You are on page 1of 16

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.

HCM
KHOA LUẬT DÂN SỰ

BÀI THẢO LUẬN THỨ NĂM


CÁC ĐỐI TƯỢNG QUYỀN SỞ HỮU
CÔNG NGHIỆP KHÁC

Môn: Luật Sở hữu trí tuệ


Lớp: DS45.1
Danh sách sinh viên nhóm 4:
STT Họ và tên MSSV Ghi chú
Nhóm trưởng
1 Nguyễn Thị Thanh Xuân 1953801012344
thanhxuanblue01@gmail.com
2 Dương Thị Hà 2053801012072
3 Vũ Nguyễn Lan Anh 2053801012031
4 Đoàn Thái An 2053801012002
5 Tôn Phạm Thuỳ Duyên 2053801012065
6 Nguyễn Hữu Thiên An 2053801012003
7 Nguyễn Linh Đan 2053801012045

TP.HCM, ngày 10 tháng 04 năm 2023


MỤC LỤC
A. LÝ THUYẾT 1
1. Phân biệt nhãn hiệu và tên thương mại. 1
2. Trình bày căn cứ xác lập quyền đối với tên thương mại, bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa
lý. 2
3. So sánh quy định của Hiệp định EVFTA và Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam hiện hành về
bảo hộ chỉ dẫn địa lý. Pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam cần có sự sửa đổi gì cho phù hợp
với quy định của Hiệp định EVFTA? 4
B. BÀI TẬP 6
1. Nghiên cứu tình huống sau: Hiện nay, trên thực tế tồn tại Thoả thuận không cạnh
tranh giữa người sử dụng lao động và người lao động. Theo đó, các bên ký kết thoả thuận về
việc người lao động sau khi nghỉ việc không được đi làm cho đối thủ cạnh tranh của người
sử dụng lao động ban đầu. Mục đích của thoả thuận này là ngăn cản việc người lao động tiết
lộ bí mật kinh doanh mà họ có được khi làm việc cho người sử dụng lao động ban đầu. Theo
bạn, Thoả thuận không cạnh tranh có hợp pháp không? Vì sao? 6
2. Theo các chuyên gia kiểm định chất lượng thì nhà vườn ông E tuy trồng bưởi tại xã
Phúc Trạch, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh nhưng chất lượng bưởi lại không ngon, không
đáp ứng các tiêu chuẩn về chất lượng. Do vậy nhà vườn này không được sử dụng chỉ dẫn địa
lý Phúc Trạch cho sản phẩm bưởi của mình. Anh (chị) có đồng ý với quan điểm trên không?
Vì sao? 7
3. Nghiên cứu tình huống sau: 8
a. Nêu căn cứ xác lập quyền đối với bí mật kinh doanh. Những thông tin trong e-mail
mà bà P đã gửi có được bảo hộ dưới dạng bí mật kinh doanh theo Luật Sở hữu trí tuệ
không? 8
b. Hành vi của bà P trong tình huống trên có xâm phạm bí mật kinh doanh của công ty
không? 9
C. PHẦN TỰ LÀM 9
1. Tên miền là gì? Tên miền có là một đối tượng quyền sở hữu trí tuệ không? 10
2. Hiện nay, việc khai thác, sử dụng tên miền được điều chỉnh bởi những văn bản nào? 11
3. Trong hai vụ việc trên, Tòa án đã dựa trên cơ sở pháp lý nào để thu hồi các tên miền đã
được đăng ký? 11
4. Pháp luật các quốc gia khác quy định như thế nào về trường hợp tên miền trùng hay
tương tự với các đối tượng quyền sở hữu trí tuệ đã được bảo hộ? 12
A. LÝ THUYẾT

1. Phân biệt nhãn hiệu và tên thương mại.

Nhãn hiệu Tên thương mại


Là tên gọi của tổ chức, cá dùng
trong hoạt động kinh doanh để
Là dấu hiệu dùng dể phân biệt
phân biệt chủ thể kinh doanh
Khái niệm hàng hoá, dịch vụ của các tổ chức,
mang tên đó với chủ thể kinh
cá nhân khác nhau.
doanh khác trong cùng lĩnh vực và
khu vực kinh doanh.
- Chỉ là dấu hiệu từ ngữ (tập hợp
- Có thể là những từ ngữ hình ảnh, các chữ, phát âm được và có
biểu tượng, là sự kết hợp giữa nghĩa), không bảo hộ màu sắc,
ngôn ngữ và hình ảnh. hình ảnh.
Dấu hiệu - Không bảo hộ những cụm từ, - Gồm 2 thành phần: mô tả (mô tả
dấu hiệu quy định tại khoản 2 tóm tắt loại hình kinh doanh) và
Điều 74 Luật SHTT 2005 sửa đổi, phân biệt (phân biệt doanh nghiệp
bổ sung 2022. này với doanh nghiệp khác).

Phân biệt các chủ thể kinh doanh


Phân biệt hàng hóa, dịch vụ.
Vai trò /chức năng trong cùng lĩnh vực và khu vực
kinh doanh.
- Đăng ký và cấp văn bằng bảo hộ
đối với nhãn hiệu thông thường.
Không dựa trên văn bằng bảo hộ,
- Không đăng ký đối với nhãn quyền sở hữu được xác lập trên cơ
Căn cứ xác lập hiệu nổi tiếng (xác lập quyền sở sở sử dụng hợp pháp.
hữu trên cơ sở sử dụng). (khoản 3 Điều 6 NĐ
(khoản 1, 2 Điều 6 NĐ 103/2006/NĐ-CP)
103/2006/NĐ-CP)
Điều kiện bảo hộ - Dấu hiệu nhìn thấy được bằng - Có khả năng phân biệt, cụ thể
mắt. như sau:
- Có khả năng phân biệt. + Chứa thành phần tên riêng, trừ
trường hợp đã được biết đến rộng
rãi do sử dụng.
+ Không trùng hoặc tương tự đến
mức gây nhầm lẫn với tên thương
mại mà người khác đã sử dụng
trước trong cùng lĩnh vực và khu
vực kinh doanh hoặc nhãn hiệu
của người khác được bảo hộ trước
ngày tên thương mại đó được sử
dụng.
Bảo hộ trên phạm vi toàn lãnh thổ. Bảo hộ trong lĩnh vực và khu vực
Phạm vi bảo hộ
kinh doanh.
10 năm kể từ ngày nộp đơn, có thể Bảo hộ không xác định thời hạn,
Thời hạn bảo hộ gia hạn nhiều lần. chấm dứt bảo hộ khi không còn sử
dụng trên thực tế.
Chủ sở hữu nhãn hiệu là tổ chức, Chủ sở hữu tên thương mại là tổ
cá nhân được cơ quan có thẩm chức, cá nhân sử dụng hợp pháp
quyền cấp văn bằng bảo hộ nhãn tên thương mại đó trong hoạt
Chủ sở hữu hiệu hoặc có nhãn hiệu đã đăng ký động kinh doanh.
quốc tế được cơ quan có thẩm
quyền công nhận hoặc có nhãn
hiệu nổi tiếng.
Chỉ có thể là đối tượng của hợp
đồng chuyển nhượng với điều
Nhãn hiệu có thể là đối tượng của kiện là việc chuyển nhượng tên
Chuyển giao quyền hợp đồng chuyển nhượng và hợp thương mại kèm theo việc chuyển
đồng chuyển quyền sử dụng. nhượng toàn bộ cơ sở sản xuất
kinh doanh và hoạt động kinh
doanh dưới tên thương mại đó.
Chủ sở hữu có nghĩa vụ sử dụng
nhãn hiệu liên tục. Nếu nhãn hiệu Luật không quy định nghĩa vụ sử
Nghĩa vụ sử dụng không được sử dụng liên tục từ dụng.
(05) năm năm trở lên thì quyền sử
dụng nhãn hiệu đó bị chấm dứt.

2. Trình bày căn cứ xác lập quyền đối với tên thương mại, bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý.

 Tên thương mại:


- Theo điểm b khoản 3 Điều 6 Luật SHTT 2005 sửa đổi, bổ sung 2022, quyền sở hữu
công nghiệp đối với “tên thương mại” được xác lập trên cơ sở sử dụng hợp pháp tên
thương mại đó.
Để thể hiện nguyên tắc “chống xung đột quyền”, việc xác định chính xác thời điểm bắt
đầu sử dụng tên thương mại rất quan trọng vì nó sẽ quyết định chủ thể kinh doanh nào
được bảo hộ trước. Hơn nữa, luật SHTT cũng quy định thời điểm sử dụng tên thương
mại là thời điểm chủ thể kinh doanh thực hiện hành vi dùng tên thương mại để xưng
danh trong các hoạt động kinh doanh, thể hiện tên thương mại trong các giấy tờ giao
dịch, biển hiệu, sản phẩm, hàng hóa, bao bì hàng hóa và phương tiện cung cấp dịch vụ,
quảng cáo, nhằm mục đích thương mại. Vậy nên, việc xác định thời điểm sử dụng thực
tế và hợp pháp tên thương mại sẽ là căn cứ xác lập quyền sở hữu công nghiệp của đối
tượng này.
 Như vậy, quyền sở hữu công nghiệp đối với “tên thương mại” sẽ được căn cứ trên cơ sở
sử dụng hợp pháp, không dựa trên văn bằng bảo hộ, tức là không cần đăng ký.
- Quyền đối với tên thương mại được bảo hộ vô thời hạn, cho đến khi tên thương mại ấy
không còn được dùng hoặc không còn đạt được khả năng phân biệt với tên thương mại
của chủ thể khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh.
 Bí mật kinh doanh:
- Căn cứ theo khoản 4 Điều 6 NĐ 103/2006/NĐ-CP, thì “4. Quyền sở hữu công nghiệp
đối với bí mật kinh doanh được xác lập trên cơ sở đầu tư tài chính, trí tuệ hay bất kỳ
cách thức hợp pháp nào để tìm ra, tạo ra hoặc đạt được thông tin và bảo mật thông tin
tạo thành bí mật kinh doanh đó mà không cần thực hiện thủ tục đăng ký.”
Có thể hiểu lại là thông tin tạo ra được từ việc đầu tư tài chính, trí tuệ hoặc bất kỳ cách
thức nào, miễn là hợp pháp, và được bảo mật sẽ tạo thành bí mật kinh doanh và được
bảo hộ tự động. Việc bảo hộ tự động này cũng tạo ra các lợi ích như không cần tốn phí
duy trì hiệu lực như các đối tượng khác của quyền SHTT.
 Như vậy, quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh được xác lập trên cơ sở có
được một cách hợp pháp bí mật kinh doanh và thực hiện việc bảo mật bí mật kinh doanh
đó.
- Bí mật kinh doanh được bảo hộ vĩnh viễn, cho đến khi những thông tin này bị bộc lộ và
nhiều người biết đến rộng rãi. Có 1 điều bất lợi là bí mật kinh doanh không thể được
bảo hộ nếu nó được tạo ra một cách độc lập bởi chủ thể khác.
 Chỉ dẫn địa lý:
- Khác với các đối tượng khác, chủ sở hữu của chỉ dẫn địa lý của Việt Nam là Nhà nước,
vì vậy, chỉ dẫn địa lý của Việt Nam là tài sản thuộc hình thức sở hữu toàn dân. Vậy nên,
Nhà nước sẽ có quyền sở hữu và đăng ký bảo hộ đối với chỉ dẫn địa lý của Việt Nam.
+ Cụ thể ở đây, Nhà nước là chủ sở hữu chỉ dẫn địa lý của Việt Nam, còn Uỷ ban nhân
dân tỉnh nơi có khu vực địa lý tương ứng với chỉ dẫn địa lý sẽ được trao quyền đăng ký
và quản lý.
+ Riêng với chỉ dẫn địa lý của nước ngoài, cá nhân, tổ chức nước ngoài là chủ thể
quyền đối với chỉ dẫn địa lý theo quy định pháp luật của nước xuất cứ có quyền đăng ký
chỉ dẫn địa lý đó tại Việt Nam (Điều 8 NĐ 103/2006/NĐ-CP).
 Như vậy, quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý được xác lập trên cơ sở quyết
định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký quy
định tại luật này hoặc theo điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là thành viên. (điểm a khoản 3 Điều 6 Luật SHTT 2005 sửa đổi, bổ sung 2022).
- Giấy chứng nhận đăng ký chỉ dẫn địa lý được bảo hộ vô thời hạn kể từ ngày cấp, cho
đến khi những điều kiện về tự nhiên, thổ nhưỡng, hệ sinh thái… không còn tạo ra những
sản phẩm đặc thù mang tính chất địa phương.

3. So sánh quy định của Hiệp định EVFTA và Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam hiện hành về bảo
hộ chỉ dẫn địa lý. Pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam cần có sự sửa đổi gì cho phù hợp với
quy định của Hiệp định EVFTA?

HIỆP ĐỊNH EVFTA LUẬT SHTT


- Điều kiện bảo hộ đối với chỉ dẫn địa lý đều giống
nhau.
- Về hệ thống đăng ký chỉ dẫn địa lý: cả hai đều có
những quy tắc chung về quy trình đăng ký, xác minh
và đều phải công bố danh mục chỉ dẫn địa lý.
Giống nhau
- Khi chỉ dẫn địa lý nước ngoài không được bảo hộ
hoặc đã bị chấm dứt bảo hộ tại nước xuất xứ, cả hai
đều không ép buộc bên còn lại phải bảo hộ chỉ dẫn
địa lý đó, ở đây Việt Nam có quy định sẽ không bảo
hộ chỉ dẫn địa lý này.
Khác Chỉ bảo hộ cho rượu vang, Không giới hạn về loại
nhau rượu mạnh, sản phẩm nông hàng hóa đủ điều kiện để
Phạm vi bảo hộ nghiệp và thực phẩm có bảo hộ các chỉ dẫn địa lý
nguồn gốc từ lãnh thổ các à Phạm vi lớn hơn so với
bên EVFTA
Không đủ hiệu quả bằng.
Dù đã thay đổi sâu rộng
hơn về các quy định
nhưng chưa thống nhất về
Mức độ bảo hộ Cao hơn, chuyên môn hơn
cơ chế bảo hộ giữa các cơ
quan nên dẫn đến vấn đề
xâm phạm quyền vẫn còn
tồn tại nhiều.
Có quy định về quyền được
thông báo và được góp ý của
Chỉ dẫn địa lý chủ sở hữu chỉ dẫn địa lý đã Không có
đồng âm được bảo hộ trước khi chỉ
dẫn địa lý đồng âm được
xem xét bảo hộ.
Ngoại lệ Có các ngoại lệ về trường Không có quy định ngoại
hợp miễn trừ đặc biệt đối với lệ nào
các chỉ dẫn địa lý “Asiago”,
“Fontina”, “Gorgonzola”,
“Feta”, và “Champagne”.
Nhà nước sẽ trao quyền
không phụ thuộc vào việc sử dụng cho cá nhân, tổ
Quyền sử dụng đăng ký người sử dụng hoặc chức sản xuất sản phẩm
chỉ dẫn địa lý nộp thêm bất kỳ khoản phí mang chỉ dẫn địa lý tại địa
nào. phương và đưa sản phẩm
đó ra thị trường.

 Pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam cần sửa đổi như sau để phù hợp với quy định của
Hiệp định EVFTA:
- Một là, pháp luật Việt Nam đáp ứng các yêu cầu về việc thu hồi nhãn hiệu đã đăng ký
của EVFTA, ngoại trừ các yếu tố sau: thuật ngữ “sử dụng một cách thực sự” và trừ
trường hợp sử dụng trước ít nhất 3 tháng tính đến ngày có yêu cầu đình chỉ. Do đó, để
thực thi Điều 12.22 về việc Đình chỉ hiệu lực nhãn hiệu đã đăng ký, nên đưa thuật ngữ
“sử dụng một cách thực sự” vào các quy định trong nước theo như mục đích sử dụng dự
kiến trong EVFTA.
- Hai là, Điều 12.22.3 có thể được hiểu là việc chủ sở hữu nhãn hiệu sử dụng một nhãn
hiệu thương mại đã đăng ký, vốn có thể gây hiểu lầm cho người tiêu dùng, là hành vi
xâm phạm quyền và lợi ích của người khác theo Điều 7.2 của Luật SHTT năm 2009.
Mặc dù luật của Việt Nam phù hợp với các cam kết của EVFTA trong lĩnh vực này,
nhưng Việt Nam vẫn nên quy định bổ sung về việc chấm dứt bảo hộ nhãn hiệu trong
trường hợp việc sử dụng nhãn hiệu có thể đánh lừa người tiêu dùng, để quyết định xem
liệu khung pháp lý hiện tại về vấn đề này bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng theo
Luật SHTT hoặc pháp luật về ngăn chặn các hành vi phản cạnh tranh hay không.
- Ba là, luật pháp của Việt Nam không đặt ra giới hạn về loại hàng hóa đủ điều kiện để
bảo hộ các chỉ dẫn địa lý (phạm vi lớn hơn so với EVFTA). Tuy nhiên, để tuân thủ đầy
đủ Điều 12.23 về phạm vi áp dụng, nên kiểm tra nhu cầu đối với một mức độ bảo hộ
cao cho tất cả các chỉ dẫn địa lý.
- Bốn là, để thực hiện Điều 12.27 về bảo hộ chỉ dẫn địa lý, nên xem xét đến 2 phương án
sau: 1) Duy trì 2 cấp độ bảo vệ, bao gồm (i) mức độ bảo hộ cao đối với chỉ dẫn địa lý
theo Hiệp định EVFTA; và (ii) mức độ bảo hộ thông thường đối với chỉ dẫn địa lý được
bảo hộ theo luật pháp trong nước; hoặc 2) Nếu thống nhất áp dụng ít hơn một cấp bảo
hộ, cần quyết định xem cấp bảo hộ đó sẽ được áp dụng cho tất cả các hàng hóa hoặc chỉ
các nhóm như được nêu trong EVFTA.
- Năm là, để thực hiện Điều 12.27.3 về bảo hộ chỉ dẫn địa lý, nên bổ sung các điều khoản
nhằm bảo hộ chỉ dẫn địa lý đồng âm, bao gồm nghĩa vụ thông báo trong quá trình đàm
phán; và kiểm tra tính hợp lệ của việc bổ sung quy định vào Luật SHTT khi chỉ dẫn địa
lý không còn được bảo hộ tại nơi xuất xứ của nó.
- Sáu là, Điều 12.28 đưa ra các ngoại lệ về trường hợp miễn trừ đặc biệt đối với các chỉ
dẫn địa lý “Asiago”, “Fontina”, “Gorgonzola”, “Feta”, và “Champagne”. Những tên này
nên được áp dụng trực tiếp và cụ thể trong các văn bản pháp luật hướng dẫn.
- Bảy là, để thực thi Điều 12.29 về Quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý, Việt Nam nên sửa đổi
các quy định để cho phép các cơ quan hành chính cấp giấy phép sử dụng, từ đó giảm
thiểu các nghĩa vụ đối với các đối tượng được cấp phép chỉ để công bố. Việt Nam cũng
cần có phương pháp thu thập và công bố thông tin về các đối tượng được cấp phép.
- Tám là, để thực thi Điều 12.35 về bảo hộ các kiểu dáng công nghiệp đã đăng ký, nên
xem xét thêm và định nghĩa về tính mới. Ví dụ, “tính mới ” có bao gồm “tính sáng tạo”
không? Mô tả về “tính mới” và “tính sáng tạo” có thể giống nhau. Do đó, Luật SHTT
cần cấu trúc lại cho phù hợp.
- Chín là, để thực thi Điều 12.39 về bằng sáng chế và sức khỏe cộng đồng, nên tham khảo
kinh nghiệm của các nước đang phát triển như Ấn Độ, Thái Lan, Philippines, Brazil và
Argentina khi thực hiện các quy định về bảo đảm tất cả người dân đều có quyền tiếp cận
dược phẩm trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ.
B. BÀI TẬP
1. Nghiên cứu tình huống sau: Hiện nay, trên thực tế tồn tại Thoả thuận không cạnh tranh
giữa người sử dụng lao động và người lao động. Theo đó, các bên ký kết thoả thuận về
việc người lao động sau khi nghỉ việc không được đi làm cho đối thủ cạnh tranh của người
sử dụng lao động ban đầu. Mục đích của thoả thuận này là ngăn cản việc người lao động
tiết lộ bí mật kinh doanh mà họ có được khi làm việc cho người sử dụng lao động ban đầu.
Theo bạn, Thoả thuận không cạnh tranh có hợp pháp không? Vì sao?
Theo nhóm, thỏa thuận không cạnh tranh giữa người lao động và người sử dụng lao động
là không hợp pháp.
Bởi vì:
- Thoả thuận không cạnh tranh là công cụ để người sử dụng lao động bảo vệ bí mật kinh
doanh của mình, tuy nhiên, thoả thuận này cũng gây ra một số điểm bất lợi cho người
lao động.
- Trong quá trình đàm phán, thương lượng về hợp đồng lao động, trên thực tế vị trí của
người lao động luôn thấp hơn, kém thuận lợi hơn nên năng lực thương lượng của họ
cũng kém hơn người sử dụng lao động. Điều này đã dẫn đến hệ quả là người sử dụng
lao động lạm dụng vị thế của mình để buộc người lao động giao kết các thỏa thuận chứa
đựng các nội dung bất hợp lý, trong đó có thỏa thuận không cạnh tranh.
àHành vi này đã vi phạm nguyên tắc tự do ý chí trong hợp đồng theo khoản 2 Điều 3
BLDS 2015 sửa đổi, bổ sung 2017.
- Ngoài ra, khoản 1 Điều 10 BLLĐ 2019 cũng quy định cụ thể rằng người lao động có
quyền tự do chọn nơi làm việc và người sử dụng lao động, miễn là nơi pháp luật không
cấm nên việc cấm người lao động không làm việc cho đối thủ cạnh tranh sau khi hợp
đồng lao động kết thúc là vi phạm quyền làm việc của người lao động, không hợp lý.
Việc cấm làm cho đối thủ cạnh tranh đã phần nào thu hẹp phạm vi tìm việc của người
lao động, trực tiếp ảnh hưởng đến nguồn thu nhập của người lao động. Giả sử, lĩnh vực
người lao động đang có chuyên môn và làm việc ấy chỉ có 2 công ty hoạt động, vậy khi
áp dụng thoả thuận không cạnh tranh đồng nghĩa với việc người lao động ấy phải làm
một công việc khác trái ngành và không đúng chuyên môn.
- Hơn nữa, pháp luật Việt Nam cũng đã thể hiện tính không hợp pháp của Thoả thuận này
dù không rõ nét và đề cập chính xác.
+ Cụ thể, BLLĐ 1994 hầu như không công nhận hiệu lực của thoả thuận không cạnh
tranh, thậm chí, khoản 2 và khoản 3 Điều 29 Bộ luật Lao động năm 1994 còn quy định
theo hướng cấm các thỏa thuận hạn chế quyền của người lao động. Nhưng đến BLLĐ
2012, đã có quy định “bật đèn xanh” cho sự tồn tại của thoả thuận này, khoản 2 Điều 23
Bộ luật Lao động năm 2012 quy định: “Khi người lao động làm việc có liên quan trực
tiếp đến bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ theo quy định của pháp luật, thì người sử
dụng lao động có quyền thỏa thuận bằng văn bản với người lao động về nội dung, thời
hạn bảo vệ bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ, quyền lợi và việc bồi thường trong
trường hợp người lao động vi phạm” và điều luật này cũng được giữ nguyên ở BLLĐ
2019.
+ BLDS đã nhận thấy rằng Trong trường hợp thỏa thuận không cạnh tranh, việc xác
định thời hạn không cạnh tranh quá dài, phạm vi địa lý quá rộng hoặc không có đền bù
vật chất cho người lao động đều có thể được xem là bất hợp lý nên cũng đặt ra các quy
định để hạn chế việc giao kết các thỏa thuận bất hợp lý. Thứ nhất, Điều 117 BLDS 2015
quy định các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. Trong đó, có quy định về sự tự
nguyện của chủ thể tham gia giao dịch dân sự và mục đích, nội dung của giao dịch dân
sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. Thứ hai, khoản 3 Điều
3 BLDS 2015 cũng quy định nguyên tắc thiện chí trong việc xác lập, thực hiện, chấm
dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của các chủ thể. Tuy nhiên, sự hạn chế này cũng không
hiệu quả lắm, chỉ mang tính nguyên tắc khi nguyên đơn cần phải chứng minh cho yêu
cầu của mình khi xảy ra tranh chấp.
 Như vậy, Thoả thuận không cạnh tranh tạo điều kiện thuận lợi cho người sử dụng lao
động nhưng lại hoàn toàn bất lợi cho người lao động, thậm chí đến mất quyền công dân
cơ bản nên nó hoàn toàn không hợp pháp.
2. Theo các chuyên gia kiểm định chất lượng thì nhà vườn ông E tuy trồng bưởi tại xã Phúc
Trạch, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh nhưng chất lượng bưởi lại không ngon, không đáp
ứng các tiêu chuẩn về chất lượng. Do vậy nhà vườn này không được sử dụng chỉ dẫn địa
lý Phúc Trạch cho sản phẩm bưởi của mình. Anh (chị) có đồng ý với quan điểm trên
không? Vì sao?
- Nhóm đồng ý với quan điểm trên.
- Xét theo các điều kiện cần đáp ứng để chỉ dẫn địa lý được bảo hộ:
 Nguồn gốc địa lý:
+ Theo điểm a khoản 1 Điều 79 Luật SHTT 2005 sửa đổi, bổ sung 2022, bưởi nhà ông
E có nguồn gốc là xã Phúc Trạch, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh tương ứng với chỉ
dẫn địa lý Phúc Trạch theo danh sách các chỉ dẫn địa lý đã được bảo hộ tại Việt Nam
mà Cục SHTT công bố.
 Danh tiếng, chất lượng tương ứng với chỉ dẫn địa lý đó quyết định:
+ Theo khoản 2 Điều 81 Luật SHTT, chất lượng của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý sẽ
được xác định bằng một hoặc một số chỉ tiêu định tính, định lượng hoặc cảm quan về
vật lý, hoá học, vi sinh và các chỉ tiêu đó phải có khả năng kiểm tra được bằng phương
tiện kỹ thuật hoặc chuyên gia với phương pháp kiểm tra phù hợp.
+ Ở trường hợp này, bưởi nhà ông E đã được các chuyên gia kiểm định theo đúng quy
định và có kết quả là không đạt chất lượng.
 Như vậy, bưởi nhà ông E chỉ đáp ứng được một điều kiện về nguồn gốc địa lý mà
không đáp ứng được điều kiện thứ hai là về chất lượng sản phẩm. Trong khi, muốn
được sử dụng chỉ dẫn địa lý thì bưởi nhà ông E phải đáp ứng đồng thời và đủ cả 2 điều
kiện được quy định tại khoản 1 Điều 79 luật SHTT. Vì nếu truyền ra hoặc phát hiện
được chất lượng sản phẩm không đúng với sự nổi tiếng và uy tín của sản phẩm mang
chỉ dẫn địa lý thì sẽ ảnh hưởng đến danh tiếng và nhiều hệ quả kéo theo của chỉ dẫn địa
lý này. Hơn nữa, hành vi này cũng đã xâm phạm quyền đối với chỉ dẫn địa lý Phúc
Trạch theo điểm a khoản 3 Điều 129 luật SHTT.
Vậy nên, nhà vườn của ông E không được sử dụng chỉ dẫn địa lý Phúc Trạch cho sản
phẩm bưởi của mình là hoàn toàn hợp lý và có cơ sở pháp lý.

3. Nghiên cứu tình huống sau:

Bà P là nhân viên làm việc tại công ty M. Trước đây, bà P đã gửi e-mail cho bà L (chị của bà
P) với nội dung “...Chị ơi, đây là danh mục hàng áo khoác và quần của công ty M... kèm theo
danh mục”. Công ty cho rằng bà P có hành vi vi phạm nội quy lao động, cụ thể là tiết lộ bí
mật kinh doanh của công ty theo phần 4 Điều 4.1 Nội quy công ty.

Điều 4.1 Nội quy công ty có quy định: “trong quá trình làm việc cho công ty M, nhân viên có
thể có được tài liệu hoặc biết được thông tin về công ty. Những thông tin hay tài liệu này nếu
tiết lộ cho những cá nhân không có liên quan có thể gây hại về vật chất cũng như ảnh hưởng
không tốt cho công ty. Hành động tiết lộ đó dù cố tình hay sơ suất đều có thể xem như vi phạm
hợp đồng và phải chịu biện pháp kỷ luật kể cả việc sa thải”. Trên cơ sở đó, công ty trên đã
thực hiện sa thải bà P.

Câu hỏi:

a. Nêu căn cứ xác lập quyền đối với bí mật kinh doanh. Những thông tin trong e-mail mà
bà P đã gửi có được bảo hộ dưới dạng bí mật kinh doanh theo Luật Sở hữu trí tuệ
không?

 Căn cứ xác lập quyền đối với bí mật kinh doanh:


- Căn cứ theo khoản 4 Điều 6 NĐ 103/2006/NĐ-CP, thì “4. Quyền sở hữu công nghiệp
đối với bí mật kinh doanh được xác lập trên cơ sở đầu tư tài chính, trí tuệ hay bất kỳ
cách thức hợp pháp nào để tìm ra, tạo ra hoặc đạt được thông tin và bảo mật thông tin
tạo thành bí mật kinh doanh đó mà không cần thực hiện thủ tục đăng ký.”
Có thể hiểu lại là thông tin tạo ra được từ việc đầu tư tài chính, trí tuệ hoặc bất kỳ cách
thức nào, miễn là hợp pháp, và được bảo mật sẽ tạo thành bí mật kinh doanh và được
bảo hộ tự động. Việc bảo hộ tự động này cũng tạo ra các lợi ích như không cần tốn phí
duy trì hiệu lực như các đối tượng khác của quyền SHTT.
 Như vậy, quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh được xác lập trên cơ sở có
được một cách hợp pháp bí mật kinh doanh và thực hiện việc bảo mật bí mật kinh doanh
đó (điểm c khoản 3 Điều 6 luật SHTT 2005 sửa đổi, bổ sung 2022).
- Bí mật kinh doanh được bảo hộ vĩnh viễn, cho đến khi những thông tin này bị bộc lộ và
nhiều người biết đến rộng rãi. Có 1 điều bất lợi là bí mật kinh doanh không thể được
bảo hộ nếu nó được tạo ra một cách độc lập bởi chủ thể khác.
 Những thông tin trong e-mail mà bà P đã gửi không được bảo hộ dưới dạng bí
mật kinh doanh theo luật SHTT:
- Thứ nhất, thông tin này không thuộc các trường hợp không được bảo hộ với danh nghĩa
là bí mật kinh doanh theo Điều 85 luật SHTT (bí mật về nhân thân, về quản lý nhà
nước, về quốc phòng, an ninh; thông tin bí mật khác không liên quan đến kinh doanh).
- Thứ hai, thông tin này được chủ sở hữu bảo mật bằng biện pháp đó là quy định trong
nội quy lao động của công ty nhằm hạn chế cho người lao động có “tài liệu hoặc biết
được thông tin về công ty” tiết lộ ra bên ngoài thì đây cũng là một hình thức bảo mật
cần thiết và phù hợp.
- Thứ ba, về điều kiện được bảo hộ nêu tại Điều 84 luật SHTT “không phải là hiểu biết
thông thường và không dễ dàng có được”:
+ Thông tin không phải là hiểu biết thông thường mà là những thông tin có giá trị ứng
dụng trong kinh doanh thương mại, đem lại lợi ích kinh tế cho chủ thể.
+ Thông tin không dễ dàng có được mà đòi hỏi phải có sự đầu tư thích đáng của chủ thể
về vật chất, thời gian, công sức, trí tuệ và qua những trải nghiệm mới có được
à Thông tin trong e-mail của bà P không đáp ứng được điều kiện này vì đây là những thông
tin bình thường về sản phẩm của công ty và không chứa đựng các bí mật.
- Thứ tư, vì thông tin không đáp ứng điều kiện thứ ba trên nên khi chủ thể sử dụng trong
sản xuất, kinh doanh thì cũng không thể chiếm ưu thế hơn so với các chủ thể kinh
doanh khác cùng lĩnh vực.

b. Hành vi của bà P trong tình huống trên có xâm phạm bí mật kinh doanh của công ty
không?

- Như đã phân tích ở câu a thì danh mục này không đáp ứng được các điều kiện bảo hộ
dưới dạng bí mật kinh doanh tại Điều 84 Luật SHTT nên không được xem là bí mật
kinh doanh theo Luật SHTT. Vì thế, bà P không xâm phạm bí mật kinh doanh của công
ty M.
- Tuy nhiên, hành vi của bà P có khả năng vi phạm nội quy lao động của công ty M.
Nhưng công ty M cũng cần chứng mình rằng “Những thông tin hay tài liệu này nếu tiết
lộ cho những cá nhân không có liên quan có thể gây hại về vật chất cũng như ảnh
hưởng không tốt cho công ty.”. Từ đó, công ty M mới đủ căn cứ để xử lý hành vi của bà
P theo nội quy đã được quy định.
C. PHẦN TỰ LÀM

Đọc, nghiên cứu Bản án số 30 và 31 “Tên miền và mối liên hệ với quyền sở hữu trí tuệ”
(gồm cả phần tình huống và bình luận) trong Sách tình huống Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam và
trả lời các câu hỏi sau đây:

 Tóm tắt Bản án số 52/2011/KDTM-PT ngày 29/3/2011 của Tòa án phúc thẩm Tòa
án nhân dân tối cao tại Hà Nội.
o Chủ thể: Công ty Samsung (nguyên đơn) - Công ty ViTechNet (bị đơn)
o Tranh chấp: Quyền sở hữu trí tuệ
o Nội dung: Công ty Samsung khởi kiện đòi lại hai tên miền samsungmobile.com.vn và
samsungmobile.vn đã bị ông Minh - Giám đốc Công ty ViTechNet và Công ty
ViTechNet đăng ký sử dụng với ý đồ xấu, nguyên đơn yêu cầu Tòa án ra phán quyết thu
hồi các tên miền này để ưu tiên cho Công ty Samsung đăng ký sử dụng.
o Hướng giải quyết của Tòa án:
+ Tòa cấp sơ thẩm: ra phán quyết thu hồi tên miền samsungmobile.com.vn để cho Công
ty Samsung đăng ký sử dụng trong 10 ngày liên tục, bác yêu cầu thu hồi tên miền
samsungmobile.vn với lý do tên miền này đã được chủ thể khác đăng ký sử dụng.
+ Tòa cấp phúc thẩm: ra phán quyết ưu tiên cho Công ty Samsung đăng ký sử dụng tên
miền samsungmobile.vn trong hạn 10 ngày liên tục.
 Tóm tắt Bản án số 05/2014/KDTM-ST ngày 22/04/2014 của Tòa án nhân dân TP.
Đà Nẵng
o Chủ thể: Công ty Lafarge (nguyên đơn) - bà Hân (bị đơn)
o Tranh chấp: Quyền sở hữu trí tuệ
o Nội dung: Nguyên đơn cho rằng tên miền quốc gia lafarge.com.vn do bị đơn đăng ký
trùng lặp hoàn toàn với nhãn hiệu “LAFARGE”, “LAFARGE và hình” của nguyên đơn
đang được bảo hộ tại Việt Nam. Nguyên đơn yêu cầu Tòa án ra quyết định thu hồi tên
miền này để nguyên đơn được ưu tiên đăng ký sử dụng.
o Hướng giải quyết của Tòa án: chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, thu hồi tên miền
lafarge.com.vn để ưu tiên cho nguyên đơn đăng ký sử dụng.

1. Tên miền là gì? Tên miền có là một đối tượng quyền sở hữu trí tuệ không?

- Căn cứ theo khoản 4 Điều 2 Thông tư số 24/205/TT-BTTT, quy định:


“4. Tên miền là tên được sử dụng để định danh địa chỉ Internet của máy chủ gồm các dãy ký
tự cách nhau bằng dấu chấm “.”. Tên miền bao gồm:
a) Tên miền dùng các kí tự dựa trên cơ sở bảng mã ASCII, sau đây gọi là tên miền mã
ASCII;
b) Tên miền dùng bảng chữ cái dựa trên cơ sở ngôn ngữ truyền thống của từng quốc gia,
sau đây gọi là tên miền đa ngữ (IDN).”

- Theo Luật SHTT hiện hành, tên miền không là đối tượng quyền sở hữu trí tuệ căn cứ
Điều 3 Luật SHTT. Vì theo quy định của pháp luật Việt Nam, tên miền là tài nguyên
quốc gia, chính vì vậy, tổ chức cá nhân chỉ có quyền sử dụng, không có quyền sở hữu.
Quyền sử dụng này phụ thuộc vào việc nộp phí gia hạn của các chủ thế. Khi tên miền
hết hạn mà chủ sử dụng tên miền không tiến hành gia hạn, sẽ có thêm 3 ngày để tên
miền được hoạt động bình thường. Các tổ chức, cá nhân khác được đăng ký tên miền
một cách thông thường. Sử dụng tên miền xét về mặt kỹ thuật là việc tổ chức, cá nhân
gắn tên miền đó với địa chỉ IP của máy chủ đang hoạt động phục vụ các ứng dụng trên
mạng. Tổ chức, cá nhân khi được cấp quyền sử dụng tên miền còn được chuyển nhượng
tên miền cho tổ chức, cá nhân khác, trả lại tên miền khi không có nhu cầu sử dụng.

2. Hiện nay, việc khai thác, sử dụng tên miền được điều chỉnh bởi những văn bản nào?

- Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi, bổ sung 2022;


- Luật Công nghệ thông tin 2006;
- Nghị định 72/2013/NĐ-CP ngày 15/7/2013 về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ
Internet và thông tin trên mạng;
- Nghị định 27/2018/NĐ-CP nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị định số
72/2013/NĐ-CP ngày 15 tháng 7 năm 2013 của chính phủ về quản lý, cung cấp, sử
dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng.
- Thông tư 24/2015/TT-BTTTT quy định về quản lý và sử dụng tài nguyên Internet.

3. Trong hai vụ việc trên, Tòa án đã dựa trên cơ sở pháp lý nào để thu hồi các tên miền đã
được đăng ký?

- Trong Bản án số 52/2011/KDTM-PT, Tòa án đã dựa trên cơ sở pháp lý sau để thu hồi các
tên miền đã được đăng ký:
+ Khoản 5 Điều 17 Nghị định 97/2008/NĐ-CP: “Hình thức giải quyết tranh chấp về sử
dụng tên miền quốc gia Việt Nam “.vn” thực hiện theo quy định tại Điều 76 Luật Công nghệ
thông tin và các quy định pháp luật khác liên quan.”
+ Điều 76 Luật Công nghệ thông tin : “Tranh chấp về đăng ký, sử dụng tên miền quốc
gia Việt Nam “.vn” được giải quyết theo các hình thức sau đây:
1. Thông qua thương lượng, hòa giải;
2. Thông qua trọng tài;
3. Khởi kiện tại Tòa án.”
+ Phần II; phần III; phần IV Thông tư số 10/2008/TT-BTTTT
- Trong Bản án số 05/2014/KDTM-ST, Tòa án đã dựa trên cơ sở pháp lý sau để thu hồi các
tên miền đã được đăng ký:
+ Điểm d khoản 1 Điều 130 Luật Sở hữu trí tuệ: “Đăng ký, chiếm giữ quyền sử dụng
hoặc sử dụng tên miền trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu, tên thương mại được
bảo hộ của người khác hoặc chỉ dẫn địa lý mà mình không có quyền sử dụng nhằm mục đích
chiếm giữ tên miền, lợi dụng hoặc làm thiệt hại đến uy tín, danh tiếng của nhãn hiệu, tên
thương mại, chỉ dẫn địa lý tương ứng”.
+ Mục IV Thông tư số 10/2008/TT-BTTTT để giải quyết tranh chấp tên miền quốc gia
Việt Nam “.vn”

4. Pháp luật các quốc gia khác quy định như thế nào về trường hợp tên miền trùng hay
tương tự với các đối tượng quyền sở hữu trí tuệ đã được bảo hộ?

❖ Pháp luật Pháp:


Căn cứ vào khoản 2 Điều L.45-2 Bộ luật Bưu chính và Viễn Thông Pháp năm 1952
(Code des postes et des communications électroniques 1952)1:
“Tuân thủ các nguyên tắc nêu tại Điều L.45-1, việc đăng ký hoặc gia hạn tên miền có thể
bị từ chối hoặc tên miền bị xóa:
2 ° Dễ bị xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ hoặc riêng tư, trừ khi người nộp đơn biện minh
cho rằng đó là quyền lợi hợp pháp và hành động không nhằm mục đích xấu;
Việc từ chối đăng ký hoặc gia hạn hoặc xóa tên miền chỉ thực hiện nếu một trong những lý
do được đề cập như trên, chỉ sau khi Cơ quan Đăng ký đưa việc nộp đơn vào vị trí để xem
xét và, nếu cần thiết, để thường xuyên theo dõi tình hình của tên miền đó”.
Theo quy định của pháp luật Pháp, nếu một người đăng kí có tên miền trùng hoặc tương
tự đến mức gây nhầm lẫn với tên miền đã đăng kí thì cơ quan có thẩm quyền phải từ chối
đăng kí hoặc gia hạn đăng kí hoặc xóa tên miền đó nếu nó xâm phạm đến quyền sở hữu trí
tuệ hoặc riêng tư của người khác. Tuy nhiên, có một ngoại lệ là nếu người nộp đơn chứng
minh được cho rằng đó là quyền lợi hợp pháp và hành động không nhằm mục đích xấu.
❖ Pháp luật Hoa Kỳ:
Căn cứ vào mục (ii) (d) (1) (A) Điều 1125 Chương 22: Nhãn hiệu (Trademarks), Bộ luật
Kinh tế và Thương mại Hoa Kỳ 1946 (U.S. Code: Title 15 - COMMERCE AND TRADE)
được sửa đổi, bổ sung bằng Đạo luật chống việc đăng ký tên miền (Anticybersquatting
Consumer Protection Act - ACPA) năm 1999:
“(d) (1) (A) Một người sẽ phải chịu trách nhiệm dân sự với chủ sở hữu nhãn hiệu, bao
gồm tên cá nhân nổi tiếng được bảo vệ theo phần này, nếu không liên quan đến hàng hóa
hoặc dịch vụ của các bên, khi người đó:
(ii) Đăng ký, giao dịch hoặc sử dụng tên miền:
1
https://www.legifrance.gouv.fr/codes/article_lc/LEGIARTI000042623549/#:~:text=Le%20refus%20d'enregistrement
%20ou,%C3%A9ch%C3%A9ant%2C%20de%20r%C3%A9gulariser%20sa%20situation
(I) Trong trường hợp đã có một nhãn hiệu khác tại thời điểm đăng ký tên miền, trùng
hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu đó;
(II) Trong trường hợp của một nhãn hiệu nổi tiếng mà nổi tiếng tại thời điểm đăng ký tên
miền, gây nhầm lẫn với nhãn hiệu đó; hoặc là
(III) Nhãn hiệu, từ ngữ hoặc tên được bảo vệ theo Mục 706, Phần 18, Bộ luật Hoa Kỳ
hoặc Mục 220506, Phần 36, Bộ luật Hoa Kỳ”.
Theo quy định của pháp luật Hoa Kỳ, nếu một người đăng kí nhãn hiệu có tên miền trùng
hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu khác đã đăng kí tên miền thì phải chịu
trách nhiệm dân sự với chủ sở hữu nhãn hiệu đó.
❖ Pháp luật Anh:
Anh chưa có quy định cụ thể về tên miền mà quy định nó thông qua việc quy định đối
với nhãn hiệu.
Căn cứ vào khoản (1) và (2) Điều 10 Đạo luật Thương mại Anh 1994 (Trade Marks Act
1994) về Vi phạm nhãn hiệu đã đăng kí:
“(1) Một người vi phạm nhãn hiệu đã đăng ký nếu người đó sử dụng một dấu hiệu trùng
với nhãn hiệu liên quan đến hàng hóa hoặc dịch vụ giống hệt với nhãn hiệu đã đăng ký.
(2) Một người vi phạm nhãn hiệu đã đăng ký nếu anh ta sử dụng một dấu hiệu, khi:
(a) Dấu hiệu trùng với nhãn hiệu và được sử dụng có liên quan đến hàng hóa hoặc dịch
vụ tương tự như nhãn hiệu được đăng ký trước đó, hoặc
(b) Dấu hiệu tương tự như nhãn hiệu và được sử dụng có liên quan đến hàng hóa hoặc
dịch vụ trùng hoặc tương tự như nhãn hiệu được đăng ký”.
Giống với nhãn hiệu đã đăng ký nghĩa là để đăng ký được, tên miền được đề cập phải
trùng với nhãn hiệu. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng việc thực hiện tuân thủ theo nguyên tắc là
như nhau không nhất thiết có nghĩa là hoàn toàn giống nhau.
Áp dụng quy định này cho tranh chấp tên miền dựa trên nhãn hiệu thì để xác định có vi
phạm liên quan đến tên miền thì phải xem xét:
+ Tên miền trùng hay tương tự với nhãn hiệu đã đăng ký.
+ Tên miền phải được sử dụng trong quá trình thương mại.
+ Xem xét liệu hàng hóa hoặc dịch vụ được cung cấp dưới tên miền có trùng hay tương tự
những cam kết được quy định trong đăng ký nhãn hiệu hay không. Nếu không, sẽ không có
vi phạm. Nếu sự có giống nhau, thì kiểm tra xem có sự nhầm lẫn hay không.
❖ Pháp luật Nga:
Căn cứ quy định khoản 1, khoản 2.5, và khoản 3 Điều 1484 BLDS Liên Bang Nga về
Quyền độc quyền đối với nhãn hiệu2:
“1. Người có nhãn hiệu đã được đăng ký (chủ quyền) có độc quyền sử dụng nhãn hiệu
theo Điều 1229 của Bộ luật hiện hành dưới bất kỳ hình thức nào và không mâu thuẫn với
pháp luật (độc quyền đối với nhãn hiệu), bao gồm các trường hợp được quy định tại khoản
2 điều này. Chủ sở hữu có quyền quyết định độc quyền nhãn hiệu.

2
http://www.consultant.ru/document/cons_doc_LAW_64629/7d076153e9adb1b3534c04eb371e2f7c6df713f8/
2. Quyền độc quyền đối với nhãn hiệu có thể được thiết lập đối với hàng hóa, công trình
hoặc dịch vụ đã đăng ký nhãn hiệu, bằng cách đặt nhãn hiệu:
5) trên Internet, bao gồm tên miền hoặc trong các địa chỉ theo cách thức khác.
3. Không chủ thể nào có quyền nếu không có sự cho phép của chủ sở hữu trong việc sử
dụng nhãn hiệu tương tự với nhãn hiệu hàng hóa mà chủ thể khác đã đăng ký nhãn hiệu
hoặc hàng hóa tương tự nếu việc sử dụng đó gây nhầm lẫn”.
Theo quy định trên, BLDS Nga đã bảo hộ tên miền thông qua việc bảo hộ Nhãn hiệu. Bộ
luật cũng thừa nhận quyền độc quyền của chủ sở hữu đối với tên miền đã được đăng kí bảo
hộ, không chủ thể nào được sử dụng tên miền trùng hay tương tự với tên miền của chủ thể
đã đăng kí trước. Quy định về tên miền còn được bảo hộ thông qua việc bảo hộ Tên gọi
theo xuất xứ (Appellation of Origin) tại Điều 1519 BLDS Nga. Trong trường hợp, chủ thể
khác cố tình vi phạm quy định trên thì sẽ chịu các chế tài theo quy định tại Điều 1252
BLDS Nga.

You might also like