầu Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Gần 80 năm qua, những người cộng sản Việt Nam đã
vận dụng sáng tạo tinh thần của Tuyên ngôn vào đất nước mình, tạo ra cho mình sức mạnh phi
thường để đập lại, để xóa đi cái “câu chuyện hoang đường về bóng ma cộng sản” - cái “bóng ma”
không chỉ “ám ảnh châu Âu” hồi giữa thế kỷ XIX mà ám ảnh luôn cả các lực lượng chống đối cộng
sản trên toàn thế giới thời hiện đại.
Những người cộng sản Việt Nam tiếp nhận nội dung và tinh thần của Tuyên ngôn trong liên
quan đồng đại với cả một hệ thống vấn đề mang tính toàn vẹn và biện chứng về kinh tế - chính trị, về
tư tưởng - triết học của Mác và Ăngghen. Và liên quan theo chiều lịch đại, những người cộng sản
Việt Nam tiếp nhận những quan điểm thuộc hệ thống vấn đề về kinh tế, chính trị, tư tưởng triết học
của Mác và Ăngghen gắn với sự phát triển thiên tài cũng về các mặt căn bản đó của Lênin.
Qua 160 năm, cách mạng thế giới diễn biến theo luận thuyết của chủ nghĩa Mác - Lênin với
nhiều thử thách dữ dội; gần 80 năm nay cách mạng Việt Nam diễn tiến theo tư tưởng Hồ Chí Minh
với chiếc kim chỉ nam tinh nhạy của chủ nghĩa Mác - Lênin, đã kinh qua muôn vàn thử thách ác liệt
và mang lại thắng lợi vĩ đại không chỉ ở các lĩnh vực tư tưởng, triết học; không chỉ trên các lĩnh vực
chính trị, quân sự mà còn cả trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa. Nói tới thành tựu vĩ đại đó,
những người cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam phải nhớ tới Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản,
nhớ tới những người sáng lập ra chủ nghĩa Mác.
Cùng với Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Mác và Ăngghen đã để lại cho nhân loại một kho
tàng lý luận to lớn mà tài sản lý luận thuộc loại quý giá nhất là lý luận về Phương pháp biện chứng
duy vật được trình bày một cách chặt chẽ, có hệ thống chủ yếu trong các tác phẩm “Tư bản” của Mác,
“Chống Đurinh “, “Lútvích Phơbách và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức” , “Phép biện chứng
của tự nhiên”... của Ăngghen.
Lý luận về Phương pháp biện chứng duy vật đã được tiếp nhận, phát triển và vận dụng đặc biệt
sáng tạo vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam gần 80 năm qua, giúp cho các nhà lý luận của
Đảng Cộng sản Việt Nam, của nhân dân Việt Nam nhận thức đúng đắn hàng loạt vấn đề của tự nhiên
và của xã hội, không chỉ thuộc về quá khứ mà cả về hiện tại và tương lai; vũ trang cho giai cấp vô sản
Việt Nam những nhận thức đúng đắn về những quy luật khách quan của sự phát triển.
Được soi sáng từ Phương pháp biện chứng duy vật, Việt Nam đã phát huy sáng tạo để tự vũ
trang cho mình một hệ thống lý luận làm nền tảng cho sự thắng lợi vĩ đại của những cuộc đấu tranh ác
liệt: Cách mạng Tháng 8 năm 1945, Kháng chiến chống thực dân Pháp 1945- 1954 và Kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước 1954-1975.
Đặc biệt, phép biện chứng duy vật đang là chiếc kim chỉ nam dẫn đường cho những người
cộng sản Việt Nam, cho nhân dân Việt Nam nhận thức tất yếu một cách tỉnh táo, nhận thức các hiện
tượng của hiện thực trong phát triển và trong sự tự vận động của chúng để bước đi trên những chặng
đường cách mạng mới một cách vững vàng, rất tự tin và thích nghi nhanh với những biến đổi dữ dội
của thế giới trong mấy thập kỷ gần đây, khi mà hầu hết các nước thuộc phe xã hội chủ nghĩa sụp đổ -
sụp đổ tới cả những nơi vốn được xem là chiếc nôi của chủ nghĩa cộng sản - nơi mà Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản được phát huy thành công sớm nhất: Liên Xô.
Một điều hết sức thú vị là những người cộng sản Việt Nam đạt tới đỉnh cao thắng lợi vào hạng
nhất là cuối năm 2006 - tức là thời điểm Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam vẫn đang đi theo con
đường lý luận - triết học Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Việt Nam với duy nhất một chính
đảng lãnh đạo là Đảng Cộng sản Việt Nam - nghĩa là một Việt Nam của “bóng ma” đối với giai cấp
tư sản châu Âu cách nay 160 năm, thời mà Mác và Ăngghen viết Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản -
Việt Nam ấy giờ đây đã gia nhập WTO; Việt Nam ấy vừa là chủ tịch, vừa là nước chủ nhà tổ chức
thắng lợi Hội nghị quốc tế APEC 2006 - đúng chính vào cái dịp mà cũng tại Việt Nam này đang
chuẩn bị long trọng tổ chức kỷ niệm 160 năm ngày ra đời Tuyên ngôn của Đảng Công sản.
Từ cách phân tích, lý giải của Mác và Ăngghen trong nội dung của Tuyên ngôn, trong lý luận
về phép biện chứng duy vật và trong toàn bộ kho tàng lý luận đồ sộ của hai ông, chúng ta ý thức rất rõ
rằng: Những người cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam đang trong quá trình thực hiện để hướng
tới mục đích mà Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã chỉ ra. Quá trình đó còn tiếp diễn hết sức phức
tạp, gay go và vô cùng quyết liệt. Ngay trước mắt chúng ta không biết bao nhiêu là khó khăn đang
bày ra: Làm thế nào để tỏ thái độ thật đúng đắn, thật chính xác trong cách giải quyết các mâu thuẫn
lớn của thế giới đương đại thuộc lĩnh vực chiến tranh - hòa bình; thuộc các mối quan hệ tôn giáo, dân
tộc...
Làm thế nào để hòa nhập với thế giới mà không bị hòa tan. Làm thế nào để tạo được sự thống
nhất, dù là tương đối, về mặt quan điểm, quan niệm; về đường lối chiến lược, sách lược, chiến thuật
của chúng ta trong các giai đoạn cách mạng mới... Làm thế nào để tạo được sự nhất trí, đồng tình,
đồng thuận trong Đảng Cộng sản và trong nội bộ nhân dân để chống cho bằng được các âm mưu và
hành vi diễn biến hòa bình từ các lực lượng chống đối Việt Nam một cách cực đoan đang cố sức hoạt
động chia rẽ dân tộc, hạ bệ thần tượng cách mạng, xóa bỏ thành tựu kháng chiến, cổ vũ cho mưu đồ
thực hiện đa đảng, đa nguyên...
Nhân dịp kỷ niệm 160 năm ra đời và phát triển Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản chúng ta nói
với Mác, với Ăngghen mà cũng chính là tự nói với chúng ta, nói với thế giới đương đại về những
thành tựu vĩ đại, đồng thời cũng phải nói lên những khó khăn chất chồng như vậy để khẳng định một
điều rất đáng mừng là: Chúng ta - những người cộng sản Việt Nam, trước sau như một, nhìn nhận
mọi vấn đề của thế giới, của dân tộc theo quan điểm của phép biện chứng duy vật. Mác và Ăngghen
đã, đang và sẽ mãi mãi được tôn vinh ở Việt Nam, mãi mãi được kính trọng, mến yêu trong tâm trí
những người cộng sản Việt Nam.
B. PHẦN THẦY NGHĨA
Câu 1: Phân tích nội dung, giá trị, ý nghĩa của lí luận hình thái kinh tế - xã hội (SGK trang 126 –
141)
Khái niệm hình thái kinh tế - xã hội
Nội dung:
Quan hệ giữa lực lượng sản xuất - quan hệ sản xuất.
Biện chứng của cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng.
Lấy ví dụ nền kinh tế Việt Nam trước và sau đổi mới.
THẦY NÓI
Lý luận - học thuyết về hình thái KT-XH
Đi vào 4 cái vấn đề
a/ Mối quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX
b/ Mối quan hệ biện chứng giữa cở sở hạ tầng (CSHT), kiến trúc thượng tầng (KTTT) và XH
c/ Khái niệm và ý nghĩa của hình thái KT-XH
d/ Vấn đề xây dựng hình thái KT-XH mới ở VN hiện nay
QHSX: quan hệ giữa con người với con người thể hiện trong quá trình sản xuất, phân phối, lưu
thông và tiêu dùng sản phẩm gọi là QHSX. QHSX gồm 3 yếu tố cơ bản: yếu tố thứ 1 là quan hệ về sở
hữu tư liệu sản xuất. Yếu tố thứ 2 là quan hệ về tổ chức, quản lý nền sx. Yếu tố thứ 3 là quan hệ về
phân phối của cải. Sở hữu TLSX là yếu tố cở bản và quyết định trong qhsx bởi vì trong xã hội ai (cá
nhân hay tập thể) nắm được tư liệu sx của xh thì người đó hay lực lượng đó có quyền tổ chức quản lý
nền sx và quản lý toàn bộ xh; và do nắm được tư liệu sx của xh họ có quyền tổ chức quản lý nền sx của
xh thì tất nhiên họ có quyền phân phối của cải và vì vậy bao giờ họ cũng nhận được phần của cải nhiều
nhất của xh. Còn cá nhân hay lực lượng nào không có tư liệu sx, không nắm được tư liệu sx thì anh
không có quyền tổ chức quản lý sx, buộc anh phải bán sức lao động và vì vậy anh cũng không có quyền
phân phối của cải và do đó nhận được phần của cải ít nhất của xh.
LLSX kết hợp với QHSX tạo thành phương thức sx của cải vật chất: là cách thức và phương
pháp mà con người sx ra của cải vật chất trong 1 thời gian nhất định. 1 nền kinh tế muốn tồn tại, phát
triển được do LLSX và QHSX tác động, quy định lẫn nhau.
LLSX có đặc điểm là phát triển nhanh, liên tục, không bao giờ ngừng. QHSX thì phát triển trì
trệ, chậm chạp. Tại vì LLSX là con người, là công cụ, phương tiện lđ, đối tượng lđ khi đi vào nền sx ai
cũng muốn bỏ vốn ra ít nhất, bỏ sức lđ ra ít nhất, nhưng lại muốn nhận được phần của cải, sản phẩm
nhiều nhất do đó nlđ luôn luôn tìm cách sáng tạo, cải tiến công cụ. QHSX là yếu tố thể hiện lợi ích của
giai cấp thống trị cho nên thay đổi chậm. Đến 1 lúc nào đó QHSX sẽ trì trệ, chậm chạp, mâu thuẫn với
trình độ phát triển của LLSX từ đó đưa nền kinh tế phát triển trì trệ.
Vậy đường lối chính sách của nhà nướcViệt Nam về phát triển khoa học
1. Để tạo ra cái lực lượng sản xuất hiện là mục tiêu quan trọng và cơ bản của cái hình thái kinh tế
xã hội mới ở Việt Nam về sự phát triển khoa học công nghệ.
2. Là nhà nước phải đầu tư cho cái này, trước hết và trên hết đầu tư cho nó phát triển
3. Khoa học công nghệ là động lực phát triển bền vững của đất nước sách để thúc đẩy cái khoa
học công nghệ phát triển
Hạn chế:
1. Là khoa học công nghệ phát triển chậm ,những cái thành tựu khoa học công nghệ chưa có
nhiều ứng dụng vào nền kinh tế của Việt Nam
2. Chưa trở thành nền tảng công nghiệp hóa hiện đại chưa trở thành quốc sách hàng đầu
3. Nguyên nhân xuất phát từ nhà nước chưa đầu tư đúng đắn cho khcn
4. Đội ngũ các nhà khoa học chưa thật sự chất lượng và có môi trường để phát triển và bỏ công
sức cho quá nhiều nhưng mà cái lương trả rất ít
GIẢI PHÁP
Phía nhà nước để cho đất nước công nghiệp hóa hiện đại hóa thành công phát triển kinh tế thị
trường và làm cho đất nước giàu có mà dân giàu nước mạnh dân chủ công bằng văn minh thì nhà
nước phải là trụ cột ,thứ nhất là nhà nước phải có kích cầu, đầu tư trong khoa học công nghệ ví dụ
như phòng thì nghiệm, trường đh cao đẳng,…
Chế độ lương bổng phù hợp, động viên các nhà khoa học
Cái thứ ba là phải kích thích các cái doanh nghiệp làm khoa học đặc biệt là các doanh nghiệp
liên quan đến trực tiếp khoa học công nghệ môi trường ,liên kết với nhà nước
+ Về Y tế nữa bởi vì y tế của chúng ta ví dụ đại dịch 2021 và nhất là thành phố Hồ Chí Minh
chế độ đãi ngộ lượng bổng chưa thực sự phù hợp
KH-CN có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của xã hội Việt Nam vì:
Thúc đẩy kinh tế Việt Nam phát triển mạnh mẽ
Thúc đẩy giáo dục- chính trị - các lĩnh vực khác phát triển đặc biệt trong sự phát triển bền
vững của các quốc gian dân tộc.
Tác động công nghệ 4.0 ở Việt Nam tạo ra những điều kiện thuận lợi ( ưu diểm) và khó khăn,
thách thức ( khuyết điểm) rất lớn đối với Khoa học- công nghệ Việt Nam.
THUẬN LỢI: (THỜI CƠ PHÁT TRIỂN )Ở VIỆT NAM:
- Phương diện vĩ mô: công nghệ 4.0 thúc đẩy nâng cao năng suất lao động, tăng trưởng kinh tế,
tạo điều kiện thuận lợi và tiến bộ xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân Việt Nam.
- Phương diện vi mô: kh- cn làm cho con người nhận thức lại một số giá trị , định hình lại các
ngành công nghiệp sản xuất, dịch vụ trong nước và định hình lại các ngành công nghiệp dịch vụ trên
thế giới . Vì vậy, tạo ra khoảng trống , kẽ hở không gian mới trong sản xuất kinh doanh, dịch vụ tạo
điều kiện mới, cơ hội phát triển mới cho công nghiệp ở Việt Nam và xếp hang len lởi chen chân sâu
vào chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu giúp ta tiến hành sản xuất mới, dịc vụ mới, đêm lại lợi ích cho tập
đoàn sản xuất Việt Nam.
Giải thích thêm: Khi ta nhận thức được kh-cn thì ta sẽ định hình lại các ngành công nghiệp sản
xuất, dịch vụ để biết được cái nào là có giá trị, nửa giá trị, không giá trị. Ngành nghề giá trị phát triển
mạnh mẽ, nửa giá trị xem xét hoặc tiếp tục phát triển, không giá trị loại bỏ. Nhưng Việt Nam vẫn đi
sau các nước khác về phất triển Kh-cn 4.0.
kh-cn làm sâu sắc hơn quá trình toaafn cầu hóa cùng toàn cầu hóa thúc đẩy mọi lịnh vực , biến
đổi toàn cầu đời sống xã hội, đặc biệt là kinh tế VN , đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp
nhà nước VN.Dẫn đến phát triển hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường xhcn.
kh-cn giúp mỗi người, tập thể, xẫ hội nhà nước, được học tập , sinh hoạt tốt hơn, hoàn thiện
hơn do ứng dụng thành tựu kh-cn 4.0 vào các lĩnh vực đời sống xã hội người dân.
THÁCH THỨC:
Điểm xuất phát của nền kh-cn Vn thấp nếu Vn chậm chạp trong quá trình phát triển, tiếp thu
vận dụng thành tựu Kh-cn , nhận thức công nghệ 4.0 chậm chạp, chuẩn bị châm chạp điều kiện, yếu
tố cần thiết( vật chất, tinh thần, chính sách, con người) để tiếp thu, ứng dụng công nghệ 4.0 Nếu
không tiếp thu không ứng dụng thì Vn lỡ hẹn cơ hội phát triển công nghệ 4.0. Vn sẽ tụt hậu không chỉ
về kinh tế và cả khoa học-cn ở mọi lĩnh vực – đời sống xã họi so với các nước phát triển tạo ra 1
thách thức 1 nguy cơ lớn cho Vn. Vn chỉ mới 35 năm thực hiện tiếp thu cn 4.0 nên không tận dụng
hết các thành tựu của Kh-cn thế giới vào Vn.
Tác động của Cn 4.0 hoàn toàn khách quan và chủ yếu, nó không đợi ai cả do đó nền kinh tế
Vn sẽ dễ đẫn đễn có nhiều người thất nghiệp do cn 4.0. vì các thiết bị máy móc mới được tạo ra sẽ
thay thế con người. Khi con người không kịp chuyển đổi các ngành nghề khác sẽ gia tang nghèo đói
và thất nghiệp. đặc biệt là sự ra đời của robot . ví dụ trong các ngành nghề: may mặc, giày da, chế
biến nông sản, khách sạn, nhà hàng, hang không, y tế,…
Tác động tạo khó khăn trong tuyển dụng nhận lực chất lượng cao để đấp ứng nhu cầu công
việc. đây là vấn đè nan giải do thị trường lao động VN rất thiếu nguồn lao động tri thức trình độ cao
có khả năng ứng dụng và tiếp thu thành tựu kh-cn. Quá trình đạo tạo rồi huấn luyện thực hành trải
qua thời gian dài mới trở thành chuyên gia được.
Vn là quốc gia có % sử dụng cao điện thoại thông minh, mạng internet dẫn đến nguy cơ cao
không bảo mật thông tin cá nhân rất nguy hiểm dẫn đến mất tiền của, mất thông tin bản thân, và đặc
biệt còn ảnh hưởng đến chính trị ngoại giao, kinh tế của đất nước.
Đường lối, chính sách của Vn trong phát triển kh-cn: Đảng , nhà nước ta coi trọng phát triển
Kh-cn nếu thiếu kh-cn sẽ tụt hậu, nền cn Vn không phát triển được, nhà nước đặt ra 3 quan điểm, ngta
không thay đổi được:
kh-cn là nền tảng của quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa nếu thiếu khổng thẻ thực hiện
CNH-HDH được.
kh- cn là quốc sách hàng đầu của đất nước được phổ biến ra toàn dân đặc biệt trong sự phát
triển kinh tế, ctri và các lĩnh vực
kh-cn là động lực phát triển bền vững đất nước nếu thiếu hoặc yếu không phát triển đất nước
THỰC TRẠNG ỨNG DỤNG KH-CN Ở VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ ĐỔI MỚI CNH- HDH
THÀNH TỰU: Kh-cn đóng góp tích cực cho sự phát triển vă hóa, giáo dục Vn. Cụ thể: Kh tự
nhiên góp phần thức đẩy kinh tế phát triển và góp phần nâng cao năng suất lao động, khoa học xã hội
nhân văn cung cấp luận cứ khoa học cho đường lối chính sách phát triển nhà nước luật pháp nhà
nước.
HẠN CHẾ: Mặc dù có nhiều sự phát triển Khoa học công nghệ (KHCN), hạn chế còn tồn tại
khá nhiều:
KHCN phát triển còn chậm, thành tựu KHCN chưa nhiều ứng dụng vào sản xuất chỉ có (10%)
công nghiệp hiện đại, có đến 90% công nghiệp lạc hậu công nghiệp trung binh- lạc hậu.
KHCN chưa trở thành nền tảng, quyết sách hàng đầu, động lực phát triển bền vững của đất nước,
nghiên cứu khoa học mới chỉ được ứng dụng 30%, 70% chưa hoặc không ứng dụng được (đề tài nghiên
cứu có nhiều hoặc chưa có điều kiện ứng dụng, không ứng dụng được do chất lượng không cao, không
thực tế) -> KHCN phát triển chậm, trì trệ, thành tựu không cao).
GIẢI PHÁP:
Nhà nước phải là trụ cột trong sự phát triển của các lĩnh vực KH, kích cầu đầu tư cho KHCN,
có quỹ kích cầu KHCN, có đầu tư cơ sở vật chất (phòng thí nghiệm, trang thiết bị, trường đại học, viện
nghiên cứu,..) đáp ứng chế độ lương bổng cho các nhà KH đủ sống, góp kích cầu tiêu dùng, chiến dịch
cơ cấu KT, hoàn thiện cơ cấu KT thị trường, KT phát triểntừ nông nghiệp lên công nghiệp và chuyển
lên KT công nghiệp -> KT tri thức đồng thời tạo ra Xã hội tiêu dùng thành tựu KHCN -> động lực thúc
đẩy KHCN, kích thích các doanh nghiệp làm KH, xây dựng viện KH, kích thích tư nhân làm KH.
Tạo ra môi trường KH lành mạnh, dân chủ, các nhà KH có quy chế dân chủ trong lĩnh vực KH,
tự do trong làm KH (cái được làm, cái không được làm), kỉ cương, trật tự trong làm KH, chống tham
nhũng, tiêu cực trong làm KH.
Đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ tương xưng sức lực, kết quả các nhà KH bỏ ra, tôn vinh
KH và tri thức -> khuyến khích đến các nhà KH, là động lực cho các nhà KH tiếp tục sự nghiệp KH
nghiên cứu.
VĂN KIỆN ĐẠI HỘI ĐẢNG LẦN VI – 1986 CHO CÂU MỐI QUAN HỆ LLSX – QHSX
Đại hội đề xướng và lãnh đạo thành công sự nghiệp Đổi mới. Đại hội VI đã đưa ra quan điểm
mới về cải tạo xã hội chủ nghĩa dựa trên 3 nguyên tắc:
Nhất thiết phải theo quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất để xác định bước đi và hình thức thích hợp.
Phải xuất phát từ thực tế của nước ta và là sự vận dụng quan điểm của Lênin coi nền kinh tế có
cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ.
Trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa phải xây dựng quan hệ sản xuất mới trên cả 3 mặt
xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chế độ quản lý và chế độ phân phối xã hội chủ nghĩa.
Đường lối đổi mới
Đại hội khẳng định quyết tâm đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng theo tinh thần cách mạng và
khoa học. Đại hội nhận định: Năm năm qua là một đoạn đường đầy thử thách đối với Đảng và nhân
dân ta. Cách mạng nước ta diễn ra trong bối cảnh quốc tế và trong nước có những thuận lợi cơ bản,
nhưng cũng có nhiều khó khăn phức tạp. Thực hiện những nhiệm vụ, mục tiêu do Đại hội thứ V đề ra,
nhân dân ta đã anh dũng phấn đấu đạt được những thành tựu quan trọng trong công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội, giành những thắng lợi to lớn trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ
quốc tế. Đại hội cũng nhận rõ: Tình hình kinh tế - xã hội đang có những khó khăn gay gắt; sản xuất
tăng chậm; hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp; phân phối lưu thông có nhiều rối ren; những mất cân đối
lớn trong nền kinh tế chậm được thu hẹp; quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chậm được củng cố; đời
sống nhân dân lao động còn nhiều khó khăn… Nhìn chung, chúng ta chưa thực hiện được mục tiêu
tổng quát do Đại hội lần thứ V đề ra là về cơ bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống
nhân dân.
Về nguyên nhân dẫn đến tình hình trên, Đại hội nhấn mạnh trong những năm qua việc nhìn
nhận, đánh giá tình hình cụ thể về các mặt kinh tế, xã hội của đất nước đã có nhiều thiếu sót. Do vậy
đã dẫn đến nhiều sai lầm “trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ
thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế”. Đại hội thẳng thắn cho rằng: “Những sai lầm nói
trên là những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến
lược và tổ chức thực hiện”, đặc biệt là bệnh chủ quan duy ý chí, lạc hậu về nhận thức lý luận.
Từ thực tiễn, Đại hội nêu lên những bài học quan trọng. Một là, trong toàn bộ hoạt động của
mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân lao động. Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy
luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật khách quan là điều kiện bảo đảm sự
lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại
trong điều kiện mới. Bốn là, phải xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một Đảng cầm
quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình đất nước, tự phê bình về những sai lầm khuyết điểm,
đổi mới tư lý luận trải qua nhiều tìm tòi, khảo nghiệm từ thực tiễn, Đại hội đề ra đường lối đổi mới.
Trước hết là đổi mới cơ cấu kinh tế (cơ cấu công – nông nghiệp; cơ cấu nội bộ ngành nông
nghiệp; ngành công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp; công nghiệp nặng và kết cấu hạ tầng; cơ cấu
kinh tế huyện).
Thực hiện ba chương trình kinh tế bao gồm chương trình lương thực, thực phẩm; chương trình
hàng tiêu dùng; chương trình hàng xuất khẩu.
Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo đúng đắn các
thành phần kinh tế.
Đại hội VI đã đưa ra quan điểm mới về cải tạo xã hội chủ nghĩa dựa trên 3 nguyên tắc: Nhất
thiết phải theo quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng
sản xuất để xác định bước đi và hình thức thích hợp. Phải xuất phát từ thực tế của nước ta và là sự
vận dụng quan điểm của Lênin coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời
kỳ quá độ. Trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa phải xây dựng quan hệ sản xuất mới trên cả 3
mặt xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chế độ quản lý và chế độ phân phối xã hội chủ
nghĩa.
Đại hội đã đề ra phương hướng nhiệm vụ xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa, sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa; thành phần kinh tế phi xã hội chủ
nghĩa; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chính
sách xã hội, kế hoạch hoá dân số và giải quyết việc làm cho người lao động. Chăm lo đáp ứng các
nhu cầu giáo dục, văn hoá, bảo vệ và tăng cường sức khoẻ của nhân dân. Trên lĩnh vực đối ngoại
nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước ta là ra sức kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phấn
đấu giữ vững hoà bình ở Đông Dương, góp phần tích cực giữ vững hoà bình ở Đông Nam Á và trên
thế giới, tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước trong cộng đồng
xã hội chủ nghĩa, tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà
nước quản lý đã được Đại hội lần thứ VI xác định là “cơ chế chung trong quản lý toàn bộ xã hội”.
Phương thức vận động quần chúng phải được đổi mới theo khẩu hiệu: Dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra. Đó là nền nếp hàng ngày của xã hội mới, thể hiện chế độ nhân dân lao động tự quản lý
nhà nước của mình.
VÂN GỬI THÊM KHÁ HAY Ở NHỮNG CHỖ ĐÃ ĐÓNG Ô VUÔNG VÀ IN ĐỎ
Câu 1. Phân tích nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến. Vận dụng ý nghĩa phương pháp
luận của nguyên lý này vào trong hoạt động thực tiễn hàng ngày của anh (chị). / Từ đó rút ra ý
nghĩa đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam hiện nay.
Khái niệm:
Nguyên lý là những ý tưởng, lý thuyết ban đầu đóng vai trò quan trọng => được xem là điểm
xuất phát để xây dựng các lý thuyết khoa học khác.
Trong phép biện chứng, khái niệm về mối liên hệ chỉ sử quy định, các tác động và sự chuyển
hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt, yếu tố của mỗi sự vật và hiện tượng trong
thế giới.
Mối Liên hệ phổ biến là khái niệm nói lên rằng mọi sự vật, hiện tượng trên thế giới (cả tự
nhiên, xã hội và tư duy) dù đa dạng phong phú, nhưng đều nằm trong mối liên hệ với các sự vật hiện
tượng khác. Cơ sở của mối liên hệ này là tính thống nhất vật chất của thế giới.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến chính là nguyên tắc lý luận để xem xét sự vật, hiện tượng
khách quan tồn tại trong mối liên hệ. Chúng ràng buộc và tác động lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau giữa
các sự vật, hiện tượng hoặc giữa các mặt của một sự vật và hiện tượng trên thế giới. Và nguyên lý này
được biểu hiện rõ nhất qua mối quan hệ của 6 cặp phạm trù cơ bản.
Tính chất: Theo quan điểm chủ nghĩa duy vật biện chứng, mối liên hệ tồn tại ba tính chất gồm tính
khách quan, tính phổ biến và tính phong phú, đa dạng. Cụ thể:
Tính khách quan: Được biểu hiện qua việc các mối liên hệ của sự vật, hiện tượng trong thế giới đều
mang tính khách quan. Theo đó, sự quy định các tác động và làm chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự
vật, hiện tượng hoặc bản chất chúng là cái vốn có của nó; nó tồn tại độc lập hoàn toàn, không phụ
thuộc vào ý chí con người. Và khi đó, con người chỉ có thể nhận thức và vận dụng các mối liên hệ đó
vào hoạt động thực tiễn của mình.
Ví dụ: Dịch Covid 2020 ảnh hưởng thế giới, chỉ có 10 nước tăng trưởng dương trong đó có
Việt Nam, còn toàn bộ thế giới tăng trưởng âm.
Ví dụ: Do Covid nên đi đâu cũng phải mang khẩu trang, tuân thủ 5K
Thầy thuốc vs bệnh nhân, cha mẹ vs con cái……
Ví dụ: Môi trường biến đổi khí hậu do loài người khai thác cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên,
làm băng ở Bắc cực Nam cực tan, nước biển dâng lên, ngập mặn không có nước ngọt cho con người
dùng.
Tính phổ biến: Bất cứ một sự vật, hiện tượng hoặc quá trình nào đều tồn tại tuyệt đối, biệt lập với với
các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác. Bên cạnh đó, không có một sự vật và hiện tượng nào không
phải một cấu trúc hệ thống. Nó sẽ bao gồm các yếu tố cấu thành với những mối liên hệ bên trong của
nó, có nghĩa là bất cứ một tồn tại nào cùng là một hệ thống. Hơn thế nữa, nó còn là hệ thống mở; tồn
tại trong mối liên hệ với hệ thống khác, tương tác rồi làm biến đổi lẫn nhau.
Mối liên hệ có ở cả ba lĩnh vực lớn của thế giới là: giới tự nhiên, đời sống xã hội, và tư duy con
người.
Giới tự nhiên: các sự vật hiện tượng tương tác với nhau để thúc đẩy nhau phát triển theo quy
luật thích ứng với môi trường.
Ví dụ: Thành phố Hồ Chí Minh có hiện tượng kẹt xe vì làm trái quy luật mối liên hệ. Công thức giao
thông loài người rút ra tối thiểu 25% diện tích đô thị là làm đường giao thông, còn lại 75% là làm
nhà, trường học, bệnh viện. Nhưng TP HCM và Hà Nội chỉ có 6% diện tích làm đường giao thông,
dẫn đến tắc đường kẹt xe. Kẹt xe tắc đường cũng do xây nhiều nhà cao tầng trong trung tâm đô thị.
Ví dụ: Quy luật nước chảy xuống chổ trũng. TPHCM cao nhất Bắc, thấp nhất Nam, cao ở Đông và
thấp ở Tây. Làm thành phố Phú Mỹ Hưng chắn ngang dòng nước chảy thoát nước, và lấp hết hồ ao
trữ nước trong nội thành. Chúng ta không hiểu quy luật nước chảy chổ trũng nên chữa ngập úng bằng
đổ đường lên cao và bơm nước bằng máy bơm, kết quả là vẫn không chữ được ngập.
Đời sống xã hội: nước có nền kinh tế phát triển tác động làm chế độ chính trị phát triển, tác
động làm văn hóa phát triển, tác động làm y tế giáo dục phát triển. Và ngược lại, các lĩnh vực này
cũng tác động lại kinh tế làm kinh tế phát triển.
Tư duy con người: Tư duy và tri thức của con người là phản ánh tất cả các hiện tượng tự nhiên
xã hội vào bộ óc con người, trong quá trình phản ánh đó cũng có kế thừa những tri thức của thời đại
trước.
Ví dụ: tạo hóa sinh ra con người có sự sắp đặt các cơ quan khoa học hoàn hảo, mà không nhà khoa
học nào có thể sắp xếp mới lại được, mắt ở phía trước nhận thấy nguy hiểm, não ở trong sọ để được
bảo vệ…
Mối liên hệ có ở tất cả các lĩnh vực lớn trên thế giới. Trong mỗi lĩnh vực cũng chằng chịt mối
liên hệ. thậm chí trong một sự vật cũng rất nhiều mối liên hệ.
Ví dụ: trong điều kiện kinh tế thị trường hội nhập toàn cầu hóa hiện nay, một người sống ẩn dật thì
cũng là một kiểu mối liên hệ, do tác động nào bên ngoài như áp lực xã hội hoặc thất tình mà làm anh
ta thu mình lại, đó là một kiểu mối liên hệ, chứ không phải không gặp ai là không có mối liên hệ.
Ví dụ: chúng ta có mối quan hệ huyết thống với họ hàng, là công dân chúng ta có mối quan hệ chính
trị phải tuân theo, chúng ta phải tuân theo quy luật giao thông, tuân theo quy luật giá trị đạo đức, đoàn
thể.
Cho nên con người có hàng trăm mối liên hệ chằn chịt. Người thành đạt là người phải bao quát
và làm chủ các mối liên hệ, chứ không thể bỏ qua mối liên hệ nào.
Tính đa dạng, phong phú: Các sự vật và hiện tượng khác nhau hay không gian và thời gian khác
nhau thì có các mối liên hệ biểu hiện khác nhau. Vì vậy, có thể chia các mối liên hệ này thành nhiều
loại như mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bên ngoài, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ thứ yếu, mối
liên hệ trực tiếp hay gián tiếp,… Và khi đó, chúng sẽ có vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và
vận động của các sự vật, hiện tượng trong thế giới.
+Mối liên hệ bên trong và Mối liên hệ bên ngoài:
Mối liên hệ bên trong: là mối liên hệ giữa các yếu tố và các mặt bên trong sự vật mà nó cấu
thành.
Mối liên hệ bên ngoài: là mối liên hệ giữa sự vật này với sự vật khác.
Triết học Marx cho rằng mối quan hệ bên trong là ở vị trí trung tâm và quyết định sự tồn tại
phát triển của sự vật. Mối liên hệ bên ngoài cũng rất quan trọng, nhưng giữ vai trò hỗ trợ sự phát triển
sự vật hiện tượng chứ không quyết định sự tồn tại của sự vật hiện tượng.
Chính vì căn cứ vào triết học này nên Đảng và nhà nước ta từ trước đến nay luôn xác định tư
tưởng “tự lực cánh sinh” là chính, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế thế giới bên ngoài. Từ
kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và thời kỳ đổi mới hiện nay cũng vậy. Sau cách mạng 1945 bác
Hồ nói “một dân tộc không tự lực cánh sinh, luôn luôn phải dựa vào bên ngoài, thì không xứng đáng
hưởng độc lập tự do”. Nhưng tự lực cánh sinh không phải là tự trói mình cô lập lại mà tranh thủ sự
giúp đỡ bên ngoài.
Ví dụ: Trong kháng chiến chống Mỹ, đất nước chúng ta nghèo phải đối đầu cường quốc đứng
đầu thế giới, chúng ta phải dựa vào hệ thống xã hội chủ nghĩa Liên Xô, nhưng cái quyết định cuộc
chiến tranh đó là do chúng ta quyết định.
Ví dụ: trong công cuộc đổi mới hiện nay các ngước cho nước mình vay tiền và chuyển giao
công nghệ, nhưng con người Việt Nam giữ vài trò quyết định. Khi chúng ta bắt đầu đổi mới, quỹ tiền
tệ thế giới khuyên Việt Nam phải rút kinh nghiệm của các nước Châu Phi, khi hội nhập vay tiền nước
ngoài phải biết kiểm soát đồng tiền và biết cách tiêu tiền, vì đến hạn trả tiền vay không được sẽ bị
kiểm soát mất quyền độc lập phải làm thuê trên chính đất nước của mình.
+Mối liên hệ cơ bản và Mối liên hệ chủ yếu:
Mối liên hệ cơ bản: là mối liên hệ bên trong sự vật, nhưng nó ra đời ngay khi sự vật ra đời, nó
tồn tại suốt quá trình phát sinh phát triển và diệt vong của sự vật hiện tượng.
Mối liên hệ chủ yếu: Mỗi sự vật phát triển qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn lại nổi lên một
mối liên hệ hàng đầu, đó là mối liên hệ chủ yếu. Ví dụ: Trong một khóa học, có mối liện hệ giữa
chúng ta và toàn bộ khố lượng tri thức khóa học, thế nhưng trong giai đoạn đầu có mối liên hệ nổi lên
hàng đầu là mối liên hệ tư duy của chúng ta với Triết học, khi chúng ta chuyển sang môn học khác thì
mối liên hệ tư duy của chúng ta với môn học khác là chủ yếu.
+Mối liên hệ không gian và thời gian của sự vật (hay còn gọi là mối liên hệ lịch sử cụ thể):
Sự vật nào ra đời cũng có hình dáng, kích thước, màu sắc của nó. Toàn bộ hình dáng kích
thước màu sắc đó khái quát là không gian của sự vật, vì vậy không gian bao giờ cũng là không gian
ba chiều thể hiện chiều dài-chiều rộng-chiều cao.
Sự vật nào cũng có điểm ra đời và hoàn cảnh ra đời của nó, rồi tồn tại phát triển qua nhiều giai
đoạn, đến lúc mất đi. Tất cả quá trình ra đời, tồn tại, phát triển, mất đi gọi là thời gian của sự vật.
Thời gian bao giờ cũng chỉ có một chiều quá khứ, hiện tại, tương lai. Thế nên thế giới có 4 chiều bao
gồm 3 chiều không gian và 1 chiều thời gian. Không gian hiện thực chỉ có 3 chiều, nhưng trong khoa
học cho phép hình dung tưởng tượng ra sự vật có vô tận chiều để nghiên cứu mô phỏng.
Câu 2. Phân tích nội dung quy luật phủ định của phủ định. Vận dụng ý nghĩa phương pháp
luận của nguyên lý này vào trong hoạt động thực tiễn hàng ngày của anh (chị). / Từ đó rút ra ý
nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay
Khái niệm:
-Thế nào là phủ định: mỗi sự vật ra đời tồn tại và phát triển, sau đó nó nảy sinh ra cái mới. Khi cái cũ
hết năng lực của nó thì cái mới ra đời phủ định cái cũ, thay thế cái cũ, phủ định là quá trình sự vật này
thay thế cho sự vật khác.
-Phủ định biện chứng: Sự vật mới ra đời trong sự vật cũ, phủ định sự vật cũ. Phủ định này là tự thân
phủ định, không phải do lực bên ngoài tác động lên. Cái mới phủ định cái cũ, nhưng cái mới không
phủ định hoàn toàn, không phủ định sạch trơn, không phủ định tuyệt đối. Trong phủ định, cái mới
chọn lọc kế thừa tất cả những yếu tố tích cực tiến bộ của cái cũ đưa vào cái mới, thúc đẩy cái mới
phát triển. Như vậy, phủ định biện chứng có sự kế thừa, gắn với sự phát triển.
1. Nội dung quy luật phủ định của phủ định
Quy luật phủ định của phủ định thể hiện sự phát triển của sự vật là do mâu thuẫn bên trong của sự
vật, hiện tượng quy định. Mỗi lần phủ định là kết quả của sự đấu tranh và chuyển hoá giữa những mặt
đối lập trong một sự vật, hiện tượng. Phủ định lần thứ nhất làm cho sự vật, hiện tượng cũ chuyển
thành sự vật, hiện tượng đối lập với nó. Phủ định lần thứ hai dẫn đến sự ra đời của sự vật, hiện tượng
mới mang nhiều nội dung tích cực của sự vật, hiện tượng bị phủ định, nhưng cũng mang nhiều nội
dung đối lập với sự vật, hiện tượng đó. Kết quả là, về hình thức, sự vật, hiện tượng mới (ra đời do kết
quả của sự phủ định lần thứ hai) sẽ lại trở thành sự vật, hiện tượng xuất phát (chưa bị phủ định lần
nào); nhưng về nội dung, không phải trở lại sự vật, hiện tượng xuất phát nguyên như cũ, mà chỉ là
dường như lặp lại sự vật, hiện tượng cũ nhưng trên cơ sở cao hơn.
Phủ định biện chứng chỉ là một giai đoạn trong quá trình phát triển bởi chỉ thông qua phủ định của
phủ định mới dẫn đến sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới, và như vậy, phủ định của phủ định mới
hoàn thành được một chu kỳ phát triển, đồng thời lại là điểm xuất phát của chu kỳ phát triển tiếp theo.
Số lượng các lần phủ định trong một chu kỳ tuỳ theo tính chất của quá trình phát triển cụ thể; nhưng ít
nhất cũng phải qua hai lần mới dẫn đến sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới, mới hoàn thành được
một chu kỳ phát triển. Sau một số lần phủ định, sự vật, hiện tượng phát triển theo đường xoáy ốc.
Thực chất của sự phát triển đó là sự biến đổi, mà giai đoạn sau còn bảo tồn những gì tích cực đã được
tạo ra ở giai đoạn trước. Đó là nội dung cơ bản của phủ định biện chứng. Với đặc điểm như vậy, phủ
định biện chứng không chỉ là yếu tố khắc phục sự vật, hiện tượng cũ, mà còn gắn sự vật, hiện tượng
cũ với sự vật, hiện tượng mới; sự vật, hiện tượng khẳng định với sự vật, hiện tượng phủ định. Vì vậy,
phủ định biện chứng là vòng khâu tất yếu của sự liên hệ và sự phát triển.
Kết luận:
Quy luật phủ định của phủ định khái quát tính chất tiến lên của sự phát triển. Phủ định biện chứng là
sự thống nhất của yếu tố bị loại bỏ với yếu tố được kế thừa và phát triển. Mỗi lần phủ định biện
chứng được thực hiện xong sẽ mang lại những yếu tố tích cực mới. Do vậy, sự phát triển thông qua
những lần phủ định biện chứng sẽ tạo ra xu hướng phát triển không ngừng của sự vật, hiện tượng.
Ví dụ: Loài người phát triển đi lên có thể tạo ra củ cải khổng lồ, khoa học y tế phát triển đỉnh
cao, thế nhưng loài gặp những tai họa lớn kéo tuột thành quả xuống như: nghèo đói, thất nghiệp,
chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu… tạo bước thụt lùi cho cả loài người.
Ví dụ: Trong công cuộc xây dựng phát triển đất nước, Việt Nam trải qua nhiều cuộc chiến
tranh tàn phá, phải trả nhiều giá rất đắt, hậu quả chiến tranh dai dẳng nhiều thế hệ như chất độc da
cam và bom mìn.
Quy luật phủ định của phủ định nói lên mối liên hệ, sự kế thừa giữa sự vật, hiện tượng bị phủ định
với sự vật, hiện tượng phủ định; do sự kế thừa đó, phủ định biện chứng không phủ định sạch trơn,
loại bỏ tất cả các yếu tố của sự vật, hiện tượng cũ, mà là điều kiện cho sự phát triển, duy trì và gìn
giữ, lặp lại một số yếu tố tích cực của sự vật, hiện tượng mới sau khi đã được chọn lọc, cải tạo cho
phù hợp và do vậy, sự phát triển của các sự vật, hiện tượng có tính tiến lên theo đường xoáy ốc.
Ví dụ: hạt lúa gieo xuống đất, nảy mầm cây lúa, thì cây lúa là phủ định của hạt lúa. Nhưng cây
lúa không phủ định hoàn toàn hạt lúa mà kế thừa toàn bộ chất dinh dưỡng trong hạt lúa. Cây lúa lớn
lên trổ bông cho ra những hạt lúa, thì hạt lúa phủ định cây lúa, diễn ra phủ định lần thứ hai. Phủ định
lần thứ hai này dường như sự vật lặp lại cái cũ là hạt lúa, nhưng ở trình độ cao hơn là nhiều hạt lúa
hơn và chất lượng khác hơn.
Ví dụ: xã hội công xã nguyên thủy tư liệu sản xuất chung. Rồi xã hội chiếm hữu nô lệ, chế độ
phong kiến, chế độ tư bản sở hữu tư liệu sản xuất phủ định lại xã hội công xã nguyên thủy, là phủ
định lần thứ nhất. Rồi chủ nghĩa tư bản già cỗi, xuất hiện xã hội mới nảy sinh trong lòng chủ nghĩa tư
bản, nó phủ định chủ nghĩa tư bản, nó xấy dựng xã hội mới mà theo triết học Marx là chủ nghĩa cộng
sản, là xã hội trở lại công hữu tư liệu sản xuất, con người tự giác làm theo năng lực hưởng theo nhu
cầu, là phủ định lần thứ hai, xã hội lặp lại hình thức ban đầu là công hữu về tư liệu sản xuất.
Ví dụ: trong tư duy con người, triết học thời kỳ cổ đại là chủ nghĩa duy vật sơ khai thống trị
chưa dựa trên nền tảng khoa học. Sau đó, thế kỷ XVIII XIX triết học duy tâm của Hegen thống trị,
phủ định triết học duy vật sơ khai. Sang thế kỷ XX thì tiết học duy vật biện chứng của Marx lại phủ
định triết học duy tâm của Hegen. Triết học duy vật sơ khai chất phác thô sơ, còn triết học duy vật
của Marx là duy vật biện chứng ở trình độ cao hơn.
Câu 3: phân tích nội dung, giá trị và ý nghĩa của lý luận hình thái kinh tế xh?
Ý nghĩa của lý luận hình thái kinh tế – xã hội
Thứ 1: giúp cho các nhà KH, nhất là KH xh và nhân văn khi nghiên cứu đời sống xã hội thì dựa vào
lý luận này để tìm ra nguyên nhân và giải pháp để giải quyết những vấn đề mâu thuẫn, tiêu cực của
xh.
Để xác lập, hoàn thiện hệ thống quan hệ sản xuất của xã hội, cần phải căn cứ vào thực trạng (tình
hình thực tế) phát triển của lực lượng sản xuất hiện có để xác lập nó cho phù hợp chứ không phải căn
cứ vào ý muốn chủ quan. Chỉ có như vậy mới có thể tạo ra được hình thức kinh tế thích hợp cho việc
bảo tồn, khai thác - sử dụng, tái tạo và phát triển lực lượng sản xuất của xã hội.
Khi đã xuất hiện mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất đang
kìm hãm sự phát triển đó thì cần phải có những cuộc cải biến (cải cách, đổi mới,...) mà cao hơn là một
cuộc cách mạng chính trị để có thể giải quyết được mâu thuẫn này.
Đây là qui luật cơ bản phổ biến của xã hội. Nghĩa là qui luật này quyết định các qui luật khác, các qui
luật khác muốn giải quyết triệt để thì phải bắt đầu từ qui luật này.
Ví dụ: Muốn chứng minh, giải thích vì sao đạo đức bây giờ xuống cấp, tệ nạn tham nhũng rộng khắp,
để giải thích nó, chúng ta phải tìm về kinh tế, nghĩa là tìm về qui luật này. Có rất nhiều nguyên nhân
nhưng cái chính là sự tác độngcủa mặt trái kinh tế thị trường.
Trong quá trình xây dựng đường lối phát triển kinh tế, cần ưu tiên, mở đường cho LLSX phát triển;
đặc biệt là ưu tiên phát triển con người và khoa học kỹ thuật, công nghệ nhằn tạo ra hiệu quả, năng
xuất lao động.
Liên hệ: - Ưu tiên phát triển con người chủ thể của LLSX
- Ưu tiên khoa học công nghệ chủ thể của LLSX
Tác động đến năng xuất lao động.
+ Muốn LLSX phát triển nhằm nâng cao năng xuất lao động, thì đòi hỏi phải tích cực cải tạo
những quan hệ sản xuất cũ, lỗi thời, lạc hậu kìm hãm, trói buộc LLSX phát triển.
Ví dụ: Xóa bỏ cơ chế quản lý quan liêu, bao cấp, mệnh lệnh hành chính, cơ chế xin cho chuyển nhanh
sang cơ chế thị trường định hướng XHCN.
Trong QHSX cần thực hiện đa dạng hóa các hình thức sở hữu, tổ chức quản lý, phân phối sản phẩm
nhằm thu hút, kích thích người lao động tham gia tích cực vào trong quá trình sản xuất, tạo năng xuất
lao động, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển.
Thứ 2: Nắm vững qui luật này giúp chúng ta hiểu được chính sách, hiểu được con đường đi lên
CNXH ở Việt Nam.
Giá trị khoa học của học thuyết hình thái kinh tế – xã hội
Trước Mác, chủ nghĩa duy tâm giữ vai trò thống trị trong khoa học xã hội. Sự ra đời học thuyết hình
thái kinh tế – xã hội đã đưa lại cho khoa học xã hội một phương pháp nghiên cứu thực sự khoa học.
Học thuyết đó chỉ ra: sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định
các mặt của đời sống xã hội. Cho nên, không thể xuất phát từ ý thức, tư tưởng, từ ý chí chủ quan của
con người để giải thích các hiện tượng trong đời sống xã hội mà phải xuất phát từ phương thức sản
xuất.
Học thuyết đó cũng chỉ ra: xã hội không phải là sự kết hợp một cách ngẫu nhiên, máy móc giữa các
cá nhân, mà là một cơ thể sống sinh động, các mặt thống nhất chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn
nhau. Trong đó, quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản, quyết định các quan hệ xã hội khác, là tiêu chuẩn
khách quan để phân biệt các chế độ xã hội. Điều đó cho thấy, muốn nhận thức đúng đời sống xã hội,
phải phân tích một cách sâu sắc các mặt của đời sống xã hội và mối quan hệ lẫn nhau giữa chúng.
Đặc biệt phải đi sâu phân tích về quan hệ sản xuất thì mới có thể hiểu một cách đúng đắn về đời sống
xã hội. Chính quan hệ sản xuất cũng là tiêu chuẩn khách quan để phân kỳ lịch sử một cách đúng đắn,
khoa học.
Học thuyết đó còn chỉ ra: sự phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử – tự
nhiên, tức diễn ra theo các quy luật khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan. Cho nên,
muốn nhận thức đúng đời sống xã hội phải đi sâu nghiên cứu các quy luật vận động phát triển của xã
hội. V.I.Lênin viết: “Xã hội là một cơ thể sống đang phát triển không ngừng (chứ không phải là một
cái gì được kết thành một cách máy móc và do đó cho phép có thể tùy ý phối hợp các yếu tố xã hội
như thế nào cũng được), một cơ thể mà muốn nghiên cứu nó thì cần phải phân tích một cách khách
quan những quan hệ sản xuất cấu thành một hình thái xã hội nhất định và cần phải nghiên cứu những
quy luật vận hành và phát triển của hình thái xã hội đó”1.
Kể từ khi học thuyết hình thái kinh tế – xã hội của Mác ra đời cho đến nay, loài người đã có những
bước phát triển hết sức to lớn về mọi mặt, nhưng học thuyết đó vẫn là phương pháp thực sự khoa học
để nhận thức một cách đúng đắn về đời sống xã hội. Đương nhiên, học thuyết đó không bao giờ có
tham vọng giải thích tất cả, mà chỉ có ý muốn vạch ra một phương pháp… “duy nhất khoa học” để
giải thích lịch sử.
Gần đây, có những quan điểm đi đến phủ nhận học thuyết hình thái kinh tế – xã hội và cho rằng phải
thay thế bằng cách tiếp cận văn minh. Cách tiếp cận này phân chia lịch sử phát triển nhân loại thành
văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp, văn minh hậu công nghiệp (hay văn minh tin học, văn
minh trí tuệ). Thực chất đây là phân chia dựa vào các trình độ phát triển kinh tế, dựa vào trình độ
khoa học và công nghệ. Rõ ràng, cách tiếp cận này không thể thay thế được học thuyết hình thái kinh
tế – xã hội, nó không vạch ra mối quan hệ giữa các mặt trong đời sống xã hội và các quy luật
vận động, phát triển của xã hội từ thấp đến cao.
Câu 4. Sự vận dụng lý luận hình thái kinh tế - xã hội để xây dựng hình thái kinh tế - xã hội ở
Việt Nam trong thời kỳ đổi mới như thế nào?
Câu 4. Sự vận dụng lý luận hình thái kinh tế - xã hội để xây dựng hình thái kinh tế - xã hội ở Việt
Nam trong thời kỳ đổi mới như thế nào? (gồm 5 ý: đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát
triển KT thị trường, xây dựng nhà nước pháp quyền, xây dựng văn hoá tiên tiến, lâu đời đậm đà bản
sắc dân tộc, chủ động hội nhập quốc tế —> cái thứ 5 hỗ trợ cho 4 ý trên)
Sự vân dụng của Đảng ta và Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới
Trong thời kỳ đổi mới (từ năm 1986 đến nay) Đảng ta và Nhà nước đã vận dụng học thuyết hình thái
kinh tế xã hội và thực tiên để xây dựng các quyết sách mang tính chất chiến lược.
Đại hội V khẳng định quyết tâm đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng theo tinh thần cách mạng và
khoa học. Đại hội nhận định: Năm năm qua là một đoạn đường đầy thử thách đối với Đảng và nhân
dân ta. Cách mạng nước ta diễn ra trong bối cảnh quốc tế và trong nước có những thuận lợi cơ bản,
nhưng cũng có nhiều khó khăn phức tạp. Thực hiện những nhiệm vụ, mục tiêu do Đại hội thứ V đề ra,
nhân dân ta đã anh dũng phấn đấu đạt được những thành tựu quan trọng trong công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội, giành những thắng lợi to lớn trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ
quốc tế. Đại hội cũng nhận rõ: Tình hình kinh tế - xã hội đang có những khó khăn gay gắt; sản xuất
tăng chậm; hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp; phân phối lưu thông có nhiều rối ren; những mất cân đối
lớn trong nền kinh tế chậm được thu hẹp; quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chậm được củng cố; đời
sống nhân dân lao động còn nhiều khó khăn… Nhìn chung, chúng ta chưa thực hiện được mục tiêu
tổng quát do Đại hội lần thứ V đề ra là về cơ bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống
nhân dân.
Sau đó là đại hội đề xướng và lãnh đạo thành công sự nghiệp Đổi mới. Đại hội VI đã đưa ra quan
điểm mới về cải tạo xã hội chủ nghĩa dựa trên 3 nguyên tắc:
- Nhất thiết phải theo quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất để xác định bước đi và hình thức thích hợp.
- Phải xuất phát từ thực tế của nước ta và là sự vận dụng quan điểm của Lênin coi nền kinh tế có cơ
cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ.
- Trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa phải xây dựng quan hệ sản xuất mới trên cả 3 mặt xây
dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chế độ quản lý và chế độ phân phối xã hội chủ nghĩa.
Về Kinh tế
1/ Phát triển kt thị trường định hướng xhcn để tạo ra qhsx phù hợp vs trình độ llsx
Vận dụng quy luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
“Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh
tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa“.
Trên cơ sở phân tích, đại hôi VI đánh giá tình hình đất nước, tự phê bình về những sai lầm khuyết
điểm, đổi mới tư lý luận trải qua nhiều tìm tòi, khảo nghiệm từ thực tiễn, Đại hội đề ra đường lối đổi
mới.
- Trước hết là đổi mới cơ cấu kinh tế (cơ cấu công – nông nghiệp; cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp;
ngành công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp; công nghiệp nặng và kết cấu hạ tầng; cơ cấu kinh tế
huyện).
- Thực hiện ba chương trình kinh tế bao gồm chương trình lương thực, thực phẩm; chương trình hàng
tiêu dùng; chương trình hàng xuất khẩu.
- Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành
phần kinh tế.
2/ Đẩy mạnh CN hóa, hiện đại hóa để tạo ra llsx hiện đại
Đồng thời Đảng ta xác định chúng ta phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong thời đại
ngày nay, công nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là
nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đó là nhiệm vụ trung tâm trong suốt
thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đại hội đã đề ra phương hướng nhiệm vụ xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử
dụng và cải tạo các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa; thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa; kinh
tế tư bản tư nhân; kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chính sách xã hội,
kế hoạch hoá dân số và giải quyết việc làm cho người lao động. Chăm lo đáp ứng các nhu cầu giáo
dục, văn hoá, bảo vệ và tăng cường sức khoẻ của nhân dân.
1. Xây dụng nhà nước pháp quyền xhcn của dân do dân và vì dân, đây là yếu tố quan trọng nhất
của kiến trúc thượng tầng. Với những yếu tố của nhà nước pháp quyền xhcnvn có những đặc trưng:
o Thượng tôn PL.
o Quyền lực nhà nước là thống nhất để phục vụ nhân dân,
o Có 3 quyền cơ bản là lập pháp hành pháp và tư pháp giao cho 3 cơ quan chuyên trách thực
hiện lần lượt là quốc hội – chính phủ và tòa án – viện kiểm soát, khi thực hiện vừa phối hợp vừa giám
sát nhau để giải quyết mâu thuẫn, hạn chế lạm quyền vì mục đích riêng.
o Công dân có quyền thực hiện những điều luật pháp ko cấm.
o Cán bộ,nhân viên nhà nước, công chức nhà nước chỉ thực hiện những quyền nhà nước cho
phép.
o Nhà nước PQ XHCNVN phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN. Bởi vì Đảng lãnh đạo để
định hướng nhà nước đi đúng hướng, ngăn chặn lạm dụng quyền lực; huy động được quần chúng –
đặc biệt là các tổ chức đoàn thể chính trị - chính trị xh như (mặt trận tổ quốc vn, đoàn thanh niên, hội
cựu chiến binh, hội phụ nữ….) vào việc giám sát nhà nước – cán bộ - Đảng viên.
Đại hội VI đã đưa ra quan điểm mới về cải tạo xã hội chủ nghĩa dựa trên 3 nguyên tắc: Nhất thiết phải
theo quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất để
xác định bước đi và hình thức thích hợp. Phải xuất phát từ thực tế của nước ta và là sự vận dụng quan
điểm của Lênin coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ.
Trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa phải xây dựng quan hệ sản xuất mới trên cả 3 mặt xây dựng
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chế độ quản lý và chế độ phân phối xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản
lý đã được Đại hội lần thứ VI xác định là “cơ chế chung trong quản lý toàn bộ xã hội”. Phương thức
vận động quần chúng phải được đổi mới theo khẩu hiệu: Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Đó
là nền nếp hàng ngày của xã hội mới, thể hiện chế độ nhân dân lao động tự quản lý nhà nước của
mình.
Về văn hóa
Đồng thời với phát triển kinh tế, phải phát triển văn hóa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc nhằm không ngừng nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân; phát triển giáo dục và đào
tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài; giải quyết tốt các vấn đề xã hội,
thực hiện công bằng xã hội nhằm thực hiện mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh”.
Tiên tiến là iu nc, là tiếp thu tất cả những tinh hoa văn hóa nhân loại, đấy là tri thức kh, công
nghệ hiện đại, những giá trị nhân văn như quyền con người, tôn trọng con người, đề cao và bảo vệ giá
trị quyền con người, tiếp thu cái dân chủ tự do, bình đẳng đích thực của thế giới vào làm giàu thêm
cho nền văn hóa và con người VN.
Bản sắc văn hóa dân tộc:
Phát huy chủ nghĩa iu nc VN, trong đó có tự tôn, tự lập, tự cường, tự hào dân tộc, trong cái
đánh giặc bảo vệ đất nước, vận dụng vào trong thời bình – sản xuất, tạo ra giá trị mang tính biểu
tượng của Chủ nghĩa iu nc vn, tạo ra sp mang tính thương hiệu làng, xã, tỉnh- thành phố, vùng miền
và lớn hơn nữa là toàn quốc ( Hà NỘi – tp vì hòa bình, HCM – tp đầu tàu cả nước) phát huy những
thương hiệu thành biểu tượng, động lực, thôi thúc con ng phát triển, thu hút con người, tài lực vào
thành phố biểu tượng. TP HCM là tp duy nhất mang tên Bác, thương hiệu giá trị cao đẹp vì Bác ko
chỉ là lãnh tụ chính trị, lãnh tụ của dân tộc VN mà còn là người anh hùng giải phóng dân tộc, danh
nhân văn hóa thế giới được WHO công nhận và tôn vinh.Ngành y tạo ra những giá trị để tôn vinh,
biểu tượng.
Đoàn kết, thương người, nhân ái, khoan dung.
Lạc quan, iu đời, iu cuộc sống. Khó có 1 dân tộc nào có tinh thần lạc quan như người VIệt
Nam, suốt hơn 1k năm Bắc thuộc, dân ta vẫn không bao giờ chịu khuất phục, luôn nổi lên khởi nghĩa
để không bị đồng hóa mà lại còn tiếp thu ngược lại những cái hay của phương bắc.
Từ thực tiễn, Đại hội nêu lên những bài học quan trọng. Một là, trong toàn bộ hoạt động của
mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân lao động. Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy
luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật khách quan là điều kiện bảo đảm sự
lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại
trong điều kiện mới. Bốn là, phải xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một Đảng cầm
quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Về đối ngoại
Đảng và Nhà nước ta quyết tâm "Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình,
hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi
ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp Quốc và luật pháp
quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động
và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên
tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế".
Trên lĩnh vực đối ngoại nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước đại hôiVI ta là ra sức kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại, phấn đấu giữ vững hoà bình ở Đông Dương, góp phần tích cực giữ vững
hoà bình ở Đông Nam Á và trên thế giới, tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên
Xô và các nước trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa, tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung
của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Thành tựu 35 năm thực hiện đường lối đổi mới
Qua 35 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng.
Về kinh tế
Đất nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang
phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế;
bộ mặt đất nước, đời sống của nhân dân thật sự thay đổi;
Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn nhiều tồn tại của khoa học công nghệ nước nhà. Chưa huy động được
các nguồn lực xã hội vào phát triển khoa học công nghệ, đào tạo và sử dụng những người có năng lực
trong nckh chưa phù hợp. cơ chế quản lý quan liêu, phức tạp, không tạo điều kiện thuận lợi cho phát
triển khoa học công nghệ. Việc quy hoạch phát triển khoa học công nghệ chậm, không theo kịp sự
phát triển của các nước, không phù hợp với yêu cầu của xã hội. kết quả khoa học công nghệ chưa ứng
dụng tốt vào thực tiễn sản xuất.
Có những nguyên nhân làm chậm sự phát triển khoa học công nghệ tại vn:
- Nền kinh tế ở trình độ thấp nên mặt bằng dân trí còn thấp
- Nhà nước đầu tư ít, không đủ nguồn lực để phát triển khoa học công nghệ, cơ chế quản lý
rườm rà, phức tạp
- Lực lượng khoa học công nghệ tuy đông nhưng chất lượng thấp
- Xã hội chưa coi trọng việc thúc đẩy khoa học công nghệ