You are on page 1of 148

MỤC LỤC

BẢNG DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT..................................................................................2


NỘI DUNG BÀI GIẢNG........................................................................................13
Chương nhập môn...................................................................................................13
ĐỐI TƯỢNG, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU, HỌC TẬP LỊCH SỬ ĐẢNG CS VIỆT NAM..............................13
1. Đối tượng nghiên cứu..........................................................................................13
2. Chức năng, nhiệm vụ...........................................................................................14
3. Phương pháp nghiên cứu, học tập.......................................................................15
Chương 1 ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI VÀ LÃNH ĐẠO ĐẤU
TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN (1930 – 1945).................................................18
1.1. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
(tháng 02/1930).......................................................................................................18
1.2. Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền (1930 – 1945).............................31
Chương 2 ĐẢNG LÃNH ĐẠO HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN, HOÀN THÀNH
GIẢI PHÓNG DÂN TỘC, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (1945-1975).................55
2.1. Đảng lãnh đạo xây dựng, bảo vệ chính quyền Cách mạng và kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược (1945-1954)......................................................................55
2.2. Lãnh đạo xây dựng CNXH ở miền Bắc và kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm
lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1954-1975)...............................79
Chương 3 ĐẢNG LÃNH ĐẠO CẢ NƯỚC QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
VÀ TIẾN HÀNH CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI (1975 – 2021)..................................106
3.1. Đảng lãnh đạo cả nước xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc (1975 - 1986). 106
3.2. Lãnh đạo công cuộc đổi mới, đẩy mạnh CNH-HĐH và hội nhập quốc tế (1986
– 2021)...................................................................................................................112
KẾT LUẬN...........................................................................................................145
1. Những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo
của Đảng................................................................................................................145
2. Những bài học lãnh đạo cách mạng của Đảng..................................................147
DANH MỤC GIÁO TRÌNH/TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................154

1
BẢNG DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Chữ cái viết tắt/ký hiệu Cụm từ đầy đủ
ĐCSVN Đảng Cộng sản Việt Nam
Hội VNCMTN Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên
TD Thực dân
VN Việt Nam
CN Chủ nghĩa
CNXH Chủ nghĩa xã hội
XHCN Xã hội chủ nghĩa
CNTB Chủ nghĩa tư bản
TBCN Tư bản chủ nghĩa
VNDCCH Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
VNCH Việt Nam Cộng Hòa
CHXHCNVN Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
CMDTDCND Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân

2
Học liệu
Sách, giáo trình, tài liệu tham khảo
Năm Tên sách, giáo trình, NXB, tên tạp chí/
TT Tên tác giả
XB tên bài báo, văn bản nơi ban hành VB

Sách, bài giảng, giáo trình chính

Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng


Bộ Giáo dục và Đào sản Việt Nam (Dùng cho bậc Nxb Chính trị quốc
1 2021
tạo Đại học - Không chuyên ngành gia Sự thật
Lý luận chính trị)

Sách, giáo trình tham khảo

Tìm hiểu về Lịch sử Đảng Nxb Công an nhân


2 TS. Vũ Ngọc Lương 2020
Cộng sản Việt Nam dân
Đảng Cộng sản Việt Nam 90
PGS.TS. Vũ Như Nxb Công an nhân
3 2020 năm (1930-2020) – Những
Khôi dân
chặng đường lịch sử vẻ vang
Hội đồng Lý luận GiáotrìnhLịch Nxb Chính trị quốc
4 2018
Trung ương sửĐảngCộngsảnViệtNam gia Sự thật

8.2. Danh mục địa chỉ website để tham khảo khi học học phần
TT Nội dung tham khảo Link trang web Ngày cập nhật
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-
Tư liệu văn kiện Đảng
1 kien-tu-lieu-ve-dang/van-kien-dang-toan- 12/7/2021
toàn tập
tap

9. Cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy (nếu có)


Phục vụ cho nội
Danh mục trang thiết bị, phần
dung Bài
Tên giảng đường, PTN, mềm chính phục vụ TN,TH học/Chương
TT
xưởng, cơ sở TH
Tên thiết bị, dụng cụ,
Số lượng
phần mềm,…
Chương mở đầu, 1, 2,
1 Phòng giảng dạy Máy chiếu, máy tính
3

3
NỘI DUNG BÀI GIẢNG
Chương nhập môn
ĐỐI TƯỢNG, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU, HỌC TẬP LỊCH SỬ ĐẢNG CS VIỆT NAM
Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập
(03/02/1930). Từ thời điểm lịch sử đó, lịch sử của Đảng hòa quyện cùng lịch sử dân tộc
Việt Nam. Đảng đã lãnh đạo và đưa sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân và dân
tộc Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. ĐCSVN là đội tiền phong của giai
cấp công nhân, đồng thời là đội tiền phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt
Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân
tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Marx-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.
Lịch sử ĐCSVN là một chuyên ngành, một bộ phận của khoa học lịch sử. Chuyên
ngành Lịch sử ĐCNSVN đã được nghiên cứu từ rất sớm. Giáo trình và bài giảng học
phần Lịch sử ĐCSVN là sự kế thừa và phát triển các giáo trình đã biên soạn trước đây,
phù hợp với yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo theo quan điểm của
Đảng.
1. Đối tượng nghiên cứu
- Trước hết là các sự kiện lịch sử Đảng. Cần phân biệt rõ sự kiện lịch sử Đảng gắn trực
tiếp với sự lãnh đạo của Đảng. Phân biệt sự kiện lịch sử Đảng với sự kiện lịch sử dân tộc
và lịch sử quân sự trong cùng thời kỳ, thời điểm lịch sử. Môn học này nghiên cứu sâu
sắc, có hệ thống các sự kiện lịch sử Đảng, hiểu rõ nội dung, tính chất, bản chất của các sự
kiện đó gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng. Các sự kiện thể hiện quá trình Đảng ra đời,
phát triển và lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc, kháng chiến cứu quốc và xây dựng,
phát triển đất nước theo con đường XHCN, trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế,
xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại…
Sự kiện lịch sử Đảng là hoạt động lãnh đạo, đấu tranh phong phú và oanh liệt của
Đảng làm sáng tỏ bản chất cách mạng của Đảng với tư cách là một đảng chính trị “là đội
tiền phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiền phong của nhân dân lao động và
của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và của dân tộc”.
- Đảng lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng và phát triển đất nước bằng
Cương lĩnh, đường lối, chủ trương, chính sách lớn. Lịch sử Đảng có đối tượng nghiên
cứu là Cương lĩnh, đường lối của Đảng, phải nghiên cứu, làm sáng tỏ nội dung Cương
lĩnh, đường lối của Đảng, cơ sở lý luận, thực tiễn và giá trị hiện thực của đường lối trong
tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh, đường lối đúng đắn là điều
kiện trước hết quyết định thắng lợi của cách mạng.
4
- Đảng lãnh đạo thông qua quá trình chỉ đạo, tổ chức thực tiễn trong tiến trình cách
mạng. Nghiên cứu, học tập Lịch sử ĐCSVN làm rõ thắng lợi, thành tựu, kinh nghiệm, bài
học của cách mạng Việt Nam do Đảng lãnh đạo trong sự nghiệp giải phóng dân tộc,
kháng chiến giành độc lập, thống nhất, thành tựu của công cuộc Đổi mới.
Nghiên cứu, học tập Lịch sử Đảng là giáo dục sâu sắc những kinh nghiệm, bài học
trong lãnh đạo của Đảng. Tổng kết kinh nghiệm, bài học, tìm ra quy luật riêng của cách
mạng Việt Nam là công việc thường xuyên của Đảng ở mỗi thời kỳ lịch sử. Lịch sử Đảng
là quá trình nhận thức, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng
Hồ Chí Minh vào thực tiễn Việt Nam.
- Nghiên cứu Lịch sử Đảng là làm rõ hệ thống tổ chức Đảng, công tác xây dựng Đảng
qua các thời kỳ lịch sử. Nghiên cứu, học tập Lịch sử Đảng để nêu cao hiểu biết về công
tác xây dựng Đảng trong các thời kỳ lịch sử về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức.
Xây dựng Đảng về chính trị bảo đảm tính đúng đắn của đường lối, củng cố chính trị nội
bộ và nâng cao bản lĩnh chính trị của Đảng.
2. Chức năng, nhiệm vụ
2.1. Chức năng
- Chức năng nhận thức: Học tập Lịch sử ĐCSVN là để nhận thức đầy đủ, có hệ thống
những tri thức lịch sử lãnh đạo, đấu tranh và cầm quyền của Đảng, nhận thức rõ về Đảng
với tư cách một Đảng chính trị - tổ chức lãnh đạo giai cấp công nhân, nhân dân lao động
và dân tộc Việt Nam. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định
thắng lợi của cách mạng, Đảng thường xuyên tự xây dựng và chỉnh đốn để hoàn thành sứ
mệnh lịch sử trước đất nước và dân tộc.
Nghiên cứu học tập môn học này còn nhằm nâng cao nhận thức về thời đại mới của
dân tộc – thời đại Hồ Chí Minh, góp phần bồi đắp nhận thức lý luận từ thực tiễn Việt
Nam. Nâng cao nhận thức về giác ngộ chính trị, góp phần làm rõ những vấn đề của khoa
học chính trị và khoa học lãnh đạo quản lý. Nhận thức rõ những vấn đề lớn của đất nước,
dân tộc trong mối quan hệ với những vấn đề của thời đại và thế giới. Tổng kết Lịch sử
Đảng để nhận thức quy luật của cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, quy luật đi lên CNXH ở Việt Nam. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật
là điều kiện đảm bảo sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng.
- Chức năng giáo dục của khoa học lịch sử: Giáo dục sâu sắc tinh thần yêu nước, ý
thức, niềm tự hào, tự tôn, ý chí tự lực tự cường dân tộc. Lịch sử ĐCSVN giáo dục lý
tưởng cách mạng với mục tiêu chiến lược là độc lập dân tộc và CNXH. Đó cũng là giáo
dục tư tưởng chính trị, nâng cao nhận thức tư tưởng, lý luận, con đường phát triển của
cách mạng và dân tộc Việt Nam. Môn học này giáo dục chủ nghĩa anh hùng cách mạng,
tinh thần chiến đấu bất khuất, sự hi sinh, tính tiên phong gương mẫu của các tổ chức

5
Đảng. Lịch sử Đảng có vai trò quan trọng trong giáo dục truyền thống của Đảng và dân
tộc, góp phần giáo dục đạo đức cách mạng, nhân cách, lối sống cao đẹp.
- Chức năng dự báo và phê phán: Từ nhận thức những gì đã diễn ra trong quá khứ để
hiểu rõ hiện tại và dự báo tương lai của sự phát triển. Để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của Đảng, tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng. Phải kiên
quyết phê phán những biểu hiện tiêu cực, lạc hậu, hư hỏng.
2.2. Nhiệm vu
- Nhiệm vụ trình bày có hệ thống Cương lĩnh, đường lối của Đảng. Lịch sử Đảng có
nhiệm vụ hàng đầu là khẳng định, chứng minh giá trị khoa học và hiện thực của những
mục tiêu chiến lược và sách lược cách mạng mà Đảng đề ra trong cương lĩnh, đường lối
từ khi Đảng ra đời và suốt quá trình lãnh đạo cách mạng.
- Nhiệm vụ tái hiện tiến trình lịch sử lãnh đạo, đấu tranh của Đảng. Lịch sử Đảng có
nhiệm vụ rất quan trọng là làm rõ những sự kiện lịch sử, làm nổi bật các thời kỳ, giai
đoạn và dấu mốc phát triển căn bản của tiến trình lịch sử, nghĩa là tái hiện quá trình lịch
sử Đảng lãnh đạo và đấu tranh.
- Nhiệm vụ tổng kết lịch sử của Đảng. Đây là nhiệm vụ tổng kết từng chặng đường và
suốt tiến trình lịch sử, làm rõ kinh nghiệm, bài học, quy luật và những vấn đề lý luận của
cách mạng Việt Nam. Kinh nghiệm lịch sử gắn liền với những sự kiện hoặc một giai đoạn
lịch sử nhất định. Bài học lịch sử khái quát cao hơn gắn liền với một thời kỳ dài, một vấn
đề của chiến lược cách mạng hoặc khái quát toàn bộ tiến trình lịch sử của Đảng.
- Làm rõ vai trò, sức chiến đấu của hệ thống tổ chức Đảng từ Trung ương đến cơ sở
trong lãnh đạo, tổ chức thực tiễn.
3. Phương pháp nghiên cứu, học tập
3.1. Phương pháp nghiên cứu
- Quan triệt phương pháp luận sử học Marxist: Đặc biệt nắm vững chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để xem xét và nhận thức lịch sử một cách khách
quan, trung thực và đúng quy luật. Chú trọng nhận thức lịch sử theo quan điểm khách
quan, toàn diện, phát triển và lịch sử cụ thể. Tư duy từ thực tiễn, từ hiện thực lịch sử, coi
thực tiễn và kết quả của hoạt động thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Chân lý là cụ thể,
cách mạng là sáng tạo.
- Phương pháp lịch sử: Phương pháp này đi sâu vào tính muôn vẻ của lịch sử để tìm ra
cái đặc thù, cái cá biệt trong cái phổ biến. Phương pháp lịch sử không phải là học thuộc
lòng sự kiện, diễn biến lịch sử mà phải hiểu tính chất, bản chất của sự kiện, hiện tượng.
- Phương pháp logic: là phương pháp nghiên cứu các hiện tượng lịch sử trong hình
thức tổng quát, nhằm mục đích vạch ra bản chất, quy luật, khuynh hướng chung trong sự
vận động của chúng.

6
 Nắm vững hai phương pháp lịch sử và logic mới có thể hiểu rõ bản chất, nhận thức
đúng đắn việc giảng dạy, học tập Lịch sử ĐCSVN một cách hiệu quả với tư cách một
môn khoa học. Hai phương pháp này có mối quan hệ mật thiết với nhau, đó là sự thống
nhất của phương pháp biện chứng Marxist trong nghiên cứu, nhận thức lịch sử.
- Cần coi trọng phương pháp tổng kết thực tiễn lịch sử gắn liền với nghiên cứu lý luận
để làm rõ kinh nghiệm, bài học quy luật phát triển và những vấn đề nhận thức lý luận của
cách mạng Việt Nam do Đảng lãnh đạo.
- Chú trọng phương pháp so sánh giữa các giai đoạn, thời kỳ lịch sử, các sự kiện, hiện
tượng lịch sử, làm rõ các mối quan hệ trong nước và trên thế giới…
3.2. Phương pháp, ý nghĩa học tập
- Sinh viên cần coi trọng nghe giảng trên lớp để nắm vững nội dung môn học.
- Thực hiện phương pháp làm việc nhóm, tiến hành thảo luận, trao đổi các vấn đề do
giảng viên đặt ra.
- Sử dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy và học tập.
- Tổ chức thực tế, thăm quan.
- Cần chú trọng phương pháp vận dụng lý luận vào thực tiễn. Sinh viên cần nắm vững
lý luận cơ bản của chủ nghĩa Marx-Lenin, bao gồm triết học, kinh tế chính trị, CNXH
khoa học, tư tưởng Hồ Chí Minh. Luôn luôn liên hệ lý luận với thực tiễn Việt Nam để
nhận thức đúng đắn bản chất của mỗi hiện tượng, sự kiện của lịch sử lãnh đạo, đấu tranh
của Đảng.
- Tính khoa học là sự phản ánh kết quả nghiên cứu sự vật, hiện tượng, sự kiện lịch sử
phải đạt đến chân lý khách quan. Tính khoa học đòi hỏi phản ánh lịch sử khách quan,
trung thực với nhứng đánh giá, kết hợp dựa trên luận cứ khoa học, tôn trọng hiện thực
lịch sử.
- Tính Đảng trong nghiên cứu, học tập Lịch sử Đảng là đứng trên lập trường của chủ
nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh để nhận thức lịch sử khoa học, đúng đắn, phản
ánh chính xác đường lối, quan điểm của Đảng vì lợi ích của giai cấp, nhân dân lao động
và dân tộc.
- Sinh viên không chuyên hệ lý luận chính trị cần nắm vững có hệ thống những vấn đề
cơ bản của Lịch sử ĐCSVN.
- Hiểu rõ sự nhất quán, giá trị cách mạng, khoa học, tính toàn diện, phát triển và sáng
tạo trong cương lĩnh, đường lối của Đảng. Đó là chuyên đề có ý nghĩa lý luận, thực tiễn
sâu sắc trong nghiên cứu, học tập Lịch sử Đảng.
- Sinh viên tiếp cận và chủ động phát triển tính độc lập trong nghiên cứu, học tập,
tham gia tổng kết kinh nghiệm, bài học lịch sử, những quy luật và lý luận của cách mạng
Việt Nam do Đảng ta lãnh đạo.

7
- Nghiên cứu xây dựng Đảng qua các thời kỳ để hiểu rõ Đảng đã được xây dựng như
thế nào về chính trị, lý luận, tư tưởng, tổ chức, cán bộ, đạo đức, bảo đảm giữ vững và
nâng cao bản chất cách mạng, khoa học của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng. Từ thành công về xây dựng Đảng, thắng lợi của cách mạng, khẳng
định những truyền thống vẻ vang của Đảng.
- Hiểu rõ những vấn đề xây dựng Đảng trong lịch sử để vận dụng những kinh nghiệm
để làm tốt công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay.
- Nghiên cứu, học tập Lịch sử Đảng để vận dụng, phát triển trong thời kỳ đổi mới toàn
diện, đẩy mạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế hiện nay.
- Giáo dục lý tưởng, truyền thống đấu tranh cách mạng của Đảng và dân tộc. Củng cố
bồi đắp niềm tin đối với sự lãnh đạo của Đảng trong công cuộc bảo vệ vững chắc Tổ
quốc và xây dựng CNXH ở Việt Nam.
-------------------------------------------------------
Câu hỏi thảo luận/Nội dung ôn tập:
1. Anh (chị) hãy nêu và phân tích những đối tượng nghiên cứu của môn học Lịch sử
ĐCSVN?
2. Chức năng, nhiệm vụ của môn học Lịch sử ĐCSVN là gì?
3. Nghiên cứu, học tập môn học Lịch sử ĐCSVN cần sử dụng những phương pháp nào?
Hãy phân tích cụ thể từng phương pháp.
4. Nêu và phân tích ý nghĩa của việc học tập môn học Lịch sử ĐCSVN?

8
Chương 1
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI VÀ LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH
CHÍNH QUYỀN (1930 – 1945)
I. Mục tiêu
Về kiến thức: Cung cấp cho sinh viên những tri thức có tính hệ thống quá trình ra đời
của ĐCSVN (1920-1930), nội dung cơ bản, giá trị lịch sử của Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng và quá trình Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giành chính
quyền (1930-1945).
Về tư tưởng: Cung cấp cơ sở lịch sử, góp phần củng cố niềm tin của thế hệ trẻ vào
con đường cách mạng giải phóng dân tộc và phát triển đất nước – sự lựa chọn đúng đắn,
tất yếu, khách quan của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và ĐCSVN thời kỳ đầu dựng Đảng.
Về kỹ năng: Từ việc nhận thức lịch sử thời kỳ đầu dựng Đảng, góp phần trang bị cho
sinh viên phương pháp nhận thức biện chứng, khách quan về quá trình Đảng ra đời và vai
trò lãnh đạo của Đảng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xác lập chính quyền cách
mạng.
II. Nội dung
1.1. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
(tháng 02/1930)
1.1.1. Bối cảnh lịch sử
a. Tình hình thế giới
- Từ cuối thế kỷ XIX, Chủ nghĩa tư bản (CNTB) đã chuyển từ giai đoạn tự do cạnh
tranh sang giai đoạn độc quyền (chủ nghĩa đế quốc).
+ Do nhu cầu của nền sản xuất Tư bản chủ nghĩa (TBCN) (nguồn nguyên liệu,
nhân công, thị trường tiêu thụ hàng hóa… nên chủ nghĩa đế quốc đã đẩy mạnh công cuộc
xâm lược thuộc địa trên khắp thế giới từ Á – Phi – Mỹ Latin – Úc).
+ Các nước đế quốc bên trong thì tăng cường bóc lột nhân dân lao động, bên ngoài
thì xâm lược và áp bức nhân dân các nước thuộc địa.
 Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa và các nước đế quốc ngày càng dâng cao,
phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra sôi nổi.
- Năm 1914, Thế chiến thứ nhất bùng nổ. Mâu thuẫn giữa các nước đế quốc ngày
càng tăng thêm.
 Thế chiến thứ nhất (1914-1918) chính là hậu quả của sự chuyển biến từ giai
đoạn tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa đế quốc.
 Tình hình đó đã làm cho phong trào đấu tranh ở các nước nói chung, các nước
thuộc địa nói riêng chống chủ nghĩa đế quốc phát triển mạnh mẽ.
- Chủ nghĩa (CN) Marx-Lenin ra đời cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã trở thành vũ
khí tư tưởng sắc bén của giai cấp công nhân chống lại CNTB.
9
+ Đây là học thuyết đấu tranh giai cấp và cải tạo xã hội do K. Marx, F. Engels
sáng lập và được V.I. Lenin phát triển, vận dụng; là vũ khí tư tưởng của giai cấp công
nhân, vạch ra sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân là xóa bỏ chủ nghĩa tư
bản và xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
- Kể từ khi CN Marx-Lenin được truyền bá vào Việt Nam thông qua hoạt động tích
cực của Nguyễn Ái Quốc và các hội viên Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên
(HVNCMTN), phong trào yêu nước và phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ theo
khuynh hướng cách mạng vô sản, dẫn tới sự ra đời của các tổ chức cộng sản ở VN.
+ Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng và phát triển sáng tạo CN Marx-Lenin vào thực
tiễn cách mạng VN, sáng lập ra Đảng Cộng sản VN.
 CN Marx-Lenin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam hành động của ĐCSVN.
- Năm 1917, Cách mạng tháng Mười Nga giành được thắng lợi. Nhà nước Xô-viết
công-nông ra đời lần đầu tiên trên thế giới.
 Sự kiện này đã mở ra một thời đại mới, “thời đại cách mạng chống đế quốc,
thời đại giải phóng dân tộc”.
- Tháng 3/1919, Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) được thành lập.
+ Sự ra đời của Quốc tế III có ý nghĩa thúc đẩy sự phát triển của phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế.
+ Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa
của Lenin được công bố tại Đại hội II Quốc tế Cộng sản vào năm 1920 đã chỉ ra phương
hướng đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa, mở ra con đường giải phóng các dân
tộc bị áp bức trên lập trường cách mạng vô sản.
- Đối với VN, Quốc tế III có vai trò quan trọng trong việc truyền bá CN Marx-Lenin
và chuẩn bị về tư tưởng, lý luận thành lập ĐCSVN.
b. Sự chuyển biến về kinh tế -xã hội ở Việt Nam
* Chính sách cai trị của thực dân Pháp:
- Năm 1858, thực dân (TD) Pháp xâm lược Việt Nam. Sau khi tạm thời dập tắt được
các phong trào đấu tranh của nhân dân ta, thực dân Pháp từng bước thiết lập bộ máy
thống trị ở VN.
+ Thiết lập phương thức sản xuất TBCN một cách hạn chế, đồng thời duy trì
phương thức sản xuất phong kiến lạc hậu.
 Việt Nam trở thành xã hội thuộc địa, nửa phong kiến dưới ách thống trị của
chính quyền thực dân Pháp và triều đình phong kiến nhà Nguyễn tay sai.
+ Về chính trị: TD Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân, chuyên chế, chia để trị,
người VN không được hưởng tự do – dân chủ; tước bỏ quyền lực đối nội và đối ngoại
của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn; chia VN ra thành ba xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ,

10
Nam Kỳ và thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị riêng. TD Pháp câu kết với giai cấp địa
chủ trong việc bóc lột kinh tế và áp bức chính trị với nhân dân VN.
+ Về kinh tế: TD Pháp tiến hành cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; thi hành
chính sách độc quyền, lập ra hàng trăm thứ thuế vô lý; đồng thời đầu tư khai thác tài
nguyên, xây dựng một số cơ sở công nghiệp; xây dựng hệ thống đường giao thông, bến
cảng phục vụ cho việc khai thác thuộc địa.
+ Về văn hóa: TD Pháp thực hiện chính sách văn hóa giáo dục thực dân; ngu dân,
nô lệ về tư tưởng – văn hóa; dung túng, duy trì các hủ tục lạc hậu.
* Tình hình giai cấp và mâu thuẫn cơ bản trong xã hội VN:
Dưới tác động của chính sách cai trị của thực dân Pháp, xã hội VN diễn ra quá trình
phân hóa sâu sắc.
- Giai cấp địa chủ: cấu kết với TD Pháp tăng cường bóc lột, áp bức nông dân. Tuy
nhiên, một bộ phận trong nội bộ giai cấp địa chủ VN có lòng yêu nước, căm ghét chế độ
thực dân đã tham gia đấu tranh chống Pháp dưới các hình thức và mức độ khác nhau.
- Giai cấp nông dân: là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội VN, bị thực dân và
phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề. Đây là giai cấp mang lòng căm thù đế quốc và phong
kiến tay sai sâu sắc, có ý chí cách mạng trong việc giành lại ruộng đất và quyền sống tự
do.
- Giai cấp công nhân: ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của TD Pháp,
giai cấp công nhân tập trung nhiều ở các thành phố và vùng mỏ…
Xuất thân trực tiếp từ giai cấp nông dân, là nạn nhân của chính sách chiếm đoạt ruộng
đất của Pháp, cho nên giai cấp công nhân có quan hệ trực tiếp và chặt chẽ với nông dân.
Đặc điểm nổi bật của công nhân VN là: “ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc VN, và vừa
lớn lên nó đã sớm tiếp thu ánh sáng cách mạng của CN Marx-Lenin”.
- Giai cấp tư sản: bị chèn ép, cạnh tranh bởi tư sản Pháp và tư sản Hoa kiều ngay từ
khi ra đời, do đó thế lực kinh tế và địa vị chính trị của tư sản VN nhỏ bé, yếu ớt. Vì vậy,
giai cấp tư sản VN không đủ điều kiện lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ đi đến
thành công.
- Tầng lớp tiểu tư sản: bao gồm học sinh, trí thức, viên chức và những người làm nghề
tự do. Đây là tầng lớp có lòng yêu nước, căm thù TD Pháp, chịu ảnh hưởng của các tư
tưởng tiến bộ bên ngoài truyền vào, cho nên có tinh thần cách mạng cao.
* Tóm lại, chính sách thống trị của TD Pháp đã tác động mạnh mẽ đến xã hội VN
trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Đặc biệt là sự ra đời của của các giai
cấp mới mang thân phận của người dân mất nước, bị ngoại bang áp bức, bóc lột nặng nề.
 Từ đó, hai mâu thuẫn cơ bản trong xã hội VN đã nảy sinh: mâu thuẫn dân tộc
và mâu thuẫn giai cấp, trong đó, mâu thuẫn dân tộc là là chủ yếu nhất.

11
* Nhiệm vụ cơ bản:
+ Một là, đánh đuổi TD Pháp xâm lược, giành lại độc lập, tự do cho dân tộc.
+ Hai là, xóa bỏ chế độ phong kiến, giành quyền dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là
ruộng đất cho nông dân.
 Trong đó, chống đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.
c. Các phong trào yêu nước ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
* Các phong trào yêu nước theo phong kiến và tư sản
- Trước sự xâm lược của TD Pháp, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc theo
khuynh hướng phong kiến và tư sản diễn ra mạnh mẽ. Những phong trào tiêu biểu trong
thời kỳ này là:
+ Phong trào Cần Vương (1885-1896): Sau khi thất thủ ở kinh đô Huế và phải rời
ra vùng rừng núi Tân Sở - Quảng Trị, ngày 13/7/1885, vua Hàm Nghi xuống Dụ Cần
Vương. Phong trào phát triển mạnh ra nhiều địa phương ở khắp cả nước. Ngày
1/11/1888, Hàm Nghi bị Pháp bắt nhưng phong trào Cần Vương vẫn tiếp tục diễn ra cho
đến năm 1896 mới chấm dứt.
+ Khởi nghĩa Yên Thế (Bắc Giang): diễn ra từ năm 1884 và kéo dài đến năm 1913
thì bị Pháp dập tắt.
 Thất bại của các phong trào trên đã chứng tỏ giai cấp phong kiến và hệ tư
tưởng phong kiến không đủ điều kiện để lãnh đạo phong trào yêu nước giải quyết nhiệm
vụ giải phóng dân tộc ở VN.
- Đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước dưới sự lãnh đạo của tầng lớp sỹ phu tiến bộ
chịu ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản diễn ra sôi nổi. Phong trào này phân hóa
thành hai xu hướng: Một bộ phận chủ trương đánh đuổi TD Pháp, giành độc lập dân tộc,
khôi phục chủ quyền quốc gia bằng biện pháp bạo động; một bộ phận khác lại coi cải
cách là giải pháp để tiến tới khôi phục độc lập.
+ Đại diện của xu hướng bạo động là Phan Bội Châu.
+ Đại diện của xu hướng cải cách là Phan Chu Trinh, với chủ trương vận động cải
cách văn hóa, xã hội; động viện lòng yêu nước trong nhân dân; đả kích vua quan phong
kiến thối nát, đề xướng tư tưởng dân chủ tư sản; thực hiện “khai dân trí, chấn dân khí,
hậu dân sinh”, mở mang dân quyền; phản đối đấu tranh vũ trang và cầu viện nước ngoài.
+ Ngoài ra, còn có nhiều phong trào đấu tranh khác như: Phong trào Đông kinh
nghĩa thục (1907), Phong trào “tẩy chay Khách trú” (1919), Phong trào chống độc quyền
xuất nhập khẩu ở cảng Sài Gòn (1923); đấu tranh trong các hội đồng quản hạt, hội đồng
thành phố… đòi cải cách tự do, dân chủ…
+ Từ trong phong trào đấu tranh, các tổ chức đảng, phái ra đời: Đảng Lập hiến
(1923), Đảng Thanh niên (1926), Việt Nam nghĩa đoàn (1925) sau này đổi tên thành Tân
Việt Cách mạng Đảng (1928), Việt Nam Quốc dân Đảng (1927)… Các đảng phái chính
12
trị trên đây đã góp phần thúc đẩy phong trào yêu nước chống Pháp, trong đó nổi bật là
Tân Việt cách mạng Đảng và Việt Nam Quốc dân Đảng.
Tân Việt Cách mạng Đảng ra đời và hoạt động trong hoàn cảnh Hội Việt Nam cách
mạng thanh niên phát triển mạnh mẽ đã tác động tích cực tới Đảng này. Trong nội bộ Tân
Việt diễn ra cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng tư tưởng cách mạng vô sản và tư
tưởng cải lương. Cuối cùng, khuynh hướng cách mạng vô sản thắng thế. Một số đảng
viên Tân Việt chuyển sang Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Số đảng viên tiên tiến
còn lại trong Tân Việt tích cực chuẩn bị cho việc thành lập một chính đảng theo chủ
nghĩa Marx – Lenin.
Việt Nam Quốc dân Đảng là đảng chính trị theo xu hướng dân chủ tư sản. Đảng chủ
trương trước làm dân tộc cách mạng, sau làm thế giới cách mạng, đánh đổ giặc Pháp,
đánh đổ ngôi vua, thiết lập nền dân quyền. Tháng 2/1929, Đảng bị khủng bố dữ dội, tổ
chức bị vỡ ở nhiều nơi sau khi tổ chức ám sát Ba-danh – trùm mộ phu đồn điền cao su
của Pháp. Trước tình hình đó, Đảng quyết định dốc hết lực lượng còn lại vào cuộc khởi
nghĩa Yên Bái nổ ra vào đêm ngày 9/2/1930 ở Yên Bái, Phú Thọ, Hải Dương, Thái
Bình… Tuy nhiên, cuộc khởi nghĩa thất bại, kéo theo sự tan rã hoàn toàn của Việt Nam
Quốc dân Đảng.
* Các phong trào đấu tranh diễn ra với các phương thức và biện pháp khác nhau: bạo
động hoặc cải cách; với quan điểm tập hợp lực lượng bên ngoài khác nhau: dựa vào Pháp
để thực hiện cải cách, hoặc dựa vào ngoại viện để đánh bại Pháp… nhưng cuối cùng các
cuộc đấu tranh đều thất bại.
Các phong trào và tổ chức chính trị theo lập trường quốc gia tư sản đã ra đời và thể
hiện vai trò của mình trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và dân chủ. Nhưng do
những hạn chế về giai cấp, về đường lối chính trị; hệ thống tổ chức thiếu chặt chẽ; chưa
tập hợp được rộng rãi lực lượng của dân tộc, nhất là hai lực lượng cơ bản của xã hội là
công nhân và nông dân nên cuối cùng đã thất bại. Điều đó phản ánh sự yếu kém về địa vị
kinh tế và chính trị của giai cấp tư sản trong tiến trình cách mạng dân tộc, sự bất lực của
giai cấp này trước những nhiệm vụ do lịch sử dân tộc Việt Nam đặt ra.
Sự thất bại của các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX, đầu
thế kỷ XX đã chứng tỏ đường lối cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và tư sản đã bế
tắc. Cách mạng Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc về đường lối, về giai
cấp lãnh đạo. Nhiệm vụ lịch sử đặt ra là phải tìm một con đường cách mạng mới, với một
giai cấp có đủ tư cách đại biểu cho quyền lợi dân tộc, của nhân dân, có đủ uy tín và năng
lực để lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ đến thành công.
1.1.2. Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị các điều kiện để thành lập Đảng
a. Quá trình tìm tòi con đường cứu nước mới của Nguyễn Ái Quốc

13
- Nguyễn Ái Quốc, lúc nhỏ tên là Nguyễn Tất Thành, lớn lên giữa lúc nước mất nhà
tan, đau xót trước cảnh lầm than của đồng bào, Người sớm có chí đánh đuổi Pháp, giải
phóng dân tộc.
- 5/6/1911, Người ra đi tìm đường cứu nước từ Bến cảng Nhà Rồng. Trải qua một lộ
trình lâu dài, Nguyễn Ái Quốc đã trải qua những bước ngoặt lớn:
+ Một là, nhận ra hạn chế của các nhà yêu nước đương thời. Tuy rất khâm phục
lòng yêu nước của các bậc tiền bối như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Hoàng Hoa
Thám… nhưng Người không đồng ý đi theo những con đường cứu nước đó, và đã vượt
qua tầm nhìn hạn chế của họ để đi theo một con đường cứu nước khác.
+ Hai là, tìm ra chỗ hạn chế của cách mạng dân chủ tư sản là những cuộc cách
mạng không giải phóng được công nông và nhân dân lao động. Quá trình nghiên cứu xem
xét Cách mạng tư sản Mỹ (1776), Cách mạng tư sản Pháp (1789) đã giúp Người học hỏi
được nhiều điều. Tuy nhiên, Người vẫn đánh giá đât là “những cuộc cách mạng không
đến nơi”.
Nguyễn Ái Quốc nhận ra ở đâu cũng có hai loại người: người giàu và người
nghèo, người áp bức và người bị áp bức. Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ (1914-
1918), qua đó Người ngày càng hiểu rõ bản chất của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế
quốc thực dân xâm lược.
Năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã hội Pháp. Tháng 6/1919, Người đại diện cho
nhóm người Việt Nam yêu nước tại Pháp gửi tới Hội nghị các nước thắng trận trong Thế
chiến thứ nhất tổ chức tại Versaille (Pháp) Bản yêu sách của nhân dân Việt Nam gồm 8
điểm. Bản yêu sách này tố cáo chính sách của TD Pháp và đòi chính phủ Pháp thực hiện
các quyền tự do, dân chủ, bình đẳng của người dân VN nhưng cuối cùng đã không được
Hội nghị đáp ứng.
+ Ba là, đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười Nga, đi theo Quốc tế
Cộng sản.
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thắng lợi đã mở ra một thời đại mới trong
lịch sử loài người, thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên thế giới, thời đại thắng lợi
của cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản.
 Thắng lợi đó đặt ra sự lựa chọn mới đối với những nhà cách mạng Việt Nam:
Độc lập dân tộc đi lên CNTB hay độc lập dân tộc đi lên CNXH? Và Nguyễn Ái Quốc đã
trả lời câu hỏi đó bằng những hành động thực tế của mình.
Tháng 3/1919, Quốc tế Cộng sản (Quốc tế thứ ba) ra đời tại Moscow, có ảnh
hưởng lớn tới phong trào cách mạng thế giới. Tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội
Pháp tại Tours, đã diễn ra cuộc đấu tranh quyết liệt giữa hai xu hướng: tiếp tục theo Quốc
tế II (con đường cải lương) hay đi theo Quốc tế III (con đường cách mạng)?

14
Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương
về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lenin. Luận cương của Lenin đã giải đáp trúng
những vấn đề mà Nguyễn Ái Quốc đang trăn trở và đã có ảnh hưởng quyết định đến lập
trường cứu nước của Người: Người đến với chủ nghĩa Marx-Lenin, tán thành Quốc tế III,
đặt cách mạng giải phóng dân tộc trong quỹ đạo của cách mạng vô sản, trở thành một
trong những nhà sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và là người Cộng sản đầu tiên của Việt
Nam.
Từ đây, Nguyễn Ái Quốc đã nhận ra một chân lý của thời đại: chỉ có chủ nghĩa xã
hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao
động trên thế giới khỏi ách nô lệ.
Và Người đã vận dụng một cách sáng tạo, độc lập, tự chủ học thuyết Marx-Lenin
vào tình hình Việt Nam, vạch ra đường lối đúng đắn cứu nước cho dân tộc ta.
b. Truyền bá chủ nghĩa Marx-Lenin và chuẩn bị thành lập Đảng
* Tố cáo tội ác của thực dân Pháp, liên kết cách mạng giải phóng dân tộc thuộc
địa với các mạng vô sản ở các nước đế quốc.
- Trở thành người cộng sản, Nguyễn Ái Quốc bắt tay vào công cuộc truyền bá chủ
nghĩa Marx-Lenin vào trong nước. Đó cũng là quá trình Người từng bước vạch đường lối
chiến lược cho cách mạng Việt Nam.
- Tháng 7/1921, Nguyễn Ái Quốc cùng một số chiến sĩ cách mạng ở nhiều nước thuộc
địa của Pháp thành lập Hội liên hiệp thuộc địa. Hội đã ra tờ báo Người cùng khổ (Le
Paria). Báo Người cùng khổ đã tạo “một luồng gió mới thổi đến nhân dân các nước bị áp
bức”, “đã làm cho nước Pháp chân chính biết rõ những việc xảy ra trong các thuộc địa”,
“đã thức tỉnh đồng bào chúng ta”, “khiến cho đồng bào chúng ta nhận rõ nước Pháp, tự
do, bình đẳng, bác ái”.
- Ngoài việc viết bài cho báo Người cùng khổ, Người còn viết bài cho các báo Nhân
đạo, Đời sống công nhân.
- Người đã dự Đại hội lần thứ nhất và lần thứ hai của Đảng Cộng sản Pháp. Trong các
đại hội đó, Người đã chỉ ra sai lầm của Đảng Cộng sản Pháp khi không quan tâm về vấn
đề thuộc địa.
- Trong thời gian này, Nguyễn Ái Quốc bắt đầu viết tác phẩm nổi tiếng Bản án chế độ
thực dân Pháp.
+ Tác phẩm đã vạch trần bản chất chủ nghĩa đế quốc và kêu gọi “Dân bản xứ
không cam chịu nhục được mãi, phải vùng lên”.
+ Người nêu lên mối quan hệ giữa cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân
tộc qua hình ảnh chủ nghĩa đế quốc là một con đỉa hai vòi. Muốn giết con vật ấy “người
ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi còn lại kia

15
vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản, con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại
sẽ mọc ra”.
+ Tác phẩm này có giá trị lớn về mặt lý luận, thực tiễn, đồng thời có giá trị về văn
học.
- Năm 1922, Nguyễn Ái Quốc phê phán vua Khải Định khi ông ta sang Pháp dự hội
chợ thuộc địa bằng những tác phẩm văn học như truyện ngắn Lời than vãn của Bà Trưng
Trắc, vở kịch Con rồng tre…
- Giữa năm 1923, Người đến Petrograd (Saint Peterburg – Liên Xô) để có điều kiện
học tập, nghiên cứu sâu sắc hơn chủ nghĩa Marx-Lenin.
+ Tháng 10/1923, Nguyễn Ái Quốc dự Đại hội lần thứ nhất Quốc tế Nông dân,
Người được vào Ban Chấp hành Quốc tế Nông dân và được cử làm Ủy viên Đoàn Chủ
tịch.
+ Năm 1924, Người dự các Đại hội của Thanh niên, Phụ nữ Quốc tế, Công hội đỏ
và Đại hội lần thứ V của Quốc tế Cộng sản. Người tiếp tục phê bình thiếu sót của nhiều
đảng cộng sản ở Tây Âu về vấn đề thuộc địa và thẳng thắn nêu thiếu sót đó của cả Quốc
tế Cộng sản.
- Ngày 11/11/1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc) làm nhiệm vụ
đặc phái viên của Quốc tế Cộng sản và trực tiếp chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam.
- Người cùng với một số nhà cách mạng lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á
Đông, do ông Liêu Trọng Khải (Trung Quốc) làm Hội trưởng và Người làm Bí thư.
* Thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên
- Tháng 6/1925, từ nhóm cách mạng đầu tiên (nhóm Tâm Tâm Xã), Nguyễn Ái Quốc
thành lập nhóm Cộng sản đoàn rồi trên cơ sở đó cho ra đời HVNCMTN, nhằm tập hợp
những thanh niên yêu nước Việt Nam có xu hướng cộng sản chủ nghĩa, chuẩn bị thành
lập Đảng.
- Người mở những lớp huấn luyện cán bộ dó chính Người trực tiếp đứng lớp và ra tờ
báo Thanh niên (ngày 21/6/1925).
- Phần lớn những thanh niên đã được huấn luyện trở về nước hoạt động và số còn lại
sang Liên Xô tiếp tục học tập tại trường Đại học Cộng sản Phương Đông (Moscow).
- Hội đã truyền bá chủ nghĩa Marx-Lenin và đường lối cứu nước của Nguyễn Ái Quốc
vào công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động.
- Năm 1928, Hội đề ra chủ trương “vô sản hóa”, đưa hội viên vào các nhà máy, hầm
mỏ, đồn điền. Chủ trương này có tác dụng rèn luyện những người trí thức tiểu tư sản về
lập trường giai cấp công nhân và bước đầu kết hợp chủ nghĩa Marx-Lenin với phong trào
công nhân và phong trào yêu nước.

16
- Hội kết nạp ngày càng nhiều hội viên, từ 300 người (1928) lên 1700 người (1929).
Từ năm 1926 đến 1929, Hội có cơ sở ở nhiều trung tâm kinh tế, chính trị trong cả nước,
trở thành lực lượng chính trị yêu nước lớn mạnh nhất đất nước, chuẩn bị những tiền đề
cần thiết cho việc thành lập Đảng Cộng sản.
* Phác thảo đường lối cứu nước
- Đường lối cứu nước của Nguyễn Ái Quốc được phác thảo từ năm 1921 và thể hiện
tập trung trong tập bài giảng ở lớp chính trị tại Quảng Châu (nơi người mở lớp huấn
luyện những hội viên của HVNCMTN), năm 1927 được in thành sách lấy tên là Đường
Cách mệnh.
- Nội dung cơ bản của tác phẩm như sau:
+ Một là: Chỉ có cách mạng vô sản là cách mạng triệt để, vì lợi ích của đại đa số
dân chúng.
Nguyễn Ái Quốc đã so sánh các cuộc cách mạng tư sản nổi tiếng trong lịch sử như
Anh, Pháp, Hoa Kỳ… với cuộc cách mạng vô sản Tháng Mười Nga năm 1917 và đã chỉ
ra rằng: các cuộc cách mạng tư sản là những cuộc cách mạng không đến nơi, trong nước
thì tước đoạt quyền tự do, dân chủ của công nông, bên ngoài thì áp bức thuộc địa.
Và Người khẳng định: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành
công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình
đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe
khoang bên An Nam”.1
Nguyễn Ái Quốc còn nhấn mạnh: “làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân
chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế
dân chúng mới được hạnh phúc”.2
 Đây là điểm xuất phát và là điểm khác nhau cơ bản giữa con đường cứu nước
của Nguyễn Ái Quốc với các con đường cứu nước trước kia.
+ Hai là: Mục tiêu và con đường đi lên của cách mạng Việt Nam là chủ nghĩa xã
hội, muốn xóa bỏ chế độ người bóc lột người, muốn có tự do, hạnh phúc, bình đẳng thực
sự thì phải qua hai cuộc cách mạng: cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Hai cuộc cách mạng này co mối quan hệ mật thiết với nhau.
+ Ba là: Về lực lượng cách mạng, công nông là gốc của cách mệnh, học trò, nhà
buôn nhỏ, điền chủ nhỏ là bầu bạn của công nông. Cách mệnh là việc chung của cả dân
chúng chứ không phải là việc của một hai người.
+ Bốn là: Về phương pháp cách mạng.
Quan điểm của Nguyễn Ái Quốc về phương pháp cách mạng là sử dụng cách
mạng bạo lực
1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr. 280
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr. 270
17
+ Năm là: Đoàn kết quốc tế.
Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Phải ra sức liên lạc
với tất cả các đảng cách mạng trên thế giới để chống lại tư bản và đế quốc chủ nghĩa.
Việt Nam muốn làm cách mạng thành công thì phải dựa chặt chẽ vào Quốc tế Cộng sản.
Trong quan hệ giữa cách mạng nước ta với cách mạng thế giới, Nguyễn Ái Quốc
lưu ý hai điều: Muốn người ta giúp cho thì trước hết mình phải tự giúp mình trước đã.
Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động giành thắng lợi, không ỷ lại, chờ đợi thắng
lợi của cuộc cách mạng vô sản. Đó là bài học đoàn kết quốc tế trên cơ sở độc lập, tự chủ,
tự lực, tự cường của cách mạng nước ta từ khi Đảng lãnh đạo.
+ Sáu là: Cách mạng trước hết phải có Đảng cách mạng.
Cách mạng muốn thành công trước hết phải có chính đảng cách mạng lãnh đạo.
Đảng cách mạng đó phải lấy chủ nghĩa Marx-Lenin làm nền tảng tư tưởng. Đảng ko có
chủ nghĩa như người không có trí khôn.
- Nguyễn Ái Quốc không những nắm vững chủ nghĩa Marx-Lenin mà Người còn biết
vận dụng chủ nghĩa đó một cách sáng tạo, phù hợp với đặc điểm cách mạng nước ta.
- Từ năm 1925 đến năm 1927, cùng với phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô
sản của HVNCMTN đã xuất hiện phong trào yêu nước theo quan điểm dân chủ tư sản:
+ Phong trào đấu tranh đòi thả cụ Phan Bội Châu cuối năm 1925.
+ Phong trào yêu nước để tang cụ Phan Chu Trinh tháng 3/1926.
+ Năm 1927, Đảng Tân Việt thành lập trên cơ sở của Việt Nam Nghĩa đoàn.
+ Đảng Thanh niên thành lập tháng 3/1926.
 Như vậy, thời gian này, ở nước ta đã nổ ra cuộc đấu tranh giữa hai đường lối cứu
nước và kết cục đường lối cứu nước của Nguyễn Ái Quốc đã thắng đường lối theo quan
điểm tư sản.
 Tính khoa học và cách mạng triệt để của đường lối cứu nước do Nguyễn Ái Quốc
đề xướng có sức cuốn hút mạnh mẽ nhiều thanh niên yêu nước.
Trong hai năm 1929-1930, phần lớn đảng viên Đảng Tân Việt và một số đảng viên
tiên tiến của Việt Nam Quốc dân Đảng đã chuyển sang lập trường của những người cộng
sản.
 Lập trường cách mạng giải phóng dân tộc của công nhân đã thắng lập trường giải
phóng của tư sản.
 Thực tiễn lịch sử chứng minh, con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc đã mở
đường giải quyết cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước ở nước ta, dẫn đến sự ra đời
của các tổ chức cộng sản vào nửa cuối năm 1929 và Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập
đầu năm 1930.

18
1.1.3. Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên
của Đảng
a. Các tổ chức cộng sản Việt Nam ra đời
* Đường lối cứu nước của Nguyễn Ái Quốc trước tiên đã thúc đẩy phong trào
công nhân và phong trào nông dân lên cao trong cả nước.
+ Trước Thế chiến thứ nhất, đội ngũ công nhân VN có khoảng 10 vạn người. Các
cuộc đấu tranh của công nhân VN diễn ra dưới nhiều hình thức từ thấp đến cao, từ phá
giao kèo, bỏ việc đến bãi công. Họ đã biết liên kết công nhân nhiều xí nghiệp cùng đấu
tranh và liên hệ với công nhân Pháp và công nhân Trung Quốc.
+ Sau Thế chiến thứ nhất, phong trào đấu tranh của công nhân phát triển mạnh mẽ
hơn nữa qua các năm. Tháng 8/1925, nổ ra cuộc bãi công của công nhân binh xưởng Ba
Son (Sài Gòn) do Tôn Đức Thắng lãnh đạo, tổ chức ra Công hội Đỏ.
+ Trong hai năm 1926-1927, có 17 cuộc đấu tranh trong cả nước, tiêu biểu có bãi
công của công nhân sợi Nam Định, đồn điền Cam Tiên, đồn điền Phú Riềng.
+ Trong năm 1928, tiêu biểu có các cuộc đấu tranh của công nhân mỏ than Mạo Khê,
nhà máy xay Chợ Lớn, đồn điền cao su Lộc Ninh, nhà máy cưa Bến Thủy, nhà máy xe
lửa Trường Thi, nhà máy xi măng Hải Phòng…
 Các cuộc đấu tranh đã thể hiện rõ tinh thần đoàn kết giai cấp, ý thức tổ chức
của công nhân. Báo chí thực dân Pháp phải thừa nhận: “Từ đây, hành động tập thể của
những người lao động đã thay thế cho những vụ âm mưu của các hội kín”.
+ Phong trào đấu tranh của nông dân cũng phát triển khá mạnh ở nhiều nơi trong
cả nước, tiêu biểu ở các địa phương như Rạch Giá, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thái
Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh…
- Phong trào cách mạng dâng cao đòi hỏi phải có sự lãnh đạo của đội tiên phong cách
mạng có đủ bản lĩnh để lãnh đạo cuộc cách mạng của toàn dân tộc. Và nhiệm vụ đó được
đặt lên vai của Đảng Cộng sản.
 Hội VNCMTN đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử chuẩn bị cho sự ra đời của
Đảng Cộng sản ở nước ta.
- Trong lúc nhiều người yêu nước khác chưa nhận thức được đòi hỏi bức xúc đó thì
những người tiên tiến trong Hội VNCMTN đã sớm nắm bắt được nhu cầu lịch sử này của
giai cấp công nhân và của dân tộc.
- Tháng 05/1929, tại Đại hội Thanh niên ở Hương Cảng, yêu cầu thành lập Đảng
Cộng sản bị bác bỏ. Ngày 17/6/1929, Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập ở Hà
Nội và công bố Chính cương, Tuyên ngôn.
 Sự kiện này đánh dấu việc kết thúc vai trò của Hội VNCMTN và ảnh hưởng
đến sự ra đời của hai tổ chức cộng sản khác.

19
- Tháng 11/1929, An Nam Cộng sản Đảng thành lập. Ngày 1/1/1930, Đông Dương
Cộng sản Liên đoàn ra đời từ phái “tả” của Đảng Tân Việt.
 Trong vòng 6 tháng, ba tổ chức cộng sản lần lượt ra đời chứng tỏ những điều
kiện thành lập Đảng Cộng sản ở nước ta đã chín muồi.
- Các tổ chức cộng sản ở Việt Nam đã đánh giá nhau không đúng, chưa nhận thức
được hiện tượng phân tán, chia rẽ về tổ chức sẽ gây ảnh hưởng đến sự phát triển của
phong trào cách mạng.
 Vì vậy, khắc phục về sự phân tán và chia rẽ về tổ chức là nhiệm vụ cấp bách
trước mắt của tất cả những người cộng sản, cũng là đòi hỏi khẩn thiết của cách mạng
nước ta lúc bấy giờ.
- Trong tài liệu gửi những người cộng sản Đông Dương ngày 27/10/1929, Quốc tế
Cộng sản nêu rõ: “Nhiệm vụ quan trọng nhất và cấp bách nhất của tất cả những người
cộng sản Đông Dương là thành lập một đảng cách mạng có tính chất giai cấp của giai cấp
vô sản, nghĩa là một Đảng Cộng sản có tính chất quần chúng ở Đông Dương. Đảng đó
phải chỉ có một và là tổ chức cộng sản duy nhất ở Đông Dương”.3
b. Hội nghị thành lập Đảng
* Đáp ứng đòi hỏi của phong trào cách mạng trong nước, Nguyễn Ái Quốc chủ động
triệu tập các đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng bàn
việc hợp nhất.
- Từ ngày 6/1 đến ngày 7/2/1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản họp ở bán
đảo Cửu Long (Hương Cảng) dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc, với sự tham gia của
hai đại biểu Đông Dương Cộng sản Đảng, hai đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng và
hai đại biểu ngoài nước.
- Hội nghị đã nhất trí thành lập một Đảng lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam vào
ngày 3/2/1930. Tổng số đảng viên của Đảng lúc này là 310 người.
c. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
- Hội nghị thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt,
Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo. Các văn
kiện trên được gộp thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng có nội dung chủ yếu là:
+ Cách mạng Việt Nam là cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng thổ địa để đi
tới xã hội cộng sản.
+ Đánh đổ đế quốc Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn
độc lập.
+ Thu hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng…) của tư bản đế
quốc Pháp để giao cho Chính phủ công nông binh.

31
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, 1998, t.1, tr.614
20
+ Quốc hữu hóa toàn bộ đồn điền và đất đai của đế quốc và địa chủ phản cách
mạng, chia cho nông dân nghèo.
+ Tổ chức quân đội công nông.
+ Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh Niên, Tân
Việt,… để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa
chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít ra phải làm
cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ. Trong
khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng một chút lợi ích gì
của công nông mà đi vào đường thỏa hiệp.
+ Thực hành liên lạc chặt chẽ với các dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp thế giới,
nhất là vô sản giai cấp Pháp.
+ Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, phải thu phục cho được đại bộ phận
giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng.
- Sau Hội nghị hợp nhất, ngày 24/2/1930, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn cũng gia
nhập Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.1.4. Ý nghĩa lịch sử của sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam
- Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập đã quy tụ ba tổ chức cộng sản thành một chính
đảng cách mạng duy nhất theo một đường lối chính trị đúng đắn, dẫn đến sự thống nhất
về tư tưởng và hành động của phong trào cách mạng cả nước, tạo nên truyền thống đoàn
kết của Đảng và dân tộc từ đó về sau.
- Đảng ra đời là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách mạng nước ta, chấm dứt cuộc
khủng hoảng về đường lối cứu nước, là cơ sở dẫn đến những thắng lợi oanh liệt và những
bước nhảy vọt lớn trong lịch sử dân tộc trong những năm sau. Từ đây, cách mạng Việt
nam đã có một bước ngoặt lịch sử vĩ đại: cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận
khăng khít của cách mạng vô sản thế giới. Đó là kết quả của sự vận động phát triển và
thống nhất của phong trào cách mạng trong cả nước, sự chuẩn bị tích cực sáng tạo, bản
lĩnh của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, sự đoàn kết, nhất trí của những chiến sĩ cách mạng tiên
phong vì lợi ích của giai cấp và dân tộc.
- Đảng ra đời cũng đã chứng tỏ rằng giai cấp vô sản nước ta đã trưởng thành và đủ
sức lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
- Quá trình vận động thành lập Đảng cũng đã để lại một số kinh nghiệm:
+ Độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự chủ, tự cường, tổng kết thực tiễn, kết hợp tinh hoa
của nhân loại với tinh hoa của dân tộc là những yếu tố giúp Nguyễn Ái Quốc tìm được
con đường cứu nước đúng đắn, đặt tiền lệ cho truyền thống độc lập, tự chủ, sáng tạo của
Đảng về sau.
+ Đảng ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí
Minh với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, là sản phẩm của sự
21
thống nhất lợi ích giai cấp với lợi ích dân tộc, phù hợp với đặc điểm xã hội thuộc địa, nửa
phong kiến Việt Nam.
+ Sự đoàn kết, thống nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định sự
đoàn kết, thống nhất của phong trào cách mạng cả nước. Điều đó còn thể hiện uy tín và
năng lực tổ chức của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với các tổ chức đảng và phong trào
cách mạng Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên được thông qua tại
Hội nghị thành lập Đảng đã khẳng định lần đầu tiên cách mạng Việt Nam có một bản
Cương lĩnh chính trị phản ánh được quy luật khách quan của xã hội Việt Nam, đáp ứng
những nhu cầu cơ bản và cấp bách của xã hội Việt Nam, phù hợp với xu thế của thời đại,
định hướng chiến lược đúng đắn cho tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam.
Đường lối đó là kết quả của sự vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn cách mạng
Việt Nam một cách đúng đắn, sáng tạo và có phát triển trong điều kiện lịch sử mới.
Sự ra đời của Đảng với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã khẳng định sự lựa chọn con
đường cách mạng cho dân tộc Việt Nam – con đường cách mạng vô sản. Con đường duy
nhất đúng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
Đảng ta ra đời là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam, trở
thành nhân tố hàng đầu quyết định đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác.
1.2. Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền (1930 – 1945)
1.2.1. Phong trào cách mạng 1930-1935 và khôi phục phong trào 1932-1935
a. Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng tháng 10/1930
- Tháng 4/1930, sau thời gian học tập ở Liên Xô, đồng chí Trần Phú được Quốc tế
Cộng sản cử về nước, bổ sung vào Ban chấp hành Trung ương. Đến tháng 10/1930, Hội
nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ nhất họp tại Hương Cảng do Trần Phú chủ trì
+ Hội nghị đã thông qua Nghị quyết về tình hình và nhiệm vụ cần kíp của Đảng,
dự thảo Luận cương chính trị của Đảng do Trần Phú soạn thảo, Điều lệ Đảng và Điều lệ
các tổ chức quần chúng.
+ Thực hiện chỉ thị của Quốc tế III, Hội nghị đã đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam
thành Đảng Cộng sản Đông Dương.
+ Hội nghị cử ra Ban chấp hành Trung ương chính thức và cử đồng chí Trần Phú
làm Tổng bí thư.
* Nội dung của Luận cương chính trị tháng 10/1930: Luận cương đã nêu lên những
vấn đề cơ bản của cách mạng dân tộc dân chủ ở Đông Dương do giai cấp công nhân lãnh
đạo.

22
- Luận cương phân tích: tính chất xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa nửa phong kiến,
thực dân Pháp kết hợp hai lối bóc lột tư bản chủ nghĩa và bóc lột phong kiến để thu được
lợi nhuận cao nhất.
- Mâu thuẫn giai cấp: diễn ra gay gắt giữa một bên là thợ thuyền, dân cày và các phần
tử lao khổ với một bên là địa chủ phong kiến và tư bản đế quốc.
- Tính chất cách mạng Đông Dương: lúc đầu là cách mạng tư sản dân quyền, sau đó
bỏ qua thời kỳ tư bản chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa.
- Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền: đánh đổ phong kiến, thực hành cách
mạng ruộng đất triệt để và đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp. Hai vấn đề đó có mối quan
hệ mật thiết, trong đó ruộng đất là cốt lõi của cách mạng tư sản dân quyền.
- Về sắp xếp lực lượng cách mạng: giai cấp vô sản là động lực chính đồng thời là giai
cấp lãnh đạo cách mạng. Nông dân là động lực mạnh của cách mạng. Tư bản thương mại
đứng về phe đế quốc và địa chủ chống lại cách mạng. Tư bản công nghệ khi phong trào
quần chúng nổi lên thì sẽ theo đế quốc. Thương gia không tán thành cách mạng. Trí thức
tiểu tư sản, học sinh trong thời kỳ chống đế quốc hăng hái tham gia, nhưng chỉ lúc đầu.
Các phần tử lao khổ ở thành phố do đời sống cực khổ cho nên đều tham gia cách mạng.
- Về phương pháp cách mạng: lúc thường thì phải tùy theo tình hình mà đặt khẩu hiệu
“phần ít” (tối thiểu) để bênh vực quyền lợi cho quần chúng. Đến lúc sức lực cách mạng
lên rất mạnh, giai cấp thống trị đã rung động, giai cấp đứng giữa muốn ngả về phía cách
mạng thì Đảng phải lãnh đạo quần chúng để giành chính quyền.
- Về quan hệ quốc tế: cách mạng Đông Dương và cách mạng thế giới có liên hệ chặt
chẽ với nhau, giai cấp vô sản Đông Dương phải có mối quan hệ chặt chẽ với giai cấp vô
sản thế giới, nhất là vô sản Pháp.
- Về chính đảng lãnh đạo cách mạng: Điều kiện cốt yếu cho thắng lợi của cách mạng
Đông Dương là cần phải có một Đảng Cộng sản với một đường lối chính trị đúng đắn, có
kỷ luật tập trung, liên hệ mật thiết với quần chúng và trải qua đấu tranh mà trưởng thành.
Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, lấy chủ nghĩa Marx-Lenin làm nền tảng tư
tưởng.
* Như vậy, Luận cương chính trị tháng/1930 khẳng định lại nhiều vấn đề căn bản
thuộc về chiến lược cách mạng mà Cương lĩnh chính trị tháng 2/1930 đã nêu:
+ Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
+ Hai giai đoạn cách mạng từ tư sản dân quyền chống đế quốc và phong kiến
nhằm thực hiện độc lập dân tộc và ruộng đất cho nông dân sau đó chuyển sang cách
mạng xã hội chủ nghĩa.
+ Hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến có mối quan hệ mật thiết với
nhau.

23
+ Lực lượng chính của cách mạng là công nhân và nông dân, trong đó công nhân
là lực lưỡng lãnh đạo.
+ Phương pháp cách mạng khi chưa có và khi có tình thế cách mạng.
+ Cách mạng Việt Nam liên hệ mật thiết với giai cấp vô sản các nước và các dân
tộc thuộc địa.
* Bên cạnh đó, giữa Luận cương chính trị và Cương lĩnh chính trị có mặt khác nhau:
+ Luận cương không nêu ra được mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc
Việt Nam với đế quốc Pháp  Không đặt nhiệm vụ chống đế quốc lên hàng đầu.
+ Luận cương đánh giá không đúng vai trò cách mạng của giai cấp tiểu tư sản và
mặt yêu nước của tư sản dân tộc cùng với một bộ phận địa chủ nhỏ.
* Nguyên nhân của sự khác nhau đó là:
- Luận cương chưa tìm ra và nắm vững đặc điểm của xã hội thuộc địa, nửa phong kiến
Việt Nam.
- Hạn chế về nhận thức ấu trĩ, tả khuynh, giáo điều.
 Hội nghị Ban chấp hành Trung ương tháng 10/1930 đã không chấp nhận những
quan điểm mới, sáng tạo, độc lập, tự chủ của Nguyễn Ái Quốc.
b. Phong trào cách mạng những năm 1930-1935
* Cao trào cách mạng 1930-1931 với đỉnh cao Xôviết Nghệ-Tĩnh
- Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 nổ ra trong hệ thống các nước tư bản
chủ nghĩa đã tàn phá nặng nề nền kinh tế của các nước này, đẩy lùi sản xuất về mức cuối
thế kỷ XIX.
 Giai cấp tư sản ở các nước đế quốc trút gáng nặng khủng hoảng lên vai nhân
dân trong nước và nhân dân các nước thuộc địa, nửa thuộc địa.
 Mâu thuẫn giữa công nhân với tư bản, giữa nông dân với địa chủ, giữa các
nước thuộc địa, nửa thuộc địa với các nước đế quốc, giữa các nước đế quốc với nhau trở
nên gay gắt.
- Liên Xô-nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, phát triển nhanh chóng về kinh
tế, xã hội, văn hóa và quốc phòng.  Tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa đã cổ vũ
các dân tộc bị áp bức, nhân dân lao động các nước tư bản vùng lên đấu tranh.
- Ở Đông Dương, thực dân Pháp tăng cường bóc lột nhân dân thuộc địa nhằm bù đắp,
khắc phục những hậu quả do khủng hoảng kinh tế 1929-1933 gây ra.
 Công nhân và nông dân là những nạn nhân trực tiếp và chịu nhiều tai họa nhất.
Công nhân thất nghiệp ngày càng đông. Nông dân bị bần cùng hóa.
 Nạn đói diễn ra trầm trọng. Hàng vạn người phải rời bỏ làng xã.
 Thợ thủ công phá sản. Nhà buôn nhỏ đóng cửa. Viên chức bị sa thải hàng loạt.
Nhiều nhà tư sản dân tộc và địa chủ nhỏ cũng bị sa sút và phá sản.
 Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và tay sai rất sâu sắc.
24
- Chính trong tình hình đó, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã lãnh trách nhiệm thúc
đẩy phong trào quần chúng phát triển thành cao trào cách mạng trong cả nước.
 Nhân dịp thành lập Đảng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã ra lời kêu gọi công nhân,
nông dân, binh lính, thành niên, học sinh và toàn thể đồng bào bị áp bức, bóc lột đứng lên
đi theo Đảng làm cách mạng chống đế quốc và tay sai, giành lấy quyền sống.
* Diễn biến cao trào cách mạng 1930-1931:
- Mở đầu phong trào bằng những cuộc bãi công của 5000 công nhân đồn điền Phú
Riềng (2/1930), 4000 công nhân sợi Nam Định (3/1935). 400 công nhân nhà máy diêm
Bến Thủy-Vinh (4/1930).
 Kết hợp với các cuộc bãi công, Đảng phát động đấu tranh chống thực dân Pháp
khủng bố sau khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc dân Đảng. Từ tháng 2 đến tháng
4/1930, có hơn 1200 cuộc đấu tranh của công nhân và nông dân nổ ra ở khắp cả ba miền,
đánh dấu một bước ngoặt trong phong trào đấu tranh cách mạng của người dân Việt
Nam.
- Từ cuộc đấu tranh ngày 1/5/1930, phong trào bãi công của công nhân kết hợp với
biểu tình của nông dân và nhân dân lao động nổ ra ở cả ba miền Trung, Nam, Bắc, từ các
nhà máy ở Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Hòn Gai, Vinh, Sài Gòn, Chợ Lớn… đến các
vùng nông thôn Gia Định, Vĩnh Long, Bến Tre, Mỹ Tho, Nghệ An, Hà Tĩnh, Thái Bình,
Hà Nam… Phong trào đấu tranh của công nhân-nông dân còn có sự phối hợp với bãi
khóa của học sinh và bãi thị của những người buôn bán nhỏ.
 Các cuộc đấu tranh đã giành được thắng lợi bước đầu, buộc Pháp và tay sai phải
thả một số người bị bắt, cải thiện một số điều kiện làm việc cho công nhân, hoãn thuế cho
nông dân.
- Tháng 9/1930, từ những cuộc đấu tranh ban đầu đòi quyền lợi dân sinh, dân chủ,
quần chúng tiến lên đấu tranh chính trị, nhiều cuộc biểu tình có lực lượng tự vệ vũ trang
bảo vệ. Các đảng viên cộng sản đi đầu trong đấu tranh. Cao trào cách mạng đã lôi cuốn
nhiều trí thức tham gia.
 Công hội, Nông hội, Đoàn Thanh niên Cộng sản, Hội Phụ nữ giải phóng phát
triển.
- Trong cao trào cách mạng đó, diễn ra sôi nổi và quyết liệt nhất là ở Nghệ An và Hà
Tĩnh. Quần chúng cách mạng ở hai địa phương này đã giành quyền làm chủ ở nhiều nơi,
sau đó đã lập nên Xôviết Nghệ-Tĩnh, đỉnh cao của cao trào 1930-1931.
+ Xôviết Nghệ-Tĩnh ra đời ở một vùng hội tụ nhiều điều kiện thuận lợi: có truyền
thống cách mạng kiên cường; có một đảng bộ vững mạnh, các đoàn thể cách mạng phát
triển rộng khắp; khu công nghiệp Bến Thủy-Vinh là nơi tập trung công nhân có liên hệ tự
nhiên chặt chẽ với nông dân trong vùng tạo điều kiện cho Nghệ-Tĩnh sớm xây dựng được
khối liên minh công nông vững chắc…
25
+ Tầng lớp trí thức và một số phú nông, tiểu địa chủ có cảm tình với cách mạng,
ủng hộ và tham gia đấu tranh. Xứ ủy Trung Kỳ cùng với Đảng bộ Nghệ Tĩnh đã trực tiếp
chỉ đạo cuộc đấu tranh đòi các quyền dân sinh, dân chủ kết hợp với đấu tranh chống
khủng bố trắng.
+ Đến cuối tháng 8, đầu tháng 9/1930, nhất là sau khi Pháp cho máy bay ném bom
cuộc biểu tình của nông dân Hưng Nguyên (Nghệ An), hàng vạn nông dân nhiều huyện
tổ chức các cuộc biểu tình đến các huyện lỵ, đốt sổ sách, phá nhà lao.
 Chính quyền thực dân tay sai nhiều nơi bị tê liệt ở cấp huyện và tan rã ở cấp xã.
Nhiều cấp ủy Đảng ở thôn, xã đã lãnh đạo Nông hội và quần chúng lập ra chính quyền
cách mạng của công nhân, nông dân và quần chúng lao động sau này gọi là chính quyền
Xôviết.
 Từ tháng 9/1930 đến đầu năm 1931, chính quyền Xôviết đã thực hiện quyền
làm chủ của quần chúng, điều hành mọi mặt đời sống xã hội.
+ Về chính trị: Ban bố quyền tự do, dân chủ của nhân dân, tổ chức cho quần chúng
tham gia các đoàn thể cách mạng, tự do bàn bạc, góp ý kiến giải quyết các vấn đề xã hội;
phổ biến sách báo cách mạng; trừng trị bọn phản cách mạng, quản chế bọn hào lý, giữ gìn
trật tự trị an.
+ Về kinh tế: chia lại ruộng đất cho cả nam và nữ, thực hiện giảm tô, xóa nợ, thủ
tiêu các thứ thuế vô lý như thuế thân, thuế muối, lấy thóc của địa chủ để cứu đói; tổ chức
đào mương, chống hạn, đắp đập, củng cố đê điều, giúp nhau sản xuất.
+ Về văn hóa-xã hội: mở trường cho trẻ em, mở các lớp dạy chữ quốc ngữ cho
người lớn, bài trừ hủ tục, mê tín dị đoan; thực hiện nếp sống lành mạnh trong cưới xin,
ma chay; tổ chức cứu tế người nghèo; phát triển thơ ca, cổ vũ tinh thần yêu nước và cách
mạng.
 Đông đảo quần chúng hiểu rõ chỉ có đánh đổ chính quyền thống trị của đế quốc
và tay sai, giành quyền làm chủ thì mới có thể giải quyết tận gốc những yêu cầu cơ bản
về cuộc sống của mình.
+ Hoảng sợ trước phong trào cách mạng ở Nghệ-Tĩnh, thực dân Pháp điên cuồng
khủng bố. Một mặt đàn áp nhân dân, mặt khác dùng chiêu bài lừa bịp xảo quyệt, chiêu
hàng, phát “thẻ quy thuận”, cô lập đảng viên cộng sản
 Phong trào cách mạng chịu những tổn thất về nhiều mặt.
- Đứng trước tình hình đó, Trung ương Đảng và đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã chỉ đạo
phải kiên quyết chống khủng bố, chuyển hướng hoạt động và chuyển hướng tổ chức, giữ
vững lực lượng và ảnh hưởng của Đảng, tránh bạo động riêng lẻ ở một vài địa phương,
hết sức bênh vực “Nghệ-Tĩnh đỏ”. Cuối tháng 9/1930, Nguyễn Ái Quốc đã gửi thư cho
Quốc tế III đề nghị kêu gọi các đảng cộng sản và công nhân trên thế giới lên án đế quốc
Pháp khủng bố trắng ở Đông Dương.
26
- Tháng 11/1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị về việc thành lập Hội
phản đế đồng minh.
- Trong cao trào cách mạng 1930-1931, một số nơi đã phạm những lệch lạc “hữu
khuynh”, “tả khuynh”. Ban chấp hành Trung ương Đảng đã phê phán những sai lầm đó,
nhấn mạnh bản chát giai cấp công nhân của Đảng. Trung ương Đảng nghiêm khắc phê
phán chủ trương của Xứ ủy Trung Kỳ đưa những đảng viên xuất thân từ trí thức, phú
nông, địa chủ, kỳ hào ra khỏi những chức vụ quan trọng (“trí, phú, địa, hào, đào tận gốc,
trốc tận rễ”).
* Ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của cao trào cách mạng 1930-1931:
- Cao trào cách mạng 1930-1931 đã tạo lập được khối liên minh công nông, đạo quân
chủ lực của cách mạng.
- Cao trào đã khẳng định đường lối cách mạng đúng đắn do Đảng ta đề ra. Con đường
cứu nước không thể là con đường nào khác ngoài chủ nghĩa Marx-Lenin do Đảng lãnh
đạo.
- Giai cấp công nhân đã thực hiện quyền lãnh đạo đối với cách mạng dân tộc dân chủ
thông qua Đảng tiên phong của mình.
- Đây là cuộc tổng diễn tập thứ nhất của Đảng ta và quần chúng cách mạng về khởi
nghĩa giành chính quyền. Cao trào 1930-1931 đã “rèn luyện lực lượng cho cuộc Cách
mạng Tháng Tám thắng lợi sau này”.
- Đảng ta sau cao trào đã được công nhận là một bộ phận độc lập của Quốc tế Cộng
sản.
- Một số bài học kinh nghiệm rút ra từ Cao trào 1930-1931:
+ Trong mỗi thời kỳ cách mạng, phải biết căn cứ vào tình hình thế giới và trong
nước, căn cứ thực tế lực lượng so sánh giữa cách mạng và phản cách mạng mà xác định
mục tiêu cụ thể, trước mắt.
+ Khi chưa có tình thế cách mạng trực tiếp, phải biết sử dụng những hình thức và
phương pháp cách mạng thích hợp để vận động nhân dân đấu tranh đòi quyền dân chủ,
dân sinh, chứ không phải là lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành chính quyền.
+ Vấn đề quan trọng hàng đầu là coi trọng việc làm cho đảng viên thấm nhuần lập
trường, quan điểm của giai cấp công nhân về chủ nghĩa Marx-Lenin, coi trọng nguyên tắc
tổ chức và phương thức làm việc của Đảng Marx-Lenin, khắc phục những khuynh hướng
“tả”, “hữu”, xa rời lập trường, quan điểm, nguyên tắc tổ chức và đường lối đúng đắn của
Đảng.
c. Cuộc đấu tranh khôi phục tổ chức và phong trào cách mạng, Đại hội đại biểu
lần thứ I của Đảng (tháng 3/1935)
Do bị tổn thất nặng nề, cách mạng Việt Nam bước vào một giai đoạn cực kỳ khó
khăn, gian khổ. Năm 1931, các đồng chí Trung ương bị địch bắt, trong đó có đồng chí
27
Trần Phú bị bắt tại Sài Gòn. Trong khi thực dân Pháp ngày càng khủng bố, đàn áp dữ dội,
tư tưởng hoang mang dao động xuất hiện trong quần chúng và một số đảng viên, nhưng
chỉ là số ít, “đa số đồng chí hết sức trung thành, hiến dâng cho Đảng đến giọt máu cuối
cùng”.
Ngày 11/4/1931, Quốc tế Cộng sản ra Nghị quyết công nhận Đảng Cộng sản Đông
Dương là chi bộ độc lập. Đó là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng.
Trong nhà tù đế quốc, các đảng viên của Đảng nêu cao khí tiết người Cộng sản như
các đồng chí Trần Phú, Nguyễn Đức Cảnh, Lý Tự Trọng… Nhiều đảng viên trong tù đã
bí mật thành lập nhiều chi bộ để lãnh đạo đấu tranh chống khủng bố, chống chế độ hà
khắc, đòi cải thiện sinh hoạt… Nhiều chi bộ nhà tù tổ chức huấn luyện, bồi dưỡng cho
đảng viên về lý luận Mác-Lênin, đường lối chính trị của Đảng, kinh nghiệm vận động
cách mạng, tổ chức học văn hóa, ngoại ngữ… Nhiều tài liệu huấn luyện đảng viên được
biên soạn ngay trong tù.
Ngày 06/6/1931, Nguyễn Ái Quốc bị chính quyền Anh ở Hồng Kông bắt giam. Đầu
năm 1934, sau khi ra tù, Người trở lại làm việc tại Quốc tế III (Moscow, Liên Xô).
Đầu năm 1932, theo chỉ thị của Quốc tế III, Lê Hồng Phong cùng một số đồng chí
công bố Chương trình hành độn của Đảng Cộng sản Đông Dương và các chương trình
hành động của Công hội, Nông hội, Thanh niên Cộng sản đoàn…
Tháng 3/1933, đồng chí Hà Huy Tập đã xuất bản Sơ thảo lịch sử phong trào cộng sản
Đông Dương, bước đầu tổng kết kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng, khẳng định công lao và
sáng kiến của đồng chí Nguyễn Ái Quốc là người sáng lập Đảng.
Đầu năm 1934, theo sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng
CS Đông Dương được thành lập để lãnh đạo, chỉ đạo phong trào cách mạng trong nước
như chức năng, trách nhiệm của Ban Chấp hành Trung ương.
Đầu năm 1935, hệ thống tổ chức của Đảng được phục hồi. Đó là cơ sở để tiến tới Đại
hội lần thứ nhất của Đảng.
* Đại hội họp từ ngày 27 đến 31/31935 tại Ma Cao (Trung Quốc). Có 13 đại biểu
tham dự thay mặt cho 600 đảng viên ở trong và ngoài nước. Đồng chí Hà Huy Tập chủ trì
Đại hội I của Đảng.
- Đại hội đã thừa nhận những sai lầm của Luận cương chính trị tháng 10/1930 và
kiểm điểm phong trào cách mạng, công tác tổ chức và lãnh đạo của các cấp bộ Đảng
trong thời gian từ năm 1932 đến đầu năm 1935.
- Đại hội I khẳng định cuộc đấu tranh để khôi phục hệ thống tổ chức Đảng và phong
trào cách mạng đã giành được thắng lợi, tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế và chưa thật
thống nhất và còn thiếu chặt chẽ.
- Đảng đã nêu rõ ba nhiệm vụ trước mắt:

28
+ Một là, củng cố và phát triển Đảng, tăng cường lực lượng của Đảng ở các xí
nghiệp, nhà máy, đồn điền, hầm mỏ, đường giao thông quan trọng, đồng thời đưa nông
dân lao động và trí thức cách mạng đã qua thử thách vào Đảng. Thường xuyên những mặt
sai lầm nếu mắc phải, giữ vững kỷ luật, sự thống nhất về tư tưởng và hành động của
Đảng.
+ Hai là, đẩy mạnh vận động quần chúng, đấu tranh giành quyền lợi hằng ngày,
củng cố, phát triển các tổ chức quần chúng, mở rộng ảnh hưởng của Đảng trong quần
chúng.
+ Ba là, mở rộng tuyên truyền chống đế quốc, chống chiến tranh đế quốc, ủng hộ
Liên Xô, ủng hộ cách mạng Trung Quốc.
- Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 13 ủy viên. Đồng chí Lê
Hồng Phong được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
 Đại hội I đánh dấu thắng lợi của cuộc đấu tranh khôi phục hệ thống tổ chức của
Đảng và các tổ chức quần chúng cách mạng trong cả nước, chuẩn bị điều kiện cho Đảng
bước vào thời kỳ đấu tranh mới. Nhưng như Hồ Chí Minh sau này nói, Đại hội không sát
với phong trào cách mạng thế giới và trong nước lúc bấy giờ.
1.2.2. Phong trào Dân chủ 1936-1939
a. Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản
- Hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 đã làm cho mâu thuẫn xã hội ở
các nước tư bản chủ nghĩa thêm sâu sắc. Các đế quốc Đức, Ý, Nhật thiết lập chế độ phát-
xít, chuẩn bị chiến tranh để chia lại thế giới và từ năm 1935 tiến hành xâm lược một số
nước.
 Mâu thuẫn giữa trục Đức, Ý, Nhật với Anh, Pháp, Mỹ trở nên gay gắt. Mâu
thuẫn giữa các nước đế quốc với Liên Xô cũng ngày càng sâu sắc.
 Phong trào đấu tranh chống phát-xít, chống chiến tranh nổi lên ở nhiều nước.
- Tháng 7/1935, Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản được triệu tập ở Moscow.
Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương do đồng chí Lê Hồng Phong dẫn đầu tham
dự Đại hội. Đồng chí Nguyễn Ái Quốc đang học tập và nghiên cứu ở Trường Quốc tế
Lenin ở Moscow cũng được mời dự đại hội.
- Đại hội xác định:
+ Kẻ thù trước mắt của nhân dân thế giới lúc này không phải là chủ nghĩa đế quốc
nói chung mà là chủ nghĩa phát-xít
+ Nhiệm vụ trước mắt của giai cấp công nhân chưa phải là đấu tranh đánh đổ toàn
bộ chủ nghĩa tư bản mà là đấu tranh chống chủ nghĩa phát-xít, chống chiến tranh, giành
dân chủ và hòa bình, bảo vệ Liên Xô.

29
+ Để thực hiện những nhiệm vụ ấy, cần thực hiện Mặt trận thống nhất của giai cấp
công nhân và thiết lập Mặt trận nhân dân rộng rãi chống phát-xít và chiến tranh, đòi tự
do, dân chủ, hòa bình và cải thiện đời sống.
- Đại hội VII đã bầu ra Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản dó đồng chí G. Dimitrov
làm Tổng Bí thư, đồng chí Lê Hồng Phong được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Quốc
tế Cộng sản.
b. Chủ trương mới của Đảng Cộng sản Đông Dương
- Thực hiện sự chuyển hướng về chiến lược cách mạng của Quốc tế Cộng sản, các
Đảng Cộng sản đã ra sức vận động thành lập Mặt trận nhân dân rộng rãi chống phát-xít.
 Ở Pháp, Mặt trận nhân dân chống phát-xít được thành lập do Đảng Cộng sản
Pháp làm nòng cốt đã giành thắng lợi trong cuộc tuyển cử tháng 4/1936, thành lập Chính
phủ Bình dân gồm những người thuộc Đảng Xã hội và Đảng Cấp tiến do lãnh tụ Đảng Xã
hội Leon Blum làm Thủ tướng.
 Đối với các nước thuộc địa, cương lĩnh của Mặt trận nhân dân Pháp đã nêu ra
việc: thả tù chính trị, cử các phái đoàn điều tra tình hình thuộc địa (trong đó có Đông
Dương), thi hành một số cải cách xã hội cho giới lao động.
- Đại hội lần thứ VII của Quốc tế III và Mặt trận nhân dân Pháp có ảnh hưởng sâu sắc
tới phong trào cách mạng ở Đông Dương. Do chính sách áp bức, bóc lột của thực dân
Pháp và do khủng hoảng kinh tế nặng nề, cuộc sống của các giai cấp và tầng lớp nhân
dân Việt Nam rất khó khăn.
 Nguyện vọng bức thiết của nhân dân là đòi được quyền sống, quyền tự do, dân
chủ, cơm áo, hòa bình.
- Quán triệt Nghị quyết Đại hội VII của Quốc tế III, đáp ứng nguyện vọng của các
tầng lớp nhân dân, căn cứ vào tình hình lực lượng so sánh giữa cách mạng và phản cách
mạng, tháng 7/1936, Ban lãnh đạo của Đảng họp tại Thượng Hải (Trung Quốc) đã kịp
thời chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, định ra đường lối, phương pháp tổ chức và đấu
tranh trong thời kỳ mới. Nội dung cơ bản của Nghị quyết Hội nghị được thể hiện trong tài
liệu Chung quanh vấn đề chính sách mới, xuất bản ngày 30/10/1936.
- Nội dung Hội nghị bao gồm:
+ Khẳng định mục tiêu chiến lược vẫn là chống đế quốc và phong kiến, giành độc
lập cho dân tộc và ruộng đất cho dân cày; song mục tiêu trước mắt là đấu tranh chống chế
độ phản động thuộc địa, chống phát-xít và chiến tranh, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa
bình.
+ Quyết định thành lập Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế, bao gồm các giai
cấp, đảng phái, dân tộc, đoàn thể chính trị, xã hội và tôn giáo khác nhau, với nòng cốt là
liên minh công-nông.

30
+ Nêu khẩu hiệu ủng hộ Mặt trận nhân dân Pháp để phối hợp với Đảng Cộng sản
và nhân dân lao động Pháp chống phát-xít và phản động thuộc địa; ủng hộ chính phủ
Leon Blum nhằm đòi thực hiện các yêu cầu dân chủ cho nhân dân Đông Dương.
+ Chủ trương chuyển hình thức tổ chức bí mật, không hợp pháp sang hình thức tổ
chức công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp nhằm tập hợp quần chúng rộng rãi, giáo dục
và lãnh đạo quần chúng đấu tranh. Để giữ vững sự lãnh đạo đối với các hình thức tổ chức
và đấu tranh công khai, hợp pháp, Đảng cần phải củng cố tổ chức bí mật của Đảng.
- Hội nghị tháng 7/1936 của Đảng đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa mục tiêu
chiến lược và mục tiêu cụ thể trước mắt của cách mạng, các mối quan hệ giữa liên minh
công nông và mặt trận đoàn kết dân tộc rộng rãi, giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp,
giữa phong trào cách mạng Đông Dương và phong trào cách mạng ở Pháp và trên thế
giới; đề ra cách hình thức tổ chức và đấu tranh linh hoạt thích hợp nhằm hướng dẫn quần
chúng đấu tranh giành quyền lợi hằng ngày.
 Hội nghị đã đánh dấu một bước trưởng thành của Đảng về chính trị và tư
tưởng, thể hiện bản lĩnh, tinh thần độc lập, sáng tạo của Đảng, mở ra một cao trào cách
mạng mới trong cả nước.
c. Phong trào dân chủ, dân sinh 1936-1939
- Mở đầu cao trào đấu tranh là phong trào Đại hội Đông Dương. Nhân cơ hội Quốc
hội Pháp quyết định cử phái đoàn điều tra sang Đông Dương, Đảng chủ trương vận động
và tổ chức nhân dân ở tất cả các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền, công sở, trường học, khu
phố, làng xã họp bàn về các yêu cầu tự do, dân chủ, dân sinh, thảo ra các bản dân nguyện
để gửi cho phái đoàn điều tra Pháp; tiến tới tổ chức Đông Dương Đại hội.
- Nội dung các quyền tự do, dân chủ chủ yếu như:
+ Quyền tự do ngôn luận, hội họp, tổ chức và đi lại.
+ Trả tự do cho các tù chính trị.
+ Thực hành luật lao động ngày làm 8 giờ và định lương tối thiểu, bỏ thuế thân và
giảm các thuế khác.
+ Bắt buộc học tiếng Việt tại các trường.
+ Thực hiện nam nữ bình đẳng.
- Đảng kêu gọi thành lập các ủy ban hành động từ thành thị đến nông thôn để vận
động quần chúng bầu cử đại biểu tham dự Đại hội Đông Dương. Tháng 8/1936, Ủy ban
trù bị Đại hội Đông Dương được thành lập.
- Thực dân Pháp đã sử dụng nhiều thủ đoạn để đối phó với phong trào như:
+ Cho những đại diện của tư sản, địa chủ, trí thức tổ chức các cuộc họp để thảo ra
các bản “dân nguyện” theo chỉ đạo của chúng nhằm hạn chế phong trào đấu tranh của
quần chúng lao động song thủ đoạn đó đã bị vạch trần và thất bại.

31
+ Đàn áp, ra lệnh giải tán các ủy ban hành động, cấm tất cả các cuộc họp của nhân
dân, cho tay sai xuyên tạc chủ trương của Đảng Cộng sản Đông Dương, vu cáo những
người cộng sản.
- Do sức mạnh đấu tranh của quần chúng, tháng 10/1936, thực dân Pháp phải đưa ra
một số quy định về quyền lợi cho công nhân và lao động làm thuê như: ngày làm 8 giờ,
nghỉ ngày chủ nhật và hằng năm nghỉ 10 ngày có lương, thi hành một phần việc ân xá tù
chính trị, phần lớn là đảng viên cộng sản ra khỏi nhà tù đế quốc. Đó là một thắng lợi lớn
của Đảng, của cách mạng.
- Phong trào đấu tranh của công nhân, nông dân và nhân dân lao động tiếp tục phát
triển. Tiêu biểu là cuộc tổng bãi công của hơn 30000 công nhân mỏ than Hòn Gai tháng
11/1936.
- Đầu năm 1937, nhân dịp phái viên của Chính phủ Pháp là Justin Godart sang điều
tra tình hình Đông Dương và tiếp đó là Jules Brévié sang nhận chức Toàn quyền, Đảng
đã vận động và tổ chức quần chúng biểu dương lực lượng bằng cách đi đón và đưa yêu
sách về dân sinh, dân chủ cho Chính phủ Pháp.
* Đẩy mạnh cuộc đấu tranh công khai hợp pháp trên báo chí và nghị trường
- Tháng 3/1937, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp và nhận định: phong trào dân
chủ phát triển mạnh, ảnh hưởng của Đảng lan rộng, tổ chức của Đảng và các hội quần
chúng phát triển; song công tác tổ chức của Đảng còn nhiều thiếu sót, cơ sở Đảng còn
yếu ở nhiều nơi, nhất là ở nông thông và ở các nơi tập trung công nhân.
- Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế đổi thành Mặt trận dân chủ Đông Dương;
Đoàn Thanh niên phản đế đổi thành Thanh niên Cộng sản đoàn; Hội cứu tế bình dân đổi
thành Cứu tế đỏ; Công hội đỏ, Nông hội đỏ đổi thành Công hội, Nông hội. Các hội quần
chúng công khai và nửa công khai được mở rộng như ái hữu, tương tế, âm nhạc, thể thao,
hội cấy, hội gặt; Ủy ban vận động binh lính được thành lập.
- Về công tác xây dựng Đảng, phải coi trọng chất lượng hơn số lượng, tập trung ở
thành thị, khu công nghiệp, các vùng quan trọng về kinh tế.
- Trung ương Đảng còn chủ trương đẩy mạnh hoạt động báo chí công khai, tranh cử
và hoạt động ở các viện dân biểu.
+ Phong trào đấu tranh của quần chúng phát triển mạnh. Trong năm 1937, có gần
400 cuộc đấu tranh của công nhân. Năm 1938, có hơn 150 cuộc đấu tranh của nông dân
chống cướp ruộng đất, đòi chia lại ruộng đất công, giảm tô giảm tức…
+ Đẩy mạnh hoạt động báo chí công khai phục vụ cho đấu tranh cách mạng là một
hoạt động mới và nổi bật của Đảng. Hàng chục tờ báo của Đảng, của Mặt trận dân chủ và
các tổ chức quần chúng đã ra đời, tiêu biểu có tờ Tin tức, Dân chúng…
 Báo chí cách mạng có tính chiến đấu cao, vạch trần chính sách áp bức, bóc lột
của thực dân Pháp và tay sai, phản ánh những nguyện vọng của nhân dân lao động, tuyên
32
truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chống lại những thủ đoạn lừa bịp, chia rẽ của
chính quyền thực dân và tay sai.
+ Đảng ta còn cho xuất bản các cuốn sách chính trị để giới thiệu chủ nghĩa Marx-
Lenin và đường lối của Đảng như cuốn Chủ nghĩa Các Mác của Hải Triều, cuốn Vấn đề
dân cày của Qua Ninh và Vân Đình (tức Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp).
+ Một hoạt động công khai khác có ý nghĩa tập hợp quần chúng là phong trào
truyền bá quốc ngữ từ cuối năm 1937.
- Đảng lợi dụng khả năng hợp pháp để tham gia các cuộc tranh cử vào các Viện dân
biểu Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Hội đồng quản hạt Nam Kỳ.
 Nhằm mở rộng lực lượng của Mặt trận dân chủ, kết hợp đấu tranh của quần
chúng ở bên ngoài với đấu tranh tại nghị trường chống chính sách thuộc địa phản động
của Pháp, bênh vực quyền lợi của quần chúng.
 Năm 1937, hầu hết những người là trí thức, tư sản dân tộc, địa chủ tiến bộ do
Đảng vận động đã trúng cử vào Viện dân biểu Trung Kỳ.
- Đến những năm 1938-1939, nguy cơ của cuộc Thế chiến thứ hai đang đến gần, phát-
xít Nhật chuẩn bị nhảy vào Đông Dương.
 Chính phủ Pháp dần ngả sang phái hữu, bọn phản động thuộc địa ra sức đàn áp
phong trào cách mạng ở Đông Dương.
 Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 3/1938 xác định nhiệm vụ
trung tâm lúc này:
+ Thành lập Mặt trận dân chủ Đông Dương.
+ Đề ra những chủ trương cụ thể về vận động công nhân, nông dân, thanh niên,
phụ nữ, các tầng lớp tiểu tư sản thành thị và tư sản dân tộc, địa chủ nhỏ.
+ Đấu tranh chống tả khuynh, tư tưởng hẹp hòi đối với trí thức, tư sản dân tộc, địa
chủ nhỏ và chống hữu khuynh, coi thường phong trào đấu tranh của công nông.
+ Phải củng cố cơ sở Đảng đã có, phát triển cơ sở mới, đặc biệt chú trọng ở thành
phố, các vùng công nghiệp tập trung, đồn điền, củng cố các cơ quan lãnh đạo của Đảng
các cấp, giữ vững quan hệ giữa bộ phận bí mật với công khai.
+ Ra nghị quyết về chống bắt lính, cảnh giác với âm mưu của Nhật.
+ Hội nghị bầu đồng chí Nguyễn Văn Cừ làm Tổng Bí thư thay Hà Huy Tập.
- Năm 1938 và đầu năm 1939, phong trào đấu tranh của quần chúng tiếp tục phát
triển. Ngày Quốc tế lao động 1/5 lần đầu được tổ chức công khai, rầm rộ cả nước trong
năm 1938, đặc biệt là cuộc mít-tinh ở khu Đấu Xảo (Hà Nội) với số lượng 25000 người
tham gia. Mặt trận Dân chủ giành được thắng lợi trong bầu cử đấu tranh nghị trường ở
Viện dân biểu Bắc Kỳ.

33
- Đồng chí Nguyễn Ái Quốc khi trở lại Trung Quốc cuối năm 1938 làm nhiệm vụ do
Quốc tế Cộng sản phân công đã quan tâm truyền đạt những ý kiến về đường lối, chủ
trương của cách mạng cho Đảng ta trong tình hình mới này.
- Từ đầu năm 1939, phong trào Mặt trận nhân dân Pháp tan rã, Chính phủ Pháp dần
ngả sang phái hữu.
 Bọn phản động thuộc địa ở Đông Dương tăng cường bóc lột và đàn áp nhân
dân. Các cuộc đấu tranh của nhân dân lao động Việt Nam bị đàn áp dữ dội.
 Đảng ta kêu gọi đấu tranh chống khủng bố, đòi tự do, dân chủ… đề phòng họa
phát-xít đang đến gần.
 Tháng 7/1939, đồng chí Nguyễn Văn Cừ cho xuất bản tác phẩm Tự chỉ trích,
khẳng định đường lối chính trị của Đảng là đúng đắn, phân tích những khuyết điểm và rút
ra kinh nghiệm của Đảng trong lãnh đạo Mặt trận dân chủ.
- Tháng 9/1939, Thế chiến thứ hai bùng nổ. Chính quyền thực dân Pháp ở Đông
Dương đàn áp dữ dội các lực lượng cách mạng. Thời kỳ vận động dân chủ hoạt động hợp
pháp, nửa hợp pháp chấm dứt.
* Ý nghĩa của Cao trào vận động dân chủ 1936-1939
- Cao trào cách mạng 1936-1939 là một thắng lợi lớn của Đảng Cộng sản Đông
Dương. Qua cao trào này, Đảng được rèn luyện, trưởng thành trong việc lãnh đạo đấu
tranh hợp pháp và nửa hợp pháp kết hợp với bí mật, bất hợp pháp; lực lượng cách mạng
mở rộng và được thử thách.
 Là cuộc tổng diễn tập thứ hai cho Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
- Qua lãnh đạo cao trào cách mạng 1936-1939, Đảng có thêm những kinh nghiệm:
+ Xác định rõ kẻ thù và xác định mục tiêu đấu tranh trước mắt của cách mạng là
tập hợp đội quân chính trị quần chúng, chuẩn bị cho khởi nghĩa sau này.
+ Chủ trương xây dựng Mặt trận dân chủ hết sức rộng rãi là hình thức thích hợp
bảo đảm thực hiện mục tiêu trước mắt đã đề ra, đưa đến một cao trào mới.
+ Để lãnh đạo được mặt trận rộng rãi, Đảng phải giữ vững tính độc lập về chính trị
và tổ chức, dựa chắc vào lực lượng công nông làm nền tảng.
+ Giải quyết đúng các mối quan hệ mật thiết giữa mục tiêu đấu tranh với hình thức
và tổ chức đấu tranh; giữa các hình thức tổ chức và hoạt động công khai, hợp pháp với bí
mật, bất hợp pháp; vừa tập hợp đông đảo quần chúng, vừa chuẩn bị đề phòng khi kẻ thù
đàn áp, phải rút vào bí mật.
1.2.3. Phong trào giải phóng dân tộc, khởi nghĩa giành chính quyền 1939-1945
a. Chính sách thống trị thời chiến của Pháp-Nhật ở Đông Dương
- Ngày 1/9/1939, phát-xít Đức tấn công Ba Lan. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ.
+ Từ tháng 4/1940 đến đầu năm 1941, Đức đã chiếm đóng hầu hết các nước ở
Châu Âu, ngoại trừ nước Anh, Liên Xô và các quốc gia Bắc Âu trung lập.
34
+ Ở Châu Á, Nhật Bản mở rộng chiếm đóng Trung Quốc, tiến xuống Đông Nam
Á.
+ 22/6/1941, Đức tấn công Liên Xô.
+ 8/12/1941, Nhật tấn công bất ngờ Cảng Trân Châu ở quần đảo Hawaii của Hoa
Kỳ, chiến tranh lan sang Châu Á – Thái Bình Dương. Hoa Kỳ chính thức tham chiến,
đứng về phe Đồng minh (với Anh, Pháp, Liên Xô) chống lại phe phát-xít (Đức, Ý, Nhật).
- Quy luật lợi nhuận tối đa và sự phát triển không đồng đều của về kinh tế và chính trị
của chủ nghĩa tư bản đã dẫn đến cuộc chiến tranh giữa hai tập đoàn đế quốc nhằm giành
giật thị trường, nguồn nguyên liệu và chia lại thế giới.
 Nhưng khi Đức tấn công Liên Xô thì tính chất chiến tranh đế quốc chuyển
thành chiến tranh giữa các lực lượng dân chủ do Liên Xô và Hoa Kỳ làm trụ cột với phe
phát-xít do Đức cầm đầu.
- Thế chiến thứ hai đã ảnh hưởng mạnh mẽ và trực tiếp đến nước ta. Chính phủ phản
động Pháp thực hiện chính sách đàn áp các lực lượng cộng sản và tiến bộ ở trong nước và
thuộc địa.
+ Ở Đông Dương, thực dân Pháp điên cuồng tiến công Đảng Cộng sản Đông
Dương và các đoàn thể quần chúng do Đảng lãnh đạo.
+ Một số quyền tự do, dân chủ giành được trong thời kỳ 1936-1939 bị thủ tiêu.
+ Đồng chí Lê Hồng Phong bị bắt cuối tháng 9/1939. Nhiều cán bộ đảng viên bị
bắt giam tù đày.
+ Hàng vạn thanh niên bị bắt lính đưa sang Pháp.
+ Thực dân Pháp tăng thuế, trưng thu, trưng dụng các xí nghiệp tư nhân cho quốc
phòng, kiểm soát trực tiếp, gắt gao sản xuất và phân phối, xuất khẩu và nhập khẩu.
 Trừ bọn tay sai của Pháp, địa chủ lớn và tư sản mại bản, tất cả các giai cấp và
tầng lớp trong xã hội Việt Nam đều bị ảnh hưởng tai hại bởi chính sách phản động của đế
quốc Pháp.
b. Chủ trương chiến lược mới của Đảng
- Do sớm dự báo được Thế chiến thứ hai sẽ nổ ra nên Đảng ta không bị bất ngờ về
cuộc chiến tranh này. Trong thời kỳ 1936-1939, Đảng đã có một số chủ trương, hoạt
động thích hợp khi chiến tranh bùng nổ.
- Cuối tháng 9/1939, Trung ương Đảng đã chỉ thị cho toàn Đảng kịp thời chuyển
hướng, rút vào hoạt động bí mật.
- Đầu tháng 11/1939, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp tại Bà Điểm, Gia
Định, có các đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Lê Duẩn, Phan Đăng Lưu… tham dự.
+ Hội nghị nhận định chế độ cai trị ở Đông Dương đã trở thành chế độ phát-xít
quân phiệt tàn bạo.

35
+ Mâu thuẫn chủ yếu, gay gắt nhất là mâu thuẫn giữa đế quốc và các dân tộc Đông
Dương.
+ Đảng dự báo Nhật sẽ vào Đông Dương và Pháp sẽ đầu hàng Nhật.
+ Hội nghị xác định mục tiêu trước mắt là đánh đổ đế quốc và tay sai, giải phóng
Đông Dương, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập.
+ Chủ trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, chỉ tịch thu ruộng đất của
đế quốc và địa chủ phản động, chống tô cao, chống lãi nặng; thay khẩu hiệu thành lập
chính quyền Soviet công nông binh bằng khẩu hiệu lập Chính phủ cộng hòa dân chủ.
+ Quyết định thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương bao gồm
lực lượng chính là công nhân, nông dân, đoàn kết với tiểu tư sản thành thị và nông thôn,
đồng minh hoặc trung lập tạm thời với giai cấp tư sản bản xứ, trung và tiểu địa chủ.
+ Về phương pháp cách mạng, Hội nghị nêu ra một số chuyển hướng về tổ chức,
xây dựng các đoàn thể quần chúng bí mật, hướng các cuộc đấu tranh của quần chúng vào
đế quốc và tay sai, “dự bị những điều kiện bước tới bạo động làm cách mệnh giải phóng
dân tộc”.
 Hội nghị Trung ương Đảng tháng 11/1939 đã phát huy tinh thần sáng tạo, kịp
thời nêu ra mục tiêu chiến lược tập trung mũi nhọn của cách mạng vào đế quốc và tay sai,
chuẩn bị những điều kiện giành chính quyền, đánh dấu bước chuyển hướng quan trọng về
chỉ đạo chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ.
c. Lãnh đạo phong trào chống Pháp-Nhật, chuẩn bị lực lượng cho cuộc khởi nghĩa vũ
trang 1940-1945
- Lợi dụng Pháp thua Đức ở châu Âu, ngày 22/9/1940, quân đội Nhật Bản tiến vào
Lạng Sơn và đổ bộ vào Hải Phòng.
 23/9/1940, tại Hà Nội, Pháp ký hiệp định đầu hàng Nhật.
 Nhân dân ta từ đây chịu cảnh một cổ hai tròng: đế quốc-phát xít.
- Khi Nhật tiến vào Lạng Sơn, quân Pháp rút chạy qua đường Bắc Sơn về Thái
Nguyên. Chính quyền địch ở vùng này tan rã.
 Đêm 27/9/1940, dưới sự lãnh đạo của đảng bộ địa phương, nhân dân Bắc Sơn
đã nổi dậy chiếm đồn Mỏ Nhài, làm chủ châu lỵ và các vùng trong châu. Đội du kích Bắc
Sơn được thành lập. Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn nhanh chóng giành được thắng lợi, nhưng
sau đó nhanh chóng bị đàn áp. Tuy vậy, cuộc khởi nghĩa có ý nghĩa lịch sử vô cùng lớn:
Mở đầu thời kỳ cách mạng nước ta kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị
đánh đổ chính quyền đế quốc, phong kiến, giành độc lập, tự do.
* Đầu tháng 11/1940, Hội nghị Trung ương Đảng họp tại Đình Bảng (Bắc Ninh) có
các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt tham dự.
+ Hội nghị khẳng định sự đúng đắn của chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến
lược của Hội nghị Trung ương Đảng tháng 11/1939.
36
+ Xác định kẻ thù chính của cách mạng lúc này là phát-xít Pháp-Nhật.
+ Cử ra Ban Chấp hành Trung ương lâm thời, phân công Trường Chinh làm quyền
Bí thư Trung ương Đảng, quyết định hai vấn đề cấp bách:
+ Một là, duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn, thành lập những đội du kích. phát
triển cơ sở cách mạng, tiến tới lập căn cứ địa du kích, lấy Bắc Sơn-Vũ Nhai làm trung
tâm.
+ Hai là, chỉ thị cho Xứ ủy Nam Kỳ hoãn ngay cuộc khởi nghĩa vì chưa đủ điều
kiện bảo đảm cho khởi nghĩa thành công.
- Tuy nhiên, cuối cùng cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ vẫn nổ ra vào 23/11/1940. Chính
quyền cách mạng được thành lập, thực hiện một số cải cách dân chủ, dân sinh. Lần đầu
tiên, cờ đỏ sao vàng xuất hiện. Cuộc khởi nghĩa bị Pháp đàn áp dã man, gần 6000 người
bị bắt, giết. Một số đồng chí lãnh đạo của Đảng như Nguyễn Thị Minh Khai, Phan Đăng
Lưu bị bắt, xử bắn trước khởi nghĩa.
- Ngày 13/1/1941, binh lính yêu nước dưới sự chỉ huy của Nguyễn Văn Cung (tức Đội
Cung) đã nổi dậy đánh chiếm đồn Chợ Rạng (Thanh Chương), kéo về Đô Lương rồi tiến
về Vinh (Nghệ An). Cuộc khởi nghĩa nhanh chóng bị dập tắt.
 Ba cuộc khởi nghĩa nổ ra ở ba miền tuy thất bại nhưng “đó là những tiếng súng báo
hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đầu đấu tranh bằng vũ lực của các dân tộc
Đông Dương”. Kinh nghiệm lớn nhất của các cuộc khởi nghĩa là muốn thành công phải
có đủ điều kiện khách quan và chủ quan chín muồi, trên cơ sở cuộc khủng hoảng chính
trị, kinh tế diễn ra trong bộ máy thống trị của chủ nghĩa đế quốc và dựa vào cao trào cách
mạng đã dâng lên trong cả nước.
* Ngày 28/1/1941, Nguyễn Ái Quốc trở về Tổ quốc và 8/2/1941, Người tới Pác Bó
(Cao Bằng). Từ ngày 10 đến 19/5/1941, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã
họp tại Pác Bó do Nguyễn Ái Quốc chủ trì.
+ Hội nghị khẳng định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng là giải phóng
dân tộc.
+ Khẳng định sự đúng đắn của chủ trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất
của Hội nghị Trung ương tháng 11/1939, tập trung mũi nhọn chống đế quốc và tay sai
giành độc lập dân tộc, đồng thời nêu khẩu hiệu giảm tô, giảm tức, chia lại ruộng công,
tiến tới thực hiện người cày có ruộng.
+ Chủ trương thành lập Chính phủ nhân dân của nước Việt Nam Dân chủ Công
hòa.
+ Quyết định thay tên các Hội phản đế thành Hội cứu quốc.
+ Thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh thay cho
Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương và giúp đỡ việc lập mặt trận ở các
nước Lào, Campuchia.
37
+ Xác định hình thái của khởi nghĩa ở nước ta là đi từ khởi nghĩa từng phần tiến
lên tổng khởi nghĩa và kết luận: chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của toàn
Đảng, toàn dân.
+ Dự báo cuộc chiến tranh thế giới thứ hai lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ
nghĩa, do đó cách mạng nhiều nước mới thành công.
+ Đặc biệt nhấn mạnh công tác xây dựng Đảng nhằm làm cho Đảng đủ năng lực
lãnh đạo cuộc cách mạng Đông Dương đi đến thắng lợi; chủ trương gấp rút đào tạo cán
bộ; tăng thành phần vô sản trong Đảng.
+ Hội nghị cử ra Ban Chấp hành Trung ương chính thức, bầu Trường Chinh làm
Tổng Bí thư.
 Hội nghị Trung ương Đảng tháng 5/1941 có ý nghĩa lịch sử to lớn. Hội nghị đã
hoàn chỉnh việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược nhằm giải quyết mục tiêu số 1 của cách
mạng là độc lập dân tộc. Nghị quyết của Hội nghị có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi
của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
* Xây dựng lực lượng chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền:
- Ngày 6/6/1941, Nguyễn Ái Quốc gửi thư kêu gọi toàn dân đoàn kết đánh đuổi Nhật-
Pháp.
- Cuối tháng 10/1941, Việt Minh công bố Tuyên ngôn, Chương trình và Điều lệ. Các
hội Công nhân cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Thanh niên cứu quốc,
Tự vệ cứu quốc… đã được thành lập ở nhiều tỉnh thành. Ở Cao Bằng, xuất hiện những
xã, tổng toàn dân tham gia Việt Minh.
- Đảng rất chú trọng xây dựng các khu an toàn và căn cứ địa, lập các đội tự vệ vũ
trang. Trung đội Cứu quốc quân hình thành từ khởi nghĩa Bắc Sơn.
- Thông qua Việt Minh, Đảng mở rộng các tổ chức quần chúng, lãnh đạo nhiều cuộc
đấu tranh của công nhân, nông dân, học sinh, tiểu thương…
- Tháng 8/1942, trên đường đi công tác ở Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc bị chính
quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam đến tháng 9/1943.
- Tháng 9/1943, Hội nghị đại biểu các đảng phái, các đoàn thể yêu nước của người
Việt Nam ở Trung Quốc được triệu tập và Hội giải phóng Việt Nam làm nòng cốt.
- Để xúc tiến cho công việc khởi nghĩa, cuối tháng 2/1943, Ban Thường vụ Trung
ương Đảng đã họp ở Võng La (Đông Anh, Phúc Yên).
+ Hội nghị chủ trương mở rộng Việt Minh, liên minh với tất cả các đảng phái, các
nhóm yêu nước trong và ngoài nước chưa gia nhập Việt Minh; đẩy mạnh công tác vận
động thanh niên, phụ nữ, dân tộc thiểu số và binh lính, tư sản và địa chủ yêu nước, lập
Hội Văn hóa cứu quốc.

38
+ Hội nghị vạch ra kế hoạch chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, phổ biến kinh nghiệm
khởi nghĩa, chiến thuật du kích, tổ chức huấn luyện các đội tự vệ, xây dựng lực lượng
cách mạng ở thành thị…
- Trên cơ sở cao trào cách mạng của quần chúng, từ hai căn cứ địa trung tâm Cao
Bằng và Bắc Sơn-Vũ Nhai, nhiều căn cứ địa liên hoàn đã hình thành nối liền Cao Bằng
với Lạng Sơn, Thái Nguyên, Bắc Cạn, Hà Giang, Bắc Giang, Vĩnh Yên… Nhiều đội du
kích thoát ly ra đời.
- Trên mặt trận văn hóa và tư tưởng, Đảng ta cũng thu được nhiều thành tựu.
+ Nhiều sách báo của Đảng và Việt Minh được xuất bản.
+ Năm 1943, Đảng đưa ra Đề cương văn hóa Việt Nam, xây dựng nền văn hóa dân
tộc, khoa học, đại chúng.
+ Hội văn hóa cứu quốc (thành viên của Việt Minh) ra đời.
+ Tháng 6/1944, Đảng Dân chủ Việt Nam được thành lập, nhằm tập hợp trí thức
yêu nước và tư sản tiến bộ và gia nhập Mặt trận Việt Minh.
- Đầu tháng 5/1944, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị “Sửa soạn khởi nghĩa”. Cuối năm
1944, phong trào cách mạng sôi sục ở nhiều địa phương. Ở các căn cứ địa cách mạng,
quần chúng đã sẵn sàng nổi dậy.
- Tháng 10/1944, từ Trung Quốc về tới Pác Bó, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã chủ trương
thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, tăng cường hoạt động vũ trang
tuyên truyền, đẩy mạnh xây dựng lực lượng chính trị, chuẩn bị cơ sở chính trị và quân sự
cho cuộc khởi nghĩa sau này.
 22/12/1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân do đồng chí Võ
Nguyên Giáp lãnh đạo được thành lập. Vài ngày sau, Đội đã đánh thắng hai trận đầu ở
Phay Khắt và Nà Ngần (Cao Bằng), cổ vũ mạnh mẽ phong trào đánh Nhật, đuổi Pháp.
d. Lãnh đạo Cao trào kháng Nhật cứu nước và Tổng khởi nghĩa giành chính quyền từ
tháng 3/1945 đến tháng 8/1945
- Đầu năm 1945, quân Đức bên bờ thất bại, quân Nhật ở tình thế khốn quẫn.
 Ở Đông Dương, mâu thuẫn Nhật-Pháp đã lên tới đỉnh cao giống như “cái nhọt
bọc sẽ phải vỡ mủ”. 8 giờ tối ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính lật đổ Pháp.
 Thực dân Pháp đầu hàng. Nhật giữ nguyên bộ máy cai trị của Pháp ở Đông
Dương để phục vụ cho chúng, chỉ quét thêm một lớp sơn độc lập giả hiệu cho chính phủ
bù nhìn Trần Trọng Kim.
* Ngay trong đêm 9/3, Hội nghị mở rộng của Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp ở
Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh) do đồng chí Trường Chinh chủ trì, nhận định rằng:
+ Sau đảo chính, phát-xít Nhật là kẻ thù chính, cụ thể, trước mắt của nhân dân
Đông Dương.

39
+ Khẩu hiệu Đánh đuổi phát-xít Nhật-Pháp được thay bằng khẩu hiệu Đánh đuổi
phát-xít Nhật.
+ Hội nghị chủ trương phát động một cao trào kháng Nhật, cứu nước mạnh mẽ
làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa. Các hình thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức và
đấu tranh cần phải thay đổi cho phù hợp với thời kỳ tiền khởi nghĩa: tuyên truyền xung
phong, biểu tình tuần hành, bãi công chính trị, biểu tình phá kho thóc của Nhật; tổ chức
các đội tự vệ cứu quốc, thành lập căn cứ địa mới, thống nhất các chiến khu và thành lập
Việt Nam giải phóng quân; thành lập Ủy ban nhân dân cách mạng ở những vùng du kích
hoạt động; sẵn sàng chuyển sang tổng khởi nghĩa khi có đủ điều kiện.
 Nội dung của Hội nghị được trình bày trong Chỉ thị Nhật-Pháp bắn nhau và
hành động của chúng ta (12/3/1945).
- Cao trào kháng Nhật cứu nước được phát động.
+ Phong trào đấu tranh vũ trang kết hợp với đấu tranh chính trị và khởi nghĩa từng
phần đã diễn ra rất sôi nổi ở thượng du, trung du miền Bắc.
+ Ở Việt Bắc, Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, Cứu quốc quân đã phối
hợp với nhân dân nổi dậy giải phóng hàng loạt châu, huyện, xã ở các tỉnh Cao-Bắc-Lạng,
Thái-Tuyên-Hà. Một số nơi đã thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng, các đội du kích. Ở
Quảng Ngãi, đã nổ ra cuộc khởi nghĩa Ba Tơ, thành lập đội du kích Ba Tơ.
+ Hàng nghìn cán bộ cách mạng bị giam trong các nhà tù của thực dân Pháp đã
đấu tranh buộc địch phải trả lại tự do hoặc nổi dậy phá nhà giam, vượt ngục ra ngoài hoạt
động, tham gia lãnh đạo phong trào kháng Nhật, cứu nước.
- Do chính sách vơ vét, bóc lột của Nhật-Pháp, nạn đói xảy ra nghiệm trọng ở các tỉnh
phía Bắc. Hai triệu người Việt Nam bị chết đói. Đảng đã kịp thời đề ra khẩu hiệu “phá
kho thóc, giải quyết nạn đói” và coi đó là khẩu hiệu chính để phát động phong trào kháng
Nhật, cứu nước.
 Cuộc đấu tranh đã diễn ra khắp nơi, đưa hàng triệu người đi từ đấu tranh cho
quyền lợi kinh tế hằng ngày đến giác ngộ chính trị khởi nghĩa giành chính quyền.
- Ngày 15/4/1945, Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ do Ban Thường vụ Trung
ương Đảng triệu tập đã họp ở Hiệp Hòa (Bắc Giang)
+ Hội nghị quyết định đặt nhiệm vụ quân sự lên hàng đầu, gấp rút chuẩn bị cho
tổng khởi nghĩa.
+ Thống nhất sáp nhập Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân,
lấy tên là Việt Nam giải phóng quân.
+ Quyết định xây dựng 7 chiến khu trong cả nước.
- Ngày 16/4/1945, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị tổ chức Ủy ban dân tộc giải phóng
các cấp, chuẩn bị thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nma, tức Chính phủ cách
mạng lâm thời.
40
- Đầu tháng 6/1945, Khu giải phóng Việt Bắc thành lập.
- Trong tháng 5 và tháng 6/1945, các cuộc khởi nghĩa từng phần liên tục nổ ra và
nhiều chiến khu được thành lập ở cả ba miền. Chính quyền nhân dân đã được thành lập
tại Khu giải phóng và một số địa phương.
 Cao trào kháng Nhật, cứu nước phát triển lên tới đỉnh cao sau khi Đức ký văn
bản đầu hàng Liên Xô và Đồng minh đầu tháng 5/1945 và Nhật đầu hàng giữa tháng
8/1945.
* Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945
- Từ ngày 13/8 đến ngày 15/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào.
+ Hội nghị nhận định: điều kiện khởi nghĩa đã chín muồi và chủ trương lãnh đạo
toàn dân tổng khởi nghĩa giành chính quyền trước khi quân Đồng minh kéo vào Đông
Dương.
+ Cử ra Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc do đồng chí Trường Chinh phụ trách.
+ Đề ra đường lối đối nội, đối ngoại trong tình hình mớ và kiện toàn Ban Chấp
hành Trung ương.
 Đêm 13/8, Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc ra lệnh tổng khởi nghĩa.
- Ngày 16/8, tại Tân Trào, Đại hội quốc dân họp, nhiệt liệt tán thành chủ trương tổng
khởi nghĩa của Đảng và 10 chính sách của Việt Minh: quyết định thành lập Ủy ban giải
phóng dân tộc Việt Nam tức Chính phủ lâm thời do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
- Ngay sau Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả
nước: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng
dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
- Dưới sự lãnh đạo của Đảng, từ ngày 14/8, các đơn vị giải phóng quân đã liên tiếp hạ
nhiều đồn Nhật ở các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái.
Ngày 18/8, nhân dân các tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, Phúc Yên, Thái Bình, Thanh Hóa,
Hà Tĩnh, Quảng Nam, Khánh Hòa giành được chính quyền.
- Tại Hà Nội, sáng ngày 19/8, hàng chục vạn quần chúng nội ngoại thành đã tiến về
Quảng trường Nhà hát thành phố dự cuộc mitstinh do Việt Minh tổ chức, hô vang các
khẩu hiệu cách mạng. Sau cuộc mitstinh, quần chúng xuống đường biểu tình vũ trang,
tiến về các ngả đường đánh chiếm các cơ quan của chính quyền bù nhìn như Phủ khâm
sai, Tòa thị chính, Trại lính bảo an, Sở cảnh sát.
 Chính quyền bù nhìn nhanh chóng đầu hàng và buộc quân Nhật phải để cho
nhân dân giành quyền làm chủ toàn bộ thành phố.
 Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội có ý nghĩa quyết định đối với cả nước,
làm cho chính quyền tay sai Nhật các nơi bị tê liệt, cổ vũ và thúc đẩy mạnh mẽ các tỉnh
và thành phố khác nổi dậy giành chính quyền, nhất là Huế và Sài Gòn.

41
- Ngày 23/8, khởi nghĩa ở Huế thành công, buộc vua Bảo Đại phải thoái vị. Chiều
ngày 30/8, trước cửa Ngọ Môn, Bảo Đại đọc lời thoái vị, nộp ấn kiếm cho cách mạng.
Đại diện Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố xóa bỏ chế độ quân
chủ ở Việt Nam.
- Ngày 25/8, khởi nghĩa thành công ở Sài Gòn.
 Cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 đã thành công trên cả nước trong
vòng nửa tháng.
- Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt
cho Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập lịch sử, khai sinh ra nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa độc lập, tự do.
1.2.4. Tính chất, ý nghĩa và kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám 1945
a. Tính chất:
- Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là “một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mang
tính chất dân chủ mới. Nó là một bộ phận khăng khít của cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân Việt Nam”.
- Đây là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc điển hình, thể hiện:
+ Tập trung hoàn thành nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng giải phóng dân tộc, tập
trung giải quyết mâu thuẫn chủ yếu của xã hội VN là mâu thuãn giữa toàn thể dân tộc với
đế quốc xâm lược và tay sai.
+ Lực lượng cách mạng bao gồm toàn dân tộc, đoàn kết trong mặt trận Việt Minh.
+ Thành lập chính quyền nhà nước “của chung toàn dân tộc” theo chủ trương của
Đảng với hình thức cộng hòa dân chủ, trừ tay sai của đế quốc và những kẻ phản quốc.
- Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một bộ phận của phe dân chủ chống phát xít.
- Cách mạng đã giải quyết một số quyền lợi cho nông dân, lực lượng đông đảo nhất
của dân tộc.
- Cách mạng đã xây dựng nhà nước DCND đầu tiên ở VN, xóa bỏ chế độ quân chủ
phong kiến. Nhân dân ta được hưởng quyền tự do, dân chủ.
- Cách mạng Tháng Tám năm 1945 có tính chất dân chủ nhưng chưa đầy đủ, sâu sắc.
- Mang đậm tính nhân văn, hoàn thành một bước cơ bản trong sự nghiệp giải phóng
con người ở VN khỏi áp bức dân tộc, bóc lột giai cấp và nô dịch tinh thần.
b. Ý nghĩa lịch sử:
- Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, Cách mạng Tháng Tám là một
trong những trang sử vẻ vang nhất, chói lọi nhất, là một trong những bước ngoặt vĩ đại
nhất.
 Đập tan ách phát-xít Nhật trong 5 năm, ách thống trị của thực dân Pháp trong
87 năm, lật đổ chế độ phong kiến mấy nghìn năm, đưa dân tộc Việt Nam vào kỷ nguyên
mới, kỷ nguyên độc lập tự do do nhân dân làm chủ đất nước.
42
Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành
người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Đảng ta từ một đảng hoạt động
không hợp pháp trở thành một đảng lãnh đạo chính quyền trong cả nước.
- Cách mạng Tháng Tám đã tạo ra những kinh nghiệm quý báu đóng góp vào kho
tàng lý luận cách mạng dân tộc dân chủ ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, tạo ra thế
và lực mới cho cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ sau này.
- Thắng lợi này đã chứng tỏ rằng, trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân ở một nước thuộc địa, do toàn dân thực hiện, dưới sự lãnh đạo của một
Đảng Cộng sản, có đường lối đúng đắn có thể giành thắng lợi.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá: Đây là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của
các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng
thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc.
- Thắng lợi to lớn này là kết quả tổng hợp của những nhân tố bên trong (lực lượng
toàn dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo) và nhân tố bên ngoài (thắng lợi của Liên Xô và
Đồng minh đánh bại phe phát-xít Đức-Ý-Nhật); là kết quả của ba cao trào cách mạng.
c. Kinh nghiệm lịch sử:
- Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế quốc
và chống phong kiến.
+ Ngay từ khi Đảng ra đời, Nguyễn Ái Quốc đã xác định cách mạng nước ta trải
qua hai giai đoạn, trước hết là cách mạng dân tộc dân chủ, sau đó chuyển lên cách mạng
xã hội chủ nghĩa. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của đường lối gắn
liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
+ Trong cách mạng dân tộc dân chủ, nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong
kiến không thể tách rời nhau. Trải qua ba cao trào cách mạng, Đảng ta đã nhận thức sâu
sắc mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ đó và xác định rằng: Tuy hai nhiệm vụ không tách rời
nhau nhưng nhiệm vụ chống đế quốc là chủ yếu nhất, nhiệm vụ chống phong kiến phải
phục tùng nhiệm vụ chống đế quốc và phải thực hiện từng bước với những khẩu hiệu cụ
thể như: giảm tô, giảm tức, chia ruộng đất công, chia ruộng đất của bọn phản động cho
nông dân nghèo, tiến tới cải cách ruộng đất.
 Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của sự kết hợp đúng đắn hai
nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến.
- Toàn dân nổi dậy trên nền tảng khối liên minh công-nông.
+ Thắng lợi lịch sử này là nhờ cuộc đấu tranh yêu nước anh hùng của hơn 20 triệu
người Việt Nam với đạo quân chủ lực là liên minh công-nông dưới sự lãnh đạo của Đảng.
+ Liên minh công-nông được xây dựng, củng cố qua ba cao trào cách mạng và lớn
mạnh vượt bậc trong tổng khởi nghĩa. Dựa trên nền tảng đội quân chủ lực đó, Đảng xây

43
dựng được khối đại đoàn kết dân tộc, động viên toàn dân tổng khởi nghĩa giành chính
quyền.
- Lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù.
+ Đảng ta đã lợi dụng được mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa phát-
xít, mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và một bộ phận thế lực địa chủ phong kiến, mâu
thuẫn trong hàng ngũ tay sai của Pháp-Nhật.
+ Cô lập cao độ kẻ thù chính là đế quốc phát-xít và bọn tay sai phản động, tranh
thủ hoặc trung lập những phần tử lừng chừng.
 Nhờ vậy, Cách mạng Tháng Tám thắng lợi nhanh chóng, ít đổ máu.
- Kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và biết sử dụng bạo lực cách mạng một cách
thích hợp để đập tan bộ máy nhà nước cũ, lập ra bộ máy nhà nước của nhân dân.
+ Trong Cách mạng Tháng Tám, bạo lực cách mạng là sự kết hợp chặt chẽ giữa
lực lượng chính trị với lực lượng vũ trang; kết hợp nổi dậy của quần chúng với tiến công
của lực lượng vũ trang cách mạng ở cả nông thôn và thành thị, trong đó vai trò quyết định
là các cuộc tổng khởi nghĩa ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn.
+ Đây là kết quả của sự kết hợp tất cả các hình thức đấu tranh kinh tế và chính trị,
hợp pháp và không hợp pháp của quần chúng, từ thấp đến cao, từ một số địa phương rồi
lan ra cả nước, từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa, đập tan bộ máy thống
trị, lập ra nhà nước của nhân dân.
- Nắm vững nghệ thuật khởi nghĩa, nghệ thuật chọn đúng thời cơ.
+ Đảng ta coi khởi nghĩa là một nghệ thuật, vừa vận dụng nguyên lý của chủ nghĩa
Marx-Lenin và kinh nghiệm của cách mạng thế giới, vừa tổng kết những kinh nghiệm
của các cuộc khởi nghĩa ở nước ta.
+ Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám chứng tỏ Đảng ta đã chọn đúng thời cơ.
Đó là lúc chính quyền phát-xít Nhật ở Đông Dương hoang mang cực độ sau khi Nhật đầu
hàng và nhân dân ta không thể sống nghèo khổ như trước được nữa.
+ Đảng đã chuẩn bị sẵn sàng các mặt chủ trương, lực lượng và cao trào chống
Nhật, cứu nước làm điều kiện chủ quan cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả
nước.
- Xây dựng một Đảng Marx-Lenin đủ sức lãnh đạo tổng khởi nghĩa giành chính
quyền.
+ Đảng ta ngay từ đầu đã xác định đúng đường lối chiến lược và sách lược cách
mạng, không ngừng bổ sung và phát triển đường lối chiến lược và sách lược đó. Điều đó
đòi hỏi Đảng phải biết vận dụng sáng tạo nguyên lý của chủ nghĩa Marx-Lenin vào hoàn
cảnh cụ thể của nước ta, kịp thời tổng kết kinh nghiệm thực tiễn cách mạng.
+ Đảng ta rất coi trọng việc quán triệt đường lối chiến lược và sách lược, chủ
trương của Đảng trong đảng viên và quần chúng cách mạng, không ngừng đấu tranh và
44
khắc phục những khuynh hướng lệch lạc. Đảng chăm lo công tác tổ chức, cán bộ, giáo
dục rèn luyện cán bộ, đảng viên về ý chí bất khuất, phẩm chất chính trị và đạo đức cách
mạng, xây dựng Đảng vững mạnh và trong sạch. Đảng phát huy triệt để vai trò của Mặt
trận Việt Minh với hàng triệu hội viên và thông qua Mặt trận để lãnh đạo nhân dân đấu
tranh.
 Với những yếu tố trên và được tôi luyện qua 15 năm đấu tranh, mặc dù chỉ có
5000 đảng viên, Đảng đã lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám thành công.
----------------------------------------------------------
Câu hỏi thảo luận/Nội dung ôn tập
* Câu hỏi thảo luận: Có ý kiến cho rằng: Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm
1945 là một sự ăn may. Anh (chị) có nhận định gì về ý kiến trên?
* Nội dung ôn tập:
1. Phân tích những điều kiện cần thiết dẫn tới thành lập ĐCSVN tháng 02/1930.
2. Nội dung cơ bản và ý nghĩa lịch sử của Cương lĩnh chính trị đầu tiên được Hội nghị
thành lập Đảng thông qua.
3. Vai trò lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc 1930-1945.
4. Đặc điểm, tính chất, kinh nghiệm và ý nghĩa lịch sử của cuộc Cách mạng Tháng Tám
năm 1945.

45
Chương 2
ĐẢNG LÃNH ĐẠO HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN, HOÀN THÀNH GIẢI PHÓNG
DÂN TỘC, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (1945-1975)
I. Mục tiêu
Về kiến thức: Cung cấp cho sinh viên những nội dung lịch sử cơ bản, hệ thống, khách
quan về sự lãnh đạo của Đảng đối với hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm thời kỳ
1945-1975.
Về tư tưởng: Giúp sinh viên có nhận thức đúng đắn thực tiễn lịch sử và những kinh
nghiệm rút ra từ quá trình Đảng lãnh đạo hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm thời kỳ
1945-1975, nâng cao niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và sức mạnh đoàn kết của toàn
dân trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Về kỹ năng: Trang bị cho sinh viên kỹ năng tìm chọn tài liệu nghiên cứu, năng lực
phân tích sự kiện, phương pháp đúc rút kinh nghiệm lịch sử về sự lãnh đạo kháng chiến
của Đảng và ý thức phê phán những nhận thức sai trái về lịch sử của Đảng.
II. Nội dung
2.1. Đảng lãnh đạo xây dựng, bảo vệ chính quyền Cách mạng và kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược (1945-1954)
2.1.1. Xây dựng và bảo vệ chính quyền Cách mạng 1945 – 1946
a. Hoàn cành lịch sử nước ta sau Cách mạng Tháng Tám 1945
- Sau Cách mạng Tháng Tám, chính quyền nhân dân mới được thành lập đã phải
đương đầu với những khó khắn, thử thách rất nghiêm trọng. Đất nước bị các thế lực đế
quốc phản động bao vây và tiến công.
+ Đầu tháng 9/1945, theo thỏa thuận của Đồng minh ở Hội nghị Postdam, Chính
phủ Trung Hoa dân quốc Tưởng Giới Thạch đưa 200000 quân vào phía Bắc vĩ tuyến 16
nước ta và Anh đưa quân vào phía Nam để tước vũ khí của quân đội Nhật Bản.
+ Từ 23/9/1945, quân Pháp núp sau quân Anh đã trắng trợn đánh chiếm Sài Gòn
rồi Nam Bộ hòng đặt trở lại sự thống trị của Pháp ở Việt Nam.
 Các thế lực đế quốc, phản động nước ngoài tuy theo đuổi lợi ích riêng và có
những thủ đoạn khác nhau, song đều có mục tiêu chung là tiêu diệt chính quyền nhân
dân, xóa bỏ thành quả của cuộc Cách mạng Tháng Tám ở Việt Nam.
+ Vừa đối phó với “giặc ngoài”, chính quyền nhân dân còn phải chống lại các tổ
chức phản động ở trong nước như “Việt Nam Quốc dân Đảng” (Việt Quốc), “Việt Nam
Cách mạng Đồng chí Hội” (Việt Cách), Đại Việt. Các tổ chức này dựa vào thế lực bên
ngoài để chống lại cách mạng nhằm xóa bỏ chính quyền cách mạng.
 Các đảng phái này đòi Chủ tịch Hồ Chí Minh và các bộ trưởng là đảng viên
cộng sản phải từ chức; lập chính quyền phản động ở Vĩnh Yên, Yên Bái, Móng Cái; dụ
dỗ, lôi kéo, mua chuộc nhân dân đi theo.
46
- Bên cạnh những thách thức về chính trị, quân sự, những khó khăn về kinh tế, xã hội
cũng là thách thức nặng nề đối với Đảng ta và chính quyền cách mạng.
+ Nạn đói ở miền Bắc do Pháp-Nhật gây ra chưa được khắc phục, 50% ruộng đất
bị bỏ hoang, 6 tỉnh Bắc Bộ bị lũ lụt, hạn hán nghiêm trọng.
+ Công nghiệp đình đốn, nhiều nhà máy chưa được hồi phục sản xuất.
+ Hàng hóa khan hiếm, giá cả tăng vọt, ngoại thương đình trệ.
+ Tình hình tài chính rất khó khăn, kho bạc chỉ còn 1,2 triệu đồng, trong đó quá
nửa là tiền rách, thuế chưa thu được.
+ Ngân hàng Đông Dương còn nằm trong tay tư bản Pháp. Quân Tưởng tung tiền
quốc tế, quan kim ra thị trường gây ra nhiều rối loạn.
+ 95% dân số không biết chữ, các tệ nạn xã hội mà chế độ cũ để lại còn rất nặng.
- Bên cạnh những khó khăn, thách thức cực kỳ to lớn mà nhân dân ta phải đối phó,
chúng ta cũng có những thuận lợi hết sức cơ bản:
+ Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội, các phong trào giải phóng dân tộc, dân chủ
và hòa bình trên thế giới sau chiến tranh có tác động cổ vũ cuộc đấu tranh của nhân dân
ta bảo vệ nên độc lập mới giành được và kiềm chế các thế lực đế quốc.
+ Liên Xô có uy tín quốc tế cao, có vai trò tham gia giải quyết các vấn đề quốc tế,
khôi phục đất nước nhanh chóng, đồng thời giúp đỡ một số nước Đông Âu xây dựng chế
độ dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội, giúp đỡ các phong trào giải phóng dân
tộc. Tuy nhiên, trong những năm đầu cách mạng thành công, chúng ta bị cách biệt với thế
giới bên ngoài cho nên chưa nhận được sự viện trợ trực tiếp từ Liên Xô và các nước xã
hội chủ nghĩa.
+ Thế mạnh và thuận lợi lớn nhất là nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành
người làm chủ đất nước. Toàn dân tin tưởng sâu sắc vào sự lãnh đạo của Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh, đoàn kết xung quanh Đảng, quyết tâm xây dựng, bảo vệ chính quyền
và chế độ mới, cuộc sống mới, quyết tâm chống xâm lược, bảo vệ nền độc lập, thống nhất
của Tổ quốc. Nhân dân ta có tình thần sáng tạo, dùng nhiều hình thức đấu tranh, nhiều
giải pháp để giữ vững độc lập, tự do.
+ Chính quyền nhân dân cách mạng đã có hệ thống từ Trung ương đến cơ sở do
Đảng lãnh đạ và được toàn dân ủng hộ.
+ Lực lượng vũ trang toàn dân bao gồm quân đội, dân quân, tự vệ và công an, mặc
dù còn nhiều thiếu thốn, khó khăn, nhưng họ đều xuất phát từ nhân dân, vì nhân dân mà
chiến đấu, được Đảng và Hồ Chủ tịch chăm lo xây dựng và lãnh đạo trực tiếp, có tinh
thần yêu nước và tinh thần chiến đấu.
+ Đảng ta từ hoạt động bí mật đã trở thành Đảng cầm quyền, có uy tín cao, có lãnh
tụ sáng suốt, được toàn dân tin tưởng, có hệ thống tổ chức trong toàn quốc, có đường lối,
phương pháp đúng đắn để lãnh đạo cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới.
47
 Với những khó khăn và thuận lợi như vậy, ta có thể thấy nước ta lâm vào tình
thế “ngàn cân treo sợi tóc”, chính quyền nhân dân có nguy cơ bị lật đổ, nền độc lập mới
giành được có thể bị mất nhưng nhưng toàn đảng, toàn dân, toàn quân sẵn sàng đương
đầu và trụ vững trong mọi khó khăn.
b. Chủ trương vừa kháng chiến vừa kiến quốc của Đảng:
- Ngày 3/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Hồ Chủ tịch đã
nêu ra sáu việc cấp bách:
+ Phát động chiến dịch tăng gia sản xuất để chống đói.
+ Mở phong trào chống nạn mù chữ.
+ Sớm tổ chức tổng tuyển cử.
+ Mở phong trào giáo dục cần kiệm, liêm chính.
+ Bỏ thuế thân, thuế chợ, thuế đò.
+ Tuyên bố tự do tín ngưỡng, lương giáo đoàn kết.
- Khi Pháp đánh chiếm Sài Gòn và Nam Bộ, Đảng ta đã phát động phong trào cả nước
ủng hộ đồng bào miền Nam kháng chiến.
- Ngày 25/11/1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị Kháng chiến kiến
quốc.
+ Chỉ thị nhận định những thay đổi căn bản của tình hình thế giới và trong nước
sau Thế chiến thứ hai.
+ Nêu rõ những thuận lợi cơ bản và những thử thách lớn của cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc mà nhân dân ta đang tiến hành.
+ Đánh giá các kẻ thủ, chỉ rõ kẻ thù chính là thực dân Pháp xâm lược.
+ Nêu rõ nhiệm vụ trước mắt chủ yếu là củng cố chính quyền, chống Pháp xâm
lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân.
+ Đề ra công tác trên các mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, ngoại giao, xây
dựng Đảng, mở rộng Mặt trận Việt Minh và Mặt trận thống nhất Việt-Lào-Miên chống
Pháp xâm lược.
c. Xây dựng chế độ dân chủ cộng hòa và tổ chức kháng chiến ở miền Nam
* Xây dựng chế độ dân chủ cộng hòa
- Để sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc giành được thắng lợi, nhiệm vụ trung tâm là
củng cố chính quyền nhân dân.
+ Trong hoàn cành vô cùng phức tạp, cuộc tổng tuyển cử ngày 6/1/1946 đã diễn ra
thành công, bầu ra Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tổng tuyển
cử thắng lợi là một đòn mạnh đánh vào âm mưu chia rẻ, lật đổ, xâm lược của đế quốc và
tay sai, xác định quyền làm chủ của nhân dân.

48
+ Ngày 2/3/1946, Quốc hội khóa I họp kỳ đầu tiên, trao quyền cho Chủ tịch Hồ
Chí Minh lập Chính phủ chính thức, thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa.
- Đảng phát động phong trào tăng gia sản xuất, chống đói, chống nạn mù chữ.
+ Chính phủ ta cho mở lại các nhà máy do Nhật bỏ lại, tiến hành khai thác mỏ.
+ Cho tư nhân được góp vốn kinh doanh ở các xí nghiệp, khuyến khích giới công
thương lập hợp tác xã và hội cổ phần, tham gia kiến thiết nước nhà.
+ Ban hành chế độ ngày làm 8 giờ.
+ Tổ chức khuyến nông, sửa chữa đê điều, tiến hành tịch thu ruộng đất của đế
quốc và Việt gian chia cho nông dân nghèo, chia lại ruộng đất công cho cả nam và nữ,
giảm tô 25%, bãi bỏ thuế thân và các loại thuế vô lý khác.
+ Về tài chính, Chính phủ lập ngân hàng quốc gia, phát hành giấy bạc, tổ chức
tuần lễ vàng, lập ngân quỹ quốc gia, giáo dục, y tế, xây dựng đời sống mới. Đã có 2,5
triệu người biết chữ sau Cách mạng.
- Đảng ta rất coi trọng, quan tâm lãnh đạo việc xây dựng lực lượng vũ trang.
+ Chính phủ ra sắc lệnh giải tán hai đảng phản động Đại Việt Quốc gia Xã hội
Đảng và Đại Việt Quốc dân Đảng nhằm trấn áp bọn phản cách mạng.
+ Ra sắc lệnh an trí những người nguy hiểm chống chế độ mới, sắc lệnh lập toàn
án quân sự trừng trị bọn phản động.
- Đảng chỉ đạo tích cực phát triển các đoàn thể cứu quốc và thống nhất những tổ chức
ấy trong toàn quốc, sửa lại điều lệ các đoàn thể cứu quốc cho thích hợp với hoàn cảnh
mới, tổ chức thêm những đoàn thể cứu quốc mới. Đông đảo các trí thức, quan lại trong
chế độ cũ, các công, thương gia cũng hăng hái tham gia sự nghiệp kháng chiến, kiến
quốc.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã nhấn mạnh việc giữ gìn bộ máy nhà nước trong sạch
trong những ngày đầu Cách mạng thành công. Người chỉ rõ: “các cơ quan của Chính phủ
từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho
dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp,
Nhật”, Người còn nhấn mạnh: nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự
do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì.
d. Tổ chức kháng chiến ở miền Nam:
- Khi TD Pháp đánh chiếm Nam Bộ, Trung ương Đảng đã cử đồng chí Hoàng Quốc
Việt vào Nam để cùng Đảng bộ Nam Bộ chỉ đạo kháng chiến. Đảng bộ Nam Bộ đã có
những quyết định quan trọng lãnh đạo nhân dân kháng chiến, nắm chắc lực lượng vũ
trang, thành lập Ủy ban kháng chiến, tăng cường công tác trừ gian, xây dựng lại cơ sở
trong các đô thị bị tạm chiếm, phát triển chiến tranh nhân dân, khôi phục chính quyền
cách mạng những nơi bị tan rã.
49
- Đảng ta phát động phong trào cả nước ủng hộ cuộc kháng chiến của đồng bào Nam
Bộ. Trong một thời gian ngắn, hầu hết các tỉnh Bắc Bộ và Trung Bộ đã có những chi đội
(ngang với trung đoàn) Nam tiến, lên đường vào Nam giết giặc.
e. Thực hiện sách lược hòa hoãn, tranh thủ thời gian chuẩn bị toàn quốc kháng chiến
* Thực hiện sách lược hòa hoãn, nhân nhượng với quân Tưởng
- Đứng trước tình thế dân tộc ta phải đối phó với nhiều kẻ thù cùng một lúc, trong khi
sức mạnh quân sự, chính trị, kinh tế của chúng ta còn hạn chế, Đảng và Hồ Chủ tịch đã
xác định: quân Tưởng ra sức thực hiện âm mưu tiêu diệt Đảng ta, phá tan Việt Minh, lật
đổ chính quyền cách mạng song kẻ thù chính của nhân dân ta là thực dân Pháp xâm lược,
phải tập trung mũi nhọn đấu tranh vào chúng.
 Cho nên muốn tập trung lực lượng chống Pháp, cần phải nhân nhượng, hòa
hoãn với quân Tưởng để có thời gian xây dựng lực lượng về mọi mặt và chuẩn bị lực
lượng cho cuộc kháng chiến toàn quốc có thể xảy ra.
- Ngày 11/11/1945, Đảng ta đã tuyên bố tự giải tán nhưng sự thật là rút vào hoạt động
bí mật để làm mất mục tiêu quất rối của kẻ thù. Đảng vẫn lãnh đạo chính quyền và Mặt
trận Việt Minh.
- Đảng đánh giá quân Tưởng tuy đông nhưng có mâu thuẫn nội bộ và có nhiều khó
khăn khác. Quân Tưởng tuy không thể không hợp tác với chính quyền ta nhưng chúng
vẫn tìm mọi cách gây rối, khiêu khích, đòi đưa tay chân là các đảng phái phản động vào
chính quyền của ta.
 Trong quan hệ với quân Tưởng, Đảng nắm vững chủ trương “thêm bạn bớt
thù” trên cơ sở phát huy thực lực của ta.
- Chính quyền ta hợp tác tích cực với quân Tưởng trong việc giải giáp quân đội Nhật
và tự kiềm chế trước những hành động khiêu khích của quân Tưởng, tránh để xảy ra xung
đột về quân sự. Chính quyền và nhân dân ta tuy còn gặp muôn vàn khó khăn nhưng đã
cung cấp cho lương thực, thực phẩm cho 20 vạn quân Tưởng.
- Về chính trị, Đảng và Chính phủ ta đã có nhiều hành động đáp ứng những yêu cầu
của quân Tưởng:
+ Chủ động mở rộng thành phần Chính phủ lâm thời thành Chính phủ liên hiệp
lâm thời gồm 18 thành viên, trong đó có đại biểu của hai đảng Việt Quốc, Việt Cách.
+ Tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa I, đã chính thức thông qua Chính phủ liên
hiệp và chấp nhận 70 ghế trong Quốc hội của Việt Quốc, Việt Cách không qua bầu cử,
nâng tổng số đại biểu Quốc hội lên 403 người.
- Như vậy, Đảng và Hồ Chủ tịch đã có sự mềm dẻo về sách lược nhưng giữ vững
nguyên tắc:
+ Nắm chắc vai trò lãnh đạo của Đảng, giữ vững chính quyền cách mạng, giữ
vững mục tiêu độc lập, thống nhất đất nước, không để kẻ thù nắm quần chúng.
50
+ Trừng trị nghiêm khắc những tên đầu sỏ phản cách mạng.
 Sách lược trên đã làm thất bại âm mưu của quân Tưởng muốn tiêu diệt chính
quyền nhân dân, bảo đảm cho nhân dân ta tập trung sức kháng chiến chống xâm lược của
Pháp ở miền Nam. Chính quyền nhân dân không những được giữ vững mà còn được
củng cố về mọi mặt.
* Tạm hòa hoãn với thực dân Pháp, chuẩn bị kháng chiến toàn quốc
- Đầu năm 1946, Chính phủ mới ở Pháp đứng trước tình hình kiệt quệ về kinh tế,
không ổn định về chính trị. Ở Việt Nam, quân Pháp vấp phải sự kháng cự của nhân dân ta
ở miền Nam.
 Vì vậy, Chính phủ Pháp mưu tính kế hoạch mua bán quyền lợi với Anh, Mỹ và
Tưởng để được thay chân quân Anh ở miền Nam và đưa quân ra miền Bắc Việt Nam để
thay quân Tưởng.
- Ngày 28/2/1946, Hiệp ước Hoa-Pháp (còn gọi là Hiệp ước Trùng Khánh) được ký
kết.
+ Pháp nhân nhượng một số quyền lợi kinh tế cho chính quyền Tưởng ở Trung
Quốc để Pháp được đưa quân ra miền Bắc Việt Nam.
+ Tưởng nhân nhượng với Pháp để rút quân về nước đối phó với Quân giải phóng
nhân dân Trung Quốc.
- Trước tình hình có sự thay đổi đó, ngày 3/3/1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng
ra Chỉ thị Tình hình và chủ trương.
 Trung ương Đảng đề ra chủ trương mới: nhân nhượng, hòa hoãn với Pháp để
cho Pháp đưa quân vào miền Bắc nhằm đẩy nhanh quân Tưởng về nước, bớt đi một kẻ
thù nguy hiểm, tận dụng khả năng hòa bình để xây dựng lực lượng cách mạng về mọi
mặt, chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới.
Chỉ thị nêu rõ: “Vấn đề lúc này, không phải là muốn hay không muốn đánh. Vấn
đề là biết mình biết người, nhận một cách khách quan những điều kiện lời lãi trong nước
và ngoài nước mà chủ trương cho đúng”.4
Chỉ thị nhấn mạnh lập trường của Đảng ta: Nếu Pháp chỉ thừa nhận quyền tự trị
của Việt Nam thì nhất định đánh, nếu Pháp công nhận quyền tự chủ thì có thể hòa.
- Theo chủ trương mới của Đảng, ngày 6/3/1946, Chính phủ ta ký với đại diện Chính
phủ Pháp Hiệp định sơ bộ, quy định:
+ Chính phủ Pháp công nhân Việt Nam là một quốc gia tự do có nghị viện, chính
phủ, quân đội và tài chính riêng nằm trong Liên bang Đông Dương và Liên hiệp Pháp.
+ Việt Nam đồng ý cho 15000 quân Pháp vào miền Bắc thay thế quân Tưởng, sau
5 năm phải rút quân về nước.

41
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.8, tr. 43-44
51
+ Hai bên đình chỉ xung đột ở miền Nam để mở cuộc đàm phán đi đến ký kết hiệp
định chính thức.
- Ngày 9/3/1946, Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Hòa để tiến. Chỉ thị phân
tích chủ trương hòa hoãn với Pháp đề:
+ Tránh tình thế bất lợi: phải cô lập chiến đấu cùng một lúc với nhiều lực lượng
phản động, chúng sẽ đúc thành một khối và được bọn đế quốc Anh, Mỹ giúp sức để đánh
ta…
+ Bảo toàn thực lực giành lấy giây phút nghỉ ngơi và củng cố vị trí mới đã chiếm
được, chấn chỉnh đội ngũ cách mạng, bổ sung cán bộ, bồi dưỡng và củng cố phong trào.
Tóm lại để chuẩn bị đầy đủ, nhằm cơ hội tốt tiến lên giai đoạn cách mạng mới.
 Chỉ thị Tình hình và chủ trương và Chỉ thị Hòa để tiến là sự chuyển hướng chỉ
đạo chiến lược hết sức đúng đắn, nhạy bén phù hợp với sự chuyển biến của tình hình đất
nước, ứng phó kịp thời và có hiệu quả với âm mưu, thủ đoạn mới của kẻ thù.
* Tận dụng khả năng hòa hoãn, chuẩn bị lực lượng về mọi mặt cho cuộc kháng
chiến toàn quốc
- Tình hình đất nước sau Hiệp định sơ bộ còn nhiều phức tạp, đòi hỏi Đảng ta phải
lãnh đạo nhân dân thống nhất ý chí, hành động trên hai phương diện: đấu tranh ngoại
giao và đấu tranh chính trị với Pháp.
- Cuối tháng 3/1946, Chính phủ Pháp phải thỏa thuận: Quốc hội Việt Nam cử một
phái đoàn sang Pháp và Pháp cử một phái đoàn sang Việt Nam để chuẩn bị điều kiện cho
việc ký Hiệp định chính thức ở Paris.
- Ngày 19/4/1946, Hội nghị trù bị Đà Lạt được tiến hành để chuẩn bị cho cuộc đàm
phán chính thức tại Pháp. Hội nghị thảo luận ba vấn đề:
+ Những mối liên hệ ngoại giao của Việt Nam.
+ Chế độ tương lai của Đông Dương.
+ Quyền lợi văn hóa của người Pháp ở Việt Nam.
- Quan điểm của Đảng và nhân dân ta là:
+ Nước Việt Nam là một khối thống nhất không thể chia sẻ, ba kỳ phải theo chung
một chế độ cộng hòa dân chủ.
+ Nước Việt Nam là một nước tự chủ, có Chính phủ riêng tổ chức theo đúng Hiến
pháp, có nghị viện riêng, tổ chức theo lối phổ thông tuyển cử.
+ Có quân đội riêng dưới quyền chỉ huy của Bộ Tổng tư lệnh.
+ Có tài chính riêng, có ngân hàng quốc gia, có quyền phát hành giấy bạc, thuế
quan độc lập.
+ Có quyền ngoại giao trực tiếp với nước ngoài, gửi đại sứ hoặc lãnh sự đến các
nước khác và gia nhập Liên hợp quốc.

52
+ Quân đội Pháp ở Đông Dương trên vĩ tuyến 16 hay dưới vĩ tuyến 16 phải có giới
hạn về số lượng và sau 5 năm phải rút quân và chỉ được đóng ở một số hải cảng.
- Phía Pháp ngoan cố giữ lập trường thực dân nên Hội nghị trù bị Đà Lạt bế tắc.
- Từ 16/4 đến 16/5/1946, Đoàn đại biểu Việt Nam do Phạm Văn Đồng dẫn đầu đi
thăm nước Pháp.
- Ngày 31/5/2016, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi thăm chính thức nước Pháp theo lời mời
của Chính phủ Pháp.
- Cuộc đàm phán tại Fontainebleau từ 6/7 đến 10/9/1946 thất bại do thái độ ngoan cố
của Pháp.
- Để giành thêm thời gian xây dựng lực lượng chuẩn bị cho cuộc kháng chiến, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã ký với Pháp bản Tạm ước ngày 14/9/1946, thỏa thuận một số điều
về quan hệ kinh tế, văn hóa giữa hai nước, đình chỉ xung đột quân sự ở miền Nam Việt
Nam và sẽ tiếp tục đàm phán vào tháng 1/1947.
 Những hoạt động trên đất Pháp của đoàn đại biểu Việt Nam đã làm cho nhân
dân Pháp hiểu và ủng hộ nhân dân ta, làm cho dư luận quốc tế chú ý đến Việt Nam và
hiểu được nguyện vọng hòa bình tha thiết của ta.
- Tận dụng thời gian hòa hoãn, Đảng lãnh đạo nhân dân xây dựng và phát triển lực
lượng về mọi mặt, chủ động đối phó với khả năng chiến tranh xảy ra trên phạm vi cả
nước.
+ Về kinh tế: tiến hành đẩy mạnh sản xuất, tích trữ lương thực để chuẩn bị hậu
phương cho cuộc kháng chiến lâu dài.
+ Về quân sự: vũ trang toàn dân, xây dựng dân quân, tự vệ. Ngày 22/5/1946, Vệ
quốc đoàn chuyển thành Quân đội quốc gia Việt Nam. Cuối năm 1946, có 80000 bộ đội
thường trực, gần 1 triệu quân tự vệ.
+ Về chính trị: Đảng xúc tiến tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc. Tháng 5/1946,
Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Hội Liên Việt) ra đời, nòng cốt là Mặt trận
Việt Minh. Các đoàn thể quần chúng và đảng phái dân chủ cũng lần lượt ra đời: Tổng
Liên đoàn Lao động Việt Nam (5/1946), Đảng Xã hội Việt Nam (7/1946), Hội Liên hiệp
Phụ nữ Việt Nam (10/1946).
- Tại kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I (cuối tháng 10, đầu tháng 11/1946) đã ủy nhiệm
Chủ tịch Hồ Chí Minh thành lập Chính phủ mới và thông qua Hiến pháp đầu tiên của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
 Đây là bản Hiến pháp thật sự dân chủ, xác nhận quyền và nghĩa vụ làm chủ của
nhân dân.
- Cuối tháng 9/1946, quân Tưởng rút quân hết khỏi miền Bắc. Các đảng phái thân
Tưởng là Việt Quốc, Việt Cách tan rã hoặc chạy theo quân Tưởng sang Trung Quốc.
Trong khi đó, sau khi ký Tạm ước 14/9, quân Pháp vẫn ráo riết tiến công quân ta và
53
khủng bố nhân dân ta ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, tăng cường khiêu khích và lấn chiếm
ở miền Bắc.
- Ngày 5/11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết văn kiện quan trọng Công việc khẩn
cấp bây giờ.
- Ngày 20/11/1946, Pháp nổ súng tấn công chiềm đóng Hải Phòng, thị xã Lạng Sơn
và đổ bộ lên Đà Nẵng.
 Đây là khởi điểm của kế hoạch mở rộng quy mô chiến tranh xâm lược trên toàn
bộ đất nước ta và Đông Dương.
 Khả năng hòa hoãn và giải quyết cuộc chiến tranh bằng phương pháp hòa bình
không còn nữa, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng buộc phải cầm súng kháng chiến
chống xâm lược.
* Ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm:
- Phát huy quyền làm chủ đất nước của nhân dân, vượt qua tình thế “ngàn cân treo sợi
tóc” và giữ vững chính quyền nhân dân.
- Triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, chĩa mũi nhọn cách mạng vào kẻ
thù chính, hòa hoãn với kẻ thù có thể hòa hoãn.
- Tận dụng khả năng hòa hoãn để xây dựng lực lượng, củng cố chính quyền nhân dân,
sẵn sàng ứng phó với khả năng chiến tranh lan ra cả nước.
2.1.2. Đường lối kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược và quá
trình tổ chức thực hiện từ năm 1946 đến năm 1950
a. Phát động toàn quốc kháng chiến và đường lối kháng chiến của Đảng
- Ngày 17, 18/12/1946, tại Hà Nội, quân Pháp khiêu khích, tàn sát đồng bào ta ở các
phố Yên Ninh, Hàng Bún. Đại diện Chính phủ Pháp cắt đứt mọi liên hệ với Chính phủ ta.
Cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp đang lan rộng ra cả nước.
- Đêm 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.
- Nhân dân ta tiến hành kháng chiến trong những điều kiện vô cùng khó khăn:
+ Việt Nam vốn là một nước thuộc địa nửa phong kiến mới giành được độc lập,
đất không rộng, người không đông, nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, bị chiến tranh tàn
phá nặng nề, các nước đế quốc bao vây, đe dọa nền độc lập của đất nước.
+ Pháp là một nước đế quốc có nền kinh tế nông nghiệp phát triển, có một đội
quân chính quy, hiện đại, có kinh nghiệm chiến tranh xâm lược thuộc địa, được Anh,
Mỹ… giúp sức.
- Tuy nhiên, chúng ta cũng có những điều kiện thuận lợi nhất định:
+ Nhân dân ta đã giành được quyền làm chủ trong cả nước, quyết tâm bảo vệ chế
độ mới.
+ Dân tộc Việt Nam có truyền thống chống xâm lược vẻ vang.
+ Đảng và nhân dân đã có được 16 tháng hòa bình để chuẩn bị cho kháng chiến.
54
+ Lực lượng vũ trang của ta tuy còn non trẻ nhưng từ nhân dân mà ra, có lòng yêu
nước nồng nàn, chí căm thù giặc sâu sắc.
+ Đảng ta nắm quyền lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo Nhà nước.
+ Pháp là đế quốc bại trận, bị kiệt quệ trong chiến tranh, tiến hành xâm lược một
nước ở rất xa chính quốc. Mâu thuẫn nội bộ trong nước Pháp ngày càng trở nên sâu sắc,
phong trào đấu tranh của nhân dân các nước thuộc địa Pháp đòi độc lập dân tộc đang phát
triển mạnh mẽ.
+ Cuộc kháng chiến của ta tiến hành trong lúc phong trào độc lập dân tộc, hòa
bình, dân chủ và chủ nghĩa xã hội đang dâng lên mạnh mẽ.
+ Nhân dân ba nước Đông Dương đấu tranh chống một kẻ thù chung.
* Đường lối kháng chiến cơ bản của Đảng ta là toàn dân, toàn diện, lâu dài, tự lực
cánh sinh, nhất định thắng lợi được thể hiện trong Chỉ thị Toàn dân kháng chiến của Ban
Thường vụ Trung ương Đảng ngày 12/12/1946, tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng
lợi của Tổng bí thư Trường Chinh bao gồm những bài báo của đồng chí được tập hợp và
xuất bản thành sách và Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh
ngày 19/12/1946.
+ Mục tiêu của cuộc kháng chiến là giành độc lập và thống nhất. Đây là sự tiếp tục
của cách mạng dân tộc dân chủ bằng hình thức chiến tranh, cho nên còn có mục tiêu vì
dân chủ, tự do, vì hòa bình thế giới.
+ Về chính trị: đoàn kết toàn dân, động viên nhân lực, vật lực, tài lực của cả nước,
đoàn kết với hai dân tộc Lào, Campuchia, với nhân dân Pháp, với các nước châu Á và các
dân tộc bị áp bức, các dân tộc yêu chuộng hòa bình, dân chủ trên thế giới, cô lập kẻ thù,
tranh thủ thêm nhiều bạn bè; củng cố chế độ cộng hòa dân chủ, lập ủy ban kháng chiến
các cấp.
+ Về quân sự: cuộc kháng chiến trải qua ba giai đoạn: phòng ngự, cầm cự, phản
công; triệt để dùng chiến thuật đánh du kích, đánh địch ở khắp nơi, vừa đánh vừa xây
dựng lực lượng, tản cử nhân dân ra xa vùng chiến sự.
+ Về kinh tế: toàn dân tăng gia sản xuất, tự túc tự cấp, xây dựng kinh tế theo
hướng “vừa kháng chiến vừa kiến quốc”; ra sức phá kinh tế địch, không cho Pháp lấy
chiến tranh nuôi chiến tranh.
+ Về văn hóa: đánh đổ văn hóa nô dịch, ngu dân, xâm lược của thực dân Pháp, xây
dựng nền văn hóa mới, xóa nạn mù chữ; thực hiện cần, kiệm, liêm, chính; động viên các
nhà văn hóa tham gia kháng chiến.
+ Ta chủ trương đánh lâu dài để đối phương bộc lộ ngày càng rõ những điểm yếu,
hạn chế những điểm mạnh của chúng; khắc phục điểm yếu, phát huy điểm mạnh của ta.

55
+ Tự lực cánh sinh là dựa vào sức lực của toàn dân, vào đường lối của Đảng, vào
các điều kiện thiên thời, địa lợi. nhân hòa của đất nước ta, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ,
giúp đỡ quốc tế để kháng chiến.
- Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch đã thể hiện một cách khái quát
đường lối kháng chiến đó: “Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất
nước, nhất định không chịu làm nô lệ… Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người
trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh
thực dân Pháp để cứu Tổ quốc… thắng lợi nhất định về dân tộc ta!”.
b. Tiến hành kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính
* Mở đầu kháng chiến toàn quốc – Chiến thắng Việt Bắc
- Đêm 19/12/1946, ngay sau Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch,
cuộc chiến đấu của nhân dân ta nổ ra ở Thủ đô Hà Nội và các thành phố, thị xã (Nam
Định, Hải Dương, Vinh, Huế, Đà Nẵng…).
- Tiêu biểu cho cả nước là cuộc chiến đấu ngoan cường của quân dân Thủ đô Hà Nội.
Trong hai tháng, từ 19/12/1946 đến 17/2/1947, quân dân nội ngoại thành Hà Nội đã chiến
đấu anh dũng, giành giật với địch từng góc phố, từng ngôi nhà.
 Kết quả: quân dân ta đã tiêu diệt, tiêu hao hơn 2000 lính Pháp, bảo vệ các cơ
quan lãnh đạo của ta, tạo điều kiện cho nhân dân Thủ đô di tản ra khỏi thành phố, di
chuyển nhiều máy móc, nguyên liệu ra vùng tự do của ta.
- Đầu tháng 4/1947, Ban Chấp hành Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị cán bộ
Trung ương. Hội nghị nhấn mạnh nhiệm vụ mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất chống
thực dân Pháp, củng cố chính quyền nhân dân ở vùng bị Pháp chiếm, phát động phong
trào chiến tranh du kích, tổ chức căn cứ địa, đẩy mạnh công tác ngoại giao và xây dựng
Đảng.
- Đất nước đã kịp thời chuyển sang thời chiến và bước đầu triển khai thế trận chiến
tranh nhân dân. Các cơ quan Đảng, Chính phủ, Mặt trận… chuyển lên căn cứ địa Việt
Bắc. Các cơ quan dân, chính, đảng địa phương cũng về đóng nơi tạm thời an toàn. Bộ
máy chính quyền các cấp được kiện toàn.
- Lực lượng vũ trang được chăm lo xây dựng, công tác Đảng trong quân đội được
tăng cường một bước. Bộ đội chủ lực cũng phát triển từ 80000 lên 120000 chiến sĩ. Lực
lượng dân quân tự vệ lên tới 1 triệu người. Nhiều căn cứ đại kháng chiến ở địa phương
được xây dựng.
- Để động viên toàn dân tham gia kháng chiến, Đảng và Chính phủ tìm mọi biện pháp
ổn định đời sống nhân dân và xây dựng những cơ sở ban đầu của nền kinh tế và văn hóa
kháng chiến.
- Đảng cũng quan tâm lãnh đạo công tác đối ngoại để tranh thủ sự đồng tình của nhân
dân tiến bộ trên thế giới đối với cuộc kháng chiến chống Pháp của ta.
56
- Thực dân Pháp sau khi không thể thực hiện thành công kế hoạch đánh nhanh, thắng
nhanh và bị thiệt hại nhiều mà không tiêu diệt được quân chủ lực cùng các cơ quan đầu
não của ta, tháng 5/1947, quân Pháp tạm co về thành thị chúng mới chiếm được và chuẩn
bị kế hoạch chiến tranh mới.
 Lập ra Chính phủ bù nhìn do Bảo Đại làm Quốc trường và tổ chức cuộc tấn
công bất ngờ với quy mô lớn lên Việt Bắc nhằm tiêu diệt quân chủ lực của ta, bắt cho
được Trung ương Đảng và Chính phủ của ta, nhanh chóng kết thúc chiến tranh.
- Ngày 7/10/1947, thực dân Pháp huy động 12000 quân tinh nhuệ mở cuộc tiến công
lên Việt Bắc.
+ Quân nhảy dù bất ngờ tấn công Bắc Cạn, Chợ Mới đánh vào sau lưng quân ta.
+ Một binh đoàn bộ binh Pháp kéo từ Lạng Sơn lên Cao Bằng, Bắc Cạn, bao vây
phía Đông và phía Bắc Việt Bắc.
+ Một cánh quân thep đường thủy tiến vào Phú Thọ, Tuyên Quang bao vây Việt
Bắc từ phía Tây.
- Quân dân ta tuy bị bất ngờ nhưng đã đánh địch ngay khi chúng vừa nhảy dù xuống
Bắc Cạn, Chợ Mới. Tiêu diệt cơ quan tham mưu chiến dịch của Pháp ở Cao-Bắc-Lạng-
Thái, bắn rơi máy bay địch. Quân dân Phú Thọ, Tuyên Quang, Hà Giang phục kích diệt
địch, bắn chìm tàu chiến địch trên sông Lô.
Phối hợp với quân dân Việt Bắc, chiến tranh du kích, phà tề, trừ gian được đẩy mạnh
ở vùng sau lưng địch.
- Kết quả: Cuối tháng 12/1947, phần lớn quân Pháp phải rút khỏi Việt Bắc. Hơn 7000
tên xâm lược bị chết, bị thương và bị bắt, nhiều vũ khí, phương tiện chiến tranh của Pháp
bị quân ta phá hủy hoặc thu giữ.
 Chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” của quân Pháp bị thất bại. Quân dân ta
đã phản công địch thắng lợi. Bộ đội chủ lực của ta trưởng thành một bước về trình độ tác
chiến. Đảng ta có thêm có thêm kinh nghiệm lãnh đạo chiến tranh. Nhân dân ta phấn khởi
tin tưởng ở thắng lợi của cuộc kháng chiến.
* Đẩy mạnh kháng chiến sang giai đoạn mới. Chiến thắng Biên giới 1950
- Trong những năm 1948-1949, tình hình thế giới có nhiều chuyển biến lớn ảnh
hưởng trực tiếp đến cuộc kháng chiến của nhân dân ta.
+ Liên Xô thực hiện thành công kế hoạch 5 năm 1946-1950, đạt được những thành
tựu quan trọng về kinh tế-xã hội, quốc phòng, khoa học kỹ thuật (thử thành công bom
nguyên tử tháng 9/1949, phá thế độc quyền vũ khí nguyên tử của Mỹ).
+ Các nước dân chủ nhân dân ở Châu Âu và Châu Á xây dựng xã hội mới đạt
nhiều thắng lợi.
+ Phong trào giải phóng dân tộc phát triển ở Châu Phi, Châu Á và Trung Cận
Đông.
57
+ Mỹ thực hiện kế hoạch Marshall nhằm vừa vực dậy các nước Châu Âu vừa
khống chế các nước này.
+ Tại Pháp, cuộc khủng hoảng chính trị kéo dài, thất bại bước đầu trong chiến
tranh Đông Dương làm cho Pháp khó khăn thêm. Tính đến đầu năm 1949, đã có tới 8 lần
thay đổi Chính phủ Pháp. Phong trào phản chiến của nhân dân Pháp phát triển.
- Ở Đông Dương, từ năm 1948, thực dân Pháp phải chuyển từ đánh nhanh thắng
nhanh sang chiến lược đánh lâu dài, “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt trị
người Việt”.
 Chúng bình định vùng chiếm đóng, mở các cuộc hành quân nhỏ nhằm tiêu diệt
cơ sở kháng chiến của ta, mở rộng ngụy quân.
- Ngày 20/1/1948, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp mở rộng, nhận định tình
hình sau chiến thắng Việt Bắc và đề ra những nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
+ Về quân sự: mở rộng chiến tranh du kích, nhất là trong vùng địch kiểm soát, tùy
điều kiện tập trung đánh vận động tiêu diệt địch, tăng cường công tác địch vận.
+ Về chính trị: củng cố khối đoàn kết toàn dân kháng chiến, thực hiện khẩu hiệu
“Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết”, củng cố bộ máy kháng chiến, phá tan chính quyền
bù nhìn, làm thất bại âm mưu “dùng người Việt trị người Việt”.
+ Về kinh tế: tăng gia sản xuất tự cấp tự túc, cải thiện đời sống nhân dân lao động,
phá kinh tế địch, tịch thu tài sản, ruộng đất của tay sai chia cho dân cày nghèo, giảm tô,
chia lại công điền, khuyến khích đổi công, thí điểm lập hợp tác xã.
+ Về văn hóa: động viên mọi lực lượng văn hóa phục vụ kháng chiến, chấn chỉnh
giáo dục, xóa nạn mù chữ.
+ Về xây dựng Đảng: củng cố, phát triển Đảng, làm cho Đảng thực sự có tính chất
quần chúng mạnh mẽ; tích cực phát triển Đảng ở các vùng địch kiểm soát, tăng cường
giáo dục đảng viên, đào tạo cán bộ…
- Ngày 27/3/1948, theo sáng kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ban Thường vụ Trung
ương Đảng ra chỉ thị phát động phong trào thi đua ái quốc.
- Hàng ngàn cán bộ Đảng đã vào hoạt động ở vùng địch tạm chiếm. Năm 1948, được
lực lượng vũ trang hỗ trợ, nhân dân quét sạch chính quyền bù nhìn cơ sở ở nhiều vùng
rộng lớn trong cả nước, lập lại chính quyền cách mạng.
 Tổng phá tề thực chất là cuộc nổi dậy đồng loạt của nhân dân vùng sau lưng
địch; phá hệ thống kìm kẹp của địch, chống lại một cách có hiệu quả chính sách “dùng
người Việt trị người Việt”.
- Trước tình hình khó khăn ở Đông Dương, thực dân Pháp lên kế hoạch tiến hành đối
phó gấp. Tướng Revers, Tổng tham mưu trưởng quân đội Pháp đưa ra kế hoạch: mở rộng
chiếm đóng ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ, phong tỏa biên giới Việt-Trung, tăng cường

58
xây dựng quân ngụy để làm nhiệm vụ chiếm đóng và dùng quân Âu-Phi làm lực lượng cơ
động tăng cường càn quét.
- Về phía ta, sau Hội nghị cán bộ Trung ương Đảng tháng 1/1949, thực hiện chủ
trương tăng cường bộ đội chủ lực, tháng 11/1949, Hồ Chủ tịch ra sắc lệnh về nghĩa vụ
quân sự.
- Vừa chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang, Đảng và Chính phủ vừa ra sức củng cố
hậu phương, bồi dưỡng sức dân. Các địa phương tích cực thực hiện các sắc lệnh, thông tư
về tạm cấp ruộng đất cho nông dân nghèo, về giảm tô, giảm tức.
- Từ năm 1949, nhiều địa phương đã xúc tiến việc thống nhất Việt Minh và Liên Việt.
Các đoàn thể Tổng Liên đoàn Lao động, Hội Nông dân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc,
Hội Liên hiệp phụ nữ… được củng cố và phát triển.
- Trên mặt trận văn hóa, nền văn hóa ngu dân, nô dịch của thực dân Pháp bị xóa bỏ;
nền văn hóa mới được xây dựng. Đường lối, nhiệm vụ công tác văn hóa kháng chiến
được xác định tại Hội nghị văn hóa toàn quốc tháng 7/1948. Hội Văn hóa Việt Nam được
thành lập. Các tệ nạn xã hội giảm đi nhiều. Phong trào xóa nạn mù chữ phát triển mạnh.
Chương trình giáo dục phổ thông bắt đầu được cải tiến theo nội dung dân tộc, dân chủ,
nhân dân và phù hợp với hoàn cảnh kháng chiến.
- Về xây dựng Đảng, trong hai năm 1948-1949, Đảng đã kết nạp hơn 50 vạn đảng
viên. Tổ chức cơ sở Đảng được xây dựng rộng khắp.
- Về đối ngoại:
+ Cuối tháng 12/1949, Hồ Chủ tịch lên đường đi công tác nước ngoài. Người sang
thăm Trung Quốc, Liên Xô và đã gặp mặt hội đàm với Mao Trạch Đông, Stalin. Rồi sau
đó, Người sang Hungari dự cuộc họp đại biểu phong trào cộng sản quốc tế.
+ Ngày 14/1/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra tuyên bố về việc Chính phủ ta sẵn
sàng đặt quan hệ ngoại giao với chính phủ các nước tôn trọng quyền bỉnh đẳng, chủ
quyền lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của Việt Nam.
+ 18/1/1950, Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, sau đó ngày
30/1/1950, Chính phủ Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô-viết và liên tiếp trong
tháng 2/1950, chính phủ các nước dân chủ nhân dân Đông Âu và Bắc Triều Tiên công
nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ ta.
+ Tháng 7/1950, đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Pháp sang thăm Việt Nam, tìm
hiểu tình hình để phối hợp hành động và thắt chặt tình đoàn kết chiến đấu giữa hai Đảng
và nhân dân hai nước. Nhân dân các nước châu Á, châu Phi đã dành cho nhân dân ta mối
cảm tình đặc biệt và sự ủng hộ tích cực.
+ Đảng và Chính phủ ta đặc biệt coi trọng xây dựng quan hệ đoàn kết chiến đấu
với nhân dân Lào, Campuchia và quan hệ với nước láng giềng Trung Quốc.

59
- Những thắng lợi của quân dân ta đã đưa cuộc kháng chiến tiến mạnh sang một giai
đoạn mới. Ngày 21/1/1950, Hội nghị toàn quốc lần thứ ba của Đảng họp, đề ra chủ
trương “hoàn thành nhiệm vụ, chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công” và quyết định
tổng động viên theo khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”.
* Chiến dịch Biên giới Thu Đông 1950:
- Thực hiện nghị quyết của Đảng, nhân dân ta hăng hái đóng góp thóc gạo, tiền bạc và
các vật tư cho kháng chiến.
+ Hàng chục vạn thanh niên xung phong tòng quân.
+ Việc chuẩn bị chiến trường, đặc biệt là mở đường và tổ chức lực lượng vận tải
được tiến hành.
+ Ở các thành phố bị tạm chiếm, phong trào đấu tranh chính trị chống Pháp và can
thiệp Mỹ phát triển.
- Trước yêu cầu phát triển của cuộc kháng chiến, để giải phóng vùng biên giới phía
Bắc, phá thế bao vây của địch, tiến tới giành quyền chủ động về chiến lược trên chiến
trường chính, tháng 6/1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng chủ trương mở Chiến dịch
Biên giới. Tháng 8/1950, Trung ương Đảng nhấn mạnh nhiệm vụ của các địa phương
trong toàn quốc phối hợp với chiến dịch kiềm chế và tiêu hao lực lượng địch.
- Hồ Chủ tịch gửi thư nhắc nhở, động viên các chiến sĩ đồng thời đích thân Người ra
mặt trận để cùng Bộ Chỉ huy chỉ đạo chiến dịch.
- Mở màn chiến dịch, quân ta đánh cứ điểm Đông Khê (Cao Bằng) với một lực lượng
lớn gồm một đại đoàn và hai trung đoàn chủ lực cơ động của Bộ vào đêm 16/9/1950.
+ Sau hai ngày đêm chiến đấu ác liệt, quân ta đã tiêu diệt hoàn toàn cụm cứ điểm
Đông Khê.
+ Đầu tháng 10, quân ta truy kích và bắt gọn quân địch rút chạy từ Cao Bằng.
+ Ngày 8/10/1950, quân ta tiêu diệt hai binh đoàn ứng cứu của Pháp ở Đông Khê.
- Kết quả: Quân dân ta đã tiêu diệt và bắt sống 8300 địch, đa số là Âu – Phi, tiêu diệt
10 tiểu đoàn, thu trên 3000 tấn vũ khí và phương tiện chiến tranh, giải phóng hoàn toàn
khu vực biên giới từ Cao Bằng đến Đình Lập. Phối hợp với Chiến dịch Biên giới, quân
dân ta tăng cường chiến đấu ở đồng bằng Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ.
- Ý nghĩa:
+ Thắng lợi của Chiến dịch Biên giới đã làm thất bại kế hoạch Revers. Thực dân
Pháp thấy rõ chúng không thể thắng bằng quân sự. Ý chí xâm lược của Pháo bị lung lay.
+ Đối với ta, đây là lần đầu tiên, ta mở một chiến dịch tiến công lớn thắng lợi đánh
vào một tuyến phòng thủ mạnh của địch.
+ Ta mở được đương giao thông quốc tế nối liền Việt Nam với các nước xã hội
chủ nghĩa sau nhiều năm bị chủ nghĩa đế quốc bao vây.

60
+ Đường liên lạc giữa Việt Bắc với đồng bằng Bắc Bộ và Liên khu IV được thông
suốt.
+ Thắng lợi này đã mở ra bước ngoặt chuyển cuộc kháng chiến của ta từ hình thái
chiến tranh du kích lên chiến tranh chính quy, kết hợp chiến tranh chính quy với chiến
tranh du kích ở trình độ cao hơn, tiến lên giành nhiều thắng lợi to lớn.
2.1.3. Đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ
đến thắng lợi 1951-1954
a. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (tháng 2/1951)
* Tháng 2/1951, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng được triệu tập. Đại
hội II được tổ chức trong những điều kiện tình hình có nhiều thay đổi ở trong nước lẫn
trên thế giới.
- Thế giới:
+ Liên Xô phát triển lớn mạnh kể từ sau Thế chiến thứ II, cùng với đó, các nước
dân chủ nhân dân ở Châu Á, Chấu Âu bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
+ Nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra đời đã làm thay đổi lực lượng so sánh
trên trường quốc tế, có lợi cho hòa bình và cách mạng thế giới.
 Các nước xã hội chủ nghĩa đã nối liền một dải từ Đông Đức đến Việt Nam.
+ Các nước đế quốc chủ nghĩa lâm vào cuộc khủng hoảng mới. Mỹ tăng cường
giúp đỡ Pháp và can thiệp trực tiếp vào cuộc chiến tranh Đông Dương, đàn áp phong trào
dân chủ và giải phóng dân tộc trên thế giới.
- Trong nước:
+ Sau Cách mạng Tháng Tám, Nhà nước Dân chủ nhân dân Việt Nam thực hiện
quyền làm chủ nhân dân do Đảng lãnh đạo.
+ Quân dân ta giành được nhiều thắng lợi trong kháng chiến.
+ Uy tín của Đảng và Chính phủ được nâng cao trên trường quốc tế.
 Điều kiện lịch sử mới đặt ra cho Đảng ta các yêu cầu bổ sung và hoàn chỉnh
đường lối cách mạng dân tộc dân chủ tiến lên chủ nghĩa xã hội, có những chính sách đưa
cuộc kháng chiến thắng lợi, đặc biệt là yêu cầu Đảng phải ra công khai lãnh đạo cách
mạng với tư cách là một đảng cầm quyền.
* Nội dung Đại hội II:
- Đại hội II được tổ chức tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang.
Về dự có 158 đại biểu chính thức thay mặt cho 766349 đảng viên.
- Đại hội đã nghe và thảo luận Báo cáo chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Luận
cương cách mạng Việt Nam do đồng chí Trường Chinh trình bày, Báo cáo về tổ chức và
Điều lệ Đảng, các báo cáo bổ sung về Mặt trận dân tộc thống nhất, chính quyền, quân
đội, kinh tế tài chính và văn nghệ nhân dân; thông qua Chính cương và Điều lệ Đảng.
- Về Báo cáo chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
61
+ Báo cáo đã tổng kết phong trào cách mạng thế giới và cách mạng Việt Nam
trong nửa đầu thế kỷ XX, nêu lên triển vọng tốt đẹp trong nửa sau thế kỷ.
+ Phân tích, đánh giá những thành tựu, hạn chế, rút ra các bài học kinh nghiệm
trong 21 năm kể từ khi Đảng ra đời.
+ Người khẳng định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt là: tiêu diệt thực dân Pháp xâm
lược và đánh bại can thiệp Mỹ, giành độc lập và thống nhất hoàn toàn, bảo vệ hòa bình
thế giới.
+ Những chính sách và biện pháp tích cực để thực hiện nhiệm vụ đó là: tăng
cường lực lượng vũ trang, củng cố các đoàn thể quần chúng, đẩy mạnh thi đua ái quốc,
thi hành chính sách kinh tế thời chiến, thi hành chính sách ruộng đất, thành lập Mặt trận
đoàn kết Việt Nam, Lào, Campuchia, tăng cường đoàn kết quốc tế.
+ Do nhu cầu kháng chiến, cho nên Đại hội quyết định ở mỗi nước Việt Nam, Lào,
Campuchia cần có một đảng cách mạng riêng. Ở Việt Nam, Đảng ra hoạt động công khai
lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam. Đó “phải là một đảng to lớn, mạnh mẽ, chắc chắn,
trong sạch, cách mạng triệt để”.
- Về Luận cương cách mạng Việt Nam do Trường Chinh trình bày:
+ Đây là văn kiện quan trọng bổ sung và phát triển các cương lĩnh trước đó của
Đảng trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm thực tiễn của hơn hai mươi năm vận động
cách mạng.
+ Luận cương nêu rõ mục tiêu “Hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ
nhân dân, tiến tới chủ nghĩa xã hội”.
+ Cách mạng Việt Nam có hai mâu thuẫn cơ bản cần giải quyết, đó là: Mâu thuẫn
giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc xâm lược và bè lũ tay sai; mâu thuẫn giữa
nông dân với địa chủ phong kiến. Trong đó, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế
quốc xâm lược và tay sai là mâu thuẫn chủ yếu.
+ Kẻ thù cụ thể trước mắt của cách mạng là chủ nghĩa đế quốc xâm lược và bọn
bù nhìn Việt gian phản quốc đại biểu cho quyền lợi của đại địa chủ phản động và tư sản
mại bản.
+ Cách mạng Việt Nam có hai nhiệm vụ cơ bản là phản đế và phản phong (chống
đế quốc và phong kiến). Hai nhiệm vụ này có mối quan hệ khăng khít và không tách rời
nhau. Nhiệm vụ phản phong nhất định phải làm đồng thời nhưng có kế hoạch từng bước,
không nhất loạt ngang nhau với nhiệm vụ phản đế nhằm tập trung lực lượng hoàn thành
nhiệm vụ giải phóng dân tộc.
+ Lực lượng cách mạng bao gồm: công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc,
địa chủ yêu nước và tiến bộ hợp thành. Nền tảng của lực lượng cách mạng là công, nông
và lao động trí óc. Giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng.

62
+ Cách mạng Việt Nam là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, mang tính chất
dân tộc và dân chủ rõ rệt. Con đường tất yếu đi lên của cách mạng Việt Nam là tiến lên
chủ nghĩa xã hội. Đó là một quá trình phức tạp, lâu dài khi từ một xã hội thuộc địa nửa
phong kiến tiến lên xã hội xã hội chủ nghĩa.
- Điều lệ của Đảng nhấn mạnh: chủ nghĩa Marx-Lenin là nền tảng tư tưởng của Đảng,
tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt cơ bản của Đảng; phê bình, tự phê
bình là quy luật phát triển của Đảng; phục vụ nhân dân là mục tiêu của Đảng.
- Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 29 đồng chí, bầu ra Bộ
Chính trị gồm 7 ủy viên chính thức và Ban Bí thư. Đồng chí Hồ Chí Minh được bầu làm
Chủ tịch Đảng, đồng chí Trường Chinh được bầu lại làm Tổng Bí thư.
 Đại hội II đã đánh dấu một mốc quan trọng trong sự trưởng thành của Đảng về
mọi mặt và đóng góp quý báu vào kho tàng lý luận cách mạng nước ta.
b. Đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi
* Củng cố hậu phương, đẩy mạnh tiến công địch, giữ vững quyền chủ động chiến
lược
- Tháng 12/1950, sau khi thất bại ở mặt trận biên giới Việt-Trung, thực dân Pháp cử
Đại tướng Delattre de Tassigny – danh tướng số một của nước Pháp, sang Đông Dương
làm Tổng chỉ huy kiêm Cao ủy hòng xoay chuyển tình thế. Kế hoạch mang tên viên Đại
tướng ra đời gồm bốn điểm chính:
+ Gấp rút tập trung binh lực, xây dựng lực lượng cơ động chiến lược mạnh và phát
triển quân ngụy.
+ Xây dựng tuyến phòng thủ boongke (đồn xi măng cốt sắt) cắt Bắc Bộ từ Hồng
Quảng đến Ninh Bình bằng con đường số 18 bao quanh đồng bằng Bắc Bộ và trung du
bằng một “vành đai trắng” nhằm ngăn chặn quân ta tiến công vào vùng địch, ngăn chặn
nhân lực, vật lực ta đưa ra vùng tự do.
+ Tập trung lực lượng bình định vùng địch kiểm soát, chủ yếu là vùng đồng bằng
Bắc Bộ, củng cố ngụy quyền và bắt lính.
+ Mở những cuộc tiến công ra vùng tự do của ta nhằm giành lại thế chủ động, lấy
lại tinh thần binh sĩ, có cớ xin thêm viện trợ Mỹ.
 Tình hình đó đã làm cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta gặp những khó khăn
mới, đòi hỏi Đảng phải có phương hướng và biện pháp khắc phục.
- Từ tháng 3/1951 đến tháng 1/1953, bốn Hội nghị Trung ương Đảng lần lượt được tổ
chức và đã đề ra nhiều chủ trương, nhiệm vụ quan trọng trên tất cả các mặt như: phương
châm tác chiến trên chiến trường (tiêu diệt sinh lực địch), phá kế hoạch “ lấy chiến tranh
nuôi chiến tranh, dùng người Việt trị người Việt”, công tác địch vận, tăng gia sản xuất,
thực hành tiết kiệm, củng cố hậu phương, công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng
vũ trang, thực hiện cải cách ruộng đất trong kháng chiến, thông qua cương lĩnh ruộng đất.
63
 Thực hiện các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, trong hai năm
1951-1952, quân dân ta đã ra sức xây dựng lực lượng vũ trang, phục hồi và phát triển
cuộc đấu tranh trong vùng sau lưng địch, củng cố hậu phương, mở một số cuộc tiến công
quân sự.
- Xây dựng lực lượng vũ trang: chú ý trọng tâm chất lượng, xây dựng về chính trị và
khối bộ đội chủ lực. Đến cuối năm 1952, đã có 6 đại đoàn bộ binh chủ lực, 1 đại đoàn
công binh và pháo binh, mỗi Liên khu có 2 trung đoàn chủ lực, Nam Bộ có 4 trung đoàn
chủ lực.
- Phong trào đấu tranh ở vùng sau lưng địch hồi phục và phát triển. Công nhân, nông
dân, dân quân, du kích, bộ đội địa phương đấu tranh sôi nổi với các hình thức từ đấu
tranh kinh tế và chính trị đòi những quyền dân sinh dân chủ hằng ngày đến đấu tranh vũ
trang, kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị, đấu tranh kinh tế, vừa tiến công
địch vừa chống địch càn quét.
- Cuối năm 1951 đến cuối tháng 2/1952, bộ đội ta đánh bại chiến dịch Hòa Bình của
Pháp, buộc quân Pháp phải rút chạy khỏi Hòa Bình.
 Phá tan kế hoạch bình định đồng bằng Bắc Bộ của Pháp, ý định giành lại thế
chủ động ở chiến trường Bắc Bộ bị thất bại. Chiến thắng Hòa Bình đánh dấu bước trưởng
thành lớn của quân ta về phối hợp giữa chiến tranh chính quy với chiến tranh du kích.
- Về củng cố hậu phương của kháng chiến: năm 1952, Đảng phát động cuộc vận động
tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm nhằm giảm bớt tình hình căng thẳng về kinh tế, tài
chính. Trước đó, năm 1951, Chính phủ ta ban hành sắc lệnh về thuế nông nghiệp. Tháng
6/1951, Ngân hàng quốc gia Việt Nam được thàng lập và sau đó mậu dịch quốc doanh ra
đời. Công tác văn hóa kháng chiến, giáo dục, xóa nạn mù chữ, bảo vệ sức khỏe cũng đạt
được nhiều kết quả.
- Về xây dựng Đảng: các cuộc vận động chỉnh Đảng giúp cán bộ quán triệt thêm
đường lối cách mạng và quan điểm kháng chiến lâu dài, tự lực cánh sinh, khắc phục một
bước những lệch lạc trong nhận thức, tư tưởng đảng viên, cán bộ.
- Từ cuối năm 1952 đến nửa đầu năm 1953, quân dân ta đã giành thắng lợi ở hai chiến
dịch Tây Bắc và Thượng Lào, giải phóng đại bộ phận Tây Bắc Việt Nam, toàn bộ tỉnh
Sầm Nưa, một phần tỉnh Xiêng Khoảng và tỉnh Phong Xa Lỳ. Căn cứ Thượng Lào nối
liền với vùng căn cứ Tây Bắc tạo thành thế uy hiếp mạnh đối với quân Pháp.
 Thắng lợi trên cả ba nhiệm vụ chiến lược (tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực
lượng ta và phá tan kế hoạch bình định của Pháp) trong năm 1953 đã tạo điều kiện thuận
lợi cho quân dân ta trong giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến.
* Cuộc tiến công chiến lược Đông-Xuân 1953-1954. Chiến thắng Điện Biên Phủ.
Hiệp định Geneva.
- Qua tám năm kháng chiến, so sánh lực lượng giữa ta và Pháp có sự thay đổi lớn:
64
+ Ở Bắc Bộ, vùng tự do bao gồm hầu hết các tỉnh miền núi rộng lớn ở Việt Bắc,
Tây Bắc, Hòa Bình. Vùng địch tạm chiếm bị thu hẹp.
+ Ở Trung Bộ, hai vùng tự do Liên khu IV và Liên khu V được củng cố.
+ Ở Nam Bộ, các căn cứ địa kháng chiến, căn cứ du kích đứng vững, cơ sở kháng
chiến được xây dựng ở nông thôn thành thị.
+ Lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân lớn mạnh cả số lượng lẫn chất lượng.
Lực lượng cơ động chiến lược của ta hơn hẳn của địch.
- Trước những khó khăn của Pháp, Mỹ ngày càng can thiệp sâu vào Đông Dương và
chờ cơ hội hất cẳng Pháp. Về phía Pháp, tháng 5/1953, Tướng Navarre được phái sang
Đông Dương làm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh, đồng thời đề ra kế hoạch Navarre
nhằm thực hiện chủ trương của Chính phủ Pháp là tìm con đường thoát bằng chính trị,
tạo ra những điều kiện quân sự làm cơ sở cho một giải pháp chính trị có danh dự.
- Kế hoạch Navarre có nhiệm vụ tăng gấp ba lần số đơn vị cơ động chiến lược thành
27 binh đoàn và chia làm hai bước tác chiến:
+ Bước thứ nhất: trong Thu-Đông 1953 và Xuân 1954, tổ chức phòng ngự chiến
lược ở Bắc vĩ tuyến 18 và xây dựng lực lượng; đồng thời ở Nam vĩ tuyến 18, tổ chức tiến
công nhằm bình định miền Nam và miền Trung, xóa bỏ vùng tự do Liên khu IV.
+ Bước thứ hai: dự kiến tới mùa Thu 1954, sau khi có ưu thế về lực lượng cơ
động, sẽ chuyển toàn bộ lực lượng ra phía Bắc, mở cuộc tiến công quân sự gây sức ép
buộc ta phải đàm phán theo những điều kiện của chúng.
- Theo kế hoạch đã được vạch ra, quân Pháp nhảy dù, bất ngờ tập kích thị xã Lạng
Sơn vào tháng 7/1953, đồng thời tổ chức càn quét ở đồng bằng Bắc Bộ, Bình-Trị-Thiên
và Nam Bộ. Tháng 8/1953, Pháp tổ chức tập trung quân ở Bắc Bộ với hơn 90% lực lượng
cơ động.
- Cuối tháng 9/1953, để đối phó với kế hoạch Navarre, Bộ Chính trị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng đã họp bàn về nhiệm vụ quân sự Đông-Xuân 1953-1954 tại Định Hóa,
Thái Nguyên.
 Bộ Chính trị chủ trương đưa bộ đội chủ lực lên Tây Bắc để buộc Pháp phải
phân tán lực lượng và ta có thể tiêu diệt sinh lực đối phương, phối hợp với các chiến
trường, chuẩn bị điều kiện tiến tới giải phóng đồng bằng Bắc Bộ.
- Kế hoạch chiến lược Đông-Xuân 1953-1954 gồm ba đòn tiến công chiến lược: đánh
vào Lai Châu, giải phóng Tây Bắc; phối hợp với quân giải phóng Lào, tiến công Trung
Lào và Hạ Lào; tiến công giành lấy Tây Nguyên, phá tan âm mưu bình định của Pháp ở
miền Nam.
 Phương châm tác chiến của ta: đánh ăn chắc, đánh tiêu diệt, đánh nơi địch sơ
hở và tương đối yếu, buộc địch phải phân tán lực lượng; tích cực, chủ động, cơ động, linh
hoạt.
65
- Tháng 11/1953, quân ta tiến lên Lai Châu và sang Trung Lào. Navarre vội vã cho
quân nhảy dù xuống chiếm Điện Biên Phủ và xây dựng phòng tuyến sông Nậm Hu nối
liền Thượng Lào với Điện Biên Phủ.
 Đầu tháng 12/1953, Pháp tăng thêm quân ở Điện Biên Phủ để xây dựng thành
một tập đoàn cứ điểm kiên cố, sẵn sàng “nghiền nát” quân chủ lực của ta. Như vậy, ngay
từ đầu kế hoạch Navarre đã bị đảo lộn.
- Ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ.
- Cuộc tiến công chiến lược Đông-Xuân 1953-1954 mở đầu bằng cuộc tiến công của
quân ta vào Lai Châu (10/12/1953).
 Sau 10 ngày đêm chiến đấu, quân ta giải phóng Lai Châu trừ Điện Biên Phủ.
Navarre vội vã điều thêm quân cơ động lên Điện Biên Phủ, đưa lực lượng ở đây lên 12
tiểu đoàn.
- Hạ tuần tháng 12/1953, quân ta phối hợp quân giải phóng Lào tiến công giải phòng
hầu hết vùng Trung Lào, sau đó tiếp tục tiến xuống Hạ Lào. Pháp vội vã điều quân lên
Trung Lào, xây dựng một tập đoàn cứ điểm ở Seno (Savanakhet).
- Cuối tháng 1/1954, quân ta tiến công Tây Nguyên, giải phóng thị xã Kon Tum và
Bắc Tây Nguyên, tập kích Pleiku. Pháp điều lực lượng lên Tây Nguyên tổ chức thành hai
tập đoàn cứ điểm An Khê và Pleiku.
- Cũng trong thời gian này, Navarre cho điều quân lên Thượng Lào, chốt giữ ở
Mường Sài và Luong Phrabang, nơi đang bị quân ta tấn công mạnh.
- Trong khi đó, ở đồng bằng Bắc Bộ, Bình-Trị-Thiên, Liên khu V và Nam Bộ, quân
dân ta hoạt động mạnh, giam chân, tiêu diệt sinh lực địch, buộc địch phải phân tán lực
lượng.
* Chiến dịch Điện Biên Phủ và Hội nghị Geneva:
- Tính đến đầu tháng 3/1954, lực lượng quân Pháp ở Điện Biên Phủ lên tới hơn 20
tiểu đoàn, phần lớn là lính Âu-Phi, bố trí thành 49 cứ điểm, được sự tiếp tế và hỗ trợ
chiến đấu của 80% số máy bay của Pháp ở Đông Dương.
- Để chuẩn bị cho chiến dịch Điện Biên Phủ, Đảng ta đã động viên sức người sức của
với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”.
+ Hơn 26 vạn dân công với trên 10 triệu ngày công đã tham gia phục vụ cho chiến
dịch.
+ 27400 tấn gạo được huy động chuyển đến mặt trận.
+ Hàng vạn thanh niên xung phong phối hợp với công binh mở hàng nghìn
kilomet đường. Các loại phương tiện vận tải, kể cả xe đạp được huy động tối đa.
- Bộ Chính trị chuẩn y đề nghị Đảng ủy Mặt trận kế hoạch tác chiến từ “đánh nhanh
thắng nhanh” đã chuyển thành “đánh chắc tiến chắc” và hoãn ngày mở đầu chiến dịch từ
25/1 sang 13/3/1954.
66
- Để tiếp thêm sức mạnh cho bộ đội nơi tiền tuyến và nông dân nơi hậu phương, Đảng
ta đã mở cuộc vận động thực hiện chính sách ruộng đất với ba đợt thí điểm được tiến
hành từ tháng 4 đến tháng 12/1953. Sau đó, Luật cải cách ruộng đất được Quốc hội khóa
I thông qua vào 1/12/1953. Từ tháng 4/1953 đến tháng 7/1954, Đảng đã lãnh đạo nông
dân tiến hành 5 đợt giảm tô và 1 đợt cải cách ruộng đất ở một số nơi vùng tự do.
- Ngày 13/3/1954, quân ta mở đợt tiến công thứ nhất mở màn cho chiến dịch Điện
Biên Phủ lịch sử. Hai cứ điểm Him Lam, Độc Lập bị quân ta tiêu diệt, sân bay Mường
Thanh của Pháp bị uy hiếp. Thắng lợi này làm cho thực dân Pháp bàng hoàng, lo sợ.
- Ngày 30/3/1954, đợt tiến công thứ hai của quân ta được bắt đầu. Ta chiếm được
phần lớn các cứ điểm quan trọng ở phía đông, chia cắt, bao vây, khống chế được tiếp viện
của địch. Về phía Pháp, chúng tăng thêm 4 tiểu đoàn, lại được sự giúp sức, tăng viện máy
bay và phi công của Mỹ nên ra sức chống trả quyết liệt.
- Ngày 1/5/1954, quân ta mở đợt tiến công thứ ba nhằm tổng công kích, tiêu diệt toàn
bộ quân địch ở Điện Biên Phủ. Quân Pháp bị siết chặt vòng vây, không có đường thoát,
chúng định phá thế bao vây của ta rồi chạy sang Lào nhưng không kịp.
 17 giờ 30 phút ngày 7/5/1954, Tướng De Castries và toàn bộ Bộ tham mưu của
Pháp ỏ Điện Biên Phủ bị bắt sống, 12000 quân địch ra hàng. Chiến dịch Điện Biên Phủ
toàn thắng. Sau 55 ngày đêm chiến đấu gian khổ và anh dũng, quân ta đã tiêu diệt toàn bộ
tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của Pháp ở Đông Dương, diệt và bắt sống 16000 quân Pháp,
bắn rơi 62 máy bay, thu nhiều vũ khí.
 Cuộc tiến công chiến lược Đông-Xuân 1953-1954 với đỉnh cao là chiến dịch
Điện Biên Phủ đã kết thúc thành công. Quân dân ta đã đánh bại kế hoạch Navarre là cố
gắng chiến tranh cao nhất, cuối cùng của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, giáng đòn quyết
định đập tan ý chí xâm lược Đông Dương của thực dân Pháp.
 Thực dân Pháp rút quân khỏi gần 90% đồng bằng Bắc Bộ nhằm bảo vệ quân
đội viễn chinh.
 Cuộc kháng chiến chống Pháp được kết thúc bằng cuộc đấu tranh trên bàn đàm
phán ngoại giao ở Geneva (Thụy Sỹ) tháng 7/1954.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ quan điểm của Đảng và Chính phủ ta trên bàn đàm
phán thương lượng là Chính phủ Pháp phải thật thà tôn trọng nền độc lập thật sự của
nước Việt Nam.
- Ngày 8/5/1954, Hội nghị quốc tế về chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương khai mạc
ở Geneva. Tham dự Hội nghị có đại diện 9 bên: Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam DCCH,
Pháp, Mỹ, Anh và ba đoàn của các chính phủ thân Pháp ở Đông Dương.
+ Tại đây, Trưởng đoàn của Việt Nam DCCH – ông Phạm Văn Đồng đã tuyên bố
lập trường của ta đó là: đình chỉ chiến sự trên toàn Đông Dương đi đôi với một giải pháp

67
chính trị cho ba vấn đề Việt Nam, Lào và Campuchia trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước ở Đông Dương.
+ Chủ trương của Pháp là chỉ giải quyết vấn đề quân sự, tách vấn đề Lào và
Campuchia ra khỏi vấn đề Việt Nam.
- Sau một thời gian đàm phán căng thẳng và nhiều lúc dậm chân tại chỗ, ngày
21/7/1954, Hội nghị Geneva đi đến giải pháp và ký kết Hiệp định. Hiệp định quy định:
+ Các nước tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân ba nước Đông
Dương.
+ Pháp rút quân khỏi ba nước Đông Dương.
+ Vĩ tuyến 17 là giới tuyến quân sự tạm thời.
+ Tháng 7/1956, tổng tuyển cử tự do thống nhất đất nước ở Việt Nam.
- Riêng đoàn Mỹ không ký vào bản Hiệp định và chỉ ra một bản tuyên bố ghi nhận.
Đây là sự chuẩn bị trước cho việc Mỹ không thực hiện Hiệp định say này.
- Như vậy, Hiệp định Geneva cùng với chiến thắng Điện Biên Phủ đã góp phần chấm
dứt chiến tranh của Pháp ở Đông Dương. Miền Bắc Việt Nam hoàn toàn được giải
phóng, có điều kiện hòa bình để xây dựng đất nước, làm tiền đề cho sự nghiệp giải phóng
miền Nam sau này.
- Tuy nhiên, Hiệp định Geneva không phản ánh đầy đủ những thắng lợi của quân dân
ta trên chiến trường, thể hiện trong những quy định về chia giới tuyến quân sự tạm thời,
thời hạn tổng tuyển cử, giải pháp Lào và Campuchia. Nguyên nhân là do ta không nắm
đầy đủ tình hình và ý đồ của các bên đàm phán, chưa có kinh nghiệm để giữ vững độc lập
tự chủ trong Hội nghị quốc tế.
2.1.4. Ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm của Đảng trong kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ
a. Nguyên nhân và ý nghĩa lịch sử
* Nguyên nhân thắng lợi:
- Dân tộc Việt Nam có truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ nước lâu dài, có một
lòng yêu nước nồng nàn, ý chí độc lập tự cường, kiên cường bất khuất, đùm bọc, đoàn kết
thống nhất. Chủ nghĩa dân tộc, giá trị tinh thần truyền thống là một động lực lớn của đất
nước, là điểm tựa vững chắc cho Việt Nam trong công cuộc đấu tranh, bảo vệ và xây
dựng một quốc gia độc lập.
- Cuộc kháng chiến chống Pháp được Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu lãnh đạo. Với đường lối chính trị, quân sự đúng
đắn, đoàn kết nhất trí, liên hệ mật thiết với nhân dân, chiến đấu dũng cảm, sáng tạo đã
góp phần làm nên thắng lợi cuối cùng.
- Lực lượng toàn dân được động viên và tập hợp trong các đoàn thể quần chúng, trong
mặt trận Việt Minh, Liên Việt là lực lượng tiến hành kháng chiến toàn diện và xây dựng
68
chế độ mới, là cơ sở để tổ chức và thực hiện chiến lược toàn dân kháng chiến, đặc biệt là
lực lượng vũ trang gồm ba thứ quân làm nòng cốt.
- Chính quyền dân chủ nhân dân của dân, do dân và vì dân được củng cố ngày càng
lớn mạnh. Đó là một công cụ tổ chức toàn dân kháng chiến và xây dựng chế độ mới.
- Hậu phương của cuộc kháng chiến chống Pháp được xây dựng ngày càng mở rộng
và vững chắc về mọi mặt, bảo đảm sự chi viện ngày càng lớn sức người, sức của và tinh
thần chính trị cho tiền tuyến chiến đấu và chiến thắng.
- Tinh thần đoàn kết liên minh chiến đấu của ba dân tộc Việt Nam-Lào-Campuchia
trong sự nghiệp chống kẻ thù chung là thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. Đây cũng là điển
hình của chủ nghĩa quốc tế vô sản.
- Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam còn được sự ủng hộ, giúp đỡ của Liên
Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa, của Đảng Cộng sản và nhân dân Pháp tiến
bộ cùng các lực lượng dân tộc dân chủ ở châu Á và thế giới.
* Ý nghĩa lịch sử:
- Thực dân Pháp buộc phải thừa nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ của Việt Nam, Lào, Campuchia và phải rút quân ra khỏi ba nước.
- Ách thống trị của chủ nghĩa thực dân Pháp bị đập tan ở ba nước Đông Dương.
Thắng lợi này mở đầu cho sự phá sản của chủ nghĩa thực dân cũ, trước hết là hệ thống
thuộc địa của Pháp.
- Góp phần cổ vũ mạnh mẽ cho phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
- Những kinh nghiệm và thành tựu của Đảng và nhân dân thu được trong chiến tranh
chống Pháp là sự đóng góp quý giá vào kho tàng lý luận giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ
quốc.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá về ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống
Pháp: “Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước
thực dân hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời
cũng là một thắng lợi của các lực lượng hòa bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế
giới”.
b. Kinh nghiệm lịch sử
- Xác định đúng và quán triệt đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài,
tự lực cánh sinh, nhất định thắng lợi.
- Vừa kháng chiến vừa xây dựng chế độ mới.
- Vừa chiến đấu vừa xây dựng lực lượng chiến đấu.
- Phương thức tiến hành chiến tranh thích hợp.
- Nâng cao sức chiến đấu và hiệu lực lãnh đạo của Đảng trong chiến tranh.

69
2.2. Lãnh đạo xây dựng CNXH ở miền Bắc và kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm
lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1954-1975)
2.2.1. Lãnh đạo cách mạng hai miền giai đoạn 1954 - 1965
a. Đặc điểm nước ta sau tháng 7/1954
* Tình hình thế giới:
- Nhân dân ta bước vào thời kỳ mới giữa lúc ba dòng thác cách mạng đang dâng cao
trên thế giới.
- Sự lớn mạnh của Liên Xô, sự hình thành hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, thắng
lợi của phong trào giải phóng dân tộc ở Á-Phi-Mỹ Latin, xu thế hòa bình, trung lập đã
làm lung lay tận gốc chủ nghĩa thực dân cũ và bước đầu gây khủng hoảng cho chủ nghĩa
thực dân mới.
- Âm mưu làm bá chủ thế giới của Mỹ bằng chiến lược ngăn chặn sự phát triển của
chủ nghĩa xã hội và đánh phá phong trào giải phóng dân tộc.
 Việt Nam trở thành đối tượng xâm lược trọng điểm của Mỹ trong chiến lược
toàn cầu lúc bấy giờ.
* Đặc điểm chủ yếu của thời kỳ mới ở nước ta là chế độ thực dân cũ của Pháp chấm
dứt trên toàn bộ bán đảo Đông Dương, nhưng chế độ thực dân mới của Mỹ lại thay Pháp
thống trị miền Nam Việt Nam, uy hiếp Campuchia và khống chế Lào; miền Bắc được
hoàn toàn giải phóng quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong khi miền Nam trở thành thuộc địa
kiểu mới của đế quốc Mỹ.
- Ngày 8/8/1954, Hội đồng quốc gia an ninh Mỹ do Tổng thống Eisenhower ra quyết
định: Pháp phải nhanh chóng rút hết khỏi miền Nam Việt Nam và phải ủng hộ Ngô Đình
Diệm; Mỹ trực tiếp chi viện cho chính quyền thân Mỹ ở miền Nam Việt Nam không qua
Pháp; loại bỏ Bảo Đại, quốc trưởng Việt Nam dưới thời Pháp xâm lược.
- Ngày 7/7/1954, ở miền Nam, chính quyền thân Mỹ được thành lập do Ngô Đình
Diệm làm Thủ tướng kiểm Tổng trưởng Quốc phòng.
 17/7/1954, Ngô Đình Diệm tuyên bố không có hiệp thương tổng tuyển cử.
 23/10/1954, chính quyền Việt Nam Cộng hòa tổ chức cuộc trưng cầu dân ý,
phế truất Bảo Đại và Ngô Đình Diệm lên làm Tổng thống.
- Sau khi gạt Pháp ra khỏi guồng máy cai trị và độc chiếm miền Nam, chính quyền
Ngô Đình Diệm dưới sự giúp sức to lớn của Mỹ tập trung mũi nhọn đàn áp cách mạng.
 Mở liên tiếp các cuộc hành quân càn quét, các chiến dịch “tố cộng, diệt cộng”
với khẩu hiệu “đạp lên oán thù, thà giết lầm còn hơn bỏ sót”, “dĩ Đảng trị Đảng, dĩ dân trị
dân”.
 Cho đến cuối năm 1955, hàng trăm ngàn cán bộ, đảng viên và quần chúng yêu
nước bị giết hại.

70
 Mỹ tin chắc rằng, với bộ máy chính quyền do Ngô Đình Diệm đứng đầu và
quân đội Việt Nam Cộng hòa do Mỹ lập nên, Mỹ sẽ giành thắng lợi một cách dễ dàng ở
miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, thực tế lịch sử chiến tranh, Mỹ đã đánh giá thấp đất
nước, xã hội và con người Việt Nam, tự đánh giá quá cao sức mạnh của mình, từ đó đã
dẫn đến những hậu quả sau này mà Mỹ và chính quyền VNCH phải gánh lấy một cách
nặng nề.
* Đối với cách mạng Việt Nam lúc này, đánh thắng chủ nghĩa thực dân mới là vấn đề
mới và quan trọng nhất. Kẻ thù lúc này của nhân dân Việt Nam là đế quốc Mỹ có tiềm
lực kinh tế và quốc phòng mạnh hơn lực lượng của các đế quốc khác cộng lại gấp nhiều
lần.
- Lực lượng cách mạng miền Nam tạm thời ở thế giữ gìn lực lượng. Các tổ chức
Đảng, tổ chức cách mạng ở miền Nam phải rút vào hoạt động bí mật, không hợp pháp sau
Hiệp định Geneva.
- Miền Bắc hoàn toàn giải phóng do nhân dân làm chủ đi theo xu thế tất yếu là quá độ
lên chủ nghĩa xã hội.
 Những thuận lợi mới và căn bản của đất nước bảo đảm cho cách mạng nước ta
nhất định thắng lợi. Những khó khăn mới đòi hỏi cách mạng nước ta phải trải qua thời kỳ
gian khổ, lâu dài.
 Trách nhiệm lịch sử đặt lên vai Đảng Lao động Việt Nam, đó là tìm ra con
đường giải phóng miền Nam và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trong
điều kiện Mỹ đã thay chân Pháp thống trị ở miền Nam.
b. Chủ trương đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội và tiếp tục thực hiện cách
mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam
- Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II (tháng 7/1954) tại
Việt Bắc do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì đã xem xét, đánh giá tình hình mới và vạch ra
sự chuyển hướng trong đường lối chiến lược của Đảng. Bản báo cáo Tình hình mới và
nhiệm vụ do Hồ Chủ tịch trình bày đã nêu lên ba nhiệm vụ chính lúc này của cách mạng
nước ta:
+ Tranh thủ và củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân
chủ trong toàn quốc.
+ Tăng cường lực lượng quân đội nhân dân, xây dựng một quân đội nhân dân
mạnh mẽ và thích hợp với yêu cầu của tình thế mới.
+ Tiếp tục thực hiện người cày có ruộng; ra sức phục hồi sản xuất, chuẩn bị điều
kiện kiến thiết nước nhà.
 Công tác chủ yếu trước mắt là làm cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhận rõ
tính chất, nội dung tình hình và nhiệm vụ mới.

71
- Cũng tháng 7/1954, Hồ Chủ tịch ra Lời kêu gọi đồng bào và cán bộ chiến sĩ cả nước,
“ra sức phấn đấu để củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ
trong toàn quốc.”
- Tháng 9/1954, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra nghị quyết cụ thể
hóa và bổ sung thêm Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu.
 Đặc điểm quan trọng nhất của tình hình mới là Nam, Bắc tạm thời phân chia
làm hai vùng. Mỹ và chính quyền Sài Gòn đang mưu tính phá hoại Hiệp định Geneva
nhằm chia cắt lâu dài Việt Nam. Cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam phải chuyển từ
đấu tranh vũ trang sang đấu tranh chính trị.
- Đối với cách mạng miền Nam, Bộ Chính trị ra chỉ thị, phân tích tình hình khó khăn,
không thuận lợi trước mắt và lâu dài, đồng thời vạch ra ba nhiệm vụ cụ thể cần thực hiện
ngay lúc này:
+ Đấu tranh đòi đối phương thi hành đúng Hiệp định.
+ Chuyển hướng công tác cho thích hợp điều kiện mới, nắm vững phương châm,
chính sách mới, sắp xếp cán bộ, bố trí lực lượng, vừa che giấu lực lượng vừa lợi dụng các
khả năng công khai, hợp pháp.
+ Tập hợp mọi lực lượng dân tộc, dân chủ, hòa bình, thống nhất, đấu tranh đánh
đổ chính quyền Ngô Đình Diệm thân Mỹ, lập ra một chính quyền tán thành hòa bình
thống nhất, độc lập, dân chủ, cải thiện dân sinh, tăng cường vận động binh sĩ và những
người làm trong chính quyền Sài Gòn.
- Đối với việc xây dựng miền Bắc, Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 9/1954 vạch rõ:
+ Việc trước mắt là ổn định xã hội, vật giá, thị trường, làm cho mọi hoạt động của
thành phố và nông thôn trở lại bình thường, sau đó tiến hành những cải cách cần thiết
từng bước một, thận trọng, vững chắc.
+ Nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của miền Bắc là hàn gắn vết thương chiến tranh;
phục hồi kinh tế quốc dân, then chốt là phục hồi và phát triển sản xuất nông nghiệp, đồng
thời phục hồi giao thông vận tải.
+ Tăng cường và mở rộng hoạt động quốc tế dựa trên nguyên tắc bình đẳng, hai
bên đều có lợi, tôn trọng lãnh thổ, chủ quyền của nhau; tập trung mũi nhọn đấu tranh
chống Mỹ, mở rộng quan hệ với các nước Đông Nam Á, nước Pháp; củng cố tình hữu
nghị giữa Việt Nam, Lào và Campuchia, với Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội
chủ nghĩa.
- Hai hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 3 và tháng 8/1955 đã nhận
định tình hình ở miền Nam lúc này, Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm công khai chống
phá Hiệp định Geneva.
 Muốn chống Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm, củng cố hòa bình, thực hiện
thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ, điều cốt yếu là phải ra sức củng cố miền Bắc,
72
đồng thời giữ vững và và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam. Miền Bắc sẽ
tiến dần từng bước lên chủ nghĩa xã hội.
 Thực tiễn cách mạng ở hai miền đã làm nảy sinh và phát triển nhiều vấn đề
mới, đòi hỏi Đảng ta phải đi sâu nghiên cứu, vạch ra đường lối cách mạng của từng miền
và xác định mối quan hệ giữa cách mạng hai miền.
- Tháng 1/1956, trong tài liệu “Mấy vấn đề về đường lối cách mạng Việt Nam”, Bộ
Chính trị đã nhận định từ khi hòa bình lập lại, miền Bắc nước ta đã chuyển sang cách
mạng xã hội chủ nghĩa.
- Hội nghị Bộ Chính trị tháng 6/1956 đã bổ sung: tuy đấu tranh chính trị là hình thức
đấu tranh chung trong cả nước, nhưng không có nghĩa tuyệt đối là không dùng vũ trang
tự vệ trong những hoàn cảnh nhất định.
- Nhằm đáp ứng yêu cầu cấp thiết của cách mạng, từ năm 1955 đến 1956, đồng chí Lê
Duẩn, Ủy viên Bộ Chính trị phụ trách miền Nam, đã dự thảo Đề cương cách mạng miền
Nam. Đề cương vạch rõ: đã không có tổng tuyển cử thống nhất đất nước vào tháng
7/1956 như Hiệp định Geneva quy định, ách áp bức, bóc lột, tù đày, chém giết man rợ
của chế độ thực dân mới phát-xít độc tài Mỹ-Diệm buộc nhân dân ta ở miền Nam phải
vùng dậy đập tan chế độ Mỹ-Diệm để cứu nước, cứu mình. Ngoài con đường cách mạng,
nhân dân miền Nam không có con đường nào khác.
c. Thực hiện các kế hoạch nhà nước ở miền Bắc và đấu tranh chống Mỹ và tay sai ở
miền Nam 1954-1965
* Khôi phục kinh tế và bước đầu củng cố miền Bắc (1954-1960)
- Miền Bắc bắt tay vào khôi phục kinh tế trong điều kiện có nhiều khó khăn:
+ Nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề nghiêm
trọng. Ruộng đất bỏ hoang nhiều, phần lớn chỉ là cày cấy một vụ.
+ Thiên tai liên tiếp xảy ra. Hàng trăm ngàn người vô gia cư, thất nghiệp, đói kém
thiếu thốn.
+ Các bệnh tật, tệ nạn xã hội hoành hành.
+ Phần lớn xí nghiệp ngưng hoạt động, hàng hóa khan hiếm.
+ Đội ngũ kỹ sư, cán bộ kỹ thuật chỉ có 30 người sau chiến tranh.
+ Thực dân Pháp khi rút quân khỏi miền Bắc theo điều khoản của Hiệp định
Geneva đã có nhiều hành động vi phạm một cách trắng trợn: Phá hủy, vơ vét, tháo dỡ
máy móc, vật tư, thiết bị hòng làm cho sản xuất miền Bắc đình trệ, gây khó khăn cho ta
trong việc trao trả tù binh và tù chính trị, tìm cách bắt lính, dụ dỗ và cưỡng bức đồng bào
ta di cư vào Nam...
 Nhiệm vụ cấp bách trước mắt của miền Bắc là tiếp quản những vùng mới giải
phóng theo quy định của Hiệp định Geneva. Việc tiếp quản đã diễn ra bước đầu thuận lợi

73
do được nhân dân đồng tình ủng hộ và có sự chuẩn bị chu đáo nên giữ được trật tự xã hội
và sinh hoạt hằng ngày.
- Một trong những nhiệm vụ quan trọng của thời kỳ mới giải phóng miền Bắc đó là
đấu tranh chống âm mưu địch dụ dỗ, cưỡng ép đồng bào ta di cư vào Nam. Mỹ-Pháp đã
tung ra các tin đồn bịa đặt: “Chính phủ Việt Minh cấm đạo”; “Chúa đã vào Nam”; “Giáo
dân ở lại miền Bắc sẽ bị rút phép thông công”; “Ở với Cộng sản sẽ bị mất linh hồn”…
 Tuy Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm đấu tranh chống
lại âm mưu này của Pháp-Mỹ và thu được một số thắng lợi, nhưng cuối cùng vẫn có gần
một triệu đồng bào miền Bắc đã di cư vào Nam.
- Sau kháng chiến chống Pháp, phong trào cải cách ruộng đất tiếp tục được thực hiện
trên phạm vi toàn miền Bắc. Nhờ thực hiện việc này một cách ráo riết và mạnh mẽ, chế
độ chiếm hữu ruộng đất phong kiến ở miền Bắc nước ta đến đây bị xóa bỏ hoàn toàn. 9
triệu người trong hơn 2 triệu hộ nông dân lao động đã được chia hơn 810000 ha ruộng
đất.
+ Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện cải cách ruộng đất, ta đã phạm phải những
sai lầm nghiệm trọng, phổ biến và kéo dài. Tháng 4/1956, Đảng đã phát hiện sai lầm của
phong trào này và có chỉ thị sửa chữa những sai lầm đó.
+ Tháng 8/1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho đồng bào nông thôn và cán
bộ khẳng định cải cách ruộng đất thắng lợi to lớn những đã mắc phải những khuyết điểm,
sai lầm nghiêm trọng. Người kêu gọi nhân dân và cán bộ phát huy những thắng lợi và
khắc phục, sửa chữa những sai lầm.
+ Hội nghị lần thứ 10 (tháng 10/1956) và sau này là Hội nghị lần thứ 14 (tháng
11/1958) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã phân tích và chỉ rõ những sai lầm,
khuyết điểm của Cải cách ruộng đất ở miền Bắc:
a. Vi phạm đường lối giai cấp ở nông thôn: xâm phạm lợi ích trung nông, không
liên hiệp phú nông, không phân biệt đối đãi các loại địa chủ, không chiếu cố địa chủ
kháng chiến.
b. Cường điệu việc trấn áp phản cách mạng.
c. Không dựa vào tổ chức cũ, không giao cho tổ chức Đảng địa phương lãnh đạo
cải cách ruộng đất, mắc chủ nghĩa thành phần và khuynh hướng trừng phạt.
d. Lạm dụng các biện pháp phát động quần chúng, nặng đấu tố nhẹ giáo dục,
không kết hợp biện pháp hành chính với phát động quần chúng. Sai lầm nghiêm trọng
nhất là trong việc chỉnh đốn tổ chức.
+ Nguồn gốc của những sai lầm là do không nắm vững những biến đổi ở nông
thôn miền Bắc sau Cách mạng Tháng Tám và trong kháng chiến chống Pháp, rập khuôn
một cách máy móc kinh nghiệm của nước ngoài.

74
 Sau này, khi tổng kết một số vấn đề lịch sử của Đảng thời kỳ 1954-1975, Bộ
Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII cho rằng “Căn cứ tình hình thực tế
nông thôn miền Bắc nước ta sau năm 1954… thì chủ trương cải cách ruộng đất như đã
làm là không cần thiết”.
- Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Đảng
ta một mặt sửa chữa những sai lầm, mặt khác có những biện pháp củng cố và phát huy
thắng lợi, đẩy mạnh cuộc vận động tổ đổi công, hợp tác xã mua bán và hợp tác xã tín
dụng, đưa nông thôn miền Bắc tiến lên. Công tác sửa chữa sai lầm trong cải cách ruộng
đất có những kết quả tốt.
 Nhiệm vụ khôi phục kinh tế cơ bản hoàn thành. Năm 1957 miền Bắc được mùa
lớn, nạn đói bị đẩy lùi, lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Chính phủ được khôi phục.
Khối liên minh công nông được củng cố. Nông thôn ổn định. Sự lãnh đạo của Đảng được
tăng cường.
- Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II (tháng 12/1957)
khẳng định sự thắng lợi về khôi phục kinh tế và đề ra nhiệm vụ soạn thảo đường lối cách
mạng trong giai đoạn mới.
* Nghị quyết 16 và phong trào cải tạo xã hội chủ nghĩa
- Tháng 11/1958, Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II họp
bàn chủ trương phát triển kinh tế-văn hóa trong kế hoạch 3 năm 1958-1960 và cải tạo xã
hội chủ nghĩa đối với kinh tế cá thể và kinh tế tư bản tư doanh.
- Trong xu thế tiến lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tháng 4/1959, Hội nghị lần thứ
16 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II đã họp bàn, thảo luận và thông qua hai nghị
quyết quan trọng: Nghị quyết về vấn đề hợp tác hóa nông nghiệp và Nghị quyết về vấn đề
cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh.
+ Về nông nghiệp, nông thôn: trên đà chuyển biến mới của tình hình, chuẩn bị về
mọi mặt đường lối, chính sách, tư tưởng, tổ chức, cán bộ và kế hoạch để phát triển tổ đổi
công và hợp tác xã sản xuất nông nghiệp một cách tích cực và vững chắc, chuẩn bị tiến
tới cao trào cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nông thôn. Ba nguyên tắc trong xây dựng hợp
tác xã: tự nguyện, cùng có lợi và quản lý dân chủ.
+ Về cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh: Hội
nghị 16 nhận định: miền Bắc tiền hành cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh trong
lúc đã có Nhà nước dân chủ nhân dân, do giai cấp công nhân lãnh đạo, dựa trên nền tảng
liên minh công công vững chắc, có lực lượng kinh tế quốc doanh ngày càng lớn mạnh.
Giai cấp tư sản ở miền Bắc vốn vừa và nhỏ, là bạn đồng minh của giai cấp công nhân
trong cách mạng có khả năng tiếp thu chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, Đảng chủ trương cải tạo
hòa bình đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh.

75
 Chủ trương đưa xí nghiệp tư bản tư doanh từ hình thức thấp lên hình thức cao
của chủ nghĩa tư bản nhà nước, chủ yếu là hình thức công tư hợp doanh, chuyển chế độ
chiếm hữu tư bản chủ nghĩa thành chế độ sở hữu của toàn dân. Điểm mấu chốt trong
chính sách này là chuộc lại tư liệu sản xuất, sắp xếp công việc cho người tư sản trong xí
nghiệp, dần dần cải tạo họ thành người lao động.
- Ngày 1/1/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố Hiến pháp mới nêu rõ: Nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa tiến dần từ chế độ dân chủ nhân dân lên chủ nghĩa xã hội bằng
cách phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội, biến nền kinh tế lạc
hậu thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại,
khoa học và kỹ thuật tiên tiến.
- Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện phong trào hợp tác hóa nông nghiệp 1959 –
1960 đã mắc các khuyết điểm nóng vội, vi phạm nguyên tắc tự nguyện và cùng có lợi,
không nắm vững phương châm tốt, vững, gọn, chưa tìm ra hình thức quản lý hợp tác xã
thích hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
- Tháng 9/1960, 100% số doanh nghiệp tư bản tư nhân thuộc diện cải tạo đã được tổ
chức thành xí nghiệp công tư hợp doanh, xí nghiệp hợp tác hoặc hợp tác xã thủ công
nghiệp.
- Tháng 10/1960, gần 90% tổng số thợ thủ công trong diện cải tạo đã tham gia hợp tác
xã thủ công nghiệp bậc vừa và thấp.
- Cuối năm 1960, đã có 60% tổng số người buôn bán nhỏ tham gia hợp tác xã hoặc tổ
mua bán.
 Thắng lợi của kế hoạch 3 năm 1958-1960 về cải tạo xã hội chủ nghĩa đã tạo nên
những chuyển biến cách mạng trong nền kinh tế và xã hội ở miền Bắc nước ta. Miền Bắc
được củng cố, trở thành hậu phương ổn định, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng
miền Nam.
* Đại hội lần thứ III của Đảng (tháng 9/1960)
- Từ ngày 5 đến ngày 10/9/1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng họp
tại Thủ đô Hà Nội. Có 525 đại biểu chính thức và 51 đại biểu dự khuyết thay mặt cho hơn
50 vạn đảng viên trong cả nước về dự.
- Chủ tịch Đảng Hồ Chí Minh đã đọc lời khai mạc, nêu rõ: “Đại hội lần này là Đại hội
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà”.
- Đồng chí Lê Duẩn đã trình bày Báo cáo chính trị tại Đại hội, trong đó có các nội
dung chủ yếu sau:
+ Khẳng định nhiệm vụ cách mạng của cả nước là xây dựng một nước Việt Nam
hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh và của từng miền là giải phóng miền
Nam, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội.

76
+ Đối với cách mạng miền Nam, đó là một quá trình lâu dài, gian khổ, không phải
giản đơn mà rất phức tạp kết hợp nhiều hình thức đấu tranh linh hoạt từ thấp đến cao, hợp
pháp và không hợp pháp và lấy việc xây dựng, củng cố, phát triển lực lượng cách mạng
của quần chúng làm cơ sở.
+ Đối với cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, Đại hội xác định đường lối
chung của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc là: Đoàn kết toàn dân, phát
huy tinh thần yêu nước nồng nàn và truyền thống phấn đấu anh dũng, lao động cần cù của
nhân dân ta, đồng thời tăng cường đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa anh em do
Liên Xô đứng đầu, đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã
hội, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố miền Bắc thành cơ sở
vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, góp phần tăng
cường phe xã hội chủ nghĩa, bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và trên thế giới.
 Phải sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên
chính vô sản để thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp,
thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản tư doanh, phát triển thành phần kinh tế
quốc doanh; thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa với việc ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp
nhẹ, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng, văn hóa, kỹ thuật, biến nước ta
thành một nước xã hội chủ nghĩa có công nghiệp, nông nghiệp hiện đại, văn hóa và khoa
học tiên tiến.
 Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng tâm của cả thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
+ Đề ra nhiệm vụ và phương hướng của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1951-1965),
ra sức phấn đấu thực hiện một bước công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, đồng thời hoàn
thành cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
+ Về đối ngoại, ra sức góp phần tăng cường sự đoàn kết, nhất trí trong phong trào
cộng sản quốc tế, duy trì và củng cố hòa bình ở Đông Nam Á, góp phần tăng cường
phong trào độc lập dân tộc và củng cố hệ thống xã hội chủ nghĩa.
+ Về sự lãnh đạo của Đảng, có 8 bài học được đúc rút trong 30 năm kể từ Đảng
thành lập: xây dựng Đảng Marx-Lenin, có đường lối đúng, liên minh công nông, mặt trận
thống nhất, kết hợp các hình thức đấu tranh, tăng cường Nhà nước của dân, lợi dụng mâu
thuẫn trong nội bộ kẻ thù, đoàn kết quốc tế.
 Đoàn kết, nhất trí trong Đảng là điều kiện cơ bản đoàn kết toàn dân.
- Báo cáo về xây dựng Đảng và sửa đổi điều lệ Đảng nêu rõ nhiệm vụ xây dựng Đảng
trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà:
nâng cao trình độ lý luận và tư tưởng trong Đảng; mở rộng dân chủ và tăng cường tập
trung trong sinh hoạt Đảng; thấu suốt đường lối quần chúng của Đảng; tăng cường đoàn
77
kết, thống nhất trong Đảng trên cơ sở phê bình và tự phê bình; tăng cường vai trò lãnh
đạo của Đảng.
- Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Trung ương mới, đồng thời cử ra Bộ Chính trị gồm
11 ủy viên chính thức. Hồ Chí Minh được bầu lại làm Chủ tịch Đảng và Lê Duẩn làm Bí
thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
- Ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của giai đoạn 1954-1960: (tự nghiên cứu)
* Đẩy mạnh xây dựng miền Bắc 1960-1965:
- Trung ương Đảng đã tiến hành họp một số cuộc hội nghị bàn giải pháp xây dựng cơ
sở vật chất kỹ thuật và củng cố xây dựng miền Bắc về mọi mặt.
- Tháng 01/1961, Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa III thông
qua những nhiệm vụ chủ yếu của kế hoạch nhà nước năm 1961, tập trung vào việc củng
cố và phát triển hợp tác xã nông nghiệp. Tháng 07/1961, Trung ương Đảng họp hội nghị
lần thứ năm chủ trương đẩy mạnh phát triển nông nghiệp toàn diện, giải quyết vấn đề
lương thực là chính, đẩy mạnh chăn nuôi, thả cá, nghề phụ.
- Tháng 02/1961, Bộ Chính trị quyết định mở cuộc chính huấn mùa Xuân năm 1961.
Nhiều trường hợp điển hình tiên tiến, là lá cờ đầu trong thi đua sản xuất, học tập như nhà
máy cơ khí Duyên Hải (Hải Phòng), hợp tác xã Đại Phong (Quảng Bình), phong trào thi
đua Ba nhất trong quân đội, phong trào Hai tốt trong ngành giáo dục đi đầu là Trường
phổ thông cấp II Bắc Lý (Hà Nam).
- Tháng 11/1961, Bộ Chính trị chủ trương mở cuộc vận động cải tiến quản lý hợp tác
xã, cải tiến kỹ thuật nhằm phát triển nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ, vững chắc. Đến
năm 1965, 88,8% số hộ nông dân đã vào hợp tác xã nông nghiệp. Từ một nền nông
nghiệp lạc hậu, độc canh, năng suất thấp, tự cấp tự túc, nông nghiệp miền Bắc đã phát
triển tương đối toàn diện, giải quyết một phần nhu cầu lương thực thực phẩm, nguyên
liệu cho công nghiệp… Tuy nhiên, việc xây dựng quan hệ sản xuất và tổ chức sản xuất
nông nghiệp còn có nhiều yếu kém, trình độ quản lý của cán bộ còn non kém…
- Từ năm 1961 đến 1965, miền Bắc đã thực hiện được một bước đáng kể kế hoạch
xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật. Các ngành công nghiệp chủ yếu như điện, cơ khí,
luyện kim, hóa chất, vật liệu xây dựng… hình thành và phát triển nhanh.
- Tháng 12/1964, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa III họp Hội nghị lần thứ 10
bàn về thương nghiệp và giá cả. Hội nghị đã bổ sung hai điểm quan trọng vào đường lối
cách mạng XHCN: a) Trong điều kiện còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu, lực lượng sản
xuất chưa phát triển, sản phẩm xã hội chưa dồi dào, sự tồn tại và phát triển của kinh tế
hàng hóa ở miền Bắc nước ta là một tất yếu khách quan; b) Tiến hành đồng thời ba cuộc
cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và
văn hóa, lấy cách mạng kỹ thuật làm then chốt.

78
- Kế hoạch 5 năm xây dựng miền Bắc cũng thu được nhiều thành tựu trên tất cả các
mặt văn hóa – xã hội, quốc phòng – an ninh, hoạt động đối ngoại. Nhiệm vụ xây dựng
CNXH trên miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam và đoàn kết quốc tế đặt ra những
yêu cầu mới về xây dựng Đảng, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng.
 Đến cuối năm 1964, kế hoạch 5 năm lần thứ nhất đã giành được những thắng lợi
quan trọng. Miền Bắc trở thành hậu phương vững chắc của cả nước.
d. Nhân dân miền Nam đấu tranh chống đế quốc Mỹ và tai sai
* Giữ gìn lực lượng cách mạng ở miền Nam (1954-1959)
- Tháng 10/1954, tại khu căn cứ U Minh hạ, Hội nghị lập lại Xứ ủy Nam Bộ do đồng
chí Lê Duẩn chủ trì đã nghiên cứu các nghị quyết của Trung ương và Bộ Chính trị về
nhiệm vụ trong tình hình mới. Hội nghị nhận định tình hình lúc đó có hai khả năng: có
thể Mỹ-Diệm buộc phải thi hành Hiệp định Geneva và cũng có không thi hành Hiệp định.
 Cách mạng miền Nam cần có kế hoạch đối phó với cả hai tình huống. Trước
mắt, cần vận động nhân dân đấu tranh buộc đế quốc Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm
phải thi hành Hiệp định Geneva.
 Hội nghị chủ trương trong tình hình mới cần phải vừa coi trọng củng cố và phát
triển cơ sở ở nông thôn, vừa mở rộng và đẩy mạnh công tác đô thị. Nhiệm vụ chính của
Đảng bộ là lãnh đạo giữ gìn lực lượng cách mạng. Hội nghị cũng quyết định điều chỉnh
tổ chức và chuyển hoạt động của các tổ chức Đảng vào bí mật.
- Đến năm 1955, ở miền Nam, về cơ bản bộ máy chỉ đạo của Đảng bộ các cấp đã
được sắp xếp lại và rút vào hoạt động bí mật. Những cán bộ đã bị lộ được điều động sang
hoạt động ở địa phương khác hoặc tạm ngừng hoạt động để che giấu lực lượng. Việc vận
động ngụy quân, ngụy quyền và đưa người của ta vào hoạt động trong tổ chức của địch
cũng được chú ý. Các tổ chức quần chúng công khai được hình thành. Ở các đô thị có
phong trào đấu tranh bảo vệ hòa bình, đòi hiệp thương tổng tuyển cử, đòi việc làm, chống
khủng bố, chống sa thải công nhân, đòi ngày làm 8 giờ, đòi giảm thuế…
- Trong các cuộc đấu tranh đó, quyết liệt, dai dẳng nhất là đấu tranh chống “tố cộng,
diệt cộng”. Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm bắt những cán bộ, đảng viên và những
người yêu nước tham gia kháng chiến chống Pháp phải ra “trình diện”, phải “đầu thú” và
tập trung “cải huấn”. Chúng cho rằng, với những thủ đoạn ấy, cán bộ, đảng viên nếu
không bị tù, bị giết thì “sinh mạng chính trị” cũng đã bị tiêu diệt, không còn khả năng
hoạt động nữa.
 Ngày 1/12/1955, Trung ương Đảng ra chỉ thị cho các Đảng bộ miền Nam về
chống “tố cộng”, góp phần vạch trần âm mưu của Mỹ-Diệm, nêu cao vai trò của Đảng
với dân tộc, nhân dân. Cản bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần cảnh giác, tích cực, chủ
động, sẵn sàng đối phó với mọi âm mưu của đối phương.

79
- Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm đã gây ra những vụ tàn sát đẫm máu như ở Chợ
Được (Quảng Nam) ngày 4/9/1954, Mỏ Cảy, Bình Đại (Bến Tre) ngày 19/8/1954…
Trong vòng 10 tháng (từ tháng 7/1955 đến tháng 5/1956) chúng đã bắt, giết 108.835
người.
- Trước hành động khủng bố tàn bạo của đối phương, yêu cầu vũ trang ngày cảng trở
nên cấp bách. Nhân dân nhiều nơi đã tổ chức các đội tự vệ làm nhiệm vụ bảo vệ cán bộ,
bảo vệ cơ quan, bảo vệ phong trào cách mạng.
- Sau khi có chủ trương của Đảng về đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ
trang tự vệ, hoạt động vũ trang tuyên truyền được đẩy mạnh ở Nam Bộ và Liên khu V.
- Đồng thời các Đảng bộ ở miền Nam đã lãnh đạo nhân dân lợi dụng hình thức hợp
pháp để che giấu lực lượng cách mạng, lợi dụng việc bầu cử của Mỹ-Diệm để đưa người
của ta vào các cấp chính quyền và lập tề hai mang.
 Phong trào cách mạng ngày càng lên cao là tiếng súng báo hiệu sự chuyển
mình của cách mạng miền Nam sắp diễn ra.
- Hoảng hốt trước làn sóng quật khởi của nhân dân ta, Mỹ-Diệm đã tiến hành khủng
bố trắng nhằm ngăn chặn làn sóng cách mạng. Chúng tổ chức đầu độc 5000 cán bộ cách
mạng và những người yêu nước ở nhà giam Phú Lợi (Thủ Dầu Một) vào ngày 1/12/1958.
 Tháng 3/1959, chính quyền Việt Nam Cộng hòa tuyên bố “đặt miền Nam trong
tình trạng chiến tranh”. Tháng 5/1959, Mỹ-Diệm ra đạo luật 10/59. Tòa án quân sự đặt
biệt có quyền đưa thẳng người bị bắt ra xét xử và có quyền bắn tại chỗ. 
Tính đến năm 1959, ở miền Nam có 466000 người bị bắt, 400000 người bị tù đày, 68000
người bị giết hại.
 Điều này chứng tỏ, chính quyền Ngô Đình Diệm không thể thống trị ở miền
Nam như cũ được nữa, nhân dân miền Nam không thể chịu đựng mãi ách thống trị của
Mỹ-Diệm. Tình thế cách mạng cho các cuộc khởi nghĩa từng phần nổ ra đã chín muồi.
* Nghị quyết 15 và phong trào Đồng khởi:
- Trước xu thế phong trào cách mạng lên cao ở miền Nam Việt Nam, Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa II đã họp Hội nghị lần thứ 15 vào tháng 1/1959.
+ Hội nghị chỉ rõ hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam: một là, mâu thuẫn
giữa chủ nghĩa đế quốc xâm lược, giai cấp địa chủ phong kiến và tư sản mại bản quan
liêu thống trị ở miền Nam với toàn thể dân tộc Việt Nam cả ở miền Nam lẫn miền Bắc;
hai là, mâu thuẫn giữa con đường xã hội chủ nghĩa với con đường tư bản chủ nghĩa ở
miền Bắc.  Hai mâu thuẫn này có mối quan hệ biện chứng và tác động lẫn nhau dù tính
chất khác nhau.
+ Hội nghị nhất trí đề ra nhiệm vu của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới
là: Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh để giữ vững hòa bình, thực thiện
thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân
80
tộc dân chủ trong cả nước, ra sức củng cố miền Bắc và đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa
xã hội, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh,
tích cực góp phần bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và trên thế giới.
Về nhiệm vụ của cách mạng miền Nam, Hội nghị quyết định:
 Nhiệm vụ cơ bản là giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và
phong kiến, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, thực hiện độc
lập dân tộc và người cày có ruộng, góp phần xây dựng một nước Việt Nam hòa
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
 Nhiệm vụ trước mắt là đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc
xâm lược và gây chiến, đánh đổ chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, thành lập
một chính quyền liên hiệp dân tộc dân chủ ở miền Nam, thực hiện độc lập dân
tộc và các quyền tự do dân chủ, cải thiện đời sống của nhân dân, giữ vững hòa
bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, tích cực bảo
vệ hòa bình ở Đông Nam Á và trên thế giới.
+ Con đường phát triển cơ bản của cách mạng miền Nam là khởi nghĩa giành
chính quyền về tay nhân dân. Đó là con đường lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực
lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ ách
thống trị của đế quốc và phong kiến, thiết lập chính quyền cách mạng của nhân dân.
+ Hội nghị dự báo: đế quốc Mỹ là đế quốc hiếu chiến nhất cho nên trong bất kỳ
điều kiện nào, cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam cũng có khả năng chuyển thành
cuộc đấu tranh vũ trang trường kỳ và thắng lợi cuối cùng nhất định về ta.
+ Nghị quyết 15 chủ trương cách mạng miền Nam cần có mặt trận dân tộc thống
nhất riêng với tính chất, nhiệm vụ và thành phần thích hợp nhằm tập hợp rộng rãi tất cả
các lực lượng chống đế quốc và tay sai.
+ Về vai trò lãnh đạo của Đảng bộ miền Nam, Nghị quyết chỉ rõ: sự tồn tại và
trưởng thành của Đảng bộ miền Nam dưới chế độ độc tài phát xít là một yếu tố quyết
định thắng lợi của phong trào cách mạng miền Nam. Mấu chốt là phải củng cố Đảng bộ
miền Nam vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; đề cao công tác bí mật, triệt để
sử dụng khả năng hợp pháp và nửa hợp pháp để che giấu lực lượng của Đảng, không
ngừng nâng cao cảnh giác, tỉnh táo đề phòng mọi sự xâm nhập, phá hoại của đối phương
và những người rời bỏ hàng ngũ cách mạng để bảo vệ các cơ quan đầu não và che giấu
cán bộ, xây dựng ở các địa phương những cơ sở an toàn và khu an toàn.
 Nghị quyết 15 có ý nghĩa lịch sử to lớn, đã mở đường cho cách mạng miền
Nam tiến lên, đã xoay chuyển tình thế, dẫn đến cuộc Đồng khởi ở miền Nam năm 1960.
Tuy nhiên, Đảng ta cũng đã chỉ ra những khuyết điểm trong lãnh đạo cách mạng miền
Nam, đặc biệt trong hai năm 1957-1958, ta co sai lầm trong chỉ đạo chiến lược, chậm

81
chuyển hướng chỉ đạo đấu tranh, chỉ nhấn mạnh đấu tranh chính trị khi đối phương đã
dùng bạo lực phản cách mạng thẳng tay giết hại cán bộ, cách mạng.
* Phong trào Đồng khởi ở miền Nam:
- Nội dung, diễn biến:
+ Ngay sau Hội nghị lần thứ 15, Bộ Chính trị Trung ương Đảng chủ trương lập
đơn vị vận tải quân sự dọc Trường Sơn, gọi tắt là Đoàn 559 và đợn vị vận tải vượt Biển
Đông, gọi tắt là Đoàn 759. Hai con đường này đã đưa vào Nam hàng ngàn cán bộ, chiến
sĩ và hàng chục tấn hàng quân sự tiếp sức cho phong trào cách mạng miền Nam trong hai
năm 1959-1960.
+ Quán triệt Nghị quyết 15, các Đảng bộ Nam Bộ và Liên khu V đã coi trọng việc
đưa Nghị quyết xuống tận cơ sở và quần chúng cách mạng. Phong trào “Đồng khởi”
(khởi nghĩa từng phần) bắt đầu. Trong đó tiêu biểu nhất là ở tỉnh Bến Tre. Thực hiện
Nghị quyết, tỉnh ủy Bến Tre đã quyết định phát động tuần lễ “toàn dân đồng khởi” nhằm
phá ách kìm kẹp của địch, xây dựng chính quyền cách mạng.
+ Ngày 17/01/1960, nhân dân huyện Mỏ Cày nhất tề nổi dậy, diệt ác ôn phá đồn,
đập tan bộ máy cai trị và hệ thống kìm kẹp của địch ở cơ sở. Từ thắng lợi này, phong trào
lan nhanh sang các huyện khác của tỉnh Bến Tre. Chính quyền tự quản và lực lượng vũ
trang cách mạng được thành lập, ruộng đất của địa chủ được chia cho nông dân, ác ôn bị
trừng trị.
 Ngọn lửa nổi dậy, tiến công lan rộng lên cao ở đồng bằng Nam Bộ, rừng núi
miền Trung. Hầu hết các ban tề ấp, xã tan rã. Vùng giải phóng liên hoàn hình thành, nối
liền các huyện, tỉnh. Quyền làm chủ hoàn toàn thuộc về nhân dân trong vùng giải phóng.
Một hình thức chính quyền nhân dân ra đời.
 Phong trào “Đồng khởi” ở nông thôn thúc đẩy mạnh mẽ phong trào đấu tranh
chính trị ở các đô thị. Trong năm 1960, ở miền Nam có 10 triệu lượt người tham gia đấu
tranh chính trị.
 Thắng lợi của Đồng khởi đã làm cho chính quyền Hoa Kỳ và chính quyền Sài
Gòn phải lên cơn sốt đối phó.
- Ý nghĩa: Phong trào Đồng khởi trên thực tế đã chuyển cách mạng miền Nam từ thế
giữ gìn lực lượng cách mạng sang thế tiến công, giáng một đoàn bất ngờ vào chiến lược
Eisenhower, đẩy chính quyền Mỹ vào tình thế bế tắc, mở ra bước ngoặt của cách mạng
miền Nam, góp phần bảo vệ và củng cố miền Bắc.
 Ngày 20/12/1960, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời.
* Đánh thắng chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ và chủ trương
của Đảng chuyển từ khởi nghĩa sang chiến tranh cách mạng:
- Bối cảnh quốc tế và trong nước:

82
+ Miền Bắc đạt được nhiều thành tựu trong công cuộc củng cố đất nước sau chiến
tranh cùng với cao trào Đồng khởi ở miền Nam, cách mạng Việt Nam đứng trước nhiều
triển vọng.
+ Sự phát triển của hệ thống xã hội chủ nghĩa từ giữa những năm 50, đầu những
năm 60 của thế kỷ XX có nhiều biến động nhưng vẫn là dòng thác mạnh mẽ làm chỗ dựa
cho phong trào cách mạng thế giới.
+ Phong trào giải phóng dân tộc thắng lợi ở hơn 60 nước châu Á, châu Phi, châu
Mỹ Latin.
+ Phong trào đấu tranh vì hòa bình, dân sinh, dân chủ và tiến bộ xã hội ở các nước
tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ.
 Trước tình hình đó, đầu năm 1961, Tổng thống Mỹ J. F. Kennedy đã điều chỉnh
chiến lược nhằm đối phó với cách mạng Việt Nam bằng việc thực hiện chiến lược Chiến
tranh đặc biệt.
 Mục tiêu của chiến lược này là nhằm dập tắt phong trào Đồng khởi, bình định
miền Nam trong vòng 18 tháng với lực lượng quân đội Việt Nam Cộng hòa do Mỹ trang
bị và cố vấn Mỹ chỉ huy, sử dụng chiến thuật cơ động bằng trực thăng và thiết giáp để
tiêu diệt lực lượng vũ trang cách mạng; lập hệ thống ấp chiến lược để ngăn chặn phong
trào nổi dậy; ngăn cản sự chi viện của miền Bắc vào miền Nam.
- Tháng 1/1961, Bộ Chính trị chủ trương chuyển từ khởi nghĩa sang chiến tranh cách
mạng. Quyết định thành lập Trung ương cục miền Nam thay cho Xứ ủy Nam Bộ (Khu V
và Trị Thiên vẫn trực thuộc Trung ương Đảng).
- Ngày 31/1/1961, Bộ Chính trị ra Chỉ thị về phương hướng và nhiệm vụ công tác
trước mắt của cách mạng miền Nam.
+ Nhấn mạnh tăng cường đấu tranh vũ trang song song với đấu tranh chính trị.
Nhanh chóng xây dựng lực lượng cả về chính trị lẫn quân sự; tập hợp đông đảo lực lượng
chống kẻ thù trong Mặt trận dân tộc thống nhất, phát động phong trào đấu tranh chính trị
mạnh mẽ trong quần chúng.
+ Tích cực tiêu diệt sinh lực địch, bảo tồn và phát triển lực lượng ta, làm tan rã
chính quyền và quân đội Việt Nam Cộng hòa trên phạm vi ngày càng rộng; tiến lên làm
chủ rừng núi, giành lại đồng bằng, ra sức xây dựng cơ sở và đẩy mạnh đấu tranh chính trị
ở đô thị, tạo mọi điều kiện và thời cơ thuận lợi để đánh đổ chính quyền Ngô Đình Diệm,
giải phóng miền Nam.
- Tháng 2/1961, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về nhiệm vụ quân sự.
+ Phải kiềm chế và thắng Mỹ ở miền Nam, chuẩn bị sẵn sàng đối phó với âm mưu
và hành động mở rộng chiến tranh của đối phương.
+ Củng cố quốc phòng ở miền Bắc, xây dựng ở miền Nam lực lượng vũ trang đủ
mạnh.
83
+ Bảo đảm sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Đảng đối với lực lượng vũ trang,
tổ chức hệ thống chỉ huy quân sự trực thuộc các cấp Đảng bộ ở miền Nam.
- Thực hiện chiến lược Chiến tranh đặc biệt, Mỹ vạch ra kế hoạch Staley-Taylor nhằm
bình định miền Nam trong vòng 18 tháng.
+Mỹ-Diệm ra sức tăng lên nhanh chóng số lượng quân lính Việt Nam Cộng hòa và
chỉ huy cố vấn quân sự Mỹ.
+ Thành lập Bộ Tư lệnh quân sự (MACV).
+ Coi lập Ấp chiến lược là xương sống của chiến lược Chiến tranh đặc biệt nhằm
kìm kẹp dân, lùng bắt cán bộ, đảng viên của ta, đánh phá tận gốc phong trào cách mạng.
+ Tiến hành các cuộc hành quân càn quét, dồn dân, thực hiện chiến thuật mới
“trực thăng vận”, “thiết xa vận”, đóng thêm đồn bốt.
- Về phía cách mạng miền Nam, ngày 15/2/1961, Quân giải phóng miền Nam Việt
Nam được thành lập. Lực lượng vũ trang gồm ba thứ quân được chú trọng xây dựng phát
triển. Phối hợp với đấu tranh chính trị và binh vận, lực lượng vũ trang đẩy mạnh hoạt
động tiêu hao, tiêu diệt địch, đẩy lùi nhiều cuộc hành quân càn quét của quân lực Việt
Nam Cộng hòa, hỗ trợ quần chúng nổi dậy giành và giữ quyền làm chủ.
- Ngày 16/2/1962, Đại hội lần thứ nhất Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt
Nam họp và cử ra Ủy ban Trung ương do luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ tịch.
- Tháng 2/1962, Bộ Chính trị họp khẳng định những thắng lợi to lớn trong năm 1961,
đề ra nhiệm vụ trước mắt là đẩy mạnh đấu tranh chính trị, quân sự, giành và giữ thế chủ
động, tích cực xây dựng lực lượng về mọi mặt, phát triển cơ sở Đảng.
- Đầu tháng 12/1962, Bộ Chính trị họp, khẳng định ta phải và có khả năng kiềm chế
và thắng địch trong “chiến tranh đặc biệt” nhưng phải sẵn sàng đối phó với mọi hành
động phiêu lưu, mạo hiểm của Mỹ, tiến hành cuộc chiến tranh toàn dân và trường kỳ,
trước mắt làm thất bại âm mưu của đối phương trong năm 1963.
- Ta giành được nhiều thắng lợi lớn khi bước sang năm 1963, mở đầu là trận Ấp Bắc
(Mỹ Tho) ngày 2/1/1963, lần đầu tiên đánh bại cuộc hành quân càn quét lớn của Mỹ-
Diệm.  Trung ương Cục phát động phong trào “Thi đua Ấp Bắc, giết giặc lập công”.
Hàng nghìn ấp chiến lược bị phá hủy, trở thành làng chiến đấu.
- Ngày 1/11/1963, Mỹ đạo diễn cuộc đảo chính giết anh em Tổng thống Ngô Đình
Diệm và cố vấn Ngô Đình Nhu. Kế hoạch Staley-Taylor bị phá sản.  Chính quyền Việt
Nam Cộng hòa khủng hoảng nghiêm trọng.
- Tháng 12/1963, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ chín khóa III
bàn về cách mạng miền Nam tiếp tục khẳng định phương châm kết hợp đấu tranh chính
trị và đấu tranh vũ trang, trong đó đấu tranh vũ trang có vai trò quyết định trực tiếp.

84
- Đầu năm 1964, Lyndon B. Johnson lên thay cho Tổng thống J. F. Kennedy bị ám
sát, tăng cường mở rộng chiến tranh đặc biệt ở miền Nam Việt Nam, ném bom miền Bắc
và Lào, đe dọa gây sức ép hòng buộc miền Bắc ngừng chi viện cho miền Nam.
- Tháng 6/1964, Bộ Chính trị ra chỉ thị “tăng cường sẵn sàng chiến đấu, phá tan âm
mưu khiêu khích, đánh phá miền Bắc của không quân địch”.
+ Ngày 2/8/1964, hải quân ta đánh đuổi tàu chiến Mỹ ra khỏi vùng biển miền Bắc.
+ Ngày 5/8/1964, Mỹ dựng lên “sự kiện vịnh Bắc Bộ”, chính thức dùng không
quân và hải quân đánh phá miền Bắc Việt Nam, mở đầu cho cuộc chiến tranh phá hoại
miền Bắc lần thứ nhất.
 Với tinh thần sẵn sàng chiến đấu, được sự chuẩn bị tốt về mọi mặt, các đơn vị
hải quân, phòng không của quân đội ta đã kiên quyết đáp trả những đợt tấn công của
không quân Mỹ và giành được nhiều thắng lợi, góp phần cổ vũ mạnh mẽ khí thế chiến
đấu, củng cố niềm tin thắng Mỹ của quân dân cả nước.
- Tháng 9/1964, Bộ Chính trị họp nhận định tình hình, quyết định động viên toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân tập trung mọi khả năng, đẩy mạnh tác chiến, tập trung quy mô
chiến dịch, giành thắng lợi quyết định.
- Ngày 11/10/1964, Quân ủy Trung ương chỉ thị “mở đợt hoạt động Đông Xuân 1964-
1965 trên khắp chiến trường miền Nam.
 Quân dân ta ở miền Nam giành thắng lợi lớn trong các chiến dịch An Lão, Ba
Gia, Bình Giã, Đồng Xoài…
 Chiến lược “chiến tranh đặc biệt” bị phá sản hoàn toàn.
2.2.2. Lãnh đạo cách mạng cả nước giai đoạn 1965 - 1975
a. Hoàn cảnh lịch sử:
- Đầu năm 1965, Mỹ chuyển sang chiến lược “chiến tranh cục bộ”, đưa quân viễn
chinh Mỹ vào miền Nam và tăng cường ném bom miền Bắc. Mục tiêu là tiêu diệt chủ lực
quân giải phóng, bình định miền Nam, buộc phía Việt Nam phải ngồi vào bàn đàm phán
theo điều kiện của Mỹ.
 Chính quyền L. Johnson chủ trương đưa quân Mỹ vào nhanh và rút nhanh,
muốn giành thắng lợi trong thời gian ngắn nhằm tránh gây ảnh hưởng xấu tới thế bố trí
chiến lược toàn cầu cũng như tình thình kinh tế, chính trị, xã hội của Mỹ, tránh lôi kéo
các nước lớn như Trung Quốc, Liên Xô trực tiếp tham chiến.
- Bắt đầu từ mùa hè năm 1965, quân Mỹ và quân đồng minh của Mỹ (Hàn Quốc,
Australia, New Zealand…) ồ ạt đổ bộ vào miền Nam Việt Nam.
 Tháng 7/1965, Johnson chấp thuận kế hoạch chiến lược “tìm và diệt” (search
and destroy) của Đại tướng W. Westmoreland, Tư lệnh Bộ chỉ huy quân sự Mỹ tại miền
Nam Việt Nam. Mỹ dự tính đạt các mục tiêu chiến lược trong vòng hai năm sáu tháng (từ
tháng 7/1965 đến giữa hoặc cuối năm 1967).
85
- Mỹ ra sức mở rộng chiến tranh ở miền Nam lẫn miền Bắc Việt Nam, tăng cường
chiến tranh phá hoại của không quân và hải quân cả về quy mô lẫn cường độ. Trên
trường quốc tế, Mỹ triệt để lợi dụng mâu thuẫn của Xô-Trung và mở “chiến dịch hòa
bình” nhằm cô lập Việt Nam. Ở trong nước, chính quyền Mỹ đẩy mạnh tuyên truyền,
không gọi lính trù bị, không tăng thuế nhằm hy vọng duy trì ổn định nội bộ, tranh thủ sự
đồng tình ủng hộ của Quốc hội và nhân dân Mỹ đối với cuộc chiến tranh ở Việt Nam.
* Đường lối kháng chiến chống Mỹ của Đảng:
- Một câu hỏi được đặt ra cho Đảng và quân dân ta là: Việt Nam có đánh được Mỹ
không, đánh Mỹ và thắng Mỹ bằng cách nào? Sự nghiệp xây dựng miền Bắc tiếp tục hay
phải dừng lại?
- Hội nghị lần thứ 11 BCH Trung ương Đảng khóa III (tháng 3/1965) đã quyết định
chuyển toàn bộ hoạt động của miền Bắc từ thời bình sang thời chiến, tiếp tục sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện có chiến tranh, đánh bại cuộc chiến tranh phá
hoại của không quân, hải quân Mỹ, phát huy vai trò của hậu phương lớn đối với tiền
tuyến miền Nam, làm tròn nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng hai nước Lào, Campuchia.
+ Mọi hoạt động ở miền Bắc nhanh chóng chuyển hướng. Các cơ quan, nhà máy,
trường học và một bộ phận dân cư khẩn trương phân tán, sơ tán khỏi những vùng trọng
điểm đánh phá của Mỹ.
+ Các phong trào thi đua dấy lên mạnh mẽ, rộng khắp, liên tục với khẩu hiệu “Tất
cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.
+ Gần 27 vạn thanh niên được động viên vào quân đội. Cuối năm 1966, quân chủ
lực miền Bắc tăng gấp hai lần, dân quân tự vệ đều tăng nhanh cả chất lẫn lượng.
- Được sự chi viện của miền Bắc, chủ lực Quân giải phóng miền Nam phát triển
nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng vũ khí kỹ thuật, đồng thời được bố trí ở các
địa bàn chiến lược. Quân dân miền Nam đã đánh thắng một số trận ở Núi Thành, Vạn
Tường, Pleime… trong giai đoạn đầu Mỹ mới đổ quân vào nước ta.
- Từ thực tiễn chiến trường, Hội nghị lần thứ 12 BCH Trung ương Đảng khóa III
(tháng 12/1965) kết luận:
+ Mặc dù Mỹ đưa quân ồ ạt vào miền Nam với số lượng lớn nhưng lực lượng so
sánh giữa ta với đối phương vẫn không thay đổi nhiều. Tuy cuộc chiến sẽ diễn ra rất gay
go, quyết liệt nhưng quân dân ta vẫn có cơ sở chắc chắn để giữ vững thế chủ động trên
chiến trường, có lực lượng và điều kiện để đánh bại âm mưu trước mắt và lâu dài của của
Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa.
+ Quyết tâm động viên lực lượng cả nước, kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh
xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kỳ tình huồng nào.
+ Phương châm chiến lược chung vẫn là đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính.

86
+ Hội nghị cũng dự báo khả năng: cần phải cố gắng cao độ, tập trung lực lượng
của cả hai miền để tranh thủ thời cơ, giành thắng lợi quyết định trong một thời gian tương
đối ngắn trên chiến trường miền Nam.
+ Nhấn mạnh việc tăng cường công tác tư tưởng và tổ chức của Đảng.
 Nghị quyết Hội nghị 11 và 12 của BCH Trung ương Đảng có tầm quan trọng
trong việc đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ.
b. Chuyển hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và chi viện cho tiền tuyến
lớn miền Nam
* Bối cảnh lịch sử:
- Cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân, hải quân của Mỹ đã diễn ra
cực kỳ ác liệt và tàn khốc. Mỹ đã cho máy bay, tàu chiến ném bom, đánh phá hầu hết các
vị trí quân sự, dân sự quan trọng, thả mìn phong tỏa các cửa biển, lạch sông hòng ngăn
chặn sự tiếp tế bên ngoài vào miền Bắc.
 Chiến tranh diễn ra ngày càng ác liệt nhưng nhân dân miền Bắc cũng như nhân
dân cả nước không hề nao núng.
* Đường lối chuyển hướng:
- Ngày 17/7/1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi đồng bào, chiến sĩ cả nước: “Chiến
tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một
số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ!
Không có gì quý hơn độc lập, tự do!”.
- Quân dân miền Bắc đã đánh trả quyết liệt không quân, hải quân Mỹ, bắn hạ hàng
nghìn máy bay, bắn cháy hành chục tàu chiến Mỹ, tiêu diệt hoặc bắt sống nhiều giặc lái.
- Bảo đảm giao thông vận tải thông suốt liên tục trở thành một trong những công tác
trọng tâm của kháng chiến.
- Sản xuất nông nghiệp vẫn có sự phát triển mặc dù phải chịu cảnh mưa bom bão đạn
ác liệt. Sản lượng lương thực hàng năm trong những năm 1965-1968 vẫn đạt xấp xỉ năm
1961; hàng nghìn hợp tác xã đạt năng suất 5 tấn/ha.
- Sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp được duy trì, các nhà máy đã được sơ tán,
bảo vệ để tiếp tục sản xuất. Việc xây dựng và phát triển công nghiệp địa phương được
đặc biệt chú trọng.
- Các mặt văn hóa, giáo dục, đào tạo cán bộ, y tế phát triển, góp phần bảo đảm cho
miền Bắc càng đánh càng mạnh. Đời sống nhân dân cơ bản ổn định.
- Trong khoảng thời gian 1965-1968, gần 89 vạn thanh niên miền Bắc được động viên
vào lực lượng vũ trang. Hơn một nửa bộ đội chủ lực và gần 80% vũ khí, đạn dược đưa
vào miền Nam là được động viên từ miền Bắc.
- Tháng 1/1967, Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III quyết
định mở mặt trận đấu tranh ngoại giao nhằm tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ
87
của nhân dân thế giới và nhân dân tiến bộ Mỹ… hỗ trợ cho đấu tranh chính trị và quân sự
của quân dân ta.
c. Lãnh đạo nhân dân kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam
* Đánh thắng hai cuộc phản công chiến lược của Mỹ (1965-1966, 1966-1967)
- Trước mùa khô 1965-1966, Bộ Chính trị chỉ thị cho quân dân miền Nam ra sức
chuẩn bị thế trận và lực lượng, kiên quyết giữ vững thế chủ động tiến công, dùng hình
thức phản công chiến dịch, phản công chiến đấu để tiêu diệt quân Mỹ và VNCH, làm thất
bại các mục tiêu cơ bản của chúng trong cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966.
- Diễn biến và đánh bại cuộc phản công mùa khô lần 1:
+ Đầu tháng 01/1966, Mỹ mở cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất đánh vào
miền Đông Nam Bộ và Khú V, mục tiêu là “tìm – diệt” quân giải phóng, giành lại quyền
chủ động chiến trường, bình định các vùng nông thôn đồng bằng quan trọng.
+ Dựa vào thế trận chiến tranh nhân dân được xây dựng và phát triển trên ba vùng
chiến lược, kết hợp chặt chẽ các hình thức tác chiến của bộ đội chủ lực, bộ đội địa
phương và dân quân, du kích, lực lượng vũ trang của ta đã liên tục chặn đánh, kìm chân,
phản công và tiến công, làm thất bại nhiều cuộc hành quân tìm – diệt của quân Mỹ và chư
hầu. Trên mặt trận phá “bình đinh”, kết hợp chặt chẽ “ba mũi giáp công” (quân sự, chính
trị, binh vận), quân dân ta phá vỡ kế hoạch lập ấp và củng cố ấp của địch.
- Đến mùa khô 1966-1967, Mỹ tiếp tục tăng quân và trang bị vũ khí vào miền Nam,
mở cuộc phản công chiến lược lần thứ hai.
+ Trong vòng 6 tháng, Mỹ liên tiếp mở 3 cuộc hành quân quy mô lớn nhằm tìm –
diệt chủ lực và cơ quan chỉ đạo cách mạng miền Nam.
+ Phán đoán đúng ý đồ và thủ đoạn của địch, Trung ương Cục cùng Bộ Chỉ huy
Miền đã lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức cho các đợn vị, các địa phương bố trí lực lượng, hình
thành thế trận liên hoàn, giữa bộ đội chủ lực với bộ đội địa phương và dân quân, du kích,
liên tục tiến công đánh bại các cuộc hành quân của Mỹ, làm thất bại mục tiêu tìm – diệt
của địch.
 Thắng lợi của ta đánh bại hai cuộc phản công chiến lược của quân viễn chinh
Mỹ đã tạo ra cục diện mới trên chiến trường miền Nam.
* Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968:
- Về phía Mỹ: Thất bại của chiến lược “Chiến tranh cục bộ” làm cho tình hình nước
Mỹ trở nên bất ổn. Chính vì vậy, Tổng thống L. B. Johnson phải có những bước đi thích
hợp, thận trọng trong việc tính toán chiến lược của Mỹ ở Việt Nam sao cho vừa tránh mọi
sự đảo lộn bất ngờ trên chiến trường, vừa xoa dịu được dư luận trong nước để bước vào
năm tranh cử Tổng thống một cách thuận lợi (1968).
- Về phía ta: Ở miền Nam, quân dân ta từng bước bẻ gãy hai gọng kìm “tìm-diệt” và
“bình định”, làm thất bại các mục tiêu quân sự, chính trị của Mỹ và quân lực VNCH.
88
Miền Bắc làm tròn nghĩa vụ của hậu phương lớn, xây dựng và bảo vệ miền Bắc đồng thời
chi viện cho miền Nam. Về đối ngoại, chúng ta đã tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ và
giúp đỡ ngày càng rộng rãi của nhân dân và chính phủ nhiều nước, đặc biệt là các nước
XHCN trong bối cảnh Liên Xô và Trung Quốc bất đồng nghiêm trọng.
 Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương đã nhận định kịp thời tình hình: một thời cơ
mới đang xuất hiện, cần phải tìm cách khai thác triệt để nhằm tạo nên chuyển biến chiến
lược có lợi cho ta.
 Tháng 5/1967, Bộ Chính trị đã bàn họp về chiến lược Đông Xuân 1967-1968
và đến tháng 12/1967, Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã quyết định một
phương thức tiến công mới nhằm tạo nên sự chuyển biến cục diện chiến tranh, đó là tiến
hành tổng công kích-tổng khởi nghĩa vào tất cả các đô thị-dinh lũy của Mỹ và VNCH
trên toàn miền Nam.
- Diễn biến: Trong gần hai tháng, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đã đánh vào 4 trong
6 thành phố lớn, 37 trong số 40 thị xã và hàng trăm thị trấn, quận lỵ. Tại nhiều đô thị, lực
lượng vũ trang của ta đã chiếm giữ nhiều nơi trong nhiều ngày, nhiều giờ, đặc biệt là ở
Sài Gòn và Huế. Quân dân ta đã tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực và phá hủy nhiều
phương tiện chiến tranh của địch, phá rã chính quyền Sài Gòn ở nhiều vùng nông thôn,
phá vỡ hệ thống phòng thủ đô thị của địch trên quy mô toàn miền. Điều quan trọng nhất
là đã làm lung lay ý chí xâm lược của Mỹ.
- Kết quả, ý nghĩa:
+ Mỹ buộc phải tuyên bố chấm dứt hoàn toàn ném bom, bắn phá và mọi hành
động chiến tranh khác chống nước VNDCCH, chấp nhận họp Hội nghị Paris để giải
quyết chiến tranh Việt Nam và thừa nhận đại diện chính thức của Mặt trận dân tộc giải
phóng miền Nam Việt Nam tại Hội nghị.
+ Mỹ thực hiện chính sách “phi Mỹ hóa” chiến tranh Việt Nam, thừa nhận sự thất
bại của chiến lược “chiến tranh cục bộ” ở Việt Nam.
+ Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đã làm phá sản hoàn toàn
chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ, tạo ra bước ngoặt quyết định của cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta, khởi đầu quá trình đi xuống trong chiến tranh
Việt Nam của Mỹ.
- Hạn chế: Sau Tết Mậu Thân, Bộ Chính trị quyết định mở thêm hai cuộc Tổng tiến
công và nổi dậy vào tháng 5 và tháng 8/1968. Tuy nhiên, quân dân ta đã vấp phải sự
kháng cự quyết liệt của Mỹ và VNCH cho nên đã không thu được thành công, chịu nhiều
tổn thất nặng nề, hơn 11 vạn cán bộ, chiến sỹ hy sinh, bị thương, hàng vạn quần chúng
nhân dân ủng hộ cách mạng ngã xuống. Đối phương đã lấy lại được hầu hết những khu
vực bị mất trong Tết Mậu Thân. Thế trận chiến tranh nhân dân của ta bị suy giảm, cách
mạng miền Nam đứng trước những thử thách nặng nề.
89
 Đảng ta đã tự đánh giá trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo tiến công đã mắc
khuyết điểm “chủ quan trong việc đánh giá tình hình cho nên đề ra yêu cầu chưa sát với
tình hình thực tế”, “chủ trương tiếp tục các đợt tiến công vào đô thị khi không còn điều
kiện là sai lầm về chỉ đạo chiến lược, để địch gây cho ta nhiều khó khăn, tổn thất”.
* Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ và chủ trương chuyển hướng
chiến lược của Đảng
- Đứng trước tình hình trong nước và thế giới có nhiều thay đổi bất lợi cho Mỹ, đầu
năm 1969, vừa đắc cử Tổng thống, Richard Nixon đã đề ra chiến lược toàn cầu mang tên
“học thuyết Nixon”, với ba nguyên tắc “tập thể tham gia”, “sức mạnh của Mỹ”, “sẵn sàng
thương lượng”.
 Nixon vận dụng học thuyết này vào chiến tranh Việt Nam, đề ra chiến lược
“Việt Nam hóa chiến tranh”, thực chất là “dùng người Việt giết người Việt” để duy trì
chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam.
- Mỹ áp dụng một loạt biện pháp nhằm hiện thực hóa chiến lược mới:
+ Ra sức củng cố chính quyền VNCH, xây dựng quân lực VNCH đông và hiện
đại, tự gánh vác được nhiệm vụ chiến tranh để cho quân Mỹ rút.
+ Ráo riết thực hiện chương trình bình định, tăng cường chiến tranh phá hoại miền
Bắc Việt Nam nhằm cắt nguồn viện trợ của miền Nam.
+ Mở rộng chiến tranh sang Lào và Campuchia.
+ Thỏa hiệp với Trung Quốc, hòa hoãn với Liên Xô hòng cắt giảm nguồn viện trợ
chủ yếu của Việt Nam.
- Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 4/1969 nêu rõ, chiến lược “Việt Nam hóa chiến
tranh” ra đời trong thế Mỹ thua, buộc phải xuống thang chiến tranh nhưng lại muốn
xuống thang trên thế mạnh; phải rút quân Mỹ ra nhưng muốn quân lực VNCH mạnh lên;
muốn giảm thương vong và chi phí cho chiến tranh nhưng lại buộc phải rút quân nhỏ
giọt, kéo dài và mở rộng chiến tranh; muốn xoa dịu sự chống đối ở trong nước và dư luận
thế giới nhưng không che giấu được tính chất tàn bạo của chiến lược chiến tranh mới này.
 Đó là những mâu thuẫn cơ bản, đồng thời là những chỗ yếu cơ bản của chiến
lược chiến tranh mới của Mỹ. ‘
- Chủ trương chuyển hướng chiến lược của Đảng:
+ Để củng cố tinh thần của quân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, ngày
1/1/1969, trong Thư chúc mừng năm mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: “Vì độc lập, vì
tự do, Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào…”.
+ Tháng 4/1969, Bộ Chính trị ra Nghị quyết động viên quân dân ta tiếp tục đẩy
mạnh tổng công kích, tổng khởi nghĩa đánh bại chiến lược chiến tranh mới và âm mưu
kết thúc chiến tranh trên thế mạnh của Mỹ.

90
+ Miền Bắc đưa vào một khối lượng lớn người và vũ khí vào tăng sức chiến đấu
cho miền Nam.
+ Tháng 9/1969, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt nam
được thành lập, đánh dấu một bước thắng lợi trong việc củng cố chính quyền cách mạng.
+ Tháng 1/1970, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III họp Hội nghị lần thứ
18, đánh giá cục diện kháng chiến, đề ra phương hướng và giải pháp đưa cuộc kháng
chiến tiến lên. Hội nghị đánh giá những việc đã làm được, đồng thời vạch rõ khuyết điểm
trong chỉ đạo cách mạng.  Dự đoán tình hình sắp tới trên chiến trường miền Nam Việt
Nam, ở hai nước Lào và Campuchia. Nhận thức rõ tình chất lâu dài, gay go, phức tạp của
cuộc đấu tranh, kiên trì khôi phục và xây dựng lực lượng chiến đấu, tiến tới giành thắng
lợi quyết định. Chủ trương tăng cường sự lãnh đạo của Đảng ở các thành thị, đẩy mạnh
đấu tranh quân sự và nổi dậy của quần chúng ở nông thôn, mở rộng vùng giải phóng.
 Hội nghị Trung ương lần thứ 18 đánh dấu sự chuyển hướng quan trọng về chỉ
đạo chiến lược.
* Tăng cường củng cố miền Bắc và liên minh chiến đấu với Lào, Campuchia:
- Xây dựng miền Bắc ngang tầm nhiệm vụ hậu phương lớn của các chiến trường
Đông Dương. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 18 chỉ rõ, miền Bắc có nhiệm vụ
tranh thủ thuận lợi mới trong hoàn cảnh không còn chiến tranh phá hoại, tiếp tục khẩn
trương xây dựng CNXH, có kế hoạch làm tròn nghĩa vụ hậu phương lớn đối với tiền
tuyến lớn, sẵn sàng chiến đấu và đánh bại mọi âm mưu của đế quốc Mỹ.
- Đầu năm 1970, Trung ương Đảng phát động ba cuộc vận động lớn: lao động sản
xuất, phát huy dân chủ và tăng cường chế độ làm chủ ở nông thôn.
- Đầu năm 1971, Hội nghị lần thứ 19 của Đảng chủ trương kiên trì và đẩy mạnh cuộc
kháng chiến, phát triển kinh tế ở miền Bắc mà nhiệm vụ trung tâm là phát triển nông
nghiệp.
- Hội nghị Bộ Chính trị tháng 4/1969 và Hội nghị Trung ương lần thứ 18 tháng
1/1970 đã dự đoán đúng âm mưu của Mỹ mở rộng chiến tranh và vạch rõ nhiệm vụ của
dân ta tăng cường đoàn kết chiến đấu với nhân dân Lào và Campuchia, đánh bại mưu đồ
của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Ba nước đã tuyên bố thành lập Mặt trận thống nhất
chống Mỹ và tay sai, liên minh chiến đấu, đoàn kết trong mặt trận đấu tranh chung trên
cơ sở tôn trọng độc lập, tự chủ của mỗi nước.
* Cuộc tiến công chiến lược năm 1972:
- Với những thắng lợi trên chiến trường trong hai năm 1970-1971, đồng thời nước Mỹ
chuẩn bị bước vào cuộc bầu cử Tổng thống năm 1972, chúng ta đứng trước tình thế thuận
lợi mới, có điều kiện kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại giao, chủ động
tiếp tục tiến công để giành thắng lợi lớn.

91
- Tháng 5/1971, Hội nghị Bộ chính trị Trung ương Đảng quyết định mở cuộc tiến
công chiến lược năm 1972 nhằm giành thắng lợi quyết định, buộc Mỹ phải chấm dứt
chiến tranh bằng thương lượng trên thế thua, đồng thời chuẩn bị sẵn sàng cho trường hợp
chiến tranh còn kéo dài. Cuộc tiến công dự định tiến hành bằng ba đòn chiến lược kết
hợp: tiến công tiêu diệt địch của bộ đội chủ lực trên ba hướng Đông Nam Bộ, Tây
Nguyên và Trị-Thiên; tiến công và nổi dậy ở vùng nông thôn đánh phá bình định; đấu
tranh chính trị ở các thành thị làm lung lay tận gốc chính quyền địch.
- Ngày 30/3/1972, nhằm lúc địch chủ quan, sơ hở do phán đoán sai thời gian, quy mô
và hướng tiến công của ta, quân dân ta mở đầu cuộc tiến công chiến lược quy mô lớn và
cường độ mạnh vào hướng chủ yếu là Trị-Thiên, tiếp sau là hướng Tây Nguyên, miền
Đông Nam Bộ rồi đến đồng bằng Khu V và đồng bằng sông Cửu Long. Đến 6/4/1972,
không quân và hải quân Mỹ đánh phá trở lại miền Bắc Việt Nam.
- Diễn biến: Sau hai tháng tiến công, đến cuối tháng 5/1972, quân dân ta giành thắng
lợi lớn. Chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ từng bước bị phá sản hoàn toàn.
 Cuộc tiến công chiến lược 1972 đã giành thắng lợi lớn, làm chuyển biến căn bản
cục diện chiến tranh.
* Đánh thắng trận tập kích chiến lược bằng máy bay B.52 của Mỹ và Hiệp định
Paris được ký kết:
- Miền Bắc đánh thắng hành chiến tranh mới của Mỹ: Mỹ ồ ạt đưa không quân, hải
quân đánh phá trở lại miền Bắc nhằm ngăn chặn viện trợ quốc tế vào miền Bắc và sự chi
viện của miền Bắc cho miền Nam, cứu nguy cho chính quyền Sài Gòn và tăng sức ép với
ta trong đàm phán.
- Trung ương Đảng quyết định chuyển mọi hoạt động của miền Bắc cho phù hợp với
tình hình mới, phát động chiến tranh nhân dân đánh thắng chiến tranh phá hoại của Mỹ,
tiếp tục làm nhiệm vụ tăng viện cho các chiến trường.
- Đẩy mạnh tiến công ngoại giao phối hợp với tiến công quân sự.
- Trong 12 ngày đếm từ 18 đến 30/12/1972, quân dân ta đã kiên cường, đánh bại cuộc
tập chiến lược bằng máy bay B52 của Mỹ trên bầu trời miền Bắc. Từ thắng lợi này, ta đã
buộc Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán và chấp nhận những điều khoản cơ bản của bản dự
thảo Hiệp định tháng 10/1972.
- Ngày 27/1/1973, Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam
được ký kết chính thức tại Paris và bắt đầu có hiệu lực từ 9 giờ sáng ngày 28/1/1973.
- Nội dung Hiệp định Paris: Mỹ phải công nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ
của Việt Nam; chấm dứt mọi sự dính líu quân sự, rút hết quân Mỹ và quân chư hầu ra
khỏi miền Nam Việt Nam; chấp nhận lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam vẫn ở
nguyên tại miền Nam; hai bên ở miền Nam hiệp thương giải quyết vấn đề nội bộ ở miền
Nam Việt Nam.
92
 Hiệp định này đánh dấu bước ngoặt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước của dân tộc ta.
* Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất
nước (1973-1975)
- Lực lượng so sánh giữa ta và đối phương sau Hiệp định Paris: Đến cuối tháng
3/1973, tất cả quân Mỹ và chư hầu đã rút hết về nước. Tuy nhiên, Mỹ tăng cường tài trợ
kinh tế và quân sự cho chính quyền Sài Gòn nhằm có thể tự đứng vững trong chiến tranh,
đồng thời âm mưu tiêu diệt các lực lượng vũ trang, lực lượng chính trị cách mạng, xóa bỏ
tình trạng hai chính quyền, hai quân đội, ba lực lượng hiện có. Để xóa bỏ hình thế “da
báo”, Mỹ và chính quyền Sài Gòn mở chiến dịch “tràn ngập lãnh thổ”
- Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III:
+ Ngày 25/4/1973, Bộ Chính trị họp hội nghị mở rộng, đánh giá ưu, khuyết điểm
và bài học kinh nghiệm chiến trường. Hội nghị xác định nhiệm vụ trước mắt: đoàn kết
toàn dân đấu tranh trên cả ba mặt trận; giữ vừng và phát triển lực lượng cách mạng về
mọi mặt; chuẩn bị điều kiện đầy đủ nhất để sẵn sàng đối phó trong mọi tình huống, sẵn
sàng đưa cách mạng tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.
+ Tháng 7/1973, Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III
họp tại Hà Nội và ra Nghị quyết Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước và nhiệm vụ của cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới.
 Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới là: Hoàn thành
cách mạng DTDCND; tập trung mũi nhọn vào đế quốc Mỹ và tập đoàn thống trị tư sản
mại bản quan liêu, quân phiệt, phát-xít tay sai đắc lực của đế quốc Mỹ đang thống trị
trong vùng địch kiểm soát – đẩy lùi và thắng địch từng bước, đi đến xóa bỏ chế độ thực
dân mới, thiết lập một chính quyền dân tộc dân chủ thực sự, thực hiện hòa hợp dân tộc,
thoát ly hẳn sự lệ thuộc vào Mỹ, thực hiện một miền Nam hòa bình, độc lập, dân chủ,
trung lập, phồn vinh, tiến tới hòa bình thống nhất nước nhà.
 Đây là hội nghị có ý nghĩa lịch sử quan trọng, mở đường đưa cách mạng miền
Nam tiến lên giành thắng lợi.
- Trung ương Đảng kiên quyết tạo thế, tạo lực và tạo thời cơ cho trận đánh cuối cùng,
quyết định lịch sử (tháng 10/1974). Nhiệm vụ trọng tâm số 1 là phá bình định, lấn chiếm,
giành quyền làm chủ. Chủ trương đấu tranh chính trị đòi hòa bình, hiệp thương, thi hành
hiệp định Paris, phá ấp chiến lược, đòi quyền dân sinh dân chủ.
- Quyết định lịch sử của Bộ Chính trị tháng 10/1974 và tháng 1/1975 về giải phóng
hoàn toàn miền Nam:
+ Từ ngày 30/9 đến ngày 8/10/1974, Hội nghị Bộ Chính trị đợt 1 bàn về chủ
trương giải phóng hoàn toàn miền Nam. Nhiệm vụ trước mắt của nhân dân cả nước:
Động viên toàn dân, toàn quân cả nước, mở cuộc tiến công và nổi dậy cuối cùng, đưa
93
chiến tranh cách mạng phát triển đến mức cao nhất, tiêu diệt và làm tan rã quân đội
VNCH, đánh chiếm Sài Gòn cũng như tất cả các thành thị khác ở miền Nam, đánh đổ
chính quyền VNCH từ trung ương đến các cấp, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân
dân, giải phóng hoàn toàn miền Nam, hoàn thành cách mạng DTDCND trong cả nước,
tiến tới thống nhất nước nhà.
 Hội nghị quyết định giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976.
+ Từ ngày 8/12/1974 đến ngày 7/1/1975, diễn ra Hội nghị Bộ Chính trị đợt 2.
Ngày 6/1/1975, tin giải phóng thị xã Phước Long làm cho Hội nghị càng thêm tin chắc
rằng quân Mỹ không thể trở lại miền Nam và việc giải phóng miền Nam có thể tiến hành
với nhịp độ nhanh hơn. Hội nghị đợt 2 vạch rõ: Nắm vững thời cơ lịch sử, mở nhiều
chiến dịch tổng hợp liên tiếp, đánh những trận đánh quyết định, kết thúc cuộc kháng
chiến chống Mỹ, hoàn thành cách mạng DTDC ở miền Nam, tiến tới tổng tiến công và
nổi dậy, thắng địch tại sào huyệt quan trọng nhất của chúng là Sài Gòn.
 Nghị quyết Hội nghị Bộ Chính trị tháng 10/1974 và tháng 1/1975 là ánh sáng
soi đường cho nhân dân ta trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn
miền Nam.
- Tổng tiến công và giải phóng hoàn toàn miền Nam (từ 3/1975 đến 30/4/1975):
+ Chiến dịch Tây Nguyên:
+ Chiến dịch Huế-Tây Nguyên:
+ Chiến dịch Hồ Chí Minh: Hội nghị Bộ Chính trị ngày 31/3/1975 đã nhấn mạnh:
Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cần nắm vững thời cơ chiến lược hơn nữa, với tư
tưởng chỉ đạo thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng, thực hiện tổng công kích, tổng khởi
nghĩa trong thời gian sớm nhất, tốt nhất là trong tháng 4/1975, không thể để chậm. Yếu tố
“thời gian” lúc này chính là điều làm nên bất ngờ của chiến dịch giải phóng miền Nam.
 Ngày 14/4/1975, chiến dịch giải phóng Sài Gòn-Gia Định mang tên Chiến dịch
Hồ Chí Minh được Bộ Chính trị phê chuẩn với 5 mục tiêu quan trọng nhất là: Dinh Độc
lập, Bộ Tổng tham mưu, sân bay Tân Sơn Nhất, Biệt khu Thủ đô, Tổng nha cảnh sát.
 11 giờ 30 phút, lá cờ cách mạng đã được cắm lên nóc Dinh Độc lập. Thành phố
Sài Gòn – Gia Định được giải phóng hoàn toàn.
2.2.3. Ý nghĩa và kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước 1954 - 1975
a. Nguyên nhân thắng lợi:
- Cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ là phi nghĩa, cuộc kháng chiến của nhân dân ta
là chính nghĩa, vì thế toàn thể dân tộc Việt Nam đều tham gia kháng chiến.
- Chúng ta đánh Mỹ trong điều kiện nhân dân ta đã làm chủ được một nửa đất nước
trải qua Cách mạng Tháng Tám và cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Chế độ nhân
dân làm chủ đất nước đã nâng cao lên một trình độ mới, truyền thống yêu nước, kiên
94
cường, bất khuất, cả nước chung lòng đánh giặc trong hàng nghìn năm của dân tộc Việt
Nam.
- Quân đội nhân dân gan dạ, mưu trí, biết sử dụng những vũ khí hiện đại.
- Hậu phương miền Bắc hùng hậu và các hậu phương tại chỗ của từng chiến trường,
được Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa chi viện, nhân loại tiến bộ đồng
tình, có sự phối hợp chiến đấu của nhân dân ba nước Đông Dương.
- Sự lãnh đạo của Đảng ta-đội quân tiên phong được tôi luyện, giàu trí tuệ, đoàn kết
nhất trí, gắn bó với nhân dân, có đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo. Đó là nhân tố
thắng lợi cơ bản của Việt Nam.
b. Ý nghĩa:
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử
dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn
thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới
như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn
và có tính thời đại sâu sắc.
- Nhân dân ta đã đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới có quy mô lớn, dài
ngày nhất, ác liệt và dã man nhất từ sau Thế chiến thứ hai của Mỹ, đập tan âm mưu của
Mỹ biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và chia cắt lâu dài đất nước ta.
- Thắng lợi này đã kết thúc quá trình 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ
Tổ quốc, chấm dứt ách thống trị hơn một thế kỷ của chủ nghĩa đế quốc, hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ lịch sử giải phóng dân tộc và thống nhất nước nhà, mở ra bước ngoặt vĩ đại
thiết lập quyền làm chủ của nhân dân trên toàn bộ đất nước, đưa cả nước quá độ lên
CNXH.
- Sau sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ, thắng lợi của nhân dân Việt Nam năm
1975 đã chứng minh trước toàn thế giới sự phá sản không thể tránh khỏi của chủ nghĩa
thực dân mới.
- Trận địa của chủ nghĩa đế quốc đã bị đẩy lùi và làm suy yếu, phá vỡ một phòng
tuyến quan trọng của Mỹ ở Đông Nam Á, làm đảo lộn chiến lược toàn cầu phản cách
mạng của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch.
- Mở rộng trận địa của CNXH, tăng thêm sức mạnh và thế tiến công của ba dòng thác
cách mạng của thời đại, đem lại lòng tin cho nhân dân tiến bộ thế giới đang đấu tranh vì
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH.
- Đây là thất bại lớn nhất của đế quốc Mỹ trong toàn bộ lịch sử hơn 200 năm của quốc
gia này. Mỹ bị suy yếu nghiêm trọng về quân sự, chính trị, kinh tế và còn phải gánh chịu
nhiều hậu quả nặng nề và lâu dài.

95
- Thời kỳ sau Chiến tranh Việt Nam (1954-1975), Mỹ buộc phải điều chỉnh chiến
lược toàn cầu, chuyển sang chiến lược “diễn biến hòa bình” nhằm phá hoại phong trào
giải phóng dân tộc, phá hoại hệ thống XHCN, phong trào cộng sản quốc tế.
 Tất cả những điều này đã nói lên tầm quan trọng quốc tế và tính thời đại của
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam mà cả loài người tiến bộ,
có lương tri đều thừa nhận.
c. Những kinh nghiệm lịch sử
- Toàn dân đánh Mỹ, cả nước đánh Mỹ, đồng thời tiến hành hai chiến lược cách mạng
nhằm mục tiêu chủ yếu là giải phóng miền Nam.
- Chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, tạo ra sức mạnh tổng hợp của chiến tranh.
- Lựa chọn phương thức chiến tranh thích hợp.
- Ba tầng mặt trận thống nhất chống Mỹ: ở trong nước, giữa ba nước Đông Dương và
trên thế giới.
- Không ngừng nâng cao sức chiến đấu và hiệu lực lãnh đạo của Đảng trong chiến
tranh.
----------------------------------------------------------
Câu hỏi thảo luận/Nội dung ôn tập
* Câu hỏi thảo luận:
1. Hãy phân tích nghệ thuật lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù của Đảng ta để
bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ giai đoạn 1945-1946?
2. Có ý kiến cho rằng: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là một thất
bại của Đảng ta. Anh (chị) có nhận định gì về ý kiến trên?
* Nội dung ôn tập:
1. Đường lối và sự chỉ đạo của Đảng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược và can thiệp Mỹ 1945-1954.
2. Ý nghĩa lịch sử và những kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ 1945-1954.
3. Sự phát triển đường lối và khái quát quá trình chỉ đạo thực hiện của Đảng trong kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975.
4. Đặc điểm, ý nghĩa thắng lợi và những kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng trong kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975.
5. Cách mạng XHCN và những thành tựu chủ yếu của sự nghiệp xây dựng CNXH ở miền
Bắc từ 1954-1975.

96
Chương 3
ĐẢNG LÃNH ĐẠO CẢ NƯỚC QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ TIẾN
HÀNH CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI (1975 – 2018)
I. Mục tiêu
Về kiến thức: Giúp sinh viên nắm được đường lối, Cương lĩnh, những tri thức có hệ
thống về quá trình phát triển đường lối và lãnh đạo của Đảng đưa cả nước quá độ lên
CNXH và tiến hành công cuộc đổi mới từ sau ngày thống nhất đất nước năm 1975 đến
nay.
Về tư tưởng: Củng cố niềm tin của sinh viên về những thắng lợi của Đảng trong lãnh
đạo đưa cả nước quá độ xây dựng CNXH và tiến hành công cuộc đổi mới (1975-2018),
củng cố niềm tin và lòng tự hào vào sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng
hiện nay.
Về kỹ năng: Rèn luyện cho sinh viên phong cách tư duy lý luận gắn liền với thực tiễn,
phát huy tính năng động sáng tạo của người học; vận dụng những tri thức về sự lãnh dạo
của Đảng vào thực tiễn cuộc sống.
II. Nội dung
3.1. Đảng lãnh đạo cả nước xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc (1975 - 1986)
3.1.1. Xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc 1975 – 1981
- Sau Đại thắng Mùa Xuân 1975, có ba yêu cầu lịch sử được đặt ra đối với Đảng, Nhà
nước và Nhân dân ta lúc này, đó là:
+ Cả nước đi lên CNXH là xu thế chung của đất nước. Nhưng quá độ như thế nào
cho phù hợp với đặc điểm nước ta là nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ, chưa có đại
công nghiệp, đó là yêu cầu lịch sử thứ nhất đặt ra cho VN sau 30 năm chiến tranh.
+ Nhiệm vụ cấp bách trước mắt là phải vừa khắc phục hậu quả chiến tranh, vừa
cảnh giác và chuẩn bị đối phó với những âm mưu gây chiến. Đó là yêu cầu lịch sử thứ
hai.
+ Yêu cầu lịch sử thứ ba là muốn tạo thêm sức mạnh mới, phải củng cố sự nghiệp
thống nhất đất nước bằng cách hoàn thành những nhiệm vụ còn lại của sự nghiệp thống
nhất.
- Ngày 25/4/1976, diễn ra cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung của nước VN
thống nhất, đạt tỉ lệ 98,77%, 492 đại biểu đã được bầu vào Quốc hội khóa VI.
- Từ ngày 24/6 đến 3/7/1976, Quốc hội khóa VI của nước VN thống nhất tiến hành kỳ
họp thứ nhất tại thủ đô Hà Nội.
+ Đặt tên nước là Cộng hòa XHCN Việt Nam, quốc kỳ là cờ đỏ sao vàng, Thủ đô
là Hà Nội, quốc ca là bài Tiến quân ca.
+ Quyết định đổi tên Sài Gòn thành thành phố Hồ Chí Minh, thành lập Ủy ban dự
thảo Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam.
97
+ Bầu Tôn Đức Thắng làm Chủ tịch nước, Nguyễn Lương Bằng, Nguyễn Hữu
Thọ làm Phó Chủ tịch, Trường Chinh làm Chủ tịch Quốc hội, Phạm Văn Đồng làm Thủ
tướng Chính phủ.
* Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (tháng 12/1976) và thực hiện kế
hoạch nhà nước 5 năm 1976-1980
- Từ ngày 14 đến ngày 20/12/1976, Đại hội IV của Đảng họp chính thức tại Hà Nội.
- Báo cáo chính trị nêu ba đặc điểm của cách mạng VN trong giai đoạn mới:
+ Nước ta đang ở trong quá trình từ một xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản
xuất nhỏ tiến thẳng lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN.
+ Cả nước tiến lên CNXH với nhiều thuận lợi, song cũng còn nhiều khó khăn do
hậu quả chiến tranh để lại và tàn dư của chủ nghĩa thực dân gây ra.
+ Cách mạng XHCN ở nước ta tiến hành trong hoàn cảnh quốc tế thuận lợi, song
cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa thế lực cách mạng với phản cách mạng trên thế giới vẫn
diễn ra gay go, quyết liệt.
- Báo cáo chính trị vạch ra đường lối chung của cách mạng XHCN trong giai đoạn
mới ở nước ta là: “Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của
nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản
xuất, cách mạng khoa học – kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa, trong đó cách
mạng khoa học – kỹ thuật là then chốt; đẩy mạng công nghiệp hóa XHCN là nhiệm vụ
trọng tâm của cả thời kỳ quá độ lên CNXH; xây dựng chế độ làm chủ tập thể XHCN, xây
dựng nền sản xuất lớn XHCN, xây dựng nền văn hóa mới, xây dựng con người mới
XHCN; xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xóa bỏ nghèo nàn và lạc hậu; không ngừng
đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự
xã hội; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và XHCN;
góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và CNXH”. Như vậy, nhận thức của Đảng về CNXH ở nước ta gồm 4 đặc trưng
cơ bản là xây dựng chế độ làm chủ tập thể XHCN, nền sản xuất lớn, nền văn hóa mới,
con người mới XHCN; coi chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của
nhân dân lao động là công cụ để xây dựng CNXH.
- Đường lối xây dựng kinh tế XHCN trong giai đoạn cách mạng mới ở nước ta: Đẩy
mạnh CNH XHCN bằng ưu tiên phát triện CN nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển
nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, xây dựng cơ cấu kinh tế công – nông nghiệp; kết hợp
kinh tế trung ương với kinh tế địa phương, kết hợp phát triển lực lượng sản xuất; tăng
cường quan hệ kinh tế với các nước XHCN anh em đồng thời phát triển kinh tế với các
nước khác.
- Đại hội quyết định phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm
1976-1980 nhằm hai mục tiêu cơ bản và cấp bách là bảo đảm nhu cầu của đời sống nhân
98
dân, tích lũy để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH; đẩy mạnh cách mạng tư
tưởng và văn hóa, xây dựng và phát triển nền văn hóa mới; tăng cường Nhà nước XHCN,
phát huy vai trò của các đoàn thể; coi trọng nhiệm vụ củng cố quốc phòng an ninh chính
trị và trật tự xã hội; coi trọng nhiệm vụ quốc tế và chính sách đối ngoại của Đảng, củng
cố quan hệ đặc biệt với Lào và Campuchia, đẩy mạnh hợp tác với Liên Xô; nâng cao vai
trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
- Đại hội bầu Lê Duẩn làm Tổng bí thư Đảng, đổi tên Đảng Lao động Việt Nam thành
Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Đại hội IV của Đảng có một số hạn chế sau đây:
+ Chưa tổng kết được những kinh nghiệm xây dựng CNXH ở miền Bắc.
+ Chưa nhấn mạnh nhiệm vụ cấp thiết sau chiến tranh là khắc phục hậu quả chiến
tranh.
+ Dự kiến thời gian phấn đấu để hoàn thành về cơ bản quá trình đưa nền kinh tế
nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN trong khoảng 20 năm là không hiện thực.
* Đường lối, kết quả kinh tế, cải tạo công thương nghiệp, chính sách ruộng đất,
công tác xây dựng Đảng, hoạt động đối ngoại.
- Triển khai thực hiện nghị quyết ĐH IV, BCH Trung ương đã họp nhiều lần, tập
trung chủ yếu vào chỉ đạo phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp và phân phối lưu
thông.
- Đổi mới từng phần – Bước đột phá tìm con đường Đổi mới:
Hội nghị Trung ương 6 (8/1979) là bước đột phá đầu tiên đổi mới kinh tế của Đảng
với chủ trương khắc phục những khuyết điểm, sai lầm trong quản lý kinh tế, trong cải tạo
XHCN, phá bỏ những rào cản để cho “sản xuất bung ra”.
Trước hiện tượng “khoán chui” trong hợp tác xã nông nghiệp ở một số địa phương,
sau khi tổ chức thí điểm, ngày 13/01/1981, Ban Bí thư ra Chỉ thị số 100/CT-TW về cải
tiến công tác khoán, mở rộng “khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động”
trong hợp tác xã nông nghiệp (gọi tắt là Chỉ thị 100). Theo chỉ thị, mỗi xã viên nhận mức
khoán theo diện tích và tự mình làm các khâu, cấy, chăm sóc và thu hoạch, còn những
khâu khác do HTX đảm nhiệm. Thu hoạch vượt mức khoán sẽ được hưởng và tự do mua
bán. Chủ trương đó được nông dân cả nước ủng hộ, nhanh chóng thành phong trào quần
chúng sâu rộng. Khoán 100 tạo ra hiệu quả lớn trong sản xuất nông nghiệp.
Trong lĩnh vực công nghiệp, Chính phủ ban hành các quyết định 25 và 26 về quyển
chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh
và mở rộng hình thức trả lương khoán, lương sản phẩm và vận dụng hình thức tiền
thưởng trong các đơn vị sản xuất kinh doanh của Nhà nước.
* Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía
Bắc: Từ ngày 26/12/1978, quân tình nguyện Việt Nam phối hợp và giúp đỡ nhân dân
99
Campuchia tổng tiến công và đến 06/01/1979, giải phóng thủ đô Phnom Pênh, lật đổ chế
độ diệt chủng Pol Pot. Từ ngày 17/02/1979 đến 05/03/1979, quân dân ta đã đánh bại cuộc
chiến tranh xâm lược của quân đội Trung Quốc tại biên giới phía Bắc nước ta.
* Sau 5 năm 1975-1981, quân dân cả nước đã giành được thành tựu thống nhất nước
nhà về mặt nhà nước, chiến thắng trong hai cuộc chiến tranh biên giới và đã khắc phục
một phần hậu quả chiến tranh và thiên tai liên tiếp gây ra. Ở các tỉnh phía Nam đã cơ bản
xóa bỏ quyền chiếm hữu ruộng đất của đế quốc, phong kiến. Ở miền Bắc, bước đầu có sự
cải tiến đưa nông nghiệp từng bước tiens lên sản xuất lớn với các đội chuyên, làm khoán.
Tuy nhiên, kết quả nhìn chung đã không đạt chỉ tiêu do ĐH IV đề ra: lưu thông, phân
phối rối ren, giá cả tăng vọt, nhập khẩu tăng gấp 4-5 lần xuất khẩu. Đời sống của nhân
dân, cán bộ, công nhân viên, lực lượng vũ trang rất khó khăn. Từ cuối 1979, ở một số địa
phương miền Bắc đã xuất hiện hiện tượng “xé rào”, “khoán chui”. Ở miền Nam, việc thí
điểm hợp tác xã diễn ra phức tạp, lúng túng.
Những khó khăn trên có nguồn gốc sâu xa từ nền kinh tế thấp kém, thiên tai nặng nền
liên tiếp xảy ra, chiến tranh biên giới và chính sách bao vây, cấm vận cô lập của Mỹ và
các thế lực thù địch. Tuy nhiên, về chủ quan, do những khuyết điểm, sai lầm của Đảng,
Nhà nước về lãnh đạo và quản lý kinh tế, xã hội làm trầm trọng thêm những khó khăn
teen. BCH Trung ương Đảng đã tự phê bình về những khuyết điểm và sai lầm đó trước
ĐH V của Đảng.
3.1.2. Đại hội đại biểu toàn quốc lấn thứ V của Đảng và các bước đột phá tiếp tục
đổi mới kinh tế 1982 – 1986
a. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (tháng 3/1982), thực hiện kế hoạch
nhà nước 5 năm 1981 – 1985
- Đại hội V của Đảng tiến hành tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 15/3 đến ngày 31/3/1982.
Dự Đại hội có 1033 đại biểu thay mặt cho hơn 1,7 triệu đảng viên trong cả nước. ĐH V
diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước có một số mặt thuận lợi, nhưng
nhiều khó khăn, thách thức mới. Hoa Kỳ tiếp tục thực hiện chính sách bao vây cấm vận
và “kế hoạch hậu chiến”. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế ra sức
tuyên truyền xuyên tạc về việc quân tình nguyện Việt Nam làm nghĩa vụ quốc tế ở
Campuchia, gây sức ép với Việt Nam, chia rẽ ba nước Đông Dương. Trong nước, tình
hình khủng hoảng kinh tế-xã hội ngày càng trầm trọng.
- Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa IV đã kiểm điểm, đánh giá
thành tựu, khuyết điểm sai lầm của Đảng, phân tích nguyên nhân thắng lợi và khó khăn
của đất nước trong thời gian vừa qua, những biến động của tình hình hình thế giới, khẳng
định tiếp tục thực hiện đường lối chung và đường lối kinh tế do ĐH IV đề ra. Ngoài
thông qua những nhiệm vụ kinh tế, văn hóa xã hội, tăng cường Nhà nước XHCN, chính
sách đối ngoại, xây dựng Đảng… ĐH V đã bổ sung đường lối chung do ĐH IV đề ra
100
những quan điểm mới: Khẳng định nước ta đang ở chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá
độ lên CNXH với những khó khăn về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Đó là thời kỳ
khó khăn, phức tạp, lâu dài, phải qua nhiều chặng đường. Hiện nay nước ta đang ở chặng
đường đầu tiên với những nội dung kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội rất nặng nề. Nhiệm
vụ của chặng đường trước mắt là ổn định tiến lên cải thiện một bước đời sống vật chất và
văn hóa của người dân. Tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, chủ yếu
nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, hàng tiêu dùng và xuất khẩu. Đáp ứng nhu cầu của
công cuộc phòng thủ đất nước, củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh, trật tự xã hội.
- Đại hội nêu ra hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng trong giai đoạn mới của nước ta:
+ Một là, xây dựng thành công CNXH.
+ Hai là, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
- Nội dung, bước đi, cách làm thực hiện công nghiệp hóa XHCN trong chặng đường
đầu tiên là: tập trung sức mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa
nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn XHCN, ra sức đẩy mạng sản xuất hàng tiêu dùng
và tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng; kết hợp nông nghiệp,
công nghiệp hàng tiêu dung và công nghiệp nặng trong cơ cấu công nông nghiệp hợp lý.
Nhận thức đó phù hợp với thực tiễn nước ta, khai thác và phát huy thế mạnh, tiềm năng
của đất nước về lao động, đất đai, ngành nghề…, làm cơ sở để thực hiện nhiệm vụ chủ
yếu của chặng đường đầu tiên, tạo ra những tiền đề cần thiết cho chặng đường tiếp theo.
- Đại hội đã bầu lại đ/c Lê Duẩn làm Tổng bí thư.
- Đại hội V dựa trên thực tiễn đất nước những năm sau giải phóng đã có những bước
tiến mới về đổi mói tư duy trong việc tìm tòi con đường quá độ lên CNXH. Tuy nhiên,
Đại hội chưa thấy được sự cần thiết phải duy trì nền kinh tế nhiều thành phần trong suốt
thời kỳ quá độ, chưa xác định được những quan điểm cụ thể về kết hợp kế hoạch với thị
trường, công tác quản lý lưu thông, phân phối vẫn một chiều do kế hoạch nhà nước quyết
định. Đại hội coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu nhưng chưa có những chính sách, giải
pháp cụ thể và đồng bộ để giải phóng các lực lượng sản xuất trong nông nghiệp.
 Những hạn chế này của Đại hội V là nguyên nhân của những khó khăn mà đất
nước ta phải vượt qua sau Đại hội.
b. Phấn đấu ổn định tình hình kinh tế-xã hội (1981-1986):
Sau ĐH V, Trung ương Đảng đã có nhiều Hội nghị cụ thể hóa, thực hiện Nghị quyết
ĐH. Nổi bật là hội nghị Trung ương 6 (7/1984) chủ trương tập trung giải quyết một số
vấn đề cấp bách về phân phối lưu thông với hai loại công việc cần làm ngay: Một là, đẩy
mạnh thu mua nắm nguồn hàng, quản lý chặt chẽ thị trường tự do; Hai là, thực hiện điều
chỉnh giá cả, tiền lương, tài chính cho phù hợp với thực tế. HN Trung ương 7 (12/1984)
xác định kế hoạch năm 1985 phải tiếp tục coi mặt trận sản xuất nông nghiệp là mặt trận
hàng đầu, trước hết là sản xuất lương thực, thực phẩm. Nổi bật nhất là HN Trung ương 8
101
khóa V (6/1985) được coi là bước đột phá thứ hai trong quá trình tìm tòi, đổi mới kinh tế
của Đảng. Tại HN này, Trung ương chủ trương xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu hành
chính bao cấp, lấy giá lương tiền là khâu đột phá để chuyển sang cơ chế hạch toán, kinh
doanh XHCN. Thực chất của các chủ trương này đã thừa nhận sản xuất hàng hóa và
những quy luật sản xuất hàng hóa trong nền kinh tế quốc dân. Trong quá trình tổ chức
thực hiện lại mắc những sai lầm như vội vàng đổi tiền và tổng điều chỉnh giá lương trong
tình hình chưa chuẩn bị đủ mọi mặt. Cuộc điều chỉnh giá, tiền, lương đã làm cho cuộc
khủng hoảng kinh tế xã hội trầm trọng sâu sắc hơn.
HN Bộ Chính trị khóa V (8/1986) đưa ra “Kết luận đối với một số vấn đề thuộc quan
điểm kinh tế”. Đây là bước đột phá thứ ba về đổi mới kinh tế, đồng thời cũng là bước
quyết định cho sự ra đời của đường lối đổi mới của Đảng. Nội dung đổi mới có tính đột
phá đó là:
- Về cơ cấu sản xuất, HN cho rằng, chúng ta đã chủ quan, nóng vội đề ra một số chủ
trương quá lớn về quy mô, quá cao về nhịp độ xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất.
Đây là nguyên nhân làm cho sản xuất gần như dẫm chân tại chỗ, năng suất lao động giảm
sút, chi phí sản xuất không ngừng tăng lên, tình hình kinh tế xã hội ngày càng không ổn
định. Các vấn đề về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng thiết yếu và tạo nguồn hàng
xuất khẩu chậm được giải quyết. Phải điều chỉnh theo hướng lấy nông nghiệp làm mặt
trận hàng đầu, ra sức phát triển công nghiệp nhẹ, phát triển công nghiệp nặng phải có lựa
chọn cả về quy mô và nhịp độ, chú trọng quy mô vừa và nhỏ, phát huy hiệu quả nhanh.
Cần tập trung lực lượng, trước hết là vốn và vật tư, thực hiện cho được ba chương trình
quan trọng về lương thực-thực phẩm, hàng tiêu dung và hàng xuất khẩu.
- Về cải tạo XHCN, HN cho rằng, do chưa nắm vững quy luật đẩy mạnh cải tạo
XHCN là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH nên
chúng ta đã phạm nhiều sai lầm khuyết điểm trong cải tạo XHCN. Bởi vậy, phải biết lựa
chọn bước đi và hình thức thích hợp trên quy mô cả nước cũng như từng vùng, từng lĩnh
vực, phải đi qua những bước trung gian, quá độ từ thấp đến cao, từ quy mô nhỏ đến trung
bình, rồi đến quy mô lớn; phải nhận thức đúng đắn đặc trưng của thời kỳ quá độ lên
CNXH ở nước ta là nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần, đó là sự cần thiết khách quan
để phát triển lực lượng sản xuất, tận dụng các tiềm năng, tạo thêm việc làm cho người lao
động, phải sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế; cải tạo XHCN không chỉ là sự thay
đổi chế độ sở hữu, mà còn thay đổi cả chế đọ quản lý, chế độ phân phối.
- Về cơ chế quản lý kinh tế, HN cho rằng, bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với đổi
mới cơ chế quản lý kinh tế, làm cho cả hai mặt trận ăn khớp với nhau tạo ra động lực mới
thúc đẩy sản xuất phát triển. Nội dung chủ yếu của cơ chế quản lý kinh doanh XHCN là:
Đổi mới kế hoạch hóa theo nguyên tắc phát huy vai trò chủ đạo của các quy luật kinh tế
XHCN, đồng thời sử dụng đúng đắn các quy luật của quan hệ hàng hóa tiền tệ, làm cho
102
các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh; phân biệt chức năng quản
lý hành chính của Nhà nước với chức năng quản lý sản xuất, kinh doanh của các đơn vị
kinh tế; phân công, phân cấp bảo đảm các quyền tập trung thống nhất của TW trong
những khâu then chốt, quyền chủ động của địa phương, quyền tự chủ sản xuất kinh doanh
của cơ sở.
* Tổng kết 10 năm 1975-1986, Đảng đã khẳng định 3 thành tựu nổi bật: Thực hiện
thắng lợi chủ trương thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước; đạt được những thành tựu
quan trọng trong xây dựng CNXH; giành thắng lợi to lớn trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc
và làm nghĩa vụ quốc tế. Sai lầm khuyết điểm nổi bật là không hoàn thành các mục tiêu
kinh tế-xã hội do ĐH IV và ĐH V đề ra. Đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế xã hội
kéo dài; sản xuất tăng chậm và không ổn định; nền kinh tế luôn trong tình trạng thiếu hụt,
không có tích lũy; lạm phát tăng cao và kéo dài. Đất nước bị bao vây, cô lập, cấm vận,
đời sống nhân dân hết sức khó khăn, lòng tin đối với Đảng, Nhà nước, chế độ giảm sút
nghiêm trọng.
Nguyên nhân khách quan dẫn đến khủng hoảng kinh tế xã hội do chúng ta xây dựng
đất nước từ nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu, sản xuất nhỏ là phổ biến, bị bao vây, cấm vận
nhiều năm, nguồn viện trợ từ nước ngoài giảm mạnh; hậu quả nặng nền của 30 năm chiến
tranh chưa kịp hàn gắn rồi 2 cuộc chiến tranh ở biên giới phía Bắc và Tây Nam. Về chủ
quan là những sai lầm của Đảng trong đánh giá tình hình, xác định mục tiêu, bước đi sai
lầm trong bố trí cơ cấu kinh tế; sai làm trong cải tạo XHCN, trong lĩnh vực phân phối,
lưu thông; duy trì quá lâu cơ chế tập trung, bao cấp, quan liêu…
3.2. Lãnh đạo công cuộc đổi mới, đẩy mạnh CNH-HĐH và hội nhập quốc tế (1986 –
2018)
3.2.1. Đổi mới toàn diện, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội 1986-
1996
a. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12/1986) và thực hiện kế
hoạch nhà nước 5 năm 1986-1990
* Quá trình chuẩn bị:
- Đại hội VI của Đảng được chuẩn bị từ năm 1984.
- Tháng 5/1986, Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa V thông
qua dự thảo Báo cáo chính trị lần thứ nhất.
- Ngày 10/7/1986, Tổng bí thư Lê Duẩn qua đời.
- Ngày 14/7/1986, đ/c Trường Chinh được bầu làm Tổng bí thư tại Hội nghị bất
thường Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa V.
- Tháng 7/1986, sau khi sơ bộ tổng hợp ý kiến đóng góp cho Đại hội, Bộ Chính trị
nhận thấy dự thảo Báo cáo chính trị lần thứ nhất chưa đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của
cán bộ, đảng viên và nhân dân; chưa rút ra được những bài học cơ bản từ thực tế xây
103
dựng CNXH; chưa đề ra được nội dung đổi mới về kinh tế để có thể làm chuyển biến tình
hình.
- Tháng 8/1986, Hội nghị Bộ Chính trị và Ban bí thư đã thảo luận kỹ ba vấn đề lớn về
kinh tế thời kỳ quá độ: cơ cấu kinh tế, cải tạo XHCN, cơ chế quản lý kinh tế.
 Phương hướng cơ bản để tháo gỡ được đề ra tại Hội nghị là giải phóng năng
lực sản xuất hiện có, khai thác và phát huy mọi tiềm năng của đất nước để phát triển
mạnh mẽ lực lực lượng sản xuất. Chúng ta đã mắc nhiều sai lầm, khuyết điểm trong hơn
10 năm qua về bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư…, chúng ta muốn đi nhanh nhưng thực
tế đã đi đường vòng, gây thêm cho mình những khó khăn mới và lãng phí thời gian, làm
cho chặng đường đầu tiên bị kéo dài.
- Về cơ cấu kinh tế:
+ Sai lầm: chủ quan, nóng vội, quy mô quá lớn, nhịp độ quá nhanh trong xây dựng
cơ bản và phát triển sản xuất  làm cho sản xuất trong 5 năm gần đây hầu như giẫm
chân tại chỗ, năng suất lao động giảm sút, chi phí sản xuất không ngừng tăng lên, tình
hình kinh tế-xã hội ngày càng không ổn định, từ đó, chậm giải quyết vấn đề cơ bản là
lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng thiết yếu và tạo nguồn hàng lớn cho xuất khẩu.
+ Hội nghị chủ trường điều chỉnh lớn trên cơ sở bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu
tư theo hướng thật sự lấy nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển công nghiệp
nhẹ.
 Chuyển hướng là việc rất khó khăn, đòi hỏi phải đổi mới cách suy nghĩ và cách
làm, dám thừa nhận và thay đổi các sai lầm trước đây của chính mình, dũng cảm xử lý
những phức tạp nảy sinh trong quá trình chuyển hướng và điểu chỉnh.
- Về cải tạo xã hội chủ nghĩa: Nguyên nhân vì chưa nắm vững quy luật đẩy mạnh cải
tạo XHCN là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục suốt thời kỳ quá độ lên CNXH nên đã xảy
ra những khuyết điểm nóng vội, chạy theo hình thức. Quy luật này đòi hỏi:
+ Cải tạo quan hệ sản xuất cũ ở một nước từ sản xuất nhỏ đi lên, trình độ xã hội
hóa còn thấp, phải biết lựa chọn bước đi và hình thức thích hợp, phải qua những bước
trung gian quá độ từ thấp lên cao và từ nhỏ đến lớn, làm cho quan hệ sản xuất luôn phù
hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
+ Đặc trưng thời kỳ quá độ là nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần: a- Kinh tế
XHCN (quốc doanh và tập thể); b- Các thành phần khác: công tư hợp doanh, tiểu sản
xuất hàng hóa (thợ thủ công, nông dân cá thể, tiểu thương, kinh tế tự nhiên) và kinh tế tư
bản tư nhân tồn tại trong một thời gian dài. Đó là sự cần thiết khách quan để phát triển
lực lượng sản xuất. Kinh tế XHCN phải giữ vai trò chủ đạo.
- Về cơ chế quản lý kinh tế: Cơ chế cũ mang nặng tính chất tập trung quan liêu. Đặc
trưng của cơ chế cũ là cơ quan quản lý hành chính có toàn quyền quyết định những vấn
đề kinh tế nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về các quyết định của mình: không tính
104
tới hiệu quả sử dụng tiền vốn, tài sản, vật tư, lao động; không gắn trách nhiệm với lợi ích
vật chất, tách rời việc trả công lao động với số lượng và chất lượng lao động; bộ máy
quản lý cồng kềnh, nhiều tầng lớp trung gian, cửa quyền, kém năng động, thiếu trách
nhiệm.
Nội dung chủ yếu của cơ chế quản lý kinh doanh XHCN là:
+ Đổi mới kế hoạch hóa theo nguyên tắc phát huy vai trò chủ đạo của các quy luật
kinh tế XHCN, đồng thời sử dụng đúng đắn các quy luật của quan hệ hàng hóa-tiền tệ.
+ Làm cho các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ sản xuất kinh doanh, tự tạo vốn và
hoàn vốn, tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất, thu nhập của tập thể và người lao động
phải căn cứ vào kết quả lao động và hiệu quả kinh tế.
+ Phân biệt chức năng quản lý hành chính-kinh tế của Nhà nước với chức năng
quản lý sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế.
+ Phân công, phân cấp bảo đảm các quyền tập trung thống nhất của Trung ương
trong những khâu then chốt về kinh tế, quyền chủ động của địa phương trên địa bàn lãnh
thổ, quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của cơ sở. Trách nhiệm đi đôi với quyền hạn,
nghĩa vụ gắn liền với lợi ích. Vừa chống tập trung quan liêu vừa chống tự do vô tổ chức,
vô kỷ luật, cục bộ, địa phương.
- Công tác kế hoạch hóa phải được kết hợp chặt chẽ với thị trường.
+ Kế hoạch phải thông qua thị trường, coi thị trường là căn cứ để xây dựng và điều
chỉnh kế hoạch, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa.
+ Nhà nước cần sử dụng những biện pháp quản lý có hiệu quả kinh tế tư bản tư
nhân, nghiêm trị bọn đầu cơ buôn lậu nhưng không thể xóa bỏ thị trường tự do theo ý
muốn chủ quan bằng mệnh lệnh hành chính.
- Chính sách giá cả phải vận dụng tổng hợp nhiều quy luật, trong đó quy luật giá trị có
tác dụng trực tiếp, giá cả phải phù hợp với giá trị, sức mua của đồng tiền và quan hệ
cung-cầu.
 Thước đo chính sách giá cả đúng đắn là ở chỗ làm cho người lao động làm ra
nhiều sản phẩm hàng hóa, tích cực phấn đấu giảm tiêu hao sản xuất, hạ giá thành, nâng
cao giá trị sản phẩm và hăng hái bán sản phẩm cho Nhà nước.
- Phấn đấu thi hành chính sách một giá, làm cho thương nghiệp mua được, bán được,
Nhà nước không phải bù lỗ, không tạo ra nhu cầu giả tạo, ngăn chặn các hiện tượng thất
thoát hàng hóa, tạo điều kiện giảm bớt căng thẳng cung-cầu và ổn định thị trường. Trong
điều kiện Nhà nước chưa đủ điều kiện bảo đảm một số mặt hàng thiết yếu thì tạm thời áp
dụng chính sách hai giá ở những nơi, những lúc nhất định.
- Những kết luận trên đây của Bộ Chính trị là cơ sở để đổi mới và hoàn chỉnh dự thảo
Báo cáo chính trị trình Đại hội VI, là căn cứ để giải quyết những vấn đề cấp bách trước

105
mắt, đồng thời là sự đổi mới tư duy về con đường đi lên CNXH ở nước ta, mở đường đưa
đất nước ta ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội.
 Đây chính là bước đột phá thứ ba để đi đến khẳng định đường lối đổi mới. Hội
nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa V (tháng 11/1986) đã thông qua
dự thảo Báo cáo chính trị mới được bổ sung và hoàn chỉnh bằng những quan điểm của
Hội nghị Bộ Chính trị tháng 8/1986.
* Tiến hành Đại hội:
- Đại hội VI của Đảng được tiến hành tại Hà Nội từ ngày 5/12/1986, về dự có có 1129
đại biểu chính thức, thay mặt cho gần 1,9 triệu đảng viên cả nước. Đại hội nội bộ tiến
hành từ ngày 5 đến ngày 14/12/1986. ĐH diễn ra trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa
học kỹ thuật đang phát triển mạnh, xu thế đối thoại trên thế giới đang dần thay thế cho xu
thế đối đầu. Đổi mới đã trở thành xu thế của thời đại. Liên Xô và các nước XHCN đều
tiến hành cải tổ sự nghiệp xây dựng CNXH. Việt Nam đang bị các đế quốc và thế lực thù
địch bao vây, cấm vận và ở tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội. Lương thực, thực
phẩm, hàng tiêu dùng đều khan hiếm; lạm phát tăng phi mã lên đến 774% năm 1986. Các
hiện tượng tiêu cực, vi phạm pháp luật, vượt biên trái phép diễn ra khá phổ biến. Đổi mới
trở thành nhu cầu đòi hỏi bức thiết của tình hình đất nước.
- Nội dung của Báo cáo chính trị Đại hội VI:
+ Thành tựu:
+ Tính chất, nguyên nhân của cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội: ĐH VI đã nhìn
thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá thành tựu, nghiêm túc
kiểm điểm, chỉ rõ những sai lầm, khuyết điểm của Đảng trong thời kỳ 1975 – 1986. Đó là
những sai lầm, khuyết điểm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai
lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện. Đặc biệt trên lĩnh vực kinh tế là bệnh chủ
quan duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội, chạy theo nguyện vọng
chủ quan. Nguyên nhân của mọi nguyên nhân bắt nguồn từ những khuyết điểm trong hoạt
động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng.
+ Bốn bài học kinh nghiệm quý báu:
Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân
làm gốc” (“dân là gốc”).
Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy
luật khách quan.
Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện
mới.
Bốn là, chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm với một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân
dân tiến hành cuộc cách mạng XHCN.

106
+ Nhiệm vụ chung của chặng đường đầu tiên là: Ổn định mọi mặt tình hình kinh
tế-xã hội, xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc công nghiệp hóa trong chặng đường
tiếp theo.
+ Mục tiêu cụ thể về kinh tế-xã hội của chặng đường đầu tiên là:
1. Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích lũy.
2. Bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý hướng vào việc đẩy mạnh sản xuất
nông nghiệp, chủ yếu là lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và xuất khẩu.
3. Làm cho thành phần kinh tế XHCN giữ vai trò chi phối, sử dụng mọi khả năng
của các thành phần kinh tế khác trong sự liên kết chặt chẽ, dưới sự chỉ đạo của thành
phần kinh tế XHCN. Tiến hành cải tạo XHCN theo nguyên tắc phát triển sản xuất, nâng
cao hiệu quả kinh tế và tăng thu nhập cho người lao động.
4. Tạo ra sự chuyển biến về mặt xã hội, việc làm, công bằng xã hội, chống tiêu
cực, mở rộng dân chủ, giữ vững kỷ cương phép nước.
5. Củng cố quốc phòng và an ninh.
+ Về chính sách đối ngoại:
+ Về phát huy quyền làm chủ tập thể nhân dân lao động:
+ Về nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng:
- Báo cáo về phương hướng, mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội 1986-1990 đã cụ thể
những vấn đề kinh tế và xã hội lớn nêu trong Báo cáo chính trị, trước hết là ba chương
trình lớn: lương thực-thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
- Báo cáo về sửa đổi Điều lệ Đảng.
- Đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng bí thư.
* Nội dung đường lối đổi mới của Đại hội VI tập trung vào những vấn đề lớn sau đây:
- Đổi mới tư duy lý luận nhận thức rõ hơn những quy luật khách quan, những đặc
trưng và bước đi của thời kỳ quá độ lên CNXH, khắc phục chủ quan, duy ý chí.
- Đổi mới các chính sách kinh tế, trước hết thực hiện chính sách phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần, xác định ở Việt Nam có 5 thành phần kinh tế bình đẳng trước pháp luật
và tồn tại phát triển trong suốt thời kỳ quá độ. Đổi mới cơ chế quản lý, xóa bỏ cơ chế
quản lý tập trung quan liêu hành chính bao cấp, chuyển sang hạch toán, kinh doanh kết
hợp kế hoạch với thị trường. Thực hiện ba chương trình kinh tế lớn: lương thực-thực
phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
- Đổi mới chính sách đối ngoại, chú trọng thu hút vốn đầu tư nước ngoài, mở rộng
quan hệ hợp tác, hữu nghị với các nước.
- Chú trọng các vấn đề xã hội, chính sách xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
của nhân dân.

107
- Đổi mới sự quản lý điều hành của Nhà nước, Nhà nước quản lý chủ yếu bằng pháp
luật, đổi mới chức năng quản lý nhà nước về kinh tế-xã hội. Đổi mới sự lãnh đạo của
Đảng, phong cách lãnh đạo của Đảng.
* Đại hội VI của Đảng có ý nghĩa lịch sử trọng đại, đánh dấu một bước ngoặt trong sự
nghiệp quá độ lên CNXH ở nước ta. Đại hội VI đã tìm ra lối thoát cho cuộc khủng hoảng
kinh tế-xã hội, đặt nền tảng cho việc tìm ra con đường thích hợp đi lên CNXH ở nước ta.
Tuy nhiên, Đại hội VI còn có hạn chế về những giải pháp tháo gỡ tình trạng rối ren trong
phân phối, lưu thông.
 Tìm ra con đường thích hợp và giải pháp ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội,
một lần nữa Đảng ta tỏ rõ bản lĩnh độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực, tự cường.
* Một số kinh nghiệm được Đảng ta rút ra từ Đại hội VI:
1. Muốn tìm ra con đường đúng, điều kiện tiên quyết là nhìn thẳng vào sự thật,
đánh giá đúng thực trạng đất nước. Tổng kết thực tiễn một cách công phu và khoa học là
phương pháp tốt nhất để đánh giá thực trạng, tìm ra nguyên nhân và có con đường đúng.
2. Tổng kết thực tiễn đòi hỏi phải biết lắng nghe các ý kiến khác nhau, phân tích
từng loại ý kiến, tự đặt câu hỏi và tìm cách trả lời để khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí.
3. Đổi mới là quá trình từng bước từ thấp đến cao, từ đổi mới từng bộ phận đến
đổi mới toàn diện, chống đốt cháy giai đoạn.
* Thực hiện kế hoạch kinh tế 5 năm 1986-1990:
- Đường lối Đổi mới của Đảng được triển khai thực hiện đúng lúc tình hình thế giới
có nhiều biến động phức tạp:
+ Quá trình toàn cầu hóa được thúc đẩy dưới tác động của cách mạng khoa học và
công nghệ và diễn ra trong xu thế chung là độc lập, hòa bình và phát triển, các nước vừa
hợp tác vừa đấu tranh.
+ Những biến động phức tạp diễn ra tại Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu gây
ra nhiều bất lợi cho cách mạng Việt Nam.
- Sau Đại hội VI, khủng hoảng kinh tế - xã hội ở nước ta vẫn diễn ra nghiêm trọng.
+ Lương thực thiếu, nạn đói xảy ra ở nhiều tỉnh, lạm phát cao, đời sống nhân dân
rất khó khăn trong các năm 1987-1988. Các hiện tượng tiêu cực và tệ nạn xã hội tăng.
+ Trên lĩnh vực tư tưởng chính trị xuất hiện các khuynh hướng phủ nhận vai trò
của Đảng, Nhà nước, tư tưởng XHCN ở Việt Nam. Về mặt an ninh, quốc phòng, chủ
quyền lãnh thổ trên tuyến biên giới phía Bắc và quần đảo Trường Sa của nước ta luôn bị
xâm phạm.
+ Mỹ cấm vận kinh tế nước ta. Quan hệ kinh tế với Liên Xô và các nước Đông Âu
bị thu hẹp.
- Thuận lợi cơ bản của nước ta là đường lối Đổi mới của Đảng được toàn dân nhất trí,
tin tưởng và từ đó khơi dậy nhiều nguồn lực, tiềm năng lao động sản xuất, kinh doanh
108
của nhân dân. Và điều kiện tiên quyết để hoàn thành thắng lợi Đổi mới đó là giữ vững ổn
định chính trị, phát triển kinh tế, tạo môi trường quốc tế thuận lợi, phá thế bị bao vây cấm
vận, xây dựng Đảng vững mạnh trong thời kỳ mới.
- Nhiệm vụ cấp bách sau Đại hội VI là tháo gỡ những ách tắc trong phân phối, lưu
thông. Đảng xác định đây là mặt trận nóng bỏng. Hội nghị TW Đảng lần thứ 02 khóa VI
tháng 04/1987 đặt mục tiêu giảm khó khăn của đời sống nhân dân theo hướng xóa bỏ chế
độ tập trung quan liêu bao cấp, nâng cao vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh, phát huy
tính tích cực của các thành phần kinh tế khác, mở rộng giao lưu hàng hóa, giải phóng sức
sản xuất lao động.
+ Tiến tới thực hiện cơ chế một giá, cần xem xét đối với từng mặt hàng.
+ Thực hiện chế độ lương thống nhất trong cả nước, định mức lương mới cho các
khu vực sản xuất, hành chính sự nghiệp, lực lượng vũ trang.
+ Thực hiện các biện pháp giảm tỉ lệ bội chi ngân sách.
+ Chuyển hoạt động của các đơn vị kinh tế quốc doanh sang hạch toán kinh doanh
XHCN, đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế.
- Tháng 09/1987, Bộ Chính trị ra nghị quyết về cuộc vận động làm trong sạch và nâng
cao sức chiến đấu của tổ chức đảng và bộ máy nhà nước, làm lành mạnh các quan hệ xã
hội. Cũng trong năm này, Đảng cũng ra những nghị quyết về công tác báo chí, lãnh đạo,
quản lý văn hóa nghệ thuật…
- Trước tình hình khó khăn của nông nghiệp vào giai đoạn này và cơ chế “Khoán
100” không thể đáp ứng được, tháng 04/1987, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 10-NQ/TW
về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp với cơ chế khoán mới: xác định hợp tác xã nông
nghiệp là đơn vị kinh tế tự chủ tự quản, hộ gia đình xã viên là đơn vị nhận khoán với hợp
tác xã.
- Quan hệ đối ngoại: cải thiện quan hệ Việt-Trung, quan hệ Việt Nam-ASEAN, ta rút
quân tình nguyện ở Campuchia về nước.
- Hội nghị TW Đảng tháng 03/1989 đề ra những quan điểm và phương hướng chỉ đạo
đổi mới: mục tiêu của đổi mới không phải là thay đổi XHCN mà thực hiện bằng quan
niệm đúng đắn với những bước đi thích hợp; vận dụng CN Marx-Lenin một cách sáng
tạo; đổi mới tổ chức phương thức hoạt động của hệ thống chính trị; xây dựng nên dân chủ
XHCN; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại…
b. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (tháng 06/1991) và thực hiện kế
hoạch nhà nước 5 năm 1991-1995
- Đảng ta tổ chức ĐH VII toàn quốc trong bối cảnh quốc tế có nhiều biến động: hệ
thống XHCN ở các nước Đông Âu liên tiếp sụp đổ, Liên Xô đang lâm vào khủng hoảng
trầm trọng, ở Trung Quốc xẩy ra vụ biểu tình của học sinh-sinh viên ở quảng trường

109
Thiên An Môn (Bắc Kinh) vào năm 1989. Ở trong nước, khuynh hướng đòi đa nguyên đa
đảng nảy sinh trong Đảng và xã hội gây bất lợi cho sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản VN.
- Đại hội VII tổ chức công khai từ ngày 24-27/06/1991 tại Hà Nội với 1176 đại biểu
tham dự.
- Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đọc Báo cáo tại Đại hội với những vấn đề quan trọng
sau:
+ Kiên trì con đường XHCN.
+ Sự nghiệp phát triển kinh tế XHCN đặt con người ở vị trí trung tâm, thống nhất
tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội. Thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần,
áp dụng cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước… Đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục
và đào tạo, khoa học và công nghệ, coi đây là quốc sách hàng đầu.
+ Đổi mới hệ thống chính trị giữ vai trò quan trọng và phải được xác định đúng
nội dung, bước đi thích hợp. Đảng giữ vai trò lãnh đạo, thực hiện đổi mới, kiện toàn, xây
dựng nền dân chủ XHCN.
+ Tuy đạt được nhiều thành tựu nhưng đất nước vẫn chưa ra khỏi khủng hoảng
kinh tế-xã hội.
- Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH được Đại hội thông
qua đã tổng kết tiến trình cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và nêu ra 5 bài
học kinh nghiệm của cách mạng Việt Nam: nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH;
sự nghiệp cách mạng là của dân, do dân và vì dân; không ngừng củng cố, đoàn kết dân
tộc; đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh trong
nước với sức mạnh quốc tế; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố bảo đảm thắng lợi của cách
mạng Việt Nam.
- Xác định 6 đặc trưng của mô hình CNXH trong thời kỳ quá độ: do nhân dân lao
động làm chủ; có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, làm theo năng lực, hưởng theo
lao động, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân, cuộc sống ấm no, hạnh phúc; các dân
tộc trong nước đoàn kết, bình đẳng; có quan hệ hữu nghị, hợp tác với nhân dân các nước
trên thế giới.
- Cương lĩnh nêu ra 7 phương hướng lớn xây dựng CNXH là: Xây dựng Nhà nước
XHCN. Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại gắn
liền với phát triển nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm. Thiết lập từng bước
quan hệ sản xuất XHCN từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu; phát triển
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chể thị
trường có sự quản lý của Nhà nước. Tiến hành cách mạng XHCN trên lĩnh vực tư tưởng,
văn hóa làm cho thế giới quan Mác-Lênin, tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ
110
đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc. Thực hiện
hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Cương lĩnh chỉ rõ quá độ lên CNXH ở nước ta là một quá trình lâu dài, trải qua
nhiều chặng đường với những định hướng lớn về chính sách kinh tế, xã hội, quốc phòng-
an ninh, đối ngoại. “Mục tiêu tổng quát phải đạt tới, khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây
dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của CNXH, với kiến trúc thượng tầng về chính
trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước XHCN phồn vinh”.
- Cương lĩnh nêu rõ quan điểm về xây dựng hệ thống chính trị, xây dựng nhà nước
XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể nhân dân. Trong hệ thống chính trị, Đảng CSVN là một bộ phận và là tổ chức lãnh
đạo hệ thống đó. Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng
tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ
bản. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức.
- Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2000 đề ra mục tiêu tổng
quát đến năm 2000 đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội, ổn định tình hình,
phấn đấu vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển, tạo điều kiện cho đất nước
phát triển nhanh hơn vào đầu thế kỷ XXI. GDP năm 2000 tăng gấp đôi so với năm 1990.
- Báo cáo chính trị đánh giá tình hình đổi mới các lĩnh vực của đời sống xã hội và đề
ra những phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu trong 5 năm 1991-1995.
- Báo cáo rút ra năm bài học kinh nghiệm của sự nghiệp đổi mới: giữ vững định
hướng XHCN; đổi mới toàn diện, triệt để, đồng bộ, có những bước đi thích hợp; phát
triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà
nước về kinh tế-xã hội; phát huy dân chủ phải được lãnh đạo tốt; trong quá trình đổi mới,
quan tâm dự báo tình hình, kịp thời phát hiện và giải quyết đúng đắn những vấn đề mới
nảy sinh, tăng cường tổng kết thực tiễn và hoàn chỉnh lý luận về con đường xây dựng
XHCN.
- Tại ĐH VII, lần đầu tiên Đảng giương cao ngọn cở tư tưởng Hồ Chí Minh và khẳng
định: Tư tưởng Hồ Chí Minh và Chủ nghĩa Marx-Lenin là nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam cho hành động của Đảng. tiếp thu tinh hóa trí tuệ của dân tộc và nhân loại, nắm
vững quy luật khách quan và thực tiễn của đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường
lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân”. Nội dung này
đã được đưa vào Điều lệ Đảng (sửa đổi) tại Đại hội lần này.
- ĐH VII là “Đại hội của trí tuệ-đổi mới, dân chủ-kỷ cương-đoàn kết” hoạch định con
đường quá độ lên CNXH phù hợp với đặc điểm của VN.
* Thực hiện nghị quyết ĐH VII, trong những năm 1991-1996, BCH TW đã họp nhiều
lần, chỉ đạo tiếp tục đổi mới toàn diện, trong đó nổi bật trên những lĩnh vực chủ yếu.

111
- Nông nghiệp là mặt trận hàng đầu: HN TW 5 (6/1993) đưa ra các chính sách đối với
nông dân, nông nghiệp và nông thôn. TW xác định 3 mục tiêu chủ yếu là: Xy dựng nông
thôn mới có kinh tế phát triển, đời sống văn hóa phong phú, lành mạnh có cơ sở hạ tầng
vật chất và xã hội đáp ứng được những nhu cầu cơ bản của nông dân; có hệ thống chính
trị vững mạnh; phát huy dân chủ, bảo đảm công bằng xã hội; tăng cường đoàn kết và ổn
định chính trị, giữ vững trật tự xã hội, củng cố vững chắc quốc phòng, an ninh.
- Công nghiệp: HN TW 7 (7/1994) chủ trương phát triển công nghiệp, công nghệ và
xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới. Mục tiêu lâu dài của CNH-HĐH là cải
biến nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu
kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của sức sản xuất,
mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước manh,
xã hội công bằng, văn minh. Xây dựng giai cấp công nhân phát triển về số lượng, giác
ngộ về giai cấp, vững vàng về chính trị, tư tưởng, có trình độ học vấn, tay nghề, có năng
lực tiếp thu, sáng tạo công nghệ mới, đạt năng suất, hiệu quả cao, làm tròn sứ mệnh lịch
sử của mình.
- HN TW 3(6/1992) đã thảo luận và đưa ra ba quyết sách quan trọng đúng đắn về
củng cố quốc phòng an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại, đổi mới và chỉnh đốn Đảng.
Chủ trương đa dạng hóa, đa phương hóa, mở rộng các mối quan hệ đối ngoại cả về chính
trị, kinh tế, văn hóa, khoa học kĩ thuật, cả về Đảng, Nhà nước, đoàn thể nhân dân, tổ chức
phi chính phủ trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can
thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, bảo vệ và phát triển kinh
tế, giữ gìn và phát huy những truyền thống và bản sắc tốt đẹp cảu nền văn hóa dân tộc.
+ Tháng 11/1991, VN và Trung Quốc bình thường hóa quan hệ ngoại giao.
+ Tăng cường quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt với Lào, xây dựng quan hệ tốt
với Campuchia.
+ Tham gia tổ chức ASEAN và thiết lập quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ (năm
1995).
- HN TW 3 năm 1992 lần đầu tiên đưa ra chủ trương tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng.
Mục tiêu là nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phù hợp với
yêu cầu khách quan của cách mạng nước ta trong điều kiện tình hình mới, làm trong sạch
đội ngũ cán bộ, đảng viên, bảo đảm thực hiện các nhiệm vụ chính trị do ĐH VII đề ra,
trong đó nhiệm vụ trọng tâm là phát triển kinh tế, làm cho dân giàu nước mạnh, giữ vững
ổn định chính trị. Nguyên tắc đổi mới và chỉnh đốn Đảng là quán triệt và vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên trì đổi mới theo định hướng
XHCN, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, củng cố mối liên hệ giữa Đảng với nhân
dân.

112
- Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, tăng cường củng cố Mặt trận Dân tộc
thống nhất.
* HN giữa nhiệm kỳ (01/1994) đã khẳng định, đổi mới là sự nghiệp khó khăn, chưa
có tiền lệ, song Đảng đã mạnh dạn tìm tòi và giành thắng lợi quan trọng. Đảng ta đã giữ
vững vai trò lãnh đạo duy nhất, nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, có đường lối
chính sách phù hợp với quy luật và thực tiễn VN, phát huy được sức mạnh tổng hợp của
khối đại đoàn kết toàn dân, mở rộng hợp tác quốc tế.
- Văn kiện HN giữa nhiệm kỳ đã lần đầu tiên khẳng định xây dựng Nhà nước pháp
quyền VN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. HN TW 8 (01/1995) đã cụ thể hóa
một bước chủ trương đó và chủ trương tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng
hòa XHCN VN, cải cách một bước nền hành chính nhà nước. Đây là Nhà nước do Đảng
CS lãnh đạo. Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Tăng cường pháp chế XHCN, nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, coi trọng giáo
dục, nâng cao đạo đức xã hội…
- HN TW 4 đã ban hành 5 nghị quyết liên quan đến chăm sóc, bồi dưỡng, phát huy
nguồn lực con người: Tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục đào tạo; một số nhiệm vụ văn
hóa, văn nghệ; những vấn đề cấp bách của sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân
dân; chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình; công tác thanh niên trong thời kỳ mới.
3.2.2. Tiếp tục công cuộc đổi mới, đẩy mạnh CNH-HĐH và hội nhập quốc tế 1996-
2018
a. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996) và thực hiện kế hoạch nhà
nước 5 năm 1996-2000
- Đại hội VIII diễn ra từ ngày 22/06 đến 01/07/1996 tại thủ đô Hà Nội. Đại hội diễn ra
trong bối cảnh hệ thống XHCN ở Liên Xô và Đông Âu đã sụp đổ. Đây cũng là đại hội
tổng kết 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới, kiểm điểm việc thực hiện Đại hội VII, đề
ra mục tiêu, phương hướng, giải pháp thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
đến năm 2020 và trước mắt đến năm 2000.
- Báo cáo chính trị của BCH TW tạị ĐH đã bổ sung đặc trưng tổng quát về mục tiêu
xây dựng CNXH ở VN là: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
- Đại hội VIII khẳng định: Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội sau 10 năm
thực hiện công cuộc đổi mới nhưng một số mặt vẫn chưa vững chắc. Con đường đi lên
CNXH ngày càng được xác định rõ hơn. Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời
kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành, cho phép
chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạng CNH-HĐH đát nước.
- 6 bài học chủ yếu của 10 năm đổi mới được ĐH VIII rút ra:

113
+ Giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH; nắm vững hai nhiệm vụ chiến
lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, kiên trì CN Marx-Lenin và Tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới
kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị.
+ Xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Tăng
trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái.
+ Mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân.
+ Mở rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân
thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Mở rộng quan hệ đối ngoại trên
cơ sở giữ vững độc lập tự chủ, tự lực, tự cường.
+ Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then
chốt.
- Đại hội VIII phân tích đặc điểm tình hình thế giới, nêu rõ những xu thế chủ yếu
trong quan hệ quốc tế, những cơ hội, thách thức lớn. Mặc dù CNXH trên thế giới lâm vào
thoái trào nhưng xu thế quá độ lên CNXH là không thay đổi. Cách mạng khoa học công
nghệ thúc đẩy quá trình quốc tế hóa nền kinh tế và đời sống xã hội, thế giới đứng trước
những vấn đề toàn cầu. Hòa bình, ổn định, hợp tác là nhu cầu chung của cả thế giới. Kiên
trì mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Thách thức lớn của thời
điểm hiện nay là 4 nguy cơ: tụt hậu, chệch hướng, tham nhũng, diễn biến hòa bình.
- Phương hướng của cách mạng VN là tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược là
xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Mục tiêu của CNH-HĐH là xây dựng VN thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất-
kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng và an
ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Đến năm 2020, phấn
đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
- Quan điểm về công nghiệp hóa trong thời kỳ mới gồm:
+ Giữ vững độc lập, tự chủ, đi đôi với mở rộng quan hệ quốc tế, đa dạng hóa, đa
phương hóa quan hệ đối ngoại. Dựa vào nguồn lực trong nước là chính, đi đôi với tranh
thủ tối đa nguồn lực bên ngoài.
+ CNH-HĐH là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
+ Lấy việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh
và bền vững.
+ Khoa học công nghệ là động lực của CNH-HĐH.
114
+ Lấy hiệu quả kinh tế làm chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển, lựa
chọn dự án đầu tư và công nghệ.
+ Kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh.
- Xây dựng Đảng ngang tầm đòi hỏi của thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước là
vấn đề có ý nghĩa quyết định hàng đầu. Đảng phải tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng
cao hơn nữa sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của mình, khắc phục những biểu hiện
tiêu cực, yếu kém.
- Từ mục tiêu chung, Đại hội thông qua phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch phát triển
kinh tế-xã hội 5 năm 1996-2001, đề ra những định hướng phát triển các lĩnh vực chủ yếu:
+ Tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH, đặc biệt coi trọng
CNH-HĐH nông thôn.
+ Nắm vững chính sách, định hướng XHCN trong việc xây dựng nền kinh tế nhiều
thành phần, tiếp tục đổi mới và phát triển có hiệu quả kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo, đồng thời phát triển kinh tế tư bản nhà nước, tư bản tư nhân, cá thể, tiểu thủ công…
+ Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế: tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường,
hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, đổi mới công tác kế hoạch hóa, chính sách tài chính, tiền
tệ, giá cả, nâng cao hiệu quả và hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà nước.
+ Phát triển khoa học-công nghệ, giáo dục-đào tạo, xây dựng nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
+ Giải quyết một số vấn đề xã hội trước mắt: việc làm, xóa đói giảm nghèo, tệ nạn
xã hội…
+ Thực hiện đại đoàn kết dân tộc, nâng cao vai trò làm chủ của nhân dân, thực
hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
+ Cải cách bộ máy nhà nước, chống tham nhũng.
+ Tăng cường quốc phòng, an ninh, xây dựng vững chắc thế trận quốc phòng toàn
dân kết hợp với an ninh nhân dân.
+ Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng, đa phương hóa, đa dạng
hóa quan hệ đối ngoại.
* Thực hiện kế hoạch nhà nước 5 năm (1996-2000):
- Sau ĐH VIII, BCH TW Đảng họp nhiều lần, chỉ đạo thực hiện những nhiệm vụ
trọng tâm:
+ Coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm; phát huy tối đa nội lực, nâng cao
hiệu quả hợp tác kinh tế, ra sức cần kiệm, nâng cao hiệu quả sức cạnh tranh của nền kinh
tế. Tập trung xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, quan tâm xây dựng quan hệ
sản xuất, từng bước quá độ lên CNXH. Hướng mạnh về xuất khẩu. Thực hiện cơ chế thị
trường, Nhà nước quản lý và điều tiết theo định hướng XHCN. Phát triển kinh tế đi đôi
với thực hiện công bằng xã hội.
115
+ Thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và điều chỉnh cơ cấu đầu tư. Phát triển
nông nghiệp và nông thôn theo hướng CNH-HĐH và hợp tác hóa, dân chủ hóa. Tích cực
xóa đói giảm nghèo. Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo cảu Đảng, quản lý của Nhà nước
và phát huy quyền làm chủ của nhân dân về kinh tế-xã hội.
- HN TW 3 (6/1997) thông qua nghị quyết về phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
tiếp tục xây dựng nhà nước CHXHCN Việt Nam trong sạch, vững mạnh.
- HN TW 6 lần 2 (02/1999) đã ra nghị quyết về một số vấn đề cơ bản và cấp bách
trong công tác xây dựng Đảng. Kiên định những quan điểm có tính nguyên tắc sau: Độc
lập dân tộc gắn liền với CNXH; chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; ĐCSVN
là lực lượng lãnh đạo CM VN; không chấp nhận “đa nguyên, đa đảng”. Nhà nước VN là
nhà nước của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tập trung dân chủ là
nguyên tắc cơ bản trong tổ chức, sinh hoạt, hoạt động của Đảng. Kết hợp chủ nghĩa yêu
nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân.
- HN TW 2 khóa VIII (12/1996) đã ban hành hai nghị quyết quan trọng, nhấn mạnh
coi giáo dục đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nhân tố
quyết định tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội.
- HN TW 5 khóa VIII (7/1998) đã ban hành nghị quyết xây dựng và phát triển nền
văn hóa VN tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trung ương nhấn mạnh quan điểm: Văn
hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát
triển kinh tế-xã hội. Xây dựng và phát triển kinh tế nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội
công bằng, văn minh, con người phát triển toàn diện. Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ mà
nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh. Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa
của cộng đồng các dân tộc VN được vun đắp qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và
giữ nước. Đó là lòng yêu nước, ý chí tự tường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng
đồng gắn kết với cá nhân-gia đinh-làng xã-Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng
nghĩa tình, đạo lý; đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính
giản dị trong lối sống… Bảo vệ bản sắc dân tộc phải gắn với mở rộng giao lưu quốc tế,
tiếp thu có chọn lọc những cái hay, tiến bộ của các nước khác. Nền văn hóa VN là nền
văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
b. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (tháng 04/2001) và thực hiện kế
hoạch nhà nước 5 năm 2001-2005
- Đại hội IX của Đảng diễn ra từ ngày 19-22/04/2001 tại Hà Nội. Đây là ĐH mở đầu
thế kỷ XXI, cách mạng khoa học công nghệ, kinh tế tri thức, toàn cầu hóa diễn ra mạnh
mẽ. Sau sự kiện 11/9/2001 ở Mỹ, chính quyền Mỹ lợi dụng chống khủng bố, tăng cường
can thiệp vào công việc nội bộ của nhiều nước. Khu vực Đông Nam Á, châu Á-Thái Bình
Dương trở thành khu vực phát triển kinh tế năng động nhưng tiềm ẩn những nhân tốt gây
116
mất ổn định. Sau 15 năm tiến hành Đổi mới, VN đạt được nhiều thành tựu quan trọng,
tạo thế và lực mới nhưng nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh
tranh thấp. Chỉ tiêu tăng trưởng bình quân trong 5 năm mà ĐH VIII đề ra là 9-10% không
đạt được. Các nguy cơ được nêu ra tại HN giữa nhiệm kỳ vẫn là những thách thức lớn
của cách mạng VN.
- Những bài học kinh nghiệm về đổi mới tiếp tục được Đại hội IX nêu rõ:
+ Trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trên
nền tảng CN Marx-Lenin và Tư tưởng Hồ Chí Minh…
+ Đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn,
luôn luôn sáng tạo…
+ Đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại…
+ Đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp
đổi mới.
- Đại hội IX đã tổng kết thành quả của cách mạng Việt Nam thế kỷ XX và triển vọng
phát triển trong thế kỷ XXI. Đảng đã lãnh đạo nhân dân giành được những thắng lợi vĩ
đại:
+ Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và thành lập Nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, xóa bỏ chế độ thuộc địa nửa phong kiến, mở ra kỷ nguyên độc
lập dân tộc gắn liền với CNXH.
+ Thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ
quốc, đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân, thống nhất đất nước, đưa cả nước tiến lên CNXH.
+ Thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và từng bước quá độ cả nước lên CNXH.
- Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước VN theo con đường XHCN trên
nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một
hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của CM VN, là kết quả
của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của
nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại”. Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân
dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta. Khẳng định lấy
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
hành động là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta.
- Con đường phát triển quá độ lên CNXH ở nước ta là bỏ qua chế độ TBCN, tức là bỏ
qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN,
nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN,
đặc biệt là khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền
kinh tế hiện đại.
117
Xây dựng CNXH bỏ qua chế độ TBCN là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên
phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức
kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong thời kỳ quá độ, có nhiều hình thức sở hữu về tư
liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế.
- Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp
CNH-HĐH theo định hướng XHCN, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển;
thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục
những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái; đấu tranh làm thất bại âm mưu và hành
động chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành
một nước XHCN phồn vinh, nhân dân hạnh phúc.
- Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên
minh công nhân, nông dân với trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân,
tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của
toàn xã hội.
- Đảng và Nhà nước chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài nên kinh tế thị trường
định hướng XHCN, coi đây là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ
lên CNXH. Đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế, nhiều hình thức phân phối, chủ yếu phân phối theo kết quả lao động
và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác
vào sản xuất, kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội.
- Xây dựng nền văn hóa VN tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là nền tảng tinh thần
của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội; làm cho
chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh
thần của nhân dân; góp phần xây dựng con người VN phát triển toàn diện về chính trị, tư
tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, về năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, có lòng nhân
ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống văn hóa, quan hệ hài hóa trong gia đình,
cộng đồng và xã hội.
- Mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Thực hiện nhất quán
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan
hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng
quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển.
- Đại hội IX là Đại hội của trí tuệ, dân chủ, đoàn kết, đổi mới; thể hiện ý chí kiên
cường và niềm hy vọng lớn lao của cả dân tộc ta trong thời điểm bước vào thế kỷ mới,
thiên niên kỷ mới. ĐH đã phát triển và cụ thể hóa Cương lĩnh chính trị năm 1991 của
Đảng trong những năm đầu của thế kỷ XXI.
* Thực hiện kế hoạch 5 năm (2001-2005):
118
- HN TW 5 (3/2002) đã thống nhất nhận thức và sự cần thiết phát triển kinh tế tập thể
và chủ trương xác lập môi trường thể chế và tâm lý xã hội thuận lợi, sửa đổi bổ sung các
cơ chế chính sách; nâng cao vai trò quản lý của nhà nước, tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng, phát huy vai trò của Liên minh HTX VN, Mặt trận TQ và các đoàn thể nhân dân
đối với phát triển kinh tế tập thể.
- HN TW 5 (3/2002) đã thảo luận, thống nhất nhận thức coi kinh tế tư nhân là bộ phận
cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân.
- HN TW 7 (3/2003) đã thống nhất nhận thức coi đất đi là tài nguyên quốc gia vô
cùng quý gia, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là nguồn nội lực, nguồn vốn to lớn của đất
nước; quyền sử dụng đất là hàng hóa đặc biệt. Đất đai là thuộc sở hữu toàn dân do Nhà
nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Đảng, Nhà nước giao đất, cho thuê đất
cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài hoặc có thời hạn theo
pháp luật. Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại đất đã được Nhà nước giao cho cá
nhân.
- HN TW 5 (3/2002) đã đưa ra nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận của
Đảng trong tình hình mới. Cần đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, tiếp
tục làm sáng tỏ hơn lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta; nâng cao
chất lượng và hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục lý luận chính trị...
- Tháng 3/2003, Ban Bí thư ra chỉ thị số 23-CT/TW về đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên
truyền giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới nhằm làm cho toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân nhận thức sâu sắc nguồn gốc, nội dung, giá trị, vai trò của tư tưởng
Hồ Chí Minh, kiên định và làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh ngày
càng giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội ta.
- HN TW 7 (3/2003) đã ban hành ba nghị quyết quan trọng:
+ Nghị quyết về phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc vì “Dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
+ Nghị quyết về công tác dân tộc khẳng định, trải qua các thời kỳ cách mạng, công
tác dân tộc đã đạt được những thành tựu to lớn, góp phần quan trọng vào sự nghiệp cách
mạng chung của đất nước.
+ Nghị quyết về công tác tôn giáo khẳng định đây là vấn đề chiến lược có ý nghĩa
rất quan trọng. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang
và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng CNXH ở VN. Đảng, Nhà nước ta
thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc
không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật,
- Tháng 3/2004, Bộ Chính trị khoá IX đã ban hành Nghị quyết số 36 chủ trương coi
người VN ở nước ngoài là bộ phận không tách rời, là nguồn lực của cộng đồng dân tộc

119
VN, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa các nước
với nước ta.
- HN TW 8 (7/2003) đã kịp thời thảo luận và ban hành Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới. Chiến lược xác định: Mục tiêu bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XCHN; bảo
vệ sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH đất nước; bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc; bảo vệ an
ninh chính trị, quốc gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa; giữ vững an ninh chính trị
và môi trường hòa bình, phát triển đất nước theo định hướng XHCN.
Giữ vững vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặc của Đảng đối với sự nghiệp
bảo vệ Tổ quốc. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn với CNXH; lấy việc giữ gìn môi
trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế-xã hội là lợi ích cao nhất của Tổ quốc. Kết
hợp chặt chẽ hai nhiêm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc VN
XHCN. Xây dựng sức mạnh tổng hợp về chính trị, tư tưởng, kinh tế, xã hội, văn hóa,
quốc phòng, an ninh, đối ngoại…; ra sức phát huy nội lực, đồng thời tranh thủ tối đa và
khai thác mọi thuận lợi bên ngoài; chủ động phòng ngừa và triệt tiêu những nhân tố bên
trong có thể dẫn đến đột biến bất lợi.
- Nhiệm vụ cơ bản bảo vệ Tổ quốc: Giữ vững hòa bình, ổn định để thực hiện thắng lợi
sự nghiệp CNH-HĐH đất nước theo định hướng XHCN.
c. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (tháng 04/2006) và thực hiện kế
hoạch nhà nước 5 năm 2006-2010
- Đại hội X diễn ra từ ngày 18-25/04/2006 tại Hà Nội. Đây là Đại hội tổng kết 20 năm
đổi mới đất nước. Đất nước đã có sự thay đổi cơ bản, toàn diện, thế và lực, uy tín quốc tế
tăng lên nhiều so với trước. Tình hình quốc tế diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó
lường. Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của chúng ta có những thuận lợi và cơ hội
lớn, những cũng có nhiều thác thức, khó khăn. Đại hội thông qua Báo cáo chính trị, Báo
cáo về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2006-2010, Báo cáo về
công tác xây dựng Đảng của Trung ương Đảng khóa IX trình Đại hội X.
- Chủ đề của ĐH: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy
sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi
tình trạng kém phát triển”.
- Về tổng kết 20 năm đổi mới (1986-2006) đạt được những thắng lợi sau:
+ Tăng trưởng, phát triển kinh tế.
+ Phát triển văn hóa, giáo dục, cải thiện đời sống nhân dân.
+ Hệ thống chính trị, khối đại đoàn kết toàn dân được tăng cường, củng cố.
+ Quốc phòng, an ninh được giữ vững.
+ Đối ngoại đạt được nhiều thành tựu.
- Một số bài học lớn sau 20 năm đổi mới:
120
+ Quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trên nền tảng
CN Marx-Lenin và Tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù
hợp.
+ Đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào dân, phát huy vai trò chủ động,
sáng tạo của dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn nhạy bén với cái mới.
+ Phát huy cao độ nội lực, khai thác ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại trong điều kiện mới.
+ Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi mới
hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm
quyền lực thuộc về nhân dân.
- Nhận thức lý luận về CNXH và con đường tiến lên CNXH ở Việt Nam ngày càng
sáng tỏ hơn, tiếp thu, bổ sung hai đặc trưng mới của CNXH mà nhân dân ta xây dựng so
với Cương lĩnh năm 1991, cụ thể là: “Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã
hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền
kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết,
tương trợ giúp nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì
dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước
trên thế giới”.
- ĐH X lần đầu tiên đặt chú trọng hàng đầu đến nhiệm vụ then chốt là xây dựng,
chỉnh đốn Đảng. Vì Đảng CSVN là Đảng cầm quyền duy nhất lãnh đạo cách mạng VN.
Mọi thành tựu và khuyết điểm của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều
gắn liền với trách nhiệm lãnh đạo và hoạt động của Đảng. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng
phải đáp ứng bằng được yêu cầu vừa kiên định sự lãnh đạo của Đảng vừa phải không
ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cảu Đảng để Đảng ngang tầm với
trọng trách của mình. Đảng phải nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chính sách;
năng lực tổ chức chỉ đạo thực hiện, tổng kết lý luận thực tiễn, tạo thống nhất nhận thức và
hành động trong Đảng; lãnh đạo Mặt trận và các đoàn thể quần chúng, tăng cường mối
quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân. Phải xây dựng chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính
trị, tư tưởng, tổ chức, từ đội ngũ cán bộ đến phương thức lãnh đạo cảu Đảng.
- Tại ĐH X đã làm sáng tỏ bản chất của Đảng ta: Đảng CSVN là đội tiên phong của
giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc
VN; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân
tộc.
121
- Quan điểm mới nổi bật của ĐH X là đã cho phép đảng viên làm kinh tế tư nhân, kể
ca tư bản tư nhân nhưng yêu cầu phải tuân thủ điều lệ Đảng, nghị quyết của Đảng và
pháp luật của Nhà nước đồng thời nêu cao tính tiền phong gương mẫu của người đảng
viên.
- Nội dung mới trong thành tố thứ hai chủ đề của ĐH X là “phát huy sức mạnh toàn
dân tộc”. Muốn đoàn kết phải lấy mục tiêu chung của toàn dân tộc là giữ vững độc lập,
thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn mình
làm điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân
dân ở trong và ngoài nước.
- Nội dung mới trong thành tố thứ ba chủ đề ĐH X là “đẩy mạnh toàn diện công cuộc
đổi mới”. Tập trung vào các lĩnh vực chủ yếu: Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng XHCN, đấy mạng CNH-HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức. Mở
rộng quan hệ đối ngoại, chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, VN là bạn, đối tác
tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế.
* Mục tiêu, phương hướng phát triển đất nước 5 năm 2006-2010:
Thực hiện nghị quyết ĐH X, TW Đảng đã họp nhiều lần, thảo luận và quyết định
nhiều vấn đề quan trọng, nổi bật:
- Lần đầu tiên, tại HN TW 4 (02/2007), Đảng ta ban hành Chiến lược biển Việt Nam
đến năm 2020. Đảng ta nhận định thế kỷ XXI được xem là thế kỷ của đại dương. Các
quốc gia có biển đều rất quan tâm đến biển và xây dựng chiến lược biển. Biên Đông,
trong đó vùng biển VN kiểm soát có vị trí địa kinh tế và địa chính trị rất quan trọng.
Trước tình hình mới, phát triển kinh tế biển phải gắn với bảo vệ chủ quyền, quyền chủ
quyền quốc gia đối với biển, đảo và vùng trời của Tổ quốc, đòi hỏi nước ta phải có chiến
lược biển toàn diện nhằm phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò của biển đối với sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- HN TW 6 (01/2008) đã đưa ra chủ trương và giải pháp để tiếp tục hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn
các quy luật khách quan của kinh tế thị trường, thông lệ quốc tế, phù hợp với điều kiện
phát triển của VN, bảo đảm tính định hướng XHCN của nền kinh tế. Bảo đảm tính đồng
bộ giữa các bộ phận cấu thành của thế chế kinh tế; giữa các yếu tố thị trường và các loại
thị trường; giữa thể chế kinh tế với thể chế chính trị, xã hội; giữa Nhà nước, thị trường và
xã hội. Gắn kết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, phát
triển văn hóa và bảo vệ môi trường. Kế thừa có chọn lọc thành tựu phát triển kinh tế thị
trường của nhân loại và kinh nghiệm tổng kết từ thực tiễn đổi mới của nước ta; chủ động
và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời bảo đảm giữ vững độc lập, chủ quyền
quốc gia, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Nâng cao năng lực lãnh đạo

122
của Đảng, hiệu quả và hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh của cả hệ
thống chính trị trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN.
- HN TW 7 (2008) đã đánh giá tình hình và lần đầu tiên đưa ra những quyết sách
mạnh mẽ về chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp, giải quyết đồng thời ba vấn đề nông
nghiệp, nông dân, nông thôn. Và ba vấn đề này phải được giải quyết đồng bộ, gắn với
quá trình đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước. Dựa trên cơ chế kinh tế thị trường định hướng
XHCN, phù hợp với điều kiện của từng vùng, từng lĩnh vực; phát huy nội lực, đồng thời
tăng mạnh đầu tư của nhà nước và xã hội, ứng dụng nhanh các thành tựu khoa học, công
nghệ tiên tiến, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí nông dân.
- HN TW 6 (01/2008) đã chủ trương tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí. Gắn phòng chống tham nhũng, lãng phí
với xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đây là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài, phải tiến hành
kiên quyết, kiên trì, liên tục với những bước đi vững chắc, tích cực và có trọng tâm, trọng
điểm.
- HN TW 5 (7/2007) đã chủ trương tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng.
- HN TW 5 (7/2007) đã chủ trương tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với hoạt động của hệ thống chính trị. Quan điểm chỉ đạo của TW đó là: Đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị phải được đặt
trong tổng thể nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng. Thực hiện đúng nguyên tắc tập
trung dân chủ; thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng và trong xã hội; đẩy mạnh phân
cấp, tăng chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu.
- HN TW 6 (8/2007) chủ trương đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước.
- HN TW 6 (8/2007) đã ban hành nghị quyết về xây dựng giai cấp công nhân trong
thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước. Giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách
mạng thông qua đội tiền phong là Đảng CSVN; giai cấp đại diện cho phương thức sản
xuất tiên tiến, tiên phong, đi đầu trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.
- HN TW 7 khóa X (7/2008) đã ban hành nghị quyết chuyên đề về tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH.
- HN TW 7 khóa X (7/2008) đã ban hành nghị quyết về xây dựng đội ngũ trí thức
trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế.
- HN TW 12 khóa IX (7/2005) đã chỉ đạo thí điểm cuộc vận động “Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Tháng 11/2006, Bộ Chính trị khóa X quyết định
tổ chức cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong
toàn Đảng, toàn dân. Mục đích làm cho toàn Đảng, toàn dân nhận thức sâu sắc về những
nội dung cơ bản, giá trị to lớn của tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

123
- HN TW 4 (01/2007) đã ra nghị quyết về một số chủ trương, chính sách lớn phát
triển kinh tế sau khi VN trở thành thành viên của WTO.
d. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (tháng 01/2011)
- Đại hội XI diễn ra từ ngày 12-19/01/2011 tại Hà Nội. Hòa bình, hợp tác và phát triển
vãn là xu thế lớn, nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, khủng bố, tranh chấp lãnh
thổ diễn biến phức tạp. Thiên tai, dịch bệnh, khủng hoảng, suy thoái kinh tế toàn cầu, ô
nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu xảy ra nghiêm trọng trên toàn thế giới.
- Chủ đề của Đại hội là tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng, phát huy sức mạnh dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng
để đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
- Nhiệm vụ của Đại hội là đánh giá 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội X (2006-
2011), tổng kết 10 năm thực hiện chiến lược phát triển kinh tế-xã hội (2001-2010), 20
năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH và 25 năm
đổi mới. Đại hội XI đề ra phương hướng, nhiệm vụ 5 năm 2011-2015, chiến lược phát
triển kinh tế-xã hội 10 năm 2011-2020; bổ sung và phát triển Cương lĩnh năm 1991…
- Về những thành tựu đạt được:
+ Nền kinh tế vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định,
duy trì được tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng lên, nước ta đã
ra khỏi tình trạng kém phát triển.
+ Giáo dục-đào tạo, khoa học-công nghệ, văn hóa và các lĩnh vực xã hội có tiến
bộ, bảo vệ tài nguyên, môi trường được chú trọng hơn; đời sống các tầng lớp nhân dân
được cải thiện.
+ Quốc phòng, an ninh, đối ngoại được tăng cường.
+ Dân chủ XHCN có tiến bộ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố.
+ Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN được đẩy mạnh, hiệu lực và hiệu
quả hoạt động được nâng lên.
+ Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được tăng cường, đạt một số kết quả tích
cực.
- Đại hội XI cũng nêu rõ một số kinh nghiệm:
+ Trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào, phải kiên trì thực hiện đường lối và
mục tiêu đổi mới, kiên định và vận dụng sáng tạo, phát tiển CN Marx-Lenin, Tư tưởng
Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH.
+ Phải thật sự coi trọng chất lượng, hiệu quả tăng trưởng và phát triển bền vững.
Nâng cao chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế với tốc độ tăng trưởng hợp lý, giữ vững
ổn định kinh tế vĩ mô.
+ Phải coi trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần
124
của nhân dân; gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, củng cố quốc phòng, an ninh,
tăng cường quan hệ đối ngoại, thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
+ Đặc biệt chăm lo củng cố, xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng
và tổ chức.
+ Trong công tác lãnh đạo và chỉ đạo phải rất nhạy bén, kiên quyết, sáng tạo, bám
sát thực tiễn đất nước…
- Mục tiêu tổng quát trong 5 năm (2011-2015) là: tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của Đảng; đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới; xây dựng hệ thống
chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết dân tộc;
phát triển kinh tế nhanh, bền vững; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân,
giữ vững ổn định chính trị-xã hội; tăng cường hoạt động đối ngoại; bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ
bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
- Đại hội nhấn mạnh những nhiệm vụ chủ yếu về kinh tế vĩ mô, phát triển, nâng cao
chất lượng giáo dục, đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực, tăng cường tiềm lực quốc
phòng, an ninh, tiếp tục phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đẩy
mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
* Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát
triển năm 2011):
- Cương lĩnh năm 2011 có diễn đạt mới về những thắng lợi của cách mạng VN dưới
sự lãnh đạo của Đảng. Đó là thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược, mà
đỉnh cảo là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, đại thắng mùa Xuân năm 1975,
giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc teesl
thắng lợi của công cuộc đổi mới. Ngoài ra, cương lĩnh còn bổ sung ý nghĩa của những
thành quả do các thắng lợi trên mang lại và đánh giá tổng quát sai làm, khuyết điểm,
nguyên nhân, thái độ của Đảng trước những sai lầm đó.
- Cương lĩnh khẳng định những bài học kinh nghiệm lớn: Nắm vững ngọn cờ độc lập
dân tộc và CNXH. Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết, đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn
kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh
trong nước với sức mạnh quốc tế. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu
quyết định thắng lợi của cách mạng VN. Cương lĩnh 2011 thay hai từ “bảo đảm” bằng từ
“quyết định” ở bài học thứ 5; bổ sung vào nội dung phân tích ở bài học thứ hai: “Quan
liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân, sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận
mệnh của đất nước, của chế đọ XHCN và của Đảng”.
- Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020:
125
- Con đường quá độ đi lên CNXH ở VN trong bối cảnh mới diễn biến phức tạp.
+ Về đặc điểm, xu thế chung: Cuộc CM khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức và
quá trình toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ. Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới biểu hiện
dưới những hình thức và mức độ khác nhau vẫn tồn tại và phát triển. Hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển là xu thế lớn; nhưng đấu tranh dân tộc, đấu tranh
giai cấp, chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ
trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố, tranh chấp lãnh thổ, biển đảo, tài nguyên,
cạnh tranh quyết liệt về kinh tế tiếp tục diễn ra phức tạp. Khu vực châu Á-Thái Bình
Dương và Đông Nam Á phát triển năng động những vẫn tiềm ẩn nhiều nhân tốc mất ổn
định.
+ Đánh giá về CNXH: Chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ là tổn thất
lớn đối với phong trào cách mạng thế giới, nhưng một số nước theo con đường XHCN,
trong đó có VN, vẫn kiên định mục tiêu, lý tưởng, tiến hành cải cách, đổi mới, giành
được những thành tựu to lớn, tiếp tục phát triển; phong trào cộng sản và công nhân quốc
tế có những bước hồi phục.
+ Đặc điểm nổi bật của thời đại là: Các nước có chế độ chính trị và trình độ phát
triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc
gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ,
phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, những sẽ có những bước
tiến mới. “Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới CNXH”.
+ Về mô hình, mục tiêu, phương hướng cơ bản:
Cương lĩnh 2011 nêu rõ “Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội”
Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh
tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù
hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng VN bình
đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền XHCN
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng CS lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và
hợp tác với các nước trên thế giới”.
Cương lĩnh 1991 nhấn mạnh, quá trình xây dựng xã hội XHCN là quá trình cách
mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi
về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ
quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen.
Mục tiêu đến giữa thế kỷ XXI, xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp
hiện đại theo định hướng XHCN.
Tám phương hướng cơ bản xây dựng CNXH ở nước ta là: Đẩy mạnh CNH-HĐH
đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên môi trường. Phát triển nền
126
kinh tế thị trường định hướng XHCN. Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội. Bảo đảm vững chắc quốc phòng an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Thực
hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế. Xây dựng nền dân chủ XHCN, thực hiện đại đoàn kết
toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất. Xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh.
Cương lĩnh năm 2011 bổ sung cần nắm vững và giải quyết tốt 8 mối quan hệ lớn:
Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị;
giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây
dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất XHCN; giữa tăng trưởng kinh tế và phát
triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ
quốc XHCN; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ.
+ Những định hướng lớn về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an
ninh, đối ngoại
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Các
thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền
kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành
mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố
và phát triển. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển.
Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, thực hiện CNH-HĐH đất nước gắn với
phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên môi trường; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý,
hiện đại, có hiệu quả và bền vững, gắn kết chặt chẽ công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ.
Bảo đảm phát triển hài hòa giữa các vùng, miền. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ
đồng thời chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện,
thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ, trở
thành nền tảng vững chắc. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của
dan tộc của cộng đồng các dân tộc VN, tiếp thu những tinh hóa văn hóa nhân loại.
Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài, góp phần phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người VN.
Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu;
đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư cho phát triển.
127
Bảo vệ môi trường là trách nhiệm và nghĩa vụ của cả hệ thống chính trị, toàn xã
hội và mỗi công dân. Kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với đảm bảo tiến bộ, công bằng xã
hội.
Xây dựng một cộng đồng xã hội văn minh, trong đó các giai cấp, tầng lớp dân cư
đoàn kết, bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi.
Mục tiêu, nhiệm vụ của quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và
chế đọ XHCN, giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự
an toàn xã hội; chủ động làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch.
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, tự chủ, hòa
bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ, chủ động và tích cực
hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước
VN XHCN giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng
đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội trên thế giới.
Dân chủ XHCN là bản chất của chế độ ta, vừa mục tiêu vừa là động lực của sự
phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN bảo đảm dân
chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ
gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế bằng pháp luật, được pháp luật bảo
đảm.
Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công
nhân, nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng CSVN lãnh đạo. Quyền lực nhà nước là
thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý
xã hội bằng pháp luật; không ngừng tăng cường pháp chế XHCN.
Mặt trận Tổ quốc VN, các đoàn thể nhân dân có vai trò quan trọng trong sự nghiệp
đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mặt trận là bộ phận của hệ thống
chính trị, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Đảng CSVN vừa là thành viên vừa
là người lãnh đạo Mặt trận.
Về Đảng CSVN, bổ sung cách diễn đạt bản chất của Đảng: Đảng CSVN là đội tiên
phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của
dân tộc VN; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và
của dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản
nhất.

128
Đảng CSVN là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo hệ
thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh,
chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền,
thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu cảu
Đảng viên.
Làm rõ quan hệ của Đảng với nhân dân: Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn
trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng,
chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Về xây dựng Đảng: Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức; thường
xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị, phẩm
chất đạo đức và năng lực lãnh đạo.
Cương lĩnh năm 2011 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về lý luận và thực tiễn, là sự
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin , tư tưởng Hồ Chí Minh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên CNXH ở VN; thể hiện nhận thức mới về CNXH và con đường đi lên
CNXH ở VN.
- Chiến lược đã đánh giá tình hình đất nước và bối cảnh quốc tế, những bài học từ
thực tiễn thực hiện chiến lược 10 năm qua. Một là, phát huy dân chủ, khơi dậy sức mạnh
tổng hợp của toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, huy động và
sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển đất nước. Hai là, đặc biệt coi trọng chất
lượng, hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, giải
quyết hài hòa mối quan hệ giữa tốc độ và chất lượng tăng trưởng. Ba là, bảo đảm độc lập,
tự chủ và chủ quyền quốc gia, giữ vững ổn định chính trị-xã hội, chủ động tích cực hội
nhập quốc tế, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển đất nước. Bốn là, bảo đảm gắn kết
chặt chẽ, hiệu quả giữa tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực quản lý của
Nhà nước, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.
+ Chiến lược nêu rõ năm quan điểm phát triển:
1. Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu
xuyên suốt trong chiến lược.
2. Đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây dựng nước
Việt Nam XHCN dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
3. Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người là chủ thể,
nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển.
4. Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, công nghệ ngày
càng cao; đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN.
5. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng.
129
+ Mục tiêu tổng quát: “Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị-xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục
được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau”.
- Các khâu đột phá chiến lược:
+ Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, trọng tâm là tạo lập
môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính.
+ Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập
trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát
triển nguồn nhân lực với phát triển ứng dụng khoa học, công nghệ.
+ Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình hiện đại, tập
trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn.
- Định hướng phát triển kinh tế-xã hội, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền
kinh tế.
- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, bảo đảm thực hiện thắng lợi chiến
lược.
* Thực hiện kế hoạch 5 năm (2011-2015):
- HN TW 4 (01/2012) chủ trương xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ nhằm
đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hiện đại và năm 2020.
- HN TW 5 khóa X (5/2012) tiếp tục khẳng định: Đất đai là tài nguyên quốc gia vô
vùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt; là tài sản, nguồn lực to lớn của đất nước, là
nguồn sống của nhân dân ta; quyền sử dụng đất là hàng hóa đặc biệt. Tiếp tục đổi mới
chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước.
- HN TW 6 khóa X (5/2012) ban hành Kết luận về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, nâng cao
hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Quan điểm của TW là: Doanh nghiệp nhà nước là lực
lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước, là lực lượng vật chất quan trọng, là công cụ hỗ trợ
để Nhà nước điều tiết nền kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô.
- Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 03 (5/2011) về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
- HN TW 4 (01/2012) đã ban hành Nghị quyết: Một số vấn đề cấp bách về xây dựng
Đảng hiện nay. Hội nghị lần này cũng đã đưa ra kết luận tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Trung ương quyết định
thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng trực thuộc Bộ Chính trị
do Tổng Bí thư làm Trưởng ban; lập lại Ban Nội chính Trung ương là cơ quan thường
trực của Ban Chỉ đạo TW về phòng, chống tham nhũng. Đồng thời cũng tái lập lại Ban
Kinh tế Trung ương.
130
- Trung ương đã kết luận về việc tiếp thu ý kiến nhân dân, hoàn thiện bản Dự thảo sửa
đổi Hiến pháp năm 1992 với tinh thần nghiêm túc, chân thành, tiếp thu tối đa những ý
kiến hợp lý của nhân dân; kiên trì những vấn đề có tính nguyên tắc về bản chất của chế
độ chính trị và Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân
do Đảng CSVN lãnh đạo. Ban hành Hiến pháp năm 2013.
- HN TW 8 (11/2013) đã ra nghị quyết về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào
tạo, đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và
hội nhập quốc tế.
- HN TW 8 khóa XI (10/2013) đã ra nghị quyết “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong
tình hình mới” với những quan điểm mới.
- Thực hiện đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng, hoạt động đối ngoại và hội nhập
quốc tế của VN trong giai đoạn 2011- 2015 đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Môi
trường hòa bình thuận lợi cho phát triển, độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ tiếp tục được giữ vững. Quan hệ đối ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào chiều
sâu. Vị thế, uy tín quốc tế của VN ngày được nâng cao.
e. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện đồng bộ công
cuộc đổi mới, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế:
- Đại hội XII của Đảng họp từ ngày 21 đến 28/01/2016, trong bối cảnh tình hình thế
giới, khu vực có nhiều diễn biến nhanh, rất phức tạp khó lường. Đất nước đã qua 30 năm
đổi mới, thế và lực tăng lên rõ rệt, có cả những thuận lợi, thời cơ đan xen với những khó
khăn, thách thức gay gắt. Chủ đề Đại hội là: “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, dân chủ XHCN; đẩy mạnh toàn diện, đồng
bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn
định; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện
đại.”
- Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương mới gồm 180 ủy viên chính thức, 20
ủy viên dự khuyết, Bộ Chính trị có 19 đồng chí, đồng chí Nguyễn Phú Trọng được bầu
lại làm Tổng Bí thư của Đảng.
- Đại hội XII của Đảng là Đại hội “Đoàn kết – Dân chủ - Kỷ cương – Đổi mới”, tăng
cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, dân chủ
XHCN; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ
vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại.
- Đại hội XII đã kiểm điểm, đánh giá thành quả quan trọng, những hạn chế, yếu kém
trong 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI (2011-2015); tổng kết 30 năm đổi mới
(1986-2016) và nêu mục tiêu, nhiệm vụ tổng quát phát triển đất nước 5 năm 2016-2021.
Một số kinh nghiệm được Đại hội XII rút ra như sau: Một là, phải chú trọng công tác xây
131
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh; phát huy dân chủ, tăng cường khối đại
đoàn kết toàn dân tộc. Hai là, nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật,
bám sát thực tiễn đất nước, thế giới… Ba là, gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các
nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã họi là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển
văn hóa-nền tảng tinh thần của xã hội; bảo đảm quốc phòng-an ninh là nhiệm vụ trọng
yếu, thường xuyên. Bốn là, kiêm trì các mục tiêu lâu dài, nhiệm vụ cơ bản, tập trung
nguồn lực thực hiện hiệu quả những nhiệm vụ cấp bách, trước mắt… Năm là, chủ động,
tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, lấy lợi ích quốc gia-dân tộc
làm mục tiêu cao nhất, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quóc trong
tình hình mới.
- Đại hội nêu rõ mục tiêu, nhiệm vụ tổng quát phát triển đất nước 5 năm 2016-2020.
+ Thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu trên các lĩnh vực: Đổi mới mô hình tăng
trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước. Hoàn thiện thể chế, phát
triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo,
phát triển nguồn nhân lực. Phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ. Xây dựng, phát
triển văn hóa, con người. Quản lý phát triển xã hội; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội.
Quản lý tài nguyên; bảo vệ môi trường; chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với
biến đổi khí hậu. Tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc VN
XHCN trong tình hình mới. Nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực
hội nhập quốc tế. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Phát huy dân chủ XHCN,
đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân. Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền
XHCN. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng.
+ Trong nhiệm kỳ mới, cần đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát
huy mọi nguồn lực và động lực để phát triển đất nước nhanh, bền vững; đặc biệt chú
trọng tập trung lãnh đạo, thực hiện sáu nhiệm vụ trọng tâm: Tăng cường xây dựng, chỉnh
đốn Đảng; xây dựng tổ chức bộ máy chính trị tinh gọn, hiệu quả, hiệu lực, đẩy mạnh
phòng chống tham nhũng, lãng phí…; Nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao
động, sức cạnh tranh của nền kinh tế; Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc nền
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững môi trường
hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn
xã hội...; Thu hút, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực và sức sáng tạo của nhân dân, chăm
lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc; Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội, tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ, năng lực làm
việc, môi trường văn hóa lành mạnh…
132
* Sau Đại hội XII, Trung ương Đảng đã tiếp tục chỉ đạo đổi mới trong những lĩnh vực
trọng yếu.
- HN TW 4 khóa XII (10/2016) đã ra nghị quyết về tiếp tục đổi mới mô hình tăng
trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền
kinh tế.
- HN TW 4 khóa XII (10/2016) cũng đã chủ trương “Thực hiện hiệu quả tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị-xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia
các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới”. Kiên định đường lối đối ngoại đọc lập, tự
chủ; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế; tích cực và chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế vì lợi ích quốc gia-dân tộc là định hướng chiến lược lớn để xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Hội nhập kinh tế quốc tế là trọng tâm của hội nhập quốc tế, hội nhập trong các
lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế quốc tế. Bảo đảm đồng bộ giữa đổi
mới và hội nhập kinh tế quốc tế. Đẩy mạnh việc đổi mới, hoàn thiện hệ thống pháp luật,
cơ chế, chính sách. Bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng đối với tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các
hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát
huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc VN và các tổ chức chính trị - xã hội; tôn trọng và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân; tăng cường sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc trong tiến trình hội nhập quốc tế.
- HN TW 5 (5/2017) chủ trương tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng XHCN. Quan điểm chỉ đạo của TW là: Xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng XHCN là một nhiệm vụ chiến lược, là khâu đột phá quan trọng, tạo
động lực để phát triển nhanh và bền vững; đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền
kinh tế, đẩy mạnh CNH-HĐH; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế;
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn
các quy luật khách quan của kinh tế thị trường, thông lệ quốc tế, đồng thời đảm bảo định
hướng XHCN phù hợp với điều kiện phát triển của đất nước trong từng giai đoạn.
- HN TW 5 (5/2017) chủ trương tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu
quả doanh nghiệp nhà nước. Hội nghị lần này cũng chủ trương phát triển kinh tế tư nhân
trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Kinh tế
nhà nước, kinh tế tập thể cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt để phát triển nền kinh tế
độc lập, tự chủ.
- HN TW 8 (10/2018) đề ra Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển VN đến năm
2030, tầm nhìn đến năm 2045. Thống nhất tư tưởng, nhận thức về vị trí, vai trò và tầm
quan trọng đặc biệt của biển đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

133
- HN TW 4 (10/2016) ra nghị quyết về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn
chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối ống, những biểu hiện “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
- HN TW 7 khóa XII (5/2018) đã ban hành nghị quyết tập trung xây dựng đội ngũ cán
bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam
Dự Đại hội có 1.587 đại biểu thay mặt cho hơn 5 triệu đảng viên toàn Đảng. Trong
đó có 191 đồng chí đại biểu là Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII, 1.381
đại biểu được bầu từ đại hội đảng bộ các tỉnh, thành phố và đảng bộ trực thuộc Trung
ương, 15 đại biểu thuộc các Đảng bộ ngoài nước do Bộ Chính trị chỉ định. Đại biểu nam
có 1.365 đồng chí, chiếm 86,01%, đại biểu nữ có 222 đồng chí, chiếm tỷ lệ 13,99%. Đại
biểu là người dân tộc thiểu số có 175 đồng chí, chiếm tỷ lệ 11,03%. Có 3 đại biểu là Anh
hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, chiếm 0,19%; 13 đại biểu là Nhà giáo ưu tú, chiếm
0,82%; 15 đại biểu là Thầy thuốc nhân dân, Thầy thuốc ưu tú, chiếm 0,95%.

Chủ đề của Đại hội là “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính
trị trong sạch, vững mạnh; khơi dậy ý chí và quyết tâm phát triển đất nước, phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; tiếp tục đẩy mạnh toàn
diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi
trường hoà bình, ổn định; phấn đấu để đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước
phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”
Với quan điểm nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật, đổi mới, hội nhập và phát
triển, phát huy truyền thống đoàn kết, chung sức, đồng lòng, kiên định niềm tin vào chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường mà Đảng và Bác Hồ kính yêu đã
lựa chọn, Đại hội có nhiệm vụ kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của
Đảng gắn với việc đánh giá 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới; 30 năm thực hiện
Cương lĩnh năm 1991; 10 năm thực hiện Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 và
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020; đề ra phương hướng, nhiệm
vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025, xác định mục tiêu, phương hướng đến
năm 2030 và tầm nhìn phát triển đất nước đến năm 2045.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã thảo luận, tán thành những
nội dung cơ bản về đánh giá tình hình thực hiện 5 năm Nghị quyết Đại hội XII (2016 –
2021) và phương hướng, nhiệm vụ 5 năm 2021 – 2026 nêu trong Báo cáo chính trị, Báo
cáo kinh tế - xã hội của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII trình Đại hội.

134
Với tinh thần “Đoàn kết - dân chủ - Kỷ cương - Sáng tạo - Phát triển”, ý thức trách
nhiệm cao trước Đảng, Nhân dân và đất nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của
Đảng đã đề ra những mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu cho nhiệm kỳ 2021 – 2026 như sau:
Mục tiêu tổng quát:
Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây
dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường
niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát
vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi
mới, công nghiệp hoá, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững
môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát
triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mục tiêu cụ thể:
- Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất
nước: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu
nhập trung bình thấp.
- Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có
công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao.
- Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập
cao.
Định hướng các chỉ tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025:
Về kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân 5 năm đạt khoảng 6,5 -
7%/năm. Đến năm 2025, GDP bình quân đầu người khoảng 4.700 - 5.000 USD; đóng
góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng đạt khoảng 45%; tốc độ
tăng năng suất lao động xã hội bình quân trên 6,5%/năm; tỉ lệ đô thị hóa khoảng 45%; tỉ
trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP đạt trên 25%; kinh tế số đạt khoảng 20%
GDP.
Về xã hội: Đến năm 2025, tỉ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã
hội khoảng 25%; tỉ lệ lao động qua đào tạo là 70%; tỉ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị
năm 2025 dưới 4%; tỉ lệ nghèo đa chiều duy trì mức giảm 1 - 1,5% hằng năm; có 10 bác
sĩ và 30 giường bệnh/1 vạn dân; tỉ lệ tham gia bảo hiểm y tế đạt 95% dân số; tuổi thọ
trung bình đạt khoảng 74,5 tuổi; tỉ lệ xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới tối thiểu 80%,
trong đó ít nhất 10% đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu.
Về môi trường: Đến năm 2025, tỉ lệ sử dụng nước sạch, nước hợp vệ sinh của dân
cư thành thị là 95 - 100%, nông thôn là 93 - 95%; tỉ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh
hoạt đô thị bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn đạt 90%; tỉ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất
135
đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường là 92%; tỉ
lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý đạt 100%; giữ tỉ lệ che phủ
rừng ổn định 42%.
Nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội XIII:
(1) Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị toàn diện, trong sạch, vững mạnh. Đổi mới
phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống
chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng
chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, "lợi ích nhóm", những biểu hiện "tự diễn
biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ. Xây dựng đội ngũ đảng viên và cán bộ các cấp, nhất
là cấp chiến lược, người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
Củng cố lòng tin, sự gắn bó của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.
(2) Tập trung kiểm soát đại dịch Covid-19, tiêm chủng đại trà vắc-xin Covid-19
cho cộng đồng; phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội, đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng
trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển phù hợp
với nền kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại, hội nhập; phát triển đồng bộ và tạo ra sự liên
kết giữa các khu vực, các vùng, các thành phần kinh tế, các loại hình sản xuất kinh
doanh; có chính sách hỗ trợ hiệu quả doanh nghiệp trong nông nghiệp; đẩy mạnh nghiên
cứu, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là
những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thực hiện chuyển đổi số
quốc gia, phát triển kinh tế số, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh
của nền kinh tế; huy động, phân bổ, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tạo động lực để
phát triển kinh tế nhanh và bền vững; hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là pháp luật về
bảo hộ sở hữu trí tuệ và giải quyết các tranh chấp dân sự, khắc phục những điểm nghẽn
cản trở sự phát triển của đất nước.
(3) Giữ vững độc lập, tự chủ, tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đối
ngoại, hội nhập quốc tế; tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, xây dựng Quân đội
nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số
lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, tạo tiền đề vững chắc phấn đấu năm 2030 xây dựng
Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; kiên
quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển,
đảo, vùng trời; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước.
(4) Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy giá trị
văn hoá, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội
nhập quốc tế; có chính sách cụ thể phát triển văn hoá đồng bào dân tộc thiểu số; thực hiện
tốt chính sách xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh

136
mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao chất
lượng cuộc sống và chỉ số hạnh phúc của con người Việt Nam.
(5) Hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm phát huy
mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân; đồng thời xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh; cải cách tư
pháp, tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, trước hết là sự gương mẫu tuân
theo pháp luật, thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa của cấp uỷ, tổ chức đảng, chính
quyền, MTTQ Việt Nam và tổ chức chính trị - xã hội các cấp, của cán bộ, đảng viên; tăng
cường đại đoàn kết toàn dân tộc.
(6) Quản lý chặt chẽ, sử dụng hợp lý, hiệu quả đất đai, tài nguyên; bảo vệ, cải
thiện môi trường; chủ động, tích cực triển khai các giải pháp thích ứng với biến đổi khí
hậu, thiên tai khắc nghiệt.
3.2.3. Thành tựu, kinh nghiệm của công cuộc đổi mới
a. Thành tựu:
- Kinh tế tăng trưởng khá, thực lực của nền kinh tế tăng lên; kinh tế vĩ mô cơ bản ổn
định; lạm phát được kiểm soát; tăng trưởng kinh tế được duy trì hợp lý và được đánh giá
thuộc nhóm có mức tăng trưởng khá cao trên thế giới. Đất nước đã ra khỏi tình trạng kém
phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Môi trường đầu
tư được cải thiện, đa dạng hóa được nhiều nguồn vốn đầu tư cho phát triển.
- Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã từng bước hình thành và phát triển,
từng bước được hoàn thiện.
- Cơ sở vật chất, kỹ thuật, kết cấu hạ tầng, đô thị được đầu tư xây dựng tăng lên đáng
kể. Xây dựng các ngành công nghiệp hiện đại.
- Văn hóa, xã hội có bước phát triển, bộ mặt đất nước và đời sống nhân dân có nhiều
thay đổi.
- Việc giải quyết các vấn đề xã hội đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
- Giữ vững quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Kết hợp hai nhiệm vụ
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, kinh tế với quốc phòng, an ninh, đối ngoại có nhiều chuyển
biến quan trọng…
- Đối ngoại đạt nhiều thành tựu mới. Đến năm 2018, Việt Nam có quan hệ ngoại giao
với 188 nước trong tổng số 193 nước thành viên Liên hiệp quốc.
- Nhận thức về xây dựng và phát huy dân chủ, đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN có nhiều tiến bộ.
- Đảng đã xác định rõ hơn, đầy đủ hơn bản chất của Đảng.
b. Kinh nghiệm của Đảng trong lãnh đạo đổi mới:
- Trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Marx-
137
Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa
văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam.
- Đổi mới phải luôn quán triệt quan điểm “dân là gốc”, vì lợi ích của nhân dân, dựa
vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn
lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; phải tôn trọng quy luật khách
quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn. coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý
luận, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra.
- Phải đặt lợi ích quốc gia – dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự chủ, đồng thời
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi; kết hợp phát huy
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc VN
XHCN.
- Phải thưởng xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là ở cấp chiến lược, đủ năng lực phẩm chất,
ngang tầm nhiệm vụ; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ
quốc, các tổ chức chính trị-xã hội và của cả hệ thống chính trị; tăng cường mối quan hệ
mật thiết với nhân dân.
----------------------------------------------------------
Câu hỏi thảo luận/Nội dung ôn tập
* Câu hỏi thảo luận:
1. Anh (chị) hãy phân tích những nguyên nhân nào đã dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế-
xã hội trầm trọng ở nước ta từ năm 1976 đến năm 1986?
2. Vì sao Đảng Cộng sản Việt Nam lại đề ra đường lối: “Kết hợp ngay từ đầu đổi mới
kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi
mới chính trị”?
* Nội dung ôn tập:
1. Khái quát quá trình xây dựng CNXH trong cả nước và quá trình tìm con đường đổi
mới đất nước.
2. Nội dung đường lối toàn diện của ĐH VI (12/1986) và quá trình thực hiện.
3. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (năm 1991 và năm
2011)
4. Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp đổi mới, CNH – HĐH đất nước và hội
nhập quốc tế.
5. Thành tựu, ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp đổi mới.

138
KẾT LUẬN
1. Những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của
Đảng
1.1. Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945
- Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 là thắng lợi có ý nghĩa lịch sử vĩ
đại đầu tiên của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Với thắng lợi này,
nhân dân ta đã đập tan xiềng xích nô lệ hơn 80 năm của thực dân Pháp và hàng trăm năm
chế độ phong kiến nhà Nguyễn, đưa lại độc lập, thống nhất cho đất nước ta; đưa nhân dân
ta từ địa vị nô lệ thành người làm chủ xã hội; lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa -
Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam á; đưa Đảng ta từ hoạt động bất hợp
pháp thành đảng cầm quyền trong toàn quốc; khẳng định trong thực tiễn tư tưởng cách
mạng dân tộc và khởi nghĩa dân tộc, khởi nghĩa toàn dân của Hồ Chí Minh và đường lối
cứu nước giải phóng dân tộc của Đảng vạch ra là đúng đắn; nâng cao niềm tự hào dân tộc
và để lại nhiều kinh nghiệm quý báu cho Đảng và nhân dân ta; mở ra kỷ nguyên phát
triển mới cho dân tộc Việt Nam, kỷ nguyên độc lập tự do gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
- Đặt trong bối cảnh thế giới năm 1945, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã cổ
vũ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới; tăng cường lực lượng, mở rộng địa bàn
cho cách mạng thế giới; chứng minh học thuyết Mác- Lênin có thể áp dụng thành công
vào cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa nếu biết vận dụng một cách đúng đắn, sáng
tạo. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử phong trào giải phóng dân tộc, Đảng Cộng sản ở
một nước thuộc địa đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành được thắng lợi và nắm chính
quyền trong cả nước.
1.2. Thắng lợi của các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc thời
kỳ 1945-1975
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược có ý nghĩa lịch sử
to lớn đối với nước ta và với thế giới. Đối với nước ta, thắng lợi này đã làm sụp đổ hoàn
toàn ý chí xâm lược của thực dân Pháp đối với Việt Nam; bảo vệ được độc lập, chủ
quyền dân tộc, giữ vững được chính quyền dân chủ nhân dân; giải phóng được một nửa
đất nước là miền Bắc, tạo điều kiện đưa miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội, trở thành căn
cứ địa, hậu phương của cả nước để giải phóng miền Nam trong giai đoạn sau; tăng thêm
sức mạnh vật chất, tinh thần cho cách mạng Việt Nam; nâng cao uy tín cho dân tộc và
cho Đảng trên trường quốc tế; để lại nhiều kinh nghiệm cho cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước sau đó... Đối với quốc tế, thắng lợi này đã buộc thực dân Pháp phải chấm dứt
chiến tranh và lập lại hòa bình ở Đông Dương trên cơ sở tôn trọng quyền dân tộc cơ bản
của nhân dân Việt Nam, Lào và Campuchia; nhân dân Việt Nam trở thành người đi tiên
phong trong việc làm tan rã chủ nghĩa thực dân cũ, cổ vũ mạnh mẽ cuộc đấu tranh của
nhân dân các dân tộc bị áp bức chống chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc; miền
139
Bắc được hoàn toàn giải phóng đã góp phần tăng cường lực lượng và địa bàn cho chủ
nghĩa xã hội.
- Thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mà đỉnh cao là
chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử có ý nghĩa dân tộc và thời đại to lớn.
+ Đối với dân tộc ta, thắng lợi này kết thúc hơn 20 năm chống đế quốc Mỹ, 30
năm chiến tranh cách mạng, hơn một thế kỷ chống xâm lược nước ngoài, đưa lại độc lập,
thống nhất trọn vẹn cho đất nước ta; giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ
quốc; hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước, đưa cả nước quá độ lên
chủ nghĩa xã hội; tăng thêm sức mạnh to lớn về vật chất, tinh thần cho cách mạng Việt
Nam; nâng cao vị thế quốc tế cho Đảng và dân tộc trên trường quốc tế; để lại nhiều bài
học có giá trị cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;...
+ Đối với thế giới, thắng lợi này đã góp phần quan trọng làm đảo lộn chiến lược
toàn cầu của đế quốc Mỹ, tác động sâu sắc đến nội tình nước Mỹ; cổ vũ phong trào giải
phóng dân tộc dân chủ của nhân dân thế giới; mở rộng địa bàn và tăng thêm lực lượng
cho chủ nghĩa xã hội và cách mạng thế giới.
- Thắng lợi của nhân dân ta trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ xâm lược đã khẳng định một chân lý lịch sử là một dân tộc đất không rộng,
người không đông nếu có Đảng Cộng sản chân chính lãnh đạo biết đề ra đường lối đúng,
phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, có phương thức tiến hành chiến tranh
sáng tạo, được sự ủng hộ của nhân dân thế giới hoàn toàn có thể chiến thắng bất cứ kẻ thù
xâm lược nào.
1.3. Thắng lợi bước đầu của công cuộc đổi mới
Thắng lợi bước đầu của hai mươi năm đổi mới có ý nghĩa hết sức quan trọng. Báo
cáo chính trị tại Đại hội X của Đảng đánh giá khái quát 20 năm đổi mới đã ghi nhận: Hai
mươi năm qua, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, công cuộc đổi
mới ở nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Mặc dù còn
không ít khó khăn, hạn chế, đất nước ta đã có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế ra
khỏi khủng hoảng và có sự tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống
nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được
củng cố và tăng cường. Chính trị- xã hội ổn định, quốc phòng và an ninh được giữ vững.
Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của
quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển
vọng tốt đẹp. Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn,
sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt
Nam. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng
sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ
140
nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ
bản.
Tóm lại, với những thắng lợi đã giành được trong thế kỷ XX, Việt Nam đã ta từ một
nước thuộc địa trở thành một quốc gia độc lập tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ
nghĩa, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên
thế giới. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã
hội. Đất nước ta từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu đã bước vào thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Những thắng lợi đó là minh chứng sinh động về năng lực
lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta, sức mạnh to lớn của nhân dân ta.
2. Những bài học lãnh đạo cách mạng của Đảng
2.1. Nắm vững và giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
- Về lý luận, V.I Lênin cho rằng: khi chủ nghĩa tư bản chuyển sang chủ nghĩa đế
quốc, xâm lược các nước khác, biến thành thuộc địa của nó, thì phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc của nhân dân thuộc địa trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản. Do
đó, muốn đi tới thắng lợi triệt để, phong trào giải phóng dân tộc phải đi theo con đường
cách mạng vô sản, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Trong quá trình đi tìm đường cứu nước, Nguyễn ái Quốc - Hồ Chí Minh cho rằng
“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con đường
cách mạng vô sản”.
- Về thực tiễn, tư tưởng chiến lược nắm vững, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội đã được Đảng ta khẳng định trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên khi
Đảng thành lập và được khẳng định tiếp tục trong các cương lĩnh tiếp theo, đã đưa cách
mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
+ Trong những năm 1930-1945, nắm vững và giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn, tổn thất, từng
bước giành được những thắng lợi to lớn, đỉnh cao là cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945,
lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
+ Từ năm 1945 đến năm 1954, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội được Đảng thể hiện qua đường lối kết hợp kháng chiến với kiến quốc, giải quyết
đúng đắn mối quan hệ giữa ba nhiệm vụ chiến lược chống đế quốc, chống phong kiến và
xây dựng chế độ dân chủ nhân dân gây mầm mống cho chủ nghĩa xã hội, tạo nên sức
mạnh to lớn cho dân tộc ta, đưa kháng chiến đến thắng lợi. Từ năm 1954 đến năm 1975,
bài học đó được thể hiện trong đường lối tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai
chiến lược cách mạng khác nhau ở hai miền: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, nhằm thực hiện mục tiêu chung là
hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Nhờ
có đường lối độc lập tự chủ, sáng tạo này Đảng đã huy động được tối đa sức mạnh của
141
hai miền, sức mạnh cả nước, sức mạnh của thời đại, đủ sức đánh thắng đế quốc Mỹ xâm
lược.
+ Từ năm 1975 đến nay, khi cả nước đã giành được độc lập, thống nhất, cả nước
đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng đã đề ra đường lối kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến
lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc thống nhất. Đường lối đó đã củng cố,
giữ vững độc lập tạo điều kiện để xây chủ nghĩa xã hội, và xây dựng chủ nghĩa xã hội lại
tạo ra cơ sở vật chất, tinh thần để bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Khi tình hình quốc tế có
những chuyển biến mới, hệ thống xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng và sụp đổ, bài
học giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội được Đảng thể hiện trong
đường lối đổi mới, chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ
chế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện
đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, phát
huy nội lực, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài, mở rộng giao lưu văn hóa, giữ
vững bản sắc dân tộc... Nhờ vậy, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta giành được những thành
tựu mới trong công cuộc bảo vệ đất nước Việt Nam thống nhất, vượt qua khủng hoảng
kinh tế - xã hội, chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa định hướng
xã hội chủ nghĩa.
2.2. Quán triệt sâu sắc quan điểm cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân
- Về lý luận, bài học này xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử, coi quần chúng
nhân dân là người làm nên lịch sử.
- Về thực tiễn, bài học này đã được chứng minh qua những thành bại của cách mạng
Việt Nam hơn một thế kỷ qua.
+ Từ năm 1930, với tư cách là đội tiên phong của giai cấp và dân tộc, đại biểu
trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của toàn dân tộc, Đảng
đã quán triệt sâu sắc và ra sức thực hiện trên thực tế tư tưởng coi cách mạng là sự nghiệp
của dân, do dân, vì dân. Đảng đã nêu cao khẩu hiệu độc lập dân tộc và người cày có
ruộng, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và dân chủ, kiên trì xây dựng
lực lượng cách mạng, do đó đã phát huy cao độ sức mạnh của nhân dân, trước hết là cho
mục tiêu giải phóng dân tộc. Thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945 là
biểu hiện hùng hồn nhất, minh chứng điển hình nhất của bài học lịch sử coi cách mạng là
sự nghiệp của dân, do dân, vì dân.
+ Trong cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng và kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược 1945-1954, với tinh thần “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không
chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, Đảng đã dựa chắc vào nhân dân để xây
dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng, đã phát động cuộc chiến tranh nhân dân, chống
142
thực dân xâm lược, do đó đã làm cho tiềm lực kháng chiến ngày càng lớn mạnh. Trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, với tinh thần "Không có gì quý hơn
độc lập tự do", "chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc", ... Đảng
và Hồ Chí Minh đã động viên sức mạnh toàn dân vào cuộc kháng chiến thần thánh, lôi
cuốn mọi giai tầng xã hội từ Bắc chí Nam quyết tâm đánh thắng đế quốc Mỹ, đưa sức
mạnh dân tộc lên đỉnh cao mới, chiến thắng tên đế quốc đầu sỏ, hùng mạnh nhất thế giới.
+ Trong những năm 1975-1985, Đảng ta mắc phải khuyết điểm chủ quan, duy ý
chí, duy trì quá lâu cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp, cho nên sức mạnh
cách mạng của nhân dân bị suy giảm.
+ Từ năm 1986 đến nay, với đường lối đổi, mới sức mạnh của mọi tầng lớp nhân
dân, của từng đơn vị, địa phương, cá nhân được tôn trọng và phát huy, do đó nước ta đã
vượt qua khó khăn, bước sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
2.3. Không ngừng củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân
- Cơ sở lý luận của bài học này là quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin coi cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng, đặc biệt là quan điểm của Hồ Chí Minh về đại đoàn
kết dân tộc. Người luôn nhấn mạnh rằng: "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, Thành công,
thành công, đại thành công".
- Về thực tiễn, vấn đề đại đoàn kết toàn dân tộc đã được lịch sử cận hiện đại Việt
Nam, lịch sử Đảng kiểm nghiệm trên thực tế.
+ Từ năm 1930, khi có sự lãnh đạo của Đảng, khối đại đoàn kết toàn dân mới được
xây dựng và ngày càng củng cố, sức mạnh dân tộc được tăng cường và tập hợp trong Hội
phản đế đồng minh, Mặt trận dân chủ Đông Dương, Mặt trận Việt Minh, đưa tới thắng lợi
của cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945. Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám là
kết quả của chiến lược đại đoàn kết dân tộc, khởi nghĩa toàn dân tộc, trực tiếp là của chủ
trương nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu của Đảng và Hồ Chí Minh.
+ Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược
1945-1975, Đảng đã huy động được mọi giai cấp, dân tộc, tôn giáo dưới ngọn cờ cách
mạng, tập hợp trong Mặt trận Việt Minh, Liên Việt, trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, tạo nên khối đại đoàn kết dân tộc to
lớn, vững chắc, cô lập cao độ kẻ thù, đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc đến toàn thắng.
Thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ là thắng lợi của
chiến lược tập hợp, động viên toàn dân đánh giặc, thắng lợi của khối đại đoàn kết toàn
dân tộc do Đảng lãnh đạo.
+ Trong những năm 1975-1985, do chưa có nhận thức đúng đắn về sự tồn tại của
nền kinh tế nhiều thành phần, chưa thấy được mặt tích cực của cơ chế thị trường, nên ta
đã có những chính sách không phù hợp trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, làm cho khối đại

143
đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc có phần bị giảm sút, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc gặp khó khăn.
+ Từ năm 1986 đến nay, với sự kiên định mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt
Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, giải phóng dân tộc gắn liền với giải
phóng giai cấp, giải phóng con người, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân
dân, xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, Đảng đã củng cố và tăng cường
được một bước quan trọng khối đại đoàn kết toàn dân. Việc Đảng và Nhà nước ban hành
nhiều chính sách mới như kinh tế hộ gia đình, giao quyền sử dụng đất lâu dài cho nông
dân, chính sách khoa học và công nghệ, nhiều đạo luật quan trọng về dân tộc, tôn giáo, về
xóa đói giảm nghèo,... đã đáp ứng được lợi ích của các giai cấp, các tầng lớp trong xã hội,
kể cả với đồng bào Việt Nam định cư ở nước ngoài, làm cho khối đoàn kết toàn dân tộc
được tăng cường. Nhờ vậy, nước ta không những vượt qua được những khó khăn bên
trong, đối phó được những tác động bất lợi của tình hình quốc tế, mà còn đạt được nhiều
thành tựu mới, to lớn trong công cuộc đổi mới, tiềm lực của đất nước được tăng cường, vị
thế quốc tế được nâng cao.
2.4. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với
sức mạnh quốc tế
- Cơ sở lý luận của bài học này là mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn
đề quốc tế trong cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản nói
riêng, cũng như trong vấn đề mối quan hệ biện chứng giữa nhân tố bên trong và nhân tố
bên ngoài, chủ quan và khách quan trong sự phát triển của sự vật, hiện tượng nói chung.
- Về thực tiễn:
+ Từ năm 1930, khi Đảng ra đời, coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận của
cách mạng vô sản thế giới, sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại mới từng bước được
kết hợp một cách đúng đắn. Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thắng lợi là do Đảng
đã dày công xây dựng lực lượng cách mạng trong nước, đồng thời tranh thủ được sức
mạnh thời đại, trực tiếp là việc các nước Đồng Minh đánh thắng phátxít Nhật, làm cho
quân Nhật ở Đông Dương tê liệt, bọn tay sai rệu rã để ta kết hợp sức mạnh bên trong với
sức mạnh bên ngoài giành chính quyền nhanh gọn, ít đổ máu. Cách mạng Tháng Tám
thành công là sự thể hiện sinh động bài học kết hợp sức mạnh to lớn của dân tộc Việt
Nam với sức mạnh vĩ đại của thời đại.
+ Trong thời kỳ 1945-1954, với chủ trương dựa vào sức mình là chính, đồng thời
ra sức tranh thủ sự giúp đỡ của Trung Quốc, Liên Xô và sự đồng tình ủng hộ của nhân
dân thế giới, kể cả Đảng Cộng sản và nhân dân lao động Pháp, Đảng đã tạo nên lực lượng
to lớn cho kháng cuộc chiến, từng bước đi tới thắng lợi, nhất là ở chiến dịch lịch sử Điện
Biên Phủ. Trong thời kỳ 1954-1975, kinh nghiệm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại được Đảng nâng lên tầm cao mới bởi đường lối tiến hành đồng thời và kết
144
hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng ở hai miền, nhằm mục tiêu chung là giải phóng
miền Nam, hòa bình thống nhất đất nước. Đường lối đó đã phát huy cao độ sức mạnh dân
tộc, tranh thủ tối đa sức mạnh thời đại, bao gồm sức mạnh của hệ thống xã hội chủ nghĩa,
của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào hòa bình dân chủ, sức mạnh của cả Liên
Xô và Trung Quốc, của khối đoàn kết ba nước Đông Dương, tạo nên sức mạnh tổng hợp
to lớn, đánh bại đế quốc Mỹ, thống nhất Tổ quốc.
+ Từ 1975 đến nay, nhất là từ năm 1986, khi Đảng đề ra đường lối đổi mới, tôn
trọng và hành động theo quy luật khách quan, từ bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu,
bao cấp, đã phát huy được tiềm năng của đất nước. Kết hợp với đổi mới trong nước,
Đảng, Nhà nước ta cũng có sự đổi mới quan trọng về chính sách đối ngoại, thực hiện hội
nhập kinh tế khu vực và quốc tế, có quan hệ với hơn 170 nước và vùng lãnh thổ trên thế
giới, do đó đã tranh thủ được nguồn lực to lớn từ bên ngoài, nhất là vốn, thị trường, công
nghệ, kinh nghiệm quản lý, nên đưa đất nước vượt qua khủng hoảng kinh tế- xã hội,
chuyển mạnh sang thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
2.5. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của
cách mạng Việt Nam
- Về khoa học, cơ sở lý luận của bài học này là quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin
về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, về vai trò của Đảng Cộng sản, về mối quan hệ
giữa vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc trong cách mạng vô sản, là tư tưởng Hồ Chí Minh
về Đảng Cộng sản Việt Nam và vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam.
- Về thực tiễn, bài học này cũng đã được lịch sử của Đảng và cách mạng Việt Nam
chứng minh trên thực tế.
+ Từ 1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào dân tộc, dân chủ của nhân dân
ta mới từng bước đi tới thắng lợi. Trong những năm 1930-1945, với đường lối đúng đắn
được đề ra trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, lực lượng cách mạng nước ta từng bước
được xây dựng với nòng cốt là khối liên minh công nông, quần chúng cách mạng được
rèn luyện qua nhiều cuộc tổng diễn tập, mặt trận dân tộc thống nhất được xây dựng, lực
lượng chính trị, vũ trang, căn cứ địa hình thành, do đó khi có thời cơ, Đảng đã phát động,
tổ chức cuộc khởi nghĩa giành chính quyền thành công, lập nên nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa.
+ Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nhưng các thế lực đế quốc thực
dân và tay sai câu kết với nhau, tái xâm lược Việt Nam lần nữa. Trước tình hình đó, Đảng
xác định độc lập dân tộc vẫn là mục tiêu trực tiếp, chủ nghĩa xã hội là phương hướng tiến
lên, kịp thời đưa ra bản chỉ thị kháng chiến kiến quốc, kết hợp dựng nước với giữ nước,
thực hiện đoàn kết dân tộc, tiến hành thắng lợi cuộc đấu tranh chống giặc đói, giặc dốt,
giặc ngoại xâm, bảo vệ được chính quyền cách mạng trong hoàn cảnh “ngàn cân treo sợi
tóc”.
145
Từ cuối năm 1946, khi thực dân Pháp dùng vũ lực để đặt lại ách thống trị của chúng
lên toàn cõi nước ta, Đảng đã kịp thời phát động nhân dân toàn quốc nhất tề đứng lên
kháng chiến, đề ra đường lối kháng chiến đúng đắn là thực hiện chiến tranh nhân dân,
kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính. Nhờ đó, Đảng đã
từng bước lãnh đạo, tổ chức cuộc kháng chiến tiến lên, đi tới thắng lợi vẻ vang sau cuộc
tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954.
+ Trong những năm 1954-1975, trước kẻ thù hùng mạnh, có âm mưu bá chủ thế
giới và trước bối cảnh các nước xã hội chủ nghĩa có những bất đồng, Đảng đã suy nghĩ
tìm tòi và cuối cùng tại Đại hội lần thứ III (1960) đã đề ra được đường lối chiến lược
chung sáng suốt là tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng
khác nhau ở hai miền, nhằm thực hiện một mục tiêu chung của cả nước là giải phóng
miền Nam, hòa bình thống nhất Tổ quốc, nên đã tạo ra được sức mạnh tổng hợp đưa cuộc
kháng chiến vĩ đại của dân tộc đi tới thắng lợi vẻ vang sau đại thắng mùa Xuân 1975.
+ Trong những năm 1975-1985, do đường lối của Đảng mang tính chủ quan,
nóng vội nên kinh tế- xã hội nước ta lâm vào khủng hoảng. Từ năm 1986, với đường lối
đổi mới được đề ra tại Đại hội lần thứ VI, công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước có
những bước chuyển rõ rệt, đạt được những thành tựu mới, đưa nước ta vượt qua khó
khăn, chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thế và lực được tăng
cường, vị thế quốc tế được nâng cao.
+ Hiện nay, để bảo đảm cho sự lãnh đạo Đảng được đúng đắn, tiếp tục là nhân tố
hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Đảng chủ trương phải hết sức
chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt,
bảo đảm cho Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức... Đại hội lần thứ X của
Đảng nhấn mạnh: "Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân,
đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu
trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc.” ; phải
“Tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng, tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính
tiên phong, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; Xây dựng Đảng thực
sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, có bản lĩnh chính trị vững vàng,
có đạo đức cách mạng trong sáng, có tầm trí tuệ cao, có phương thức lãnh đạo khoa học,
luôn gắn bó với nhân dân", coi đó là "đòi hỏi có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và nhân
dân ta".
Những bài học lịch sử quan trọng nói trên có quan hệ mật thiết với nhau. Với cơ sở
khoa học đúng đắn, đã được lịch sử cách mạng Việt Nam, lịch sử của Đảng kiểm nghiệm,
những bài học đó có ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn hết sức sâu sắc đối với Đảng và
nhân dân ta, nhất là trong thời điểm hiện nay.
-----------------------------------------------
146
Câu hỏi thảo luận/Nội dung ôn tập
* Câu hỏi thảo luận: Đảng ta luôn quán triệt tư tưởng “Dân là gốc” trong mọi đường lối,
chủ trương được đề ra. Anh (chị) có nhận định gì về ý kiến trên?
* Nội dung ôn tập:
1. Những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của
Đảng.
2. Những bài học lớn lãnh đạo cách mạng của Đảng.

147
DANH MỤC GIÁO TRÌNH/TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Lịch sử Đảng cộng Sản Việt Nam (Sử dụng trong
các trường đại học- hệ không chuyên lý luận chính trị), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2021
2. Hội đồng Trung ương, Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2018
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Lịch sử Đảng Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tái bản 2010
4. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng, Lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam, Tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2018
5. Viện nghiên cứu Chủ nghĩa Marx-Lenin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử
Đảng, Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Tập II, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995
6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 1 đến tập 65, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995-2018
7. Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 1 đến tập 15, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2011
8. Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị, Chiến tranh Cách mạng Việt
Nam 1945 – 1975, thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008
9. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương, Ban chỉ đạo tổng kết, Báo cáo
tổng kết một số vấn đề lý luận-thực tiễn qua 30 năm đổi mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2015
10. Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011
11. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2016

148

You might also like