You are on page 1of 19

Nguồn: http://theza2.mobie.

in - Theza

Tiểu luận:
Tìm hiểu tư tưởng bạo lực cách mạng của hồ chí minh và vận dụng tư tưởng đó trong việc bảo vệ tổ
quốc hôm nay

==================================================================
Mở đầu
1.Tính cấp thiết
Nước Việt Nam là một nước anh hùng, suốt chiều dài lịch sử mấy nghìn năm dựng nước
và giữ nước, dân tộc ta dù nhỏ bé nhưng luôn phải gồng mình đấu tranh chống lại các thế
lực ngoại bang xâm lược. Trong quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm, biết bao chiến
công hiển hách của cha ông ta đã được lưu danh muôn thuở. Chắc chắn là người Việt Nam,
chúng ta không bao giờ quên những vị anh hùng như: Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền,
Hưng Đạo Vương, Trần Quốc Tuấn, Vua Quang Trung Nguyễn Huệ,…và rất nhiều vị anh
hùng trong lịch sử oai hùng của dân tộc. Các vị ấy đều là những vị tướng tài giỏi về võ nghệ,
tinh thông binh pháp, nghệ thuật dụng binh như thần,…tài thao lược của các thế hệ cha ông
đã được nhân dân ta đúc kết lại thành truyền thống đánh thắng giặc ngoại xâm của dân tộc
ta. Đó không chỉ là truyền thống quý báu của dân tộc mà còn là nghệ thuật quân sự của một
nước nhỏ nhưng rất đỗi anh hùng.
Tiếp thu truyền thống đánh giặc giữ nước hào hùng của dân tộc, đứng trước cảnh nước
mất nhà tan, nhân dân đói khổ lầm than, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã
ra đi tìm đường cứu nước. Và Người đã giúp nhân dân Việt Nam lựa chọn đúng đắn con
đường cách mạng nước mình. Vận dụng một cách khoa học và sáng tạo chủ nghĩa
Mác-Lênin về con đường bạo lực trong cách mạng vô sản vào hoàn cảnh cụ thể của cách
mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã trở thành một nhà quân sự thiên tài với nghệ thuật sử dụng
bạo lực cách mạng chống lại bạo lực cách mạng, quyết định đúng đắn con đường khởi
nghĩa vũ trang, toàn dân đánh giặc của nhân dân Việt Nam, đem lại hòa bình độc lập tự do
cho cả dân tộc.
Quan điểm sử dụng bạo lực cách mạng là một trong những quan điểm nằm trong hệ thống
tư tưởng Hồ Chí Minh về quân sự. “Tư tưởng Hồ Chí Minh về quân sự bao gồm những
quan điểm, tư tưởng có tính quy luật về đấu tranh vũ trang và chiến tranh cách mạng, về lực
lượng quốc phòng và lực lượng vũ trang ở Việt Nam trong thời đại mới, nhằm thực hiện
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ
hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, là cơ sở cho sự hình thành và phát triển đường lối quân sự
của Đảng và học thuyết quân sự Việt Nam trong thời hiện đại, nó góp phần làm phong phú
thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về quân sự và đã trở thành di sản quí báu
của dân tộc và thế giới”.
2.Tình hình nghiên cứu tiểu luận
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một đề tài rộng và còn khá mới mẻ. Mặc dù vậy đã có một số đề
tài và sách chuyên khảo nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh dưới nhiều góc độ khác nhau.
Vấn đề “Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường cách
mạng bạo lực” vẫn còn chưa được phân tích và đi sâu vào nghiên cứu. Có hay cũng chỉ là
những bài báo, bài luận lẻ tẻ và rời rạc.
3.Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
*Mục đích:
Nghiên cứu một cách hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về luận điểm “Cách mạng giải
phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường cách mạng bạo lực”. Đánh giá
tình hình thế giới và đất nước hiện nay và đưa ra phương hướng phát triển đất nước thời kì
hiện đại.
*Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, bài tiểu luận có nhiệm vụ:
+Phân tích nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về luận điểm Cách mạng giải phóng dân tộc
phải được tiến hành bằng con đường cách mạng bạo lực.
+Đánh giá tình hình con đường Việt Nam đang đi hiện nay.
*Phạm vi nghiên cứu:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một vấn đề rộng. Trong phạm vi của tiểu luận, bản thân chỉ
nghiên cứu một số nột dung chủ yếu về cách mạng giải phóng dân tộc cùng các luận điểm,
cũng như đi sâu vào phân tích luận điểm Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến
hành bằng con đường cách mạng bạo lực.
4.Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận:
Chủ nghĩa Mac-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chính sách của Đảng Cộng Sản Việt Nam
là cơ sở phương pháp luận định hướng nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu:
Ngoài các phương pháp luận của chủ nghĩa Mac-Lenin, tư tưởng Hồ Chín Minh, bài
tiểu luận sử dụng các phương pháp cụ thể, chú trọng phương pháp lịch sử kết hợp với
logic, so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kế, khảo sát và tổng kết thực tiễn,...
5.Đóng góp của tiểu luận
Góp phần làm hiểu sâu và rõ hơn tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc
nói chung và về con đường bạo lực cách mạng nói riêng.
6.Ý nghĩa tiểu luận
Tiểu luận làm sáng tỏ tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường bạo lực cách mạng trong vấn
đề giải phóng dân tộc, thuộc địa.
7.Kết cấu bài tiểu luận
Bài tiểu luận được chia làm 3 chương với việc phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề
dân tộc cũng như con đường bạo lực mà Bác đã chọn trong công cuộc giải phóng dân tộc.
Chương I
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng
dân tộc

1.Vấn đề dân tộc, thuộc địa


1.1.Dân tộc và thuộc địa
Tư tưởng Hồ Chí Minh không đề cập đến các vấn đề dân tộc nói chung mà là vấn đề dân
tộc thuộc địa. Thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa trong tư tưởng Hồ Chí Minh là:
- Đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc.
Hồ Chí Minh giành sự quan tâm đến đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, xoá bỏ ách
thống trị, áp bức, bóc lột của nước ngoài; giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc, thực
hiện quyền dân tộc tự quyết, thành lập Nhà nước dân tộc độc lập.
Nếu Mác bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống CNTB, Lênin bàn nhiều về cuộc đấu
tranh chống CNĐQ, thì Hồ Chí Minh tập trung bàn về cuộc đấu tranh chống CN Thực dân.
Mác và Lênin bàn nhiều về cuộc đấu tranh giai cấp ở các nước TBCN, thì Hồ Chí Minh bàn
nhiều về đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa.
- Lựa chọn con đường phát triển của dân tộc.
Từ thực tiễn của phong trào cứu nước của dân tộc và nhân loại, Hồ Chí Minh khẳng
định phương hướng phát triển của dân tộc trong bối cảnh mới của thời đại là CNXH.
Hoạch định con đường phát triển của dân tộc thuộc địa là một việc làm hết sức mới
mẻ: từ nước thuộc địa lên CNXCH phải trải qua nhiều giai đoạn chiến lược khác nhau.
Con đường đó, như trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Người viết: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng
sản”[1]. Thực chất là con đường ĐLDT gắn liền với CNXH.
Con đường đó phù hợp với hoàn cảnh của các nước thuộc địa, nó hoàn toàn khác biệt
với các nước đã phát triển đi lên CNXH ở phương Tây. Đây là nét độc đáo trong tư tưởng
Hồ Chí Minh.
1.2.Độc lập dân tộc
- Hồ Chí Minh đã tiếp cận vấn đề độc lập dân tộc từ quyền con người.
Trên con đường tiếp cận chân lý cứu nước, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu và tiếp nhận
những nhân tố có giá trị trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776: “Tất cả mọi người sinh
ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được,
trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”;
Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791: “Người ta sinh ra tự
do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.
Từ quyền con người ấy, Người đã khái quát nên chân lý về quyền cơ bản của các dân
tộc: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra có quyền bình đẳng, dân tộc nào cũng có
quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”[2].
- Nội dung của độc lập dân tộc
Là người dân mất nước, nhiều lần được chứng kiến tội ác dã man của chủ nghĩa thực
dân đối với đồng bào mình và nhân dân các dân tộc bị áp bức trên thế giới, Hồ Chí Minh
thấy rõ một dân tộc không có quyền bình đẳng chủ yếu là do dân tộc đó mất độc lập. Vì vậy,
theo Người, các dân tộc thuộc địa muốn có quyền bình đẳng thực sự phải tự đứng lên đánh
đuổi đế quốc xâm lược, giành lại độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn cho dân tộc mình.
Nền độc lập hoàn toàn, độc lập thật sự của một dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh
phải được thể hiện đầy đủ ở những nội dung cơ bản sau đây:
+ Độc lập tự do là quyền tự nhiên, thiêng liêng, vô cùng quý giá và bất khả xâm phạm
của dân tộc. Độc lập của Tổ Quốc, tự do của nhân dân là thiêng liêng nhất. Người đã từng
khẳng định: Cái mà tôi cần nhất trên đời này là: đồng bào tôi được tự do, Tổ Quốc tôi được
độc lập.
Trong “Bản Yêu sách tám điểm” gửi Hội nghị Vec-xay năm 1919, Nguyễn Ái Quốc đòi
quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam.
Nội dung cốt lõi trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng năm 1930 là: độc lập, tự do cho
dân tộc.
Trực tiếp chủ trì Hội nghị TW 8 (5/1941), Người viết thư Kính cáo đồng bào và chỉ rõ:
“Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng là cao hơn hết thảy”[3].
Tháng 8 năm 1945, khi thời cơ cách mạng chín muồi, Người khẳng định quyết tâm:
“Dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho
được độc lập dân tộc”[4].
Trong “Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”, Người long trọng
tuyên bố trước quốc dân đồng bào và thế giới “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và
độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem
tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ quyền tự do độc lập ấy”[5]. v.v.
+ Độc lập dân tộc phải gắn liền với sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Trong các thư và điện văn gửi tới Liên hợp quốc và Chính phủ các nước vào thời gian
sau CMTT, Hồ Chí Minh đã tuyên bố: “Nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hoà bình.
Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ độc lập và chủ
quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ Quốc và độc lập cho đất nước”[6].
Khi đế quốc Mỹ leo thang bắn phá miền Bắc, quyết tâm bảo vệ độc lập và chủ quyền
được thể hiện rõ: “Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước,
nhất định không chịu làm nô lệ”[7]. Và khi đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh phá hoại miền
Bắc, Hồ Chí Minh đã đưa ra một chân lý bất hủ: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”[8].
Chính bằng tinh thần, nghị lực này cả dân tộc ta đứng dậy đánh cho Mỹ cút, đánh cho
Ngụy nhào, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ Quốc. Và chính phủ Mỹ phải cam kết: “Hoa
Kỳ và các nước khác tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của nước
Việt Nam như hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Việt Nam đã công nhận”.
+ Dân tộc độc lập trên tất cả các mặt: kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao. Mọi vấn
đề thuộc chủ quyền quốc gia do dân tộc đó tự quyết định. Người khẳng định: Nước Việt
Nam là của người Việt Nam, do dân tộc Việt Nam quyết định, nhân dân Việt Nam không
chấp nhận bất cứ sự can thiệp nào từ bên ngoài.
Trong hành trình tìm đường cứu nước, ngày 18/6/1919, Nguyễn Ái Quốc thay mặt
những người Việt Nam yêu nước tại Pháp gửi đến hội nghị Véc-xây Bản yêu sách của nhân
dân An-Nam đòi quyền bình đẳng cho dân tộc Việt Nam.
Một là, đòi quyền bình đẳng về chế độ pháp lý cho người bản xứ Đông Dương như
đối với châu Âu, xoá bỏ chế độ cai trị bằng sắc lệnh, thay thế bằng chế độ đạo luật.
Hai là, đòi quyền tự do dân chủ tối thiểu cho nhân dân, tự do ngôn luận, tự do báo chí,
hội họp, tự do cư trú...
Bản yêu sách không được chấp nhận, Nguyễn Ái Quốc rút ra bài học: Muốn bình đẳng
thực sự phải đấu tranh giành độc lập dân tộc - làm cách mạng, muốn giải phóng dân tộc chỉ
có thể trông cậy vào chính mình, vào lực lượng của bản thân mình.
+ Trong nền độc lập đó, mọi người dân đều ấm no, tự do, hạnh phúc, nếu không độc
lập chẳng có nghĩa gì. Nghĩa là độc lập dân tộc phải gắn liền với hạnh phúc, cơm no, áo ấm
của nhân dân.
Suốt đời Hồ Chí Minh chỉ có một ham muốn tột bậc là “làm sao cho nước ta được
hoàn độc lập, dân tộc ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai có cơm ăn áo mặc, ai cũng
được học hành”
Người nói: “Chúng ta đã hy sinh, đã giành được độc lập, dân chỉ thấy giá trị của độc
lập khi ăn đủ no, mặc đủ ấm”. => Tư tưởng này thể hiện tính nhân văn cao cả và triệt để
cách mạng của Hồ Chí Minh.
Tóm lại, “Không có gì quý hơn độc lập tự do” không chỉ là lý tưởng mà còn là lẽ sống,
là học thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh. Đó là lý do chiến đấu, là nguồn sức mạnh làm
nên chiến thắng của sự nghiệp đấu tranh vì độc lập, tự do của cả dân tộc Việt Nam, đồng
thời là nguồn động viên đối với các dân tộc bị áp bức trên thế giới.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có thể tóm tắt thành
một hệ thống các luận điểm như sau:
2.1. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phả đi theo con đường của cách
mạng vô sản.
- Đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễnViệt Nam
qua các chặng đường gian nan thử thách, Hồ Chí Minh luôn luôn khẳng định một chân lý là:
Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác là cách mạng vô sản.
- Từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: chủ nghĩa đế quốc là một con
đỉa hai vòi, một vòi bám vào chính quốc, một vòi bám vào thuộc địa. Muốn đánh bại chủ
nghĩa đế quốc phải đồng thời cắt cả hai cái vòi của nó đi, tức là phải kết hợp cách mạng vô
sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa; phải xem cách mạng ở
thuộc địa như là “một trong những cái cánh của cách mạng vô sản”, phát triển nhịp nhàng
với cách mạng vô sản.
2.2. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng của giai cấp công
nhân lãnh đạo.
- Hồ Chí Minh đã sớm khẳng định: muốn sự nghiệp giải phóng dân tộc thành công“Trước
hết phải có đảng cách mệnh... Đảng có vững cách mệnh mới thành công”(10)
- “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt... Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa
nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa
Lênin”(2).
- Hồ Chí Minh đã khẳng định nguyên tắc xây dựng Đảng: Đảng của giai cấp công nhân phải
được xây dựng theo các nguyên tắc Đảng kiểu mới của Lênin.
2.3. Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân, trên cơ sở
liên minh công – nông.
Hồ Chí Minh viết: cách mạng “là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc việc của một
hai người”, vì vậy phải đoàn kết toàn dân, “sĩ, nông, công, thương đều nhất trí chống lại
cường quyền”. Trong sự tập hợp rộng rãi đó, Người khẳng định cái cốt của nó là công –
nông, “công nông là người chủ cách mệnh... công nông là gốc cách mệnh”(11).
- Trong cách mạng giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh chủ trương cần vận động, tập hợp rộng
rãi các tầng lớp nhân dân Việt Nam đang mất nước, đang bị làm nô lệ trong mộtMặt trận
dân tộc thống nhất rộng rãi nhằm huy động sức mạnh của toàn dân tộc, đấu tranh giành độc
lập, tự do.
- Đảng cần có các chủ trương, chính sách tranh thủ vận động các tầng lớp nhân dân vì mục
tiêu chung. Trong sách lược vắn tắt, Người viết: “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản,
trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt... để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối
với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì
phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng tập trung...(12)
- Trong khi chủ trương đoàn kết, tập hợp rộng rãi các lực lượng dân tộc chống đế quốc, Hồ
Chí Minh vẫn nhắc nhở phải quán triệt quan điểm giai cấp: “công nông là gốc cách mệnh;
còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức, song không cực khổ bằng
công nông; 3 hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông thôi”(13). Và trong khi liên
lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công
nông mà đi vào đường thỏa hiệp”(14).
2.4. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả
năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
- Đầu thế kỷ XX, trong phong trào Cộng sản quốc tế đã từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi
của cách mạng thuộc địa phụ thuộc trực tiếp vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính
quốc. Quan điểm này vô hình trung đã làm giảm tính chủ động, sáng tạo của các phong trào
cách mạng ở thuộc địa. Phát biểu tại Đại hội V Quốc tế cộng sản (tháng 6-1924), Hồ Chí
Minh đã phân tích: “Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai
cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức
ở các thuộc địa”(15);“nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung
ở các thuộc địa”(16), nếu khinh thường cách mạng ở thuộc địa tức là“muốn đánh chết rắn
đằn đuôi”(6).
- Vận dụng công thức của Mác: “Sự giải phóng của giai cấp công nhân phải là sự nghiệp
của bản thân giai cấp công nhân”, Hồ Chí Minh đã đi tới luận điểm: “Công cuộc giải phóng
anh em (tức nhân dân thuộc địa) chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh
em”(6).
- Do nhận thức được thuộc địa là một khâu yếu trong hệ thống của chủ nghĩa đế quốc và do
đánh giá đúng đắn sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, năm 1924, Hồ
Chí Minh cho rằng: Cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng vô
sản ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước.
- Khẳng định vị trí và vai trò của cách mạng giải phóng thuộc địa trong mối quan hệ với cách
mạng chính quốc, Hồ Chí Minh cho rằng: “trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn
tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình
ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”(17).
Những luận điểm trên đây là sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin trong thời đại đế
quốc chủ nghĩa của Hồ Chí Minh. Nó có giá trị lý luận và thực tiễn rất to lớn và đã được
thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam cũng như trên thế giới chứng minh là
hoàn toàn đúng đắn.
2.5. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường bạo lực, kết
hợp lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng vũ trang trong nhân dân.
Ngay từ đầu năm 1924, trong Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ, Hồ Chí Minh đã đề cập
khả năng một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương. Theo Người, cuộc khởi nghĩa vũ
trang đó: phải có tính chất một cuộc khởi nghĩa quần chúng chứ không phải một cuộc nổi
loạn... Luận điểm trên đây của Hồ Chí Minh bắt nguồn từ sự phân tích vai trò của quần
chúng nhân dân, bản chất phản động của chính quyền thực dân Pháp và bài học kinh
nghiệm của dân tộc Việt Nam, của cách mạng Nga, từ sự thất bại của các phong trào yêu
nước đầu thế kỷ XX.
- Tháng 5 – 1941, Hội nghị Trung ương 8 do Người chủ trì đã đưa ra nhận định: Cuộc cách
mạng Đông Dương kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang, mở đầu có thể là bằng một
cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương.. mà mở đường cho một cuộc tổng khởi
nghĩa to lớn.
- Để chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa vũ trang, Hồ Chí Minh cùng với Trung ương Đảng chỉ đạo
xây dựng căn cứ địa, đào tạo, huấn luyện cán bộ, xây dựng các tổ chức chính trị của quần
chúng, lập ra các đội du kích vũ trang, chủ động đón thời cơ, chớp thời cơ, phát động Tổng
khởi nghĩa Tháng Tám và chỉ trong vòng 10 ngày đã giành được chính quyền trong cả
nước.
Tóm lại, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết của Lênin về cách
mạng thuộc địa thành một hệ thống luận điểm mới mẻ, ság tạo, bao gồm cả đường lối chiến
lược, sách lược và phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa.
Thắng lợi của cách mạng Tháng Tám và hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ, những thành tựu to lớn và rất quan trọng của sự nghiệp đổi mới ở nước ta đã
chứng minh tính khoa học đúng đắn, tính cách mạng sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về
con đường cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Chương II
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường bạo lực cách mạng
1. Tính nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh về sử dụng bạo lực cách mạng
1.1 Ngọn nguồn của tính nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh về sử dụng bạo lực
cách mạng.
Như lịch sử đã chứng kiến, bạo lực xuất hiện cùng với giai cấp đối kháng; các giai cấp,
dân tộc có lợi ích không thể điều hoà và được giải quyết thông qua đấu tranh giai cấp, đấu
tranh dân tộc. Bạo lực là sức mạnh, là ý chí của một giai cấp, nhà nước hoặc lực lượng
chính trị dùng để cưỡng bức hoặc chống lại sự nô dịch, xâm lược của một giai cấp, dân tộc
này đối với một giai cấp, dân tộc khác. Quân đội, công an, toà án, nhà tù... là những công cụ
bạo lực chủ yếu của Nhà nước. Là một hiện tượng chính trị - xã hội nên bạo lực trong lịch
sử hoặc từng giai đoạn có tính chất không thuần nhất: có bạo lực tiến bộ, cách mạng và
cũng có bạo lực phản động, phản cách mạng.
Tính nhân văn trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sử dụng bạo lực cách mạng
trước hết được bắt nguồn từ sự thấm nhuần của Người về lý luận và thực tiễn bạo lực cách
mạng, tiến bộ của giai cấp vô sản, của chủ nghĩa Mác - Lênin và kinh nghiệm đấu tranh
cách mạng của các Đảng Cộng sản và công nhân trong phong trào cộng sản quốc tế. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc sự chỉ dẫn của các nhà kinh điển mácxít cho rằng,
bạo lực cách mạng là bà đỡ cho xã hội mới được thai nghén trong lòng xã hội cũ; một dân
tộc không có vũ khí và không biết sử dụng vũ khí chỉ xứng đáng làm nô lệ; rằng, để thực
hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp vô sản phải sử dụng bạo lực cách mạng
nhằm thủ tiêu xã hội cũ và xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng đã tự khảo sát thực tiễn đấu tranh đầy máu và nước mắt của giai cấp vô sản thế
giới và các dân tộc bị áp bức, bóc lột và bị xâm lược. Người đã phân tích, tổng kết và đúc
rút nên những bài học kinh nghiệm quý báu từ sự thất bại của Công xã Pari, sự đứng vững
của chính quyền Xôviết non trẻ sau Cách mạng tháng Mười Nga và chiến thắng vĩ đại của
Liên Xô trong cuộc chiến tranh vệ quốc chống phát xít Đức, quân phiệt Nhật Bản... Từ lý
luận và thực tiễn cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng, muốn cứu nước,
giải phóng dân tộc nhất thiết phải đi theo con đường cách mạng vô sản và chủ nghĩa Lênin;
rằng, "trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và của dân tộc, cần dùng
bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ
chính quyền"(1).

Tính nhân văn trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sử dụng bạo lực cách mạng còn
được bắt nguồn từ văn hoá giữ nước và văn hiến của dân tộc Việt Nam. Thật hiếm có một
dân tộc nào như dân tộc Việt Nam - một dân tộc không những luôn bị kẻ thù bên ngoài rình
rập, nhòm ngó nuôi dã tâm xâm lược, mà còn phải trải qua biết bao nhiêu cuộc đấu tranh
giành và giữ độc lập, tự do. Lịch sử đấu tranh cải tạo thiên nhiên để phát triển kinh tế, văn
hoá; chống kẻ thù xâm lược để giải phóng, giữ gìn non sông, đất nước của dân tộc ta đã
tích hợp thành những giá trị văn hoá trong lao động sản xuất và đánh giặc giữ nước. Đó
chính là sự nhận thức và ứng xử các mối quan hệ bản chất như: dựng nước và giữ nước;
sức mạnh của quần chúng nhân dân và lực lượng vũ trang; chiến đấu trên chiến trường và
đàm phán về ngoại giao; sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần; con người và vũ khí;
tiêu diệt địch và sự nhân đạo, khoan hồng đối với sĩ quan, binh lính địch bị chết, bị thương,
bị bắt; về chính sách đãi ngộ đối với những người có công với Tổ quốc... Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã kế thừa và phát huy truyền thống "lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy trí nhân thay
cường bạo"; cả nước chung sức, toàn dân đánh giặc; thà hy sinh tất cả chứ nhất định không
chịu mất nước, không chịu làm nô lệ.
Tính nhân văn trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sử dụng bạo lực cách mạng
cũng là sản phẩm chủ quan được bắt nguồn từ nhân cách, đạo đức, văn hoá của Người. Hồ
Chí Minh từng mong muốn được làm trò nhỏ của Khổng Tử, Giêsu, Thích Ca Mâu Ni... Trên
thực tế, Người đã sống, làm việc, học tập, đấu tranh theo một lý tưởng cao đẹp, không bao
giờ mơ hồ, thoả hiệp; đồng thời, luôn có sự điều chỉnh để các nguyên tắc chung phù hợp
với điều kiện cụ thể. Hồ Chí Minh là tấm gương sáng về lòng độ lượng, khoan dung, thương
yêu, quý mến con người và có nỗi vui buồn đồng loại. Chính tình thương và lòng nhân ái
bao la đó đã dẫn dắt Người đến đỉnh cao của các giá trị về chính trị, văn hoá, đạo đức, nghệ
thuật quân sự cách mạng... Các giá trị cao đẹp của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nền móng
tinh thần - văn hoá để dân tộc ta không ngừng nâng cao vị thế quốc tế của mình; tích cực
chủ động hội nhập vào cộng đồng thế giới, với những quan hệ hợp tác song phương, đa
phương.

1.2.Một số nội dung cơ bản của tính nhân văn trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về sử dụng bạo lực cách mạng.

Xét cả mặt lịch sử lẫn lôgíc, tính nhân văn chỉ có trong bạo lực cách mạng và không thể
có trong bạo lực phản cách mạng chống lại tiến bộ lịch sử, chống lại con người. Nội dung
nhân văn trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng có thể được khai
thác từ nhiều góc độ khác nhau. Theo chúng tôi, có thể tập trung vào những vấn đề cơ bản
sau đây:

Thứ nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn con đường bạo lực cách mạng để giải phóng
giai cấp công nhân, dân tộc, con người Việt Nam khỏi sự xâm lược của nước ngoài và sự
thống trị, bóc lột của giai cấp phong kiến phản động trong nước.

Nếu xét theo lôgíc hình thức thuần tuý, dường như việc lựa chọn bạo lực với tính cách một
phương pháp để giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp công nhân, giải phóng xã hội và
con người là đi ngược với quan điểm nhân văn. Trên thực tế, các lãnh tụ của giai cấp vô
sản cũng đã nhận thức đầy đủ sự quý giá của con đường hoà bình để giành thắng lợi trong
đấu tranh giai cấp và giải phóng dân tộc. Nhưng cơ hội đó thật vô cùng hiếm hoi và những
người bị áp bức bóc lột, bị xâm lược không thể trông chờ vào sự "tự giác" trao quyền lực
của giai cấp thống trị cho mình. Lịch sử cách mạng thế giới và Việt Nam đã chứng minh điều
đó. Kinh nghiệm thực tiễn cũng chỉ ra rằng, tiến hành đấu tranh bằng con đường bạo lực
cách mạng sẽ rút ngắn sự khổ đau, quằn quại của quần chúng nhân dân dưới sự bóc lột hà
khắc của giai cấp thống trị, sự xâm lược của chủ nghĩa đế quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nhấn mạnh: "... những người cách mạng Việt Nam đã được tiếp thu ảnh hưởng đầy sức
sống của Cách mạng tháng Mười và chủ nghĩa Mác - Lênin. Điều đó tựa như người đi
đường đang khát mà có nước uống, đang đói mà có cơm ăn"(2). Sử dụng bạo lực trong đấu
tranh cách mạng của giai cấp vô sản khác về bản chất so với việc giai cấp thống trị và
những kẻ đi xâm lược dùng quân đội nhà nghề với súng đạn, phương tiện quân sự để tiêu
diệt những người cách mạng nhằm bóp chết phong trào đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân
tộc để thiết lập, duy trì sự thống trị của chúng. Do vậy, việc lựa chọn bạo lực cách mạng để
thực hiện mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người không mâu
thuẫn với quan điểm nhân văn; trái lại, là biện pháp tích cực để thực hiện nguyện vọng
được giải phóng của quần chúng cần lao, là con đường đúng đắn nhất để thực hiện mục
tiêu cao đẹp - vì lợi ích của nhân dân lao động. Trong cuộc đụng đầu lịch sử giữa dân tộc
Việt Nam và đế quốc Mỹ xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đại diện cho ý chí của dân tộc
nêu quyết tâm "CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ có thể còn kéo dài. Đồng bào ta có thể
phải hy sinh nhiều của, nhiều người. Dù sao chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến
thắng lợi hoàn toàn"(3).

Thứ hai, tính nhân văn trong tư tưởng về sử dụng bạo lực của Chủ tịch Hồ Chí Minh được
thể hiện sâu sắc, sinh động ở cách tổ chức lực lượng và hình thức tiến hành bạo lực cách
mạng. Trên cơ sở nhận thức vai trò quyết định của quần chúng nhân dân đối với sự phát
triển của lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có quan niệm đúng đắn ngay từ đầu về tổ chức
lực lượng, phương thức, hình thức tiến hành bạo lực phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt
Nam và tư tưởng đó đã không ngừng phát triển, hoàn thiện trong quá trình lãnh đạo cách
mạng Việt Nam. Nhờ vậy, trong đấu tranh cách mạng giành chính quyền cũng như trong các
cuộc kháng chiến chống xâm lược, Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã huy động sức mạnh của cả dân tộc để chiến đấu và chiến thắng. Để bảo vệ nền
độc lập và chính quyền cách mạng, Người kêu gọi toàn dân, bất kỳ đàn ông, đàn bà, người
già, người trẻ, hễ là người Việt Nam hãy sử dụng mọi thứ vũ khí có trong tay để chống giặc,
cứu nước. Trong thời khắc đặc biệt của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ và tay sai, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi 31 triệu người Việt Nam phải là 31 triệu dũng sĩ diệt Mỹ, cứu
nước. Các tư tưởng trên đây của Hồ Chí Minh vừa thể hiện sự tin tưởng vào con người, vào
nhân dân, nhận thấy sức mạnh vô địch của nhân dân mà lực lượng vũ trang là nòng cốt;
vừa thể hiện quyết tâm sắt đá của Đảng, dân tộc, quân đội đối với nhiệm vụ giành, giữ độc
lập tự do và chủ nghĩa xã hội.

Với mục tiêu phát huy cao nhất sức mạnh của nhân dân, trong đấu tranh cách mạng, trong
kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn các phương thức, hình thức thích hợp như:
kết hợp khởi nghĩa vũ trang của quần chúng cách mạng và chiến tranh nhân dân; thực hiện
chiến tranh toàn dân, toàn diện; quan tâm đặc biệt đến việc xây dựng lực lượng vũ trang với
ba thứ quân; kết hợp tiến công địch về quân sự với đấu tranh về ngoại giao... Đường lối
chiến lược đó bắt nguồn từ tư tưởng "lấy dân làm gốc", coi nhân dân là lực lượng chính của
sự nghiệp đấu tranh cách mạng. Có thể nói, tư tưởng dựa vào sức mạnh của nhân dân để
tiến hành cách mạng giải phóng là nét độc đáo của tính nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về sử dụng bạo lực cách mạng, là sự phát triển cao của văn hoá giữ nước, là sự đơm
hoa kết trái của văn hiến Việt Nam được soi sáng bởi chủ nghĩa Mác - Lênin.

Thứ ba, tính nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh về sử dụng bạo lực cách mạng còn thể
hiện ở sự quan tâm của Người đối với việc giáo dục tinh thần yêu nước, nuôi dưỡng chủ
nghĩa anh hùng cách mạng cho nhân dân, cán bộ và chiến sĩ các lực lượng vũ trang nhân
dân.

Trong di sản lý luận quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vấn đề sức mạnh của chiến tranh
chính nghĩa, của chiến tranh nhân dân, truyền thống đánh giặc, giữ nước của dân tộc, vai
trò của con người, đặc biệt là yếu tố chính trị - tinh thần... được Người rất quan tâm và coi
đó như khả năng thực tế để chuyển hoá thế và lực trong chiến tranh, trong đấu tranh vũ
trang và trong cách mạng ở Việt Nam nói chung. Niềm tin có cơ sở khoa học vào sự vận
động mang tính quy luật của chiến tranh chính nghĩa, chiến tranh cách mạng, tiến bộ và vai
trò của nó đã giúp Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng tạo ra nhiều nội dung, hình thức tuyên truyền,
giáo dục phù hợp, hiệu quả nhằm nuôi dưỡng truyền thống yêu nước, phát huy tinh thần
quyết chiến quyết thắng trong thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Thấm
nhuần tư tưởng đó của Người, các địa phương, các ngành, các cấp, các đơn vị lực lượng
vũ trang luôn coi trọng công tác giáo dục tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách
mạng, biến nó thành những phong trào rộng lớn và thiết thực, như "Tay cày tay súng", "Tay
búa tay súng", "Thi đua giết giặc lập công", "Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu
một người", "Thanh niên ba sẵn sàng, phụ nữ ba đảm đang"...

Các phong trào yêu nước cụ thể, tính đa dạng, phong phú của chủ nghĩa anh hùng cách
mạng trong đấu tranh vũ trang, trong chiến tranh là kết quả của sự nhận thức đúng đắn vai
trò quần chúng nhân dân, vai trò con người, sức mạnh của tinh thần yêu nước... đã được
vật chất hoá thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Sự nhất quán trong mục tiêu của
chiến tranh chống xâm lược với sự năng động, sáng tạo trong tuyên truyền, giáo dục, động
viên nhân dân và quân đội đã tạo thành động lực to lớn, sức mạnh kỳ diệu làm nên mọi
thắng lợi của cuộc đấu tranh cách mạng. Điều đó đã làm sâu đậm thêm tính nhân văn trong
tư tưởng về sử dụng bạo lực cách mạng của Hồ Chí Minh.

Thứ tư, tính nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh còn thể hiện ở việc xác định nguyên tắc
xây dựng, rèn luyện, giáo dục quân đội với tính cách là lực lượng nòng cốt để thực hiện bạo
lực cách mạng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định một cách rõ ràng, dứt khoát rằng, quân đội cách mạng từ
nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu; nghĩa là quân đội ta luôn có sự liên hệ chặt chẽ
với nhân dân. Quân đội cách mạng phải khác căn bản với quân đội nhà nghề của giai cấp
thống trị, xâm lược; phải thường xuyên tăng cường bản chất cách mạng của giai cấp công
nhân, mang tính nhân dân và dân tộc sâu sắc. Sự thống nhất của các yếu tố đó là một giá trị
nhân văn đáng tự hào của quân đội ta nhờ có sự tổ chức, giáo dục, rèn luyện của Chủ tịch
Hồ Chí Minh. Người dạy rằng, "dân như nước, mình như cá, lực lượng bao nhiêu là nhờ ở
dân hết" nên quân đội phải thương yêu, quý trọng nhân dân như cha, mẹ, anh em của mình,
phải đoàn kết chặt chẽ với dân, giúp nhân dân trong mọi hoàn cảnh.

Đồng thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng giáo dục cán bộ, chiến sĩ quân đội phải thương yêu
lẫn nhau như những người ruột thịt, chiến sĩ chưa ăn, cán bộ không được kêu mình đói;
chiến sĩ chưa đủ ấm, cán bộ không được kêu mình rét; chính trị viên phải như chị hiền,
chiến sĩ, cấp dưới phải tôn trọng cấp trên, bảo vệ cán bộ và chấp hành nghiêm mọi mệnh
lệnh. Mặt khác, Người rất coi trọng giáo dục cán bộ chiến sĩ phải có tinh thần đoàn kết quốc
tế, phải có lòng nhân đạo, có sự phân biệt rõ ràng giữa những kẻ xâm lược, hiếu chiến với
nhân dân lao động và yêu chuộng hoà bình, công lý nhằm tăng bạn, bớt thù.

2.Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường cách mạng
bạo lực.

Các thế lực đế quốc sử dụng bạo lực để xâm lược và thống trị thuộc địa, đàn áp dã man
các phong trào yêu nước. "Chế độ thực dân tự bản thân nó, đã là một hành động bạo lực
của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi". Chưa đánh bại được lực lượng và đè bẹp ý chí xâm lược
của chúng thì chưa thể có thắng lợi hoàn toàn. Vì thế, con đường để giành và giữ độc lập
dân tộc chỉ có thể là con đường cách mạng bạo lực.

Đánh giá đúng bản chất cực kỳ phản động của bọn đế quốc tay sai, Hồ Chí Minh vạch rõ
tính tất yếu của bạo lực cách mạng. "Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai
cấp và của dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng, chống lại bạo lực phản cách mạng, giành
lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền.

Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, coi sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng, Hồ Chí Minh cho rằng bạo lực cách mạng là bạo lực của quần chúng.

Trong thời kỳ vận động giải phóng dân tộc 1940-1945, Người cùng với Trung ương Đảng chỉ
đạo xây dựng cơ sở của bạo lực cách mạng bao gồm 2 lực lượng: lực lượng chính trị quần
chúng và lực lượng vũ trang nhân dân. Theo sáng kiến của Người, Mặt trận Việt Minh được
thành lập. Đó là nơi tập hợp, giác ngộ và rèn luyện lực trong chính trị quần chúng, một lực
lượng cơ bản và giữ vai trò quyết định trong tổng khởi nghĩa vũ trang.

Hình thức của bạo lực cách mạng bao gồm cả đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang,
nhưng phải "tùy tình hình cụ thể mà quyết định những hình thức đấu tranh cách mạng thích
hợp, sử dụng đúng và khéo kết hợp các hình thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị
để giành thắng lợi cho cách Mạng"1.

Trong cách mạng tháng Tám, bạo lực thể hiện bằng khởi nghĩa vũ trang với lực lượng chính
trị là chủ yếu. Đó là công cụ đập tan chính quyền của bọn Phátxít Nhật và tay sai giành
chính quyền về tay nhân dân.

Trong chiến tranh cách mạng, lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang giữ vị trí quyết định
trong việc tiêu diệt lực lượng quân sự địch, làm thất bại những âm mưu quân sự và chính trị
của chúng. Nhưng đấu tranh vũ trang không tách biệt với đấu tranh chính trị. Theo Hồ Chí
Minh, các đoàn thể cách mạng càng phát triển, quần chúng đấu tranh chính trị càng mạnh
thì càng có cơ sở vững chắc để tổ chức lực lượng vũ trang và tiến hành đấu tranh vũ trang.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng khác hẳn tư tưởng hiếu chiến- của các thế lực
đế quốc xâm lược. Xuất phát từ tình yêu thương con người, quý trọng sinh mạng con người.
Người luôn tranh thủ khả năng giành và giữ chính quyền ít đổ máu. Người tìm mọi cách
ngăn chặn xung đột vũ trang, tận dụng mọi khả năng giải quyết xung đột bằng biện pháp
hòa bình, chủ động đàm phán, thương lượng, chấp nhận những nhượng bộ có nguyên tắc.

Việc tiến hành chiến tranh chỉ là giải pháp bắt buộc cuối cùng. Chí khí không còn khả năng
hòa hoãn, khi kẻ thù ngoan cố bám giữ lập trường thực dân, chỉ muốn giành thắng lợi bằng
quân sự thì Hồ Chí Minh mới kiên quyết phát động chiến tranh. Tư tưởng bạo lực cách
mạng và tư tưởng nhân đạo, hòa bình thống nhất biện chứng với nhau. Yêu thương con
người, yêu chuộng hòa bình, tự do, công lý, tranh thủ mọi khả năng hòa bình để giải quyết
xung đột, nhưng một khi không thể tránh khỏi chiến tranh thì phải kiên quyết tiến hành chiến
tranh, kiên quyết dùng bạo lực cách mạng, dùng khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng để
giành, giữ và bảo vệ hòa bình, vì độc lập, tự do. Đánh giặc không phải là tiêu diệt hết lực
lượng, mà chủ yếu là đánh bại ý chí xâm lược của chúng, kết hợp giành thắng lợi về quân
sự với giải pháp ngoại giao để kết thúc chiến tranh.

Theo Hồ Chí Minh, trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc "lực lượng chính là ở dân".
Người chủ trương: tiến hành khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân dân.

Xuất phát từ tương quan lực lượng lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều. Hồ Chí Minh không
chủ trương tiến hành kiểu chiến tranh thông thườg, có chiến tuyến rõ rệt, chỉ dựa vào lực
lượng quân đội và dốc toàn lực vào một số trận sống mái với kẻ thù mà chủ trương phát
động chiến tranh nhân dân, dựa vào lực lượng toàn dân, có lực lượng vũ trang làm nòng
cốt, đấu tranh toàn diện với kẻ thù đế quốc với tư tưởng chiến lược tiến công, phương châm
chiến lược đánh lâu dài và dựa vào sức mình là chính. Hồ Chí Minh nói: "Không dùng toàn
lực của nhân dân về đủ mọi mặt để ứng phó, không thể nào thắng lợi được"! .

Toàn dân khởi nghĩa, toàn dân nổi dậy là nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về hình
thái bạo lực cách mạng.

Trong chiến tranh, "quân sự là việc chủ chốt", nhưng đồng thời phải kết hợp chặt chẽ với
đấu tranh chính trị. "Thắng lợi quân sự đem lại thắng lợi chính trị, thắng lợi chính trị sẽ làm
thắng lợi quân sự to lớn hơn"[1] .

Đấu tranh ngoại giao cũng là một mặt trận có ý nghĩa chiến lược, có tác dụng thêm bạn bớt
thù, phân hóa và cô lập kẻ thù. phát huy yếu tố chính nghĩa của cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, tranh thủ đồng tình ủng hộ của quốc tế. Hồ Chí Minh chủ trương
"vừa đánh vừa đàm", "đánh là chủ yếu, đàm là hỗ trợ".

Đấu tranh kinh tế là ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, phát triển kinh tế của ta,
phá hoại kinh tế của địch. Người kêu gọi "hậu phương thi đua với tiền phương", coi "ruộng
rẫy là chiến trường, cuốc cày là vũ khí, nhà nông là chiến sĩ", "tay cày tay súng, tay búa tay
súng, ra sức phát triển sản xuất để phục vụ kháng chiến".

Chiến tranh về mặt văn hóa hay tư tưởng so với những mặt khác cũng không kém quan
trọng.

Mục đích của cách mạng và chiến tranh chính nghĩa là vì độc lập, tự do, làm cho khả năng
tiến hành chiến tranh nhân dân trở thành hiện thực, làm cho toàn dân tự giác tham gia
kháng chiến.

Trước những kẻ thù lớn mạnh. Hồ Chí Minh chủ trương sử dụng phương châm chiến lược
đánh lâu dài.

Tự lực cánh sinh cũng là một phương châm chiến lược rất quan trọng, nhằm phát huy cao
độ nguồn sức mạnh chủ quan, tránh tư tưởng bị động trông chờ vào sự giúp đỡ bên ngoài.
Mặc dù rất coi trọng sự giúp đỡ quốc tế nhưng Hồ Chí Minh luôn đề cao sức mạnh bên
trong, phát huy đến mức cao nhất mọi nỗ lực của dân tộc, đề cao tinh thần độc lập, tự chủ.

Độc lập, tự chủ, tự lực tự cường kết hợp với tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế là một quan điểm
nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và
đế quốc Mỹ, Người đă động viên sức mạnh của toàn dân tộc, đồng thời ra sức vận động,
tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế to lớn và có hiệu quả cả về vật chất và tinh thần, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại đó kháng chiến thắng lợi.

Chương III
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng trong giai
đoạn hiện nay
1.Nghệ thuật sử dụng bạo lực cách mạng trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh

Quan điểm sử dụng bạo lực cách mạng là một trong những quan điểm nằm trong hệ
thống tư tưởng Hồ Chí Minh về quân sự. “Tư tưởng Hồ Chí Minh về quân sự bao gồm
những quan điểm, tư tưởng có tính quy luật về đấu tranh vũ trang và chiến tranh cách
mạng, về lực lượng quốc phòng và lực lượng vũ trang ở Việt Nam trong thời đại mới, nhằm
thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là một bộ phận quan trọng trong
toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, là cơ sở cho sự hình thành và phát triển đường lối
quân sự của Đảng và học thuyết quân sự Việt Nam trong thời hiện đại, nó góp phần làm
phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về quân sự và đã trở thành di
sản quí báu của dân tộc và thế giới”[2]. Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh được hình thành từ
truyền thống anh dũng đấu tranh chống giặc ngoại xâm của cha ông ta. Trải qua hàng nghìn
năm dựng nước và giữ nước, truyền thống quân sự của nhân dân đã được đúc kết thành
sợi chỉ đỏ xuyên suốt chiều dài lịch sử tạo thành sức mạnh giúp dân tộc ta giữ vững độc lập
chủ quyền, bảo toàn từng tấc sông thước núi. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quân sự còn là sự
kế thừa và vận dụng sáng tạo những luận điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về quân sự vào
hoàn cảnh cụ thể của cách mạng nước ta. Trong đó quan điểm sử dụng bạo lực cách mạng
trong đấu tranh cách mạng đã được Hồ Chí Minh vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp với
hoàn cảnh cách mạng Việt Nam và nâng lên tầm một nghệ thuật quân sự, đó là nghệ thuật
sử dụng bạo lực cách mạng trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh. C.Mác và Ph.Ăngghen là
những người đã đặt nền móng cho học thuyết của giai cấp vô sản về chiến tranh và quân
đội. Qua quá trình nghiên cứu các cuộc cách mạng xã hội, Mác và Ăngghen khẳng định vai
trò của bạo lực khi nó phục vụ cho mục đích cải tạo xã hội bằng cách mạng và do giai cấp
tiên tiến sử dụng để khắc phục sự chống đối của lực lượng phản động. C.Mác đã từng
khẳng định: Bạo lực là bà đỡ của một chế độ xã hội mới đang thai nghén trong lòng xã hội
cũ vì giai cấp thống trị, bóc lột không bao giờ tự giao chính quyền cho lực lượng cách mạng.
Bạo lực là công cụ mà sự vận động xã hội dùng để tự mở đường cho mình và đập tan
những hình thức cứng đờ hóa đá. Giai cấp công nhân là giai cấp có sứ mệnh lịch sử xây
dựng xã hội mới tất yếu phải sử dụng bạo lực cách mạng với nhiều hình thức khác nhau kể
cả hình thức vũ trang nhằm thiết lập chính quyền của giai cấp vô sản và thủ tiêu chế độ tư
bản. Đó là cách mạng vô sản, cách mạng vô sản ở thuộc địa phải gắn liền với cách mạng
chính quốc và phải tiến hành bằng con đường bạo lực.

Trên cơ sở nắm vững những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nhận thức sâu sắc bản chất của chế độ thực dân: “Chế độ thực dân, tự bản thân nó, đã là
một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi”[3]. Thực tiễn đã chứng minh điều
đó, năm 1858, thực dân Pháp đã dùng bạo lực phản cách mạng để xâm lược nước ta,
chúng dùng quân đội - “một công cụ to dùng để áp bức” với hạm đội, tàu chiến, binh lính
tinh nhuệ và các loại vũ khí hiện đại thời bấy giờ để uy hiếp, xâm lược một triều đình phong
kiến với vài khẩu súng thần công và những anh lính khố. Sau khi chiếm được nước ta,
chúng tiếp tục dùng bạo lực phản cách mạng để bóc lột nhân dân ta tới tận xương tủy,
không những thế chúng còn đàn áp đẫm máu những phong trào đấu tranh của nhân dân ta
dù cho đó có là đấu tranh theo phương pháp hòa bình hay dấy binh khởi nghĩa. Bác đã
nhận rõ bản chất của bọn xâm lược, “lũ giặc cướp nước, chết thì chết, nết không chừa.
Càng gần thất bại thì chúng càng hung ác”[4]. Trong bản Tuyên ngôn độc lập Bác đã từng
chỉ rõ: “Ngày 9 tháng 3 năm nay, Nhật tước khí giới của quân đội Pháp. Bọn thực dân Pháp
hoặc bỏ chạy hoặc đầu hàng. Thế là chẳng những chúng không “bảo hộ” được ta, trái lại,
trong 5 năm, chúng dã man bán nước ta hai lần cho Nhật. Trước ngày mồng 9 tháng 3, biết
bao lần Việt Minh đã kêu gọi người Pháp liên minh để chống Nhật. Bọn thực dân Pháp đã
không đáp ứng, lại thẳng tay khủng bố Việt Minh hơn nữa. Thậm chí đến khi thua chạy,
chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng”[5]. Cho nên
Người khẳng định: “Độc lập tự do không thể cầu xin mà có được”. Vì vậy, để thực hiện cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc, cũng như cuộc đấu tranh để bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ
chủ nghĩa xã hội, tất yếu phải “Dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng,
giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền”. Đó là quan điểm mấu chốt trong tư tưởng
quân sự Hồ Chí Minh, đã được thể hiện trong Khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 cũng như
trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.

Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bạo lực cách mạng ở Việt Nam là sức mạnh của
quần chúng nhân dân dân được giác ngộ và tổ chức thành hai lực lượng: Lực lượng chính
trị và lực lượng vũ trang, hai hình thức đấu tranh: Đấu tranh chính trị và đấu tranh quân sự,
kết hợp khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng. Vì vậy, khởi nghĩa vũ trang là cuộc
nổi dậy to lớn của quần chúng với sự kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chính trị và đấu tranh
quân sự, dùng vũ khí để đánh đuổi bọn cướp nước, giành chính quyền. Người nói: Tùy tình
hình cụ thể mà quyết định những hình thức đấu tranh cách mạng thích hợp, sử dụng đúng
và khéo kết hợp các hình thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị để giành thắng lợi
cho cách mạng. Quán triệt quan điểm: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Người đã
chỉ rõ, bạo lực cách mạng ở đây là bạo lực cách mạng của quần chúng, nghĩa là toàn dân
vùng dậy đánh đuổi quân xâm lược.

Tuy đề cao vai trò của bạo lực cách mạng nhưng Hồ Chí Minh không tuyệt đối hóa vai trò
của bạo lực, của đấu tranh vũ trang trong chiến tranh cách mạng. Với người đấu tranh vũ
trang chỉ là một trong những phương pháp để thực hiện mục tiêu chính trị của cách mạng.
Với tinh thần ấy, sau khi về nước chuẩn bị cho công tác giành chính quyền. Tháng 12 năm
1944, sau khi nghiên cứu kỹ tình hình cách mạng trong nước và trên thế giới, Bác ra chỉ thị
thành lập đội “Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân”. Với lời căn dặn: “Chính trị trọng hơn
quân sự”, “tuyên truyền trọng hơn tác chiến”, “người trước, súng sau”. Chỉ thị thành lập đội
Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân của Bác tuy ngắn nhưng rất súc tích bao gồm các
vấn đề chủ yếu về đường lối quân sự của Đảng ta, đó là các vấn đề về kháng chiến toàn
dân, động viên và vũ trang toàn dân. Chỉ thị còn nói rõ về nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ
trang cách mạng, phương châm xây dựng ba thứ quân, phương thức hoạt động kết hợp
quân sự với chính trị của lực lượng vũ trang, nguyên tắc tác chiến và chiến thuật du kích
của lực lượng vũ trang.

Quán triệt quan điểm của Bác, Cách mạng Tháng 8 năm 1945 mặc dù ta đã tích cực chuẩn
bị lực lượng từ rất lâu, quyết tâm nếm mật nằm gai chờ ngày thời cơ tới. Nhưng khi ngày
thời cơ đến toàn dân, toàn quân ta đã làm nên một cuộc cách mạng sâu sắc, triệt để nhưng
không hề gây ra một thương vong lớn nào. Đó là minh chứng cho nghệ thuật sử dụng bạo
lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng của người, bạo lực cách mạng ở đây là
bạo lực của toàn dân là phong trào toàn dân đánh giặc, là sự kết hợp nhuần nhuyễn khoa
học giữa phương pháp đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, sao cho đạt được thắng lợi
mà không gây thương vong cho cả ta và địch. Đây là một trong những nét độc đáo mang
đậm tính nhân văn của nghệ thuật quân sự Hồ Chí Minh.

Quan điểm bạo lực cách mạng của Hồ Chí Minh, không hề đối lập với tinh thần yêu chuộng
hòa bình và chủ nghĩa nhân đạo. Đó là sự tiếp nối truyền thống nhân nghĩa của cha ông ta
“Việc nhân nghĩa cốt để yên dân; Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”. Đối với Chủ tịch Hồ Chí
Minh, trong cuộc đấu tranh chính nghĩa để giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, việc sử
dụng bạo lực cũng nhằm mục đích hòa bình: “Dụng việc binh là việc nhân nghĩa, muốn cứu
dân, cứu nước”. Hòa bình theo Người phải là nền hòa bình thật sự, gắn liền với độc lập, chủ
quyền của tổ quốc và tự do, dân chủ của nhân dân. Nếu mục tiêu đó không được đáp ứng,
phương thức tiến hành chiến tranh tất yếu là bạo lực cách mạng. Đó chính là nghệ thuật
khéo léo dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng của Người.

Quan điểm dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh là cơ sở cho đường lối quân sự với phương pháp cách mạng đúng đắn của Đảng ta
trong suốt thời kỳ cách mạng. Đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến thắng lợi của
Đảng, của quân và dân ta trong khởi nghĩa giành chính quyền và trong hai cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, đem lại nền hòa bình cho dân tộc, toàn vẹn
lãnh thổ cho sông núi Việt Nam.

2.Giá trị bạo lực cách mạng của Bác trong giai đoạn hiện nay

Ngày nay trong điều kiện hòa bình, nước ta được hưởng độc lập tự do, Đảng ta đã là
Đảng cầm quyền, chính quyền đã về tay của toàn thể nhân dân lao động. Việc học tập tư
tưởng Hồ Chí Minh được đẩy mạnh thực hiện và đi vào chiều sâu. Trong đó quan điểm của
Bác về sử dụng bạo lực cách mạng để giành chính quyền và giữ chính quyền vẫn còn giữ
nguyên giá trị trong điều kiện mới. Người nói: Chiến tranh ngày nay, đánh ở mặt sau, đánh
về kinh tế, về chính trị, về tinh thần không kém quan trọng như đánh ngoài mặt trận. Phải
biết phối hợp mọi phương pháp ấy mới có thể đi tới thắng lợi hoàn toàn. Hiện nay, cả nước
ta thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế sâu rộng
trên tất cả các mặt thì nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc được đặt ra với nhu cầu ngày càng toàn
diện, triệt để và sâu sắc hơn. Trong bối cảnh tình hình quốc tế, khu vực và trong nước có
những diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách để khôi phục lại địa vị của
mình, với những nguy cơ của đất nước: Tụt hậu về kinh tế, chệch hướng xã hội chủ nghĩa,
diễn biến hòa bình và tham nhũng,…Đảng ta ta cần có đủ bản lĩnh và trí tuệ, quân đội ta
phải đủ sức mạnh để đập tan những âm mưu chống phá của kẻ thù. Và việc sử dụng bạo
lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng nhằm xuyên tạc, nói xấu, chống lại
chế độ, chính phủ, nhà nước và lợi ích chân chính của nhân dân ta là một điều tất yếu.
Chúng ta cần ghi nhớ rằng: Bạo lực cách mạng theo quan điểm của Bác đó là sức mạnh
của quần chúng nhân dân được giác ngộ và tổ chức thành hai lực lượng, lực lượng chính trị
và lực lượng vũ trang. Biểu hiện thành hai hình thức đấu tranh là đấu tranh chính trị và đấu
tranh quân sự. Trong đó đấu tranh quân sự là phục vụ cho đấu tranh chính trị bởi “Quân sự
mà không có chính trị là vô dụng mà có hại”.

Đòi hỏi cấp thiết trong tình hình cách mạng hiện nay là Đảng và Nhà nước ta cần chú trọng
thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, bên cạnh đó, quan tâm hơn nữa việc giáo
dục chính trị, tư tưởng, đạo đức cách mạng cho quần chúng nhân dân, nhất là thế hệ trẻ,
những người chủ tương lai của đất nước. Là thanh niên của thế hệ mới, phải có lập trường
tư tưởng vững vàng, kiên định với chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tuyệt đối
trung thành với sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước. Bên cạnh đó, chúng ta cần tăng cường
xây dựng quân đội chính quy tinh nhuệ, xứng đáng với lời khen tặng của Bác “Quân đội ta
trung với Ðảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì
chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào
cũng đánh thắng”[6]. Có như vậy, ta mới đảm bảo vững về chính trị, mạnh về quân sự, cùng
với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng tạo nền
tảng vững chắc cho nước ta vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội, một ước mơ chung của
toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta.
Kết Luận
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sử dụng bạo lực cách mạng chứa đựng giá trị nhân văn sâu
sắc. Nó được khởi nguồn từ sự thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, từ nền văn hoá và văn
hiến của dân tộc Việt Nam cũng như từ chính nhân cách cao cả của Người. Tính nhân văn
đó thể hiện tập trung ở: sự lựa chọn con đường bạo lực cách mạng, phương pháp tổ chức
lực lượng và tiến hành bạo lực cách mạng, sự nuôi dưỡng và phát huy chủ nghĩa anh hùng
cách mạng, sự xác định những nguyên tắc xây dựng, giáo dục và rèn luyện lực lượng vũ
trang nhân dân.

Giá trị nhân văn trong di sản lý luận, tư tưởng, văn hoá tinh thần của Chủ tịch Hồ Chí
Minh để lại cho nhân loại và dân tộc Việt Nam thật sự vĩ đại và là một bộ phận vô cùng quan
trọng trong nội hàm tư tưởng của Người. Chính các giá trị nhân văn được sinh ra từ trí tuệ
và nhân cách Hồ Chí Minh đã làm đẹp đẽ hơn, cao thượng hơn, gần gũi hơn hình ảnh của
một danh nhân văn hoá nhân loại, một chiến sĩ cộng sản lỗi lạc của phong trào cách mạng
thế giới, một anh hùng giải phóng dân tộc, một lãnh tụ thiên tài của Đảng Cộng sản Việt
Nam, giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các lực lượng vũ trang cách mạng Việt
Nam...

Tóm lại, tính nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh về sử dụng bạo lực cách mạng là một
giá trị văn hoá tinh thần của Đảng, dân tộc và quân đội. Giá trị đó vừa là một nét đặc sắc
trong tư tưởng, nhân cách của Người, vừa là một di sản quý báu mà các thế hệ người Việt
Nam hiện nay cần giữ gìn, kế thừa và phát huy trong cuộc đấu tranh để xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
Danh mục tài liệu tham khảo
1.Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính Trị Quốc Gia
2.Chiến thuật chiến lược Hồ Chí Minh, Nxb Chính Trị Quốc Gia
3.Lịch sử phong trào giải phóng dân tộc thế kỉ XX - một cách tiếp cận
Nhà xuất bản Đại Học Sư Phạm
4.Trận đánh 30 năm: kí sự lịch sử, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân

You might also like