You are on page 1of 7

Chương 2: Thực trạng về quy mô và cơ cấu lực lượng lao động Việt Nam giai đoạn 2011-

2016
2.1: Đặc điểm về quy mô và cơ cấu LLLĐ
2.1.1: Quy mô LLLĐ
2.1.1.1: Quy mô dân số
-Theo một thống kê mới nhất từ Tổng cục Dân số – Kế hoạch hóa gia đình (Bộ Y tế),
tính đến ngày 1/7/2016 , dân số Việt Nam là gần 92 triệu người, đứng thứ 8 châu Á và
thứ 3 Đông Nam Á.
- Dân số trung bình từ năm 2011- 2016
Dân số trung bình năm 2011 : 87.8631 ( nghìn người )
Dân số trung bình năm 2012 : 88.809,30 ( nghìn người )
Dân số trung bình năm 2013 : 89.759,50 ( nghìn người )
Dân số trung bình năm 2014 : 90. 728 ( nghìn người )
Dân số trung bình năm 2015 : 91.709,80 (nghìn người )
Dân số trung bình năm 2016: 92.605 30 (nghìn người )

Đồ họa về tình hình dân số Việt Nam.


Theo đó, trong 6 tháng đầu năm 2016, số sinh toàn quốc tăng 9,9% so với cùng kỳ năm
2015. Các biện pháp tránh thai lâm sàng chỉ đạt 40% kế hoạch đề ra.
Một số liệu từ Tổng cục Dân số cho biết đến năm 2015, tốc độ tăng dân số ở nước ta là
1%, đạt mục tiêu đề ra.
Tổng tỷ suất sinh đã giảm mạnh từ 6,39 (năm 1960) xuống còn 2,05 (2012), xếp thứ 3
từ dưới lên ở khu vực Đông Nam Á (sau Singapore và Brunei).
Tuy vậy, mật độ dân số của Việt Nam cao gấp 5,2 lần so với mật độ dân số trung bình
thế giới. Việt Nam cũng là nước có mật độ dân số cao thứ 3 trên thế giới.
Trên cả nước, tỷ lệ giới tính sinh sản hiện rất chênh lệch với 112,8 nam/100 nữ.
Nguyên nhân của sự mất cân bằng giới tính bắt nguồn từ quan niệm trọng nam khinh nữ
và việc lựa chọn giới tính trước khi sinh.
- Một số hình ảnh về đông dân số tại Việt Nam

Dân số Việt Nam gần 92 triệu người

Hè 2016 tại biển Sầm Sơn


Dân số gia tăng, tình trạng tắc đường do quá tải về các loại phương tiện tham gia giao
thông thường xuyên xảy ra ở các thành phố lớn
Phân tích quy mô dân số năm 2013
Quy mô dân số: Theo Tổng cục thống kê, dân số Việt Nam đến 1/4/2013 ước tính là 89,5
triệu người (tăng 952.131 người so với 1/4/2012). Vào tháng 11/2013 dân số Việt Nam
đã đạt 90 triệu người, là nước đông dân thứ 3 ở ASEAN (sau Inđônêxia và Philippin) và
thứ 8 trong khu vực châu Á và 13 trên thế giới.
Đây là tiềm năng to lớn về nguồn lực con người để phát triển kinh tế-xã hội đất nước.
Dân số thành thị của Việt Nam là 28,9 triệu người, chiếm 32,3%; dân số nông thôn là
60,6 triệu người, chiếm 67,7%. Với 20,4 triệu người, Đồng bằng sông Hồng là vùng có
quy mô dân số lớn nhất, chiếm 22,8%, tiếp đến là Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền
Trung (19,3 triệu người) chiếm 21,5%, Tây Nguyên là vùng có số dân ít nhất (5,5 triệu
người) chỉ chiếm 6,1% dân số cả nước.

Bảng .Quy mô dân số chia theo giới tính, thành thị/nông thôn và vùng kinh tế – xã hội,
1/4/2013

Đơn vị tính: Người

Tổng số Nam Nữ


Thành Nông
Vùng kinh tế – xã hội thị thôn
Toàn quốc 89479014 44263618 45215396 28859282 60619732

Trung du và miền núi 11483603 5723897 5759706 1958597 9525006


phía Bắc
20399235 10098830 10300405 6336606 14062629
Đồng bằng sông Hồng 19265831 9539077 9726754 5101441 14164390

Bắc Trung Bộ và DH


miền Trung
5455477 2792593 2662884 1569890 3885587
Tây Nguyên
15433635 7446031 7987604 9455011 5978624
Đông Nam Bộ
17441233 8663190 8778043 4437737 13003496
Đồng bằng sông Cửu
Long
Nguồn: Tổng cục Thống kê. Điều tra biến động DS-KHHGĐ 2013.

Tỷ lệ tăng dân số. Thời kỳ 1999-2009, tỷ lệ tăng dân số bình quân năm là 1,2%/năm,
giảm 0,5%/năm so với 10 năm trước và là tỷ lệ tăng thấp nhất trong 50 năm qua. Thời kỳ
2011-2013, tốc độ gia tăng dân số bình quân năm tuy đã giảm nhưng vẫn ở mức cao là
1,05%. Với quy mô dân số lớn, đà tăng dân số cao, dân số nước ta sẽ còn tiếp tục tăng
đến giữa thế kỷ XXI với hơn 100 triệu người và sẽ vào nhóm 10 nước có dân số lớn thứ
nhất thế giới. Sau 10 năm, tỷ suất sinh đã giảm mạnh từ 2,3 con xuống dưới mức sinh
thay thế (2 con/phụ nữ).

Tỷ lệ tăng dân số ở Đông Nam Bộ là cao nhất với 3,2%/năm. Tây Nguyên là vùng có tỷ
lệ nhập cư rất cao, dân số tăng nhanh với tỷ lệ bình quân 2,3%/năm. Dân số ở thành thị
chiếm khoảng 32,3% tổng dân số cả nước, tăng bình quân 3,4%/năm.

Tỷ số giới tính khi sinh. Tỷ số giới tính khi sinh ở mức gần 114 bé trai/100 bé gái năm
2013 so với năm 1999 là 107 bé trai/100 bé gái. Điều này cho thấy một xu hướng gia tăng
Tỷ số giới tính khi sinh ở nước ta. Sự gia tăng bất thường về tỷ số giới tính khi sinh của
Việt Nam trong những năm gần đây đang là mối quan tâm hàng đầu của các nhà lập
chính sách, các cơ quan truyền thông đại chúng, và các nhà nghiên cứu trong và ngoài
nước. Mất cân bằng giới tính khi sinh dẫn đến tình trạng thừa nam thiếu nữ trong tương
lai, không chỉ ảnh hưởng đến cuộc sống của cá nhân, gia đình, dòng tộc mà còn ảnh
hưởng tiêu cực đối với dân tộc và sự phát triển bền vững của đất nước. Việc lựa chọn giới
tính trước sinh phản ánh tình trạng bất bình đẳng giới sâu sắc. Các nghiên cứu của quốc
tế và Việt Nam cũng đã chỉ ra các hệ lụy trong tương lai của tình trạng mất cân bằng giới
tính hiện nay. Trước thực trạng đáng quan ngại nêu trên, chính phủ Việt Nam rất quan
tâm đến vấn đề mất cân bằng giới tính khi sinh. Lựa chọn giới tính trước sinh là nguyên
nhân trực tiếp của hiện tượng mất cân bằng giới tính khi sinh. Đây là một hành vi phạm
pháp theo quy định của Pháp lệnh Dân số. Vấn đề này đã được nhấn mạnh trong Chiến
lược Quốc gia về Dân số và Sức khỏe sinh sản giai đoạn 2011-2020, và các văn bản
chính sách khác. Do đó, số liệu theo dõi các diễn biến của tỷ số giới tính khi sinh là cần
thiết, nhằm đưa ra các can thiệp kịp thời về chính sách và chương trình.

Tuổi thọ bình quân chung. Theo kết quả điều tra năm 2013, tuổi thọ trung bình của nam
giới là 70,5 tuổi, của nữ giới là 75,8 tuổi. Tuổi thọ trung bình chung của cả hai giới là
73,1 tuổi so với năm 2009 là 72,8 tuổi. Tuổi thọ cao và tăng thể hiện chất lượng cuộc
sống của người dân đang được nâng cao. Cơ cấu dân số Việt Nam đang ở giai đoạn cơ
cấu dân số vàng tức là có nhiều người trong tuổi lao động. Đó là tiềm năng to lớn về
nguồn lực lao động để phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn hiện nay.

Phân bố dân số. Với mật độ dân số 270 người/km2 vào năm 2013, Việt Nam là một trong
những nước có mật độ dân số cao trong khu vực cũng như trên thế giới. Mật độ dân số
Việt Nam đứng thứ 40 trên thế giới, đứng thứ 16 ở Châu Á và đứng thứ ba ở khu vực
Đông Nam Á, chỉ sau Singapore (7.971 người/km2) và Philippines (321 người/km2).
Theo Liên Hợp Quốc, để cuộc sống thuận lợi, bình quân trên 1 km2 chỉ nên có từ 35-40
người. Như vậy, ở Việt Nam mật độ dân số gấp hơn 6 lần mức trên.

Mật độ dân số Việt Nam không đều ở các vùng: tập trung đông ở khu vực đồng bằng và
thưa thớt hơn ở khu vực miền núi. Mật độ dân số của vùng Đồng bằng sông Hồng cao
nhất nước, đạt 968 người/km2, tiếp theo là vùng Đông Nam Bộ, với mật độ 654
người/km2. Hai vùng này tập trung tới 40% dân số cả nước nhưng chỉ chiếm 13,5% diện
tích lãnh thổ. Tây Nguyên là vùng có mật độ dân số thấp nhất cả nước (100 người/km2).
Sự phân bố không đồng đều chủ yếu là do trình độ phát triển khác nhau giữa các vùng.
Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ là hai vùng kinh tế phát triển nhất, tập trung
nhiều khu công nghiệp lớn, và thu hút hàng nghìn lao động từ các vùng khác đến, dẫn
đến mật độ dân số cao. Ngược lại, hai vùng Trung du và miền núi phía Bắc và Tây
Nguyên là hai khu vực miền núi, kinh tế kém phát triển nên mật độ dân số thấp.

Tỷ trọng dân số thành thị, nông thôn. Tỷ trọng dân số thành thị, nông thôn là một trong
những chỉ tiêu quan trọng trong sự phát triển của đất nước. Năm 2013, dân số thành thị là
28,9 triệu người, chiếm 32,3%; dân số nông thôn là 60,6 triệu người, chiếm 67,7%. Dân
số thành thị có xu hướng tăng nhanh và tập trung nhiều nhất ở Thủ đô Hà Nội, Thành phố
Hồ Chí Minh, các thành phố trực thuộc trung ương... Việc phát triển đô thị ngoài việc xây
dựng hạ tầng cơ sở, phải kèm theo việc xây dựng mạng lưới an sinh xã hội, lối sống văn
hóa đô thị, chăm sóc đến con người…
Chất lượng dân số Việt Nam: Chỉ số phát triển con người (HDI) là một chỉ tiêu tổng
thông qua các tiêu chí thu thập bình quân đầu người, trình độ văn hóa, tuổi thọ bình quân
của người dân. Việt Nam xếp hạng thứ 121 trong 187 quốc gia và lãnh thổ về sự phát
triển con người - thứ hạng này được đánh giá ở mức trung bình trên thế giới. Chỉ số HDI
của Việt Nam đang giảm chậm từ khoảng 1,7% trước năm 2000 xuống còn khoảng
0,96% trong những năm gần đây (UNDP, 2013). Tỷ lệ này thấp so với nhiều nước khu
vực và thế giới. Đây là một thách thức to lớn đối với sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở nước ta.

Chất lượng dân số về thể chất của người Việt Nam còn thấp. Hiện nay, có 1,5% dân số
Việt Nam bị thiểu năng về thể lực và trí tuệ. Trong đó, số trẻ mới sinh bị dị tật bẩm sinh
do di truyền khoảng 1,5-3%. Số lượng người bị tàn tật, khuyết tật trong cả nước khoảng
5,3 triệu người (chiếm 6,3% dân số). Trong khi đó, hàng năm vẫn chưa ngăn chặn được
tình trạng gia tăng số người mới bị tàn tật, khuyết tật do tai nạn giao thông, tai nạn lao
động…Vấn đề này ảnh hưởng không nhỏ đến an ninh xã hội, y tế. Tầm vóc, thể lực cân
nặng, sức bền của người Việt Nam đã có nhiều bước tiến lớn tuy nhiên so với nhiều nước
trong khu vực còn hạn chế. Thanh niên Việt Nam đa số thấp, nhẹ cân và yếu về thể lực.

- Theo Thúy Hà / Gia Đình Việt Nam


Nguồn: http://www.giadinhvietnam.com/dan-so-viet-nam-gan-92-trieu-nguoi-xep-thu-8-
chau-a-thu-3-dong-nam-a-c24420.html

2.1.1.2: Tỉ lệ tham gia LLLĐ


- LLLĐ trong độ tuổi lao động: nam từ 15-60 tuổi, nữ từ 15-55 tuổi. LLLĐ bao gồm
những người đang có việc làm và những người thất nghiệp. Tính đến thời điểm 1/7/2011,
Việt Nam có 51.326 nghìn người từ 15 tuổi trở lên thuộc LLLĐ, chiếm 58,4% tổng dân
số, trong đó nữ 48,3% và nam chiếm 51,7%. LLLĐ chủ yếu tập trung ở khu vực nông
thôn (71,5%).
- Lực lượng lao động
Ở Việt Nam có 2 chỉ tiêu thống kê về LLLĐ:
LLLĐ nói chung: là LLLĐ từ 15 tuổi trở lên.

Bảng 2: LLLĐ phân theo thành thị/nông thôn và vùng kinh tế - xã hội
Nơi cư trú/ Vùng kinh tế - xã hội LLLĐ Tỷ lệ (%)
(1000
người) Tổng Nam Nữ
số
Cả nước 51.326 100,0 100,0 100,0
Thành thị 14.643 28,5 28,6 28,4
Nông thôn 36.683 71,5 71,4 71,6
Vùng kinh tế - xã hội
Trung Du và Miền núi Phía Bắc 7.076 13,8 13,4 14,2
Đồng Bằng Sông Hồng 11.371 22,2 21,5 22,8
Bắc Trung Bộ và Duyên Hải Miền Trung 11.092 21,6 21,2 22,0
Tây Nguyên 3.068 6,0 6,0 6,0
Đông Nam Bộ 8.398 16,3 16,7 16,0
Đồng Bằng Sông Cửu Long 10.320 20,1 21,2 19,0
Nguồn: Báo cáo Điều tra Lao động - Việc làm 6 tháng đầu năm 2011, Tổng cục Thống

-LLLĐ năm 2016


- LLLĐ năm 2015
-Lực lượng lao động trung bình cả nước năm 2014 là 53,7 triệu người, tăng so với năm
trước 498 nghìn người (1,0%), bao gồm 52,7 triệu người có việc làm và 1,0 triệu người
thất nghiệp.
- năm 2013 cả nước có 69,16 triệu người trong độ tuổi 15 trở lên trong đó có 53,2 triệu
người trở lên tham gia lực lượng lao động , tăng so với 2012 là 1,7%
- năm 2012 lực lượng lao động là 52,112 triệu

You might also like