Professional Documents
Culture Documents
Ban Thao Ban Dich Chuong 6 7 8
Ban Thao Ban Dich Chuong 6 7 8
1
6.2 Quy trình thiết kế
Có rất nhiều phƣơng pháp tiếp cận có thể đƣợc thực hiện đối với thiết kế tua bin gió và cũng có rất
nhiều vấn đề cần phải đƣợc lƣu ý. Phần này sẽ vạch ra các bƣớc trong một phƣơng pháp tiếp cận. Các
phần sau sẽ cung cấp nhiều chi tiết hơn về các bƣớc này.
Các bƣớc thiết kế quan trọng bao gồm dƣới đây:
1. Xác định ứng dụng
2. Xem lại các kinh nghiệm trƣớc đó
3. Lựa chọn cấu trúc địa hình học
4. Ƣớc tính các tải trọng sơ bộ
5. Phát triển thiết kế sơ bộ
6. Dự tính hiệu suất hoạt động
7. Đánh giá thiết kế
8. Ƣớc tính các chi phí và chi phí năng lƣợng
9. Sửa chữa thiết kế
10. Xây dựng nguyên mẫu
11. Kiểm tra nguyên mẫu
12. Thiết kế máy móc sản xuất
Các bƣớc từ 1 đến 7 là nội dung chính của chƣơng này. Các ƣớc tính chi phí tua bin và chi phí
năng lƣợng (bƣớc 8) có thể đƣợc thực hiện bằng cách sử dụng các phƣơng pháp đƣợc thảo luận trong
chƣơng 9. Các bƣớc từ 9 đến 13 nằm ngoài phạm vi của văn bản này nhƣng đƣợc dựa trên các nguyên lý
nêu ra ở đây.
2
Có rất nhiều sơ đồ bố trí tổng thể hay các cấu trúc địa hình học cho một tua bin gió. Hầu hết những
sơ đồ hay cấu trúc hình học này đều liên quan đến rô-to. Những lựa chọn quan trọng nhất đƣợc liệt kê
dƣới đây. Những lựa chọn này sẽ đƣợc thảo luận chi tiết hơn trong phần 6.3
Định hƣớng trục rô-to: ngang hay thẳng
Kiểm soát công suất: ngừng hoạt động, bƣớc thay đổi, các bề mặt khí động học có thể kiểm
soát đƣợc và kiểm soát chệch hƣớng
Vị trí rô-to: cột tháp (trụ đỡ) xuôi gió hay cột tháp ngƣợc gió
Kiểm soát chệch hƣớng: định hƣớng chệch, chệch hƣớng tự do hay chệch hƣớng cố định
Tốc độ rô-to: không đổi hay thay đổi
Thiết kế tỉ số tốc độ đầu cánh và độ rắn chắc
Loại moay-ơ: cố định, treo, các cánh có bản lề hoặc khớp các đăng
Số lƣợng cánh
6.2.8 Ước tính các chi phí và chi phí năng lượng
Một phần quan trọng của quá trình thiết kế là việc ƣớc tính chi phí năng lƣợng từ tua bin gió. Các
yếu tố chính trong chi phí năng lƣợng là chi phí của tua bin và năng suất hoạt động của nó. Do đó, ƣớc
tính chi phí máy móc cả trong giai đoạn nguyên mẫu là rất cần thiết nhƣng quan trọng nhất là trong sản
xuất. Các bộ phận tua bin gió là hỗn hợp tiêu biểu các danh mục hiện có trên thị trƣờng và các danh mục
đƣợc chế tạo và thiết kế đặc biệt. Các mặt hàng hiện có trên thị trƣờng có mức giá sẽ thấp hơn chỉ một
chút khi đƣợc mua với số lƣợng nhiều để sản xuất hàng loạt. Các mặt hàng đặc biệt sẽ thƣờng khá là đắt ở
mức nguyên mẫu vì công việc thiết kế và nỗ lực tham gia vào việc thiết kế chỉ một hoặc một vài mặt
hàng. Tuy nhiên trong sản xuất hàng loạt, giá cả bộ phận sẽ giảm để gần với các mặt hàng thƣơng mại có
chất liệu, độ phức tạp và kích cỡ tƣơng tự.
Các tính toán về chi phí tua bin gió và chi phí năng lƣợng đƣợc nói chi tiết hơn trong chƣơng 9.
6.2.9 Sửa chữa thiết kế
Khi thiết kế sơ bộ đƣợc phân tích về khả năng chịu các tải trọng, khả năng hoạt động và chi phí
năng lƣợng cuối cùng đƣợc ƣớc tính, việc một số chỗ chỉnh sửa đƣợc xác định là điều bình thƣờng. Tại
thời điểm này, một phép lặp khác trên thiết kế đƣợc thực hiện. Thiết kế sửa lại đƣợc phân tích theo một
4
cách thức tƣơng tự với quá trình tóm tắt ở trên. Thiết kế này, hoặc có thể là một thiết kế tiếp theo sẽ đƣợc
sử dụng trong việc xây dựng một nguyên mẫu nếu có nhiều phép lặp lại hơn.
6.3 Các cấu trúc địa hình học tua bin gió
Phần này cung cấp một bản tóm tắt về các một số vấn đề chính liên quan đến các lựa chọn thƣờng
gặp nhất trong cấu trúc địa hình học tổng thể của các tua bin gió hiện đại. Mục đích của phần này không
phải là biện hộ cho một khoa học thiết kế đặc biệt mà là cung cấp một bản tổng quan về những gì cần phải
lƣu tâm xem xét. Cần phải lƣu ý rằng trong các phần đặc biệt của thiết kế vẫn có những ý kiến ủng hộ
mạnh mẽ về năng lƣợng gió chẳng hạn nhƣ định hƣớng rô-to, số lƣợng cánh, v.v…Một bản tổng quan tốt
về một số vấn đề khoa học thiết kế đƣợc Doermer đƣa ra vào năm 1998 trên trang web của ông.
Một trong số các chủ đề của các mối quan tâm lớn ở thời điểm hiện nay là tua bin có thể nặng bao
nhiêu và vẫn tồn tại đƣợc trong thời gian mong muốn. Một trong số những vấn đề này đƣợc Geraets và
các cộng sự của ông thảo luận năm 1997.
5
Mặc dù rô-to trục đứng có một số lợi thế đầy hứa hẹn nhƣng thiết kế vẫn chƣa nhận đƣợc sự chấp
thuận rộng rãi. Nhiều máy đƣợc xây dựng vào những năm 1970 và 1980 đã phải chịu những hƣ hỏng do
mỏi của các cánh, đặc biệt là tại các điểm nối với các phần còn lại của rô-to. Đó là kết quả của các ứng
suất khí động học tuần hoàn trên các cánh khi chúng quay và các đặc tính độ mỏi của nhôm mà từ đó các
cánh quạt đƣợc chế tạo thông thƣờng.
Những sự không tƣơng thích giữa cấu trúc và bộ kiểm soát cũng gây ra nhiều vấn đề. Từ một quan
điểm cấu trúc, hình dáng kiểu Darrieus (dây nhảy) là loại xuất hiện đƣợc ao ƣớc nhất (so với thiết kế cánh
thẳng). Điều này là vì loại cánh này không phụ thuộc vào bất kỳ các mô men uốn cong hƣớng tâm nào mà
chỉ phụ thuộc vào độ cong. Mặt khác, rất khó để hợp nhất kiểm soát khí động học chẳng hạn nhƣ góc
nghiêng biến đổi hay các phanh hãm khí động học trên một cánh của loại này. Vì lí do này mà kiểm soát
ngừng hoạt động là biện pháp chủ yếu giới hạn năng lƣợng trong những lúc có gió lớn. Do các khí động
học của rô-to trục đứng kiểm soát ngừng động mà tốc độ gió đƣợc đánh giá có xu hƣớng tƣơng đối cao.
Điều này dẫn đến yêu cầu về các bộ phận hệ thống truyền động cao hơn bình thƣờng, và đối với toàn bộ
các yếu tố công suất của tua bin gió là tƣơng đối thấp.
Nói tóm lại, trục ngang có lẽ đƣợc ƣa thích hơn. Tuy rô-to trục đứng có đủ thuận lợi nhƣng nó có
thể có giá trị khi xem xét với một số ứng dụng. Tuy nhiên trong trƣờng hợp này, ngƣời thiết kế nên hiểu
rõ ràng về những hạn chế là gì và cũng nên có những lựa chọn hợp lý trong đầu về việc giải quyết những
hạn chế đó.
Bởi vì những ƣu thế vƣợt trội của các tua bin gió trục ngang hiện đang sử dụng hoặc đang đƣợc phát
triển, phần còn lại trong chƣơng này, trừ trƣờng hợp quy định, sẽ nói chủ yếu về các tua bin gió loại này.
6.3.2 Kiểm soát công suất rô-to: ngừng động, góc nghiêng, độ lệch và các bề mặt khí
động học.
Có rất nhiều lựa chọn để kiểm soát công suất theo cách khí động lực học. Việc chọn lựa lựa chọn
đƣợc dùng trong số những lựa chọn này sẽ ảnh hƣởng toàn bộ thiết kế theo nhiều cách. Phần dƣới đây
trình bày tóm tắt sơ lƣợc những lựa chọn này, tập trung vào những khía cạnh ảnh hƣởng đến toàn bộ thiết
kế của tua bin. Các chi tiết về các vấn đề kiểm soát đƣợc thảo luận ở chƣơng 7.
Kiểm soát ngừng động (chết máy) lợi dụng độ nâng khí động lực bị giảm ở các góc tới lớn để giảm
mô men xoắn tại các tốc độ gió cao. Để quá trình ngừng động xảy ra, tốc độ rô-to phải đƣợc kiểm soát
tách biệt, phổ biến nhất là do một máy phát điện cảm ứng (xem chƣơng 5) đƣợc nối trực tiếp với mạng
lƣới điện. Các cánh quạt trong các máy đƣợc kiểm soát ngừng động đƣợc thắt chặt chắc chắn với phần
còn lại của trục, tạo thành một mối nối đơn giản. Tuy nhiên, bản chất của việc kiểm soát ngừng động là
công suất tối đa đạt đƣợc tại tốc độ gió tƣơng đối cao. Hệ thống truyền động phải đƣợc thiết kế để thích
ứng với các mô men xoắn gặp phải trong những điều kiện nhƣ trên mặc dù những luồng gió nhƣ vậy có
thể tƣơng đối hiếm xảy ra. Các máy đƣợc kiểm soát ngừng động
Các máy có góc nghiêng biến đổi có các cánh có thể quay quanh trục dài, thay đổi góc nghiêng của
cánh. Thay đổi góc nghiêng cũng chính là thay đổi về góc tới của luồng gió đến và tổng mô men xoắn
đƣợc tạo ra. Góc nghiêng thay đổi cung cấp nhiều lựa chọn kiểm soát hơn là thực hiện kiểm soát ngừng
động. Mặt khác, moay-ơ lại phức tạp hơn bởi các góc phƣơng vị nghiêng cần phải đƣợc hợp nhất. Thêm
vào đó, một vài dạng của hệ thống hoạt động nghiêng cũng phải đƣợc tính đến. Trong một số tua bin gió,
chỉ có phần bên ngoài cánh có thể đƣợc làm nghiêng. Đây đƣợc gọi là kiểm soát góc nghiêng cánh một
phần.
Một số tua bin gió sử dụng các bề mặt khí động học trên các cánh để kiểm soát hoặc thay đổi công
suất. Những bề mặt này có thể có nhiều hình dạng, nhƣng trong bất kỳ trƣờng hợp nào các cánh quạt cũng
phải đƣợc thiết kế để giữ những bề mặt này và phải đƣa ra phƣơng pháp để vận hành chúng. Trong hầu
hết các trƣờng hợp, các bề mặt khí động học đƣợc sử dụng để hãm tua bin. Trong một vài trƣờng hợp,
đặc biệt là khi sử dụng các cánh liệng (xem chƣơng 7), các bề mặt này có thể mang lại hiệu ứng chỉnh tốt.
Một lựa chọn khác cho việc kiểm soát công suất là điều khiển chệch hƣớng. Trong sự thay đổi này,
rô-to bị đặt cách xa gió nên giảm công suất. Phƣơng pháp kiểm soát này cần một hệ thống chỉnh hƣớng
6
gió mạnh. Trục phải có khả năng chịu đƣợc các tải trọng con quay hồi chuyển do chuyển động chệch
hƣớng nhƣng có thể tƣơng đối đơn giản.
6.3.3 Vị trí rô-to: cột tháp ngược gió hay cột tháp xuôi gió
Rô-to trong tua bin trục ngang có thể hoặc là ngƣợc gió hoặc xuôi gió. Một rô-to xuôi gió cho phép
tua bin có chuyển động chệch hƣớng tự do thực hiện đơn giản hơn chuyển động chệch hƣớng hoạt động.
Một thuận lợi khác của cấu hình xuôi gió là dễ dàng tận dụng các lực ly tâm nhằm giảm các mô men làm
cong vành gốc cánh. Điều này là vì các cánh thƣờng đƣợc lái xuôi gió nên các mô men ly tâm có xu
hƣớng chống lại các mô men do áp lực hƣớng trục. Mặt khác, cột tháp tạo ra một dòng đuôi theo hƣớng
xuôi gió và các cánh quạt phải chuyển động qua dòng đuôi mỗi vòng quay. Dòng đuôi này là một nguồn
các tải trọng định kỳ có thể gây ra hƣ hỏng mỏi cho các cánh và có thể áp đặt một sự gợn sóng lên nguồn
điện tạo ra. Sự chuyển động của cánh qua dòng đuôi cũng là một nguồn tiếng ồn. Những tác động của
dòng đuôi (đƣợc gọi là “vùng bóng tháp”) có thể đƣợc giảm đến một mức nào đó bằng cách sử dụng thiết
kế cột tháp đƣa ra cản trở tối thiểu tới dòng khí.
7
6.3.7 Trục: loại cố định, treo, các cánh có bản lề hoặc khớp các đăng
Thiết kế trục của loại tua bin gió trục ngang là một yếu tố quan trọng trong sơ đồ thiết kế tổng thể.
Các phƣơng án lựa chọn chính là cố định, treo hay có bản lề. Hầu hết các tua bin gió sử dụng các rô-to cố
định. Điều này có nghĩa là các cánh quạt không thể di chuyển theo các hƣớng thẳng vuông góc với cánh
hay hƣớng biên. Tuy nhiên, thuật ngữ “rô-to cố định” bao gồm cả những rô-to có các cánh quạt có góc
nghiêng thay đổi.
Các rô-to trong tua bin hai cánh thông thƣờng là dạng treo. Điều này có nghĩa là moay-ơ đƣợc đặt
trên các vòng bi và có thể treo lên hoặc xuống, bên trong hoặc bên ngoài mặt phẳng quay. Các cánh lần
lƣợt đƣợc nối cố định với trục, vì thế trong khi treo một cánh chuyển động ngƣợc gió còn những cánh
khác lại chuyển động xuôi gió. Một ƣu điểm của các rô-to kiểu treo là các mô men uốn trong các cánh
quạt có thể ở mức rất thấp trong suốt quá trình vận hành bình thƣờng.
Một số tua bin gió hai cánh sử dụng các bản lề trên trục. Các bản lề này cho phép các cánh di
chuyển vào trong hoặc ra ngoài mặt phẳng quay một cách độc lập với nhau. Tuy nhiên, do trọng lƣợng
cánh không cân bằng với nhau nên phải thực hiện các yêu cầu khác để giữ đúng vị trí khi tua bin không
quay hoặc bị ngừng hoặc là khởi động.
Một loại biến thể thiết kế đƣợc biết đến là một “tua bin có khớp các đăng”. Nó dùng một trục cố
định nhƣng toàn bộ tua bin đƣợc đặt trên các vòng bi ngang nên máy có thể nghiêng xuống hoặc lên từ
hƣớng ngang. Chuyển động này có thể giúp giảm bớt những bất cân bằng trong các lực khí động học.
6.3.11.1 Các yếu tố khí hậu ảnh hưởng đến việc thiết kế
Các tua bin gió đƣợc thiết kế cho các khu vực có nhiều năng lƣợng hay nhiều nhiễu động hơn cần
phải mạnh hơn các tua bin trong các khu vực thuận lợi hơn. Cần phải xem xét các điều kiện mong muốn ở
những khu vực nhƣ vậy nếu các tua bin đáp ứng đƣợc các tiêu chuẩn quốc tế. Chủ đề này sẽ đƣợc nói chi
tiết hơn trong phần 6.6
Khí hậu nói chung có thể ảnh hƣởng đến thiết kế tua bin theo nhiều cách. Chẳng hạn nhƣ các tua bin
dùng trong các khu vực có khí hậu nóng có thể cần bổ sung làm mát thêm. Trái lại các tua bin dùng trong
khí hậu lạnh lại cần những máy gia nhiệt, các chất bôi trơn đặc biệt hay thậm chí là các vật liệu cấu trúc
khác biệt. Các tua bin dùng trong khí hậu dƣới biển cần đƣợc bảo vệ khỏi muối và nên đƣợc xây dựng từ
các vật liệu chống ăn mòn bất kể chỗ nào có thể.
6.3.11.2 Các yếu tố đặc biệt trong khu vực ảnh hưởng đến thiết kế.
Các tua bin dành cho các khu vực tƣơng đối khó tiếp cận có các thiết kế bị hạn chế theo nhiều cách.
Chẳng hạn nhƣ những tua bin này cần phải tự lắp ráp. Giao thông vận tải khó khăn cũng có thể hạn chế
kích thƣớc hoặc trọng lƣợng của bất kỳ một bộ phận nào.
Chuyên môn và trang thiết bị để lắp đặt và vận hành tua bin hiện có bị hạn chế có thể là một yếu tố
đặc biệt quan trọng đối với các tua bin vận hành đơn lẻ hoặc theo nhóm nhỏ. Điều này là đặc biệt quan
trọng đối với các ứng dụng trong khu vực vùng sâu vùng xa hoặc trong các nƣớc đang phát triển. Trong
trƣờng hợp này, việc giữ cho tua bin đơn giản, theo mô đun và đƣợc thiết kế chỉ cần các kĩ năng, công cụ
và trang thiết bị cơ học hiện đang phổ biến là đặc biệt quan trọng.
10
6.4.2 Thép
Thép là một trong những vật liệu đƣợc sử dụng rộng rãi nhất trong chế tạo tua bin gió. Thép đƣợc
dùng trong nhiều bộ phận kết cấu bao gồm cột tháp, trục, khung chính, các trục, các bánh răng và vỏ bánh
răng, các đai cũng nhƣ là phần gia cố trong bê tông. Thông tin về các đặc tính của sắt có thể đƣợc tìm thấy
trong Spotts (năm 1985), Baumeister (năm 1978) và các bản dữ liệu từ các nhà cung cấp thép.
11
Các sợi ngắn
Các hạt Các sợi liên tục
Hình 6.1: Các dạng sợi thủy tinh ( Hội đồng nghiên cứu quốc gia)
Epoxy khỏe hơn và có khả năng chống chịu hóa học tốt hơn, bám dính tốt hơn và độ co do việc sử
lý thấp nhƣng chúng cũng ít tốn kém hơn ( chỉ bằng 2 lần so với polyester) và thời gian xử lý ngắn hơn
polyester.
Vinyn ester là chất dẻo dựa vào Epoxy mà đã trở nên rất phổ biến trong những năm gần đây. Những
chất dính này có tính chất tƣơng tự nhƣ epoxy nhƣng chi phí thấp hơn và thời gian xử lý ngắn hơn. Chúng
có bền vững trƣớc môi trƣờng và đƣợc sử dụng rổng rãi trong các ứng dụng hàng hải.
12
Loại kỹ thuật phân tích giống nhau đƣợc sử dụng cho kim loại ( đƣợc trình bày trong chƣơng 4)
cũng đƣợc sử dụng để dự đoán độ mỏi trong các hỗn hợp. Chính việc tính toán chu kỳ dòng chảy đƣợc sử
dụng để xác định phạm vi và phƣơng thức của các chu kỳ ứng suất và quy tắc Miner đƣợc sử dụng để đo
mức độ hƣ hỏng từ các chu kỳ và đƣờng S-N của hỗn hợp. Các đƣờng biểu diễn S-N cho các hỗn hợp
đƣợc hình thành nên bởi công thức sau mà có các dạng khác nhau đƣợc sử dụng trong kim loại.
u (1 B log N ) (6.4.1)
Trong đó 0 là độ lớn ứng suất chu kỳ, 0u là độ bền cuối cùng, B là không đổi và N là số chu kỳ.
Thông số B xấp xỉ bằng 0,1 trong phạm vi rộng của các hỗn hợp thủy tinh E khi tỷ lệ ứng suất
ngƣợc R = 0.1. Đây là độ mỏi căng . Tuổi thọ bị giảm do độ mỏi do nén căng ngƣợc (R= -1) và độ mỏi do
việc nén.
Độ bền mỏi của các sợi thủy tinh cũng chỉ rất ít. Tỷ lệ ứng suất tối đa đối với độ bền tĩnh là 0.3 ở
10 triệu chu kỳ. Các sợi các bon có khả năng chống chịu với độ mỏi hơn các sợi thủy tinh : tỷ lệ của ứng
suất tối đa đối với độ bền tĩnh là 0.75 ở 10 triệu chu trình, bằng 2,5 lần đối với các sợi thủy tinh. Các đặc
điểm về tuổi thọ chịu đựng độ mỏi của sợi thủy tinh E , các bon và một số loại sợi chung khác đƣợc minh
họa trong hình 6.2.
Để có sự phức tạp của phƣơng pháp độ mỏi của hỗn hợp và thiếu các dữ liệu kiểm tra đầy đủ về tất
cả các hỗn hợp, thực tế là vẫn khó khăn để dự đoán tuổi thọ độ mỏi một cách chính xác.
6.4.4 Đồng
Đồng dẫn điện rất tốt và vì lý do đó nó đƣợc sử dụng trong tất cả các thiết bị điện trong tua bin gió,
bao gồm chất dẫn điện công suất. Các tính chất cơ học của đồng nói chung là ít đƣợc quan tâm hơn tính
chất dẫn điện . Tuy nhiên, cân nặng là rất đáng quan tâm. Một phần đáng kể cân nặng của máy phát điện
là do các cuộn đồng và cân nặng của các chất dẫn điện công suất chính có thể cũng đóng vai trò quan
trọng. Thông tin về đồng liên quan tới cách sử dụng trong các ứng dụng điện có thể đƣợc tìm thấy trong
nhiều nguồn , bao gồm Baumeister (1978).
Granit loại
I
Bo
Ứng suất lớn nhất/Độ bền tĩnh
Granit loại
II
Aramit
Thủy tinh
điện
13
Hình 6.2: Tuổi thọ độ mỏi của các sợi hỗn hợp ( Hội đồng nghiên cứu quốc gia, 1991).
Được sản xuất lại theo sự cho phép của Viện Khoa học Quốc gia, theo phong cách của Viện Báo
chí Quốc gia, Washinton, D>C
6.4.5 Bê tông
Bê tông đƣợc gia công thƣờng đƣợc sử dụng để xây dựng tua bin gió. Đồng thời đôi lúc nó đã đƣợc
sử dụng để xây dựng tháp. Tuy nhiên, thảo luận về bê tông đƣợc gia cố nằm ngoài phạm vi của bài này.
14
Hình 6.3: Bộ nối rắn điển hình
6.5.3 Các lò xo
Lò xo có một số ứng dụng trong các tua bin gió. Chúng thƣờng rất hữu ích trong hệ thống an toàn
truyền động thụ động. Các ví dụ bao gồm các phanh đƣợc ứng dụng lò xo, các lò xo cho sự co lại của các
bƣớc cánh quạt, bề mặt khí động và các bộ chống rung treo. Nhƣ các bộ giảm sóc cao su có thể đƣợc sử
dụng để ngăn sự sai lệch treo lớn giữa hai rô-to của cánh quạt là một ví dụ khác.
Các lò xo có thể có rất nhiều dạng khác nhau và đƣợc làm từ nhiều vật liệu khác nhau. Loại vật liệu
phổ biến nhất để làm lò xo là cuộn thép đàn hồi, có hình dạng lõi xoắn. Các lò xo có thể đƣợc thiết kế
trong các ứng dụng có độ nén, độ căng và độ xoắn.
15
Hình 6.4: Bộ tiếp hợp đĩa đơn giản
Hai loại phanh thông dụng đƣợc sử dụng trong tua bin gió là phanh đĩa và phanh tiếp hợp. Cả hai
chúng đều đƣợc phân tích giống cách thức của các bộ tiếp hợp. Sự khác nhau chính giữa chúng là nhiệt là
yếu tố đƣợc xem xét là quan trọng hơn đối với phanh hơn là đối với bộ tiếp hợp. Phanh đĩa đƣợc sử dụng
nối với các đĩa tƣơng đối nhỏ. Áp suất đƣợc áp dụng cho các đệm phanh ở mặt khác của đĩa ( để cân bằng
tải đƣợc ứng dụng) . Đĩa thƣờng rỗng để làm mát
16
Hình 6.5: Hình vẽ cắt trích của bạc đạn dài ( Công ty Torrington, http://
howstuffworks.lycos.com/bearing.htm,2000)
Các loại bạc đạn khác cũng có những ứng dụng trong việc thiết kế tua bin gió. Hai ví dụ là bạc lót
dạng ống và bạc lót áp lực đƣợc sử dụng trong cơ chế treo của tua bin gió 2 cánh quạt.
Nói chung, vấn đề cần xem xét quan trọng nhất trong việc thiết kế bạc lót là tải mà nó đi qua và số
vòng quay đƣợc mong đợi. Thông tin chi tiết về tất cả bạc lót có thể đƣợc tìm thấy trong bảng dữ liệu của
nhà sản xuất.
17
Các bánh răng có thể đƣợc làm từ rất nhiều loại nguyên liệu nhƣng nguyên liệu phổ biến nhất trong
bánh răng tua bin gió là từ thép. Độ bền lớn và độ cứng bề mặt trong răng bánh răng bằng thép thƣờng đạt
đƣợc bởi chế hòa khí và các dạng xử lý nhiệt khác.
Các bánh răng có thể kết hợp với nhau trong các tàu hỏa có bánh răng. Các tàu hỏa có bánh răng
điển hình sử dụng các ứng dụng của tua bin gió đƣợc thảo luận trong hình 6.7.
18
Khe hở
n1 / n2 = d2 / d1 (6.5.1)
Khi bánh răng quay, các răng riêng lẻ sẽ đƣợc lệnh là tải hay và không tải. Ít nhất một cặp răng luôn
luôn liên kết với nhau nhƣng vào một thời gian cụ thể, nhiều hơn một cặp dƣờng nhƣ là cũng liên kết với
nhau. Ví dụ, một cặp có thể không tải trong khi cặp khác chiếm một phần tải lớn hơn.
Ứng suất cong, σb trên một răng của bánh răng với chiều rộng là b và chiều cao là h đƣợc tính bởi
công thức tính độ cong cho một cánh dầm:
6M
b (6.5.3)
bh 2
Mo men, M, đƣợc dựa trên tải Fb ( liên quan mật thiết tới Ft) đƣợc áp dụng ở khoảng cách L tới
điểm yếu nhất trên răng. Kết quả là:
19
Fb 6 L
b (6.5.4)
bh 2
Hệ số h2 / 6L là tính chất của kích thƣớc và hình dạng của bánh răng và thƣờng đƣợc diễn đạt theo
đƣờng kính của bƣớc răng khi hệ số hình dạng ( hay hệ số Lewis) y = h2 / 6pL. Trong trƣờng hợp này,
công thức 6.5.4 có thể đƣợc diễn đạt nhƣ sau:
Fb
b (6.5.5)
ypb
Hệ số hình dạng có sẵn trong bảng cho một số răng và góc áp suất hay dùng phổ biến. Giá trị tiêu
biểu cho bánh răng thẳng là từ 0.056 cho 10 răng / bánh răng tới 0.170 cho 300 răng / bánh răng.
b E1E2
kg (6.5.6)
9 E1 E2
Tác động động học và sự hao mòn là rất quan trong trong việc thiết kế các bánh răng cho hộp số của
tua bin gió. Tuy nhiên, có nhiều thảo luận nằm ngoài phạm vi của cuốn sách này. Thông tin về sự hao
mòn răng của bánh răng nói chung có thể đƣợc tìm thấy trong Spotts (1985) và Shigley và Mischke
(1989). Sự hao mòn của răng ở bánh răng trong hộp số của tua bin gió đƣợc thảo luận trong McNiff
(1990)
20
6.5.8 Dây cáp
Dây cáp đƣợc cấu tạo bởi một số dây kết nối vơi nhau trong một vòng dây. Tùy thuộc vào kích cỡ,
một số dây có thể đƣợc bện thành các bó và sau đó các bó này đƣợc bện với nhau quanh lõi ở trung tâm.
Dây cáp đƣợc sử dụng để giữ các tháp của tua bin gió hoặc cột khí tƣợng . Nó cũng đƣợc sử dụng với hệ
thống lắp ráp tua bin.
Dây cáp linh hoạt nhƣ đƣợc sử dụng trong việc nâng tải có tƣơng đối lớn một số dây có đƣờng kính
nhỏ. Khi dây cáp đƣợc sử dụng để nâng đỡ, nó thƣờng đƣợc kết hợp với puli để thay đổi hƣớng. Những
hƣớng này làm thay đổi đƣờng cong chạm trổ mà làm cho các dây mỏi. Độ mỏi rất cần đƣợc xem xét
trong việc chọn dây cáp cho các ứng dụng đó. Dây cáp sử dụng trong việc chằng nói chung có một số dây
có đƣờng kính lớn hơn. Nó không sử dụng với puli.
Mối quan tâm chính để chọn dây cáp là ứng suất kéo, σt , lực ở trong dây, T đƣợc chia bởi thiết diện
ngang, Ac:
σt = T / Ac (6.5.7)
t bp (6.5.8)
trong đó bp ứng suất làm gãy vật liệu và a hệ số an toàn a. Ứng suất làm gãy cho dây
cáp bằng thép là giữa 1.10 và 1.38 × 10 9 N/m2.
Kích thƣớc của pu li đƣợc sử dụng với dây cáp là yếu tố rất quan trọng cần xem xét. Đƣờng kính tối
thiểu của puli sẽ là từ 20 tới 40 lần đƣờng kính của dây tùy thuộc vào loại dây.
21
Các bộ phận của tua bin gió đƣợc thiết kế cho 2 loại tải : (1) tải cuối cùng và (2) tải độ mỏi. Các tải
cuối cùng đề cập tới các tải tối đa có hệ số an toàn gấp đôi. Các tải chịu độ mỏi có khả năng chống chịu
đƣợc một số chu trình có độ lớn biến thiên. Các tải tua bin gió đƣợc xem xét theo 5 tiêu chí:
Wind shear
Yaw error Lực chu kỳ
Yaw motion
Gravity
Lực động
Nhiễu động
Gusts
Starting Lực chuyển tiếp
Stopping
Pitch motion
Teeter
Hiện tƣợng tải trọng cảm ứng cộng hƣởng xuất hiện khi một phần nào đó của cấu trúc này chịu sự
kích thích ở một trong số các tần số riêng của nó. Do đó, kĩ sƣ thiết kế phải cố gắng tránh để điều này xảy
ra và tìm cách giải quyết sự chuyển động không đều mà chắc chắn sẽ kích thích một phản ứng cộng
hƣởng nào đó.
Tải trọng cố định và tải trọng tuần hoàn đã đƣợc xem xét một cách chi tiết trong chƣơng 4. Gió sẽ
đƣợc bàn tới trong phần 6.6.2. Các tải để khởi động và ngừng hoạt động đóng vai trò vô cùng quan trọng,
nhƣ đƣợc minh họa trong hình 6.10. Việc mô tả chi tiết về tải trọng ngắn hạn cố định không nằm trong
phạm vi của văn bản này. Tuy nhiên, những thông tin về tải trọng ngắn hạn cố định trong hệ thống truyền
động xe lửa có thể xuất hiện trong nghiên cứu của Manwell (1996). Phần tiếp theo sẽ cung cấp một vài
thông tin về tải trọng cảm ứng cộng hƣởng.
22
Ngừng trục
tốc độ cao
Triển khai
các đầu
cánh trên
không
Độ xoắn của trục , kNm
Vận hành
bình thường
Hình 6.10: Ví dụ về tải trọng hệ thống truyền động xe lửa trong lúc dừng
23
Quạt rô-to / độ cong
cột tháp
Độ trệch vỏ động cơ
Hướng vuông góc với
cánh đầu tiên của quạt/
góc nghiêng thân tuabin
Lực cột tháp và độ
cong đuôi
Độ cong mặt bên tháp
Tần số Hz
Hình 6. 11: ví dụ về sơ đồ Cambpell của tua bin gió; P, trên vòng (Eggleston và Stoddard, 1987),
được tái bản với sự cấp phép của nhà xuất bản Hàn Lâm Kluwer.
Loại I II III IV
Chuyển động không đều ở mức cao hơn hay thấp hơn của tất cả các loại đều đƣợc đặc trƣng bởi
cƣờng độ chuyển động không đều tƣơng ứng ở mức 15 m/s trong tổng 0.18 và 0.16. các loại chuyển
động không đều có thể đƣợc định nghĩa cụ thể hơn bằng một tham số a đƣợc sử dụng cùng với cƣờng độ
chuyển động không đều nhằm cụ thể việc phân chia chuẩn của tốc độ gió. Đối với loại chuyển động
không đều cao hơn a= 2, và chuyển động không đều thấp hơn a = 3. Cách sử dụng tham số a sẽ đƣợc định
nghĩa cụ thể dƣới đây, dƣới tiêu đề “mô hình chuyển động không đều thông thƣờng”.
Các điều kiện gió thông thường Trong điều kiện thông thƣờng, tần số của việc xảy ra sự cố tốc
độ gió đƣợc mô tả bởi phân bố Rayleigh (xem mục 2.4.3 chƣơng 2).
Biên dạng gió thông thường (NWP): Biến dạng gió, U(z) là sự biến đổi tố độ của gió với độ cao
Z cao trên mặt đất. Để đạt đƣợc yêu cầu IEC, sự thay đổi của tốc độ gió cùng với độ cao phải tuân theo
mô hình luật điện năng (xem mục 2.3.3 chƣơng 2) với số mũ là 0,2. Đó chính là biên dạng gió thông
thƣờng (NWP).
Mô hình biến đổi chuyển động thông thường (NTM): Sự phân chia chuyển động không đều theo
tiêu chuẩn theo hƣớng gió bình quân Ơx đƣợc cho bởi công thức.
Trong đó I15 = cƣờng độ chuyển động biến đổi ở 15 m/s, a= tham số chuyển động biến đổi và
Uhub = tốc độ gió ở độ cao của trục.
Mật độ phổ của điện năng của chuyển động không đều có thể đƣợc mô hình với quang phổ
Karman (xem mục 2.3.2 chƣơng 2) hoặc quang phổ Kaimal (Fordham, 1985).
Điều kiện gió đặc biệt
Có 5 điều kiện gió đặc biệt đƣợc sử dụng để quyết định tải trọng đặc biệt theo tiêu chuẩn IEC: (1)
tốc độ gió đặc biệt (EWM), (2) cơn gió khác thƣờng (EOG), gió đặc biệt có sự thay đổi trong hƣớng gió
(ECD), (5) sự dịch chuyển của gió đặc biệt (EWS).
25
Tốc độ gió đặc biệt (EWM) tốc độ gió đặc biệt là là loại gió có tốc độ cao và ổn định có thể xảy ra,
nhƣng rất hiếm. Hai tốc độ gió đƣợc định nghĩa theo tần số mà chúng sẽ lặp lại: gió đặc biệt lặp lại trong
vòng 50 năm (Ue50) gió đặc biệt lặp lại trong vòng 1 năm (U e1). Chúng đƣợc dựa trên loại gió chuẩn (xem
bảng 6.1). Chúng đều dựa trên mức gió chuẩn (xem bảng 6.1). gió lặp lại trong vòng 50 năm thƣờng có
chu kì cao hơn so với gió chuẩn 40 %, trong khi đó, gió lặp lại trong vòng 1 năm lại cao hơn mức gió
chuẩn 30 %
Cơn gió khác thường (EOG): cơn gió hoạt động đặc biệt có tốc độ tăng nhanh sau đó giảm. loại
gió này thƣờng xảy ra trong thời gian ngắn trong lúc tua bin đang vận hành. Độ lớn của loại gió hoạt động
lặp lại trong vòng 50 năm (Ugust 50) đƣợc giả định là gấp 6.4 lần so với độ chia chuẩn. loại gió này sẽ tăng
hoặc giảm tốc độ trong khoảng thời gian là 14 giây. Ví dụ minh họa cho loại gió hoạt động đặc biệt đƣợc
thể hiện ở hình 6.12.
Tốc độ gió, m/s
Thay đổi hướng đặc biệt (EDC) những thay đổi về hƣớng đƣợc định nghĩa theo cách tƣơng tự với
loại gió đặc biệt. trong một ví dụ điển hình, hƣớng gió có thể thay đổi thêm 60 0 trong khoảng thời gian là
6 giây.
Gió kết hợp đặc biệt (ECG) gió kết hợp đặc biệt có tốc độ tăng nhanh khi qua rô-to. Loại gió kết
hợp đặc biệt IEC đƣợc thừa nhận là có biên độ 15 m/s và đƣợc kết hợp với gió bình quân. Gió sẽ tăng theo
hình sin tới một mức mới nào đó trong khoảng thời gian là 10 giây.
Gió đặc biệt có sự thay đổi trong hướng gió (ECD). Đối với loại gió có sự thay đổi đặc biệt trong
hƣớng gió, tốc độ của gió đƣợc thừa nhận là tăng cùng lúc với sự thay đổi của hƣớng gió. Chi tiết đƣợc
cung cấp trong chuẩn IEC.
Sự dịch chuyển của gió đặc biệt (EWS): hai điều kiện điều chỉnh hƣớng gió đặc biệt trong khoảng
thời gian ngắn ngủi cũng đƣợc định nghĩa: một là gió dịch chuyển theo phƣơng thẳng đứng và một là gió
dịch chuyển theo phƣơng nằm ngang. Sự dịch chuyển hƣớng gió ngắn ngủi này có thể nhiều hơn so với
điều kiện thông thƣờng đã đƣợc mô tả ở trên.
Chuyển động không đều mẫu quay: Tốc độ gió mẫu quay thông thƣờng đƣợc tổng hợp bằng cách
áp dụng sự chuyển đổi Fourier ngƣợc thành mật độ phổ điện năng, thông qua kĩ thuật Shinozuka
(Shinozuka và Jan, 1972) nhằm tạo ra một loạt các khoảng thời gian ngẫu nhiên bất kì. Sau đó, một mô
hình mật độ phổ dọc sẽ đƣợc sử dụng nhằm tính toán lƣợng gió mà cánh quạt tạo ra khi nó quay bằng
chuyển động không đều. Quá trình này đƣợc mô tả trong Veer (1984). Một phƣơng pháp có phần đơn giản
hơn nhiều đƣợc đƣa ra trong Stiesdal (1990). Tuy nhiên, trong nhiều trƣờng hợp, một mô hình đơn giản
nhƣng có tính quyết định đƣợc sử dụng nhằm tạo ra sự kích thích đối với đầu vào chuyển động quay
không đều mẫu.
26
Đặc biệt, phƣơng pháp này có thể áp dụng đối với loại tua bin gió tƣơng đối vững chắc đến mức dao
động không thể tạo ra đƣợc nhờ chuyển động không đều. Chuẩn IEC sẽ cung cấp thêm thông tin chi tiết
về phƣơng pháp này.
Một mẫu dữ liệu sử dụng trong mô hình này đƣợc trình bày trong hình 6.13. Đối với trƣờng hợp
này, giá trị trung bình 15 m/s, cƣờng độ chuyển động không đều là 0.18, thang đo độ dài là 10 m, và
đƣờng kính là 25 m sẽ đƣợc sử dụng. Tốc độ quay là 0.25 vòng quay/ giây.
Chỉ có chuyển hướng gió đột ngột Chuyển động quay không đều và
chuyển động của gió
Tốc độ gió m/s
27
Dừng hoạt động “dừng hoạt động” bao gồm trƣờng hợp gió hoạt động đặc biệt lặp lại trong vòng
1 năm do điều kiện gió thông thƣờng hoặc điều kiện gió đặc biệt dẫn tới việc dừng nhiều do độ mỏi.
Tắt máy trong trường hợp khẩn cấp tắt trong trƣờng hợp khẩn cấp bao gồm bao gồm một
trƣờng hợp của gió thông thƣờng. Các điều kiện gió đặc biệt hơn có thể dự đoán đƣợc không đƣợc nghiên
cứu ở đây vì sự cố tắt trong trƣờng hợp khẩn cấp là trọng tâm đang đƣợc đánh giá ở đây.
Trường hợp được đỗ lại trƣờng hợp đƣợc đỗ lại cần phải xem xét tới tốc độ gió đặc biệt mức
thất thoát do nối điện (để đảm bảo rằng máy sẽ không khởi động) và chuyển động không đều thông
thƣờng do độ mỏi. cần lƣu ý rằng trƣờng hợp đƣợc đỗ lại bao gồm cả không hoạt động và sự không tải.
Được đỗ lại kết hợp với lỗi trƣờng hợp đƣợc đỗ lại kết hợp với lỗi quan tâm tới tốc độ của gió
đặc biệt cùng với những lỗi có thể xảy ra ( chứ không phải sự thất thoát do nối điện).
Vận chuyển, cài đặt,bảo trì và sửa chữa trƣờng hợp thứ 8 này sẽ đƣợc nhà sản xuất ghi rõ.
Các trƣờng hợp thiết kế tải cố định đƣợc sử dụng nhằm đƣa ra lời chỉ dẫn về sự phân tích các
thành phần quan trọng để bảo đảm rằng chúng đã có đủ
Để phục vụ cho mục đích tính toán cuối cùng, bốn loại phân tích đƣợc sử dụng là:
1. Độ bền cực đại
2. Hết độ mỏi
3. Phân tích độ ổn định ( ví dụ: sự tăng thể tích)
4. Độ lệch ( ví dụ: ngăn không cho cánh quạt chạm vào tháp)
Về cơ bản, việc phân tích đầu tiên bao gồm việc tính toán tải dự tính trong các điều kiện gió vận
hành khác nhau. Từ trọng tải và kích cỡ của các thành phần, ứng suất tối đa (hoặc độ lệch) sẽ đƣợc phát
hiện. Sau đó, ứng suất đó (hoặc độ lệch) sẽ đƣợc so sánh với ứng suất thiết kế (hoặc độ lệch cho phép) của
vật liệu từ các thành phần cấu thành nên nó để chắc chắn rằng ứng suất này là đủ nhỏ.
Tính toán trọng tải có thể là một quá trình vô cùng phức tạp. Các tác động ảnh hƣởng đến tải đã
đƣợc bàn đến trong chƣơng 4. Việc dự đoán một cách chính xác tải bao gồm việc sử dụng mô phỏng máy
tính chi tiết, tuy nhiên, việc phân tích này là tốt nhất nếu nhƣ thiết kế ban đầu đã hoàn thiện. Những
phƣơng pháp đơn giản hóa của chƣơng 4 có thể đƣợc sử dụng để dự đoán khuynh hƣớng . Tuy nhiên,
những phƣơng pháp này quá chung chung đến mức khó có thể đƣa ra đƣợc tính toán chính xác về tải. tuy
nhiên, các phƣơng pháp này có thể đƣợc sử dụng trong những khâu thiết kế ban đầu để định cỡ thô các
thành phần. việc tính toán sử dụng phƣơng pháp đơn giản có thể đƣợc cải thiện nếu nhƣ các dữ liệu đã có
sẵn trên các máy tƣơng tự nhƣ vậy mà nhờ chúng, tính chính xác của dự toán có thể kiểm định đƣợc. khi
có các dữ liệu nhƣ vậy, phƣơng pháp có quy mô sẽ đƣợc nêu rõ ở mục 6.6.3 dƣớci đây có thể làm cho
việc kiểm định trở nên dễ dàng.
n S (F ) R( f ) (6.6.2)
Fd f Fk (6.6.3)
Giá trị thiết kế của vật liệu có thể đƣợc chỉ ra từ giá trị đặc tính của vật liệu, fk bằng cách áp dụng yếu tố
thiên về độ an toàn của vật liệu φm:
fd (1/ m ) fk (6.6.4)
Đặc trƣng của các yếu tố thiên về độ an toàn là giá trị của chúng lớn hơn 1.0. thông thƣờng các
yếu tố thiên về an toàn của tải có giá trị trong khoảng 1.0 đến 1.5. các yếu tố thiên về độ an toàn vật liệu
có giá trị thấp nhất là 1.1, còn những yếu tố thiên về độ an toàn về hệ quả của hỏng hóc tƣơng đƣơng giá
trị thấp nhất là 1.0. thông tin chi tiết có thể xem thêm trong cuốn Bakker (1996). Các yếu tố thiên về độ an
toàn của vật liệu có thể tìm thấy ở nhiều nguồn tài liệu khác.
Lƣợng công suất, lực và Ký hiệu Mối liên quan Sự phụ thuộc tỷ lệ
momen
Công suất P P1 / P2 ( R1 / R2 )2 ~ R2
Momen xoắn Q Q1 / Q2 ( R1 / R2 )3 ~ R3
Trọng lƣợng W W1 / W2 ( R1 / R2 )3 ~ R3
Trọng trƣờng g g ,1 / g ,2 ( R1 / R2 )1 ~ R1
29
Khí động học A A,1 / A,2 ( R1 / R2 )0 ~ R0
Độ cộng hƣởng
M g Wrcg (6.6.5)
Ứng suất tối đa do trọng lực, σg, ở hƣớng cạnh đuôi cánh quạt hình chữ nhật ( ở đây với I =t3c/12).
Ta có:
Vì độ chia cân nặng là R3 và những hệ số chiều khác nhƣ R , ứng suất do cân nặng cũng đƣợc biết
là R. Mối quan hệ chung giữa chúng là:
g ,1 / g ,2 ( R1 / R2 )1 (6.6.7)
Ứng suất do lưc li tâm Ứng suất do lực li tâm không thay đổi bởi các độ chia. Điều này có thể
đƣợc minh họa sau đây. Ứng suất căng là σc do lực li tâm Fc gây ra, diện tích mặt cắt ngang áp dụng Ac
đƣợc cho bởi công thức:
c Fc / Ac (6.6.8)
( R)i2 EI
n,i ~ (6.6.11)
R2
~
Trong đó E là modun của độ co giãn, I là momen tĩnh của lực quán tính, là khối lƣợng trên
đơn vị độ dài, và ( R)i2 là các hằng số nhƣ ( R)i2 = ( 3.52, 22.4, 61.7,…).
~
Ví dụ, I = ct3/12 và b ct ( trong đó b = mật độ khối lƣợng của cánh quạt). Trong trƣờng hợp
này ta có:
31
( R)i2 Ect 3 ( R)i2 E
n t (6.6.12)
R 2
12 b ct R 2
12 b
Độ dày cánh quạt tỷ lệ thuận với bán kính. Do đó, rõ ràng là n ~ R 1 .Nói chung, mối quan hệ
giữa tần số riêng giữa 2 cánh quạt (1 và2) là:
Vì vận tốc quay của rô-to cũng giảm cùng với bán kính, nên xu hƣớng của rô-to kích thích điều
kiện cộng hƣởng đặc biệt không phụ thuộc vào bán kính.
Cần nhấn mạnh ở đây rằng mối liên hệ độ chia chỉ là những hƣớng dẫn hữu ích, và không thể đƣợc
áp dụng để đƣa ra những dự đoán chính xác. Những yếu tố khác, nhƣ sự phát triển kĩ thuật, cũng có thể
thay đổi kết quả. Ví dụ, sự phát triển gần đây của những loại máy móc lớn chỉ ra rằng sự tăng lên về khối
lƣợng tại thời điểm nào đó là điều xảy ra ít hơn dự đoán về “ quy luật bình phƣơng khối” ( quy luật về
công suất và diện tích và bán kính). Điều này sẽ đƣợc thảo luận kĩ hơn trong Jamieson (1997).
6.7.1 Rô-to
Rô-to là bộ phận quan trọng nhất trong nhóm các bộ phận. Những kiểu máy khác có thêm bộ
truyền động, hệ thống phanh, và tháp, nhƣng duy nhất tua bin gió có các rô-to đƣợc thiết kế với mục đích
tách công suất đáng kể từ gió và chuyển nó thành chuyển động quay. Nhƣ đã đƣợc thảo luận, rô-to trong
tua bin gió gần nhƣ là quan trọng nhất trong đó và chúng sẽ hoạt động trong điều kiện bao gồm điều kiện
tĩnh cũng nhƣ là trọng tải thay đổi định kì và một cách ngẫu nhiên.
Những tải biến thiên này xảy ra trên rất nhiều chu trình, vì thế độ mỏi là một điều ta cần quan tâm
đặc biệt. Các nhà thiết kế phải cố gắng giữ ứng suất theo chu kì càng thấp càng tốt, và để sử dụng những
vật liệu có thê chịu đựng những ứng suất này càng lâu càng tốt. Rô-to cũng đƣợc coi là một máy phát điện
có ứng suất đổi dấu cho sự nghỉ của tua bin, đặc biệt là thanh truyền.
Ba phần tiếp theo sẽ tập trung vào những chủ đề này là những bộ phận chính trong rô-to:
(1) Các cánh quạt, (2) khu vực kiểm soát động lực học, và (3) moay-ơ.
32
nghĩa là bản thân chi phí của tua bin cần thấp, tuy nhiên quá trình hoạt động va chi phí bảo dƣỡng càng
thấp càng tốt.
Hình dáng cơ bản và các chiều của cánh quạt đƣợc quyết định chủ yếu bởi hình dáng tổng thể của
tua bin ( nhƣ đã thảo luận trong phần 6.3) và sự xem xét về khí động học mà đã đƣợc thảo luận trong
chƣơng 3. Chi tiết về hình dáng, đặc biệt là gần đuôi cánh cũng bị ảnh hƣởng bởi sự xem xét về cấu trúc.
Ví dụ, những tua bin gió thực sự khác xa so với hình dáng tối ƣu, bởi vì chi phí sản xuất cánh quạt trái lại
quá cao. Hình 6.14 minh họa những lựa chọn bệ máy đặc trƣng. Các đặc điểm về vật liệu và các phƣơng
pháp sản xuất có sẵn cũng đăc biệt quan trọng trong việc quyết định hình dáng chính xác của các cánh
quạt.
Thiết kế khí động học Các yếu tố khí động học chính ảnh hƣởng đến thiết kế cánh quạt là:
Công suất danh nghĩa thiết kế và vận tốc gió danh nghĩa
Thiết kế tỷ lệ vận tốc đầu cánh
Độ cứng
Biến dạng cánh
Số lƣợng cánh quạt
Bộ điều khiển công suất rô-to ( trạng thái thất tốc hay bƣớc thay đổi)
Hƣớng rô-to ( tháp ngƣợc gió hay xuôi gió)
a- Gần tối ưu
b- Độ côn tuyến tính
c- Dải cánh cố định
Hình 6.14: Lựa chọn lựa chọn bệ máy cánh quạt (Gasch, 1996). Dưới sự cho phép của B.
G.Teubner GmbH.
Kích thƣớc tổng thể của diện tích rô-to bị quét, và vì thế chiều dài của cánh quạt, liên quan trực
tiếp đến thiết kế công suất định danh và vận tốc gió định danh. Những đại lƣợng khác bằng nhau, có tỷ lệ
vận tốc đầu cánh cao là một lợi thế lớn, điều này lần lƣợt sẽ tạo nên diện tích cánh quạt tổng thể ít hơn.
Điều này cũng lần lƣợt tạo nên những cánh quạt có khối lƣợng nhẹ hơn, và giá hợp lí hơn. Vận tốc quay
cao hơn đi kèm cũng là một ƣu điểm của thanh truyền. Mặt khác, tỷ lệ vận tốc đầu cánh cao sẽ gây ra
tiếng ồn khí động học từ tua bin. Bởi vì cánh quạt nhẹ hơn, ứng suất ngƣợc có xu hƣớng cao hơn. Những
cánh quạt mỏng cũng linh hoạt hơn. Điều này đôi khi có thể là ƣu điểm nhƣng cánh quạt mỏng hơn cũng
có thể phải chịu vấn đề về độ rung, sự lệch lớn có thể gây ra những ảnh hƣởng không có lợi cho tháp -
cánh quạt. Tỷ lệ vận tốc đầu cánh có ảnh hƣởng trực tiếp đến dây cung và sự phân phối độ xoắn của cánh
quạt.
33
Khi thiết kế tỷ lệ vận tốc đầu cánh tăng lên, sự lựa chon biến dạng cánh phù hợp trở nên cực kì
quan trọng. Đặc biệt việc giữ tỷ lệ lực kéo vanang cao là điều rất cần thiết nếu rô-to phải có hệ số công
suất cao. Cũng cần lƣu ý rằng hệ số nâng sẽ ảnh hƣởng đến độ cứng của rô-to và vì thế ảnh hƣởng đến cả
dây cung của cánh quạt: hệ số nâng càng cao thì dây cung càng nhỏ. Thêm vào đó, việc lựa chọn biến
dạng cánh chịu ảnh hƣởng lớn bởi phƣơng pháp kiểm soát khí động học đƣợc áp dụng trên rô-to. Ví dụ,
biến dạng cánh phù hợp cho 1 rô-to chịu ảnh hƣởng của độ có thể không phù hợp cho tua bin chịu ảnh
hƣởng của trạng thái thất tốc. Một mối quan tâm ở đây là: những biến dạng cánh nhất định, đặc biệt ở trên
các tua bin chịu ảnh hƣởng của trạng thái thất tốc, là hoàn toàn dễ bị ảnh hƣởng bởi sự tích tụ bẩn (chẳng
hạn do sự tích lũy các loại côn trùng trên mép trƣớc). Điều này có thể gây ra sự giảm tƣơng đối lớn trong
việc sản xuất năng lƣợng.
Việc lựa chọn biến dạng cánh có thể đƣợc tiến hành với sự hỗ trợ của các dữ liệu nhƣ các dữ liệu
đã đƣợc nghiên cứu bởi Selig (1998.)
Các cánh của tua bin gió thông thƣờng không chỉ có 1 hình dạng biến dạng cánh theo độ dài tổng
thể. Ví dụ xem trong hình 6.15. Phổ biến hơn, (tuy nhiên không hoàn toàn phổ biến) những biến dạng
cánh này đều thuộc cùng loại, nhƣng độ dày tƣơng đối thay đổi. Những biến dạng cánh gần với đuôi cánh
tạo ra lực lớn hơn, và có thể điều này không xảy ra nếu không làm giảm hoạt động tổng thể của cánh quạt.
Diện tích vòng tròn quét của cánh quạt hay chiều dài của các cánh quạt có quan hệ trực tiếp tới điện
năng và tốc độ gió theo thiết kế. Một yếu tố khác cũng quan trọng không kém là việc thiết kế tỉ số gió cao
nhất. Tỉ số gió cao sẽ khiến cho độ cứng cánh quạt thấp và dẫn đến tổng diện tích quét của chúng bị giảm.
Việc kết hợp tốc độ quay tròn cao hơn cũng có lợi cho các phần khác của bộ phận chuyển động. Mặt khác, các
tỉ số tốc độ cao sẽ dẫn tới phát sinh nhiều tiếng ồn hơn từ Tua bin. Do các cánh quạt mỏng hơn nên áp ứng
xuất giữa các cánh sẽ lớn hơn. Các cánh mỏng hơn cũng sẽ khiến nó linh hoạt hơn. Dù điều này có thể là ƣu
điểm, nhƣng đôi khi cũng dễ làm trêch hƣớng, và khi góc chệch quá lớn sẽ dẫn đến những ảnh hƣởng đến
tháp. Tỉ số tốc độ tối đa ở cánh quạt có ảnh hƣởng trực tiếp lên dải cánh và phân bố lực theo chiều xoắn của
cánh quạt.
Hình 6.15: Các tiết diện của cánh với các bán kính khác nhau (lấy từ Gasch. 1996). Dưới sự cho
phép của B. G. Teubner GmbH
Với các kỹ thuật chế tạo ngày nay, thì việc chúng ta dễ dàng sản xuất đƣợc các loại cánh nhƣ mong
muốn. Điều này chủ yếu là do các chi phí cố định trong chế tạo cánh. Bên cạnh đó, khi lắp nhiều cánh hơn (độ
34
bền lắp cánh không đổi) thì chúng cũng sẽ có độ cứng giảm đi và tăng ứng suất xuống đế. Tại thời điểm hiện
tại, tất cả các loại tua bin gió trên thị trƣờng đều có hai hoặc ba cánh quạt và trong phần này đề cập đến các
loại này. Các tua bin gió hai cánh quạt trƣớc đây có độ bền thấp hơn các loại ba cánh. Hai cánh có nghĩa chi
phí cho sản xuất cánh giảm và đó cũng là một ƣu điểm của loại hai cánh quạt so với loại ba cánh.
Phƣơng pháp kiểm soát điện sinh ra (tốc độ tĩnh hoặc thay đổi) cũng ảnh hƣởng đáng kể đến thiết kế
các cánh quạt, đặc biệt là việc lựa chọn hình dạng cánh. Một tua bin kiểm soát dòng điện theo vận tốc phụ
thuộc độ nâng mất đi cùng với vận tốc để giảm dòng sinh ra quá cao khi gió to. Một điều quan trọng khác là
các cánh quạt phải có các đặc tính vận tốc tốt. Chúng phải tăng tốc dần dần khi tốc độ gió tăng, và không bị
ảnh hƣởng bởi các hiệu ứng gió tức thời ví dụ hiệu ứng do sự thay đổi vận tốc. Trong các tua bin điều khiển
chƣơng động thì các đặc tính vận tốc gió thì ít quan trọng hơn. Tuy nhiên, cần biết rằng hoạt động của các
cánh quạt cần phải đƣợc kiểm chứng khi gió to. Ngoài ra, các cánh quạt có thể có một trong hai đặc tính đó là
hoặc giảm hoặc tăng góc tới của gió.
Định hƣớng rô-to đối với hƣớng của cột tháp cũng có một số ảnh hƣởng đến hình dạng ngoài của cánh
quạt, nhƣng chủ yếu là ảnh hƣởng đến góc vênh lên của các cánh quạt. Góc vênh lên này là độ lệch hƣớng lên
trên của các cánh quạt khỏi mặt phẳng quay xác định theo chân cánh quạt. Nhƣ đề cập ở phần trƣớc, hầu hết
các tua bin gió hƣớng xuống hoạt động với các độ lệch tự do. Các cánh quạt phải võng xuống dƣới theo mặt
phẳng quay để các Rô-to có thể thu đƣợc gió và duy trì độ ổn định của góc lệch. Một số Rô-to gió hƣớng lên
trên cũng có các cánh quạt lệch lên trên, trong trƣờng hợp này nhằm mục đích giữ cho các cánh quạt khỏi va
vào tháp.
Thiết kế cánh quạt liên quan tới một số bƣớc lặp lại để đáp ứng chính xác các yêu cầu về khí động lực
học và cấu trúc. Trong mỗi bƣớc lặp lại, một thiết lế thử đƣợc phát triển và phân tích. Có một cách tiếp cận để
giải quyết quá trình này đƣợc biết tới nhƣ là phƣơng pháp thiết kế đảo ngƣợc đƣợc phát triển bởi Selig and
Tangier (1995). Phƣơng pháp này dùng một hệ thống mật mã máy tính (PROPID) để đƣa ra những thiết kế
phù hợp với một số tiêu chuẩn nhất định. Ví dụ, nhƣ đã đề cập ở chƣơng 3, nó có thể mô tả đƣa ra các chi tiết
về các chiều, các hình dạng cánh, mức điện cao nhất và hệ số đẩy cánh dọc theo chiều dài cánh và sau đó dùng
một hệ thống mật mã để quyết định hình dạng dải cánh và độ phân bố dòng gió xoáy của cánh quạt.
Thiết kế cấu trúc Bên cạnh dòng tải gió mà các cánh của tua bin phải chịu thì chúng ta phải xem xét
chủ yếu các tiêu chí là: (1) các vật liệu làm cánh, (2)các lựa chọn chế tạo. Một điều đáng quan tâm khác là việc
gắn cánh quạt vào đế cánh.
Trƣớc đây, các cánh quạt của tua bin gió làm từ gỗ đôi khi đƣợc bọc bên ngoài. Cho đến giữa thế kỷ
này, ngƣời ta đã làm các cánh quạt bằng thép để hoạt động trong điều kiện gió mạnh hơn. Ví dụ nhƣ các thiết
kế tua bin Smith-Putnam 1250 kW (1940s) và Gedser 200 kW tua bin (1950s).
Kể từ những năm 1970, hầu hết các cánh quạt cho tua bin gió có dạng trục ngang đƣợc làm từ vật liệu
tổng hợp. Các loại vật liệu tổng hợp phổ biến nhất ngày nay là sợi thủy tinh trong nhựa polyester, nhƣng đôi
khi các lớp nót bằng gỗ và vật liệu epoxi cũng đƣợc sử dụng rộng rãi. Các vật liệu tổng hợp thƣờng dùng cho
chế tạo cánh tua bin đƣợc mô tả chi tiết tỏng phần 6.
Một số loại tua bin có cánh quạt làm bằng nhôm. Nhôm là một lựa chọn phổ biến cho các tua bin trục
dọc. các cánh của chúng thƣờng có các dải và không xoáy sao cho có thể dễ dàng đƣợc tạo hình từ nhôm. Việc
tạo hình là quá trình mà vật liệu (ví dụ nhƣ nhôm) đƣợc thổi vào khuôn tạo hình để đạt đƣợc hình dạng mong
muốn. Các sanrphaamr đồng nhất về độ dài. Một số tua bin trục ngang cũng dùng các cánh bằng nhôm nhƣng
ngày nay các tua bin kiểu HAWT thì không dùng nhôm.
Chế tạo cánh quạt Khái niệm cơ bản trong việc chế tạo cánh quạt tua bin gió là tạo ra một cấu trúc
khỏe, nhẹ, có hình dạng ngoài phù hợp với thiết kế khí động học. Các hình dạng mong muốn cho các cánh
quạt của tua bin gió trục ngang là dạng phi tuyến tính. Tiết diện tại mỗi điểm có hình dạng lùa gió, vì thế
đƣờng bao của chúng có độ uốn cong nhất định. Bên cạnh đó, cánh quạt thƣờng thon dần và xoắn. Để có thể
tạo đƣợc hình dạng nhƣ vậy và có độ bền mong muốn thì phƣơng pháp thƣờng dùng là làm cánh quạt theo hai
phần là phần vỏ cánh và lõi cánh. Vỏ cánh cho hình dạng thu gió mong muốn trong khi lõi cánh đảm bảo độ
chắc chắn. Hình 6/16 minh họa tiết diện của một cánh bằng sợi thủy tinh thông thƣờng.
Bƣớc đầu tiên trong việc tạo cánh quạt là tạo phần lõi. Lõi có thể có nhiều hình dạng khác nhau nhƣng
mục dích là làm sao tạo ra đƣợc một bộ phận nhẹ nhƣng có thể chịu đƣợc các mô men tác động lên. Hình dạng
của lõi có thể là dạng lƣới, dạng hộp rỗng hay hình chữ D. trong trƣờng hợp nó có dạng lƣới hay hay hình hộp
35
rỗng thì phải đảm bảo rằng mặt ngoài của lõi lồng đƣợc vào vỏ ở cả đỉnh và đáy. Với lõi hình chữ D, vỏ cánh
quạt đƣợc gắn lên mặt trƣớc của lõi. Lõi bằng sợi thủy tinh thƣờng đƣợc đan bằng lớp sợi thủy tinh hoặc nhựa
lên một ruột khuôn, sau đó khuôn này sẽ đƣợc lấy ra.
Hình 6.16: Tiết diện của một cánh quạt bằng sợi thủy tinh thông thường (Peery and Weingart, 1980).
Nguồn từ American Institute of Aeronautics and Astronautics.
Lớp vỏ của một cánh GRP đƣợc làm bằng các lớp đan sợi thủy tinh và nhựa trong một khuôn. Trong
phƣơng pháp này, có hai phần chính cần khuôn đó là các bề mặt trên và dƣới của cánh. Khi hai nửa của cánh
đƣợc hoàn tất thì chúng sẽ đƣợc lấy ra khỏi khuôn. Sau đó chúng đƣợc gắn vào nhau và có khuôn bên trong.
Mời xem ví dụ của quá trình trong Hình 6.17
Hình 6.17: Lớp lót sợi thủy tinh cho khuôn tạo cánh tua bin. Nguồn của LM Glasfibre
Việc chế tạo các cánh quạt bằng vật liệu gỗ-epoxi đòi hỏi phải tuân theo một quy trình tƣơng tự. sự
khác biệt chủ yếu là các lớp gỗ đƣợc sử dụng làm nguyên liệu lót thay cho các sợi thủy tinh. Bên cạnh đó, độ
dày của lớp lót theo độ dày của cánh quạ thƣờng lớn hơn so với của loại cánh GRP, và thay vì dùng một lõi
hình hộp rỗng, thì một thang gỗ đƣợc sử dụng để tăng độ cứng.
Cần lƣu ý rằng khi sử dụng khuôn để chế tạo các loại cánh ở đây thì chúng ta có thể đạt đƣợc các bề
mặt mong muốn bao gồm các mặt lõm, thƣờng thấy trong một số thiết kế cánh quạt kiểu mới, ví dụ kiểu của
SERI (đƣợc minh họa trong Hình 6.19). Nhƣợc điểm khi làm theo cách này là việc thực hiện đòi hỏi nhiều lao
động thủ công sẽ khiến gia tăng chi phí và không đảm bảo đƣợc độ đồng đều của sản phẩm.
36
Gỗ bạch dương dán Lớp mạ bằng gỗ tùng
Gỗ dán
Mạng đan
Lỗ hình chữ D
Hình 6.18: minh họa tiết diện của một cánh quạt bằng vật liệu gỗ-epoxi thông thường (lấy từ Hau năm
1996). Tái sản xuất với sự cho phép của Springer Verlag GmbH
Hình 6.19: Sải cánh tua bin gió của Viện nghiên cứu năng lượng (SERI), kiểu sải cánh mỏng
(Theo National Research Council. 1991)
Một phƣơng pháp khác cho chế tạo cánh quạt gọi là phƣơng pháp “cuốn sợi”. Đây là một kỹ thuật cho
chế tạo các cánh quạt bằng sợi thủy tinh, nhƣng quá trình khác một chút so với phƣơng pháp dùng khuôn nhƣ
mô tả trên đây. Theo phƣơng pháp này, các sợi thủy tinh đƣợc cuốn quanh một khuôn đồng thời nhựa đƣợc đổ
vào. Phƣơng pháp này có nguồn gốc từ ngành hàng không vũ trụ và có thể đƣợc thực hiện tự động. Tuy nhiên,
việc tạo hình lõm bằng phƣơng pháp này là rất khó khăn.
Một phần quan trọng của cánh đó chính là chân cánh tức phần gần đế nhất. Chân cánh chỉu tải gió
nhiều nhất, và cũng là nơi kết nối cánh với đế cánh. Để giảm ứng suất thì chân cánh đƣợc chế tạo với độ dày
tƣơng ứng với độ dày chịu đƣợc gió. Việc gắn chân cánh và đế cánh là khá khó khăn do sự khác nhau về vật
liệu cấu tạo và độ cứng khác nhau giữa các cánh, giữa đế và các ốc vít. Tốc độ gió hay thay đổi cũng là một
vấn đề đáng quan tâm.
Một trong các thiết kế chân cánh có tên Hutter, đƣợc đặt theo tên của của ngƣời sang chế ngƣời Đức
có tên Ulrich Hutter. Theo phƣơng pháp này, các sợi thủy tinh đƣợc cuộn quanh một miếng đệm và vòng qua
một phần của cánh. Nhựa dẻo cố định các dải sợi và gờ chắn. Các cánh quạt đƣợc gắn lên đế cánh qua gờ và
đệm bằng bu lông. Nhƣ đã nói ở đây, thiết kế chân cánh theo kiểu này thƣờng đƣợc áp dụng cho các Rô-to
hoạt động trong điều kiện gió tĩnh. Phƣơng pháp này cũng có thể đƣợc thay đổi để phù hợp cho các Rô-to hoạt
động trong điều kiện gió thay đổi. Cánh chế tạo theo kiểu này đƣợc minh họa trong Hình 6.20.
37
Bó sợi thủy tinh
Bulong gờ
Hình 6.20: Chân cánh kiểu Hutter (Hau, 1996). Nguồn từ Springer Veriag GmbH
Chi tiết về các bản thiết kế gốc của Hutter đƣợc sử dụng rộng rãi trong những năm 1970 và 1980
đƣợc minh họa trong Hình 6.21. Trong sơ đồ minh họa một phần chân cánh quạt thì bề mặt thấp hơn của mặ
phẳng đế sẽ nằm gần đế nhất. Tấm đế và một vòng chịu áp lực tạo thành một cái kẹp mà bên trong đó là các bó
cuộn bằng sợi thủy tinh. (dạng sợi xoắn). Bó dây xoắn này bắt đầu từ chân cánh và quấn quanh ổ trục bằng
thép. Các bu lông xuyên qua tấm chịu lực, ổ trục và tấm đế để nối cánh với đế.
Hình 6.21: Sơ đồ chân cánh Hutter đã được thay đổi (National Research Council. 1991). Nguồn từ National
Academy of Science, được phép của the National Academy Press, Washington, D.C.
Sơ đồ Hutter sau khi thay đổi cũng có một số hạn chế nhƣ việc nó dễ bị mỏi. Các ứng suất vòng sinh ra
khi tua bin hoạt động sẽ làm loãng ma trận các hạt nhựa khiến cho sợi thủy tinh thay đổi vị trí và gây ra một số
lỗi.
Việc mất kết cấu ma trận cùng với một số chi tiết thiết kế khác là các nguyên nhân cơ bản gây ra
những sự cố. Việc kiểm tra thƣờng xuyên giúp giảm khả năng xảy ra sự cố. Một phƣơng pháp gắn cánh quạt
khác là dùng đinh vít và các miếng chèn có ren để gắn trực tiếp. Phƣơng pháp này, nhƣ minh họa ở Hình 6.22
nhằm lắp các cánh làm bằng gỗ-epoxi nhƣng cũng có thể áp dụng với cánh GRP.
38
Lớp vật liệu tổng hợp
Chốt trong lỗ có ren
Hình 6.22: Ốc bu lông chân cho cánh GRP (fiberglass reinforced plastic) của (National Research
Council, 1991). Nguồn từ National Academy of Science, dưới sự đồng ý của National Academy Press,
Washington, D.C.
Các cánh quạt cho tua bin gió trong điều kiện gió tĩnh thƣờng đƣợc siết chặt vào đế bằng bu lông hay
đai ốc ở xung quanh và vuông góc với đáy của chân cánh. Các bu lông và đai ốc phải chịu đƣợc lực gió truyền
từ cánh.
Việc chế tạo các chân cánh cho tua bin hoạt động trong điều kiện gió thay đổi sẽ khác so với cho tua
bin gió tĩnh. Đặc biệt là việc gắn chân cánh và đế phải cần có các bạc ổ trục để cánh có thể quay đƣợc. Các ổ
trục ổ trục này phải chịu đƣợc các mô men uốn và các lực cắt từ các phần còn lại của cánh. Bên cạnh đó, các
loại ổ trục ổ trục này phải chịu đƣợc lực ly tâm khi Rô-to quay.
Các phƣơng pháp gắn chân cánh trên đây là cho các tua bin loại trung bình và lớn. Các cánh quạt cho
tua bin nhỏ thƣờng phải dung các kỹ thuật khác. Một trong số các kỹ thuật đó là chân cánh đƣợc siết chặt và
các bu lông đƣợc lồng qua chân gắn vào một phần của đế. Các bu lông phải vuông góc với cả trục dài cũng
nhƣ sải cánh.
Các đặc tính của cánh Các đặc tính của cánh ví dụ nhƣ tổng khối lƣợng, độ cứng hay sự phân bố
khối lƣợng và sức ỳ của các mô men là cần thiết cho việc phân tích cơ cấu của Rô-to. Một số điều cần quan
tâm bao gồm độ bền của các cánh, xu hƣớng biên dạng theo tải, tần số dao động tự nhiên cũng nhƣ khả năng
chống mỏi. Những điều này đƣợc nhắc đến rong Chƣơng 4. Một số đặc tính của cánh quạt có thể khó đạt đƣợc
do cấu hình phức tạp của chúng mà khác nhau từ đỉnh xuống đáy. Phƣơng pháp thong thƣờng đƣợc sử dụng là
chia cánh thành các phần để phân tích các đặc tính khí động học. Chúng ta sẽ tìm đƣợc các đặc tính cho từng
phần dựa trên các chiều và phân phối vật liệu và sau đó nối chúng lại để tìm giá trị tổng của cánh.
Một bề mặt kiểm soát khí động học là thiết bị có thể di chuyển để thay đổi các đặc tính khí động học
của Rô-to. Có nhiều loại bề mặt kiểm soát khí động học có thể kết hợp cùng với cánh quạt của tua bin gió.
Chúng phải đƣợc thiết kế thích hợp với các thành phần còn lại của Rô-to, đặc biệt là cánh. Việc lựa chọn các
bề mặt kiểm soát khí dộng học dựa trên các phân tích khí động học liên quan mật thiết tới lý thuyết kiểm soát
toàn bộ tua bin. Các tua bin gió tĩnh thƣờng có một số loại phanh khí động lực học. chúng có thể là các phanh
ở đỉnh, khóa đầu hay tấm chắn gió. Một ví dụ về tấm chắn gió đỉnh đƣợc minh họa trong Hình 6.23
Các tua bin không đƣợc kiểm soát ngừng động thƣờng có bộ điều khiển khí động học phức tạp hơn.
Trong các tua bin gió động nhƣ trƣớc đây, toàn bộ cánh có thể quay tròn quanh trục của nó. Vì thế, toàn bộ
cánh tạo thành một bề mặt kiểm soát. Một số thiết kế tua bin dùng bộ kiểm soát gió dạng chảo. Trong trƣờng
hợp này, phần bên trong của cánh quạt đƣợc gắn tƣơng đối vào đế. Phần bên ngoài đƣợc gắn vào ổ trục và có
thể quay theo trục dọc của cánh. Ƣu điểm của bộ kiểm soát gió thay đổi dạng chảo là không cần có chế gió lớn
vì nó nhằm cho kiểm soát gió thay đổi toàn bộ
39
Hình 6.23: Ví dụ về phanh khí động học ở đỉnh
Một kiểu bề mặt kiểm soát khí động học khác là kiểu cánh phụ. Đây là một cánh nhỏ, có thể di chuyển
đƣợc nằm ở viền khuất của cánh. Chiều dài của nó có thể xáp xỉ 1/3 chiều dài của cánh và độ mở xấp xỉ 1/4
khoảng cách tới mép trƣớc cánh.
Bất cứ bề mặt kiểm soát gió nào đƣợc sử dụng đều có một cơ cấu cho phép nó di chuyển khi cần. Cơ
cấu này có thể là các ổ trục, bản lề, lò xo và thanh nối. Các phanh khí động học thƣờng có các nam châm điện
để cố định các bề mặt trong quá trình hoạt động bình thƣờng nhƣng cũng cho phép tháo chúng khi cần thiết.
Các cơ cấu này cũng có các mô tơ để cung cấp năng lƣợng cho chúng hoạt động.
Chi tiết về bộ kiểm soát tua bin xem thêm trong Chƣơng 7.
6.7.1.3 Trục
Chức năng Trục của tua bin gió là thành phần nối cánh quạt với trục chính và với các phần còn lại
của thành phần chuyển động. Đế phải truyền và chịu đƣợc tải sinh ra bởi cánh quạt. Chúng thƣờng làm bằng
thép qua phƣơng pháp hàn hay đúc. Các chi tiết khác nhau của đế chủ yếu phụ thuộc vào nguyên tắc thiết kế
tổng thể của tua bin.
Loại Có 3 loại thiết kế đế chính đƣợc áp dụng cho các kiểu tua bin gió trục ngang bao gồm: (1) đế
kiểu cố định (rigid), (2) đế kiểu bập bênh (teetering), (3) đế kiểu bản lề (hinged). Đế kiểu cố định giống nhƣ
tên gọi có một phần chính đƣợc gắn cố định vào trục chính. Đây là kiểu thiết kế phổ biến nhất và gần nhƣ
đƣợc sử dụng trên toàn thế giới cho các tua bin 3 cánh quạt hay hơn. Đế kiểu bập bênh cho phép chuyển động
tƣơng đối giữa các phần kết nối với cánh và các phần kết nối với trục chính. Tƣơng tự nhƣ bập bênh của trẻ
con, khi một đầu chuyển động theo chiều này thì đầu kia chuyển động theoc hiều ngƣợc lại. Đế kiểu này
thƣờng đƣợc sử dụng cho các tua bin gió có hai hay một cánh. Đế kiểu bản lề cho phép chuyển động đập cánh
độc lập so với mặt phẳng quay của cánh. Kiểu đế này chỉ đƣợc sử dụng cho một số kiểu máy móc sản xuất,
nhƣng chúng cũng đƣợc ứng dụng trong các tua bin gió quan trọng (Smith-Putnam) và gần đây đƣợc quan tâm
nhiều hơn. Một số loại đế thƣờng đƣợc sử dụng có minh họa trong Hình 6.24
40
Cố định
Kiểu bản lề
Cố định / Kiểu bập
thay đổi bênh
Gió
Hình 6.24: Các lựa chọn đế cánh (Gasch. 1996). Nguồn từ B. G. Teubner GmbH
Trục cố định Nhƣ đã nhắc đến ở phần trên, một trục cố định rigid hub) đƣợc thiết kế để cố định tất cả
các phần chính tại các vị trí tƣơng ứng với trục chính. Tuy nhiên thuật ngữ “Rigid” bao gồm các loại trục trong
đó đƣờng gió vào cánh có thể thay đổi nhƣng không cho phép các chuyển động của cánh.
Phần chính của một trục cố định là một thân đúc hoặc hàn để gắn các cánh quạt lên và đƣợc gắn chặt
vào trục chính. Nếu các cánh phải võng tƣơng đối so với trục chính thì trên kết cấu của trục sẽ có thiết kế cho
điều này. Một trục cố định phải đủ khỏe để có thể chịu đƣợc tải truyền từ các cánh quạt khi hoạt động cũng
nhƣ các lực tự sinh ra nhƣ do chuyển động hay chệch hƣớng. Các lực này đƣợc nói đến trong Chương 4 cũng
nhƣ trong Phần 6.6 của chƣơng này.
Trong tua bin gió thay đổi phải có trục cố định để giữ các chân cánh, tức là bảo vệ các cánh quạt không
di chuyển ngoại trừ chuyển động quay do gió và một cơ cấu quay. Cơ cấu chuyển động có thể dùng một cần
chuyển động qua trục chính cùng với một thanh nối trên trục. Thanh nối này tiếp tục sẽ đƣợc khớp vói các
chân cánh. Cần chuyển động đƣợc truyền lực bởi mô tơ gắn trên phần chính (phần không quay) của tua bin.
Một phƣơng pháp khác cũng đƣợc sử dụng đó là gắn các mô tơ điện có ổ trục lên trục và để chúng trực tiếp
quay các cánh. Việc này có thể đƣợc thực hiện bằng các cổ góp hay một máy biến thế quay. Bất kể lý thuyết
thiết kế của cơ cấu chuyển động, nó cần phải đảm bảo đƣợc an toàn. Ví dụ nhƣ khi bị mất điện, các cánh cần
chuyển động về các vị trí không có điện. Ví dụ về cơ chế chuyển động của cánh quạt đƣợc minh họa trong
Hình 6.25.
Gốc trục
Đế trục
Lỗ đế
Trục
Đĩa co
42
Bộ chỉnh ở chân cánh
Thân ổ
Gió
Trụ quay
Góc
Hình 6.28: Trục có góc delta-3 (δ3) khác 0. Nguồn (Perkins and Jones, 1981)
Hầu hết các trục kiểu bập bênh đã đƣợc phát triển cho các tua bin gió tĩnh, nhƣng chúng cũng còn
đƣợc sử dụng cho các tua bin gió thay đổi. Thiết kế hệ thống gió thay đổi là phức tạp hơn bởi vì cơ chế chuyển
động là ở trên phần của trục mà di chuyển tƣơng đối với trục chính. Một trục bập bênh của tua bin gió thay đổi
đƣợc minh họa trong Hình 6.29.
43
Góc nghiêng
95 độ
Vị trí chêm
Giao diện hình trụ
của cầu kích hoạt
Trục bập
bênh
Hình 6.29: Trục bập bênh của tua bin gió thay đổi (Van Bibber and Kelly, 1985)
Các trục kiểu bập bênh đòi hỏi hai loại ổ trục là loại có hình trụ hoạt động theo phép vị tự; và một loại
bạc dọc trục. Trên mỗi chốt có một loại ổ trục. Các ổ trục dạng hình trụ truyền tải khi trục của chốt nằm ngang.
Khi trục của chôt không nằm ngang thì sẽ có một khấu kiện hƣớng trục chủ yếu do khối lƣợng của Rô-to. Một
trong số các bạc dọc trục sẽ truyền một phần lƣợng tải này. Các ổ trục kiểu bập bênh thƣờng đƣợc làm từ các
vật liệu tổng hợp để cho mục đích nhất định.
Trong điều kiện hoạt động bình thƣờng thì một trục bập bênh sẽ di chuyển một vài độ lên trƣớc hoặc ra
sau. Khi có gió to, khi khởi động hay dừng hoặc khi tỉ lệ chệch hƣớng cánh cao thì việc chệch bập bênh có thể
xảy ra. Để tránh những ảnh hƣởng do các điều kiện nhƣ vậy gây ra thì các bộ chống rung và các con chặn
đƣợc sử dụng. Trong trục minh họa trong Hình 6.27 (có mức chệch cho phép tối đa là ± 7.0 độ) thì các bộ
chống rung sẽ ở bên phần trục đối diện với ổ trục.
Các chọn lựa cho việc gắn một trục bập bênh lên trục chính cũng giống nhƣ khi gắn trục cố định.
Trục kiểu bản lề Một trục kiểu bản lề giống nhƣ kiểu kết hợp kiểu trục cố định và bập bênh.
Về cơ bản, nó là một trục cố định với bản lề lắp cánh. Tuy nhiên việc gắn bản lề cũng làm cho nó phức
tạp hơn. Giống nhƣ trục kiểu bập bênh, trục kiểu này cũng cần có các ổ trục ở các bản lề. một ƣu điểm của
trục kiểu bản lề là hai cánh có xu hƣớng cân bằng với nhau vì thế mà vấn đề thiếu lực kẹp ly tâm khi hoạt
động chậm sẽ không phải là một trở ngại lớn. Tuy nhiên trục kiểu bản lề không có đối trọng, vì thế một số
cơ cấu phải đƣợc thêm vào để giữ cho các cánh quạt không bị dão khi tua bin hoạt động trong điều kiện
gió yếu. Cơ cấu này có thể gồm lõ xo và cũng thƣờng có các bộ chống rung.
Một hệ thống truyền động hoàn chỉnh của tua bin gió bao gồm tất cả các thành phần quay: Rô-to, trục
chính, các bộ phận nối, hộp số, phanh và máy phát. Ngoại trừ các thành phần của Rô-to đã đƣợc đề cập trƣớc
đây thì tất cả các bộ phận khác sẽ đƣợc đề cập trong các phần sau. Hình 6.30 minh họa một hệ thống truyền
động thƣờng thấy.
44
6.7.2.1 Trục chính
Mỗi tua bin gió có một trục chính, đôi khi đƣợc gọi là trục gió chậm hay trục Rô-to. Trục chính là
thành phần quay quan trọng nhất, giúp truyền mô men từ Rô-to tới các phần còn lại của hệ thống truyền động.
Nó còn có vai trò đỡ Rô-to. Bản thân trục chính đƣợc đỡ bằng các ổ trục có vai trò truyền lực tải về thân chính
của tua bin. Tùy thuộc vào thiết kế của hộp số mà trục và/hoặc các ổ trục có thể đƣợc tích hợp trong một hộp
số hay nằm riêng biệt và chỉ đƣợc kết nối bằng một bộ nối. Kích cỡ của trục chính đƣợc sản xuất theo phƣơng
pháp mô tả trong Phần 6.5.1 có tính đến tổng các mô men xoắn và lực uốn. Trục chính thƣờng đƣợc làm bằng
thép. Các phƣơng pháp nối trục chính với Rô-to đƣợc mô tả trong Phần 6.7.1. Hình 6.31 minh họa một số lựa
chọn trục chính.
Hình 6.30: Hệ thống truyền động và các bộ phận liên quan. Nguồn từ Enron Wind
Các ổ trục được tích hợp Các ổ trục trên trục lỗ chính
hoàn toàn vào hộp số
Hình 6.31: Các lựa chọn trục chính (Harrison và nnk., 2000)
45
6.7.2.2 Các khớp ly hợp
Chức năng Các khớp ly hợp, nhƣ đã đƣợc nhắc tới trong Phần 6.5 , đƣợc dùng để nối các với nhau.
Có hai vị trí đặc biệt mà mà các khớp ly hợp thƣờng đƣợc sử dụng trong tua bin đó là: (1) giữa trục chính và
hộp số, và (2) giữa trục ngoài hộp số và máy phát.
Chức năng chủ yếu của khớp ly hợp là truyền mô men xoắn giữa hai trục bên cạnh một số chức năng
khác. Đôi khi phải chống các thay đổi của mô men xoắn trong trục chính trƣớc khi năng lƣợng gió đƣợc
chuyển thành dòng điện. Một khớp ly hợp của thiết kế có thể phù hợp để thực hiện vai trò này. Một khớp ly
hợp thủy lực (nhƣ đề cập trong Phần 6.5) có thể đƣợc sử dụng cho mục đích này. Vì khớp ly hợp đã đƣợc nhắc
tới trong Phần 6.5 nên ở đây sẽ không nêu ra các chi tiết.
6.7.2.3 Hộp số
Chức năng Hầu hết các hệ thống truyền động của tua bin gió có một hộp số để tăng tốc độ trục đi
vào của máy phát. Cần phải tăng tốc độ khi các tua bin gió và các trục chính quay với tốc độ chậm hơn so với
yêu cầu trong hầu hết những máy phát điện. Các Rô-to của tua bin loại nhỏ quay với tốc đọ khoảng vài trăm
vòng trên phút trong khi các tua bin lớn hơn thì quay chậm hơn. Hầu hết các máy phát tiêu chuẩn quay với tốc
độ khoảng 1800 vòng/phút (60Hz) hay 1500 vòng/phút (50Hz).
Ngoài chức năng tăng vận tốc, một số hộp số cũng thực hiện các chức năng phụ khác nhƣ là đỡ ổ trục
chính chẳng hạn.
Hộp số là một trong những bộ phận đắt nhất và nặng nhất trong tua bin. Các hộp số thƣờng đƣợc thiết
kế và cung cấp bởi một số nhà cung cấp khác nhau, không giống nhƣ chỉ một số ít nhà cung cấp tua bin. Do
điều kiện hoạt động của hộp số trong tua bin gió khác khác nhiều so với ở các ứng dụng khác cho nên một điều
rất quan trọng là ngƣời thiết kế hộp số và tua bin phải có hiểu biết về cả hai bộ phận đó. Kinh nghiệm cho thây
rằng chính hộp số đƣợc thiết kế không tốt sẽ dẫn đến những vấn đề trong vận hành.
Các loại hộp số Tất cả các loại hộp số đều có một số điểm giống nhau: chúng đều có một vỏ, các
trục, ổ trục và các bít. Trong đó, có hai loại hộp số chính thƣờng đƣợc sử dụng cho các ứng dụng tua bin gió
là: (1) loại hộp số trục song song và (2) loại hộp số kiểu hành tinh
Với loại hộp số kiểu trục song song thì các bánh răng đƣợc lắp trên hai hay nhiều trục song song. Các
trục này đƣợc đỡ bằng các ổ trục gắn trên vỏ hộp. Loại hộp số kiểu một cấp có hai trục là một trục tốc độ thấp
và một trục tốc độ cao. Cả hai trục song song này đi xuyên qua vỏ và một trong hai trục sẽ đƣợc nối với trục
chính hoặc Rô-to trong khi trục còn lại nối với máy phát. Mỗi bánh răng cũng đƣợc trang bị trên mỗi trục. Hai
bánh răng có kích cõ khác nhau và bánh răng to hơn là bánh răng tốc độ thấp. Tỉ số đƣờng kính chuyển động
của bánh răng sẽ tỉ lệ nghịch với tỉ số của tốc độ quay (nhƣ đã nói tới trong Phần 6.5)
Có một giới hạn thực tiễn đối với tỉ số kích thƣớc của hai bánh răng mà có thể đƣợc sử dụng trong loại
hộp số kiểu song song một cấp. Chính vì vậy, các hộp số có các tỉ số tăng tốc co sẽ dùng nhiều trục và bánh
răng. Các bánh răng này sau đó sẽ tạo thành các bộ bánh răng truyền động. Ví dụ nhƣ một hộp số hai cấp sẽ có
3 trục, gồm một trục vào (tốc độ thấp), một trục ra (tốc độ cao) cà một trục trung gian. Trên trục trung gian có
các bánh răng. Các bánh răng nhỏ đƣợc dẫn động bởi trục tốc độ thấp trong khi các bánh răng lớn hơn sẽ
truyền động cho các trục tốc độ cao. Một hộp số trục song song điển hình đƣợc minh họa trong Hình 6.32
46
Hình 6.32: Hộp số trục song song (Hau, 1996). Theo nguồn của Springer Veriag GmbH
Các hộp số kiểu hành tinh có một số điểm khác biệt lớn so với kiểu trục song song. Đáng lƣu ý nhất là
các trục ra và vào là đồng trục. Bên cạnh đó, cũng có các cặp răng ăn khớp vói nhau tại bất cứ thời điểm nào
khiến lực tải lên mỗi bánh răng giảm xuống. Điều này làm cho các hộp số kiểu hành tinh khá nhẹ và chắc. Một
hộp số kiểu hành tinh điển hình đƣợc minh họa trong Hình 6.3
Hình 6.33: Phần khuất của hộp số hành tinh kiểu hai cấp
Trong các hộp số kiểu hành tinh, một trục tốc độ thấp, đƣợc nâng bằng các ổ trục nằm trong vỏ, đƣợc
gắn chặt vào một giá bánh răng hành tinh có ba bánh răng nhỏ giống hệt nhau đƣợc gọi là các hành tinh.
Những bánh răng này đƣợc gắn lên các trục ngắn cũng nhƣ ổ trục và đƣợc để quay tự do. Những bánh răng
hành tinh này ăn khớp với một bánh răng bên trong có đƣờng kính lớn hay là bánh răng vòng và một bánh
răng trung tâm có đƣờng kính nhỏ. Khi trục tốc độ thấp và bệ nâng quay thì việc ăn khớp của các bánh răng
hành tinh trong bánh răng vòng sẽ khiến cho các bánh răng hành tinh quay và tốc độ quay lớn hơn của bệ đỡ.
Việc ăn khớp của bánh răng hành tinh với bánh răng trung tâm cũng khiến nó quay. Sau đó bánh răng trung
tâm sẽ dẫn động trục tốc độ cao mà nó đƣợc gắn lên đó. Trục tốc độ cao đƣợc đỡ bằng một ổ trục gắn trong
vỏ. Hình 6.34 minh họa mối liên hệ giữa các bánh răng và góc đƣợc tạo ra khi quay một góc nhỏ. Lƣu ý rằng
trƣớc khi quay thì bánh răng trung tâm và bánh răng hành tinh khớp tại điểm B trong khi bánh răng hành tinh
và bánh răng vòng khớp tại điểm A. Sauk hi quay thì điểm ăn khớp tƣơng ứng sẽ là B1 và A1. Các tâm của
bánh trung tâm và bánh răng hành tinh lần luownjt là O và OP.
Tỉ số tốc độ thấp cho cấu hình trong Hình 6.34 (với bánh răng vòng tĩnh) là:
nHSS DRing
1 (6.7.1)
nLSS DSun
47
Trong đó nHSS là tốc độ của trục tốc độ cao, nLSS là tốc độ của trục tốc độ thấp, DRing là đƣờng kính của
bánh răng vòng, DSun là đƣờng kính bánh răng trung tâm.
Bánh răng
hành tinh
Bánh răng
trung tâm
Bánh răng
vòng
Hình 6.34: Mối liên hệ giữa các bánh răng trong hộp số hành tinh
Trong kiểu hộp số trục song song có giới hạn tỉ số tốc độ có thể đạt đƣợc bằng cách lắp đặt một bánh
răng hành tinh một cấp. Để đạt đƣợc tỉ số tăng tốc cao hơn thì sẽ đồng nghĩa với việc phải có thêm nhiều cấp.
Khi các bánh răng tạo thành một chuỗi cấp thì hệ số tăng tốc toàn bộ là tích của hệ số tăng tốc của các bánh
răng.
Bánh răng trong nhiều hộp số tua bin gió là loại trụ, nhƣng đôi khi cũng có kiểu bánh răng cong. Các ổ
trục thƣờng là dạng hình cầu, hình con quay, hay con quay kiểu thuôn tùy thuộc vào lực phải chịu. Các hộp số
và ổ trục đƣợc nhắc đến chi tiết trong Phần 6.5
Các lưu ý khi thiết kế hộp số Có nhiều điều cần xem xét khi thiết kế và lựa chọn một hộp số bao
gồm:
• Loại cơ bản (trục song song hay hành tinh), nhƣ đề cập trên đây
• Hộp số riêng và ổ trục của trục chính, hay một hộp số tích hợp
• Tỉ số tăng tốc
• Số cấp
• Chi phí và khối lƣợng hộp số
• Lực tác động
• Bôi trơn
• Ảnh hƣởng của việc vận hành bị gián đoạn
• Tiếng ồn
Với các tua bin gió thì hộp số có thể tách riêng hay đƣợc gắn vói các thành phần khác. Nếu đƣợc gắn
với thành phần khác thì chúng đƣợc gọi là hộp số tích hợp hay nửa tích hợp. Ví dụ trong một tua bin gió có
hộp số nửa tích hợp hay tích hợp thì trục chính và ổ trục chính đƣợc tích hợp vào phần còn lại của hộp số. Một
hộp số tích hợp hoàn toàn là kiểu mà vỏ hộp số là khung chính của tua bin gió. Rô-to đƣợc gắn lên trục tốc độ
thấp. Máy phát đƣợc gắn lên trục tốc độ cao và cũng đƣợc nối trực tiếp vào vỏ bằng bu lông. Một phần của hệ
thống chỉnh hƣớng gió đƣợc thiết kế dƣời phần đáy của vỏ. Hình 6.35 minh họa một hộp số hành tinh kiểu tích
hợp.
48
Con truyền tốc Con truyền tốc
độ cao độ thấp
Truc chính
Hình 6.35: Một hộp số kiểu hành tinh nửa tích hợp có hai cấp
Tỉ số tăng tốc của một hộp số có quan hệ trực tiếp với tốc độ quay mong muốn của Rô-to và tốc độ của
máy phát. Nhƣ đã nêu ở phần trƣớc, tốc độ của Rô-to đƣợc quyết định chủ yếu bởi các đặc tính khí động học.
Tốc độ máy phát thƣờng là 1800 vòng/phút (60Hz) và 1500 vòng/phút (50Hz) mặc dù có thể có các tốc độ
khác (đã nói trong Chƣơng 5.) Ví dụ một tua bin gió với Rô-to đƣợc thiết kế vận hành 60 vòng/phút hoặc với
máy phát quay 1600 vòng/phút thì sẽ cần một hộp số với tỉ số tăng tốc là 30:1
Số cấp trong một hộp số thƣờng là mối quan tâm thứ hai của nhà thiết kế. Điều này quan trọng chủ yếu
vì nó liên quan tới tính phức tạp, kích cỡ, trọng lƣợng cũng nhƣ chi phí của hộp số. Hộp số càng có nhiều cấp
thì các thành phần bên trong nó nhƣ bánh răng, ổ trục, hay các trục cũng se tăng lên. Nói chung, bất cứ một
cấp nào cũng có tốc độ tăng tốc không vƣợt quá 6:1. Tỉ số của các cấp trong một dãy đƣợc tính bằng tích các tỉ
số của mỗi cấp. Ví dụ chúng ta có thể có tỉ số tăng tốc 30:1 khi có hai cấp 5:1 và 6:1 trong một dãy.
Khối lƣợng của hộp số tăng lên đáng kể theo tỉ lệ sinh điện của Tua bin. Trên thực tế, khối lƣợng của
hộp số sẽ biến đổi theo thể tích của trục bánh răng cũng nhƣ khối lƣợng của Rô-to. Vì các hộp số kiểu hành
tinh nhẹ hơn so với loại hộp số kiểu trục song song nên khi sử dụng chúng có ƣu điểm là giảm khối lƣợng
tổng. Tuy nhiên loiaj này cũng có cơ cấu phức tạp hơn nên chi phí phát sinh vƣợt quá lợi ích thu đƣợc khi tiết
kiệm đƣợc khối lƣợng
Các lực mà hộp số phải chịu chủ yếu đến từ Rô-to. Trong đó có mô men xoắn chính, ngoài ra còn có
khối lƣợng của Rô-to và các lực của hiệu ứng động tùy thuộc vào mức độ kết hợp của hộp số với trục chính và
các ổ trục. Các lực còn đến từ máy phát, cả trong khi vận hành bình thƣờng hay khi khởi động. Phanh cơ học
trên phần tốc độ cao của cũng tác dụng lực nên hộp số. Sau một thời gian dài, hộp số, cũng giống nhƣ Rô-to,
sẽ chịu một lực lớn tác dụng lên nó, bên cạnh một số lực tác động tạm thời hay định kỳ. Tất cả các lực này sẽ
gây ra hiện tƣợng hỏng do mỏi và mài mòn trên các răng trên bánh răng, trên các ổ trục hay trên các bít.
Việc bôi trơn có vai trò rất quan trọng trong hoạt động của hộp số, nhƣng trong phần này sẽ không nói
tới. Dầu bôi trơn phải đƣợc chọn lựa để giảm tối đa mài mòn các răng và ổ trục, đồng thời để dầu bôi trơn
chính xác trong các điều kiện môi trƣờng bên ngoài mà tua bin đang hoạt động. Trong một số trƣờng hợp, có
thể cần phải có hệ thống lọc dầu hay làm mát cho dầu. Trong bất kỳ trƣờng hợp nào thì việc lấy mẫu dầu để
kiểm tra thƣờng xuyên là rất qua trọng để biets trạng thái của dầu, cũng nhƣ phát hiện các mài mòn bê trong có
thể xuất hiện.
Trong điều kiện hoạt động bị ngắt quãng, vốn hay xảy ra với tua bin, thì thời gian sống của hộp số
cũng sẽ bị ảnh hƣởng đáng kể. Khi tua bin không hoạt động thì dầu có thể chảy ra từ các ổ trục và số khiến cho
thiếu dầu khi tua bin khởi động.
Trong thời tiết quá lạnh, dầu bôi trơn có thể quá sệt cho tới khi hộp số đƣợc làm nóng trở lại. Các tua
bin hoạt động trong môi trƣờng này có thể đƣợc trang bị các bộ làm ấm dầu cho hộp số. Hơi nƣớc ngƣng tụ
cũng có thể làm tăng độ ăn mòn. Khi rô-to ngừng quay (tùy thuộc vào bản chất và vị trí của phanh trục) thỉ
49
răng cảu bánh răng có thể di chuyển sang trƣớc hay ra sau một chút.Việc di chuyển này có thể dẫn tới ổ trục bị
lỏng, nhƣng đôi khi cũng có thể gây ra những ảnh hƣởng nghiêm trọng hay mài mòn.
Các hộp số có thể gây ra tiếng ồn. Độ ồn gây ra phụ thuộc loại hộp số, loại vật liệu chế tạo và phƣơng
pháp cắt gọt khi chế tạo. Việc thiết kế hộp số để giảm tối đa độ ồn sinh ra gần đây đang thu hút đƣợc nhiều sự
quan tâm.
Chi tiết thêm về hộp số của tua bin gió, đặc biệt là về thiết kế, xin xem thêm trong hƣớng dẫn thiết kế
cơ sở có nguồn từ American Gear Manufacturers Association (1997).
Máy phát chuyển lực cơ học tử rô-to thành điện năng. Các lựa chọn máy phát đƣợc minh họa trong
Chƣơng 5 và sẽ không nói đế ở đây. Một trong số những điểm quan trọng cần nhắc lại đó là hầu hết các máy
phát đƣợc kết nối với luwois điện quay với tốc độ không hoặc rất ít thay đổi. Điều này cũng có nghĩa hầu hết
các rô-to tua bin gió quay với tốc độ không hoặc ít thay đổi.
6.7.2.5 Phanh
Chức năng Gần nhƣ tất cả các tua bin gió đều dùng phanh có học trong thành phần truyền động bên
cạnh các phanh khí động. Trên thực tế, một số tiêu chuẩn thiết kế hiện tại (Germanischer Lloyd, 1993) đòi hỏi
hai hệ thống phanh độc lập, một cho hệ thống khí động và một cho hệ thống truyền động. Trong hầu hết các
trƣờng hợp, phanh cơ học có thể dừng tua bin. Trong một số trƣờng hợp khác, phanh có tác dụng tua bin về
trạng thái nghỉ tức là rô-to không quay khi tua bin không hoạt động. Các phanh dùng để nghỉ rô-to ít phổ biến
hơn do ảnh hƣởng của các tiêu chuẩn thiết kế. Nói chung, các phanh có trọng lƣợng thấp sẽ chỉ có thể đƣợc sử
dụng trong tua bin có rô-to kiểm soát gió động hoạt động tin cậy
Các loại phanh Có hai loại phanh thƣờng đƣợc sử dụng trong tua bin là phanh đĩa và phanh ly
hợp. Phanh đĩa trong tua bin hoạt động giống với trong ô tô, tức là có một đĩa thép đƣợc gắn cố định lên trục
để phanh. Khi phanh, một calip đƣợc kích hoạt bằng thủy lực sẽ đẩy má phanh về phía đĩa. Lực sinh ra sẽ tạo
ra một mô men xoắn ngƣợc với chiều chuyển động của đĩa, vì thế làm chậm Rô-to. Hình 6.36 minh họa một
phanh đĩa.
50
Các phanh ly hợp đƣợc minh họa trong Phần 6.5.4. Việc kích hoạt phanh ly hợp thƣờng thong qua một
lò xo, vì thế mà chúng là thiết kế khá an toàn. Các phanh này đƣợc nhả bằng khí nén hay thủy lực.
Một loại phanh khác, ít phổ biến hơn là phanh điện đƣợc gọi là “phanh điện trở.” Nguyên lý cơ bản là
cung cấp điện cho một khối điện trở sau khi ngắt máy phát của tua bin gió khỏi lƣới điện. Việc này sinh ra một
lƣợng tải lên máy phát và sinh ra mô men xoắn trong Rô-to khiến nó quay chậm lại. Chi tiết về phanh này xin
xem thêm Childs etal. (1993)
Vị trí Các phanh cơ học có thể đƣợc lắp ở bất cứ nơi nào trên hệ thống truyền động. Ví dụ, chúng có
thể ở phần tốc độ thấp hay tốc độ cao của hộp số. Trong trƣờng hợp ở bên tôc độ cao, chúng có thể ở một
trong hai phần của máy phát.
Cần chú ý rằng bộ hãm ở phía tốc độ thấp của hộp truyền động phải có khả năng gây ra một mô men
xoắn lớn hơn nhiều so với bộ hãm ở phía bên tốc độ cao. Do vậy, bộ hãm này cần phải tƣơng đối lớn. Tuy
nhiên, nếu bộ hãm ở bên phía tốc độ cao, nó sẽ cần phải tác động qua hộp truyền động, và có thể làm tăng mức
mài mòn hộp truyền động. Hơn nữa, trong trƣờng hợp có xảy ra hỏng hóc phía bên trong hộp truyền động, bộ
hãm bên phía tốc độ cao sẽ không có khả năng hãm lại chuyển động của rô-to.
Kích hoạt bộ hãm Việc kích hoạt bộ hãm phụ thuộc vào loại bộ hãm đƣợc sử dụng. Phanh đĩa thì đòi
hỏi áp lực thủy động. Do vậy thƣờng sử dụng bơm thủy lực, đôi khi còn kết nối với ắc quy. Cũng có những
thiết kế sử dụng các lò xo để tạo áp lực cho bộ hãm, và hệ thống thủy lực đƣợc dùng để nhả bộ hãm.
Bộ hãm loại tiếp hợp thƣờng sử dụng lò xo. Cả hệ thống chạy bằng hơi và hệ thống thủy lực đều đƣợc
dùng để nhả bộ hãm. Trong trƣờng hợp hệ thống chạy bằng hơi, bộ nén khí và bình chứa cũng cần đi kèm,
cũng nhƣ hệ thống đƣờng ống và bộ điều khiển phù hợp.
Đặc tính 3 tiêu chí để lựa chọn bộ hãm bao gồm:
Mô men xoáy cực đại
Độ dài thời gian yêu cầu
Mức hấp thụ năng lƣợng
Bộ hãm dùng để hãm tua bin cần phải có khả năng tác động một mô men xoáy vƣợt quá mức mong
muốn hợp lý xuất phát từ rô-to. Tiêu chuẩn khuyến cáo chỉ ra rằng mô men xoáy thiết kế của bộ hãm phải
bằng mô men xoáy thiết kế cực đại của tua bin gió (Germanischer Lloyd, 1993).
Bộ hãm dùng để hãm tua bin cần bắt đầu hoạt động ngay tức thì và phải tăng mô men xoáy lên mức tối
đa trong vòng vài giây. Thời gian tăng đƣợc chọn lựa là khoảng cân bằng giữa mức tức thời (mức để áp dụng
tải trọng điện áp rất cao lên hệ thống truyền động) và mức đủ chậm để việc tăng tốc của rô-to và sự tăng nhiệt
của bộ hãm trong suốt quá trình giảm tốc có thể xảy ra. Thông thƣờng toàn bộ khoảng thời gian hãm, kể từ lúc
bắt đầu đến lúc rô-to ngừng lại, là dƣới 5 giây.
Khả năng hấp thụ năng lƣợng của bộ hãm là một tiêu chí quan trọng. Trƣớc hết, bộ hãm phải hấp thụ
tất cả động năng trong rô-to khi quay ở tốc độ cao nhất có thể. Bộ hãm cần phải có khả năng hấp thu tất cả
năng lƣợng bổ sung mà rô-to đòi hỏi trong suốt thời gian hãm.
Hầu hết tất cả các tua bin gió trục ngang đều phải có khả năng chỉnh hƣớng gió để có thể tự chỉnh
hƣớng chúng theo hƣớng của nguồn gió, ngoại trừ một số rất ít trƣờng hợp khác. Một vài tua bin cũng sử dụng
độ lệch chủ động nhƣ một phƣơng tiện để điều chỉnh công suất. Trong mọi trƣờng hợp, cần có một cơ chế để
cho phép độ lệch xảy ra, và để làm đƣợc điều đó cần thực hiện với tỷ lệ đủ thấp để có thể tránh đƣợc lực hồi
chuyển lớn.
Hệ thống chỉnh hƣớng gió có 2 loại cơ bản: chỉnh hƣớng chủ động và chỉnh hƣớng tự do. Tua bin với
hệ chỉnh hƣớng chủ động thƣờng là loại ngƣợc gió. Chúng sử dụng mô tơ để chủ động điều chỉnh hƣớng tua
51
bin. Tua bin với hệ chỉnh hƣớng tự do thƣờng là loại xuôi gió. Chúng dựa vào lực khí động của rô-to để chỉnh
hƣớng tua bin.
6.7.3.3 Mô tả
Dù sử dụng hệ thống chỉnh hƣớng loại nào thì tất cả các tua bin gió trục ngang đều sử dụng một vài
loại giá đỡ chỉnh hƣớng gió. Giá đỡ này phải mang trọng tải của bộ phận chính của tua bin cũng nhƣ truyền
sức nén đến trụ đỡ.
Trong tua bin với bộ chỉnh hƣớng chủ động, giá đỡ chỉnh hƣớng gồm có các bánh răng khía ở quanh
chu vi của nó. Một bánh răng chủ động trong hệ thống điều chỉnh hƣớng sẽ ăn khớp với những răng này để nó
có thể chỉnh hƣớng đƣợc theo cả hai hƣớng.
Bộ chỉnh hƣớng thƣớng bao gồm một mô tơ điện, các bánh răng giảm tốc và một bánh răng chủ động.
Tốc độ cần đƣợc giảm để tỷ suất chỉnh hƣớng đủ chậm và do đó có thể tạo ra mô men xoáy phù hợp từ một mô
tơ nhỏ. Thông thƣờng, một vài bộ chỉnh hƣớng đã sử dụng các rô-to gió nhỏ gắn vuông góc với rô-to chính.
Việc này mang lại ƣu điểm là không đòi hỏi phải có nguồn công suất hoặc bộ điều khiển tách biệt. Tuy nhiên,
nó thiếu độ linh hoạt với mô tơ và hiện tại không còn đƣợc sử dụng rộng rãi.
Một vấn đề gặp phải với hệ chỉnh hƣớng chủ động là việc mài mòn nhanh hoặc hỏng bộ lái chỉnh
hƣớng gây ra do chuyển động lệch ngang nhỏ liên tục của tua bin. Việc này có thể gây ra do khe hở giữa bánh
răng chỉnh hƣớng chủ động và bánh răng chính. Sự chuyển động gây ra các chu kỳ tải trọng va đập giữa những
bánh răng này. Để giảm những chu kỳ đó, ngày nay thƣờng dùng bộ hãm độ lắc ngang trong hệ thống chỉnh
hƣớng. Bộ hãm này cần ăn khớp bất cứ khi nào tua bin không chỉnh hƣớng. Nó chỉ nhả ra ngay trƣớc khi việc
chỉnh hƣớng bắt đầu. Hình 6.37 mô tả một bộ chỉnh hƣớng điển hình có đi kèm bộ hãm.
Moto điện
Bộ giảm tốc bánh
răng
Hình 6.37: Bộ chỉnh hướng điển hình đi kèm bộ hãm (Van Bibber và Kelly, 1985)
Chuyển động lệch trong hệ thống chỉnh hƣớng gió đƣợc điều khiển sử dụng đầu vào là độ lệch lắc
ngang. Độ lệch lắc ngang đƣợc theo dõi bởi một mũi tên chỉ hƣớng gió gắn trên tua bin. Khi độ lệch lắc ngang
nằm ngoài khoảng cho phép trong một khoảng thời gian, hệ truyền động sẽ đƣợc kích hoạt và tua bin sẽ di
chuyển theo một hƣớng thích hợp.
Trong các tua bin có hệ thống chỉnh hƣớng tự do, hệ thống chỉnh hƣớng gió thƣờng đơn giản hơn
nhiều. Thông thƣờng thì chỉ bao gồm một giá đỡ chỉnh hƣớng gió. Tuy nhiên, một vài tua bin có cả bộ giảm
độ lệch hƣớng. Bộ giảm độ lệch hƣớng đƣợc dùng để giảm tỷ lệ lệch hƣớng, giúp giảm tải con quay hồi
chuyển. Bộ phận này rất hữu ích để sử dụng trong các máy có mô men cực quán tính của trục lắc ngang tƣơng
đối nhỏ.
52
6.7.4. Khung chính và vỏ bọc
Bộ phận vỏ bọc là phần bên ngoài của các bộ phận cơ bản của tua bin gió (ngoại trừ rô-to). Nó bao
gồm khung chính và vỏ bọc bên ngoài.
Chức năng Khung chính là một mảnh kết cấu gắn với hộp truyền động, máy phát và bộ hãm. Nó tạo
ra một cấu trúc vững chắc để cố định vị trí chính xác của các bộ phận này. Nó cũng tạo ra một điểm để gắn giá
đỡ chỉnh hƣớng gió, bộ phận mà sẽ lần lƣợt đƣợc bắt vít trên đỉnh trụ đỡ.
Các loại Về cơ bản khung chính có 2 loại. Khung chính có thể là một bộ phận tách rời hoặc là một
phần của hộp truyền động tích hợp
Mô tả Khi khung chính là bộ phận rời, nó thƣờng đƣợc làm bằng thép cứng đúc hoặc hàn. Bộ phận
này có các lỗ có ren hoặc các điểm để gắn ở các vị trí thích hợp để bắt vít vào các bộ phận khác. Khi khung
chính là một phần của hộp truyền động tích hợp, khung vỏ đƣợc thiết kế đủ dày để chứa các tải trọng cần thiết.
Giống nhƣ khung chính rời, khung loại này cũng có các điểm để gắn nhằm đảm bảo an toàn cho các bộ phận
khác.
Các tải trọng của khung chính Khung chính phải chịu trách nhiệm truyền tất các trọng tải từ rô-to và
các trọng tải phản lực từ máy phát và bộ hãm tới trụ đỡ. Khung này cũng cần phải đủ cứng để ngăn không để
có chuyển động tƣơng tác nào giữa bệ khung đỡ rô-to, hộp truyền động, máy phát và bộ hãm.
Vỏ bọc bên ngoài tạo ra một lớp bảo vệ các bộ phận của tua bin gió nằm trong vỏ bọc khỏi tác động
thời tiết bên ngoài. Chúng bao gồm những bộ phận cơ khí và thiết bị điện đặc biệt mà có thể bị tác động bởi
ánh sáng mặt trời, mƣa, tuyết hoặc mƣa đá.
Vỏ bọc bên ngoài thƣờng đƣợc làm bằng vật liệu nhẹ ví dụ nhƣ sợi thủy tinh. Ở những máy lớn hơn,
vỏ bọc bên ngoài có thể có kích cỡ đủ lớn để nhân viên có thể chui vào để kiểm tra hoặc bảo dƣỡng các bộ
phận bên trong. Ở những tua bin cỡ nhỏ và trung bình, một vỏ bọc bên ngoài tách rời sẽ đƣợc gắn với khung
chính nhƣng đảm bảo vẫn có thể mở ra đƣợc để tiếp cận với các bộ phận bên trong. Hình 6.32 thể hiện một ví
dụ minh họa cho phần vỏ bọc bên ngoài. Một bộ phận nằm trong tua bin và cũng liên quan mật thiết với vỏ
bọc bên ngoài là ống xoay hoặc mũi côn. Đó là khung bọc cho moay-ơ.
Hình 6.38: Một vỏ bọc bên ngoài điển hình. Chụp hình dưới sự cho phép của Nodex AG
53
6.7.5. Trụ đỡ
Các trụ đỡ là khung đỡ để nâng bộ phận chính của tua bin lên không trung. Một vài đặc điểm chú ý để
lựa chọn một loại trụ đỡ đã đƣợc nhắc đến trong phần 6.3. Chiều cao của trụ đỡ thƣờng ít nhất là phải bằng
đƣờng kính của rô-to. Với các tua bin nhỏ hơn thì trụ đỡ phải cao hơn nhiều mức này. Nhìn chung, chiều cao
của trụ đỡ không nên dƣới 24 m vì ở mức đó vận tốc gió thấp và bị nhiễu nhiều hơn vì gần mặt đất.
Có 3 loại trụ đỡ thƣờng đƣợc sử dụng cho tua bin gió trục ngang
Trụ đỡ dàn ống có nhiều ƣu điểm. Không giống nhƣ trụ đỡ dàn độc lập, cột loại này không dựa vào các
điểm nối bắt vít cần xoắn và kiểm tra định kỳ. Chúng tạo ra một khoảng an toàn để có thể trèo lên tiếp cận với
máy. Về mặt thẩm mỹ, chúng tạo ra một khối trông có vẻ dễ chịu hơn loại dàn hở.
Vật liệu Tua bin gió thƣờng đƣợc làm từ thép, mặc dù đôi khi cũng đƣợc làm từ bê tông cốt thép. Nếu
làm từ thép, tua bin thƣờng đƣợc mạ hoặc sơn để chống ăn mòn. Đôi khi cũng sử dụng thép Cor-Ten® có tính
chống ăn mòn sẵn có.
Các tải trọng trụ đỡ Trụ đỡ có thể chịu 2 loại tải trọng chính: (1) tĩnh và (2) động. Tải trọng tĩnh bắt
nguồn từ áp lực khí động sinh ra và mô men xoắn. Những yếu tố này đã đƣợc nhắc đến chi tiết ở Chƣơng 4.
Trọng lƣợng của chính tua bin cũng là một tải trọng cốt yếu. Tải trọng lên trụ đỡ đƣợc đánh giá theo ít nhất 2
điều kiện (1) hoạt động ở công suất định mức và (2) đứng yên ở một vận tốc gió còn lại. Trong trƣờng hợp thứ
hai, tiêu chuẩn IEC gợi ý nên sử dụng vận tốc gió cực đỉnh trong 50 năm. (Bakker, 1996). Những tác động của
trọng tải cần phải đƣợc xem xét đặc biệt là trong trƣờng hợp bị cong và bị uốn.
54
Các hiệu ứng động có thể trở thành một nguồn tải trọng chính yếu, đặc biệt là với trụ đỡ loại mềm và
rất mềm. Nhắc lại là trụ đỡ cứng là loại trụ đỡ có tần số trên tần số cánh quạt quay, trụ đỡ mềm là loại trụ đỡ
có tần số tự nhiên nằm giữa khoảng tần số cánh quạt quay và tần số của rô-to, còn trụ đỡ rất mềm là loại có tần
số thấp hơn cả tần số cánh quạt quay và tấn số rô-to. Đối với cả trụ đỡ mềm và trụ đỡ rất mềm, trụ đỡ đều bị
tác động trong suốt quá trình khởi động hay ngắt của tua bin.
Các phƣơng pháp để xác định tần số tự nhiên của trụ đỡ đƣợc đề cập ở Chƣơng 4. Trong trƣờng hợp
đơn giản, khi tua bin/trụ đỡ có thể đƣợc ƣớc chừng bằng một cánh dầm đồng đều với một khối điểm ở trên
đỉnh, ta có thể áp dụng đẳng thức sau (Baumeister, 1978).
1 3EI
fn (6.7.2)
2 (0, 23mT ower mT urbine ) L3
Trong đó, fn là tần số tự nhiên cơ bản (Hz), E là hệ số giãn nở, I là mô men quán tính của mặt cắt
ngang trụ đỡ, mtower là khối lƣợng của trụ đỡ, mtua bin là khối lƣợng tua bin và L là chiều cao trụ đỡ.
Đối với trụ đỡ không đều và trụ đỡ treo, phƣơng pháp Rayleigh có thể vẫn hữu dụng. Phƣơng pháp này
đƣợc mô tả khái quát bởi Thornton (1981) và Wright cùng cộng tác (1981). Những phân tích tổng hợp về trụ
đỡ, bao gồm cả những ƣớc tính về tần số tự nhiên, có thể đƣợc thực hiện bởi các phƣơng pháp phân tử hữu
hạn. El Chazly (1993) đƣa ra một ví dụ cho vấn đề này.
Trụ đỡ phải đƣợc thiết kế sao cho tần số tự nhiên của nó không trùng với các tần số kích thích của tua
bin (tần số rô-to và tần số cánh quạt quay). Thêm vào đó, các tấn số kích thích nhìn chung phải không nằm
trong 5% tần số tự nhiên của trụ đỡ trong suốt quá trình hoạt động kéo dài. Khi hoạt động đƣợc tính toán nằm
trong vùng có tần số kích thích ở khoảng 30% đến 140% tần số tự nhiên của trụ đỡ, một chỉ số khuếch đại
động lực D đƣợc sử dụng để nhân các trọng tải thiết kế trong việc đánh giá cấu trúc. Chỉ số khuếch đại đƣợc
xác định bằng các thuộc tính giảm chấn của trụ đỡ và hệ thức giữa các tần số kích thích. Chỉ số này tƣơng
đƣơng với biên độ không thứ nguyên đã đƣợc phân tích ở Chƣơng 4 (đẳng thức 4.2.27):
1
D (6.7.3)
2
1 ( f e / f n )2 2 ( fe / f n ) 2
Trong đó, fe = tần số kích thích, fn = tần số tự nhiên, ξ = hệ số giảm.
Hệ số giảm đƣợc xác định từ „độ suy giảm logarit‟ , δ , bằng hệ thức sau
(6.7.4)
2
Độ giảm của dao động rung là do cả các yếu tố khí động và kết cấu. Độ giảm này đề xuất bởi
Germanischer Lloyd (1993) là 0,1 dành cho bê tông cốt thép và nằm trong khoảng 0,05 đến 0,15 đối với thép.
Bảng đánh giá so sánh giữa các loại trụ đỡ tua bin gió đƣợc đƣa ra bởi Babcock và Connover (1994).
55
Hình 6.40: Một bộ dụng cụ bảo hộ khi trèo lên trụ đỡ. Hình chụp dưới sự cho phép của Vestas Wind
System A/S)
Đỉnh trụ đỡ tạo ra một giao diện để cố định khung chính của tua bin gió với trụ đỡ. Phần tĩnh của bệ đỡ
chỉnh hƣớng gió đƣợc gắn với đỉnh trụ đỡ. Hình dạng của đỉnh trụ đỡ phụ thuộc rất nhiều vào loại trụ đỡ. Nó
thƣờng đƣợc chế tạo từ thép đúc.
Móng của tua bin gió phải đủ để giữ tua bin đứng thẳng và đứng yên dƣới những điều kiện thiết kế
khắc nghiệt nhất. Ở phần lớn các địa điểm, phần móng đƣợc xây giống nhƣ một bệ bằng bê tông cốt thép.
Trọng lƣợng của bê tông phải đƣợc chọn lựa để tạo sức cản chống bị lật dƣới mọi điều kiện. Đôi khi tua bin
cũng đƣợc lắp đặt trên các mạch đá. Trong trƣờng hợp này móng bao gồm các cọc đƣợc trát vữa trong các hố
khoan sâu trong mạch đá. Một bệ bê tông đƣợc dùng để tạo mặt phẳng cân bằng, nhƣng các tải trọng kéo cuối
cùng sẽ do các cọc chống đỡ. Một vài khả năng xảy ra với bệ móng của tua bin gió đƣợc minh họa ở Hình
6.41.
Trụ đỡ
Bulong đầu có gờ
Móng
Các lọc
Hình 6.41: Móng tua bin gió (thiết kế theo Hau, 1996). Hình chụp dưới sự cho phép của Springer
Verlag GmbH
Phƣơng pháp đƣợc định sẵn để dựng trụ đỡ sẽ có tác động trực tiếp lên thiết kế của trụ đỡ. Các tua bin
lớn hơn thƣờng đƣợc dựng với các cầu trục đi kèm. Các tua bin cỡ nhỏ và vừa thƣờng là tự lắp ráp. Phƣơng
56
pháp thông dụng nhất dành cho việc tự lắp ráp là dùng một cột lắp ráp hoặc một khung chữ A ở góc vuông 90°
với trụ đỡ. Khung chữ A kết nối với đỉnh của trụ đỡ bằng một dây cáp. Sau đó sử dụng một máy tời ở điểm nối
với các bánh răng để nâng trụ đỡ. Với cách dựng này, đế của trụ đỡ phải có các bản lề cũng nhƣ một đƣờng để
đảm bảo vị trí của trụ đỡ khi nó thẳng đứng. Chính tua bin sẽ đƣợc kết nối với trụ đỡ trƣớc khi đƣợc nâng lên.
Một vài phƣơng pháp để dựng trụ đỡ đƣợc biểu diễn ở Hình 6.42.
0(a) Dựng cầu trục với trụ đỡ rung. Hình chụp dƣới sự cho phép của Vestas Wind System A/S
(b) Đặt nghiêng với cột lắp ráp. Hình chụp dƣới sự cho phép của Vergnet SA
Hình 6.42: Các phương pháp dựng trụ đỡ
Bất chấp việc dựng theo phƣơng pháp nào, một vấn đề quan trọng cần xem xét trong việc thiết kế trụ đỡ
là tải trọng tác động trong suốt quá trình lắp ráp.
Có rất nhiều vấn đề về điện năng và điều khiển liên quan đến việc thiết kế các tua bin gió. Các vấn đề
này đƣợc thảo luận tại Chƣơng 5 (điện năng), 7(các bộ điều khiển), và 8 (các hệ thống.)
Khi thiết kế chi tiết của tua bin gió đƣợc phát triển, khả năng để đáp ứng các yêu cầu thiết kế cơ bản
của nó, ví dụ nhƣ những điểm đã đƣợc nhắc đến trong mục 6.6, sẽ đƣợc đƣa ra xem xét đánh giá. Việc đánh
giá thiết kế này phải đƣợc thực hiện bằng các công cụ phân tích phù hợp. Nếu có thể, nên sử dụng cả mã code
máy tính đã đƣợc kiểm nhận. Khi cần thiết, có thể sẽ phải phát triển các mô hình cụ thể cho việc ứng dụng.
5 bƣớc cần thực hiện để tiến hành đánh giá một thiết kế chi tiết:
Chuẩn bị nguồn gió
57
Đặt mô hình tua bin
Tiến hành mô phỏng để nắm đƣợc các tải trọng
Chuyển đổi các tải trọng dự kiến sang áp lực
Đánh giá mức hƣ hỏng
Dƣới đây là những điểm vắn tắt về mỗi bƣớc. Những thảo luận sâu rộng hơn về việc đánh giá thiết kế
chi tiết cho một vài loại tua bin đƣợc đề cập trong Laino (1997).
Nguồn gió cần đƣợc phát ra tƣơng ứng với điều kiện của đầu vào thiết kế. Đối với gió cực mạnh và
những cơn gió giật gián đoạn, việc xác định rõ nguồn gió tƣơng đối đơn giản, theo những hƣớng dẫn tóm tắt
đã cho trƣớc ở mục 6.6. Việc chuyển đổi nguồn gió đầu vào sang nguồn đầu vào nối tiếp theo thời gian cũng
đƣợc thực hiện khá đơn giản. Tuy nhiên, việc tạo ra nguồn gió xoáy nhiễu tổng hợp làm mẫu có thể tƣơng đối
phức tạp. Để đạt đƣợc mục đích này, có thể dùng mã code máy tính khu vực công cộng ví dụ nhƣ SNL Wind
hoặc SNL Wind3D (Kelly, 1993).
6.8.3 Mô phỏng
Việc mô phỏng đƣợc chạy thực tế trên mô hình máy tính để đƣa ra các dự đoán. Cần phải chạy
nhiều lần để có thể theo dõi đƣợc tất cả các điều kiện thiết kế.
Đầu ra từ mã mô phỏng thƣờng ở dạng tải trọng nối tiếp theo thời gian, nghĩa là các lực, mô men cong,
và mô men xoáy. Trong trƣờng hợp này chúng cần đƣợc chuyển đổi thành áp lực. Việc này có thể thực hiện
nhờ sự hỗ trợ của các chƣơng trình đơn giản sử dụng các tải trọng cùng với các đặc tính hình học của các bộ
phận cần quan tâm. Laino (1997) mô tả một phƣơng pháp thực hiện bƣớc này.
Do đó, việc phân bổ vận tốc gió là một yếu tố quan trọng cần phải tính đến. Để xúc tiến việc ƣớc tính
những hƣ hỏng do mỏi gây ra, việc sử dụng những mã code nhƣ LIFE2 sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiến
hành đánh giá (Surtherland, 1989).
Việc dự tính đƣờng cong công suất của tua bin gió là một bƣớc quan trọng trong quá trình thiết kế.
Những yếu tố để xem xét dự tính bao gồm rô-to, hộp truyền động, máy phát và hệ thống điều khiển.
58
Phƣơng pháp sử dụng trong việc dự tính đƣờng cong công suất phải phù hợp với đầu ra công suất từ
rô-to nhƣ một đặc trƣng của vận tốc gió và vận tốc quay đối với nguồn công suất sinh ra từ máy phát, cũng
nhƣ một đặc trƣng của vận tốc quay. Những ảnh hƣởng của hiệu suất của các bộ phận cũng phải xem xét khi
cần thiết. Trong phần này, thừa nhận rằng tất cả hiệu suất của hệ thống truyền động đƣợc tính đến bằng việc
điều chỉnh công suất rô-to. Quá trình này có thể thực hiện cả bằng đồ họa hoặc bằng phƣơng pháp tự động hóa
khác. Phƣơng pháp sử dụng đồ họa minh họa tốt nhất cho quan niệm này và sẽ đƣợc mô tả sau đây.
Công suất rô-to, cũng giống nhƣ một đặc trƣng của vận tốc xoay, đƣợc dự tính cho hàng loạt tốc độ gió
khác nhau nhờ việc sử dụng hệ số công suất ƣớc tính, Cp. Hệ số công suất giống nhƣ một đặc trƣng của tỷ số
tốc độ đầu cánh, và do đó số vòng/phút, có thể tính toán đƣợc nhƣ đã mô tả ở Chƣơng 3. Công suất rô-to, Prô-
to, đƣợc tính theo công thức:
1
Protor C p R 2U 3 (6.9.1)
2
Trong đó, η =hiệu suất hệ thống truyền động, ρ = mật độ khí, R = bán kính rô-to, và U = vận tốc gió.
Vận tốc rô-to, nrô-to, tính bằng vòng/phút, đƣợc rút ra từ tỷ số tốc độ đầu cánh, λ, theo công thức:
30 U
nrotor (6.9.2)
R
Tỷ lệ giữa công suất và số vòng/phút đƣợc tính toán cho máy phát, và đƣợc tham chiếu với phần tốc độ
thấp của hộp truyền động bằng phép chia tốc độ máy phát cho tỷ lệ tăng tốc hộp truyền động. Hệ thức này
đƣợc áp dụng lên nhiều điểm (theo dải vận tốc gió) đối với công suất rô-to và số vòng/phút của rô-to. Mỗi
điểm nơi đƣờng biểu diễn máy phát cắt đƣờng rô-to đều xác định một cặp điểm của công suất và tốc độ gió
trên đƣờng cong công suất. Những điểm này cũng giúp xác định tốc độ vận hành của rô-to.
Nhƣ đã giải thích ở Chƣơng 5, các máy phát mắc kiểu lƣới thƣờng là một trong hai loại đồng bộ hoặc
cảm ứng. Các máy phát đồng bộ quay ở một vận tốc nhất định, xác định bởi số cực từ và tần số lƣới và cũng
bởi mức công suất. khi vận hành bình thƣờng, công suất thay đổi trực tiếp với hệ số trƣợt nhƣ đã đƣợc giải
thích ở Chƣơng 5.
Hệ thức có thể biểu diễn nhƣ sau:
gnrotor nsync
Pg enerator Prated
nrated nsync (6.9.3)
Trong đó, Pgenerator là công suất của máy phát, g là tỷ suất hộp tuyền động, Prated là công suất máy phát
định mức, nsync là vận tốc đồng bộ của máy phát và nrated là vận tốc của máy phát ở công suất định mức.
6.9.1 Ví dụ
Ví dụ sau minh họa quá trình ƣớc tính đƣờng cong công suất cho một tua bin giả thuyết. Tua bin
có rô-to bán kính 20m với hệ thức tỷ lệ giữa hệ số công suất và tỷ số tốc độ đầu cánh đƣợc minh họa nhƣ
trên Hình 6.43
59
Hệ số công suất
Tổng cộng hiệu suất điện năng và cơ năng đƣợc cho là bằng 0,9. Tính đến cả hai cặp khả thi của tỷ
suất truyền động và các chỉ số máy phát. Sử dụng 6 tốc độ gió khác nhau từ 6m/s đến 16m/s. Thừa nhận rằng
công suất sẽ đƣợc điều chỉnh ở vận tốc gió định mức ở trên (16m/s), bởi vậy chỉ có phần đƣờng cong công suất
nào có công suất tƣơng ứng dƣới 16m/s mới đƣợc biểu diễn. Hộp truyền động 1 có tỷ suất tăng tốc là 36:1,
trong khi đó hộp truyền động 2 có tỷ suất tăng tốc là 24:1. Công suất định mức của máy phát 1 là 150kW và
của máy phát 2 là 225kW. Cả hai máy phát đều thuộc loại cảm ứng. Chúng có vận tốc đồng bộ là 1800
vòng/phút và vận tốc ở công suất định mức là 1854 vòng/phút. Hình 6.44 minh họa đƣờng cong vận tốc xoay
và công suất cho 6 tốc độ gió và kết hợp 2 máy phát/hộp truyền động.
động 1
Hình 6.44: Công suất máy phát và rô-to với tốc độ rô-to
Đƣờng cong công suất có thể rút ra từ Hình 6.44 và đƣợc biểu diễn trên Hình 6.45. Để tiện so sánh,
đƣờng cong công suất khi vận tốc biến đổi lý tƣởng cũng đƣợc biểu diễn với cùng dải tốc độ gió. Đƣờng cong
lý tƣởng đạt đƣợc khi coi hệ số công suất không đổi là 0,4 đối với tất cả các tốc độ gió khác nhau. Nhƣ ta có
thể thấy trên hình, bộ kết hợp hộp truyền động và máy phát số1 tạo ra nhiều công suất hơn bộ kết hợp số 2 ở
vận tốc gió dƣới khoảng 8,5m/s, nhƣng lại tạo ra ít hơn bộ kết hợp 2 ở các vận tốc gió cao hơn.
60
Hộp truyền động / máy phát 1
Hộp truyền động / máy phát 2
Công suất, kW
Các đƣờng cong công suất biểu diễn ở trên có thể rất hữu ích trong việc lựa chọn tỷ suất hộp truyền
động và kích cỡ máy phát. Thông qua việc kết hợp các đƣờng cong công suất với các hệ số đặc trƣng của chế
độ gió có triển vọng (nhƣ đã mô tả ở Chƣơng 2), những ảnh hƣởng lên quá trình sản xuất năng lƣợng hàng
năm có thể ƣớc tính đƣợc. Nói chung, nhƣ đã thể hiện trên ví dụ, một chiêc máy phát có kích cỡ nhỏ hơn và
vận tốc rô-to thấp hơn (lớn hơn tỷ suất hộp truyền động) sẽ trở nên thuận lợi khi vận tốc gió thấp hơn. Ngƣợc
lại, một chiếc máy phát to hơn và vận tốc rô-to cao hơn sẽ trở nên hiệu quả hơn trong điều kiện vận tốc gió cao
hơn.
61
El Chazly, N. (1993) Wind Tua bin Tower Structural and Dynamic Analysis Using the Finite Element
Method. Proc. of the 15th British Wind Energy Association Annual Conference. Mechanical Engineering
Publications, London.
Elliot, A. S., Wright, A. D. (1994) ADAMS/WT: An Industry Specific Interactive Modeling Interface
for Wind Tua bin Analysis. Proc. of the 15th ASME Wind Energy Symposium, American Society of
Mechanical Engineers, New York.
Fordham, E. J. (1985) Spatial Structure of Turbulence in the Atmosphere, Wind Engineering, 9,95-
135.
Gasch, R. (Ed.) (1996) Windkraftanlagen (Windpower Plants), B. G. Teubner, Stuttgart.
Geraets, P. H., Haines, R. S., Wastling, M.A. (1997) Light Can Be Tough. Proc. of the 19th British
Wind Energy Association Annual Conference, Mechanical Engineering Publications, London.
Germanischer Lloyd (1993) Regulation of the Certification of Wind Energy Conversion Systems,
Rules and Regulations IV: Non Marine Technology Part 1, Wind Energy, Germanischer Lloyd. Hamburg.
Hansen, C. (1996) User‟s Guide to the Wind Tua bin Dynamics Computer Programs YawDyn and
AeroDyn for ADAMS®, Version 9.6, University of Utah. Salt Lake City. Prepared for the National
Renewable Energy Laboratory under Subcontract No. XAF-4-14076-02.
Harrison, R., Hau, E., Snel, H. (2000) Large Wind Tua bins: Design and Economics, John Wiley,
Chichester.
Hau, E. (1996) Windkraftanlagen (Windpower Plants), Springer, Berlin.
Hoadley, R. B. (2000) Understanding Wood; A Craftsman’s Guide to Wood Technology, The Taunton
Press, Newtown, CT.
Hydraulic Pneumatic Power Editions (1976) Hydraulic Handbook. Trade and Technical Press, Ltd.,
Modern, Surrey, England.
Jamieson, P. (1997) Common Fallacies in Wind Tua bin Design. Proc. of the 19th British Wind
Energy Association Annual Conference. Mechanical Engineering Publications, London.
Kelley, N. (1993) Full Vector (3-D) Inflow Simulation in Natural and Wind Farm Environment Using
an Expanded Version of SNLWIND (Veers) Turbulence Code. Proc. of the 14th ASME Wind Energy
Symposium. American Society of Mechanical Engineers, New York.
Laino, D. J. (1997) Evaluating Sources of Wind Tua bin Fatigue Damage, PhD Dissertation,
University of Utah.
Manwell. J. F., McGowan, J. G., Adulwahid, U., Rogers, A., McNiff, B. P. (1996) A Graphical
Interface Based Model for Wind Tua bin Drive Train Dynamics. Proc. of the 1996 American Wind
Energy Association Annual Conference, American Wind Energy Association, Washington DC.
McNiff, B. P., Musial, W. D., Erichello, R. (1990) Variations in Gear Fatigue Life for Different
Braking Strategies. Proc. of the 1990 American Wind Energy Association Annual Conference. American
Wind Energy Association, Washington DC.
National Research Council (1991) Assessment of Research Needs for Wind Tua bin Rô-to Materials
Technology. Committee on Assessment of Research Needs for Wind Tua bin Rô-to Materials
Technology. Energy Engineering Board, National Research Council, National Academy Press,
Washington, DC.
Parmley, R. D. (1997) Standard Handbook of Fastening and Joining. 3rd Edition, McGraw Hill, New
York.
Peery, D. j., Weingart, O. (1980) Low Cost Composite Blades for Large Wind Tua bins. Proc. of the
A/AA/SERI Conference, Boulder CO.
62
Perkins, F., Jones, R. W. (1981) The Effect of Delta 3 on a Yawing HAWT Blade and on Yaw
Dynamics, Wind Tua bin Dynamics, NASA Conference Publication 2185.
Pytel, A., Singer, F. L. (1987) Strength of Materials. Harper and Row. New York.
Selig, M. (1998) UIUC Airfoil Coordinates Data Base, UIUC Airfoil Data Site, Internet:
http://amber.aae.uiucc.edu/~m-selig/ads.html.
Selig, M., Tangler, J, L, (1995) Development of a Multipoint Inverse Design Method for Horizontal
Axis Wind Tua bins. Wind Engineering, 19(2), 91-105.
Shigley, R. G., Mischke, C. R. (1989) Mechanical Engineering Design, 5th Edition, McGraw Hill,
New York.
Shinozuka, M., Jan C, M, (1972) Digital Simulation of Random Processes and its Application.
Journal of Sound and Vibration, 25, 111-128.
Spotts, M. F. (1985) Design of Machine Elements, Prentice Hall, Englewood Cliffs, NJ.
Stiesdal, H. (1990) The „Tua bin‟ Dynamic Load Calculation Program. Proc. of the 1990 American
Wind Energy Association Conference, American Wind Energy Association, Washington. DC.
Sutherland, H. J., Schluter L. L. (1989) The LIFE2 Computer Code. Numerical Formulation and Input
Parameters. Proc. of Windpower 89, SERI/TP-257-3628, American Wind Energy Association,
Washington, DC.
Thomson, W, T. (1981) Theory of Vibrations with Applications, 2nd Edition, Prentice-Hall, Englewood
Cliffs, NJ.
Van Bibber, L. E., Kelly, J. L. (1985) Westinghouse 600 kW Wind Tua bin Design. Proc. of
Windpower 1985, American Wind Energy Association, Washington, DC.
Veers, P. (1984) Modeling Stochastic Wind Loads on Vertical Axis Wind Tua bins, SAND83-1909.
Sandia National Laboratories, Albuquerque, NM.
Wilson, R, E., Freeman, L. N., Walker, S. N., Harman, C. R. (1996) Final Report for the FAST
Advanced Dynamics Code, OSU/NREL report 96-01, Department of Mechanical Engineering, Oregon
State University, Corvallis Oregon.
Wright, A. D., Sexton. J. H., Butterfield, C. P. (1981) AWECS Tower Dynamics Analysis
Methods and Results. Proc. of the Wind Tua bin Dynamics Workshop, Cleveland, OH
63
Chương 7 Điều khiển tua bin gió
7.1 Giới thiệu chung
Trong các chƣơng trƣớc đã giới thiệu cấu tạo, phƣơng thức hoạt động các bộ phận khác nhau của
tua bin gió. Để tua bin có thể hoạt động phát điện bình thƣờng cần phải có một hệ thống điều khiển. Hệ
thống điều khiển này liên kết các hoạt động của toàn bộ các bộ phận của tua bin với nhau. Ví dụ, một hệ
thống điều khiển có thể bao gồm: Các thiết bị đo tốc độ gió, kiểm tra độ an toàn của các bộ phận trong tua
bin, nhả phanh tổ máy, cài đặt góc nghiêng của cánh bánh xe công tác (BXCT), đóng kết nối điện từ máy
phát của tua bin đến lƣới điện. Hệ thống điều khiển có thể điều chỉnh góc nghiêng của cánh BXCT và
môment xoắn của máy phát để điều chỉnh dòng điện với các tốc độ quay khác nhau của tua bin gió. Tua
bin gió không thể sản xuất điện an toàn và hiệu quả nếu không có hệ thống điều khiển.
Có 3 hoạt động của hệ thống điều khiển trong đó 2 hoạt động quan trọng nhất là điều khiển giám
sát (supervisory control) và điều khiển động lực học (dynamic control). Điều khiển giám sát quản lý và
ghi lại hoạt động của tua bin ( VD: Nhả phanh hãm tổ máy, đóng công tác kết nối điện với lƣới điện).
Điều khiển động lực học quản lý các khía cạnh về các hoạt động cơ học để ổn định dòng điện của tổ máy (
VD: thay đổi góc đặt cánh BXCT cho phù hợp với sự thay đổi hỗn loạn của gió). Nguyên lý hoạt động và
thiết kế của hệ thống điều khiển tua bin gió đƣợc trình bày trong chƣơng này.
Chƣơng này giúp ngƣời đọc hiểu tổng quan về một số vấn đề quan trọng của hệ thống điều khiển
tua bin gió. Mục 7.1 mô tả các loại điều khiển của tua bin gió và đƣa ra một số ví dụ về hệ thống điều
khiển của một số tua bin thƣơng mại. Trong mục này còn bao gồm một số thông tin về các hệ thống phụ,
hệ thống truyền động và hệ thống cảm biến đo lƣờng. Mục 7.2 phát triển một mẫu tua bin cơ bản để giải
thích các thành phần cơ bản của một hệ thống điều khiển tua bin gió. Mục 7.3 Trình bày nguyên lý làm
việc của hệ thống điều khiển trong các tua bin gió hiện đại. Mục 7.4 và 7.5 trình bày chi tiết về điều khiển
giám sát và điều khiển động lực học.
Thiết kế hệ thống điều khiển và các vấn đề liên quan đến thiết kế hệ thống điều khiển cho tua bin
gió là một vấn đề rất lớn. Giáo trình này chỉ cung cấp một cách tổng quan về hệ thống điều khiển tua bin
gió. Để tìm hiểu một cách chi tiết và đầy đủ hơn về hệ thống điều khiển tua bin gió, bạn đọc có thế tìm
đọc trong Grimble và nnk. (1990), hoăc cũng có thể tìm đọc trong Gasch (1996), Heier (1996), Hau
(1996) and Freris (1990).
7.1.1. Các loại của hệ thống điều khiển trong tua bin gió.
Mục đích của hệ thống điều khiển trong tua bin gió là đảm bảo tua bin làm việc tự động và an
toàn. Việc này sẽ làm giảm chi phí vận hành, đƣa ra các ứng xử động học thích hợp và cải thiện chất
lƣợng sản phẩm năng lƣợng. Hoạt động điều khiển này thƣờng đƣợc thiết kế để thu đƣợc năng lƣợng lớn
nhất từ gió đồng thời giảm thiểu nhất tải trọng của tua bin.
Hệ thống điều khiển tua bin gió điển hình thƣờng đƣợc chia làm ba bộ phận riêng biệt. 1) Máy
điều khiển để điều khiển các tua bin trong trạm phát điện gió. 2) máy điều khiển giám sát cho từng tua
bin. 3) Hệ thống điều khiển động học cho từng bộ phận trong mỗi tua bin. Các máy điều khiển riêng rẽ
này làm việc theo một trật tự với sự phối hợp của các mạch điều khiển. ( Xem hình 7.1).
Máy điều khiển của trạm năng lƣợng gió thông thƣờng đƣợc gọi là hệ thống điều khiển giám sát
và tiếp nhận dữ liệu (supervisory control and data quisition system SCADA). Máy điều khiển này có thể
khởi động hoặc dừng sự làm việc của tua bin và đồng thời có thể phối hợp sự làm việc của các tua bin với
nhau trong trạm. Những máy điều khiển SCADA này kết nối với hệ thống điều khiển giám sát của từng
tua bin. Chi tiết về hệ thống SCADA đƣợc trình bày trong chƣơng 8.
64
Máy điều khiển của trạm
năng lƣợng gió (SCADA)
Khởi động
Kiểm tra hệ thống Kiểm tra các lỗi
Điều khiển gia tốc liên tiếp
Điều khiển tốc độ
Đồng bộ hóa
Các điều
khiển động Điều khiển trực tuyến
học từng
tuabin
Dừng máy
Dừn máy
khẩn cấp
Ngắt kết nối
Giảm tốc
Hãm phanh tổ máy
Máy điều khiển giám sát
Tuabin gió
Đặc tính của các chức năng giao nhiệm vụ đến các máy giám sát của từng tua bin là sự phản ứng
lại những sự thay đổi với các điều kiện làm việc và môi trƣờng trong khoảng thời gian trung bình và dài.
Do vậy, có thể có một khoảng thời gian tƣơng đối dài trong quá trình làm việc của máy điều khiển giám
sát. Điển hình, một máy điều khiển giám sát làm việc để thay đổi tình trạng của tua bin, ghi lại các điều
kiện về gió và các điều kiện bất thƣờng nhƣ tải trọng lớn; các điều kiện làm việc giới hạn, khởi động hoặc
dừng máy theo yêu cầu, cung cấp đầu vào điều khiển cho máy điều khiển động học nhƣ số vòng quay
hoặc tỉ lệ tốc độ mong muốn.
Máy điều khiển động học của các thành phần trong tua bin tạo ra sự điều chỉnh tốc độ liên tục đối
với các bô phận truyền động khi chúng phản ứng lại sự thay đổi của tốc độ gió trong điều kiện làm việc
bình thƣờng. Một máy điều khiển động học chỉ quản lý một bộ phận cụ thể của tua bin và để lại các điều
khiển khác cho các máy điều khiển động học còn lại. Hệ thống điều khiển giám sát kết hợp các hoạt động
của các máy điều khiển động học. Hệ thống điều khiển động học điều chỉnh góc đặt cánh BXCT để giảm
môment xoắn của bộ phận truyền động, kiểm soát dòng điện hoặc điều khiển vị trí của các truyền động.
Hiệu ứng của các tác động điều chỉnh đƣợc đo và sử dụng nhƣ là đầu vào của hệ thống điều khiển động
học.
66
7.1.2.2 Tua bin LagerweyLW 18/80
Tua bin Lagerwey LW 18/80 với công suất 80KW có hai cánh quạt, đƣờng kính cánh quạt 18m,
tốc độ quay của rô-tor có thể thay đổi ( hình 7.3). Điện năng đƣợc sản xuất từ máy phát cảm ứng từ đƣợc
điều chỉnh cho phù hợp với lƣới điện thông qua máy biến đổi dòng điện trƣớc khi kết nối với lƣới điện.
Tua bin có một hệ thống duy nhất để điều khiển góc đặt của cánh quạt. Cả hai cánh đều đƣợc gắn bản lề
với trục cho phép cánh tạo thành hình nón theo chiều gió khi sức ép của khí động học tăng trong điều kiện
gió lớn. Một hệ thống liên kết trong trục tua bin chuyển đổi dạng chuyển động hình nón này thành chuyển
động dọc trục để điều khiển rô-tor của máy phát trong trƣờng hợp gió lớn. Kết quả là năng lƣợng của tua
bin bị giới hạn ở mức 80KW khi tốc độ gió nằm trong khoảng 12.5 đến 25 m/s. Máy biến đổi dòng điện
điều khiển tốc độ quay của máy phát và dòng điện cho phù hợp với tần suất cũng nhƣ cƣờng độ của dòng
điện trên lƣới điện. Máy biến dòng cho phép tốc độ quay của rô-tor làm việc trong khoảng 50 đến 120
v/ph. Điều này cho phép rô-tor làm việc hiệu quả trong điều kiện gió nhỏ (nhỏ). Rô-tor chỉ ngừng làm
việc khi tốc độ gió nhỏ hơn 3m/s.
68
Hình 7.5: Tua bin Vestas V47-660/200 kW: 1. cánh quạt, 2. trục, 3. ổ gối đỡ cánh, 4. Trục truyền
động chính, 5. máy phát phụ, 6. hộp truyền động, 7. Phanh đĩa, 8. bộ phận làm mát bằng dầu, 9. trục
cacdan, 10. máy phát chính, 11. Xi phông, 12. mặt trụ chia (bánh răng), 13. bệ máy, 14. cột tháp, 15. điều
khiển độ lêch, 16. bu lông bánh răng, 17. v ng lệch hướng, 18. bánh răng lệch hướng, 19. bộ phân điều
khiển, 20. bộ phận thủy lực
69
Van gió
Bộ điều khiển
Cánh
Phanh
Máy phát
Lái sàn
Sàn quay
Mô tơ điều chỉnh Trụ
Hộp số
70
Rô-to quán
tính
Hệ thống truyền
động quán tính
Momen
khí động Momen điện
học
Trục
Phanh hãm
Mômen máy phát của tua bin có tốc độ không đổi = f(mômen độc lực học, hệ thống động lực học)
(7.2.1)
Bộ phận truyền động đƣợc thiết kế bởi các thành phần khác nhau. Bộ phận này không thể điều
khiển đƣợc do vậy chỉ có một cách để điều khiển mômen máy phát trong tua bin có tốc độ quay không đổi
là tác động lên mômen khí động học.
Trong tua bin có tốc độ thay đổi, mômen máy phát có thể đƣợc thay đổi không phụ thuộc vào
mômen khí động học và các thông số khác.
Mômen máy phát trong tua bin có tốc độ thay đổi = f(hệ thống điều khiển mômen máy phát)
(7.2.2)
Trong hệ thống này, khí động học và mômen máy phát có thể đƣợc điều khiển độc lập. Tốc độ có
thể đƣợc thay đổi bằng cách thay đổi khí động học hoặc mômen máy phát, kết quả là có một sự tăng tốc
hoặc giảm tốc của rô-to.
7.2.2 Các thành phần của hệ thống điều khiển.
Quá trình điều khiển điện tử và cơ khí yêu cầu 5 thành phần chức năng chính (Hình 7.8)
1.Hệ thống xử lý bao gồm một hay nhiều tiếp điểm cho phép quá trình xử lý thay đổi hoặc bị chi
phối.
2.Bộ cảm biến hoặc máy chỉ báo kết nối trạng thái của quá trình điều khiển với hệ thống điều
khiển.
3.Một máy điều khiển bao gồm phần cứng và phần mềm để xác định những hoạt động điều khiển
cần đƣợc tiến hành. Máy điều khiển này bao gồm máy tính, mạch điện hoặc các hệ thống cơ khí.
4.Bộ khuếch đại công suất để cung cấp năng lƣợng cho các hoạt động điều khiển. Bộ khuếch đại
công suất đƣợc điều khiển bởi dòng điện có công suất nhỏ. Dòng điện này đƣợc sử dụng để điều khiển
năng lƣợng từ nguồn điện công suất lớn bên ngoài.
5.Cơ cấu truyền động hoặc các thành phần tác động vào quá trình điều khiển làm thay đổi các hoạt
động của hệ thống.
Ví dụ về mỗi thành phần chức năng đƣợc trình bày trong các mục tiếp theo.
71
Input Bộ khuếch đại Cơ cấu Hệ thống
Máy điều khiển Output
năng lượng truyền động xử lý
Bộ cảm biến
72
Mạch điện có thể cung cấp đƣờng kết nối trực tiếp từ đầu ra của bộ phận cảm biến đến các hoạt
động điều khiển mong muốn. Mạch điện cũng có thể đƣợc thiết kế bao gồm các một đƣờng đặc trƣng
động lực học để nhập các tín hiệu theo yêu cầu hoạt động động lực học của hệ thống
Máy vi tính thƣờng đƣợc sử dụng cho các thiết bị điều khiển. Máy vi tính có thể đƣợc thiết lập cấu
hình để xử lý số hóa hoặc tƣơng tự hóa các tín hiệu đầu ra, đầu vào. Nó cũng đƣợc lập trình để thực hiện
các thuật toán logic phức tạp và cung cấp đƣờng đặc trƣng động học cho các dữ liệu đầu vào. Ƣu điểm
của hệ điều khiển bằng máy vi tính là dễ dàng, linh hoạt. Các hoạt động điều khiển có thể dễ dàng thay
đổi bằng cách lập trình lại chƣơng trình điều khiển cho máy tính.
Chi tiết về các loại khác nhau của thiết bị điều khiển đƣợc trình bày trong mục 7.4.4 và 7.5.4
7.2.3 Điều khiển các quá trình hoạt động của tua bin
Các quá trình làm việc của tua bin nhƣ sự phát triển của mômen khí động học và mômen máy
phát, sự chuyển đổi từ dòng điện thành chuyển động đều có thể chịu tác động của các hoạt động điều
khiển. Chi tiết về một vài tác dụng điển hình đến các hoạt động trong tua bin gió đƣợc trình bày trong
phần này.
74
Máy phát có thể đƣợc kết nối với lƣới điện thông qua một máy biến dòng. Điều này cho phép
mômen máy phát đƣợc cài đặt với hầu hết các giá trị mong muốn một cách rất nhanh chóng. Máy biến
dòng xác định tần số, pha, điện áp, của dòng điện từ máy phát bởi vậy nó điều khiển mômen máy phát.
7.3 Ho t động đi n hình của tua bin kết nối với lưới điện
Mỗi quá trình điều khiển giới thiệu ở trên ( điều khiển mômen khí động học, điều khiển mômen
máy phát, điều khiển mômen hãm, điều khiển hƣớng lắc ngang) và các loại điều khiển khác đƣợc kết hợp
với nhau để biến động năng trong tua bin thành điện năng. Toàn bộ phƣơng pháp hoạt động xác định các
thành phần nào cần đƣợc điều khiển. Ví dụ, một bộ phận của toàn bộ quá trình điều khiển, điều khiển
mômen rô-to đê đạt đƣợc năng lƣợng lớn nhất, giảm thiệu nội lực trong trục và cánh quạt, điều khiển góc
đặt cánh để khởi động rô-to, điều khiển năng lƣợng điện, hoặc dừng máy.
Tổng quát hóa, mục đích điều khiển tua bin là 1) giảm thiểu chi phí hoạt động bằng cách giảm lực
tác động vào tua bin, tăng tuổi thọ của thiết bị, 2) đảm bảo tua bin làm việc an toàn, 3) đạt đƣợc năng
lƣợng lớn nhất. Sơ đồ điều khiển sử dụng cho các hoạt động của tua bin phụ thuộc vào thiết kế của tua
bin. Trong các giới hạn về thiết kế, sơ đồ điều khiển tối ƣu đƣợc chọn để đạt đƣợc những mục đích này.
Chi tiết về sơ đồ hoạt động điều khiển của tua bin đƣợc trình bày trong mục 7.3.1.
Tiếp cận chính xác của việc điều khiển tua bin gió và mục đích trực tiếp cho sơ đồ điều khiển phụ
thuộc vào chế độ làm việc của tua bin. Dƣới vận tốc gió định mức, điều khiển tua bin để đạt tối đa về
năng lƣợng. Khi làm việc với vận tốc gió vƣợt vận tốc gió định mức, mục đích của điều khiển tua bin là
giới hạn năng lƣợng. Sơ đồ điều khiển cho thiết bị thay đổi góc đặt cánh và điều tiết lực hãm là một hàm
của vận tốc gió và các lựa chọn đầu vào của điều khiển ( Hình 7.10). Đối với tua bin có tốc độ không đổi
không có các lựa chọn cho đầu vào của điều khiển. Các loại tua bin này sử dụng sự thay đổi góc đặt cánh
cho việc khởi động máy, sau khởi động nó chỉ điều khiển năng lƣợng khi vận tốc gió vƣợt vận tốc gió
định mức. Trong những loại tua bin có thể thay đổi đƣợc tốc độ, nó sử dụng điều khiển góc đặt cánh chỉ
khi vận tốc gió vƣợt vận tốc định mức nhƣng nó sử dụng điều khiển mômen máy phát cho toàn bộ phạm
vi làm việc của tua bin. Ghi nhớ rằng, có một vài tiếp cận về điều khiển tua bin có thể đƣợc sử dụng
nhƣng rất hiếm đƣợc tìm thấy trong các bản thiết kế thƣơng mại ví dụ nhƣ điều khiển lệch ngang để giới
hạn năng lƣợng đầu ra.
75
Ucut-in< U < Urated Urated < U < Ucut-out
Hình 7.1 : Tổng quan về sơ đồ điều khiển: U vận tốc gió, Ucut-in ; Ucut-out; Urate lần lượt là Vận tốc
nhỏ nhất, vận tốc lớn nhất, vận tốc định mức
Chi tiết về sơ đồ hoạt động điều khiển của tua bin gió đƣợc trình bày trong các phần tiếp sau.
Nguyên lý hoạt động cho hai loại tua bin (tua bin có tốc độ không đổi và tua bin có tốc độ thay đổi) sẽ
đƣợc trình bày trong hai phần riêng biệt.
76
Sơ đồ khởi động của tua bin cũng là một hàm của các lựa chọn điều khiển. Đối với những tua bin
(loại có tốc độ không đổi, góc đặt cánh có thể điều chỉnh đƣợc) thì luôn luôn điều chỉnh góc đặt cánh để
tăng tốc độ rô-to đến tốc độ làm việc trƣớc khi máy phát đƣợc kết nối. Những tua bin (Loại có tốc độ
không đổi, lực cản có thể đƣợc điều chỉnh) không thể nhờ mômen khí động học để tăng tốc độ tua bin.
Những loại tua bin này khởi động bằng cách kết nối máy phát với lƣới điện và đẩy tốc đến tốc độ làm
việc. Tua bin có tốc độ thay đổi đƣợc sử dụng sơ đồ khởi động giống sơ đồ của tua bin có tốc độ không
đổi nhƣng máy phát phải kết nối với lƣới điện thông qua máy biến dòng.
7.3.1.3 Tua bin với góc đặt cánh điều khiển được.
Rô-to với góc đặt cánh quạt thay đổi đƣợc thƣờng đƣợc sử dụng trong tua bin có tốc độ quay
không đổi điều khiển năng lƣợng tốt hơn. Góc đặt cánh có thể thay đổi để đạt đƣợc năng lƣợng ổn định
trong điều kiện gió lớn. Bởi vì góc đặt cánh thƣờng đƣợc thiết kế cho tối ƣu về năng lƣợng mà không cần
sự điều tiết của lực cản. Mômen khí động học có thể nhạy cảm với gió lớn do đó một bộ truyền động
77
nhanh của góc đặt phải đƣợc sử dụng để giải quyết vấn đề này. Trong điều kiện gió lớn, bộ truyền động
làm việc càng nhanh thì năng lƣợng đầu ra càng ổn định. Tuy nhiên, vận tốc xoay góc đặt cánh bị giới hạn
bởi cƣờng đồ của bộ truyền động và quán tính của cánh quạt. Thực tế, năng lƣợng chỉ đƣợc điều khiển ở
mức trung bình, một vài biến động năng lƣợng vẫn tồn tại. Dƣới năng lƣợng định mức, góc đặt cánh
thƣờng đƣợc giữ ổn định để hạn chế ăn mòn trong bộ truyền động của góc đặt cánh. Điều này có thề làm
giảm năng lƣợng nhƣng có thể tăng độ an toàn làm việc và hiệu quả kinh tế.
7.3.2 Nguyến l hoạt động của tua bin có v n tốc thay đổi
Tua bin kết nối với lƣới điện có tốc độ thay đổi đƣợc có thể cải thiện chất lƣợng điện. Yêu cầu về
giá thành điện năng thấp dẫn đến phải giới hạn tốc độ làm việc trong tua bin cỡ lớn. Tuy nhiên tua bin gió
có tốc độ biến đổi loại nhỏ cũng đã làm việc một cách hiệu quả. Trong phần này chỉ nghiên cứu nguyên lý
làm việc của tua bin có tốc độ thay đổi đối với tua bin có kết nối với lƣới điện.
Tốc độ phát
Điện năng
Hình 7.11: Hoạt động điếu tiết mômen cản của tua bin có tốc độ biến thiên
78
7.3.2.2 Tua bin có góc đặt cánh điều tiết được
Tua bin có tốc độ biến thiên và góc đặt cánh điều tiết đƣợc có hai phƣơng pháp để điều khiển:
Thay đổi tốc độ và thay đổi góc đặt cánh. Khi làm việc với tải bộ phận, tua bin này hoạt động tại góc đặt
cánh cố định với tốc độ rô-to thay đổi để duy trì tỉ tốc tối ƣu. Khi đạt đến năng lƣợng định mức, mômen
máy phát đƣợc sử dụng để điều khiển năng lƣợng điện đầu ra, trong khi góc đặt cánh đƣợc điều khiển để
duy trì tốc độ rô-to trong giới hạn cho phép. Trong điều kiện gió cực lớn năng lƣợng máy phát có thể
đƣợc duy trì ở mức không thay đổi trong khi tốc độ rô-to tăng. Phần năng lƣợng tăng trong điều kiện gió
lớn này đƣợc giữ lại dƣới dạng động năng của rô-to. Khi vận tốc gió giảm, sự giảm mômen khí động học
dẫn đến làm giảm tốc độ rô-to trong khi năng lƣợng máy phát đƣợc giữ không đổi. Khi vận tốc gió duy trì
ở mức cao góc đặt cánh có thể đƣợc thay đổi để giảm hiệu suất mômen khi động học để tiếp tục giảm tốc
độ rô-to. Với cách này năng lƣợng đƣợc điều khiển một cách chặt chẽ và cơ cấu chấp hành của góc đặt
cánh làm việc chậm hơn nhiều so với cơ cấu chấp hành đƣợc sử dụng trong tua bin có tốc độ không đổi.
79
Thu thập thông tin và báo cáo bao gồm: thu thập thông tin trong các hoạt động, thông báo các sự
cần thiết cho duy tu bảo dƣỡng, kết nối với các hoạt động khác bằng điện thoại, sóng radio, vệ tinh, vv
Giám sát các hoạt động bao gồm: giám sát hƣớng và tốc độ gió, giám sát điều kiện về lƣới điện để
xác định các hoạt động làm việc thích ứng.
Quản lý các hoạt động của tua bin bao gồm: chọn chế độ làm việc, quản lý quá trình chuyển tiếp
giữa các trạng thái làm việc, sắp xếp và định thời gian của các nhiệm vụ trong các chế độ làm việc, cung
cấp các giới hạn và các điểm cài đặt cho hệ thống điều khiển động học.
Khởi động hệ thống khẩn cấp và hệ thống an toàn bao gồm ngắt kết nối với lƣới điện, kích hoạt hệ
thống mômen khí động học và hệ thống phanh hãm trong điều kiện khẩn cấp.
80
Chế độ Chế độ tĩnh
chuyển tiếp
Khởi động
Dừng máy
Dừng máy
khẩn cấp
Hình 7.12: Chế độ hoạt động điển hình của tua bin gió
7.4.2.4 Chế độ làm việc kết nối với lưới điện Chế độ chuyển tiếp
Một vài tua bin có thể cần đƣợc đẩy tốc độ rô-to lên tốc độ làm việc bằng cách kết nối máy phát
với với lƣới điện. Đối với những tua bin không cần đẩy tốc độ quay rô-to bằng cách kết nối với lƣới điện,
81
khi tốc độ quay của rô-to tiếp cận với tốc độ làm việc máy phát hoặc máy biến dòng đƣợc đóng lại. Quá
trình sản xuất năng lƣợng bắt đầu khi kết thúc của quá trình kết nối với lƣới điện và tốc độ rô-to đạt đƣợc
tốc độ làm việc. Trong suốt quá trình kết nối, các lỗi của lƣới điện và hệ thống tiếp tục đƣợc kiểm tra và
tua bin tiếp tục đƣợc hƣớng theo hƣớng gió.
7.4.2.6 Chế độ ngắt kết nối lưới điện Chế độ chuyển tiếp
Nhiệm vụ của chế độ này là ngắt kết nối máy phát với lƣới điện, tạm ngừng hoạt động một số các
hệ thống điều khiển, hoặc cung cấp một số mục đích điều khiển mới. Chế độ này có thể là một quá trình
chuyển tiếp đến các chế độ dừng máy hoặc chế độ quay tự do.
82
7.4.3 Dự đoán sự cố
Khả năng dự báo sự cố liên tục của máy điều khiển giám sát phải bao gồm: kiểm tra các sự cố
trong các bộ phận của tua bin, các sự cố của thiết bị cảm biến, các giới hạn làm việc an toàn, các sự cố về
lƣới điện, và các điều kiện làm việc không theo mong muốn khác.
Sự cố các bộ phận của tua bin có thể đƣợc phát hiện trực tiếp hoặc gián tiếp. Ví dụ, Sự cố giữa
máy phát và hộp bánh răng có thể đƣợc phát hiện trực tiếp khi tốc độ máy phát và tốc độ rô-to không
tƣơng thích với nhau. Loại sự cố này cũng có thể đƣợc phát hiện khi tốc độ rô-to bị tăng quá cao hoặc khi
các thiết bị cản đầu cánh đƣợc triển khai. Các thiết bị cản đầu cánh này đƣợc thiết kế để giải phóng sự làm
việc của tua bin trong điều khiển lồng tốc. Hoạt động của hệ thống giám sát an toàn đảm bảo các thành
phần sự cố sẽ đƣợc phát hiện, nhƣng các sự cố thƣờng xuyên xuất hiện có thể cần đƣợc giám sát cụ thể để
đảm bảo chúng đƣợc phát hiện trƣớc khi ảnh hƣởng xấu đến sự làm việc của tua bin. Bởi vậy phát hiện
các tình trạng sự cố của tua bin yêu cầu một sự phân tích đầy đủ của các tình trạng sự cố có thể xảy ra và
các hậu quả của nó đồng thời phải ƣớc lƣợng đƣợc số lƣợng các bộ cảm biến cần thiết để phát hiện những
sự cố này.
Trong khi hầu hết các bộ cảm biến đƣợc sử dụng trong tua bin đều có độ bền và chính xác cao
nhƣng sự cố đối với các bộ cảm ứng này cũng có thể xuất hiện. Bộ cảm biến sẽ làm việc an toàn nếu hệ
thống đƣợc thiết kế với hai bộ cảm biến khác nhau. Các bộ cảm biến đƣợc chọn phải chịu đƣợc các điều
kiện về thời tiết nhƣ lạnh, ẩm ƣớt, hoặc khô hanh, chịu đƣợc dao động, dòng điện và từ trƣờng cao, sự
lắng đọng của tuyết, của dầu và các chất bẩn khác, chịu đƣợc điều khiển gió lớn và hơi nƣớc muối.
83
120Vac Mặt đất
Bắt đâu
(1)
Công tắc thao
tác bằng tay Rơle dây
cuốn
Công tắc rơle bình thường ở
chế độ mở
(2)
Công tắc rơle khởi Công tắc rơle bình Cuộn dây
động nén khí môtơ máy nén
khí
(3)
rơle rơle dao rơle gió Công tắc rơle bình Cuộn dây rơle
khởi động
khí nén solennoit
động phanh hãm
(4)
sôlênnôit
Công tắc rơle
sôlênnôit phanh
hãm
(5)
Hình 7.13: Ví dụ về lôgic hình thang; cho một miêu tả trong phần 1 đến phần 5, xem mục 7.4.4.1
Trong hình 7.13, cơ cấu hoạt động của nút khởi động cung cấp năng lƣợng cho cuộn dây của rơle
khởi động, một rơle với nhiều bộ công tắc (Phần 1). Khi rơle khởi động đƣợc cung cấp năng lƣợng, máy
nén khí của phanh hãm sẽ làm việc nếu rơle áp suất bình khí nén đƣợc đóng (Phần 2). Nếu áp suất trong
bình khi nén đủ lớn, máy nén khí duy trì ở chế độ tắt. Tại mọi thời điểm, nếu áp suất trong bình khí nén
thấp, máy nén khí sẽ hoạt động. Nếu rơle khởi động đƣợc cung cấp năng lƣợng và bộ cảm biến dao động
chỉ ra rằng không có bất kỳ dao động nào vƣợt quá giới hạn cho phép và tốc độ gió nằm trong phạm vi
làm việc và áp suất trong bình khí nén đủ lớn thì rơle sôlênnôit của phanh hãm đƣợc cung cấp năng lƣợng
(Phần 3). Các công tắc trên rơle này mở cuộn dây sôlênnôi đẩy khí vào hệ thống phanh để nhả hệ thống
phanh hãm. Các công tắc khác trên rơle này cho phép máy kết nối máy phát đƣợc nạp năng lƣợng nếu
lƣợng khí trong bít tông của hệ thống phanh đủ (Phần 5). Tại điểm này, tua bin tăng tốc độ đến tốc độ làm
việc và bắt đầu phát điện. Nếu vận tốc gió giảm cuộn dây sôlênnôit của hệ thống phanh sẽ đƣợc đóng lại,
giải phóng khí từ hệ thống phanh (Phần 3, 4). Khi cuộn dây sôlênnôit đóng, máy phát sẽ đƣợc ngắt kết nối
với lƣới điện (Phần 5). Hệ thống phanh sẽ ngừng hoạt động của tua bin và tua bin sẽ sẵn sàng làm việc trở
lại khi vận tốc gió nằm trong phạm vi làm việc và không có hiện tƣợng dao động lớn hoặc áp suất khí
thấp.
84
Một vài khía cạnh của điều khiển lôgic phần cứng cũng có thể đƣợc sử dụng nhƣ là một hệ thống
dự phòng để đảm bảo tua bin dừng làm việc an toàn, ví dụ trong các tình huống khẩn cấp nếu máy tính
chính bị sự cố.
85
7.5 guy n l làm việc của đi u khi n động học
Trong phần này sẽ trình bày tổng quan về các hệ thống điều khiển động học, quá trình thiết kế hệ
thống điều khiển động học và các ví dụ về hệ thống điều khiển động học áp dụng cho tua bin gió. Thông
tin chi tiết về thiết kế hệ thống điều khiển động học có thể tham khảo trong một số sách chuyên ngành
nhƣ sách của Kuo (1987), của Nise (1992).
86
khiển tua bin gió. Mục cuối cùng trong chƣơng này sẽ trình bày một vài ví dụ về sự làm việc của hệ thống
điều khiển động học.
7.5.2.1 Phương pháp thiế kết hệ thống điều khiển động học c điển
Quá trình thiết kế hệ thống điều khiển động học cổ điển đƣợc miêu tả trong Grimble và nnk.
(1990) và De LaSalle và nnk. (1990) bao gồm các bƣớc sau đây:
Phận tích vấn đề: Phân tích vấn đề phải bao gồm sự xem xét về hoạt động của máy móc theo yêu
cầu, các nỗ lực điều khiển có thể, các cơ cấu chấp hành và bộ cảm biến thích hợp và các điều kiện ràng
buộc thiết kế khác. Phân tích này có thể chỉ ra sự cần thiết cho một thiết kế máy móc hiện đại với các đặc
tính điều khiển cải tiến.
Xây dựng các đặc tính kỹ thuật: Các đặc tính thiết kế sơ bộ bao gồm thời gian đáp ứng của hệ
thống, sự vƣợt quá trong phản ứng của hệ thống điều khiển đổi với một bƣớc đầu vào và ổn định của hệ
thống điều khiển. Có thể phải xem xét đến một bộ cân bằng phần cứng. Phản ứng hệ thống nhanh hơn yêu
cầu năng lƣợng cơ cấu chấp hành lớn, tăng các tải trọng thành phần giảm các sự mỏi trong các bộ phận.
hân thích
vấn đề
hát triển mô
hình điều khiển
tuyến tính
hát triển mô
phỏng mô
hình phi tuyến Thiết kế hệ
thống điều
khiển
Hình 7.14: Phương pháp thiết kế hệ thống điều khiển (Grimble và nnk., 1990).
Phát triển mô hình. Thiết kế hệ thống điều khiển yêu cầu một sự hiểu biết về động lực học
hệ thống, thƣờng thông qua các mô hình toán. Phụ thuộc vào hệ thống, mô hình có thể là tuyến tính hoặc
phi tuyến. Mỗi một mô hình hệ thống phụ cần phản ánh chính xác động lực học hệ thống trong dải tần số
quan tâm.
Tuyến tính hóa mô hình. Trong thiết kế hệ thống điều khiển ban đầu các mô hình thƣờng
đƣợc tuyến tính hóa. Điều này cho phép sử dụng một số lƣợng lớn các tiếp cận đơn giản đối với thiết kế
hệ thống tuyến tính.
87
Thiết kế điều khiển. Trong suốt quá trình thiết kế, kỹ sƣ cố gắng thiết kế hệ thống động lực
học cho máy điều khiển để đáp ứng đƣợc các yêu cầu kỹ thuất thiết kế. Trong tiếp cận thiết kế cổ điển,
đƣờng đặc trƣng động học của hệ thống điều khiển đƣợc thiết kế phù hợp với tiêu chí nhất định trên ba
dãy tần số khác nhau. Trạng thái hệ thống tần số thấp đƣợc thiết kế để theo dõi các lệch điều khiển mong
muốn. Trong dãy tần số trung bình, các phản ứng hệ thống đƣợc thiết kế để đảm bảo ổn định và đáp ứng
đầy đủ yêu cầu thời gian của hệ thống. Trong dãy tần số cao, động lực học phải đảm bảo âm thanh đo
lƣờng của bộ cảm biến không ảnh hƣởng đến ứng xử của hệ thống.
Phát triển mô hình. Theo yêu cầu phải kiểm tra sự làm việc của một thiết kế máy điều
khiển, một phần mềm máy tính cho mô phỏng phi tuyến đƣợc phát triển dựa trên các mô hình hệ thống
phi tuyến. Nếu có thể, kết quả của mô hình này sẽ đƣợc kiểm tra với số liệu thực tế.
Nghiên cứu mô phỏng. Khi một máy điều khiển thử nghiệm đƣợc thiết kế cho mô hình
tuyến tính hóa, mô hình mô phỏng phi tuyến đƣợc sử dụng để kiểm tra sự ứng xử thực tế của hệ thống phi
tuyến bao gồm cả thiết kế của máy điều khiển mới.
Tiến hành thực hiện. Khi đạt đƣợc bản thiết kế đầy đủ, máy điều khiển đƣợc tiến hành hoạt
động trong tua bin gió và đƣợc kiểm tra ở trạm năng lƣợng gió.
Quá trình này là một quá trình lặp. Tại mỗi điểm, nó có thể phải quay lại bƣớc trƣớc xác định lại
đối tƣợng điều khiển, cải tiến mô hình, hoặc thiết kế lại máy điều khiển.
88
7.5.2.3 Mô h nh hệ thống tua bin gió
Các mô hình hệ thống thƣờng là mô hình toán dựa trên các nguyên lý vật lý. Khi các mô hình
không thể đƣợc phát triển, một tiếp cận thí nghiệm có thể đƣợc sử dụng.
Mô h nh dựa trên các nguyên lý vật lý. Mô hình động lực học đƣợc sử dụng để hiểu, phân tích
và phân loại cho các động lực học hệ thống để thiết hệ thống điều khiển. Các phƣơng trình vi phân thƣờng
đƣợc viết một trong hai phom: biểu diễn dạng hàm truyền; biểu diễn dƣới dạng không gian trạng thái.
Dạng hàm truyền bao gồm việc sử dụng phép biến đổi Laplace và mô tả đặc điểm hệ thống trong miền tần
số, trong khi dạng trạng thái không gian mô tả đặc điểm hệ thống trong miền thời gian. Mỗi một cách biểu
diễn hệ thống có thể hoán vị cho nhau và sự lựa chọn cách tiếp cận phù thuộc vào độ phức tạp của hệ
thống và công cụ phân tích có thể của ngƣời thiết kế hệ thống.
Nên nhớ rằng, kết quả của thiết kế hệ thống điều khiển chỉ tốt bằng mô hình đƣợc sử dụng để mô
tả hệ thống. Một hệ thống điều khiển dựa trên một mô hình bỏ qua tiêu chuẩn về động lực học của một bộ
phận máy móc có thể dẫn đến các sai sót ngẫu nhiên. Tuy nhiên một mô hình với quá nhiều chi tiết sẽ làm
tăng độ phức tạp và giá thành phân tích và có thể yêu cầu thêm một số thông số đầu vào không xác định
đƣợc. Kỹ thuật phán đoán đƣợc yêu cầu sử dụng trong việc phát triển mô hình hệ thống này. Đơn giản,
chƣa thích hợp, các mô hình thƣờng miêu tả một hệ thống nhƣ là một tập hợp của các khối lƣợng tập
trung hoặc các phần tử cơ khí lý tƣởng, bỏ qua các chi tiết ít quan trọng. Các mô hình này thƣờng hiệu
quả nếu khối lƣợng hoặc độ cứng của các phần tử lý tƣởng hóa đƣợc chọn. Bởi vậy mô hình biểu diễn
chân thật các ứng xử của hệ thống. Thông thƣờng các dữ liệu từ hoạt động của tua bin đƣợc sử dụng để
xác định các thông số này. Bằng cách này, mô hình đơn giản phù hợp và biễu diễn đúng nhất các hoạt
động của tua bin. Ngay khi mô hình tua bin đƣợc chọn biễu diễn động lực học hệ thống thì một sự điều
khiển thành công hệ thống có thể đƣợc phát triển. Khi một hệ thống phi tuyến đƣợc tuyến tính hóa cho
thiết kế hệ thống điều khiển, các mô phỏng ứng xử của hệ thống trên phạm vi rộng của các hoạt động phi
tuyến nên đƣợc sử dụng để kiểm tra hoạt động của toàn bộ hệ thống điều khiển.
Các hệ thống con quan trọng của tua bin gió cần đƣợc mô hình là:
Kết cấu gió
Động lực học của hệ thống truyền động
Mômen khí động học
Động lực học máy phát
Động lực học cơ cấu chấp hành
Động lực học kết cấu
Động lực học đo lƣờng
Động lực học máy điều khiển.
Sự tƣơng tác giữa các hệ thống con này trong tua bin gió điều khiển tốc độ quay góc đặt cánh bằng
hằng số đƣợc trình bày trong hình 7.15. Một vài mô hình toán học của các hệ thống con trong tua bin gió
có thể xem trong tài liệu của Novak và nnk. (1995).
ự nhận biết hệ thống. Trong các trƣờng hợp mà mô hình mô phỏng các nhiễu loạn hoặc mô
hình của các hệ thống phức tạp không thể xác định bằng các nguyên lý vật lý, tiếp cận về thí nghiệm nhận
dạng hệ thống có thể đƣợc sử dụng (xem Ljung, 1999). Tiếp cận nhận dạng hệ thống bao gồm 4 bƣớc
chính:
1. Lập kế hoạch thí nghiệm
2. Chọn kết cấu mô hình
3. Xác đinh các tham số
4. Kiểm tra mô hình
89
Nhận dạng hệ thống bao gồm đo lƣờng đầu ra hệ thống với một tín hiệu đầu vào đã biết hoặc đo
lƣờng các thông số đầu vào của hệ thống. Các phƣơng pháp khác có thể sử dụng một đầu vào bất kỳ
nhƣng chúng yêu cầu tăng khả năng tính toán của máy tính để xác định mô hình hệ thống. Theo yêu cầu
nhận dạng chính xác động lực học của hệ thống, tín hiệu đầu vào nên đƣợc thiết kế để kích thích toàn bộ
các mô hình của hệ thống để cung cấp các thông số đầu ra đo đƣợc.
Dữ liệu thí nghiệm đƣợc sử dụng để làm phù hợp các thông số cho một mô hình của hệ thống. Mô
hình hệ thống này có thể đƣợc dựa trên các hiểu biết trƣớc về hệ thống và nhiễu loạn. Nếu hệ thống làm
việc tuyến tính trong một phạm vi làm việc cụ thể thì sự biểu diễn chung của hệ thống tuyến tính, cái đƣợc
gọi là mô hình hộp đen “ black box models” có thể đƣợc sử dụng. Trong những trƣờng hợp này, các thông
số cũng nhƣ thứ tự của các mô hình đƣợc xác định. Nó có thể làm giảm số lƣợng số lƣợng các thông số
chƣa biết bằng cách sử dụng các mô hình đƣợc phát triển từ các nguyên lý vật lý.
Chuyển
động kết Các lực
cấu kết cấu
Tốc độ rô-to ăng
máy phát lượng
Gió Tốc độ trục
Động lực học
Mômen khí động của hệ thống Động lực học
học truyền động máy phát
Mômen ổ hản ứng
trục của máy
phát
Cơ cấu vận
hành góc đặt
cánh
ệnh điều ăng
khiển góc lượng đo
Động lực lường Động lực máy
Động lực học điều khiển biến năng
cơ cấu chấp
hành đặt cánh
90
7.5.3 Các vấn đề điều khiển trong thiết kế tua bin gió
7.5.3.1 Các vấn đề điều khiển cụ thể đối với tua bin gió
Các tua bin gió đặt ra một số các thách thức cho ngƣời thiết kế hệ thống điều khiển (xem De
LaSalle và nnk., 1990). Các nhà máy phát điện thông thƣờng có một nguồn năng lƣợng có thể điều khiển
một cách dễ dàng và chỉ chịu các nhiễu loạn nhỏ từ lƣới điện. Trái ngƣợc với các nhà máy điện thông
thƣờng, nguồn năng lƣợng cho tua bin gió chịu sự biến đổi lớn, dẫn đến có các tải trọng tức thời lớn trong
hệ thống. Hệ quả của việc biến đổi này và một số khía cạnh khác của tua bin gió dẫn đến việc cần phải có
thiết kế hệ thống điều khiển riêng cho tua bin gió:
Đối với tua bin gió có hệ thống điều chỉnh nghèo nàn thì kết cấu của tua bin và các thành phần
của nó nhƣ trục, hộp bánh răng phải chịu tải trọng lớn. Điều này dẫn đến kết cấu các bộ phận của tua bin
nặng hơn, làm tăng giá thành tua bin.
Một hệ thống điều khiển tua bin gió bao gồm các kết cấu có hệ số giảm chấn nhỏ để tránh sự tiêu
tán năng lƣợng trong hệ thống gây ra bởi tần số hàm cƣỡng bức trùng với tần số của vòng quay rô-to và
hàm điều hòa của nó. Các thành phần động lực học, bao gồm sự biến thiên cuốn xoáy của gió, mô men
khí động học, rô-to, bộ truyền động, tháp tua bin, và động lực học của hệ thống điều khiển, có thể đều có
các phản ứng tƣơng đối lớn trong phạm vi tần số của rô-to quay. Các sự cộng hƣởng tiềm tàng này đặt vào
một vài ràng buộc trong hoạt động điều khiển. Các cộng hƣởng giữa tốc độ quay và hệ thống điều khiển
mômen xoắn, điều khiển góc đặt cánh, và các tần số tự nhiên điều khiển (cánh quạt, bộ truyền động, tháp
tua bin) phải đƣợc loại bỏ. Các tần số tự nhiên trùng với tần số của hàm cƣỡng bức hệ thống (hàm điều
hòa của tần số quay cánh quạt, các tần số của biến thiến gió) cũng cần phải đƣợc tránh.
Các mô men khí động học là các đại lƣợng phi tuyến. Điều này dẫn đến có sự khác nhau tƣơng đối
lớn trong ứng xử của tua bin tại các điều kiện hoạt động khác nhau. Sự khác nhau này có thể yêu cầu việc
sử dụng máy điều khiển phi tuyến hoặc các luật điều khiển khác nhau cho các chế độ gió khác nhau.
Các sự chuyển tiếp của hoạt động động lực học từ một luật hoặc thuật toán điều khiển đến một luật
hoặc thuật toán điều khiển khác cần đƣợc thiết kế cẩn thận.
Mục đích của điều khiển không những làm giảm tải trọng tức thời mà còn làm giảm tải trọng mỏi
gây ra bởi các biến thiên tải trọng xung quanh tải trọng trung bình.
Trọng lƣợng và giá thành của thiết bị đo lƣờng điều khiển và cơ cấu chấp hành phải nhỏ nhất.
Các số lƣợng đo lƣờng mômen xoắn tin cậy cho sự phản hồi thông thƣờng khó đạt đƣợc.
Các mô hình hệ thống thích hợp hệ thƣờng khó đƣợc xác định. Các mô hình hệ thống cần đƣợc so
sánh với các số liệu đo lƣờng để khẳng định các thông số mô hình thể hiện các hoạt động của tua bin một
cách chân thực. Ngƣời thiết hệ thống điều khiển cố gắng tạo ra một hệ thống điều khiển miêu tả động lực
học của hệ thống mà không cần quá phức tạp. Sự phức tạp của mô hình làm tăng thời gian thiết kế và
đồng thời dẫn đến có nhiều thông số trong mô hình khó xác định đƣợc. Các mô hình đơn giản có thể miêu
tả tốt hệ thống nhƣng không phải với các thông số dự kiến. Một cơ cấu dẫn động bao gồm động lực học
hộp bánh răng (khe hở và sự uốn của các răng trong bánh xe), các trục có hệ số giảm chấn thấp, và một
rô-to không tuyệt đối cứng chịu tác dụng mômen khí động học phi tuyến. Những vấn đề này có thể dẫn
đến sự ứng xử khác nhau giữa tua bin và mô hình đơn giản (xem Novak và nnk., 1995).
Nghiên cứu mở rộng phải đƣợc yêu cầu và tiến hành đối với các tải trọng chính xác tác dụng lên
tua bin.
Một vài ví dụ về vấn đề này đƣợc trình bày trong các phần sau. Đầu tiên, các ƣu điểm của hệ
thống điều khiển mạch đóng và mạch mở đƣợc minh họa sử dụng một hệ thống điều khiển góc đặt cánh
đơn giản. Phản ứng của hệ thống với các nhiễu loạn bên ngoài đƣợc phân tích. Sau đó, các vấn đề về tần
số tự nhiên và cộng hƣởng đƣợc minh họa sử dụng hệ thống điều khiển góc đặt cánh mạch đóng. Trong
hai đề mục nhỏ tiếp theo, các vấn đề liên quan đến sự làm việc của tua bin có tốc độ biến thiên đƣợc xem
xét, bao gồm điều khiển cho tỉ tốc tối ƣu trong điều kiện gió nhỏ và các vấn đề liên quan đến quá trình
chuyển tiếp đến các trạng thái làm việc khác trong điều kiện vận tốc gió lớn. Cuối cùng, một vài chi tiết
về mô hình nhiễu loạn trong hệ thống điều khiển góc đặt cánh đƣợc đƣa ra.
91
7.5.3.2 Phản ứng của mạch đóng, mạch mở đối với nhi u loạn
Các sự khác nhau cơ bản của hệ thống điều khiển mạch đóng và hệ thống điều khiển mạch mở
đƣợc trình bày trong hình 7.16. Có thể nhận ra rằng, trong một hệ thống điều khiển mạch mở, các hoạt
động của máy điều khiển dựa trên sự yêu cầu của trạng thái hệ thống, không tham chiếu đến tính trạng
thực tế của quá trình. Trong hệ thống phản hồi mạch đóng, máy điều khiển đƣợc thiết kế để sử dụng sự
khác nhau giữa yêu cầu và thực tế của đầu ra hệ thống để xác định các hoạt động của nó.
NhiÔu lo¹n
Bé c¶m biÕn
J p B p K p kv(t ) m p Qp (7.5.1)
Trong đó
p là vị trí góc của mô tơ, J tổng quán tính của cánh quạt và mô tơ, B là hệ số hệ thống góc đặt
cánh của ma sát nhớt, K hằng số đàn hồi hệ thống góc đặt cánh, k là độ dốc của đồ thị điện áp-mômen
xoắn cho sự kết hợp mô tơ/ cơ cấu chuyển động của góc đặt cánh, v(t) là điện áp áp dụng vào mô tơ, m là
độ dốc của đồ thị mômen xoắn-tốc độ cho sự kết hợp của mô tơ/cơ cấu chuyển động góc đặt cánh, Qp là
mômen góc đặt cánh do lực độc học và mômen khí động học tác dụng nhƣ là một nhiễu loạn đối với hệ
thống.
Nếu hệ thống ở trạng thái ổn định, thì đạo hàm của góc đặt cánh bằng 0 và v(t) có giá trị bằng
hằng số, v. Trong trƣờng hợp này, phƣơng trình vi phân trở thành :
92
k Q
p v p (7.5.2)
K K
Từ phƣơng trình này có thể nhận thấy rằng, vị trí góc đặt cánh của trạng thái ổn định là một hàm
của điện áp tác dụng vào mô tơ, hằng số đàn hồi và mômen lắc dọc trên cánh quạt. Mô men lắc dọc trên
cánh càng lớn hoặc hằng số đàn hồi càng nhỏ thì sai số trong góc đặt cánh càng lớn.
Tóm lại, ngƣời thiết kế cánh phải cố gắng làm tối thiểu mômen lắc dọc trên cánh, thiết kế một hệ
thống điều khiển sử dụng một điện áp cụ thể trong mô tơ cho một vị trí góc đặt cánh tham chiếu mong
muốn, p, ref :
K
v p , ref (7.5.3)
k
Trong trƣờng hợp này, phƣơng trình vi phân cho hệ thống mạch đóng:
J p ( B m) p K p K p ,ref Q p (7.5.4)
Ở đây, vị trí góc đặt cánh là đầu ra và hệ thống có hai thông số đầu vào, điện áp cho mô tơ của góc
đặt cánh và mômen nhiễu loạn từ mômen khí động học và mômen lắc dọc động lực học trên cánh quạt.
Nếu toàn bộ các đạo hàm và mômen nhiễu loạn lắc dọc bằng 0 thì có thể thấy rằng phản ứng của trạng
thái ổn định của hệ thống đối với yêu cầu vị trí góc đặt cánh mong muốn thực chất là góc đặt cánh mong
muốn.
Các quan hệ giữa các phần tử khác nhau trong một hệ thống điều khiển thƣờng đƣợc minh họa
bằng các sơ đồ khối. Một sơ đồ khối cho hệ thống này đƣợc trình bày ở hình 7.17.
93
K p , ref ( s) Qp ( s)
p ( s) (7.5.5)
J ( B m) s K
2
s J ( B m) s K
2
s
Trong đó: p ( s), p , ref ( s), Qp ( s) là biến đổi Laplace của p (s), p, ref , Qp(t). Số hạng thứ nhất
trong phƣơng trình 7.5.5 là hàm chuyển đổi từ điện áp đầu vào đến đầu ra góc đặt cánh. Số hạng thứ hai là
hàm chuyển đổi từ các nhiễu loạn ( Mômen lắc dọc) đến góc đặt cánh.
Phản ứng động học của mạch mở đối với một bƣớc nhảy đơn vị nhiễu loạn có thể đƣợc giải ra từ
nghịch đảo biến đổi Laplace của hàm chuyển đổi liên quan đến nhiễu loạn đối với góc đặt cánh cuối cùng.
Qp ( s)
p ( s) (7.5.6)
J s2 ( B m) s K
Nếu, ví dụ Qp(s) bằng 1/s đối với một bƣớc đầu vào thì động lực học của mô tơ và cánh quạt là
1
p ( s)
s / 16 s / 4 1
2 (7.5.7)
Trong đó: J = 1/16 , (B-m)= 1/4 và K , Qp,và k đều bằng 1, phản ứng của một bƣớc nhiễu loạn
đƣợc trình bày trong hình 7.18.
Trong hình 7.18, độ sai lệch của các hoạt động lý tƣởng bằng không, những sự nhiễu loạn góc đặt
cánh dẫn đến sai số của góc đặt cánh ổn định. Từ phƣơng trình 7.5.2 sai số của vị trí ổn định góc đặt cánh
do mômen lắc dọc là:
Qp
p (7.5.8)
K
Trong thực tế tính toán, các hệ thống điều khiển mạch mở thƣờng có các thiếu sót ảnh hƣởng lớn
đến hoạt động của hệ thống. Sự thay đổi trong sản xuất, sự bào mòn, các thay đổi trong hoạt động theo
thời gian và nhiệt độ và các nhiễu loạn bên ngoài có thể gây ảnh hƣởng đến hoạt động của hệ thống mạch
mở. Trong ví dụ này, sự thay đổi của vận tốc gió, tốc độ rô-to, tuyết phủ đầu cánh, hoặc bất kỳ yếu tố nào
khác có ảnh hƣởng đến mômen lắc dọc đều dẫn đến thay đổi góc đặt cánh. Nếu ảnh hƣởng của các sự thay
đổi trong hoạt động trở thành một vấn đề lớn, các hệ thống điều khiển mạch đóng có thể đƣợc sử dụng để
cải thiện sự làm việc của hệ thống mà không làm phức tạp hóa hệ thống điều khiển.
Trong một hệ thống điều khiển mạch đóng, một sự đo lƣờng góc đặt cánh có thể đƣợc sát nhập
vào thông số đầu vào của hệ thống điều khiển cánh quạt, và các sự điều chỉnh có thể đƣợc thực hiện cho
các sai số của vị trí đặt cánh quạt. Điển hình, máy điều khiển cung cấp thông số đầu ra điều khiển là một
hàm của sai số hành trình (là sự khác nhau giữa thông số đầu ra mong muốn của hệ thống với thông số
đầu ra đo lƣờng). Sơ đồ khối của hệ thống mạch đóng đƣợc trình bày trong hình 7.19. máy điều khiển bao
gồm động lực học tƣơng ứng và bộ khuếch đại công suất để điều chỉnh điện áp vào mô tơ.
94
Góc
Thời gian ( s)
Hình 7.18 : Phản hồi bước của hệ thống góc đặt cánh
ai số vị Điện áp Mômen
trí e(t) v(t) lắc dọc Ví trí đặt
cánh
Mômen
oán do
điện lưới
Hình 7.19: Ví dụ về cơ cấu truyền động góc đặt cánh mạch đóng
Máy điều khiển có thể đƣợc thiết kế với các tính chất động lực học khác nhau, điều này giúp cho
hệ thống đạt đƣợc các hoạt động mong muốn. Tuy nhiên có một số các phƣơng pháp tiêu chuẩn để điều
khiển hệ thống đƣợc sử dụng nhƣ các tài liệu tham khảm khi cân nhắc thiết hệ thống điều khiển. Các
phƣơng pháp này bao gồm: Điều chỉnh theo tỉ lệ, điều khiển dẫn xuất, điều khiển tích phân. Các phƣơng
pháp này thông thƣờng đƣợc kết hợp nhau nhƣ: máy điều khiển tỉ lệ-dẫn xuất (Pi) hoặc máy điều khiển tỉ
lệ – dẫn xuất – tích phân (PiD).
Phƣơng trình vi phân của máy điều khiển PiD cho hệ thống góc đặt cánh là:
v t K p e t K l e t dt K D e(t ) (7.5.9)
95
Trong đó các hằng số của tính đối xứng là Kp, Kl và KD
et p, ref t p t là sai số (khác nhau giữa góc đặt mong muốn và góc đặt đo lƣờng)
Nếu máy điều khiển mạch đóng đƣợc thiết kế với chỉ hai chức năng là tỉ lệ và dẫn xuất (máy điều
khiển Pi) thì phƣơng trình vi phân cho hệ thống hoàn chỉnh có thể đƣợc thành lập bằng cách thay phƣơng
trình 7.5.9 bỏ qua số hạng đạo hàm vào phƣơng trình 7.5.1. Sử dụng khái niệm về e(t) ở trên, lấy vi phân
phƣơng trình hoàn chỉnh sau đó sắp xếp lại ta đƣợc phƣơng trình 7.5.10. kết quả điều khiển hệ thống là
một phƣơng trình vi phân bậc 3 với hai hằng số điều khiển, Kp và Kl:
J p ( B m) p ( K kK p ) p kKl p kK p p , ref kKl p ,ref Q p (7.5.10)
Một lần nữa, phản ứng động lực học của hệ thống mạch đóng đối với một bƣớc đơn vị nhiễu loạn
có thể đƣợc thành lập từ việc sử dụng nghịch đảo của biến đổi Laplace. Ví dụ, nếu giả thiết rằng động lƣ c
học của mô tơ và cánh quạt duy trì không đổi, các hệ số Kp = Kl = 2 thì phƣơng trình chuyển đổi hệ thống
mạch đóng là:
Số hạng đầu tiên ở vế phải là một hàm chuyển đổi liên quan đến vị trí yêu cầu của góc đặt cánh
sau cùng, số hạng thứ hai xác định ảnh hƣởng của nhiễu loạn đối với vị trí đặt cánh sau cùng. Phản ứng
đối với một bƣớc nhiễu loạn đƣợc trình bày trong hình 7.20. Trong hình này bao gồm cả phản ứng của
mạch mở để tiện so sánh. Rõ ràng, ảnh hƣởng của nhiễu loạn đối với mạch đóng ít hơn so với mạch mở.
Trong khi các cải tiến đƣợc tạo ra để cải thiện phản ứng động lực học của hệ thống, máy điều
khiển Pi có thể điều chỉnh vị trí góc đặt cánh với các điều kiện về gió và điều kiện hoạt động khác nhau.
Do vậy không cần thêm quá nhiều các chi tiết phức tạp vào hệ thống, chỉ với một bánh răng gắn thêm vào
cơ cấu truyền động góc đặt cánh, cánh quạt vẫn có thể đƣợc định vị tại bất kỳ vị trí mong muốn trong điều
kiện gió lớn cũng nhƣ gió nhỏ hoặc dƣới điều kiện băng tuyết. Đây là một sự cải tiến rất có ý nghĩa đối
với hệ thống điều khiển mạch mở.
96
Góc
Mạch đóng
Mạch mở
Hình 7.2 : Phản ứng hệ thống góc đặt cánh đối với một bước nhi u loạn của điều khiển mạch
đóng và điều khiển mạch mở
97
Góc
Hình 7.21: Phản ứng của hệ thống góc đặt cánh mạch đóng đối với một đơn vị nhi u loạn bước
và nhi u loạn hình sin
Hệ thống mạch đóng quản lý các nhiễu loạn có tần số gần với tần số của hệ thống ít hơn việc quản
lý nhiễu loạn bƣớc. Biên độ của phản ứng phụ thuộc vào tần số của nhiễu loạn và hệ số cản trong hệ
thống. Không những sự biến động của góc đặt cánh bị gây ra bởi sự nhiễu loạn do cơ cấu truyền động của
góc đặt cánh bị mài mòn, mà sự biến động mômen xoắn của trục từ khí động học gây ra bởi dao động góc
đặt cánh có thể gây cộng hƣởng trong các đƣờng phản hồi khác. Hệ thống điều khiển mẫu này đƣợc thiết
kế cụ thể để minh họa các vấn đề này. Một hệ thống điều khiển đƣợc thiết kế tốt sẽ tránh đƣợc sự kích
thích của các tần số tự nhiên của hệ thống và có thể bổ sung thêm hệ số cản tại các tần số này.
d 1 2
Pr r
J J r (7.5.12)
dt 2
Khí động học phi tuyến. Sự thay đổi trong mômen khí động học rô-to hoặc năng lƣợng khí
động học rô-to theo tốc độ quay là một hàm phi tuyến, thông thƣơng một máy điều khiển phi tuyến đƣợc
yêu cầu cho sự điều khiển trong cả điều kiện gió lớn lẫn gió nhỏ.
Theo dõi tỉ số tốc độ đầu cánh thƣờng đƣợc thực hiện bằng một mô hình rô-to, mặc dù có thể xảy
ra trƣờng hợp mô hình này có thể không phản ánh tốt sự hoạt động của rô-to. Một tiếp cận khác thỉnh
thoảng cũng đƣợc cân nhắc sử dụng đó là thuật toán tìm kiếm. Thuật toán này cố gắng tìm tốc độ rô-to sao
cho năng lƣợng đạt lớn nhất tại mỗi thời điểm. Với thuật toán tìm kiếm này, nếu thành công, sẽ đạt đƣợc
năng lƣợng rô-to lớn mặc dù sự làm việc của rô-to, hiện tƣợng đóng tuyết trong mùa đông, sự sai số của
góc đặt cánh không đƣợc quan tâm.
Một tiếp cận thông dụng khác (xem Novak và nnk., 1995) sử dụng một mô hình rô-to để xác định
rõ mômen rô-to mong muốn, Qref, là một hàm của tốc độ:
R5CP , max 2
2opt
Qref 3 (7.5.13)
Trong đó Qres mômen rô-to mong muốn, ρ khối lƣợng riêng của không khí, R bán kính rô-to và Cp,
max hệ số năng lƣợng rô-to tại tỉ số tốc độ đầu cánh tối ƣu của rô-to, opt.
Tốc độ rô-to đƣợc đo lƣờng và mômen máy phát liên tục đƣợc cài đặt theo mômen xoắn của rô-to
tƣơng ứng với tốc độ hiện tại của rô-to. Nếu tốc độ rô-to thấp, mômen đƣợc cài đặt tại giá trị nhỏ, cho
phép tốc độ rô-to tăng. Nếu tốc độ rô-to cao, mômen rô-to đƣợc cài đặt tại giá trị lớn để giảm tốc độ rô-to,
làm cho nó hiệu quả hơn. Mômen xoắn đƣợc chọn lọc để tránh sự thay đổi lớn của tốc độ rô-to.
Tiếp cận này làm việc tƣơng đối tốt nhƣng sự chọn lựa để tránh sự biến đổi nhanh của mômen
xoắn và năng lƣợng rô-to có thể cần thay đổi cho các chế độ gió khác nhau. Sự thay đổi của năng lƣợng
rô-to theo các sự thay đổi của tốc độ rô-to biến đổi tƣơng đối lớn trong phạm vi hoạt động của tua bin và
có thể cần đƣợc cân nhắc để điều khiển sự biến đổi năng lƣợng và mômen xoắn. Điều này yêu cầu cần
biết về tỉ số tốc độ đầu cánh.
Linders và Thiringer (1993) đƣa ra một phƣơng pháp để xác định tỉ số tốc độ đầu cánh từ mô hình
của tua bin và các thông số đo lƣờng của năng lƣợng tua bin. Khi tỉ số tốc độ đầu cánh làm việc đƣợc xác
định, tỉ lệ thay đổi năng lƣợng do sự thay đổi tốc độ rô-to có thể đƣợc xác định từ một mô hình rô-to. Khó
khăn trong việc sử dụng các thông số đo lƣờng mômen xoắn và năng lƣợng là có hai tỉ số tốc độ đầu cánh
tƣơng ứng với một giá trị của Cp. Linders và Thiringer xác định một hàm đơn từ những giá trị mà tỉ số tốc
độ đầu cánh có thể đƣợc xác định một cách rõ ràng.
C p Pr Pel
(7.5.14)
3
1
A3 R 3
1
A3 R 3
2 2
Trong đó Pel năng lƣợng điện, hiệu suất của cơ cấu truyền động, khối lƣợng riêng của không
khí, A diện tích rô-to và Cp là hệ số năng lƣợng rô-to tại tỉ số tốc độ đầu cánh của .
99
Vi phân của năng lƣợng theo tốc tộ máy phát là:
dPel dC p 1 2 AV 2 R
(7.5.15)
d el d np
Trong đó el là tốc độ máy phát, p là số đối cực máy phát và n là tỉ số truyền hộp bánh răng
Hệ thống điều khiển cơ khí có thể đƣợc cải thiện bằng cách thực hiện mô hình các dòng năng
lƣợng ra và vào rô-to khi tốc độ rô-to thay đổi.
7.5.3.5 Các sự chuyển tiếp giữa các trạng thái làm việc với tốc độ biến thiên
Một số lƣợng lớn các vấn đề nảy sinh trong thiết kế tua bin gió có tốc độ biến thiên. Nói chung,
các tua bin gió có tốc độ biến thiên có thể có ba mục đích điều khiển khác nhau phụ thuộc vào vận tốc gió.
Với vận tốc gió từ nhỏ đến trung bình, mục đích điều khiển là duy trì tỉ tốc tối ƣu không đổi để đạt đƣợc
hiệu suất khí động học lớn nhất. Điều này đạt đƣợc bằng cách thay đổi tốc độ rô-to khi vận tốc gió thay
đổi. Trong điều kiện gió trung bình, nếu tốc độ rô-to đạt đến tốc độ định mức của nó trƣớc khi năng lƣợng
định mức đạt đƣợc thì tốc độ rô-to phải đƣợc giới hạn trong khi năng lƣợng biến thiên. Trong điều kiện
gió từ trung bình đến lớn, mục đích của điều khiển là duy trì năng lƣợng đầu ra định mức bằng hằng số.
Điều này phải đƣợc yêu cầu trong điều kiện vận tốc gió tăng vƣợt quá khả năng chuyển hóa năng lƣợng
của tua bin gió. Các sự chuyển tiếp giữa các sơ đồ làm việc phải đƣợc quản lý một cách trơn tru bằng các
thành công trong thiết kế hệ thống điều khiển.
Các mục đích điều khiển này cũng đƣợc ứng dụng cho cả hai loại tua bin; tua bin tốc độ biến thiên
có lực cản thay đổi đƣợc và tua bin tốc độ biến thiên có góc đặt cánh thay đổi. Ƣu điểm mà các tua bin gió
có góc đặt cánh thay đổi đƣợc là sự truy cập đến hai thông số đầu vào; góc đặt cánh và mômen máy phát
để đạt đƣợc các mục đích điều khiển này. Góc đặt cánh đƣợc giữ cố định trong quá trình tỉ số tốc độ đầu
cánh không đổi và tốc độ làm việc không đổi, nhƣng trong quá trình năng lƣợng làm việc không đổi, góc
đặt cánh có thể đƣợc sử dụng để điều khiển tốc độ rô-to trong khi mômen máy phát có thể đƣợc sử dụng
để điều khiển năng lƣợng đầu ra. Trong quá trình tốc độ làm việc không đổi có thể có các biến thiên lớn
của mômen máy phát và năng lƣợng đầu ra khi vận tốc gió và mômen xoắn của rô-to tua bin thay đổi.
Trong quá trình làm việc với năng lƣợng không đổi sự biến thiên của mômen xoắn và năng lƣợng máy
phát phải đƣợc giảm thiểu vì mục đích điều khiển là duy trì năng lƣợng định mức của máy phát. Máy điều
khiển góc đặt cánh đảm nhận hầu hết việc duy trì tốc độ rô-to định mức trung bình.
Dòng gió xoáy làm cho việc thiết kế máy điều khiển thành công để chuyển tiếp các mục đích điều
khiển này. Trong điều kiện gió nhỏ và tua bin làm việc với tốc độ đầu cánh không đổi, sự thay đổi năng
lƣợng đầu ra, P, cái phụ thuộc vào sự thay đổi về tốc độ rô-to, , dP/d , là tƣơng đối nhỏ. Trong điều
kiện gió trung bình và tua bin làm việc với tốc độ gần nhƣ không đổi, giá trị dP/d có thể tƣơng đối lơn.
Trong gió lớn, giá trị dP/d xấp xỉ băng không. Với hai thông số đầu vào điều khiển trong gió trung bình
và gió lớn (góc đặt cánh và mômen máy phát) và sự ứng xử tƣơng đối khác nhau của máy điều khiển
trong các vận tốc gió khác nhau, sự biến thiên vận tốc gió có thể dẫn đến các sự làm việc nhanh chóng
trong cơ cấu chấp hành và sai số năng lƣợng lớn trong hệ thống điều khiển đƣợc thiết kế kém cỏi.
Một ví dụ về các khó khăn này đƣợc trình bày dƣới đây. Ví dụ này sử dụng tua bin với cấu hình
máy điều khiển thông thƣờng đƣợc miêu tả trong hình 7.22. Trong thiết kế này năng lƣợng máy phát
mong muốn đƣợc cài đặt là một hàm của tốc độ rô-to, dựa trên biểu đồ năng lƣợng mong muốn và tốc độ
máy phát.
100
Tốc độ quay danh
nghĩa
Máy biến
dòng
Hình 7.22: Hệ thống điều khiển mạch đóng của tua bin có tốc độ biến đổi
Quan hệ giữa công suất mong muốn và tốc độ quay của máy phát cho mẫu tua bin gió đƣợc trình
bày trong hình 7.23 (xem Hansen và nnk., 1999). Hoạt động biến thiên tốc độ quay trong phần thấp của
biểu đồ dựa trên đặc tính hoạt động của mômen khí động lực học của rô-to và duy trì một tỷ số tốc độ đầu
cánh không đổi. Khi tốc độ máy phát đạt đến tốc độ quay định mức, 1000 rpm, độ dốc của biểu đồ quan
hệ giữa công suất mong muốn và tốc độ quay là rất dốc. Cuối cùng, khi công suất tua bin đạt đến 225kW,
mục đích điều khiển là duy trì công suất không đổi với sự biến đổi nhỏ của tốc độ quay rô-to. Trong quá
trình làm việc với công suất không đổi, mạch điều khiển góc đặt cánh cố gắng điều khiển tốc độ rô-to gần
với tốc độ quay định mức.
Một số khó khăn nảy sinh với tiếp cận điều khiển này khi sự biến đổi vận tốc gió làm tốc độ máy
phát giảm từ trên tốc độ quay định mức xuống dƣới tốc độ quay định mức. Bởi vì sự thay đổi đột ngột
trong góc nghiêng của ( dP ), thậm chí các sự thay đổi nhỏ trong tốc độ quay của máy phát cũng gây ra
d
sự thay đổi lớn trong công suất của máy phát. Điều này đã gây ra sự giảm đột ngột công suất khoảng
150kW. Sự cải thiện sơ đồ điều khiển đã đƣợc thực hiện bằng cách giới hạn sự thay đổi công suất định
mức cho phép của máy phát. Điều này làm giới hạn biến thiên công suất máy phát gần công suất định
mức, nhƣng nó cũng làm tăng sự biến thiên của tốc độ rô-to. Các ảnh hƣởng của việc giảm sự biến thiên
của mômen xoắn máy phát và cho phép tốc độ quay của rô-to biến đổi trong phạm vi lớn hơn là làm giảm
sự biến thiên công suất cái có thể ảnh hƣởng đến lƣới điện và làm giảm các lực truyền động.
101
Công suất tham chiếu kW
Hình 7.23: Ví dụ về quan hệ giữa điều khiển tốc độ quay của máy phát với công suất lưới điện
7.5.3.6 Tải trọng và các nhi u loạn của tua bin gió
Thiết kế hệ thống điều khiển tua bin gió yêu cầu đặc tính về biên độ cũng nhƣ tần số của các nhiễu
loạn ảnh hƣởng đến các thành phần đƣợc thiết kế. Thông tin này ảnh hƣởng đến thiết kế cơ cấu chấp hành
cũng nhƣ thiết kế thuật toán điều khiển của nó.
Ví dụ, thiết kế cơ cấu chấp hành góc đặt cánh và máy điều khiển cho góc đặt cánh yêu cầu các
thông tin về biên độ và loại tải trọng và loại nhiễu loạn mà cơ cấu góc đặt cánh phải chịu tác dụng. Các
thông tin về các tải trọng đảm bảo một hệ thống điều khiển chấp nhận đƣợc với độ phức tạp tối thiểu có
thể.
Các tải trọng và nhiễu loạn trong hệ thống góc đặt cánh bao gồm:
Trọng lực. Trọng lực bao gồm ảnh hƣởng của lực trọng trƣờng trên khối lƣợng phân bố của
cánh quạt gây ra mômen tác dụng xung quanh trục của cánh quạt.
Lực ly tâm. Lực ly tâm bao gồm các lực quán tính trên khối lƣợng phân bố của cánh quạt
gây ra mômen tác dụng lên trục cánh quạt
Lực ma sát trên ổ trục của cánh quạt. Lực ma sát trên ổ trục cánh quạt là một hàm của lực
dọc trục và mômen trên ổ trục cánh quạt cũng nhƣ thiết kế của ổ trục.
Mômen xoắn của cơ cấu chấp hành. Mômen xoắn của cơ cấu chấp hành phải đƣợc truyền
qua cơ cấu bản lề hoặc bánh răng từ các hệ thống điện hoặc hệ thống thủy lực.
Mômen dọc khí động lực học. Mômen dọc khí động lực học là một hàm của các ảnh hƣởng
tích hợp của mômen khí động lực học trên chiều dài của cánh quạt. Nó bao gồm ảnh hƣởng của thiết kế
cánh quạt, độ uốn cong và dao dộng của cánh, dòng gió xoáy, và sự quay của cánh quạt.
Tải trọng do các chuyển động khác của tua bin. Ảnh hƣởng của các chuyển động khác của
tua bin nhƣ sự thay đổi của tốc độ rô-to, chuyển động của bánh lái và dao động của tháp có thể đƣợc
truyền đến cánh quạt và gây ra mômen tăng thêm xung quanh trục cơ cấu góc đặt cánh.
Khi hoạt động bình thƣờng một vài chuyển động có thể ít ảnh hƣởng đến thiết kế hệ thống điều
khiển. Tuy nhiên, trong quá trình thay đổi góc đặt cánh khẩn cấp hoặc trong điều kiện làm việc không
bình thƣờng, sự phân bố của mỗi loại mômen này cần phải đƣợc tính đến để đảm bảo hệ thống điều khiển
làm việc trong mọi tình huống.
Phản ứng của hệ thống góc đặt cánh đối với các tải trọng này phụ thuộc vào sự biến dạng và độ sai
lệch của hệ thống chấp hành góc đặt cánh (bao gồm các bản lề), độ cứng của cánh quạt, sự biến dạng và
sai lệch trong ổ trục góc đặt cánh, quán tính của cơ cấu chấp hành và mômen quán tính của cánh quạt.
Nghiên cứu đã chỉ ra rằng (xem Bossanyi and Jameison, 1999) ma sát trong ổ trục góc đặt cánh và
độ võng của cánh quạt ảnh hƣớng lớn đến mômen nhiễu loạn dọc trục. Nói chung, ổ trục góc đặt cánh loại
102
bi đũa có hệ số ma sát nhỏ nhƣng lực ma sát vẫn là một hàm của tải trọng trong ổ trục. Tải trọng tác dụng
trƣớc do yêu cầu làm tối thiểu mài mòn ổ trục và mômen quay trên ổ trục từ cánh quạt có thể gây ra các
nhiễu loạn mômen dọc trục lớn không mong muốn. Độ võng của cánh quạt có thể dẫn đến một sự dịch
chuyển quỹ đạo của các lực khí động lực học và trọng tâm của mặt cắt cánh từ trục quay của cánh quạt.
Sự dịch chuyển tâm khối lƣợng mặt cánh có thể ảnh hƣởng lớn đến sự phân bố của trọng lực đến mômen
dọc trục. Sự dịch chuyển của cánh quạt cũng ảnh hƣởng đến mômen cực quán tính của cánh quạt và khí
động lực học tại mỗi mặt cắt cánh. Sự kết hợp của các ảnh hƣởng này chỉ ra rằng các nhiễu loạn mômen
dọc trục của cánh quạt làm bằng vật liệu dẻo lớn hơn nhiều so với cánh quạt làm bằng vật liệu cứng hơn.
7.5.4 Sự làm việc của hệ thống điều khiển động lực học
Điều khiển động lực học có thể đƣợc tiến hành nhƣ các hệ thống cơ khí, các mạch điện tƣơng tự,
nhƣ mạch điện tử kỹ thuật số, hoặc trong sự kết hợp các mạch này. Các hệ thống điều khiển cơ khí thƣờng
chỉ đƣợc sử dụng trong tua bin gió loại nhỏ. Hầu hết tua bin gió sử dụng một vài sự kết hợp của các mạch
kỹ thuật số và mạch tƣơng tự hoặc chỉ kết hợp giữa các mạch kỹ thuật số. Một vài ví dụ về các mạch điê u
khiển này và các vấn đề liên quan đƣợc trình bày trong phần dƣới đây.
g (t ) K p e(t ) K D e(t ) Kl e(t )dt
R C (7.5.16)
1
2 1 e(t ) ( R2C1 ) e(t ) e(t )dt
R1 C2 R1C2
Trong đó g(t) đầu ra máy điều khiển. R và C là điện trở và điện dung của các phần tử mạch riêng
biệt, e(t) là tín hiệu sai số, là đầu vào của máy điều khiển.
103
Hình 7.24: Ví dụ về máy điều khiển PiD ( máy điều khiển đạo hàm- số nguyên-tỉ lệ thức) C: điện
dung, R: điện trở, 1,2 các phần tử mạch điện
Hình 7.25: Sơ đồ hệ thống điều khiển máy tính: A/D máy chuyển đổi tín hiệu tương tự sang tín
hiệu số.
Các hệ thống điều khiển số lá không liên tục. Việc lấy mẫu và động lực học của máy chuyển đổi
A/D làm gia tăng một số lƣợng các vấn đề cụ thể đối với các hệ thống điều khiển số. Tỉ lệ lấy mẫu, đƣợc
điều khiển bằng đồng hồ hệ thống, ảnh hƣởng (1) phổ tần số của thông tin quá trình, (2) thiết kế của các
thành phần hệ thống điều khiển và (3) độ ổn định của hệ thống.
104
Ảnh hƣởng của việc lấy mẫu đối với phổ tần số của thông tin quá trình có thể đƣợc chứng minh
bằng cách sử dụng một tín hiệu hình sin, sin(t) trong đó là tần số và t là thời gian nếu tín hiệu đƣợc lấy
tại tần số thì mẫu thứ i đƣợc lấy tại thời điểm
2
ti i t0 (7.5.17)
Cho trƣớc thời gian khởi điểm t0 và số nguyên i . Giá trị của mỗi mẫu st là
2
st sin (i t0 ) sin( 2i t0 ) sin(t0 ) (7.5.18)
Nhƣng sin(t0) là một hằng số. Do vậy, lấy mẫu tín hiệu tại tần số của tín hiệu không mang lại bất
kỳ thông tin nào về sự biến thiên tai tần số đó. Thực tế, trong một hệ thống lấy mẫu thông tin tại một tần
số , sẽ không có thông tin hữu ích nào tại các tần số trên tần số n / 2 , tham khảo tần số Nyquist.
Ngoài ra, Trừ khi tín hiệu đầu vào đƣợc cắt bỏ khi tần số thấp hơn n , thì các thông tin tại tần số cao mới
làm sai lệch các thông tin tại tần số thấp mong muốn
Tỉ lệ lấy mẫu cũng ảnh hƣởng đến thiết kế hệ thống điều khiển. Động lực học hệ thống điều khiển
số là một hàm của tỉ lệ lấy mẫu. Do đó, tỉ lệ lấy mẫu ảnh hƣởng đến hoạt động và thiết kế của hệ thống
điều khiển tiếp sau, bao gồm cả việc xác định các giá trị của các hằng số trong máy điều khiển và tỉ lệ cản
của hệ thống, tần suất tự nhiên hệ thống, vv. Bởi vì điều này, sự thay đổi trong tỉ lệ lấy mẫu có thể chuyển
một hệ thống ổn định thành một hệ thống không ổn định. Vấn đề ổn định là một vấn đề phức tạp nhƣng
nói chung, một hệ thống điều khiển số mạch đóng sẽ trở thành không ổn định nếu tỉ lệ lấy mẫu bị chậm lại
quá nhiều.
Điều khiển số có thể đƣợc tiến hành trong các máy tính có bo mạch đơn không phụ thuộc nhỏ
hoặc trong các máy tính công nghiệp lớn hơn. Các máy tính có bo mạch đơn bao gồm một bộ vi xử lý
trung tâm và thƣờng bao gồm tín hiệu đầu vào và đầu ra dạng số và dạng tƣơng tự. Chúng đủ nhỏ để dễ
dàng lắp với các phần cứng khác của hệ thống điều khiển phân bố hoặc các máy điều khiển cho tua bin
gió loại nhỏ. Các máy tính công nghiệp lớn hơn có bộ cung cấp năng lƣợng và các khe rãnh cho số lƣợng
lớn các kết nối thêm vào và các mạch vi điều khiển, các bộ lọc và quạt gió để đảm bảo một môi trƣờng
trong sạch, ổ chứa dữ liệu và bộ nhớ, và một hộp bảo vệ để bảo vệ các phá hoại từ môi trƣờng bên ngoài.
105
Grimble, M. J., De LaSalle, S. A., Reardon, D., Leithead, W. E. (1990) A lay guide to control
systems and their application to wind tua bins. Proc. of the J2th BWEA Conference (Eds. T.D. Davies.
J.A.Halliday and J.P. Palutikof). Mechanical Engineering Publications, London, 69-76.
Hansen, A. D.. Bindner, H., Rebsdort', A. (1999) improving Transition Between Power
Optimization and Power Limitation of Variable Speed/Variable Pitch Wind tua bins. Proc. 1999 EWEC,
March 1-5, Nice, France, 889-892.
Hau, E. (1996) Windkraftanlagen, Grmullagen. Teclmik, Einsatz. Wirtshaftlichkeit. Springer,
Berlin.
Heier, S. (Ed.) (1996) Windkraftanlagen im Netzhetrieh. B. G. Teubner, Stuttgart.
Kuo, B. C. (1987) Automatic Control Systems, 5th edn. Prentice-Hall. Englewood Cliffs, NJ.
Linders, J., Thiringer, T. (1993) Control by Variable Rô-tor Speed of a Fixed-Pitch Wind Tua
binOperating in a Wide Speed Range. iEEE Transactions on Energy Conversion, 8 (3): September.
Ljung, L. (1999) System identification - Theory for the User. Prentice-Hall, Upper Saddle River,
NJ.
Nise N. S. (1992) Control System Engineering. Benjainin/Cummings. Redwood City, CA.
Novak. P., Ekelund, T., Jovik, 1.. Schmidtbauer, B. (1995) Modeling and Control of Variable-
speed Wind-tua bin Drive-system Dynamics. iEEE Control Systems, 15 (4), August, 28-38.
106
Chương 8 Vị trí lắp đặt, thiết kế và tích hợp hệ thống
cho tua bin gió
8.2 Tổng quan
Tua bin gió hoạt động nhƣ một phần của hệ thống sản xuất và tiêu thụ điện lớn nhƣ là các mạng
điện lớn, hệ thống lƣới điện điêzen đƣợc tách lập hoặc nhƣ là một lƣới điện độc lập cho một tải riêng. Quá
trình tích hợp năng lƣợng gió vào hệ thống nhƣ vậy bao gồm các quyết định về nơi để cài đặt tua bin gió,
việc lắp đặt tua bin và kết nối lƣới điện và vận hành tua bin. Trong khi đó, thiết kế và vận hành tua bin
cần phải xem xét rất nhiều các loại tƣơng tác, tƣơng tác giữa các loại tua bin ở một trạm năng lƣợng gió,
giữa các trạm năng lƣợng gió, và hệ thống lƣới điện kết nối. Chƣơng này xem xét những vấn đề mà tính
đến việc hoàn thành dự án thành công .
Tua bin gió có thể đƣợc lắp đặt thành các tổ máy độc lập hoặc lặp đặt thành những trạm năng
lƣợng gió “wind farm”. Sự lắp đặt các tua bin và trạm năng lƣợng gió yêu cầu một khối lƣợng công việc
lớn về quy hoạch, thiết kế. Các sai sót trong thiết kế có thể gây ra hậu quả rất nghiêm trọng. trƣớc khi tua
bin gió đƣớc lắp đặt và kết nối với lƣới điện, Vị trí chính xác cho việc lắp đặt tua bin cần đƣợc xác định.
Việc quan tâm đầu tiên cho việc chọn vị trí lắp đặt tua bin la thu đƣợc năng lƣợng lớn nhất nhƣng một số
lƣợng lớn các điều kiện có thể làm giới hạn vị trị lắp đặt tua bin. Mục 8.2 giới thiệu các vấn đề về vị trí
lặp đặt tua bin và trạm năng lƣợng gió có nối với lƣới điện. Khi các vị trí lắp đặt tua bin đƣợc chọn, vấn
đề lắp đặt, kết nối với lƣới điện, chuẩn bị vị trí đấu nối, lắp đặt tua bin và đƣa chúng vào làm việc đƣợc
trình bày trong mục 2.3
Sau khi lắp đặt, Xuất hiện các tƣơng tác quan trọng giữa các tua bin và giữa các tua bin gió với hệ
thống mà chúng đƣợc kết nối. Khi có nhiều tua bin gió đƣợc đặt cùng nhau và đặt gần nhau, thời hạn sử
dụng và hoạt động của các tua bin gió nằm cùng hƣớng gió với các tua bin khác có thể bị ảnh hƣởng.
Những vấn đề này sẽ đƣợc xem xét trong mục 8.4.
Nhiều tua bin gió hoặc các trạm năng lƣợng gió đƣợc kết nối với một mạng điện lớn. Việc xem xét
không đầy đủ các đặc tính của lƣới điện tại thời điểm kết nối có thể dẫn đến rối loạn không mong muốn
trong hệ thống điện địa phƣơng. Một số đặc điểm của lƣới điện và các tƣơng tác có thể của tua bin với
lƣới điện có thể ảnh hƣởng đến những hộ sử dụng điện khác trong hệ thống. Vấn đề này sẽ đƣợc trình bày
trong mục 8.5.
Các trạm năng lƣợng gió ngoài khơi có sự cài đặt độc nhất, các vấn đề về hoạt động và môi trƣờng
riêng của chúng. Sự khác biệt đáng kể giữa các trạm năng lƣợng gió ngoài khơi và trên bờ là vấn đề thiết
kế nền và những vấn đề liên quan đến truyền tải điện năng đƣờng dài. Đây là những vấn đề đƣợc đề cập
trong mục 8.6.
Những vấn đề liên quan đến hoạt động trong điều kiện khí hậu khắc nghiệt sẽ đƣợc trình bày riêng
trong mục 8.7. Những vấn đề này bao gồm thời tiết lạnh, nhiệt độ cao và sét. Tua bin gió cũng có thể
đƣợc kết nối với hệ thống điện tách lập và nhỏ hơn. Trong các hệ thống này là năng lƣợng gió, nguồn
năng lƣợng khác và bất kỳ tải hệ thống nào đều có thể ảnh hƣởng mạnh mẽ đến nhau. Trong trƣờng hợp
này hệ thống điện nhƣ là một tổng thể đƣợc thiết kể và điều khiển với tất cả các thành phần hệ thống trong
nó. Các đặc tính của các thành phần trong hệ thống lƣới điện cô lập và hệ thống nguồn năng lƣợng truyền
thống, tái tạo cần phải đƣợc hiểu để thiết kế hệ thống hoàn chỉnh. Những vấn đề này sẽ đƣợc nêu trong
mục 8.8.
107
có thể bao gồm mọi thứ từ việc thăm dò nguồn gió để lắp đặt tua bin phù hợp trên một khu vực địa lý rộng
đến việc xem xét vị trí của một tua bin gió đơn lẻ ở một địa điểm hoặc hàng loạt các tua bin gió trong trạm
năng lƣợng gió.
Việc chọn địa điểm của một tua-bin đơn hay hệ thống tua bin gió quy mô lớn cho việc kết nối
có thể đƣợc chia thành năm giai đoạn chính ( theo Hiester và Pennell, 1981 và Pennell, 1982):
1. Các khu vực địa lý xác định cần nghiên cứu nhiều hơn nữa – Những khu vực có tốc độ gió
trung bình cao nằm trong vùng quan tâm đƣợc xác định bằng cách sử dụng một bản đồ tài nguyên
gió và bất kỳ dữ liệu gió có sẵn khác. Các đặc tính của các loại tua bin, việc thiết kế đƣợc xem xét sử
dụng để thiết lập tốc độ gió hữu ích tối thiểu cho từng loại.
2. Sự lựa chọn vị trí – Những vị trí có tiềm năng gió nhiều trong khu vực đƣợc cho là nơi lắp
đặt một tua bin gió hoặc nhiều tua bin gió có xu hƣớng có thể thực hiện đƣợc từ kỹ thuật đến các
quan điểm chấp nhận đƣợc của công chúng. Nếu địa hình tự nhiên trong khu vực chọn đáp ứng đƣợc
nhƣ vậy, thì sẽ có sự thay đổi đáng kể trong vùng đó, sau đó cần có sự phân tích chi tiết để xác định
những khu vực tốt nhất. Ở giai đoạn này, xem xét địa hình, quan sát sinh thái, và mô hình máy tính
có thể đƣợc sử dụng để đánh giá các nguồn tài nguyên gió. Các vấn đề văn hóa xã hội hay địa chất
cũng đƣợc xem xét.
3. Đánh giá sơ bộ của các vị trí chọn - Trong giai đoạn này, mỗi vị trí có tiềm năng chọn đƣợc
xếp hạng theo tiềm năng kinh tế của nó, và những vị trí tốt nhất là vị trí đƣợc kiểm tra về các tác
động môi trƣờng, sự chấp nhận cộng đồng, sự an toàn, và các vấn đề hoạt động mà sẽ ảnh hƣởng bất
lợi đến việc lựa chọn phù hợp vị trí của một tua bin gió. Một khi các vị trí tốt nhất đƣợc lựa chọn, có
thể đòi hỏi một phƣơng pháp đo sơ bộ.
4. Đánh giá vị trí chọn cuối cùng - Đối với các vị trí có thể chọn tốt nhất, có thể yêu cầu một
phƣơng pháp đo toàn diện hơn. Lúc này, các đại lƣợng đo phải bao gồm lực cắt gió và thêm vào tốc
độ xoáy của gió và hƣớng gió thịnh hành.
5. Vị trí chính xác - Sau khi chọn đƣợc một vị trí, hay có thể là một khu vực để lắp đặt tua
bin, chúng ta cần phải xác định vị trí chính xác của các tua bin và nhu cầu sản xuất năng lƣợng tại
đó. Điều này có thể đƣợc thực hiện bằng các chƣơng trình máy tính, các chƣơng trình này có thể mô
hình trƣờng gió và sự tƣơng tác khí động học khác nhau giữa các tua bin có ảnh hƣởng đến năng
lƣợng thu (xem các vấn đề kỹ thuật trạm năng lƣợng gió dƣới đây). Địa hình càng phức tạp, và càng
ít các dữ liệu có sẵn từ các vị trí lân cận, thì các mô hình này càng ít chính xác hơn. Vị trí chọn ở địa
hình phức tạp có thể đòi hỏi các đại lƣợng đo chi tiết tại các địa điểm rất nhiều để xác định trƣờng
gió địa phƣơng cho việc quyết định vị trí chính xác.
Một số vấn đề ảnh hƣởng đến việc chọn vị trí lắp đặt tua bin gió:
+ Các vấn đề về địa hình nhƣ đƣờng đi vào và độ dốc của địa hình tại các địa điểm có thể đặt
tua bin.
+ Các vấn đề pháp lý nhƣ quyền sở hữu đất đai, các vấn đề quy hoạch và các quyền của chủ
sở hữu đất liền kề (ví dụ, các nguồn tài nguyên gió)
+ Các vấn đề giấy phép nhƣ số lƣợng các giấy phép cần thiết, những phán quyết trƣớc đây
của cơ quan cho phép, việc hạn chế giấy phép và hệ thống thời gian để hoàn thành thủ tục cho phép.
+ Các vấn đề địa chất liên quan đến việc thiết kế cơ sở, điện trở tiếp đất để chống sét và tiềm
năng xói lở.
+ Các vấn đề môi trƣờng nhƣ sự hiện diện của các khu vực liên quan nhiều đến vấn đề môi
trƣờng, đƣờng bay của chim và sự hiện diện của các loài nguy cấp.
+ Các vấn đề chung nhƣ ô nhiễm tiếng ồn và cảnh quan, khoảng cách từ nơi cƣ trú, sự hiện
diện của các khu vực quan trọng về văn hóa, lịch sử, hoặc khảo cổ học, việc sử dụng đất cạnh tranh
và sự giao thoa vi sóng và truyền thông khác.
+ Các vấn đề an toàn liên quan đến các khu vực đông dân cƣ hoặc đƣờng mòn đi bộ.
108
+ Các vấn đề kết nối nhƣ là sự liên kết của những đƣờng dây điện và điện thế và khả năng xử
lý hiện hành của những dòng điện.
Loại hình Mô tả Chiều cao cây (f) Vận tốc tại chiều cai
cây
(Chỉ số Griggs-
Putnam) m/s (mph)
Thổi qua(I) Cây thông không bị kéo 12,2 (40) 6,9 (15,5)
Cây bị đẩy rất nhẹ
Đẩy (II) 12,2 (40) 4,7 (10,6)
Đẩy (II) Cây bị đẩy khá nhẹ 12,2 (40) 7,7 (17,3)
Đẩy (III) Cây bị đẩy trung bình 9,1 (30) 8,0 (17,9)
109
Ném (VI) Cây thông bị ném đi 7,6 (25) 8,6 (19,2)
Cây bị đẩy ở 0.3 m
Thổi rạp (VIII) 0,3 (1) 12,1 (27,0)
Hướng gió
0 I
Không biến Làm sạch
dạng
II III
Đẩy nhẹ Đẩy trung bình
IV V
Đẩy mạnh ôi và đẩy
VI
ém và đẩy VII
Lôi rất mạnh
110
8.2.2.3. Mô hình máy tính
Hiện nay có các chƣơng trình mô hình máy tính có thể đƣợc sử dụng để ƣớc tính trƣờng gió
địa phƣơng và để tối ƣu hóa bố trí tua bin tại một trạm năng lƣợng gió. Các chƣơng trình để mô hình
trƣờng gió địa phƣơng dài hạn tại một vị trí sử dụng thông tin địa hình và dữ liệu khí tƣợng cấp trên
dài hạn hoặc cấp dữ liệu gió bề mặt gần đó. Càng nhiều dữ liệu gần đó có sẵn, địa hình càng trơn
tru, bằng phẳng, những dự đoán càng chính xác hơn. Nhiều chƣơng trình nhƣ vậy đã đƣợc bán sẵn
rất nhiều. Ở đây sẽ mô tả một ví dụ.
Tại châu u, cơ sở dữ liệu bản đồ gió châu Âu thƣờng đƣợc sử dụng kết hợp với chƣơng trình
máy tính WAP để xác định nguồn tài nguyên gió tại một vị trí đƣợc chọn. WAP đã đƣợc phát triển,
là một phần nỗ lực quốc tế để làm nên bản đồ gió châu Âu, cung cấp một công cụ sử dụng dữ liệu
trong bản đồ (xem Petersen và nnk., 1988). WAP bao gồm các ảnh hƣởng của sự ổn định khí quyển,
bề mặt gồ ghề, những cản trở và địa hình tại vị trí đƣợc chọn trong việc xác định điều kiện gió cụ
thể. Mô hình này sử dụng một mô hình dòng chảy đơn giản kết hợp với định luật bảo toàn về khối
lƣợng và động lƣợng để xác định trƣờng gió tại vị trí đƣợc chọn, dựa trên các vị trí chuẩn gần đó.
Một lợi thế của WAP là nó xác định trƣờng gió địa phƣơng bằng cách sử dụng một lƣới tọa độ đặt ở
trung tâm các vị trí đƣợc chọn. Việc này cung cấp một độ chính xác cao tại vị trí đƣợc chọn, cho
phép các trƣờng gió của một trạm năng lƣợng gió hoàn thành nhƣ dự kiến. Một lợi thế khác là nó
không yêu cầu phƣơng pháp đo hiện trƣờng. Nó cũng làm việc ở bất kỳ độ cao và vị trí nào. Nhƣợc
điểm là phƣơng pháp này có thể cho kết quả không chính xác tại các địa hình phức tạp và nó không
bao gồm việc điều khiển các hiệu ứng nhiệt nhƣ gió biển.
C* r c (8.2.2)
Trong đó: a, b, và c là hàm của бr tại điểm giữa của mỗi phễu hƣớng. Độ lệch tiêu chuẩn ƣớc
tính của U*c. có thể đƣợc xác định từ:
Phƣơng sai và hiệp phƣơng sai của a và b có thể đƣợc xác định từ dữ liệu đƣợc sử dụng để
xác định sự phù hợp tuyến tính. Mỗi số hạng này là hàm của s2, ƣớc lƣợng tổng sai số bình phƣơng.
Nó là hàm của tổng bình phƣơng của sự sai khác của bảo toàn Uc từ những giá trị dự đoán sử dụng
sự phù hợp tuyến tính. Nếu có n cặp bảo toàn tốc độ gió đồng thời tại mỗi vị trí, khi đó:
(U c U *c ) 2
s2 n
(8.2.4)
n2
111
Phƣơng sai của độ dốc ƣớc tính, a là một hàm s2 và tổng bình phƣơng của sự chênh lệch giữa
tốc độ gió tại vị trí tham chiếu và tốc độ gió bình quân (chỉ với 1 overbar ) của n giá trị tại vị tham
chiếu:
s2
var(a )
(U r U r ) 2 (8.2.5)
Phƣơng trình cho các phƣơng sai của hệ số ƣớc tính b, bao gồm số tổng từng tốc độ gió đo
đƣợc tại các vị trí chuẩn:
s 2 U 2r
var(b) n
n (U r U r ) 2
(8.2.6)
n
s2 Ur
cov(a , b)
(U r U r ) 2
n
(8.2.7)
Các tƣơng quan dựa trên các dữ liệu xảy ra đồng thời và sau đó đƣợc sử dụng cùng với toàn
bộ dữ liệu tại các vị trí chuẩn để dự đoán tốc độ gió trung bình hàng năm tại các vị trí đƣợc chọn.
Phƣơng pháp tiến hành theo ba bƣớc sau:
1. Xác định xác suất phân phối cho từng hƣớng gió
2. Tính toán tốc độ gió dự đoán bình quân cho mỗi hƣớng gió.
3. Tìm tốc độ gió bình quân hàng năm bằng cách lấy bình quân cho từng hƣớng gió.
Sự phân phối xác suất tốc độ gió dự đoán dài hạn tại các vị trí đƣợc chọn, cho bất kỳ phễu
hƣớng gió nào, p (U*c) có thể đƣợc xác định từ phƣơng trình 8.2.1, sử dụng dữ liệu gió đo đƣợc dài
hạn từ các vị trí chuẩn. Phƣơng sai ƣớc tính có thể đƣợc xác định từ phƣơng trình 8.2.3. Hƣớng phân
bố gió có thể đƣợc xác định từ phƣơng trình 8.2.2, có sử dụng dữ liệu chuẩn dài hạn. Điều này nên
đƣợc thực hiện cho mỗi phễu hƣớng gió.
Tốc độ gió bình quân dự báo dài hạn cho mỗi khu vực, Uc,k , trong đó k là chỉ số khu vực,
giữ một chức năng phân phối xác suất của tốc độ gió dự báo theo giờ, p(U*c), trong đó i là chỉ số
của tốc độ phễu hƣớng gió:
U *c ,k p i ( U *c ) U *c , j (8.2.8)
i
Độ lệch tiêu chuẩn ƣớc lƣợng của tốc độ gió dự báo cho từng hƣớng gió là:
( U *c,k ) (p ( U
i
i i
*
c )) 2 2p i p j cov(U *c,i , U *c, j )
i j
(8.2.9)
Giới hạn hiệp phƣơng sai là cần thiết vì các giá trị của tốc độ gió dự báo đều bắt nguồn từ
cùng một dữ liệu phù hợp và không độc lập:
112
Tốc độ gió bình quân dự báo dài hạn chung cho mỗi khu vực, U*c, bây giờ có thể đƣợc tính
từ phân bố xác suất hƣớng gió này, p k
U *c p k U *c,k (8.2.11)
k
Độ lệch tiêu chuẩn chung của tốc độ gió dự báo tại vị trí đƣợc chọn là:
2
(U c* ) k k (U c* ) (8.2.12)
k
Trong đó бk là độ lệch chuẩn của tốc độ gió ở mỗi phễu hƣớng. Các phƣơng pháp dự đoán
khu vực là độc lập và do đó không có giới hạn hiệp phƣơng sai trong phƣơng trình cuối cùng.
Sự chính xác của phƣơng pháp MCP phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Đầu tiên, nó giả định rằng
dữ liệu tham khảo dài hạn và dữ liệu đƣợc chọn là chính xác. Sai sót trong các tập hợp dữ liệu rõ
hiển nhiên sẽ cho kết quả dự đoán sai lầm. Ngoài ra, tập hợp dữ liệu càng trong thời gian dài tại vị trí
đƣợc chọn, các kết quả càng chính xác hơn. Trong mọi trƣờng hợp, việc thu thập dữ liệu tại vị trí
đƣợc chọn nên bao gồm các dữ liệu đại diện từ tất cả các tốc độ gió và hƣớng gió. Các kết quả cũng
phụ thuộc vào hệ số tƣơng quan giữa các chuỗi thời gian tại hai vị trí. Một hệ số tƣơng quan thấp sẽ
cho kết quả dự đoán với một độ lệch chuẩn lớn. Hệ số tƣơng quan có thể bị ảnh hƣởng bởi hiệu ứng
ngày, thời gian trì hoãn giữa mô hình thời tiết đến tại hai vị trí, mô hình thời tiết tại vị trí duy nhất,
khoảng cách giữa hai vị trí và sự khác biệt ổn định và ảnh hƣởng địa hình tạo ra các mô hình dòng
chảy duy nhất tại vị trí này hay vị trí kia. Cuối cùng, kết quả là phép đo chiều cao và cột định vị cụ
thể là tốt tại vị trí đƣợc chọn. Mô hình chi tiết hơn vẫn có thể cần thiết để xác định các mẫu dòng
chảy cụ thể tại các vị trí đƣợc chọn nếu địa hình nhƣ dự đoán không thể áp dụng để đề xuất địa điểm
tua bin gần đó.
113
8.3 hững vấn đ lắp đặt và vận hành
Việc lắp đặt của một dự án năng lƣợng gió là một quá trình phức tạp liên quan đến một số
bƣớc và vấn đề pháp lý và kỹ thuật. Quá trình này bắt đầu với việc đảm bảo quyền lợi hợp pháp và
chấp thuận cấp giấy phép. Một khi giấy phép giải quyết đƣợc, cần phải chuẩn bị vị trí và các tua bin
vận chuyển đến vị trí và lắp đặt. Chỉ sau khi tua bin đƣợc kết nối với lƣới điện thì việc chạy nghiệm
thu bắt đầu hoạt động bình thƣờng. Vào lúc này, chủ sở hữu có trách nhiệm giám sát của các tua bin,
trong việc bảo trì hoạt động an toàn.
Điểm nối
(POC)
Các sử dụng khác
Hình 8.2: Sơ đồ kết nối lưới điện điển hình (với điện áp được sử dụng ở châu Âu)
115
8.3.7. Hoạt động của tua bin.
Thành công hoạt động của một tua bin hay trạm năng lƣợng gió yêu cầu (1) hệ thống thông
tin để theo dõi hiệu suất tua bin, (2) với một sự hiểu biết của các yếu tố làm giảm hiệu suất động cơ
tuốc bin và (3) Các biện pháp để tối đa hóa năng suất tua bin.
Hoạt động tua bin tự động đòi hỏi một hệ thống giám sát để cung cấp cho hoạt động thông tin
cho chủ sở hữu động cơ tua bin và nhân viên bảo trì. Nhiều tua bin cá nhân và tua bin trong các trạm
năng lƣợng gió có khả năng kết nối với hệ thống giám sát từ xa thông qua kết nối điện thoại. Các hệ
thống giám sát từ xa (nhƣ đƣợc giải thích trong Chƣơng 7) nhận dữ liệu từ tua bin cá nhân và hiển
thị nó trên màn hình máy tính cho các nhà khai thác hệ thống. Những dữ liệu này có thể đƣợc dùng
để đánh giá thu năng lƣợng tua bin và sẵn có (các phần trăm thời gian mà một tua bin gió có sẵn để
sản xuất điện năng).
Sự sẵn có các tua bin gió với thiết kế mature thƣờng là giữa 97% và 99% (Vachon et al ..
1999). Sự sẵn có giảm là do lịch trình và đột xuất và thời gian bảo trì sửa chữa, hệ thống cắt điện, và
các lỗi hệ thống điều khiển. Ví dụ, sự bất lực của hệ thống kiểm soát đúng theo thay đổi nhanh chóng
trong điều kiện gió, sự mất cân bằng do cánh quạt đóng băng, hoặc một thành phần nhiệt độ cao nhất
thời có thể gây ra các điều khiển để ngăn chặn các tua bin. Ngƣời điều khiển thƣờng xóa các điều
kiện lỗi này và hoạt động trở lại. Lặp đi lặp lại thƣờng là nguyên nhân ngƣời điều khiển để tua bin
không hoạt động cho đến khi một kỹ thuật viên có thể xác định nguyên nhân bộ đọc cảm biến bất
thƣờng. Điều này dẫn đến giảm tua bin giảm.
Các nhà sản xuất tua bin gió cung cấp đƣờng cong năng lƣợng đại diện cho sản lƣợng điện tua
bin nhƣ là một hàm của tốc độ gió (xem Chƣơng 1). Một số yếu tố có thể làm giảm năng lƣợng thu
của một trạm năng lƣợng gió hoặc tua bin theo dự kiến, dựa trên đƣờng cong năng lƣợng gió đã đƣa
ra và nguồn tài nguyên ở các vị trí. Chúng bao gồm (Baker, 1999) giảm năng lƣợng sẵn có, hiệu quả
khí động học kém do cánh tua bin bị phủ đất hoặc cánh tua bin ngừng hoạt động, điện năng thấp hơn
do ngừng hƣớng hoạt động, tác động điều chỉnh để đáp ứng với điều kiện gió, và tƣơng tác giữa các
tua bin trong các trạm năng lƣợng gió (xem Phần 8.4) . Những bộ cánh tua bin bị phủ lớp đất đƣợc
quan sát, đã làm giảm hiệu suất khí động học rất nhiều khoảng 10-15%. Những bộ cánh này rất nhạy
cảm với bụi bẩn tích tụ, chúng đòi hỏi phải thƣờng xuyên làm sạch hoặc thay thế bộ cánh khác có
hiệu suất ít bị ảnh hƣởng do sự tích tụ của bụi bẩn và côn trùng hơn. Tập hợp nhiều bộ cánh ngừng
hoạt động, tƣơng tự nhƣ vậy, cũng có thể làm giảm hiệu suất khí động học. Năng lƣợng thu đƣợc
cũng giảm khi hƣớng gió thay đổi. Bộ xử lý trên một số thiết kế tua bin gio thổi ngƣợc có thể đợi
cho đến khi cƣờng độ trung bình của cánh tua bin gặp lỗi phải lớn hơn một giá trị định trƣớc trƣớc
khi điều chỉnh các định hƣớng tua bin, dẫn đến thời gian hoạt động trở về 0 tại cánh tua bin gặp lỗi.
Kết quả là năng lƣợng thu đƣợc thấp hơn. Gió hỗn loạn gió cũng có thể gây ra một số loại hoạt động.
Ví dụ, khi gió hỗn loạn, những bộ cánh tua bin có bị lỗi đột ngột có thể làm cho các hệ thống bị tắt
và khởi động lại, và cũng làm giảm năng lƣợng thu. Khi có những cơn gió mạnh, cơn gió thổi giật
có thể làm cho tua bin ngừng hoạt động để bảo vệ phạm vi hoạt động vận hành của tua bin khi tốc độ
gió trung bình vẫn còn đảm bảo. Những vấn đề này có thể làm giảm năng lƣợng thu tới khoảng 15%
so với giá trị dự kiến. Các công ty tham gia vào hoạt động này không những nên đƣợc chuẩn bị để
giảm thiểu những vấn đề này, mà còn nên lƣờng trƣớc các vấn đề đó trong việc đánh giá kế hoạch và
tài chính.
Hình 8.3 : Một trạm năng lượng gió ở San Gorgonio Pass, Palm Springs, Calitornia (Được thiết lập
lại dưới sự cho phép của Hery Dupponti).
117
Các trạm năng lƣợng gió ở châu Âu bắt đầu xuất hiện vào cuối những năm 1980 ở Đan Mạch.
Trong những năm gần đây số lƣợng các tua bin gió đƣợc lắp đặt ở châu u đã tăng lên rất nhiều các tua
bin gió riêng lẻ và các trạm năng lƣợng gió đã phát triển đầu tiên là ở Đan Mạch, Đức, Tây Ba Nha, Hà
Lan và Vƣơng quốc Anh. Có rất nhiều Turbin đƣợc đặt ở vùng ven biển. Khi đất để phát triển năng lƣợng
gió đã trở nên hạn chế ở châu Âu, sự lắp đặt nhỏ hơn đã đƣợc đặt trên vùng núi. Tính đến tháng 11 năm
2000 châu u đã có khoảng 11000 MW năng lƣợng gió, hầu hết là nằm trong các trạm năng lƣợng gió
(EWEA. 2000)
118
8.4.2 Các vấn đề kỹ thu t
Nhiều vấn đề kỹ thuật phát sinh khi khoảng trống giữa các tua bin gió đặt quá gần nhau. Một câu
hỏi quan trọng nhất là xác định vị trí đặt tua bin và khoảng cách giữa các tua bin nhƣ thế nào (các điều
kiện chung để sắp xếp các tua bin gió đƣợc minh họa trong hình 8.4). Nhƣ đã đề cập tại mục 8.2, các
nguồn tài nguyên gió qua trại gió có thể khác nhau nhƣ là kết quả của các ảnh hƣởng từ địa hình. Ngoài
ra, việc khai thác năng lƣợng của các tua bin gió theo hƣớng gió của tua bin khác và kết quả là tại các tua
bin phía hạ lƣu của hƣớng gió có tốc độ gió thấp hơn và sự bất ổn gia tăng. Nhƣ đã mô tả trong phần này,
các ảnh hƣởng kéo theo này có thể làm giảm điện lƣợng và tăng áp lực đối với các tua bin phía sau các tua
bin khác. Khoảng cách tua bin gió cũng ảnh hƣởng đến sự biến động công suất phát ra của cả trạm năng
lƣợng gió. Nhƣ đƣợc miêu tả trong mục 8.5, điện năng biến động từ một trại gió có thể ảnh hƣởng đến
lƣới điện địa phƣơng nơi nó đƣợc lắp đặt. Phần này mô tả mối quan hệ giữa các biến động công suất đầu
cực và khoảng cách của các tua bin trong trạm năng lƣợng gió.
Khoảng cách
theo hướng
Sắp xếp tuabin gió
gió
Tuabin gió
119
tua bin trong trạm năng lƣợng gió tất cả các ảnh hƣởng đến mức độ mà là nguyên nhân làm giảm điện
lƣợng
Sự trao đổi động lƣợng và năng lƣợng giữa đuôi tua bin và gió thịnh hành đƣợc đẩy cao khi mà
vùng gió có độ rối cao hơn. Điều này làm giảm vận tốc gió hạ lƣu, làm giảm tổn thất bố trí. Cƣờng độ rối
điển hình là khoảng 10% đến 15% nhƣng có thể thấp dƣới 5% trên nƣớc hoặc cao 50% nếu địa hình xấu.
Cƣờng độ rối cũng gia tăng trong suốt trang trại gió dựa trên sự tƣơng hỗ giữa gió và các rô-to quay.
Nhƣ vậy, tổn thất bố trí cũng là một hiện tƣợng của sự phân bố thƣờng xuyên hƣớng gió hằng
năm. Các khoảng cách ngang hƣớng gió và dọc hƣớng gió giữa các tua bin sẽ thay đổi dựa trên bố trí hình
học của các vị trí tua bin gió và hƣớng gió. Theo đó tổn thất bố trí cần đƣợc tính toán dựa trên dữ liệu về
hƣớng gió điển hình hằng năm để thêm vào các dữ liệu về tốc độ gió và dữ liệu về độ rối.
Cƣờng độ rối hình học và cƣờng độ rối xung quanh đã đƣợc coi là sự tổn thất bố trí làm ảnh hƣởng
tới các thông số quan trọng nhất. Nghiên cứu cho thấy rằng, các tua bin đƣợc đặt cách nhau khoảng cách
từ 8 – 10 lần đƣờng kính D của rô-to dọc theo hƣớng gió thịnh hành và đặt cách 5 lần đƣờng kính rô-to
ngang hƣớng gió thì tổn thất bố trí điển hình ít hơn 10% (Lissaman và nnk., 1982). Hình 8.5 thể hiện tổn
thất bố trí với giả thiết tua bin bố trí 6 – 6 với khoảng cách dọc theo chiều gió là 10 lần đƣờng kính rô-to.
Biểu đồ chỉ ra tổn thất bố trí khi khoảng cách ngang chiều gió và cƣờng độ rối theo hƣớng gió thịnh hành
(tua bin đặt thẳng ngay sau tua bin khác) và theo hƣớng gió đƣợc bố trí đồng đều từ tất cả các hƣớng.
Tổn thất bố trí cũng có thể đƣợc diễn tả bởi hiệu suất bố trí:
Tổng điện gió cho toàn hệ thống
Hiệu suất bố trí =
(Điện năng của một tuabin độc lập)(Tổng số tuabin)
Ta có thể thấy rằng hiệu suất bố trí bằng 100% trừ đi tỷ lệ % tổn thất bố trí.
Việc thiết kế một trạm năng lƣợng gió đòi hỏi phải tính toán cẩn thận tới các ảnh hƣởng đó để thu
đƣợc điện năng lớn nhất. Việc bố trí các tua bin gần hơn có thể áp dụng cho nhiều tua bin hơn trong cùng
một vùng, nhƣng sẽ làm giảm điện năng bình quân thu đƣợc của mỗi tua bin trong trạm năng lƣợng gió.
120
8.4.2.2. Tính toán t n thất bố trí – mô h nh dòng đuôi
Việc tính toán tổn thất bố trí yêu cầu kiến thức về đặc điểm và tính chất của các tua bin trong trạm
năng lƣợng gió, kiến thức về động cơ gió và các mô hình thích hợp của đuôi tua bin để tính toán ảnh
hƣởng của các tua bin gió thƣợng lƣu tới các tua bin gió hạ lƣu. Một số mô hình đuôi tua bin đã đƣợc đƣa
ra. Những mô hình này đƣợc xếp vào các loại sau:
- Mô hình nhám bề mặt
- Mô hình bán thực nghiệm
- Mô hình tính nhớt xoáy
- Mô hình phân tán Navier-Stoke
Mô hình nhám bề mặt đƣợc dựa trên cơ sở dữ liệu từ thí nghiệm đƣờng hầm gió. Mô hình đầu tiên
thử mô tả tổn thất bố trí của dạng này. Một sự xem xét xuất sắc (bởi Bossanyi và nnk. 1980) mô tả một số
mô hình này và so sánh các kết quả của chúng. Những mô hình này áp dụng cho mặt cắt vận tốc theo
logarit phía thƣợng lƣa của trạm năng lƣợng gió. Chúng mô tả ảnh hƣởng của trạm năng lƣợng gió nhƣ
một sự thay đổi trên độ nhám của bề mặt mà kết quả là mặt cắt vận tốc đƣợc thay đổi trong trạm năng
lƣợng gió. Mặt cắt vận tốc đƣợc thay đổi này, khi đƣợc sử dụng để tính toán đầu ra tua bin, kết quả thu
đƣợc là điện đầu cực phù hợp thấp hơn của toàn trạm năng lƣợng gió. Những mô hình này thƣờng dựa
trên những bố trí tua bin thông thƣờng ở các vùng có địa hình bằng phẳng.
Mô hình bán thực nghiệm cung cấp những mô tả về hiện tƣợng tổn thất năng lƣợng theo sau các
tua bin độc lập. Các thí dụ bao gồm các mô hình của Lissaman (Lissaman and Bates, 1977), Vermeulen
(Vermeulen, 1980) và Katic (Katic và nnk., 1986). Những mô hình này dựa trên các giả định đã đƣợc đơn
giản hóa về dòng tua bin (dựa trên những số liệu quan sát) và sự bảo động lƣợng. Chúng có thể bao gồm
hệ số thực nghiệm đƣợc lấy từ dữ liệu mô hình đƣờng hầm gió khác và từ thí nghiệm hiện tại các vùng
trạm năng lƣợng gió. Chúng rất hữu dụng để mô tả các hƣớng quan trọng của việc tổn thất năng lƣợng ở
các dòng tua bin, và nhƣ vậy mô hình hóa tổn thất bố trí của trạm năng lƣợng gió.
Mô hình tính nhớt xoáy đƣợc dựa trên giải pháp để đơn giản hóa phƣơng trình Navier-Stokes. Các
phƣơng trình Navier-Stokes là các phƣơng trình hạn chế bởi sự bảo toàn động lƣợng của chất lỏng có tính
nhớt và độ đặc không đổi. Họ lập các phƣơng trình vi phân ba chiều. Việc sử dụng phƣơng trình Navier-
Stokes để mô tả dòng chảy rối trung bình thời đoạn kết quả là mô tả ứng suất cắt rối. Các ứng suất này có
liên quan đến các điều kiện dòng chảy sử dụng khái niệm tính nhớt xoáy. Mô hình tính nhớt xoáy sử dụng
các giả thiết đã đƣợc đơn giản hóa nhƣ mô hình giải tích và mô hình đối xứng trục để tính toán tính nhớt
xoáy phù hợp. Những mô hình này cung cấp các mô tả khá chính xác mặt cắt vận tốc trong dòng tua bin
mà không sử dụng máy tính và cũng đƣợc sử dụng trong tính toán tổn thất bố trí. Các ví dụ bao gồm mô
hình Ainsle (1985 và 1986) và mô hình của Smith và Taylor (1991).
Hình 8.6 và 8.7 cung cấp biểu đồ các dữ liệu tốc độ gió đã đƣợc đo phía sau các tua bin gió. Biểu
đồ cũng bao gồm kết quả của một trong những mô hình dòng nhớt xoáy. Hình 8.6 chỉ ra mặt cắt vận tốc
thẳng đứng không thứ nguyên tại các khoảng cách khác nhau (đo đƣợc trong đƣờng kính của rô-to) sau
một tua bin. Tổn thất và sự hao phí vận tốc theo chiều gió phía sau tua bin đƣợc giải thích rõ ràng. Hình
8.7 cung cấp biểu đồ để giải thích mặt cắt vận tốc cao của trục rô-to nhƣ một hoạt động của khoảng cách
từ trục rô-to trong các điều kiện tƣơng tự. Kiểu Gaussian của của tổn thất vận tốc cao trên trục rô-to trong
dòng tua bin xa có thể dễ dàng nhận ra.
Sự so sánh giữa các mặt cắt vận tốc gió bình quân đo đƣợc và dự đoán theo sau sự làm việc của
một máy riêng biệt khi 4.0
121
Chiều cao ( D)
Hình 8.6: Mặt vận tốc gió thẳng đứng theo hướng gió của một tua bin (Smith and Taylor, 1991) λ
tỷ lệ vận tốc đỉnh. Được thiết lập lại dưới sự cho phép của Professional Engineering Publishing.
Sự so sánh giữa các mặt cắt vận tốc gió bình quân đo đƣợc và dự đoán theo sau sự làm việc của một
máy riêng biệt khi 4.0
Hình 8.7: Mô tả sơ lược về vận tốc trên cao quanh trục rô-to theo hướng gió của một tua bin (Smith
and Taylor, 1991); λ tỷ lệ vận tốc đỉnh. Được thiết lập lại dưới sự cho phép của Professional Engineering
Publishing.
Nhƣ vậy, một sự đa dạng của các cách tiếp cận thực tế để giải trọn vẹn hệ phƣơng trình Navier-Stokes.
Những mô hình này cần tới sự tính toán của máy tính và có thể sử dụng các mô hình bổ sung để mô tả sự vận
chuyển và hao phí của động năng rối (mô hình K-E) để đồng quy và tìm đáp án. Những mô hình này là thích
hợp nhất để nghiên cứu, mô tả chi tiết các hoạt động của các tua bin theo sau và là tiền đề cho sự phát triển của
các mô hình khác đơn giản hơn. Ví dụ các mô hình của Crespo và một số ngƣời khác (Crespo và nnk., 1985,
122
Crespo and Herandez., 1990, Crespo và nnk., 1990, và Crespo and Herandez 1993), Voutsinas và một số
ngƣời khác (Voutsinas và nnk. 1993) và Sorensen and Shen (1999).
Một số yếu tố ảnh hƣởng đến độ chính xác của các kết quả áp dụng từ những mô
hình này tới các trạm năng lƣợng gió cụ thể. Khi đƣợc sử dụng để tính toán sản xuất điện
cho trạm năng lƣợng gió, những quyết định nhất thế phải đƣợc thực hiện để làm thế nào có
thể điều khiển bằng tay các sắp đặt nhiều dòng tua bin gió và các ảnh hƣởng của địa hình
phức tạp bao gồm cả sự thiếu hụt kéo theo và tốc độ gió xung quanh. Một số các mô hình
đã đƣợc đề cập ở trên đã quan tâm đến một số vấn đề này. Điển hình, nhiều dòng tua bin
đƣợc kết hợp nhau lại dựa trên sự kết hợp của dòng điện theo sau, mặc dù một số mô hình
này thừa nhận việc bố trí tốc độ gió theo đƣờng thẳng. Những ảnh hƣởng của địa hình
phức tạp có thể là rất nghiêm trọng (xem Smith and Taylor, 1991) nhƣng rất khó để chỉ ra
chúng và chúng thƣờng bị bỏ qua.
Việc sử dụng các mô hình này có thể dùng đƣợc cung cấp các biểu đồ bằng việc tính
toán một trong những mô hình bán thực nghiệm (Katie và nnk., 1986) và thƣờng đƣợc sử
dụng cho việc lựa chọn địa điểm và dự đoán đầu ra của trạm năng lƣợng gió. Mô hình này
bƣớc đầu mô tả năng lƣợng trong trang trại và bỏ qua các chi tiết thiên nhiên chính xác
trong vùng gió. Theo hình 8.8, vùng gió đƣợc thừa nhận là chứa dòng trải dài với sự thiếu
hụt vận tốc bình quân mà làm giảm khoảng cách phía hạ lƣu. Vận tốc dòng gió tự do ban
đầu là Uo và đƣờng kính tua bin là D. Vận tốc theo tại một khoảng cách X phía hạ lƣu của
rô-to là UX với đƣờng kính tua bin tƣơng ứng là DX. Hệ số tổn thất kéo theo, k, đƣợc tính
toán bằng tỷ lệ mà đƣờng kính kéo theo làm tăng hƣớng gió phía hạ lƣu.
Trong mô hình này và một số mô hình bán kinh nghiệm khác, tổn thất vận tốc không
thứ nguyên ban đầu (yếu tố induction quanh trục), a, đƣợc xác định bằng công thức hệ số
thúc đẩy tua bin:
1
a (1 1 C T ) (8.4.2)
2
Hình 8.8: Biểu đồ mô tả sự kéo theo (sau Katie và nnk., 1986), Uo, vận tốc d ng tự
do ban đầu; D, đường kính tua bin; UX vận tốc tại khoảng cách X; DX đường kính kéo theo
tại khoảng cách X; k Hệ số tổn thất kéo theo.
123
Trong đó CT là hệ số thúc đẩy tua bin. Công thức 8.4.2 có thể thu đƣợc từ công thức
3.2.16 và 3.2.17 từ mô hình Betz. Cho rằng sự bảo toàn động năng có thể thu đƣợc từ sự
biểu thức sau đây vì tổn thất vận tốc tại khoảng cách X về phía hạ lƣu:
1
UX
1 1 CT
U0 2 (8.4.3)
X
1 2k
D
Mô hình đã chỉ ra rằng tổn thất động năng của tác động lẫn nhau giữa các dòng tua
bin kết quả là tổn thất năng lƣợng của những dòng độc lập (đƣợc chỉ ra bởi các chỉ số 1, 2
trong công thức dƣới). Theo đó tổn thất vận tốc tại chỗ giao nhau của hai dòng tua bin là:
2 2 2
UX U X ,1 U X , 2
1 1 1 (8.4.4)
U0 U 0 U 0
Hệ số kinh nghiệm trong mô hình này là hệ số tổn thất kéo theo, k , là hàm của một
số các yếu tố, bao gồm cƣờng độ gió rối xung quanh, độ rối gây ra cho tua bin và độ ổn
định của bầu không khí. Katie lƣu ý rằng trong trƣờng hợp một tua bin đứng trƣớc một tua
bin khác thì k = 0,075 tƣơng ứng với tua bin phía thƣợng lƣu đã đƣợc mô hình hóa, nhƣng
lấy k = 0,11 là cần thiết đối với tua bin phía hạ lƣu mà nhận đƣợc nhiều độ rối hơn. Ông
còn lƣu ý thêm rằng kết quả cho một trạm năng lƣợng gió hoàn chỉnh với lƣợng gió đến từ
nhiều hƣớng là khá vô lý để thấy các thay đổi thứ yếu của giá trị k. Một hệ số nhỏ gây ra
mộ sự thiếu hụt năng lƣợng lớn trong các khu vực hẹp, trong khi đó giá trị lớn mang lại
thiếu hụt nhỏ trong một vùng rộng lớn. Ảnh hƣởng thực tế của sự thay đổi thông số này,
khi phân tích hiệu suất của trạm năng lƣợng gió ở nhiều tốc độ gió từ nhiều hƣớng, là khá
nhỏ.
Những bƣớc sau đây đƣợc sử dụng để tính toán đầu ra của một trạm năng lƣợng gió
sử dụng mô hình này:
1. Bán kính tua bin, chiều cao trục tua bin, điện lƣợng và các tính điểm tác động phải đƣợc tính
toán
2. Các vị trí tua bin gió phải đƣợc tính toán nhƣ là hệ tọa độ có thể đƣợc quay để phân tích các
hƣớng gió khác nhau.
3. Các dữ liệu gió ở khu vực công trình phải đƣợc thu thập cùng với hƣớng gió, ví dụ máy đo lệch
45 độ so với hƣớng gió. Các thông số Weibull phải đƣợc tính toán cho từng máy thu nhận dữ liệu với tần suất
xuất hiện gió từ mỗi trạm đo.
4. Năng lƣợng gió trung bình hằng năm đƣợc tính toán bởi từng nấc qua tất cả các vận tốc gió và
hƣớng gió. Hệ số thúc đẩy phải đƣợc tính toán từ các điều kiện vận hành của mỗi tua bin.
Hình 8.9 Cường độ rối theo chiều gió của tua bin gió (Smith và Taylor, 1991). ,tỷ số vận tốc
đỉnh.
8.4.2.4 Các biểu đồ năng lượng của trạm năng lượng gió.
Hậu quả của các tổn thất bố trí và độ rối dòng tua bin là sự biến đổi trong vận hành
của từng tua bin riêng biệt với toàn bộ tốc độ gió thịnh hành. Khi gió tiến đến gần mạng
lƣới tua bin gió tăng lên từ 0, hàng tua bin đầu tiên sẽ bắt đầu sản xuất điện năng. Việc sản
xuất điện năng sẽ làm giảm vận tốc gió phía sau hàng đầu tiên và các tua bin khác sẽ
không hoạt động. Khi gió tăng lên, sẽ có thêm càng nhiều các hàng tua bin sản xuất điện
năng cho đến khi tất cả cùng phát điện, với hàng phía trƣớc mỗi tua bin sản xuất tất cả điện
năng. Khi gió đạt đến vận tốc tính toán chỉ có hàng tua bin đầu tiên sản xuất ra điện năng
tính toán. Mỗi tua bin sẽ đạt công suất tính toán chỉ sau khi gió xuất hiện lớn hơn một ít so
với tính toán trong trạm năng lƣợng gió. Nhƣ vậy, không chỉ tổng điện năng sản xuất đƣợc
của trạm năng lƣợng gió thấp hơn của tổ hợp các tua bin riêng biệt, mà việc sản xuất điện
125
nhƣ một hoạt động của tốc độ gió của toàn bộ trạm năng lƣợng gió có dạng khác hơn là đối
với một tua bin riêng biệt. (xem hình 8.10)
Hình 8.10 So sánh đường cong điện năng ca trạm năng lượng gió và một tua bin độc lập.
Ở đây: S1() là một điểm độc lập trên chuỗi, L là tỷ lệ chiều dài toàn bộ của độ rối, U là tốc độ gió
trung bình và là tần số (Hezt).
Đặc tính không gian của gió có thể đƣợc thể hiện bằng hàm số liên kết, đƣợc đo
bằng độ lớn của chuỗi công suất tại một vị trí có liên quan đối với chuỗi công suất của một
vị trí khác. Khi sử dụng chuỗi công suất Von Karman, biểu thức cho tính liên kết trong các
điều kiện của các hàm số Bessel phải nghiêm ngặt và phù hợp nhất. Biểu thức này phức
tạp hơn đáng kể so với phép tính gần đúng hàm số liên quan số mũ của độ rối khí quyển,
phép tính mà thƣờng đƣợc sử dụng trong vi khí tƣợng học (xem Beyer và nnk.,1989), xác
định bởi:
xij
a j
(f)e
2
ij
U
(8.4.7)
Ở đây () là sự liên quan giữa các chuỗi công suất vận tốc tại các điểm i và j, a là
hằng số suy giảm liên quan - lấy bằng 50, xij là khoảng cách giữa hai điểm i và j, U là vận
tốc trung bình, và là tần số (Hz). Hằng số suy giảm liên quan bằng 50 là thích hợp nhất
cho trƣờng hợp các tua bin nằm trên 1 đƣờng thẳng, vuông góc với hƣớng gió thịnh hành
(xem Kristensen và nnk., 1981). Công thức 8.4.7 minh hoạ cho sự giống nhau về gió qua
các tua bin tại các vị trí khác nhau giảm khoảng cách giữa các tua bin và tần số của các dao
động rối. Tại các tần số thấp (trong các thời đoạn dài) và các khoảng cách gần, gió là nhƣ
nhau, nhƣng tại tần số cao (tỷ lệ thời gian ngắn) và khoảng cách dài thì chúng rất khác
nhau.
Các chuỗi công suất của tổng dao động của gió trong khu vực N tua bin, SN() là
(Beyer và nnk., 1989):
N N
1
S N ( f ) S1 ( f ) 2
N
( f )
i 1 j 1
(8.4.8)
N N
1
Trong đó
N2
( f )
i 1 j 1
đƣợc biết đến nhƣ là “bộ lọc trạm năng lƣợng gió”.
127
Dao động của tốc độ gió thay đổi bất thƣờng đƣợc xác định bởi toàn bộ chuỗi công
suất qua tất cả các tần số. Chú ý rằng tổng dao động có cùng giá trị và có thể tìm thấy từ
chuỗi dữ liệu theo cách thông thƣờng:
S1 ( f )df
2
U (8.4.9)
0
Nếu độ lệch tiêu chuẩn của công suất từ mỗi tua bin tại mức công suất trung bình có
thể giả thiết bằng k lần độ lêch tiêu chuẩn trong tốc độ gió (đó là nếu P k. U ) khi đó
dao động của công suất thay đổi bất thƣờng từ một tua bin đƣợc xác định bởi:
k S ( f )df
2 2
P ,1 1 (8.4.10)
0
Dao động của tổng công suất thay đổi bất thƣờng xác định bởi:
N N
2
P, N N k S N ( f )df k S1 ( f ) ( f ) df
2 2 2
(8.4.11)
0 0 i j
Biến thiên công suất tổng của một trạm năng lƣợng gió giảm khi khoảng cách giữa
các tua bin tăng. Cũng nhƣ, sự thiếu hụt của tƣơng quan giữa gió tại các tần số cao hơn
góp phần giảm tổng biến thiên nhiều hơn là mối tƣơng quan tƣơng đối tại các tần số thấp.
Dễ dàng kiểm tra lại, sử dụng công thức 8.4.7 và 8.4.11, nếu gió tại các tua bin hoàn toàn
tƣơng quan (xij = 0 với mọi i và j), thì tất cả các tua bin sẽ làm việc giống nhƣ một tua bin
lớn. Tƣơng tự, nếu gió của N tua bin tƣơng quan hoàn toàn (xij = 0 khi i = j và khác vô
cùng) thì áp dụng 8.4.5.
Nhƣ một ví dụ, hình 8.11 minh hoạ cho sự ảnh hƣởng của không gian đến 2 hay 10
tua bin gió, đã giả sử rằng không gian là nhƣ nhau trên suốt chiều dài đƣờng thẳng vuông
góc với hƣớng gió. Với ví dụ này lấy L=100m và U=10m/s. Hình này biểu diễn sự giảm
rất nhỏ biến thiên công suất nhƣ một hàm số của không gian gió thổi ngang.
Nhƣ đã mô tả ở trên, các tua bin gió trong trạm năng lƣợng gió không thƣờng xuyên
làm việc với cùng điều kiện gió trung bình hay rối giống nhƣ trong thống kê mô tả, nhƣng
ảnh hƣởng sự cân bằng năng lƣợng có thể thấy trong dữ liệu của trạm năng lƣợng gió. Nhƣ
vậy, các trạm năng lƣợng gió với số lƣợng lớn các tua bin gió có thể giảm các dao động
128
điện áp và các ảnh hƣởng không rõ ràng gây ra bởi các dao động công suât của từng tua
bin độc lập (xem phần 8.5).
Tỷ lệ
Hình 8.11: Một phần của biến thiên công suất như một hàm số của không gian quanh tua
bin.
8.5 Tua bin gió và các tr m năng lượng gió trong lưới điện
Các tua bin gió cung cấp điện thông qua các lƣới điện lớn, thƣờng đƣợc mô tả là
“cứng”, nghĩa là hoàn toàn không chịu ảnh hƣởng của các phụ tải hoặc thiết bị phát điện.
Trong thực tế, các đặc tính của lƣới điện có thể ảnh hƣởng đến và chịu ảnh hƣởng của các
tua bin gió đƣợc nối với chúng. Để giúp chúng ta hiểu đƣợc những ảnh hƣởng này, một mô
tả ngắn gọn về các lƣới điện và thiết bị nối với chúng đã đƣợc đƣa ra trong phần này. Cùng
với sự mô tả này là phần tổng kết về động thái điện của các tua bin trong lƣới điện và các
dạng tƣơng tác lƣới điện – tua bin có ảnh hƣởng đến các hệ thống tua bin gió.
8.5.1 Các lưới điện
Các lƣới điện có thể đƣợc chia thành 04 bộ phận chính: phát điện, truyền tải, phân
phối và các nhánh cung cấp (xem Hình 8.12). Chức năng phát điện từ lâu đời nay đã đƣợc
tạo ra bởi các máy phát đồng bộ lớn sử dụng các loại nhiên liệu hóa thạch, năng lƣợng hạt
nhân hoặc các tua bin thủy điện. Các máy phát này hoạt động dựa theo những thay đổi về
phụ tải, duy trì tần số của hệ thống ổn định và điều chỉnh điện thế và hệ số công suất ở
trạm phát điện theo yêu cầu. Các máy phát ở các nhà máy điện trung tâm lớn tạo ra công
suất ở điện thế cao (lên đến 25.000 V). Các máy phát này cung cấp dòng điện cho hệ thống
truyền tải cao thế (110 kV đến 765 kV) đƣợc dùng để phân phối điện cho các vùng rộng
lớn. Các hệ thống truyền tải điện sử dụng điện thế cao để giảm các tổn thất trong các
đƣờng dây truyền tải. Hệ thống phân phối điện ở các địa phƣơng vận hành ở mức điện thế
thấp hơn (10 kV đến 69 kV), phân phối điện đến các khu vực lân cận. Tại các địa phƣơng,
điện thế đƣợc giảm xuống một lần nữa và công suất đƣợc phân phối thông qua các đƣờng
nhánh đến một hoặc nhiều ngƣời sử dụng điện. Những ngƣời sử dụng điện trong công
nghiệp ở Mỹ thông thƣờng sử dụng mức điện năng 480 V trong khi những ngƣời sử dụng
trong thƣơng mại và dân cƣ ở Mỹ và các khu vực còn lại trên thế giới chỉ sử dụng các hệ
129
thống điện thế từ 120 đến 240 V. Ở châu u, những ngƣời sử dụng điện công nghiệp nhìn
chung sử dụng điện thế 690 V và khu vực dân cƣ là 230 V.
Tuabin gió
Hệ thống
Máy phát Hệ thống truyền
nhánh phụ
tải
Hệ thống phân
phối
Trong các mạch phân phối có lƣợng phụ tải ít, sự thay đổi về điện áp có thể đƣợc
tính xấp xỉ theo công thức:
131
PR QX
V VG VS (8.5.4)
VS
Hệ thống truyền
tải
Hệ thống phân
phối
Hình 8.13: Sơ họa hệ thống phân phối điện; R – điện trở, X – điện kháng, VS và VG – điện áp của
lưới điện và tua bin gió.
Có thể nhận thấy rằng điện áp sẽ tăng lên do sản lƣợng điện thực tế (PR) trong hệ
thống. Tuy nhiên, điện áp sẽ giảm xuống (QX) khi công suất phản kháng đƣợc tiêu thụ bởi
thiết bị trên hệ thống.
Những sự thay đổi này về điện áp có thể là đáng kể. Các biến thế trong hệ
thống kiểm soát điện áp tự động (AVR) đƣợc sử dụng để cung cấp các giá trị điện áp ổn
định một cách hợp lý cho những ngƣời sử dụng ở đầu cuối. Các biến thế này có nhiều dây
nhánh ở phía cao thế. Dòng điện đƣợc chuyển tự động từ dây nhánh này sang dây nhánh
khác khi cần thiết. Các dây nhánh khác nhau sẽ cung cấp các tỉ số rẽ nhánh khác nhau và
do vậy sẽ là các giá trị điện áp khác nhau (có thể xem thêm thông tin trong tài liệu của
Rogers và Welch, 1993).
Điện trở của dây cáp nhƣ nhau gây ra những dao động về điện áp cũng có thể làm
tiêu tán năng lƣợng. Những tổn thất về điện trong hệ thống phân phối (PLO) có thể đƣợc
biểu thị bởi phƣơng trình sau:
(P2 Q2 )R
PLO (8.5.5)
VS2
“Độ bền” hoặc “độ cứng” của lƣới điện đƣợc đặc trƣng bởi mức hƣ hỏng (M) của hệ
thống phân phối. Mức hƣ hỏng ở bất kỳ vị trí nào trong lƣới điện là tích của điện áp hệ
thống và dòng điện chạy qua trong trƣờng hợp đoản mạch ở vị trí đó. Sử dụng ví dụ ở trên,
nếu có hiện tƣợng đoản mạch tại vị trí tua bin gió, dòng điện ở trạng thái hƣ hỏng (iF) sẽ là:
VS
IF (8.5.6)
( R2 X 2 )1/2
và mức hƣ hỏng (M) sẽ là:
M = IF.VS (8.5.7)
Mức hƣ hỏng này là một chỉ số của độ bền của mạng lƣới điện: mức hƣ hỏng càng
cao biểu thị độ bền của mạng lƣới càng lớn.
132
8.5.2 Thiết bị kết nối với lưới điện
Hệ thống kết nối tua bin - lƣới điện bao gồm thiết bị kết nối và ngắt kết nối giữa tua
bin hoặc trạm năng lƣợng gió khỏi lƣới điện lớn hơn, thiết bị cảm biến sự cố trên lƣới điện
hoặc phía tua bin của kết nối và các biến thế để chuyển đổi điện năng giữa các mức điện áp
khác nhau. Thiết bị này là phần bổ sung cho thiết bị điện đƣợc gắn với mỗi tua bin gió đã
đƣợc mô tả trong Chƣơng 5.
Thiết bị ngắt/mở - Thiết bị này kết nối và ngắt kết nối giữa các nhà máy điện sử dụng năng
lƣợng gió và lƣới điện, thông thƣờng bao gồm các rơle điện lớn đƣợc điều khiển bởi các nam châm điện.
Thiết bị ngắt/mở cần đƣợc thiết kế đảm bảo hoạt tính nhanh chóng và tự động trong trƣờng hợp xảy ra sự
cố với tua bin gió hoặc hƣ hỏng của lƣới điện.
Thiết bị bảo vệ - Thiết bị bảo vệ ở điểm kết nối cần phải đƣợc trang bị nhằm đảm bảo các
sự cố của tua bin sẽ không ảnh hƣởng đến lƣới điện và ngƣợc lại. Thiết bị này phải bảo gồm sự dự phòng
cho việc ngắt kết nối nhanh trong trƣờng hợp đoản mạch hoặc điện áp quá cao trong trạm năng lƣợng gió.
Trạm năng lƣợng gió cũng cần đƣợc ngắt kết nối khỏi lƣới điện trong trƣờng hợp xuất hiện sự lệch tần
của lƣới điện so với giá trị định mức do một hƣ hỏng về lƣới điện hoặc tổn thất một phần hoặc hoàn toàn
của một trong ba pha của lƣới điện (xem Chƣơng 5). Thiết bị bảo vệ bao gồm các bộ cảm biến để phát
hiện các sự cố. Các đầu ra của các cảm biến này sẽ điều khiển các nam châm của rơle điện hoặc các công
tắc ở trạng thái rắn đƣợc bổ sung nhƣ các bộ chỉnh lƣu silic đƣợc điều khiển (SCR). Các định mức và sự
vận hành của thiết bị bảo vệ cần đƣợc phối hợp với các giá trị tƣơng ứng của thiết bị cục bộ khác để đảm
bảo không có sự cố xảy ra. Ví dụ, trong trƣờng hợp hƣ hỏng lƣới điện tức thời, việc ngắt kết nối ở trạm
năng lƣợng gió cần phải phản ứng lại nhanh đủ để ngăn chặn các dòng điện gây ra hƣ hỏng cho lƣới điện
và cần duy trì trạng thái dừng hoạt động đủ lâu nhằm đảm bảo việc tái kết nối sẽ chỉ xảy ra sau khi những
hƣ hỏng khác của lƣới điện đã đƣợc xử lý (Rogers và Welch, 1993).
Dây dẫn điện – Các dây dẫn điện sử dụng trong việc kết nối các trạm năng lƣợng gió với
lƣới điện thƣờng đƣợc làm bằng nhôm hoặc đồng. Các dây dẫn đƣợc sử dụng cho các biến thế và kết nối
với lƣới điện sẽ tiêu tán điện năng do điện trở của chúng. Những tổn thất này sẽ làm giảm hiệu suất của hệ
thống và có thể gây ra hƣ hỏng nếu các sợi dây hoặc sợi cáp trở nên quá nóng. Điện trở dây cáp sẽ tăng
một cách tuyến tính với khoảng cách và giảm tuyến tính so với diện tích mặt cắt ngang của dây dẫn.
Những cân nhắc về mặt kinh tế có xu hƣớng đƣa ra những tổn thất do điện trở cho phép, với các chi phí
tăng lên của các dây cáp lớn hơn.
Biến thế - Các biến thế ở trạm biến áp phụ đƣợc sử dụng để nối các mạch điện ở các mức
điện áp khác nhau. Chi tiết về hoạt động của biến thế đã đƣợc mô tả trong Chƣơng 5. Thông thƣờng,
những biến thế này có thiết bị kiểm soát điện áp tự động nhằm giúp việc duy trì điện áp của hệ thống.
Thiết bị nối đất – Tua bin, các trạm năng lƣợng gió, và các trạm biến áp phụ cần các hệ
thống nối đất để bảo vệ thiết bị khỏi những hƣ hỏng do sét và đoản mạch. Việc cung cấp một đƣờng dẫn
cho các dòng điện cao thế xuống đất có thể là một vấn đề quan trọng ở những vị trí có đá lộ thiên và các
loại đất không dẫn điện khác. Hiện tƣợng sét đánh hoặc các hƣ hỏng có thể gây ra những sai khác đáng kể
về thế năng mặt đất ở những vị trí khác nhau. Những sai khác này có thể phá vỡ các thiết bị bảo vệ lƣới
điện và gây nguy hiểm cho những ngƣời vận hành.
8.5.3 Sự làm việc của các tua bin gió được nối với các lưới điện
Việc vận hành tua bin gió sẽ gây ra sự dao động của các mức điện năng thực tế và
phản kháng, và có thể tạo ra những sự chuyển tiếp (quá độ) về điện áp và dòng điện hoặc
sự điều hòa về điện áp và dòng điện. Những yếu tố này có thể góp phần vào sự tƣơng tác
giữa tua bin - lƣới điện, nhƣ đã đƣợc giải thích trong mục 8.5.4. Phần này bổ sung thêm
thông tin trong Chƣơng 5 và trình bày các khía cạnh trong việc vận hành tua bin mà có thể
là quan trọng đối với những tƣơng tác tua bin - lƣới điện.
133
Các tua bin gió, đặc biệt là các tua bin có tốc độ quay cố định đƣợc kết nối với các
lƣới điện, nhìn chung sử dụng các máy phát điện cảm ứng. Các máy phát điện cảm ứng tạo
ra công suất thực tế (P) cho hệ thống và tiếp nhận công suất phản kháng (Q) từ hệ thống.
Mối quan hệ giữa công suất thực tế và công suất phản kháng là một hàm của việc thiết kế
máy phát và công suất đƣợc tạo ra. Cả hai loại điện năng trên đều có dao động không đổi
trong suốt quá trình vận hành của tua bin gió. Các dao động của giá trị công suất thực tế
với tần số thấp xảy ra khi tốc độ trung bình của gió thay đổi. Nhu cầu về công suất phản
kháng gần nhƣ không đổi hoặc tăng chậm trên toàn bộ phạm vi vận hành của các máy phát
cảm ứng. Do vậy, những dao động của giá trị công suất phản kháng với tần số thấp thông
thƣờng nhỏ hơn các dao động tƣơng ứng của giá trị công suất thực tế. Các dao động với
tần số cao hơn của cả công suất thực tế và công suất phản kháng xảy ra do những nhiễu
động về gió, vùng bóng cột tua bin, và các hiệu ứng động lực từ hệ thống truyền động, các
rung động của cột và cánh tua bin.
Các tua bin gió với các máy phát đồng bộ vận hành theo một cách khác so với các
loại sử dụng máy phát cảm ứng. Khi đƣợc kết nối với một mạng lƣới điện lớn với điện áp
không đổi, tính chất kích thích từ trƣờng của các máy phát đồng bộ trên các tua bin gió có
thể đƣợc sử dụng để thay đổi hệ số điện năng đƣờng dây và để kiểm soát giá trị điện năng
phản kháng khi cần.
Các tua bin có tốc độ thay đổi thông thƣờng có một thiết bị chuyển đổi điện năng
bằng điện tử giữa máy phát và lƣới điện. Những hệ thống này có thể kiểm soát cả hệ số
công suất và điện áp của công suất cung cấp. Các thiết bị chuyển đổi điện năng bằng điện
tử đƣợc nối với các máy phát cảm ứng cũng cần phải cung cấp điện năng phản kháng cho
máy phát của tua bin. Trong thực tế, điều này đƣợc thực hiện bằng việc chu chuyển dòng
phản kháng qua các cuộn dây của máy phát để kích thích từ trƣờng trong máy phát. Các
thành phần của bộ chuyển đổi đƣợc nối với lƣới điện thông thƣờng có thể cung cấp dòng
điện cho lƣới điện với bất kỳ hệ số điện năng yêu cầu nào. Khả năng này có thể đƣợc sử
dụng để cải thiện sự vận hành của lƣới điện khi cần.
Khi các máy phát điện đƣợc kết nối hoặc ngắt kết nối với một nguồn công suất, các
dao động về điện áp và các dòng điện quá độ có thể xảy ra. Nhƣ đã giải thích trong
Chƣơng 5, việc kết nối một máy phát cảm ứng với lƣới điện sẽ tạo ra một dòng “chảy vọt”
nhất thời khi từ trƣờng đƣợc kích thích. Ngoài ra, nếu máy phát đƣợc sử dụng để tăng tốc
độ của rô-to, từ các giá trị khác xa so với tốc độ đồng bộ (quá trình vận hành với tốc độ
trƣợt cao), các dòng điện với độ lớn đáng kể có thể xuất hiện. Những dòng cao thế này có
thể đƣợc hạn chế, nhƣng không thể đƣợc triệt tiêu, với việc sử dụng một mạch “khởi động
mềm”, làm hạn chế dòng của máy phát. Khi các máy phát cảm ứng đƣợc ngắt kết nối khỏi
lƣới điện, sự tăng vọt điện áp có thể xuất hiện khi từ trƣờng suy giảm. Ngƣợc lại, các máy
phát đồng bộ nhìn chung không có những yêu cầu về dòng khởi động. Thông thƣờng,
chúng phải đƣợc gia tốc đến tốc độ vận hành bởi rô-to của tua bin trƣớc khi kết nối với
lƣới điện. Tuy nhiên, sự quá độ về điện áp vẫn có thể xảy ra khi kết nối hoặc ngắt kết nối
do từ trƣờng của stato đƣợc kích thích và khử kích thích.
134
tùy theo lƣới điện và các dạng tua bin, việc đƣa các tua bin vào lƣới điện có thể giúp cho
việc hỗ trợ và ổn định một lƣới điện cục bộ. Những tƣơng tác giữa tua bin và lƣới điện phụ
thuộc vào động thái về điện của (1) loại tua bin đang xem xét và (2) các lƣới điện mà các
tua bin kết nối vào. Những khía cạnh quan trọng của những yếu tố này đã đƣợc giải thích ở
trên. Các vấn đề về liên kết bao gồm các vấn đề về các mức điện áp ổn định, sự chập chờn,
sóng điều hòa và việc cô lập. Phần này chủ yếu tập trung vào những tƣơng tác mà có ảnh
hƣởng đến các giá trị điện áp và dòng điện của hệ thống cục bộ trên phạm vi trung hạn và
ngắn hạn. Những vấn đề có liên quan đến việc kiểm soát toàn bộ hệ thống sẽ đƣợc trình
bày ở cuối mục này.
8.5.4.1 Các giá trị điện áp n định
Những thay đổi về sản lƣợng điện trung bình và các nhu cầu về điện năng phản
kháng của một tua bin hoặc một trạm năng lƣợng gió có thể gây ra những thay đổi về điện
áp chuẩn-ổn định trong hệ thống lƣới điện đƣợc kết nối. Những thay đổi này xảy ra trong
nhiều giây hoặc hơn và đã đƣợc trình bày ở trên. Tỉ số X/R của hệ thống phân phối và các
đặc tính vận hành của máy phát (lƣợng điện năng thực tế và điện năng phản kháng ở các
mức vận hành điển hình) sẽ quyết định độ lớn của những dao động về điện áp. Kết quả
thực nghiệm đã cho thấy với tỉ số X/R khoảng bằng 2 sẽ tạo ra những dao động về điện áp
thấp nhất với những tua bin có tốc độ quay cố định điển hình sử dụng các máy phát cảm
ứng. Tỉ số X/R thông thƣờng nằm trong khoảng từ 0,5 đến 10 (Jenkins, 1995).
Lƣới điện càng yếu thì những dao động về điện áp sẽ càng lớn. Những lƣới
điện “yếu” có thể gây ra những sự cố về tƣơng tác tua bin - lƣới điện là những hệ thống
lƣới điện trong đó điện năng định mức của tua bin gió hoặc trạm năng lƣợng gió là một
thành phần quan trọng của mức hƣ hỏng hệ thống. Các nghiên cứu đã đề nghị rằng những
vấn đề về dao động điện áp thƣờng ít xảy ra với những định mức tua bin đạt 4% của mức
độ hƣ hỏng của hệ thống (Walker và Jenkins, 1997). Ở Đức các định mức máy phát điện
năng tái tạo đƣợc giới hạn ở mức 2% của mức độ hƣ hỏng, và ở POC và Tây Ban Nha giới
hạn này là 5% (Patel, 1999).
Thông thƣờng những bộ tụ điện hiệu chỉnh hệ số công suất đƣợc lắp đặt ở vị
trí nối tiếp lƣới điện để giảm yêu cầu về điện năng phản kháng của tua bin và những dao
động về điện áp của hệ thống. Những tụ điện hiệu chỉnh hệ số công suất cần đƣợc lựa chọn
một cách cẩn thận để tránh việc tự kích hoạt của máy phát. Điều này xảy ra khi các tụ điện
có khả năng cung cấp tất cả điện năng phản kháng theo yêu cầu của máy phát và máy phát
lúc này sẽ bị ngắt kết nối khỏi lƣới điện. Trong trƣờng hợp này mạch tụ điện - cảm biến,
bao gồm các tụ điện hiệu chỉnh hệ số công suất và các cuộn dây của máy phát, có thể cộng
hƣởng, tạo ra công suất phản kháng cho máy phát và có thể tạo ra những giá trị điện thế rất
cao.
8.5.4.2 ự chập chờn
Sự chập chờn đƣợc xác định là những nhiễu động về điện áp của mạng lƣới mà xảy
ra nhanh hơn những thay đổi về điện áp ổn định và đủ nhanh và có độ lớn đủ để các nguồn
sang thay đổi độ sang một cách đáng chú ý. Những nhiễu động này có thể đƣợc gây ra bởi
việc kết nối và ngắt kết nối của các tua bin, việc thay đổi các máy phát trên những tua bin
có 02 máy phát, và bởi những thay đổi về mô men xoắn trong những tua bin có tốc độ
không đổi do nhiễu loạn, ứng suất tiếp của gió, vùng bóng của cột và những thay đổi về
135
bƣớc răng. Mắt ngƣời nhạy cảm nhất với những thay đổi về độ sáng quanh những giá trị
tần số khoảng 10 Hz. Tần số vƣợt qua của cánh tua bin ở những tua bin gió lớn thông
thƣờng có giá trị gần 1 2 Hz hoặc ít hơn, nhƣng thậm chí ở những tần số này mắt ngƣời
vẫn sẽ phát hiện đƣợc những thay đổi về điện áp trong khoảng +/- 0,5% (Walker và
Jenkins, 1997). Độ lớn của sự chập chờn do những nhiễu động của gió phụ thuộc vào độ
dốc của các đƣờng đặc tính công suất thực tế và công suất phản kháng của máy phát, độ
dốc của các đƣờng đặc tính công suất và tốc độ gió của tua bin, và tốc độ gió và cƣờng độ
của nhiễu động. Nhìn chung, sự chấp chờn thƣờng ít gây ra sự cố đối với các loại máy móc
có bƣớc răng cố định và việc tắt máy đƣợc điều chỉnh hơn là các loại máy móc có bƣớc
răng đƣợc điều chỉnh (Gardner và nnk, 1995). Điện tử công suất của hệ thống có tốc độ
thay đổi thƣờng không tạo ra những dao động về điện áp nhanh trên mạng lƣới, những vẫn
có thể gây ra sự chập chờn khi các tua bin đƣợc kết nối hoặc ngắt kết nối. Sự chập chờn
không gây ra thiệt hại cho thiết bị đƣợc kết nối với lƣới điện, nhƣng trong những lƣới điện
yếu với những dao động điện áp lớn hơn nó có thể gây sự khó chịu cho những ngƣời sử
dụng khác. Nhiều quốc gia đã đƣa ra những tiêu chuẩn cho việc định lƣợng sự chập chờn
và những giới hạn cho sự chập chờn cho phép và những thay đổi theo bƣớc về điện áp (ví
dụ có thể xem nghiên cứu của CENELEC, 1993).
8.5.4.3 óng điều hòa
Điện tử công suất trong các tua bin gió có tốc độ biến đổi đƣa các điện áp và dòng
điện dạng hình sin vào hệ thống phân phối ở các tần số là bội số của tần số lƣới điện (xem
Chƣơng 5). Do những vấn đề có liên quan đến các sóng điều hòa, các hệ thống dịch vụ
điện có những giới hạn chặt chẽ về các sóng điều hòa có thể đƣợc đƣa vào hệ thống bởi
các nguồn điện năng nhƣ các tua bin gió.
Thƣớc đo thông dụng của độ méo sóng ở một điểm bất kỳ trong hệ thống là
biến dạng sóng điều hòa toàn phần (THD). Biến dạng sóng điều hòa toàn phần là một hàm
số của độ lớn tần số cơ bản và của sóng điều hòa trong dạng sóng điện áp. Điện áp tức thời
(v) có thể đƣợc biểu thị dƣới dạng tổng của điện áp cơ bản (vF) (một điện áp dạng hình sin
ở tần số cơ bản), và điện áp điều hòa cộng tác dụng (vH). Điện áp điều hòa là tổng của
nhiều sóng điều hòa (vn) thứ n (n > 1):
vH vn (8.5.8)
n2
Các giá trị điện áp điều hòa riêng rẽ (vn) bao gồm các thành phần điều hòa dạng cos
và dạng sin đã đƣợc định nghĩa trong Chƣơng 5:
n t n t
vn an cos
n b sin (8.5.9)
L L
trong đó n là số điều hòa; t là thời gian; L là một nửa chu kỳ của tần số cơ bản; an và bn là các hằng
số. Các sóng điều hòa này có thể đƣợc biểu thị dƣới dạng các hàm sin với biên độ là cn và góc pha là n :
136
n t
vn cn sin n (8.5.10)
L
trong đó:
an b
sin n , cos n n (8.5.12)
cn cn
Biến dạng sóng điều hòa đƣợc gây ra bởi sóng điều hòa thứ n của tần số cơ bản
(HDn), đƣợc định nghĩa là tỉ số giữa giá trị quân phƣơng của điện áp điều hòa thứ n trong
một khoảng thời gian T (tích phân của các chu kỳ cơ bản) và giá trị quân phƣơng của điện
áp cơ bản (vF) trong cùng khoảng thời gian T:
T
1 2
T 0
vn dt
HDn
T (8.5.13)
1 2
T 0
vF dt
Giá trị biến dạng sóng điều hòa toàn phần (THD) có thể đƣợc biểu thị nhƣ sau (xem
thêm nghiên cứu của Stemmler, 1997 và Phipps & nnk, 1994):
T
1 2
T vn dt
( HD )
n2
THD 0
n
2
T
n2
(8.5.14)
1 2
T 0
vF dt
137
69 138 kV 1,5 2,5
> 138 kV 1,0 1,5
8.5.4.4 ự cô lập
Sự cô lập chỉ sự cách ly của một bộ phận tự kích hoạt của một lƣới điện, xảy ra sau
hoạt động của thiết bị bảo vệ lƣới điện trong điều kiện sự cố. Thiết bị bảo vệ lƣới điện ở
điểm kết nối (POC) của tua bin hoặc trạm năng lƣợng gió cần tắt các máy phát trong
những trƣờng hợp quá tải, điện thế cao hoặc thấp, hoặc tần số cao hoặc thấp. Tuy nhiên,
nếu phụ tải kết nối và việc phát điện phù hợp một cách hợp lý với nhau và có sẵn nguồn
kích hoạt, sự cô lập có thể tiếp tục trong một khoảng thời gian, không bị phát hiện bởi thiết
bị bảo vệ lƣới điện thông dụng. Sự kích hoạt độc lập của các máy phát và động cơ trong hệ
thống bị cô lập có thể xảy ra do sự tự kích hoạt bởi các bộ tụ điện hiệu chỉnh hệ số công
suất hoặc bởi sự cộng hƣởng với thiết bị khác trong hệ thống đã bị cô lập. Trong khi rủi ro
của việc cô lập thƣờng là thấp, nó có thể làm cho dòng điện gây ra sự cố về lƣới điện từ
một bộ phận đã đƣợc ngắt kết nối của lƣới điện, gây nguy hiểm cho ngƣời sửa chữa và gây
ra các vấn đề về đồng bộ hóa khi tái kết nối lƣới điện đã cô lập với lƣới điện chính. Các
cảm biến ở điểm kết nối cần có khả năng phát hiện những quá độ xảy ra trong quá trình
chuyển tiếp sang điều kiện cô lập và tắt các máy phát (Rogers và Welch, 1993).
8.5.4.5 Các vấn đề về sự thâm nhập vào lưới điện
Sự bao hàm các nguồn công suất biến đổi đƣợc phân phối trên toàn lƣới điện rộng
lớn hơn có những hiệu quả lớn đối với việc kiểm soát lƣới điện và việc cung cấp công suất
ổn định. Các hệ thống dịch vụ điện cần phải cung cấp điện năng, với điện thế danh định
của hệ thống, đến tất cả các phụ tải của hệ thống. Một số lƣợng lớn các nguồn sơ cấp đƣợc
sử dụng để cung cấp điện năng, bao gồm các tua bin hơi nƣớc, khí và các tua bin thủy
điện. Các máy phát điện cố gắng theo sát sự biến đổi của phụ tải để giảm thiểu sự dao
động của điện thế và tần số. Khi phụ tải thay đổi trong ngày, các máy phát đƣợc sử dụng
trên các đƣờng truyền tải, nhƣng các nguồn sơ cấp có thể mất một thời gian để chuẩn bị
cho việc phát điện. Chính vì vậy một lƣợng nhất định của khả năng phát điện, đƣợc gọi là
“lƣợng dự phòng quay”, đƣợc duy trì sẵn trên đƣờng truyền tải để phản ứng lại những thay
đổi nhanh của phụ tải. Những dao động của phụ tải đã đƣợc dự báo trƣớc càng lớn thì
lƣợng dự phòng quay yêu cầu càng cao. Khoảng thời gian dài để thực hiện việc đƣa thiết bị
vào đƣờng truyền tải cũng đòi hỏi những dự báo về phụ tải mà có thể đƣợc sử dụng để lên
lịch trình vận hành cho các máy phát. Việc đƣa những số lƣợng lớn điện năng do gió vào
lƣới diện đã làm tăng tính biến đổi ngắn hạn của phụ tải thể hiện thông qua các máy phát
điện, do vậy sẽ làm tăng nhu cầu dự phòng quay. Nó cũng làm thay đổi phụ tải trung bình
dài hạn khi gió thay đổi, làm phá vỡ kế hoạch đƣa việc phát điện vào đƣờng truyền tải.
Sự thâm nhập lƣới điện của điện năng do gió có thể đƣợc định nghĩa là tỉ số của công suất
do gió đƣợc lắp đặt và phụ tải lớn nhất đƣợc nối với lƣới điện (xấp xỉ bằng với lƣợng phát điện
đƣợc kết nối toàn phần). Sự thâm nhập lƣới điện của gió cao nhất là ở Đan Mạch, với trên 10%
lƣợng điện phát ra là từ gió. Các nhà máy điện ở Đan Mạch dự kiến sẽ tạo ra 50% nhu cầu về
điện từ gió trƣớc năm 2030. Trong khi mối quan tâm đã đƣợc đƣa ra bởi các hệ thống dịch vụ
điện về các hạn mức cao nhất (mức trần) về sự thâm nhập vào lƣới điện của năng lƣợng gió, kinh
138
nghiệm với các hệ thống điện năng hỗn hợp (dạng lai) (xem mục 8.8) đã đề nghị rằng 50% sự
thâm nhập vào lƣới điện là khả thi, đặc biệt với việc bao hàm một số công nghệ bổ sung.
Công nghệ bổ sung có thể bao gồm năng suất phát điện mà có thể đƣa vào đƣờng truyền
tải một cách nhanh chóng, việc dự trữ năng lƣợng, và các hệ thống kiểm soát mới lợi dụng các
khả năng của thiết bị phát điện có sẵn. Ví dụ, các tua bin khí thông thƣờng có thể đƣợc đƣa vào
đƣờng truyền tải nhanh hơn so với các máy phát sử dụng hơi nƣớc. Việc bổ sung nhiều tua bin
khí có thể đƣợc sử dụng để phản ứng lại những thay đổi về phụ tải trên quy mô lớn mà không
làm tăng lƣợng dự phòng quay. Thủy điện có thể rất nhạy với những thay đổi về phụ tải và có
thể đƣợc đƣa vào đƣờng dây truyền tải một cách nhanh chóng. Thủy điện dạng bơm tích năng
bây giờ đƣợc sử dụng bởi các hệ thống dịch vụ điện để phản ứng lại với những thay đổi nhanh
và rộng của phụ tải. Dạng bơm tích năng cũng có thể đƣợc sử dụng để dự trữ điện năng do gió
nhằm sử dụng ở các giai đoạn phụ tải đỉnh và nhằm giảm những dao động của phụ tải đƣợc thể
hiện thông qua các máy phát thông dụng. Các lựa chọn trong việc kiểm soát bao gồm việc tích
hợp kiểm soát lƣới điện và kiểm soát tua bin gió để cho phép các tua bin có bƣớc răng đƣợc điều
chỉnh có thể đƣợc kiểm soát để làm quay các cánh tua bin và tạo ra công suất hoặc thậm chí là để
tiêu thụ điện năng khi cần thiết. Cuối cùng, những dự báo đã đƣợc cải thiện trong vòng 24 và 48
giờ hiện đang đƣợc sử dụng bởi các hệ thống dịch vụ điện với tính thâm nhập cao vào lƣới điện
nhằm hoạch định quá trình phát điện của chúng.
8.6 Tr m năng lượng gió ngoài khơi
Ngoài khơi của nhiều quốc gia chứa một nguồn tài nguyên gió vô cùng lớn. Một số tua
bin gió đã đƣợc lắp đặt tại một số vị trí ngoài khơi châu u để có đƣợc kinh nghiệm về các vấn
đề và tiềm năng của năng lƣợng gió ngoài khơi. Ngoài ra, có ý nghĩa trong tƣơng lai phát triển
điện gió ngoài khơi đang đƣợc lên kế hoạch ở châu u. Các trạm năng lƣợng gió ngoài khơi đầu
tiên đƣợc đề xuất trong thập kỷ 70 (Heronernus, 1972). Tua bin gió ngoài khơi đầu tiên đƣợc lắp
đặt tại Thụy Điển vào năm 1991. Năm 1992, trạm năng lƣợng gió ngoài khơi đầu tiên đƣợc lắp
đặt trong đoạn nƣớc nông (2-5m) ngoài khơi của Đan Mạch gần thị trấn Vindeby. Trạm năng
lƣợng gió Vindeby bao gồm 11 tổ máy với công suất mỗi tổ là 450 kW cách bờ biển 3km. Kể từ
đó, các trạm năng lƣợng gió ngoài khơi đã đƣợc lắp đặt tại Hà Lan, Đan Mạch, Anh và Thụy
Điển (xem bảng 8.3). Tính đến cuối năm 2001 có trên 80 MW công suất phong điện ngoài khơi
đƣợc lắp đặt. Đan Mạch đang có kế hoạch phát triển 4000 MW công suất phong điện ngoài khơi
vào năm 2030. Điều này cho phép Đan Mạch cung cấp đƣợc một nửa nhu cầu phong điện trong
nƣớc (Hiệp hội các nhà sản xuất phong điện của Đan Mạch, 1999). Các quốc gia châu u khác
cũng đang nghiên cứu mở rộng việc sử dụng năng lƣợng gió ngoài khơi. Những phát triển này
đang đƣợc thúc đẩy bởi mối quan tâm về giảm cảnh quan và tiếng ồn với các tua bin ngoài khơi
và thiếu hụt đất sẵn có cho các tua bin gió mới ở nhiều khu vực gió lớn của châu u. Những phát
triển này cũng đã đƣợc thực hiện bằng cắt giảm gần đây trong các chi phí nền móng ngoài khơi
và chi phí truyền tải điện, tăng kích thƣớc của các tua bin sẵn có và năng suất tua bin cao hơn
trên đất liền.
Bảng 8.3: Bảng tổng hợp các trạm năng lượng gió ngoài khơi tính tới năm 2001
Năm
Công suất
Vị trí vận Hiện trạng Ghi chú
(MW)
hành
139
Nogersud, Baltic Đã ngừng Tháp 3 chân đặt trên nền
1991 1x0,22=0,22
(S) hoạt động đá cứng
Đang vận
Utgrunden (S) 2001 7x1,5=10,5 Nền móng cột thép đơn
hành
Đang vận
Middlegrunden (S) 2001 20x2,0=40 Nền móng trọng lực
hành
8.6.1. Các khía cạnh độc đáo của nguồn gió ngoài khơi
Bề mặt tƣơng đối bằng phẳng của đại dƣơng kết quả độ nhám bề mặt thấp do đó cƣờng
độ rối và lực cắt gió giảm. Điều này giải thích mức độ gió thấp càng cao (chấp nhận việc thu
năng lƣợng cao hơn và có thể chiều cao tháp thấp hơn) thì cƣờng độ rối càng thấp, kết quả tổn
hại càng thấp thì tuổi thọ tua bin càng cao. Những ảnh hƣởng này gia tăng khoảng cách từ đất
liền theo hƣớng gió thổi.
Sự đánh giá mặt cắt gió thẳng đứng rất quan trọng đối với các khu vực công trình ở ngoài
khơi, khi mà dữ liệu không thƣờng xuyên nhận đƣợc tại các mặt cắt cao và cũng hiếm khi ở độ
cao trung bình. Moduyn lực cắt gió logarit (đƣợc trình bày trong chƣơng 2) thƣờng đƣợc sử
dụng cho gió ngoài khơi giả định địa hình đồng nhất với sự ổn định trung bình. Tốc độ gió trung
bình, U (z), ở độ cao z đƣợc mô tả bởi:
U* z
U ( z) ln (8.6.1)
K z0
Trong đó U* là vận tốc ma sát (giới thiệu trong Chƣơng 2), K là hằng số Von Karman và
z0 là chiều dài nhám. Nếu tốc độ gió ở độ cao tham chiếu, zr , đã biết, ta có tốc độ gió ở độ cao z
có thể đƣợc mô hình hóa theo công thức:
140
U ( z) ln( z / z0 )
(8.6.2)
U ( z r ) ln( z r / z0 )
Dữ liệu từ trạm năng lƣợng gió ngoài khơi Vindehy đã đƣợc sử dụng để cho thấy rằng các
điều kiện ổn định thực hiện trong nhiều năm và có giá trị là z0 = 0,0002m (0,2mm) có thể thƣờng
đƣợc giả thiết cho các khu vực ngoài khơi. Việc sử dụng z0 = 0,0002mm, tốc độ gió ở độ cao
48m có thể đƣợc nội suy từ các thong số ở độ cao 7,0 m với sai số 5% (Barthelmie và nnk., 1996).
Dữ liệu từ biển Baltic chỉ ra rằng chiều dài nhám bề mặt biển hữu dụng thực tế là một
hàm của tốc độ gió và chiều dài sóng (khoảng cách từ bờ biển). Mô hình Lange và mô hình
Hojstrup cho thấy chiều dài nhám bề mặt biển ra tăng vận tốc gió vƣợt quá giới hạn tốc độ gió
phát điện (Lange and Hojstrup, 1999). Mô hình Charnock thƣờng đƣợc sử dụng cho việc mô
hình hóa chiều dài nhám bề mặt biển nhƣ một hàm của tốc độ gió:
U *2
z 0 AC (8.6.3)
g
Trong đó: g là gia tốc trọng trƣờng và AC là hằng số Charnock, thƣờng đƣợc giả
định bằng 0,018 cho các vùng nƣớc ven biển. Một mô hình khác, mô hình Johnson (Lange
and Hojstrup, 1999), giả thiết một phƣơng trình ẩn với z0 là một phƣơng trình của vận tốc
ma sát và chiều dài sóng:
U*3 10
z0 0, 64 1 3
ln (8.6.4)
x 2 g 2 0
z
Trong đó: x(m) là chiều dài sóng. So sánh các mô hình với dữ liệu của biển Baltic
cho thấy rằng với chiều dài sóng từ 10 – 20 km thì mô hình Johnson hiệu quả hơn phƣơng
trình Charnock. Ở các khoảng cách lớn hơn (>30km) thì sử dụng mô hình Charnock sẽ tốt
hơn (Lange and Hojstrup, 1999). Vận tốc ma sát trong các công thức trên có thể đƣợc xác
định:
U* C D,10 U10
2
(8.6.5)
Trong đó CD,10 là hệ số kéo bề mặt hiệu quả phụ thuộc vào vận tốc gió, U10 là tốc độ gió
đƣợc đo ở độ cao 10m. Các phép đo của CD,10 cho biết rằng nó có thể khác nhau 0,001 trong gió
thấp và 0,003 trong gió cao (Garratt, 1994).
141
Kết quả của độ nhám bề mặt thấp ngoài đại dƣơng là sự gia tăng tốc độ gió mức độ thấp
tại khu vực xây dựng trạm.
Dữ liệu từ Vindeby cho thấy tốc độ gió trung bình hàng năm ở độ cao 38m tại các trạm
năng lƣợng gió ngoài khơi (cách bờ 1400m – 1600m) cao hơn khoảng 4% so với khu vực bờ
biển gần đó (Barthelmie et al .. 1996).
Cƣờng độ gió chảy rối ngoài khơi thấp hơn ở đất liền vì độ nhám bề mặt và độ tăng nhiệt
độ thẳng đứng thấp hơn. Ánh sáng mặt trời thâm nhập sâu vào trong nƣớc vài mét, trong khi ở
đất liền nó chỉ chạm tới lớp trên cùng của đất, nhƣ vậy nó làm nóng nhiều hơn. Cƣờng độ gió
chảy rối ngoài khơi cũng giảm dần theo độ cao. Cƣờng độ rối trung bình tại các vùng của Đan
Mạch với đƣờng bờ biển dài đã đƣợc đo là 0.1, 0.09, và 0.08 tại các độ cao tƣơng ứng là 10, 30
và 50m. Khi tốc độ gió tăng lên, cƣờng độ rối ở độ cao 50m giảm xuống khoảng 0.05 và sau đó
tăng lên một ít cùng vận tốc. Sự gia tăng này ở các tốc độ gió cao hơn phản ánh một sự chuyển
tiếp từ sự rối đƣợc tạo ra từ nhiệt ở các tốc độ gió thấp hơn tới sự rối tạo ra từ cơ học ở các tốc độ
gió cao hơn. Nhƣ đã đề cập ở trên, các cƣờng độ rối thấp cần khoảng trống giữa các tua bin lớn
hơn để chấp nhận các dòng tua bin đƣợc tái tạo năng lƣợng.
8.6.2. Thiết kế tua bin và n n móng cho tr m năng lượng gió ngoài khơi
Môi trƣờng ngoài biển cung cấp một số cơ hội phát triển phong điện, việc thiết kế tua bin
cũng phải thỏa mãn một số lƣợng không nhỏ những ràng buộc trong việc thiết kế tua bin gió. Do
môi trƣờng đặc biệt, các nhà sản xuất tua bin hiện đang sản xuất các tua bin gió đặc biệt cho môi
trƣờng ngoài khơi. Các chi phí bảo dƣỡng, xây dựng nền móng, cáp kết nối, giảm tiếng
ồn và quan trắc cung cấp một hình thức khác của những ràng buộc trong thiết kế ngoài khơi lớn
hơn việc thực hiện ở đất liền. Thời tiết và khoảng cách tới khu vực công trình làm tăng chi phí
vận hành và có thể làm giảm tiềm lực khi phải sửa chữa. Do đó các tua bin gió ngoài khơi cần
phải có độ tin cậy cao và yêu cầu bảo dƣỡng ít. So với việc áp dụng trên đất liền, các trạm năng
lƣợng gió ngoài khơi có thể bao gồm các rãy lớn các máy lớn hơn đƣợc tối ƣu hóa cho một môi
trƣờng khó khăn hơn; dễ dàng, ít thƣờng xuyên bảo dƣỡng và ít không gian cho các thiết bị bổ
sung hơn. Việc sử dụng các tua bin lớn hơn làm giảm chi phí cơ sở hạ tầng cho mỗi kW điện. Ít
lo ngại về tiếng ồn cho phép máy tỷ lệ tốc độ trần cao hơn. Tỷ lệ tốc độ trần cao hơn làm giảm
các kích thƣớc và chi phí thành phần và làm tăng hiệu suất tua bin. Những nhận xét này có thể có
lợi cho tua bin hai cánh để áp dụng cho các khu vực ngoài khơi. Rất khó để tăng tốc độ tua bin
ba cánh lên trên khoảng 75 m/s. Các cánh trở nên quá mảnh và ứng suất quá cao. Với các công
nghệ sản xuất cánh hiện nay, tua bin hai cánh có khả năng chịu đƣợc tốc độ đỉnh lên đến 90 m/s
mà không chịu các ứng suất trên cao nguy hiểm (Armstrong, 1998). Việc làm giảm chi phí cũng
có thể đạt đƣợc bằng cách giảm chiều cao tháp do lực cắt gió thấp ở xa bờ. Một số mẫu thiết kế
nền móng khác nhau đã đƣợc nghiên cứu để lắp đặt ngoài khơi (xem Danish Wind tua bin
Manufacturers Association, 1999). Một số các thiết kế đƣợc minh họa trong hình 8.14 nền móng
bê tông trọng lực đã đƣợc sử dụng ở Vindeby và Tuno Knob. Phía đỉnh của nền là các mũi nhọn
hình nón để phá vỡ lớp băng trôi nổi và xung quanh nền móng có bố trí đá cuội để bảo vệ tránh
sự ăn mòn. Chi phí nền móng bê tông có tỉ lệ với bình phƣơng độ sâu của nƣớc và có xu hƣớng
tăng cao ở các độ sâu trên 10m. Nền móng thép trọng lực đƣợc tính toán ở các độ sâu từ 4 –
10m. Chúng đƣợc làm bằng một ống thép hình trụ thẳng đứng đƣợc đặt trên một hộp thép phẳng
trên đáy biển. Chúng có khối lƣợng chuyên trở thấp vì chúng chỉ cần đƣợc làm đầy bởi các bảo
tải dày đặc olivin ở khu vực xây dựng. Sự gia tăng chi phí theo chiều sâu chủ yếu phụ thuộc vào
các lực tác dụng của băng đá và sóng. Móng Monopile đƣợc hình thành bởi các ống thép có
142
đƣờng kính từ 2,5-4,5m hƣớng xuống đáy biển. Không nhất thiết phải chuẩn bị đáy biển tại khu
vực công trình nhƣng việc chuẩn bị các thiết bị là rất cần thiết và the method will not work in a
seabed with large boulders. Chi phí phụ thuộc vào kích thƣớc sóng và lực tác dụng từ băng đá.
Móng Tripods đƣợc gắn vào ba thanh thép cắm sâu vào đáy biển từ 10 – 20m. Móng Tripod cần
sự chuẩn bị địa điểm tối thiểu và thích hợp cho các khu vực có độ sâu lớn hơn mà đáy biển
không có các tảng đá lớn. Độ sâu nƣớc tối thiểu từ 6-7 m để cho tàu thuyền có thể tới gần các
tháp.
Đối với vùng biển sâu hơn, tua bin phao đã đƣợc đề xuất sử dụng các thanh
dọc phao để lien kết một hoặc nhiều tua bin riêng lẻ (Heronemus, 1972), hoặc sử dụng hệ
thống phao nổi phức tạp hơn để có thể liên kết đƣợc nhiều tua bin gió hơn (xem Halfpenny
và nnk., 1995). Nền móng cố định phải chịu tác động của sóng, trong khi nền móng
nổi phải đƣợc thiết kế để giảm thiểu sự tƣơng tác giữa các tác động tuần
hoàn của sóng và động lực tua bin. Cuối cùng, các tháp tua bin cần phải đủ cao để tạo
khoảng trống giữa các cánh và mặt nƣớc biển dự kiến cao nhất, bao gồm cả sóng và thủy
triều cao.
Phao Móng Cọc Néo Đảo
trọng lực thép Bè phao
Hình 8.14: Các loại nền móng cho trạm năng lượng gió ngoài khơi.
143
phƣơng án truyền tải trực tiếp điện áp cao HVDC thì với khoảng cách nhƣ trên tổn thất
truyền tải chỉ là 13% (Westinghouse Electric Corp, 1979).
Ngƣời thiết kế hệ thống điện cần phải xem xét chi phí của thiết bị chuyển
mạch, máy biến áp và dây cáp cho các mức điện áp truyền tải khác nhau, the most cost-
effective type of cable insulation and cable capacitance. Các mức điện áp truyền tải ngoài
khơi có thể bị giới hạn tới 33kV bởi kích thƣớc và chi phí của thiết bị chuyển mạch và máy
biến áp. Cáp điện áp vào bờ có thể lên tới 150 kV nếu có bệ máy biến áp riêng biệt. Một số
công nghệ cáp cách điện: poly etilen liên kết ngang (XLPE – cross-linked polyethylene),
Cao su etylen-propylen (EPR – ethylene propylene rubber) và tự chứa đầy chất lỏng cách
điện (SCFF – self-contained fluid-filled). XLPE đƣợc sử dụng rộng rãi trên đất liền (giá rẻ
hơn), nhƣng cần có một rào cản tránh bị ảnh hƣởng bởi độ ẩm dƣới nƣớc. EPR không
cần vỏ bọc kim loại và đƣợc thiết kế để có thể sử dụng dƣới nƣớc (Grainger và Jenkins,
1998). Cáp SCFF điện áp cao có một dây dẫn bằng đồng bao bọc bởi một ống dẫn dầu và
lớp bột gỗ cách điện và đƣợc bảo vệ bởi vỏ bọc dây kim loại và cao su bao quanh
(Fermo et al .. 1993). Cuối cùng, điện dung của đƣờng dây có thể đủ lớn để tạo ra dòng
điện phản kháng hoặc xảy ra hiện tƣợng tự kích thích của máy phát điện. Ví dụ, các loại
cáp XLPE 33 kV tạo ra điện kháng khoảng 100-150 kVAR/km. Nó chỉ cung cấp điện
kháng thấp. Ngƣợc lại, cáp XLPE 132 kV sẽ cung cấp điện kháng khoảng 1 MVAR/km
điều này sẽ có tác động quan trọng hơn cho việc thiết kế trạm năng lƣợng gió (Grainger và
Jenkins, 1998).
Lập kế hoạch chi tiết cho việc lắp đặt dây cáp điện là rất quan trọng để giảm thiểu
chi phí trong suốt quá trình sử dụng của các loại cáp. Cáp và các thiết bị thì rất đắt, ngoài
ra cáp lại có thể bị hỏng. Mối nguy hiểm lớn nhất là từ các mỏ neo và việc đánh cá của các
ngƣ dân. Phần lớn các mỏ neo ăn sâu vào đáy biển không quá khoảng 1m. Tất cả các
phƣơng pháp đánh bắt cá có liên quan đến các thiết bị móc kéo dọc theo đáy biển đều có
thể ảnh hƣởng đến dây cáp. Ảnh hƣởng lớn nhất của những phƣơng pháp này là chỉ tác
động dƣới đáy biển đến độ sâu khoảng 30 cm. Giải pháp hiệu quả nhất cho những vấn đề
trên là tìm một đƣờng cáp tránh các khu vực đánh bắt cá và khu neo đậu. Một nguy hiểm
khác đó là các làn sóng cát, cáp điện đƣợc chôn có thể bị chúng làm trơ ra khỏi đáy biển
chỉ trong thời gian ngắn. Dây cáp có thể cần phải đƣợc chôn sâu 2-3 m để tránh các tác
động của sóng. Hiện tƣợng mài mòn trên đá cũng là một vấn đề đáng chú ý, có thể sử dụng
cáp bọc thép, cáp chôn hoặc kết hợp. Cáp chôn lấp là giải pháp phổ biến nhất cho những
vấn đề này (Mair, 1999).
Dây cáp đƣợc thiết kế tốt phải phù hợp giữa chi phí lắp đặt dây cáp và chi phí chôn
lấp dây với chi phí giảm thời gian lắp đặt và sửa chữa. Phƣơng pháp chôn lấp bao gồm đào
xới, nâng bằng khí nén, đào xối bằng nƣớc, xúc bỏ đất, và cƣa xẻ đá. Có nhiều
loại máy chôn lấp: Kéo, free-swimming và các phƣơng tiện điều khiển từ xa (ROVs:
Remotely operated Vehicles). Một loại máy móc cần các phƣơng pháp khác nhau ở các
khu vực khác nhau. Nói chung, máy xới đƣợc sử dụng trên các tuyến
đƣờng dài phẳng với các trầm tích trên nền sét. Công cụ phun tia nƣớc làm việc tốt nhất
trên cát và rẻ hơn khi lộ trình ngắn. Một số máy móc có thể thay đổi các dụng cụ để thay
đổi các điều kiện đáy biển. Dây cáp có thể đƣợc đặt trực tiếp trên đáy
biển (không chôn), đặt và chôn cất đồng thời, hoặc đặt và chôn lấp sau (post-lay burial).
Việc lựa chọn phƣơng pháp đặt cáp và phƣơng pháp chôn lấp sẽ phụ thuộc vào độ
144
dài của tuyến, độ sâu của nƣớc, đặc tính của đất và các thiết bị có sẵn. Tàu chứa dây cáp
cần một bản phác thảo sơ bộ, một hệ thống neo đậu và điều khiển tốt, một khu vực bố trí
cáp và thiết bị và khu nhà ở cho nhân viên. Một dự án có thể cần các con tàu khác nhau
cho các công nghệ và khu vực khác nhau. Một dự án phát triển hơn thậm chí cần phải xây
dựng một con tàu cho quản lý dự án. Việc thiết kế tốt yêu cầu phải có sự đánh giá và khảo
sát tuyến, và kế hoạch dự phòng khi thời tiết xấu. Cuối cùng, hệ thống và các tuyến đƣờng
sẽ cần phải đƣợc thiết kế để sửa chữa thuận tiện và dễ dàng, hạn chế các chi phí. Dây cáp
phải đƣợc lắp đặt để nếu có bị hƣ hỏng có thể đƣợc dễ dàng kiểm tra và định vị và có thể
đƣợc sửa chữa trong một môi trƣờng biển. Phƣơng pháp sửa chữa phải đƣợc đƣa ra ngay
từ trong giai đoạn thiết kế.
8.6.4. Các vấn đề khi thiết kế trạm năng lượng gió ngoài khơi
Việc chọn khu vực xây dựng trạm năng lƣợng gió ngoài khơi đòi hỏi sự xem xét một
loạt các vấn đề bao gồm các yêu cầu cho phép, đƣờng vận chuyển, khu vực đánh bắt cá,
những thói quen chăn nuôi cá, động vật và gia cầm, đƣờng dây điện và cáp thông tin liên
lạc hiện có dƣới nƣớc, các công trình liên quan (cho các trạm năng lƣợng gió gần bờ), bão
thủy triều và bão biển, đặc tính đáy biển, dòng điện dƣới nƣớc, các khu vực khảo cổ dƣới
nƣớc, khu bảo tồn biển sẵn có, sử dụng tổng hợp (vui chơi giải trí, quốc phòng), các cơ sở
hạ tầng sẵn có và các khu vực đƣợc bố trí cho xây dựng (tàu cáp đặt, trang thiết bị để chế
tạo nền móng, xà lan để lắp đặt) và giao thông vận tải để bảo trì.
8.6.5. Lợi ích từ các hệ thống phong điện ngoài khơi
Chi phí cho sản xuất điện gió ngoài khơi phụ thuộc vào các nguồn tài nguyên gió,
khoảng cách từ bờ biển, và độ sâu của nƣớc. Nghiên cứu cho thấy sự khác biệt chi phí chủ
yếu giữa các trạm năng lƣợng gió ở đất liền và ngoài ngoài khơi là chi phí cho nền móng
và kết nối tới lƣới điện (Morthorst and Schleisner, 1997; và Fuglsang and Thomsen, 1998).
Ví dụ, chi phí nền móng chiếm 23% và chi phí kết nối lƣới điện chiếm 17% tổng chi phí
lắp đặt cho Tuno Knob (Morthorst and Schleisner, 1997).
Chi phí lắp đặt cao hơn có thể làm tăng chi phí năng lƣợng trong suốt quá trình thực
hiện dự án, mặc dù năng suất đƣợc tăng lên từ các nguồn tài nguyên lớn hơn ở trên biển.
Ví dụ, chi phí năng lƣợng của trạm năng lƣợng gió Vindeby ƣớc tính là lớn hơn khoảng
56% chi phí năng lƣợng trung bình trên đất liền tại thời điểm khi đó (EWEA, 1994). Theo
“Morthorst and Schleisner (1997)” chi phí ƣớc tính cho một trạm năng lƣợng gió 7,5 MW
và một trạm năng lƣợng gió 200 MW tại hai khoảng cách ngoài khơi nhƣ sau: Trạm năng
lƣợng gió 7,5 MW cách bờ 5 km, sử dụng tua bin 1,5 MW, chi phí năng lƣợng ƣớc tính là
khoảng 4,9 cent/kWh, và chi phí này tăng lên 6,9 cent/kWh nếu trạm này đặt cách bờ 30
km. Với trạm năng lƣợng gió 200MW thì chi phí năng lƣợng chỉ tăng từ 4,1 lên 4,4 cent
cho 1kWh với khoảng cách từ bờ tƣơng ứng là 5 và 30 km. Chi phí năng lƣợng cho 1 tua
bin điển hình trong đất liền có công suất 600kW ở khu vực có vận tốc gió là 6,9m/s là
khoảng 4,5 cent cho 1 kWh.
Chi phí năng lƣợng gió ngoài khơi có thể giảm bằng việc tối ƣu hóa các tua bin gió
để sử dụng ở các khu vực ngoài khơi. Dự án Opti-OWECS (Kuhn và nnk., 1998) đã xác
định một phƣơng pháp thiết kế cho việc tối ƣu hóa kết cấu và kinh tế của các tua bin gió
ngoài khơi. Phƣơng pháp thiết kế xem xét mối tƣơng quan giữa tải trọng sóng và gió để
xác định các độ lớn thiết kế. Fuglsang và Thomsen (1998) đã nghiên cứu khả năng của
145
việc giảm thiểu chi phí năng lƣợng cho các trạm năng lƣợng gió ngoài khơi bằng việc tối
ƣu hóa thiết kế tua bin gió. Họ đã kết luận rằng: bằng việc tối ƣu hóa chiều cao tháp tua
bin, đƣờng kính, hiệu suất tua bin, số vòng quay của rô-to và khoảng cách giữa các tua bin,
chi phí năng lƣợng cho một trạm năng lƣợng gió ngoài khơi có thể chỉ lớn hơn khoảng
10% so với chi phí năng lƣợng của một tua bin đơn lẻ ở đất liền. Chi phí lắp đặt ngoài khơi
cao hơn trong đất liền, nhƣng từ mô hình cho thấy các tua bin gió ngoài khơi có thể sản
sinh ra năng lƣợng nhiều hơn khoảng 28% do chất lƣợng gió tốt hơn.
147
3 Tóm lƣợc lại các vấn đề của lƣới điện diesel
4 Tổng quan về các vấn đề thiết kế hệ thống hỗn hợp
5 Mô tả về các thành phần của một hệ thống điện hỗn hợp hoàn thiện
6 Thông tin trên mô hình tính toán cho các hệ thống hỗn hợp
148
Sự tiêu hao nhiên liệu đầy tải
Hình 8.15: Ví dụ về sự tiêu hao nhiên liệu của động cơ diesel theo dạng đường thẳng
8.8.2. Tổng quan về các vấn đề khi thiết kế hệ thống điện hỗn hợp
Việc thiết kế các hệ thống điện hỗn hợp phụ thuộc vào các đặc điểm của hệ thống
điện sẵn có và sự phù hợp giữa phụ tải và các nguồn năng lƣợng tái tạo sẵn có. Từ các ràng
buộc này, có nhiều lựa chọn bao gồm việc thiết kế tua bin gió, một số lƣợng “wind
penetration”, kể cả các hệ thống năng lƣợng tái tạo khác, một số lƣợng khu lƣu trữ năng
lƣợng, và quản lý phụ tải. Một đánh giá về các vấn đề liên quan đến thiết kế hệ thống điện
hỗn hợp kèm theo.
8.8.2.1. Sự phù hợp giữa phụ tải và nguồn cấp
Hệ số tính toán trong việc thiết kế hệ thống điện hỗn hợp là sự phụ thuộc lẫn nhau
của phụ tải hệ thống và điện năng đƣợc sản xuất từ hệ thống điện hỗn hợp. Vƣợt trên trạng
thái ngắn hạn, phụ tải cần bằng điện năng đƣợc sản xuất nhờ hệ thống nhằm đảm bảo hệ
thống ổn định. Để cải thiện việc cung cấp năng lƣợng nhất quán trong thời đoạn dài, một
hệ thống hỗn hợp có thể cần cả việc lƣu trữ năng lƣợng và sao lƣu sự phát điện thông
thƣờng.
Để duy trì hệ thống ổn định, dòng điện cần phải đƣợc cân đối trong khoảng thời gian
ngắn. Nhƣ đã đề cập trong mục 8.5, tần số của một hệ thống điện là một chức năng của
149
quán tính quay trong hệ thống, phụ tải dao động và việc đáp ứng năng lƣợng nguồn và việc
điều khiển hệ thống năng lƣợng nguồn. Năng lƣợng nguồn đáp ứng để thay đổi dòng điện
càng nhanh thì việc điều khiển tần số càng tốt. Trong các hệ thống có độ thâm nhập cao,
năng lƣợng nguồn có thể không đƣợc sắp xếp để đáp ứng để thay đổi dòng điện. Trong
trƣờng hợp đó, các nguồn có thể kiểm soát đƣợc bổ sung hoặc bình dự trữ năng lƣợng cần
sử dụng để điều khiểntần số hệ thống. Theo đó phụ tải đƣợc khởi động để cân bằng với
dòng điện, hệ thống để cho lƣu trữ ngắn hạn và sản xuất năng lƣợng (Hệ thống lƣu trữ
trong vòng vài phút đến 1 giờ) hoặc các máy phát bổ sung có thể đƣợc tắt đi khi mà năng
lƣợng tái tạo có thể cung cấp cho toàn bộ phụ tải. Trong trƣờng hợp này, hệ thống có quán
tính khá thấp và ngoài nguồn năng lƣợng có thể điều chỉnh nhanh chóng khác để điều
chỉnh tần số, tần số hệ thống có thể bị sai lệch đáng kể.
Dòng điện cũng cần đƣợc cân đối trên khoảng thời gian dài hơn. Nếu phụ tải giảm
xuống vào ban ngày và gió chỉ thổi vào ban đêm, nhƣ vậy gió không đƣợc sử dụng để cung
cấp điện cho phụ tải ban ngày và cũng không thể tiết kiệm đƣợc chi phí nhiên liệu. Trong
trƣờng hợp sự bổ sung của việc tích trữ năng lƣợng dài hạn (hệ thống lƣu trữ trong vài giờ
đến một ngày) sẽ đƣợc chấp nhận để năng lƣợng gió đƣợc tích trữ để cung cấp năng lƣợng
cho phụ tải ban ngày và để tiết kiệm nhiên liệu. Các thời đoạn dài của sự thiếu hụt năng
lƣợng tái tạo sẽ làm suy yếu bất cứ sự tích trữ năng lƣợng nào và cần để sử dụng các loại
máy phát thông thƣờng, mà sẽ cần có khả năng cung cấp cho tất cả phụ tải.
Dựa trên các xem xét ở trên, ta thấy rõ ràng rằng một hệ thống điện hỗn hợp có thể
mang lại lợi ích từ việc bổ sung thêm sự tích trữ năng lƣợng và/hoặc các phụ tải có thể
điểu khiển đƣợc. Sự tích trữ năng lƣợng có thể cung cấp năng lƣợng cho các thời đoạn khi
năng lƣợng gió nhỏ hơn phụ tải. Khi năng lƣợng gió lớn hơn phụ tải, việc tích trữ năng
lƣợng và các phụ tải có thể cung cấp kho chứa năng lƣợng thừa. với nhiều nguồn và kho
chứa năng lƣợng, một hệ thống điện hỗn hợp cũng phải cần một máy điều khiển giám sát
hệ thống (SSC) để quản lý dòng điện từ các bộ phận của hệ thống.
8.8.2.2. Các ràng buộc thiết kế hệ thống
Một số yếu tố ảnh hƣởng đến sự đặc trƣng của việc thiết kế một hệ thông điện hỗn
hợp, bao gồm phụ tải tự nhiên, các tính chất của máy phát điện diesel và hệ thống phân
phối điện, nguồn năng lƣợng tái tạo, chi phí nhiên liệu, sự sẵn có cán bộ kỹ thuật bảo
dƣỡng, và yếu tố môi trƣờng.
Phụ tải – Độ lớn và yếu tố thời gian của phụ tải địa phƣơng ảnh hƣởng đến công
suất của hệ thống, sự cần thiết tích trữ năng lƣợng và các hệ thống điều khiển.
Hệ thống điện diesel và hệ thống phân bố điện – Hệ thống điện sẵn có, việc tiêu hao
nhiên liệu và đặc điểm điện trong hệ thống phát điện sẵn có ảnh hƣởng đến tính kinh tế của
hệ thống điện hỗn hợp, sự lựa chọn thiết bị và thiết kế hệ thống điều khiển. Chi phí nhiên
liệu là một yếu tố quan trọng để tính toán chi phí vận hành hệ thống. Ở một số hệ thống
điện mới, hệ thống phát điện và phân phối điện có thể đƣợc thiết kế cùng với việc thiết kế
các thành phần của hệ thống điện hỗn hợp.
Nguồn năng lƣợng tái tạo – Độ lớn, sự sẵn có và yếu tố thời gian của nguồn năng
lƣợng tái tạo, việc năng lƣợng gió, mặt trời, thủy điện hay là năng lƣợng sinh khối có ảnh
hƣởng đến việc chọn lựa hệ thống năng lƣợng tái tạo, kế hoạch điều khiển, và sự cần thiết
tích trữ năng lƣợng hay không.
150
Thiết bị phụ trợ cho việc bảo dƣỡng – Sự sẵn có của cán bộ kỹ thuật vận hành và
bảo dƣỡng đã qua đào tạo ảnh hƣởng đến sự vận hành lâu dài của hệ thống, chi phí vận
hành và chi phí lắp đặt.
Các điều kiện khu vực công trình – Khu vực công trình bắt buộc phải quan tâm đến
các điều kiện địa hình, điều kiện thời tiết khắt khe của khu vực và sự xa xôi của khu vực
công trình ảnh hƣởng đến khả năng vận chuyển thiết bị đến công trƣờng, các yêu cầu phải
thiết kế thiết bị, và các yêu cầu để hệ thống vận hành.
Trong dự án với một hệ thống phát điện và phân phối điện sẵn có, mục tiêu thiết kế
hệ thống thƣờng phải tối ƣu hóa chi phí năng lƣợng bằng việc giảm thiểu sự tiêu thụ nhiên
liệu (thƣờng là các khoản chi phí trong các vùng điều khiển) và sự gia tăng của toàn bộ
công suất hệ thống để tiếp tục phát triển kinh tế địa phƣơng. Các hệ thống mới thƣờng
đƣợc thực hiện khi một sự lựa chọn mang lại lợi nhuận cho các lựa chọn khác nhƣ là mở
rộng lƣới điện.
8.8.2.3. Nguyên tắc thiết kế hệ thống điện hỗn hợp
Có rất nhiều yếu tố ảnh hƣởng đến việc thiết kế hệ thống điện hỗn hợp có độ thâm
nhập cao và rất nhiều lựa chọn các bộ phận cần thiết xem xét để đánh giá chi phí vận hành
và hiệu quả của nó. Các lựa chọn thiết kế bao gồm hình dạng, kích thƣớc và số lƣợng tua
bin gió hay các tấm pin mặt trời... công suất hiện tại và công suất tích trữ điện năng lâu
dài, độ lớn của phụ tải tạm thời, tiềm năng để cho các kế hoạch quản lý phụ tải khác, và
logic điều khiển cần để quyết định để sử dụng toàn bộ các thành phần của hệ thống khi nào
và nhƣ thế nào. Theo đó, vấn đề trở thành việc thiết kế một hệ thống điện phức tạp với
nhiều nguồn điện và kho trữ năng lƣợng có thể điều khiển đƣợc. Tiềm năng của phụ tải có
thể điều khiể đƣợc sẽ phụ thuộc vào sự phù hợp của bất cứ phụ tải nào mang lại với các
nhu cầu hằng ngày của nhân dân địa phƣơng. Việc đánh giá toàn bộ các thông số dễ dàng
hơn khi sử dụng mô hình máy tính đƣợc dự định là sử dụng cho việc thiết kế hệ thống điện
hỗn hợp (xem mục 8.8.4).
Tiêu biểu, những hệ thông điện hỗn hợp đƣợc phát triển bằng việc đƣa năng lƣợng
tái tạo vào lƣới điện độc lập sẵn có để giảm chi phí nhiên liệu và để cung cấp năng lƣợng
điện ngày một tăng. Việc cố gắng để dự đoán hiệu suất của hệ thông điện hỗn hợp là sự
tính toán có giá trị những tiềm năng hữu hạn. Trong một lƣới điện diesel lý tƣởng, sự tiêu
thụ nhiên liệu là cân xứng với điện phát ra. Theo đó nhiên liệu sử dụng sẽ cân xứng với
phụ tải. Khi năng lƣợng tái tạo đƣợc thêm vào, ảnh hƣởng tới sự giảm thiểu phụ tải mà bắt
buộc phải đáp ứng bằng điện diesel. Nếu có sự phù hợp tuyệt đối giữa phụ tải và năng
lƣợng tái tạo thì phụ tải diesel là không cần thiết. Tất cả năng lƣợng tái tạo đƣợc sản xuất
đều đƣợc sử dụng, tuy nhiên bất cứ loại điện nào sản xuất thừa thì đều bị bỏ phí. Nếu có
một khoảng thời gian nào phụ tải và năng lƣợng điện tái tạo không tƣơng xứng, thậm chí
nhỏ hơn đều phải sử dụng. Điều này giúp tăng một số nguyên tắc sau:
Nguyên tắc 1: Độ cực đại của năng lƣợng tái tạo có thể bị giới hản bởi phụ tải.
Nguyên tắc 2: Việc sử dụng năng lƣợng tái tạo sẽ bị giới hạn lâu hơn bởi sự không
tƣơng xứng về thời gian giữa phụ tải và năng lƣợng tái tạo (vào ban ngày và ban đêm phụ
tải khác nhau và nguồn năng lƣợng tái tạo khác nhau).
151
Việc đƣa ra sự tích trữ năng lƣợng làm tăng việc sử dụng nguồn năng lƣợng tái tạo
khi mà sự không tƣơng xứng về mặt thời gian giữa phụ tải và nguồn năng lƣợng tái tạo.
Dựa trên nguyên tắc 1 và 2, sự cải tiến hợp lý nhất trong việc sử dụng năng lƣợng tái tạo
đƣợc tạo ra bằng việc sử dụng tích trữ là bị giới hạn bởi việc bất tƣơng xứng giữa năng
lƣợng sẵn có và phụ tải.
Trong thí nghiệm, việc sử dụng nhiên liệu cho điện diesel không bao giờ thay đổi
trong sự cân đối thực tế với phụ tải. Hiệu suất máy phát điện diesel hầu nhƣ giảm khi phụ
tải giảm. Tuy nhiên, một hệ thống máy phát diesel bao gồm cả việc tích trữ có thể đƣợc
đánh giá để cải thiện hiệu suất của hệ thống. ....
Nguyên tắc 3: Lợi ích khả quan lớn nhất với kế hoạch cải thiện điều khiển hay vận
hành là một hệ thống gần với việc sử dụng nhiên liệu của máy phát điện diesel lý tƣởng –
nhiên liệu sử dụng cân đối với phụ tải mà máy phát diesel đáp ứng.
Nguyên tắc 4: Việc tiết kiệm nhiên liệu tối đa xuất hiện từ việc sử dụng năng lƣợng
tái tạo trong một hệ thống đƣợc tối ƣu hóa không bao giờ lớn hơn việc tiết kiệm nhiên liệu
của một máy phát điện lý tƣởng cung cấp sự giảm thiểu cân xứng trong phụ tải từ việc sử
dụng năng lƣợng tái tạo.
8.8.3 Các thành phần của hệ thống điện hỗn hợp
Một hệ thống điện hỗn hợp bao gồm các trạm phát diesel, các nguồn năng lƣợng
thay thế, hệ thống điều khiển giám sát, hệ thống tích trữ năng lƣợng và phủ tải. Lƣu ý rằng
hệ thống tích trữ năng lƣợng thực chất vừa là nguồn vừa là phụ tải. Để tạo cho toàn bộ các
hệ thống này làm việc cùng nhau thì có thể cần đến các máy biến đổi năng lƣợng hoặc ht
một cặp phát điện diesel. ( vấn đề này sẽ đƣợc giải thích ở phần sau). Biểu đồ thể hiện một
hệ thống điện hỗn hợp đƣợc trình bày trong hình 8.16. Sự hoạt động của mỗi thành phần
và tác dụng tƣơng hỗ giữa các thành phần này đƣợc trình bày phần dƣới đây.
Các hệ thống điện lớn, thƣờng lớn hơn 100kW, điển hình bao gồm các máy phát
diesel đấu AC, các nguồn năng lƣợng thay thế và phụ tải và có thể có hệ thống tích trữ
năng lƣợng. Dƣới 100kW, sự kết hợp giữa các thành phần kết nối AC và các thành phần
kết nối DC là phổ biến nhƣ là việc sử dụng của tích trữ năng lƣợng
Các thành phần trong các hệ thống DC có thể bao gồm các máy phát diesel, các
nguồn năng lƣợng thay thế, hệ thống tích trữ năng lƣợng. Các hệ thống điện hỗn hợp nhỏ
chỉ phục vụ phụ tải DC, điển hình nhỏ hơn 5kW, đã và đang đƣợc sử dụng thƣơng mại hóa
trong nhiều năm tại các vùng xa trung tâm cho các trạm viễn thông và các ứng dụng dùng
năng lƣợng thấp khác.
Sự hoạt động của mỗi thành phần và sự tác dụng tƣỡng hỗ giữa chúng đƣợc miêu tả
trong hình dƣới đây.
152
Bộ ly hợp
DC Phụ tải DC
Máy phát AC AC bus Chủ yếu
Tuabin gió bus Máy chỉnh lưu Có thể dùng sau
Máy đổi điện PV Không bắt buộc
Máy phát diezel Ít dùng
Phụ tải AC
Chủ yếu Máy phát DC
Có thể dùng sau Từ Tuabin gió
Không bắt buộc Máy đổi điện
Mang PV
Ít dùng
Máy phát diezel
Hình 8.16: Cấu hình hệ thống điện hỗn hợp, pin quang điện
8.8.3.1. Các máy phát điện diesel trong hệ thống điện hỗn hợp
Trong một hệ thống năng lƣợng AC chuyển đổi, bắt buộc phải có ít nhất một máy
phát diesel kết nối với lƣới điện để thiết lập tần số dòng điện và để cung cấp dòng phản
hồi. Hệ thống điện có thể đƣợc thay đổi do vậy máy phát diesel không phải lúc nào cũng
đƣợc yêu cầu, nhƣng trong trƣờng hợp này các thành phấn khác bắt buộc phải đƣợc đƣa
vào. Các thành phần khác này có thể bao gồm máy biến dòng, một máy đổi dòng quay
chiều, một tụ điện đồng bộ hoặc máy phát điện khác nhƣ tua bin gió với máy phát đồng bộ.
Nhƣ đã trình bày trong chƣơng 5, một máy biến dòng là một thiết bị ( điển hình là một
thiết bị điện tử cứng) cái cung cấp dòng AC từ một nguồn DC. Một máy chuyển đổi xoay
chiều là một máy biến dòng cơ điện. Nó yêu cầu một máy điều khiển riêng rẽ để thiết lập
tần số. Tụ đồng bộ là một máy điện đồng bộ đƣợc kết nối với lƣới điện và cho phép tốc độ
quay tại tốc độ đƣợc xác định bởi tần số của dòng điện. Để hoạt động trong sự phù hợp
với máy điều chỉnh hiệu điện thế, nó cung cấp năng lƣợng phản hồi đối với điện nhƣng
không điều khiển tấn số của lƣới điện. Sự phát sinh năng lƣợng phản hồi cũng có thể đạt
đƣợc với một máy phát đồng bộ có kết nối với tua bin gió.
8.8.3.2 Tua bin gió trong hệ thống điện hỗn hợp
Tua bin gió đƣợc sử dụng cho các hệ thống điện AC lớn điển hình thƣờng có công
suất từ 10kW đến 500kW. Đại đa số các tua bin trong phạm vi này là các tua bin có tốc độ
quay cố định sử dụng các máy phát yêu cầu năng lƣợng phản hồi từ các nguồn bên ngoài.
Do vậy trong hệ thống hỗn hợp chúng có thể làm việc khi chỉ cần ít nhất một máy phát
diesel hoạt động. hoặc trong hệ thống có các nguồn riêng biệt cho các nguồn năng lƣợng
phản hồi. Sự khởi động dòng điện của các tua bin với các máy phát cảm ứng từ cũng cần
153
đƣợc cung cấp bởi hệ thống. Một vài tua bin sử dụng máy phát đồng bộ. Nếu chúng có
điều khiển bƣớc bánh răng, chúng có thể đƣợc sử dụng để điều khiển tần số của lƣới và để
cung cấp điện năng phản kháng. Trong trƣờng hợp đó, những tua bin này có thể vận hành
mà không cần các máy phát diesel trên lƣới điện. Các tua bin khác sử dụng máy chuyển
đổi điện. Những loại máy nhƣ vậy cũng có thể chạy mà không cần có một máy phát diesel
nào đi cùng.
Có một số lƣợng lớn tua bin gió cung cấp dòng điện DC. Các loại tua bin này điển
hình là các loại tua bin nhỏ ( có cống suất nhỏ hơn hoặc bằng 10kW). Cùng với các điều
khiển hoặc máy chuyển đổi phù hợp, các tua bin này có thể làm việc thích hợp với phụ tải
AC hoặc DC.
Nhƣ là các thành phần trong hệ thống hỗn hợp, điều khiển của tua bin gió cần đƣợc
tích hợp vào máy điều khiển giám sát của hệ thống.
8.8.3.3. Tấm quang điện trong hệ thống hỗn hợp
Tấm quang điện có thể cung cấp nguồn bổ xung hữu ích cho tua bin gió trong hệ
thống hỗn hợp. Tấm quang điện cung cấp năng lƣợng điện trực tiếp từ tia bức xả nhiệt của
mặt trời. Tấm quang điện là nguồn cung cấp điện một chiều DC. Các tấm quang điện này
thƣờng hoạt động phù hợp với các thiết bị tích trữ điện hoặc các dòng chủ DC riêng biết.
Trong các hệ thống lớn hơn, chúng có thể đƣợc gép đôi với các máy biến dòng chuyên
dụng và do đó nó hoạt động nhƣ là một nguồn điện AC thực tế.
Các tấm quang điện cung cấp nguồn điện biến đổi. Sự biến thiên trong nguồn năng
lƣợng mặt trời trong năm và trong một ngày cũng nhƣ sự thay đổi của thời tiết và sự di
chuyển của các đám mây làm phức tạp trong việc thiết kế hệ thống.
Năng lƣợng sinh ra bởi các tấm quang điện đƣợc xác định bởi mức độ bức xạ trong
tấp quang điện, đặc tính của các tấm quang điện và hiệu điện thế của phụ tải. Hình 8.17 thể
hiện quan hệ hiệu điện thế và dòng điện của tấm quang điện PV điển hình tại một mức độ
nhiệt độ bức xạ nhiệt cho trƣớc. Có thể nhận ra rằng, phạm vi dao động của điện thể khi
tấm quang điện làm việc hiệu quả là khá bị giới hạn. Để tăng điện áp đầu ra, các tấm quang
điện này cần đƣợc kết nối song song với nhau. Năng lƣợng sinh ra từ các tấm quang điện
phụ thuộc mạnh mẽ vào phụ tải mà nó kết nối. Trong trƣờng hợp đặc biệt, điện thế và
cƣờng độ dòng điện của các tấm quang điện phải bằng điện thế và cƣờng độ của phụ tải.
Nói chung, các tấm quang điện và phụ tải có các quan hệ điện thế vơi dòng điện khác
nhau. Điều này xuât hiện khi quan hệ điện thế và dòng điện của phụ tải và các tấm quang
điện giao nhau. ( Hình 8.17)
Năng lƣợng từ các tấm quang điện bằng với năng lƣợng tiêu thụ tại mỗi thời điểm.
Công suất lớn nhất xuất hiện tại một điện thế nào đó thấp hơn điên thế của dòng mở. Để
các tấm quang điện đạt hiệu suất lớn nhất khi dùng với các thùng bin điện, Thì điện thế của
bin phải gấn xấp xỉ điện thế của tấm quang điện tại điểm có công suất lớn nhất. Nó cũng
có hiệu quả khi chúng ta sử dụng thiết bị điều hòa năng lƣợng ( Bộ theo dõi điểm có công
suất lớn nhất hoăc MMPT ) để làm cho phù hợp với phụ tải có đặc tính của phần tử PV.
Các thiết bị chuyển đổi này điều chỉnh phạm vị điện thế của PV để đạt đƣợc công suất lớn
nhất. Mục đích của thiết bị chuyển đổi là để đạt đƣợc công suất lớn nhất trong các bộ phận
điện của hệ thống tại bất kỳ một bức xạ nhiệt.
154
in quang điện (PV)
Phụ tải
Điện áp
Hình 8.17: Phụ tải tương hợp với tấm quang điện PV với một mức độ bức xạ cho trước.
Nạp đầy
Vôn trên pin
Ah được xả
Công suất, Ah
Vôn trên pin
Xả bình thường
Xả Nạp
Thời gian
156
8.8.3.6 Các thiết bị chuyển đ i năng lượng
Có hai loại chức năng chuyển đổi dòng điện cho hệ thống điện hỗn hợp: chỉnh lƣu và đổi chiều
(Xem chƣơng 5). Chỉnh lƣu thƣờng đƣợc sử dụng để xạc pin từ nguồn xoay chiều AC. Đổi chiều thƣờng
dùng để cung cấp điện cho phụ tải AC từ nguồn một chiều DC.
Nhƣ đã đề cập ở chƣơng 5, hầu hết các máy đổi chiều đều thuộc một trong hai loại: line
commutated hoặc self – commutated. Máy đổi chiều line commutated yêu cầu có đƣờng điện xoay chiều
bên ngoài. Do vậy chúng không thể đặt tần số dòng điện cho lƣới điện nếu ví dụ tất cả các máy phát điện
diesel đều ngừng làm việc. Máy đổi chiều self- commutated điều khiển tần số dòng điện dựa trên điện tử
bên trong. Nó không hoạt động bình thƣờng với các thiết bị thiết lập tần số dòng điện khác. Có các máy
đổi chiều có thể làm việc với cả line – commutated hoặc với self – commutated. Chúng rất là linh hoạt
nhƣng hiện tại các loại thiết bị này vẫn rất là đắt.
Một máy biến dòng quay đặc biệt vừa là máy chỉnh lƣu vừa là máy đổi chiều cơ điện. Nó bao gồm
một máy đồng bộ xoay chiều kèm với một máy một chiều. Cả hai loại máy này có thể hoạt động nhƣ là
một mô tơ điện hoặc một máy phát. Khi một máy là mô tơ điện thì máy kia là máy phát điện và ngƣợc lại.
Ƣu điểm của biến dòng quay là sự phát triển tôt của thiết bị và máy tƣơng đối khỏe. Nhƣợc điểm của loại
máy này hiệu xuất thấp và giá thành lớn hơn máy biến dòng một chức năng.
Ly hợp
Thanh DC
.
Hình 8.19: Động cơ diesel nối cặp.
Hình 8.20: Chức năng của hệ thống điều khiển giám sát.
158
Tài liệu tham khảo
Ainslie, J. F. (1985) Development of an Eddy-Viscosity Model for Wind Tua bin Wakes. Proc. / BWEA
Conference, London: Multi-Science Publishing Co.
Ainslie, J. F. (1986) Wake Modelling and the Prediction of Turbulence Properties. Proc. ^" BWEA Mmc/£/zry
Coerence, Cambridge. March 1986, 115-120.
ANSI/IEEE (1992) !EEE Recommended Practices and Requirements for Harmonic Control in Electrical
Power Systems. ANSI/IEEE Std 519-1992.
Armstrong. J. R. C. (1998) Wind Tua bin Technology Offshore. Proc. BWEA Conference, Cardiff University
of Wales, 2-A September, 301-308.
AWEA (2000) American Wind Energy Association web site, April 2000;
www.awea.ora/oialooklOOO/oullook 2.html
Baker. R. W. (1999) Tua bin Energy Shortfalls Due to Turbulence and Dirty Blades. Proc. of AWEA
Conference, Windpower '99. 21-23 June. Burlington, VT.
Barthelmie. R. J.. Courtney. M. S., Hojstrup, J., Larsen. S. E. (1996) Meteorological Aspects of Offshore
Wind Energy: Observations from the Vindeby Wind Farm. Journal of Wind Engineering and Industrial
Aerodynamics. 62. 191-211.
Beyer. H.G., J. Luther, Steinbcrgcr-Willms. R. (1989) Power Fluctuations from Geographically Diverse, Grid
Coupled Wind Energy Conversion Systems. Proc. European Wind Energy Conf, 10- 13 July 1989, Glasgow.
306-310.
Blohm. R. L. (1985) Selecting and Sizing Stationary Batteries. Proc. The Power Sources Users Conference,
15-17 October, 1985.
Bossanyi. E. A.. Maclean. C. Whittle, G. E., Dunn. P. D.. Lipman, N. H., Musgrove, P. J. (1980) The
Efficiency of Wind Tua bin Clusters. Proc. Third International Symposium on Wind Energy Systems, 26-29
August, 1980, Lyngby, DK, 401^16; BHRA Fluid Engineering, Cranfield, Bedford MK43 OAJ, UK.
Bossanyi, E., Saad-Saoud, Z., Jenkins, N. (1998) Prediction of Flicker Produced by Wind Tua bins. Wind
Energy, vol. I, John Wiley, September 1998.
159
CENELEC (1993) Flickermeter - Functional and Design Specifications. European Norm EN 60868: 1993 E:
IEC686:1986+AI: 1990. Brussels, Belgium.
Crespo, A., Herandez, J. (1990) Numerical Modelling of Wind Turbme Wakes. Proc. EWEC, 1990. 10-14
September 1990. Madrid, Spain.
Crespo, A., Herandez, J. (1993) Analytical Correlations for Turbulence Characteristics in the Wakes of Wind
Tua bins. Proc. EWEC, 1993. 8-12 March, 1993, Lubeck, Germany.
Crespo, A., Manuel, F., Herandez, J. (1990) A Numerical Model of Wind Tua bin Wakes and Wind Farms.
Proc. EWEC, 1990.
Crespo. A., Manuel. F., Moreno. D., Fraga, E., Herandez. J. (1985) Numerical Analysis nf Wind Tua bin
Wakes. Proc. Workshop on Wind Energy Applications, Delphi, Greece. 1985.
Danish Wind Tua bin Manufacturers Association (1999) www.windpower.dk. July 1999. Derrick. A. (1993)
Development of the Measure-Correlate-Predict Strategy for Site Assessment. Proc. EWEC, Lubeck-
Travemunde, Germany, 8-12 March 1993, 681-685.
EWEA (1994) Offshore and Onshore Windfarm Costs Compared. Newsletter of the European Wind Energy
Associations, Volume XIII. No. 3, 1994.
EWEA (2000) Wind Directions. European Wind Energy Association. November 2000. Fermo, R., Guida, U.,
Poulet, G., Magnani, F.. Aleo, S. (1993) 150 kV Sy.stem for Feeding Ischia Island. Proc. Third Conference on
Power Cables and Accessories, 10 kV-500 kV, 23-25 November 1993, London. UK, Organized by the Power
Division of the Institution of Electrical Engineers.
Fink, D. G., ed. (1978) Standard Handbook for Electrical Engineers, Eleventh Edition, McGraw-Hill. New
York.
Fordham. E. J. {1985) Spatial Structure of Turbulence in the Atmosphere. Wind Engineering, 9, 95- 135.
Fuglsang. P., Thomsen. K. (1998) Co.st Optimisation of Wind tua bins for Large-scale Off-shore Wind Earms.
Riso National Laboratory. Roskilde, Denmark. February, 1998.
Gardner, P.. Craig, L. M.. Smith, G. J. (1998) Electrical Systems for Offshore Wind Farms. Proc. BWEA Wind
Energy Conference, Professional Engineering Publishing Limited, UK.
Gardner, P.. Jenkins, N.. Allan. R. N., Saad-Saoud. Z.. Castro, F., Roman. J.. Rodriguez, M. (1995) Network
Connection of Large Wind Turbmes. Proc. of the 17th BWEA Conference, Warwick, UK, 19-21 July 1995.
Garratt, J. R. (1994): The Atmospheric Boundaiy Layer. Cambridge University Press, Cambridge. Grainger,
W.. Jenkins, N. (1998) Offshore Wind Fami Eiectncal Connection Options. Proc. BWEA Wind Energy
Conference, Professional Engineering Publishing Limited, UK.
Halfpenny. A., Kerr, S., Quinlan, M.. Bishop, N. W. M. (1995) A Technical Feasibility Study and Economic
Assessment of an Offshore Floating Wind Farm. Proc. of the 17th BWEA Conference, 19-21 July 1995,
Warwick. UK.
Hassan, U.. Taylor, G. J., Garrad, A. D. (1988) The Impact of Wind Tua bin Wakes on Machine Loads and
Fatigue. Proc. European Wind Energy Conference. 6-10 June 1988, Herning, Denmark. 560-565.
Heronemus, W. E. (1972) Pollution-free Energy from Offshore Winds, Proceedings of 8th Annual Conference
and Exposition, Marine Technology Society, Washington. DC.
Hiester, T. R.. Pennell. W. T. (1981) The Meteorological Aspects of Siting Large Wind Tua bins. U.S. DOE
Report No. PNL-2522.
Hunter, R.. Elliot. G. (1994) Wind-Diesel System. Cambridge University Press, Cambridge, UK.
160
lEC (International Electrotechnical Commission) (1999) lEC 61400-24. Edn. 1: Wind Tua bin Generator
Systems - Part 24: Lightning Protection for Wind Tua bins. International Electrotechnical Commission,
Geneva, Switzerland.
Infield, D. G. Lunsager, P., Pierik. J. T. G. van Dijk, V. A. P., Falchetta, M., Skarstein, O., Lund, P. D. (1990)
Wind Diesel System Modelling and Design, Proc. EWEC 90, 569-574.
Jenkins. N. (1995) Some Aspects of the Electrical Integrations of Wind Tua bins. Proc. of the 17th BWEA
Conference, Warwick, UK, 19-21 July 1995.
Joensen, A., Landberg, L., Madscn. H. (1999) A New Measure-Correlate-Predict Approach for Resource
Assessment. Proc. EWEC, 1-5 March 1999. Nice. France. 1157-1160.
Katie. 1.. Hojstrup. J.. Jensen. N. (_). (1986) A Simple Mode! for Cluster Efficienc). Proc. European Wind
Energy Conference, 7-9 October 1986. Rome. Italy.
Kristensen, L., Panofsky, H. A.. Smith. S. D. (1981) Lateral Coherence of Longitudinal Wind Components in
Strong Winds. Boundaiy Layer Meteorology, 21. 199-205.
Kiihn, M., Bierbooms, W. A. A. M.. van Bussel, G. J. W., Ferguson. M. C, Goransson. B., Cockerill, T. T.,
Harrison, R.. Hariand. L. A.. Vugts, J. H.. Wiecherink. R. (1998) Opti-OWECS Final Report, Vol. 0-5,
In.stitute for Wind Energy, Delft University of Technology, Report No. IW-98139R.
Landberg, L., Mortensen, N. G. (1993) A Comparison of Physical and Statistical Methods for Estimating the
Wind Resource at a Site. Proc. 15'" BWEA Conference, York, 6-8 October 1993, 119-125.
Lange, B., Hojstrup, J. (1999) The Infiuence of Waves on the Offshore Wind Resource. Proc. EWEC, Nice,
1999.
Lissaman. P. B. S.. Bates, E. R. (1977) Energy Effectiveness of Arrays of Wind Energy Conversion Systems.
AeroVironment Report AV FR 7050. Pasadena. CA. USA.
Lissaman, P. B. S., Zaday, A., Gyatt. G. W. (1982) Critical Issues in the Design and Assessment of Wind Tua
bin Arrays. Proc. of the 4th lnfernafi<mal Symposium on Wind Energy Systems, Stockholm. Sweden.
September 1982.
Mair, K. (1999) The Installation of Submarine Cables for Offshore Wind Farms. Proc. 1999 BWEA
Conference.
Manwell, J. F.. McGowan. J. G. (1994) A Combined Probabilistic/Time Series Model for Wind Diesel
Systems Simulation. Solar Energy 53(6), 481^90.
Manwell. J. F., Rogers. A., Hayman. G., Avelar, C. T., McGowan. J. G. (1997) HYBR1D2-A Hybrid System
Simulation Model, Theoiy Summaiy. National Renewable Energy Laboratory, Subcontract No. XL-1-II126-1-
1. December 1997.
Morthorst. P. E.. Schleisner. L. (1997) Offshore Wind Tua bins - Wishful Thinking or Economic Reality Proc.
1997 EWEC, October 1997, Dublin. Ireland, 201-205.
NWCC (1998) Permitting of Wind Energy Eacilities, A Handbook, Prepared by the NWCC Siting
Cubcommittee. National Wind Coordinating Committee. Washington, DC. March 1998.
Patel. M. R. (1999) Electrical System Considerations for Large Grid-connected Wind Farms. Proc. of AWEA
Conference, Windpower '99, 21-23 June 1999. Buriington. VT.
Pennell, W. R. (1982) Siting Guidelines for Utility ApplicaUon of Wind Tua bins. EPRI Report: AP- 2795.
Petersen. E. L., Troen. I. (1986) The European Wind Atlas. Proc. EWEC, 7-9 October 1986, Rome, Italy.
161
Petersen. E. L.. Troen, I.. Mortensen, N. G. (1988) The European Wind Energy Resoursces. Proc. EWEC, 6-10
June 1988, Herning. Denmark, 103-110.
Phipps. J. K., Nelson, J. P., Pankaj, K. S. (1994) Power Quality and Harmonic Distortion on Distribution
Systems. IEEE Transactions on Industry Applicatiims, 30. (2), March/April.
Putnam, P. C. (1948) Power from the Wind. Van Nostrand Reinhold, New York.
Rogers, W. J. S.. Welch, J. (1993) Experience with Wind Generators in Public Electricity Networks.Proc. of
BWEA/RAL Workshop on Wind Energy Penetratiim into Weak Electricity Networks, 10-12 June 1993,
Rutherford Appleton Laboratory. Abington, UK, June 1993.
Smith, D., Taylor. G. J. (1991) Further Analysis of Tua bin Wake Development and Interaction Data. Proc. if
BWEA, Swansea. 10-12 April 1991, Garrad Hassan & Partners Ltd.
Sorensen, J. N.. Shen, W. Z. (1999) Computation of Wind Tua bin Wakes using Combined Navier- Stokes
Actuator-Line Methodology. Proc. 1999 EWEC, 156-159, 1-5 March 1999, Nice, France.
Stemmler, H. (1997) High Power Industrial Drives. In Bose. B. K.. ed.. Power Eleclnmics and Variable
Frequency Drives, Technology and Applications, IEEE Press, New York.
Troen, I.. Petersen. E. L. (1989) European Wind Atlas, Ris0 National Laboratory. Roskilde. Denmark. Vachon.
W. A., Vachon. R. W., Wade. J. E. (1999) Major Sources of Lost Operating Time in Mature Wind Power
Plants. Proc. of AWEA Conference, Windpower '99, 21-23 June 1999. Burlington, VT.
Vermeulen. P. E. J. (1980) An Experimental Analysis o^ Wind Tua bin Wakes. Proc. Third Inteniati(mal
Symposium on Wind energy Systems, August 26-29, 1980. Lyngby, Denmark, 431- 450. BHRA Fluid
Engineering. Cranfield, Bedford MK43 OAJ. UK.
Voutsinas. S. G.. Rados. K. G.. Zervos, A. (1993) Wake Effects in Wind Parks. A New Modelling Approach.
Proc. EWEC, 444-447, 8-12 March 1993, Luheck, Germany.
Wade, J. E.. Hewson, E. W. (1980) A Guide to Biological Wind Prospecting. U.S. DOE Report: ET- 20316,
NTIS.
Walker, J. F., Jenkins. N. (1997) Wind Energy Technology, John Wiley, Chichester, UK.
Wegley, H. L.. Ramsdell. J. V., Orgill, M. M., Drake, R. L. (1980) A Siting Handbook for Small Wind Energy
Conversion Systems. Battelle Pacific Northwest Lab., PNL-2521, Rev. I, NTIS.
Westinghouse Electric Corp. (1979) Design Study and Economic Assessment of Mulfi-unir Offshore Wind
Energy Conversion Systems Application. DOE WASH-2830-78/4.
162