Từ nửa sau thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển nhanh từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền (giai đoạn đế quốc chủ nghĩa). Nền kinh tế hàng hóa phát triển mạnh, đặt ra yêu cầu bức thiết về thị trường. Đó chính là nguyên nhân sâu xa dẫn tới những cuộc chiến tranh xâm lược các quốc gia phong kiến phương Đông, biến các quốc gia này thành thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, mua bán nguyên vật liệu, khai thác sức lao động và xuất khẩu tư bản của các nước đế quốc. Các đế quốc họ đua nhau xâm lược các nước châu Á, châu Phi và Mỹ la tinh. (Đến năm 1914, các nước đế quốc Anh, Nga, Pháp, Đức, Mỹ, Nhật chiếm một khu vực thuộc địa rộng 65 triệu km2 với số dân 523,4 triệu người (so với diện tích các nước đó là 16,5 triệu km2 và dân số 437,2 triệu). Riêng diện tích các thuộc địa của Pháp là 10,6 triệu km2 với số dân 55,5 triệu (so với diện tích nước Pháp là 0,5 triệu km2 và dân số 39,6 triệu người).). Sự xâm lược và bóc lột thực dân làm cho nhân dân các thuộc địa rất khổ cực. Mâu thuẫn giữa các đế quốc với các dân tộc thuộc địa và mâu thuẫn giữa các đế quốc với nhau rất gay gắt. Chủ nghĩa đế quốc xuất khẩu tư bản, đầu tư khai thác thuộc địa đem lại lợi nhuận tối đa cho tư bản chính quốc, trước hết là tư bản lũng đoạn; làm cho quan hệ xã hội của các nước thuộc địa biến đổi một cách căn bản. Các nước thuộc địa bị lôi cuốn vào con đường tư bản thực dân. Sự áp bức và thôn tính dân tộc của chủ nghĩa đế quốc càng tăng thì mâu thuẫn giữa dân tộc thuộc địa thực dân càng gay gắt, sự phản ứng dân tộc của nhân dân các thuộc địa càng quyết liệt. Và chính bản thân chủ nghĩa đế quốc xâm lược, thống trị các thuộc địa lại tạo cho các dân tộc bị chinh phục những phương tiện và phương pháp để tự giải phóng. Sự thức tỉnh về ý thức dân tộc và phong trào đấu tranh dân tộc để tự giải phóng khỏi ách thực dân, lập lại các quốc gia dân tộc độc lập trên thế giới chịu tác động sâu sắc của chính sách xâm lược, thống trị của chủ nghĩa đế quốc thực dân.
II. Sự ra đời của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Giữa thế kỉ XIX phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển mạnh mẽ, đặt ra yêu cầu bức thiết phải có hệ thống lý luận khoa học với tư cách là vũ khí, tư tưởng của giai cấp công nhân. Từ đó mà chủ nghĩa Mác – Lênin phát triển mạnh mẽ, sâu rộng, thâm nhập và phong trao cách mạng thế giới và trở thành hệ tư tưởng tiên tiến của thời đại.
III. Cách mạng công nghiệp lần thứ hai.
Cách mạng công nghiệp lần thứ hai bắt đầu vào khoảng thập kỷ 1860, khi các tiến bộ kinh tế và kỹ thuật có được nhờ phát triển điện tín, điện thoại, đường sắt và việc áp dụng dây chuyền sản xuất hàng loạt. Đến cuối thế kỷ 19, động lực của Cách mạng công nghiệp lần 2 chủ yếu là động cơ đốt trong và máy móc sử dụng điện.
HCM xuất hiện trong bối cảnh quốc tế có nhiều sự thay đổi và tác động rất lớn đến cách mạng VN sau này.
Câu 1. Trình bày sự phân hóa giai cấp ở Việt Nam sau khi thực dân Pháp xâm lược nước ta. Tại sao giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trước giai cấp tư sản Việt Nam?
Phân tích những điều cần thiết dẫn tới thành lập Đảng cộng sản Việt Nam tháng 2 /1930 Lịch sử và ý nghĩa sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930)
I. Bối Cảnh Lịch Sử Việt Nam Dưới Chính Sách Thống Trị Và Khai Thác Thuộc Địa Của Thực Dân Pháp Và Cương Lĩnh Chính Trị Đầu Tiên Của Đảng: 1.1. Bối cảnh lịch sử