You are on page 1of 92

SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC

VÀ GIÁO DỤC PHÁT TRIỂN PHẨM


CHẤT, NĂNG LỰC HỌC SINH THCS
(Thực hiện chương trình Giáo dục
phổ thông 2018)

Nguyễn Mạnh Hiền - Trường CĐSP Gia Lai
PHẦN NỘI
DUNG

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Những vấn đề chung về phương pháp,
kỹ thuật dạy học và giáo dục phát triển
phẩm chất, năng lực học sinh.

 Phẩm chất và năng lực là hai thành phần cơ bản trong
cấu trúc nhân cách nói chung và là yếu tố nền tảng tạo
nên nhân cách của một con người.
 Qua các thời kỳ với các giai đoạn lịch sử khác nhau, yêu
cầu về nhân cách nói chung và phẩm chất, năng lực nói
riêng của con người với tư cách là thành viên trong xã hội
cũng có những thay đổi phù hợp với đòi hỏi của thời đại.
 Theo xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay,
nền giáo dục nước ta cũng đang trong tiến trình đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
1.2. Các khái niệm về nhân cách, phẩm chất và năng lực
1.2.1. Nhân cách
* Khái niệm nhân cách trong tâm lý học

Theo các nhà tâm lý học, nhân cách được nhìn nhận với những
góc độ như sau:
 Nhân cách là cá thể hóa ý thức xã hội
 Nhân cách là một cá nhân có ý thức, chiếm một vị trí nhất định
trong xã hội và đang thực hiện một vai trò xã hội nhất định
 Theo quan điểm tâm lý học Mác-xít thì: Con người sinh ra không
phải đã có sẵn nhân cách và cũng không phải nó bộc lộ dần từ
các bản năng nguyên thủy. Nhân cách là một cấu tạo tâm lý được
hình thành và phát triển trong quá trình sống, hoạt động giao tiếp
của mỗi người.
 Nhà tâm lý học nổi tiếng người Nga A.N. Leonchiep đã nói
"Nhân cách là cái được hình thành, không phải cái được sinh ra".
* Khái niệm nhân cách trong giáo dục học
Dưới góc nhìn giáo dục học thì:


- Nhân cách là tổ hợp của những phẩm chất và năng lực, là đạo
đức và tài năng được kết tinh ở mỗi con người.
- Con người khi mới sinh ra chưa có nhân cách, nhân cách phản
ánh bản chất của xã hội của mỗi cá nhân và chỉ được hình thành,
phát triển trong hoạt động giao lưu. Chính trong quá trình sống,
hoạt động, giao tiếp, học tập, lao động, vui chơi, giải trí... con
người đã tự hình thành và phát triển nhân cách của mình.
- Theo các nhà xã hội học thì nhân cách là một thứ giá trị được xây
dựng và hình thành trong toàn bộ thời gian con người tồn tại trong
xã hội, nó đặc trưng cho mỗi con người, thể hiện những phẩm chất
bên trong con người nhưng lại mang tính xã hội sâu sắc.
1.2.2. Phẩm chất và năng lực


 Phẩm chất là cái làm nên giá trị của người hay vật.
 Phẩm chất là những yếu tố đạo đức, hành vi ứng xử, niềm tin,
tình cảm, giá trị cuộc sống; ý thức pháp luật của con người
được hình thành sau một quá trình giáo dục.
 Năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có
để thực hiện một hoạt động nào đó.

 Năng lực là khả năng huy động tổng hợp các kiến thức, kỹ
năng để thực hiện thành công một loại công việc trong một bối
cảnh nhất định.
 Năng lực gồm có năng lực chung và năng lực đặc thù.
 Năng lực chung là năng lực cơ bản cần thiết mà bất cứ
người nào cũng cần phải có để sống và học tập, làm việc.
 Năng lực đặc thù thể hiện trên từng lĩnh vực khác nhau
như năng lực đặc thù môn học là năng lực được hình thành
và phát triển do đặc điểm của môn học đó tạo nên.
1.3. Mối quan hệ giữa dạy học phát triển phẩm
chất, năng lực với phát triển nhân cách con người
1.3.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành
và phát triển nhân cách

 Các yếu tố bẩm sinh - di truyền tốt là những mầm m ống
của phẩm chất và tài năng, nhất là tài năng con người.
Các mầm mống cần được phát hiện kịp thời và giáo dục
đúng cách thì tài năng mới phát huy, tỏa sáng.
 Môi trường tự nhiên, môi trường gia đình, xã hội, hoàn
cảnh sống có tác động và ảnh hưởng to lớn đến cá nhân
nhưng cũng không có vai trò quyết định đối với việc
hình thành và phát triển nhân cách.

 Giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với sự hình thành và phát
triển nhân cách như: giáo dục sẽ định hướng cho phát triển
nhân cách, giáo dục làm phát huy các yếu tố bẩm sinh – di
truyền, giáo dục khắc phục được một số các khuyết tật, lệch
lạc của cá nhân.
=> Trong các yếu tố kể trên chỉ có hoạt động của cá nhân
mới là yếu tố quyết định trực tiếp đối với sự hình thành và phát
triển nhân cách.
1.3.2. Mối quan hệ giữa dạy học phát triển
phẩm chất, năng lực với phát triển nhân
cách

Ở Việt Nam, loại cấu trúc nhân cách hai thành phần được
nghiên cứu và vận dụng rộng rãi nhất là trong công tác giáo dục.
Đó là quan điểm coi cấu trúc nhân cách gồm hai mặt cơ bản:
phẩm chất và năng lực (đức và tài).
Phẩm chất bao gồm 4 nội dung gồm có:
Phẩm chất xã hội
Phẩm chất cá nhân
Phẩm chất ý chí
Phẩm chất ứng xử
Năng lực bao gồm 4 nội dung cơ bản:

Năng lực xã hội hóa



Năng lực chủ thể hóa
Năng lực hành động
Năng lực giao tiếp
Đây có thể coi là phẩm chất và năng lực khung của nhân
cách theo quan niệm cấu trúc nhân cách hai thành phần (đức,
tài).
Trường hợp một cá nhân có đức và tài không thống nhất
nhau như "tài cao đức kém" hay "đức trọng tài hèn" thì là
những nhân cách chưa hoàn chỉnh.
Do vậy mối quan hệ giữa dạy học phát triển phẩm chất, năng
lực với phát triển nhân cách được diễn đạt như sau:

Phẩm chất và năng lực là hai thành phần cơ bản của nhân
cách.
Nhân cách là chỉnh thể thống nhất giữa hai mặt phẩm chất và
năng lực.
Việc dạy học phát triển phẩm chất, năng lực là phương pháp
tích tụ dần dần các yếu tố của phẩm chất và năng lực người
học để chuyển hóa và góp phần cho việc hình thành, phát
triển nhân cách.
1.4. Năng khiếu âm nhạc và năng khiếu ca
hát, sự cần thiết của âm nhạc với tuổi thơ

Các hoạt động ngoại khóa của nhà trường đóng một vai trò
quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách của
học sinh một cách toàn diện.
Nhà trường hình thành các câu lạc bộ âm nhạc, thể thao để
đáp ứng nhu cầu hoạt động của những học sinh có năng khiếu.
=> Vậy năng khiếu âm nhạc và năng khiếu ca hát là gì? Làm thế
nào để đánh giá học sinh có năng khiếu trong âm nhạc và ca hát?
1.4.1. Năng khiếu âm nhạc


Theo Từ điển Tâm lý học (Vũ Dũng chủ biên): “Năng khiếu là
tập hợp những tư chất bẩm sinh, nét đặc trưng và tính chất đặc thù
làm tiền đề bẩm sinh cho năng lực”.
Theo quan điểm đó, tư chất là những tiềm năng phát tri ển
được di truyền và bẩm sinh của một con người. Năng khi ếu là h ệ
thống tiền đề bên trong dựa trên những tư chất bẩm sinh - di
truyền được phát triển trong đời sống cá thể tạo ra cho cá thể đó
năng lực giải quyết với chất lượng và hiệu quả cao những yêu
cầu đặt ra. Năng khiếu là dấu hiệu đánh giá tr ẻ có tài năng.
Năng khiếu không thể tạo ra mà chỉ được phát hiện, tìm thấy ở
trẻ em.
Theo cuốn Khơi dậy tiềm năng sáng tạo: “Năng khiếu là
năng lực còn tiềm tàng về một hoạt động nào đó nhưng chưa b ộc
lộ ở thành tích cao vì chưa qua tập dượt, rèn luyện nên còn thi ếu
hiểu biết và chưa thành thạo trong lĩnh vực hoạt động đó”.

Như vậy nếu ở lứa tuổi học sinh có năng lực tiềm tàng về
hoạt động nào đó mà chưa được bộc lộ, thì việc phát hiện ra
khả năng của các học sinh là quan trọng để được rèn luyện,
được bộc lộ năng khiếu nhằm hướng tới thành tích cao.
Tương ứng với đó, nếu năng khiếu không được bồi dưỡng
kịp thời và bản thân thiếu say mê, kiên trì, sáng tạo thì năng
khiếu sẽ bị thui chột.
Trong cuốn Tâm lý học nhân cách Nguyễn Ngọc Bích có
định nghĩa về vấn đề năng khiếu như sau:


 Năng khiếu là những tiền đề bẩm sinh, những khuynh hướng
đầu tiên tạo điều kiện cho năng lực và tài năng phát sinh. Nó
bao gồm những đặc điểm tâm sinh lý giải phẫu của hệ thống
thần kinh và khuynh hướng tâm lý đầu tiên tạo điều
kiện thuận lợi cho việc phát triển một năng lực nào đó.
 Năng khiếu tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành năng
lực và tài năng. Nhưng không phải trẻ nào có năng khiếu cũng
là thiên tài. Một học sinh có năng khiếu đối với hoạt động nào
đó không nhất thiết sẽ trở thành tài năng trong lĩnh vực ấy và
ngược lại.
Trong hoạt động sư phạm, người ta đã tổng kết được những
phương pháp chọn lọc ban đầu về năng khiếu của học sinh, như:


 Quan sát hoạt động của học sinh trong Nhà trường.
 Dựa vào điểm số học tập. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh
rằng học sinh có năng khiếu cao luôn cũng là học sinh khá,
giỏi, thường nhận điểm tốt ở trường.
 Dựa vào ý kiến tiến cử của giáo viên dạy bộ môn. Giáo viên
thường có cơ hội quan sát học sinh trên lớp học trong khi
chúng giải quyết những nhiệm vụ khác nhau, và nhờ đó ở họ
hình thành nên ý kiến đánh giá về năng lực của chúng.

 Nhận dạng năng khiếu qua những kỳ thi tuyển chọn vào Đội
văn nghệ Nhà trường. Đây là một phương pháp cần thiết, có
hiệu quả, nhưng cần được tổ chức nghiêm chỉnh, chặt chẽ.
 Nhận dạng năng khiếu dựa vào nguồn thông tin từ cha mẹ.
Cũng là một phương pháp cần nhiều thận trọng khi sử dụng,
vì cha mẹ thường có khuynh hướng đánh giá năng lực, năng
khiếu của con cái cao hơn thực tế.

Trong lĩnh vực âm nhạc (ca hát, biểu diễn ca hát...), cần tìm
những dấu hiệu năng khiếu, tiềm năng âm nhạc như thế nào? Mỗi
năng lực này đòi hỏi những kỹ xảo (sự thành thạo) khác nhau.
Nhưng dẫu sao cũng có thể lọc ra một số dấu hiệu tài năng, thí dụ
tai nghe nhạc, trí nhớ âm nhạc, nhận thức về tiết tấu, bản chất
giọng hát, ưu thế của bàn tay, ngón tay… tùy theo chuyên
ngành. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng dấu hiệu tốt nhất của tài
năng âm nhạc vẫn là những thành tựu hoạt động âm nhạc tốt hoặc
vượt trội, đồng thời có trí tưởng tượng bay bổng, nhạy cảm, tức
là có nhạc cảm vượt trội.
Theo nghiên cứu của nhà tâm lý học Liên Xô B. M Teplov về
năng khiếu âm nhạc gồm các thành phần sau:


 Nhạy cảm điệu thức: nhận ra giai điệu, nhạy cảm nhạc lý,
nhận biết nốt nhạc nhanh, phát hiện sai, đúng của nhạc lý rất
nhanh.
 Khả năng tái hiện thính giác: tái hiện giai điệu bằng tai.
 Nhạy cảm nhịp nhạc: khả năng cảm thụ nhạc theo kiểu vận
động, nhận biết tính biểu cảm cao độ của nhịp nhạc và tái hiện
nó.
=> Như vậy có thể nói rằng năng khiếu âm nhạc là sự cảm
nhận và tiếp thu âm nhạc một cách nhậy bén, có khả năng tái hiện
và sáng tạo âm nhạc trong học tập cũng như biểu diễn.
1.4.2. Năng khiếu ca hát


Một người có năng khiếu, không khuyết tật về giọng, để điều
khiển được giọng hát của mình, với phương pháp luyện tập tốt, thì
mất 900 giờ, nếu mỗi ngày 1 giờ luyện tập thì mất 3 năm. Với các
giọng hát đỉnh cao thì không thể lấy mốc 3 năm mà có khi mất vài
chục năm học tập.
Để đạt được trình độ ca hát bậc Đại học tại học viện Âm nhạc
Quốc gia Việt Nam thì sinh viên mất tổng cộng 8 năm (4 năm Trung
cấp, 4 năm Đại học). Tốt nghiệp bậc Đại học Thanh nhạc học viên
trình bày 8 hoặc 10 ca khúc tùy vào độ khó bao gồm các bài aria, ca
khúc Việt nam, dân ca…
Theo NSƯT Tạ Minh Tâm - Trưởng khoa Thanh nhạc Nhạc viện Thành
phố Hồ Chính Minh:“Năng khiếu ca hát là người có giọng tốt, khoẻ khoắn,
trong trẻo, vang, sáng, không có tật về phát âm, có cảm thụ âm nhạc nhạy bén
(có thể nhắc lại - nghe và lặp lại một giai điệu, đặc biệt là giai điệu khó một


cách dễ dàng), người ta gọi là có trí nhớ âm nhạc tốt”.

Giọng khoẻ khoắn là do buồng hơi, lực hơi, hoạt động cơ bắp tốt của
bộ máy phát âm, thanh đới, cổ họng. Giọng sang sảng, vang, trong trẻo,
chuẩn về cao độ, phát âm, không khuyết tật.
Giọng không được chênh, không bị "phô", không bị lạc giọng, có thể
sai nhạc (do chưa được học nhạc) nhưng không được lạc giọng. Lạc
giọng là do cảm thụ âm thanh không tốt, sự phối hợp giữa thần kinh
thính giác và bộ máy phát âm không tốt.
=> Đó là yếu tố đánh giá người đó có khả năng học âm nhạc dễ dàng
hay không. Những đánh giá đó dành cho các học viên theo học Thanh
nhạc chuyên nghiệp nhưng ta có thể dựa vào đó để chọn lọc các học sinh
có năng khiếu ca hát trong Nhà trường vào đội văn nghệ để luyện tập,
hướng đến đào tạo một cách bài bản, có chất lượng.
1.4.3. Sự cần thiết của âm nhạc đối với
tuổi thơ

Đối với con người Việt Nam nói chung và tuổi thơ Việt Nam nói
riêng, các phẩm chất căn bản như tình yêu thương, lòng căm giận, tính
thủy chung, tinh thần nhân ái bao dung, nghĩa khí, tôn trọng chính
nghĩa và ghét thói gian tà… là những phẩm chất của đạo làm người.
Qua hơn nửa thế kỷ, âm nhạc đã góp phần không nhỏ vào việc hình
thành những phẩm chất cao đẹp cho thế hệ trẻ Việt Nam.
Ngày nay trẻ em ở nước ta đã và đang có rất nhiều điều kiện thuận
lợi để phát triển triển trí thông minh, óc sáng tạo. Vai trò và tác động
của âm nhạc tới quá trình hình thành những phẩm chất của nhân cách
con người đã được khẳng định và đề cao. Ngày nay, sự tiến bộ của
khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại đã làm cho thế giới tinh thần
được nâng cao, nhưng đồng thời cũng dễ tạo ra sự thiếu hụt những giá
trị truyền thống, tính mềm mại, uyển chuyển trong tư duy và tình cảm.
1.5. Yêu cầu cần đạt về năng lực đặc thù và
đóng góp của môn học trong việc hình
thành, phát triển các năng lực đặc thù cho
học sinh

Chương trình môn Âm nhạc tập trung hình thành và phát triển ở học
sinh năng lực âm nhạc, bao gồm các thành phần năng lực sau:
 Thể hiện âm nhạc: biết tái hiện, trình bày hoặc biểu diễn âm nhạc thông
qua các hoạt động hát, chơi nhạc cụ, đọc nhạc với nhiều hình thức và
phong cách.
 Cảm thụ và hiểu biết âm nhạc: biết thưởng thức và cảm nhận những
giá trị nổi bật, những điều sâu sắc và đẹp đẽ của âm nhạc; biết biểu lộ
thái độ và cảm xúc bằng lời nói và ngôn ngữ cơ thể; biết nhận xét và
đánh giá về các phương tiện diễn tả của âm nhạc.
 Ứng dụng và sáng tạo âm nhạc: biết kết hợp và vận dụng kiến thức, kĩ
năng âm nhạc vào thực tiễn; ứng tác và biến tấu, đưa ra những ý tưởng
hoặc sản phẩm âm nhạc hay, độc đáo; hiểu và sử dụng âm nhạc trong các
mối quan hệ với lịch sử, văn hoá và các loại hình nghệ thuật khác.
Yêu cầu cần đạt ở các cấp học
Thành
phần Cấp trung học cơ sở Cấp trung học phổ thông
năng lực

– Biết hát một mình và hát
cùng người khác, thể hiện
– Biết hát một mình và hát cùng
người khác; thể hiện đúng giai
điệu và lời ca, diễn tả được sắc
đúng giai điệu và lời ca, diễn
thái và tình cảm của bài hát, có
tả được sắc thái và tình cảm
kĩ năng hát bè.
của bài hát, biết hát bè đơn
giản. – Đọc nhạc đúng tên nốt, cao độ
Thể hiện
– Đọc nhạc đúng tên nốt, cao và trường độ, thể hiện được tính
âm nhạc
độ và trường độ, thể hiện chất âm nhạc; biết đánh nhịp
một số loại nhịp.
được tính chất âm nhạc; biết
đánh nhịp một số loại nhịp. – Biết chơi nhạc cụ với hình thức
– Biết chơi nhạc cụ một mình độc tấu và hoà tấu, thể hiện
và cùng người khác, thể hiện đúng tiết tấu, giai điệu, hoà âm
đúng tiết tấu, giai điệu và và sắc thái âm nhạc.
hoà âm đơn giản.
Thành
phần Cấp trung học cơ sở Cấp trung học phổ thông
năng lực


– Cảm nhận được vẻ đẹp của – Cảm nhận và đánh giá được vẻ
tác phẩm âm nhạc; cảm nhận đẹp, giá trị nghệ thuật của tác
và phân biệt được các phẩm âm nhạc; cảm nhận và
phương tiện diễn tả của âm phân tích được các phương tiện
nhạc; nhận thức được sự đa diễn tả của âm nhạc và phong
Cảm thụ dạng của thế giới âm nhạc và cách trình diễn; nhận thức được
mối liên hệ giữa âm nhạc với sự đa dạng của thế giới âm nhạc
và hiểu văn hoá, lịch sử, xã hội cùng và mối tương quan giữa âm nhạc
biết âm các loại hình nghệ thuật với các yếu tố lịch sử, văn hoá
nhạc khác. và xã hội.
– Vận động cơ thể phù hợp – Biết biểu lộ thái độ và cảm xúc
với nhịp điệu và tính chất âm âm nhạc thông qua vận động
nhạc; biết chia sẻ cảm xúc hoặc ngôn ngữ cơ thể; biết chia
âm nhạc với người khác. sẻ cảm xúc âm nhạc với người
khác.
– Nhận biết được câu, đoạn – Nhận biết được câu, đoạn
trong bài hát, bản nhạc có trong bài hát, bản nhạc có
hình thức rõ ràng. hình thức rõ ràng.
– Biết nhận xét và đánh giá kĩ – Biết nhận xét và đánh giá kĩ

năng thể hiện âm nhạc. năng thể hiện âm nhạc.
Thành
phần Cấp trung học phổ thông
Cấp trung học cơ sở
năng lực


– Mô phỏng, tái hiện được một – Biết kết hợp và vận dụng kiến
số âm thanh quen thuộc trong thức, kĩ năng âm nhạc vào các hoạt
cuộc sống; biết lặp lại có thay động nghệ thuật; biết ứng tác hoặc
đổi mẫu tiết tấu hoặc giai điệu biến tấu đơn giản.
theo hướng dẫn của giáo viên.
– Biết làm dụng cụ học tập đơn – Biết làm dụng cụ học tập âm
Ứng giản; biết tưởng tượng khi nghe nhạc; biết tưởng tượng khi nghe
dụng và nhạc không lời. nhạc không lời.
sáng tạo –cácCó giá
ý thức bảo vệ và phổ biến
trị âm nhạc truyền
– Biết cách phổ biến kiến thức và kĩ
năng âm nhạc; biết dàn dựng và
âm nhạc thống; biết chia sẻ kiến thức âm biểu diễn các tiết mục âm nhạc với
nhạc với người khác, nhận ra hình thức phù hợp; nhận ra khả
khả năng âm nhạc của bản thân, năng âm nhạc của bản thân, định
bước đầu định hình thị hiếu âm hình thị hiếu âm nhạc, có định
nhạc; biết dàn dựng và biểu hướng nghề nghiệp phù hợp.
diễn các tiết mục âm nhạc với
hình thức phù hợp.

Chương 2

SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC VÀ GIÁO DỤC PHÁT


TRIỂN PHẨM CHẤT, NĂNG LỰC HỌC SINH THCS
2.1. Một số mô hình thực tiễn dạy học phát triển
phẩm chất, năng lực
2.1.1. Mô hình 4 trụ cột giáo dục của UNESCO

Mô hình 4 trụ cột của UNESCO có thể xem như một triết lý
giáo dục của thế kỷ XXI. Đây là mô hình có sự đan xen hòa
quyện giữa phẩm chất và năng lực trong nội dung của từng trụ
cột. Ví dụ các trụ cột "học để làm người", "học để sống chung" là
phẩm chất hay năng lực? – (có cả phẩm chất và năng lực).
Bốn trụ cột giáo dục của
Các nhóm phẩm chất và năng
TT UNESCO
lực tương ứng
(The four pillars of education)

1
know) 
Học để biết (Learning to Phẩm chất trí tuệ
Năng lực nhận thức

Học để làm việc (Learing to Phẩm chất nghề nghiệp


2
do) Năng lực chuyên môn

Học để sống chung (Learning Phẩm chất xã hội


3
to live together) Năng lực xã hội hóa

Học để làm người (Learning Phẩm chất ứng xử


4
to be) Năng lực chủ thể hóa

Bảng 1: Bảng đối chiếu 4 trụ cột giáo dục với các phẩm chất, năng
lực tương ứng
2.1.2. Mô hình ba phẩm chất tám năng lực
của Việt Nam


Trong một dự thảo cho đổi mới về chương trình sách giáo khoa
sau năm 2015. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đưa ra một chương trình
tổng thể gồm ba phẩm chất và tám năng lực như sau. Ba phẩm
chất là: Sống yêu thương, sống tự chủ, sống trách nhiệm.
o Sống yêu thương gồm: Yêu tổ quốc, giữ gìn phát huy truyền
thống, di sản quê hương đất nước, tôn trọng các nền văn hóa trên
thế giới, nhân ái, khoan dung, yêu thiên nhiên.
o Sống tự chủ gồm: Sống trung thực; tự trọng; tự lực; chăm chỉ;
vượt khó; tự hoàn thiện.
o Sống trách nhiệm gồm: Tự nguyện; chấp hành kỷ luật; tuân thủ
pháp luật; bảo vệ nội quy, pháp luật.
Tám năng lực: Gồm có năng lực tự học, năng lực tự gỉai
quyết vấn đề và sáng tạo, năng lực thẩm mỹ, năng lực thể
chất, năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác, năng lực tính toán,
năng lực công nghệ thông tin và truyền thông.

Trên đây là hệ thống phẩm chất, năng lực chung, khái quát, sẽ
được cụ thể hóa trong chương trình sách giáo khoa của từng cấp
học, môn học.

Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo, việc đánh giá mức độ đạt
được các yêu cầu về phẩm chất năng lực của học sinh từng
cấp học được thực hiện thông qua nhận xét các biểu hiện của
học sinh đối với các thành tố tương ứng trong từng phẩm
chất và năng lực.

Vai trò của các môn học đối với phát triển phẩm chất,
năng lực theo các mức độ khác nhau.
Ví dụ trong phát triển năng lực người học. Tất cả các
môn học cần quan tâm và phải đóng góp phát triển các
năng lực chung của học sinh và thể hiện theo các mức độ
như:
+ Mức độ A: Môn học đóng vai trò chủ yếu đối với sự phát
triển năng lực chủ yếu.
+ Mức độ B: Môn học góp phần phát triển năng lực tương
ứng.
+ Mức độ C: Môn học tạo cơ hội phát triển năng lực tương
Bảng 2: Bảng tóm tắt vai trò của các môn học trong hình thành
năng lực học sinh (theo nguồn Bộ GDĐT)
Vai trò của các môn học đối với việc phát triển
năng lực chung của học sinh
Tên môn
học, nhóm
Tự học

Các năng lực chung
Giải quyết VĐ Thẩm Thể Giao Hợp Tính CNTT
môn học và sáng tạo mỹ chất tiếp tác toán và TT
01.Tiếng
Việt, Ngữ A A A C A B C C
văn
02.Ngoại
A A A C A B C B
ngữ
... ... ... ... ... ... ... ... ...
... ... ... ... ... ... ... ... ...
... ... ... ... ... ... ... ... ...

15.Chuyên
A A B B B B B B
đề học tập
2.1.3. Những vận dụng trong dạy học phát
triển phẩm chất, năng lực.
2.1.3.1. Vận dụng qua sử dụng sách giáo
khoa

Mối quan hệ giữa dạy học phát triển phẩm chất, năng lực và
dạy học trước đây ( chú trọng hình thành kiến thức, kỹ năng, thái
độ) được biểu diễn theo sơ đồ sau:
Sơ đồ 2: Sơ đồ phẩm chất và năng lực trong mối quan hệ với các yếu tố tư tưởng,
đạo đức, lối sống và kiến thức, kỹ năng, thái độ.
Theo sơ đồ trên, việc dạy học phát triển phẩm chất, năng lực
người học tuy có khác với dạy học trước đây nhưng có sự kế thừa,
nâng lên từ phương pháp, nội dung dạy học trước đây.

Do vậy, mặc dù đến năm 2018 mới có sách giáo khoa cho
chương trình mới theo khung chương trình tổng thể, nhưng hiện nay
các trường có thể vận dụng được việc dạy học phát triển phẩm chất,
năng lực trên chương trình và sách giáo khoa hiện hành (sách của
chương trình sau năm 2000). Điều đó thực hiện được bởi vì trong
sách giáo khoa tri thức vẫn là tri thức khoa học, chỉ có sự chiếm lĩnh
tri thức và ứng dụng sáng tạo tri thức mới là điều cần thay đổi và
luôn thay đổi.
2.1.3.2. Vận dụng trong góp ý cho dự thảo
chương trình tổng thể và chương trình cụ
thể.

Dạy học phát triển phẩm chất, năng lực người học được xem
như một nội dung giáo dục, một phương pháp giáo dục như
phương pháp dạy học nêu vấn đề, phương pháp dạy học phát huy
tính tích cực của học sinh. Điểm khác nhau giữa các phương
pháp là ở chỗ dạy học phát triển phẩm chất, năng lực người học
có yêu cầu cao hơn, mức độ khó hơn, đòi hỏi người dạy phải có
phẩm chất, năng lực giảng dạy nói chung cao hơn trước đây.
Điều quan trọng hơn cả là nếu so sánh với các quan niệm dạy
học trước đây, việc dạy học phát triển phẩm chất, năng lực sẽ làm
cho việc dạy và việc học được tiếp cận gần hơn, sát hơn với mục
tiêu hình thành và phát triển nhân cách con người.
2.2. Một số phương pháp dạy học và giáo dục phát
triển phẩm chất, năng lực học sinh THCS hiện
nay
2.2.1. Nguyên tắc đề xuất biện pháp

2.2.1.1. Đảm bảo phù hợp với thực tiễn
Trong quá trình thực hiện nội dung, chúng tôi căn cứ từ thực tế
của một số trường THCS trên địa bàn TP. Pleiku tỉnh Gia Lai về
chương trình dạy học, chất lượng giáo viên, cơ sở vật chất, đặc
điểm học sinh… để đề xuất phương pháp dạy học và giáo dục phát
triển phẩm chất, năng lực học sinh thông qua môn Âm nhạc cho
học sinh khối THCS hiện nay.
Muốn có phương pháp dạy học và giáo dục phát triển phẩm
chất, năng lực học sinh trước hết cần có các biện pháp nhằm nâng
cao chất lượng dạy học môn Âm nhạc ở các trường THCS, đồng
thời phải đảm bảo tính khả thi.
2.2.1.2. Đảm bảo tính giáo dục


Mặc dù chủ thể thực hiện các biện pháp là GV và cán bộ
quản lý, nhưng mục đích cuối cùng của nghiên cứu vẫn là
để phục vụ cho mục tiêu giáo dục. Đó là nâng cao chất lượng
học tập của học sinh, phục vụ lợi ích của người học là chính.
Cho nên mọi hoạt động triển khai biện pháp đều không gây
ảnh hưởng xấu đến đời sống, quá trình học tập của học sinh.
2.2.1.3. Đảm bảo tính kế thừa


Các biện pháp được đề xuất nhằm nâng cao chất lượng
dạy học môn Âm nhạc tại trường phải đảm bảo tính hệ
thống, được căn cứ trên chương trình khung của Bộ GD&ĐT
và thực tiễn dạy học môn Âm nhạc của trường THCS, phát
triển dựa trên những kết quả trước đó nhà trường đã đạt
được.
Mặt khác, phải đảm bảo các biện pháp được đề xuất
nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Âm nhạc tại trường
phải mang tính kế thừa, có thể áp dụng đồng bộ, lâu dài cho
môn Âm nhạc nói riêng và nội dung chương trình đào tạo
nói chung của trường THCS trên địa bàn.
2.2.2. Thực trạng công tác dạy học âm nhạc
ở trường THCS hiện nay
2.2.2.1. Ưu điểm

 Hiện nay hầu hết các trường THCS trong cả nước đều có giáo
viên dạy chuyên trách môn âm nhạc. Do vậy, về năng lực chuyên
môn âm nhạc của giáo viên đều có thể đảm nhiệm được chương
trình giảng dạy và làm công tác phong trào ở các trường THCS.
 Về độ tuổi của giáo viên âm nhạc hầu hết là còn trẻ, nên họ có
sức khoẻ tốt, có sức sáng tạo để giảng dạy cũng như thu hút được
học sinh tham gia vào quá trình hoạt động âm nhạc. Sự năng
động, nhiệt tình của giáo viên trong các phong trào văn nghệ ở
các trường PT, qua các đợt Hội diễn văn nghệ ngành Giáo dục
trong tỉnh cho chúng ta thấy họ chính là lực lượng nòng cốt của
các trường PT và đã khẳng định được vị trí, uy tín chuyên môn
trong nhà trường.
2.2.2.1. Ưu điểm


 Trình độ của giáo viên nghệ thuật nói chung, giáo viên âm nhạc nói
riêng đã đạt chuẩn, hầu hết có trình độ đại học do được đào tạo đại
học chính quy tại các trường Nghệ thuật, hoặc được đào tạo chuẩn hóa
từ các hệ tại chức, chuyên tu, liên thông...
 Được sự quan tâm của Bộ Giáo dục và Đào tạo, hiện nay các trường
THCS đều có trang bị đàn Organ để phục vụ cho công tác giảng dạy,
cho nên việc sử dụng nhạc cụ của giáo viên đã được cải thiện hơn
nhiều so với những năm trước đây. Một số giáo viên âm nhạc đã được
tham gia các lớp tập huấn, hoặc tự học, tự nghiên cứu, cũng đã sử
dụng phần mềm âm nhạc vào giảng dạy như: phần mềm Encore; phần
mềm Finale... và đa số giáo viên đã sử dụng giáo án điện tử trong một
số tiết học, bài học...
2.2.2.2. Hạn chế


 Thực tế cho thấy một số giáo viên nhiều tuổi và giáo viên
trước đây không được học đàn phím điện tử, khả năng
chơi đàn còn rất hạn chế để thị phạm mẫu câu nhạc qua
đàn trong khi dạy hát, đặc biệt là rất khó khăn trong vi ệc
thực hiện các chương trình ngoại khóa trong nhà trường.
 Hơn nữa, đội ngũ giáo viên âm nhạc được đào tạo từ nhiều
cơ sở khác nhau, do vậy về trình độ và khả năng từng giáo
viên âm nhạc của các trường không đồng đều, nên cũng có
ảnh hưởng ít nhiều đến chất lượng giảng dạy và làm công
tác phong trào văn hóa, văn nghệ ở các trường phổ thông.
2.2.3. Biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn
Âm nhạc tại một số trường THCS trên địa bàn TP
Pleiku
2.2.3.1. Bồi dưỡng, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của
môn Âm nhạc trong nhà trường trong việc thực hiện chương trình
mới 
Trong những năm gần đây, công tác tuyên truyền, tập huấn bồi dưỡng
giáo viên đã được Bộ GD&ĐT, các cấp quản lý của ngành học có lộ trình và
đang triển khai, nhất là thời điểm chuẩn bị đón đầu cho việc triển khai SGK
phát triển năng lực – CTGDPT mới.
Cần tăng cường công tác truyền thông để đội ngũ CBQL chuyên môn,
nhất là các GV trực tiếp đứng lớp hiểu được sâu sắc ý nghĩa và tầm quan
trọng của việc triển khai SGK theo CTGDPT mới trong bối cảnh hội nhập
toàn diện với khu vực và thế giới; trong sự đối mặt với kỷ nguyên công nghệ
4.0 và trí tuệ thông minh tác động đến mọi lĩnh vực của cuộc sống.
Tiếp tục bồi dưỡng, nâng cao nhận thức cho cán bộ quản lí, giáo viên,
phụ huynh và HS trường THCS về tầm quan trọng của môn Âm nhạc.
Đối với các cấp quản lý


Cần có nhận thức chuyên sâu về chuyên môn nghiệp vụ có
khả năng đánh giá một tiết dạy của GV như th ế nào, đánh giá v ề
công tác chuẩn bị của GV như:
 Soạn giáo án đúng quy định chưa, các nội dung bài dạy có sát
thực không?...
 Đánh giá về nội dung giảng dạy của GV có khoa học và chính
xác không.
 Đánh giá về phương pháp giảng dạy của GV đã phát huy tính
tích cực của HS hay chưa, phương pháp đổi mới giảng dạy
trong mỗi tiết học, khả năng bao quát lớp, sử dụng đồ dùng
dạy học…
 Đánh giá về nghệ thuật sư phạm của giáo viên: tư thế, tác
phong, năng lực, ứng xử sư phạm…
Đối với các cấp quản lý


=> Nắm được những khó khăn và thuận lợi của bộ môn Âm nhạc
tại trường để có đề xuất kiến nghị với các ngành chức năng cấp
trên. Biết thông cảm và chia sẻ với những khó khăn, thuận lợi của
giáo viên. Từ đó có thể tạo điều kiện thuận lợi cho GV âm nhạc
yên tâm giảng dạy mang lại hiệu quả cao, nâng cao được chất
lượng của GV tại trường.
Đội ngũ GV âm nhạc


 Đội ngũ GV âm nhạc trong nhà trường cần tăng
cường giao lưu, học hỏi với các trường trong cụm, để
bổ sung cho nhau những kiến thức, kinh nghiệm trong
giảng dạy, trau dồi nghiệp vụ sư phạm… phấn đấu trở
thành người GV giỏi.
 Luôn cập nhật thông tin hoạt động âm nhạc
thường xuyên ít nhất là ở địa phương và tích cực tham
gia trong các phong trào văn nghệ trong và ngoài
trường.
 GV không ngừng học hỏi nhằm trang bị cho mình
một lượng kiến thức đầy đủ để truyền dạy cho học
sinh. Nhất là phân môn Âm nhạc thường thức.
Đội ngũ GV âm nhạc


o GV cần tìm hiểu kỹ các dạng bài học để truyền dạy cho HS có
hướng giải quyết phù hợp với từng đối tượng học sinh.
o Luân phiên thay đổi hình thức dạy học và sử dụng đồ dùng
dạy học phù hợp với đặc trưng từng bài, từng nội dung để gây
hứng thú cho học sinh.
o Nhiệt tình năng động sáng tạo và linh hoạt, luôn có sự nỗ lực
tìm tòi học hỏi, quyết tâm kiên trì khám phá cái mới, đúc rút
kinh nghiệm sau mỗi tiết dạy.
o GV cần quan tâm, tham mưu đề xuất cho các cấp lãnh đạo về
tình hình dạy học và hoạt động âm nhạc như: đầu tư trang
thiết bị, phương tiện dạy học, tài liệu tham khảo, tham gia các
phong trào văn nghệ của địa phương…
Đối với phụ huynh và học sinh


Các bậc cha mẹ nên tạo điều kiện cho con phát huy năng
khiếu âm nhạc, mua sắm phương tiện học môn âm nhạc cho con
và khuyến khích con tham gia các câu lạc bộ, đội, nhóm của nhà
trường... cần tạo điều kiện cho con em mình tham gia các buổi
tập văn nghệ trong và ngoài nhà trường để các em có cơ hội phát
huy khả năng âm nhạc của mình.
Tóm lại, đội ngũ cán bộ quản lí, giáo viên, phụ huynh và HS
các trường THCS cần có cách nhìn thống nhất về tầm quan trọng
của môn Âm nhạc trong việc giáo dục đạo đức và thẩm mỹ đối
với học sinh.
2.2.3.2. Hiểu rõ chương trình, nội dung dạy học
môn Âm nhạc theo chương trình mới nhằm
thích nghi với điều kiện của trường

* Đối với chương trình cũ
Dạy học âm nhạc THCS gồm 04 phân môn: Nhạc lý; Tập đọc
nhạc; Học hát và Âm nhạc thường thức.
Qua quá trình khảo sát và qua thực nghiệm sư phạm tại
trường, chúng tôi thấy nội dung chương trình dạy học môn âm
nhạc nên có những thay đổi bổ sung để phù hợp với điều kiên địa
phương như sau:
* Đối với chương trình cũ


Thứ nhất: Nên tăng cường cho các em học nhiều về văn hóa
âm nhạc thông qua phân môn âm nhạc thường thức như giới
thiệu, nghe những tác phẩm, thể loại âm nhạc, các nhạc cụ,
phong tục tập quán, lễ hội truyền thống Việt Nam và các châu
lục, qua đó lồng ghép vào giáo dục đạo đức, thẩm mỹ cho các
em để các em có khả năng chắt lọc các loại âm nhạc, văn hóa
độc hại ở môi trường xung quanh mình.
Thứ hai: Giảm bớt các tiết ôn bài hát không cần thiết thay
vào đó là cung cấp cho các em các trang mạng, Website để các
em có thể tự tìm bài hát đã học nghe thêm nhằm tiết kiệm thời
gian ôn để tập trung dạy sâu - rộng các nội dung khác.
* Đối với chương trình cũ


Thứ ba: Tăng cường giới thiệu một số thể loại: dân ca Quan
Họ Bắc Ninh, Ca trù, Hát xoan, Ví dặm Nghệ An, Hò Huế, hát văn,
hát sắc bùa, đặc biệt là dân ca Jarai hoặc Bahnah (đặc trưng vùng
miền)… để hiểu biết về giá trị của văn hóa dân tộc Việt Nam phong
phú và đa dạng nhằm nâng cao tính tự hào dân tộc bồi dưỡng lòng
yêu nước,yêu quê hương, dân tộc mình.
Thứ tư: Tăng cường cho nghe một vài trích đoạn khí nhạc độc
tấu, song tấu…hoặc dàn nhạc thính phòng và trích đoạn thanh
nhạc: hợp xướng, đơn ca… nâng cao khả năng cảm thụ âm nhạc
cho các em, phân biệt được hai thể loại chính yếu của âm nhạc
(Thanh nhạc và khí nhạc), nâng cao thẩm mỹ âm nhạc cho các em,
giúp các em có năng lực thưởng thức âm nhạc một cách tích cực và
chủ động.
* Đối với chương trình cũ


Thứ năm: GV nên cho nghe và phân biệt âm sắc các nhạc cụ
phương Tây và Dân tộc: piano, violon, guitar, accordion, Đàn tranh,
sáo, Bầu, Tơ- Rưng, cồng chiêng…và hiểu được xuất xứ, đặc điểm
và công dụng của chúng.
Thứ sáu: GV nên giới thiệu bằng hình ảnh và âm thanh một số
thể loại bài hát: hát ru, hành khúc, hò, đồng dao, tình ca, hát nghi
lễ…để các em có thêm kiến thức về thể loại âm nhạc.
Thứ bảy: Những tiết có bài đọc thêm và tiết âm nhạc thường
thức, GV nên sưu tầm, bổ sung những bài hát, tác phẩm và tác giả
có liên quan, được đề cập trong các nội dung giảng dạy. Cần nghiên
cứu kỹ phong tục tập quán của các địa phương, những câu chuyện
thú vị có liên quan để tạo sự tò mò, hứng thú của các em.
* Đối với chương trình cũ


Thứ tám: Tăng cường kể những câu chuyện âm nhạc, tác giả,
tác phẩm, tiêu biểu để thông qua đó giáo dục cho các em về đạo
đức, kỹ năng sống, ý chí vươn lên, lòng yêu người…
Thứ chín: Nếu có thể nên sắp xếp lại một số nội dung dạy
học âm nhạc trong chương trình SGK (chương trình cũ) theo
chúng tôi là chưa được hợp lý.
VD1: Phần nhạc lý lớp 6 (Bài 7, tiết 27: Nhạc lý: Những ký hiệu
thường gặp trong bản nhạc: 1. Dấu nối; 2. Dấu luyến;3.Dấu nhắc lại;
4. Dấu quay lại; 5. Khung thay đổi), trong khi đó (bài 1, tiết 1: Học hát
bài: Quốc ca), đã có Dấu nối; Dấu nhắc lại; Khung thay đổi.


 Tiết 2: Học hát bài: “Tiếng chuông và ngọn cờ” cũng có Dấu nhắc
lại; Dấu nối; Dấu luyến; Khung thay đổi.
 Tiết 5: Học hát bài: “Vui bước trên đường xa” lại xuất hiện Dấu
nhắc lại; Dấu luyến; Khung thay đổi.
 Tiết 9: Học hát bài: “Hành khúc tới trường” đã xuất hiện Dấu quay
lại; Dấu nhắc lại…
=> Tóm lại đối với các bài hát chúng ta cần sắp xếp lại cho phù hợp
hơn nhất là về tầm cữ giọng có như thế các em mới tiếp cập một cách
dễ dàng, thuận lợi, tạo sự hứng thú cho các em khi học phân môn này.
* Nội dung giáo dục cụ thể của chương trình môn
học Âm nhạc (chương trình mới) từ bậc Tiểu học
đến THPT

Chương trình được xây dựng theo phương pháp đi từ xác định
chuẩn đầu ra về nhu cầu phát triển của đất nước, nhu cầu nhân lực...để
xác định nội dung, phương pháp giảng dạy. Điểm mới của chương trình
là:
 Không quy định thứ tự tuần học cho từng môn mà chỉ quy định số
tiết mỗi môn cần đạt trong năm. Thời gian học sẽ do từng trường
sắp xếp.
 Chương trình mới không đóng khung trong một bộ sách giáo khoa
mà áp dụng chủ trương “Một chương trình, nhiều bộ sách”. Trong
thời lượng của chương trình cũng dành 2 tuần một năm cho nội
dung giáo dục của địa phương. “Chương trình giữ tính ổn định,
nhưng vẫn sẽ có những điều chỉnh để phù hợp với thực tiễn”.
Hệ thống các môn học của chương trình mới gồm môn
học bắt buộc, môn bắt buộc có phân hóa, môn học tự chọn
và môn học tự chọn bắt buộc. Trong chương trình giáo dục
phổ thông, nội dung môn Âm nhạc được phân chia theo hai
giai đoạn: 
Giai đoạn giáo dục cơ bản (từ lớp 1 đến lớp 9): Nghệ
thuật và Giáo dục thể chất là môn học bắt buộc.
Giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp (từ lớp 10
đến lớp 12): Giáo dục thể chất là môn học bắt buộc, Nghệ
thuật là môn học lựa chọn theo nguyện vọng và định hướng
nghề nghiệp.
Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện lộ trình áp dụng
chương trình mới như sau:


Năm học 2020-2021 đối với lớp 1
Năm học 2021-2022 đối với lớp 2 và lớp 6
Năm học 2022-2023 đối với lớp 3, lớp 7 và lớp 10
Năm học 2023-2024 đối với lớp 4, lớp 8 và lớp 11
Năm học 2024-2025 đối với lớp 5, lớp 9 và lớp 12.
Giáo viên giảng dạy âm nhạc THCS tại các tỉnh cũng phải
nắm bắt được nội dung chương trình âm nhạc các lớp 6, 7, 8, 9;
nắm được phương pháp giảng dạy theo sách giáo viên và sách âm
nhạc mới để áp dụng vào ngay trong giảng dạy.
Nhạc cụ
Tiết tấu × × × × × × × × × × × ×

Giai điệu       × × × × × × × × ×

Hoà âm
Lí thuyết âm nhạc
 

        × × × × × × ×

Kí hiệu âm nhạc và các loại nhịp       × × × × × ×

Một số kiến thức cơ bản khác           × × × × × × ×

Thường thức âm nhạc


Tìm hiểu nhạc cụ × × × × × × × × ×      
Câu chuyện âm nhạc × × × × ×              
Tác giả và tác phẩm       × × × × × ×      
Hình thức biểu diễn và thể loại âm
nhạc       × × × × × × × × ×

Âm nhạc và đời sống           × × × × × × ×


a) Nội dung giáo dục cốt lõi
Lớp
Nội dung
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Hát
Bài hát tuổi học sinh

× × × × × × × × × × × ×
Dân ca Việt Nam × × × × × × × × × × × ×
Bài hát nước ngoài × × × × × × × × × × × ×
Nghe nhạc
Nhạc có lời × × × × × × × × × × × ×
Nhạc không lời × × × × × × × × × × × ×
Đọc nhạc
Giọng Đô trưởng × × × × × × × × ×      
Giọng La thứ           × × × ×      
Giọng Son trưởng, Mi thứ, Pha
                  × × ×
trưởng, Rê thứ
b) Chuyên đề học tập
Nội dung Lớp 10 Lớp 11 Lớp 12

Chuyên đề 10.1: Hệ thống các hợp âm ba, hợp âm bảy của ×    


điệu thức 
Chuyên đề 10.2: Phương pháp xác định giọng và đặt hợp ×    
âm đệm cho ca khúc và bản nhạc

Chuyên đề 10.3: Phương pháp xác định tiết điệu đệm ×    

Chuyên đề 11.1: Kĩ năng biểu diễn thanh nhạc   ×  

Chuyên đề 11.2: Kĩ năng biểu diễn nhạc cụ   ×  

Chuyên đề 11.3: Kĩ năng chỉ huy   ×  

Chuyên đề 12.1: Phần mềm chép nhạc     ×

Chuyên đề 12.2: Phần mềm biên tập âm thanh và thu âm     ×


Chuyên đề 12.3: Phần mềm hoà âm tự động     ×
* Giải thích cách trình bày nội dung giáo
dục trong chương trình môn học

Nội dung cốt lõi của chương trình môn Âm nhạc được xây dựng
theo hai khối: khối phát triển kĩ năng âm nhạc đặc thù và khối kiến
thức âm nhạc phổ thông.
Trong đó các khối phát triển kĩ năng âm nhạc bao gồm các nội
dung học tập như hát, nghe nhạc, đọc nhạc, và nhạc cụ; khối phát
triển các kiến thức âm nhạc phổ thông bao gồm lí thuyết âm nhạc và
thường thức âm nhạc.
Thường thức âm nhạc bao gồm các mạch nội dung như: tìm hiểu
nhạc cụ, câu chuyện âm nhạc, tác giả tác phẩm, hình thức biểu diễn và
thể loại âm nhạc, âm nhạc và đời sống.
Các nội dung quy định bắt buộc được đánh dấu × ; các ô trống chỉ
những nội dung học tập không thực hiện ở từng lớp.
* Định hướng nội dung giáo dục của
chương trình môn học


Trong nội dung giáo dục cốt lõi của chương trình, hát là một nội dung quan
trọng và xuyên suốt chương trình môn Âm nhạc, gồm: bài hát tuổi học sinh,
dân ca Việt Nam, bài hát nước ngoài. Hợp xướng được học ở trường trung
học phổ thông.
Nghe nhạc là một hoạt động phổ biến trong giáo dục âm nhạc, gồm: nghe
nhạc không lời, nghe nhạc có lời.
Đọc nhạc gồm các nội dung: các mẫu âm ngắn, đơn giản, dễ đọc, âm vực
phù hợp với độ tuổi ở giọng Đô trưởng, bài luyện tập cơ bản về quãng, về tiết
tấu, bài đọc nhạc ở giọng Đô trưởng, kết hợp giọng Đô trưởng và La thứ,...
Nhạc cụ tiết tấu được thực hiện đại trà với tất cả học sinh, nhà trường có
thể lựa chọn dạy học nhạc cụ tiết tấu bằng: nhạc cụ gõ Việt Nam, nhạc cụ gõ
nước ngoài, bộ gõ cơ thể hoặc nhạc cụ tự làm. Nhạc cụ giai điệu là nội dung
không bắt buộc, khuyến khích các trường thực hiện khi đủ điều kiện về thiết bị
dạy học, năng lực của giáo viên,...

Lí thuyết âm nhạc là những kiến thức cơ bản, phổ thông và
mang tính ứng dụng, làm nền tảng cho các hoạt động thực hành
âm nhạc, gồm các nội dung: kí hiệu âm nhạc và các loại nhịp,
một số kiến thức cơ bản khác. Lí thuyết âm nhạc không học tách
biệt mà được tích hợp trong các nội dung hát, nhạc cụ, đọc nhạc.
Thường thức âm nhạc gồm: tìm hiểu nhạc cụ, câu chuyện âm
nhạc, tác giả và tác phẩm, hình thức biểu diễn và thể loại âm
nhạc, âm nhạc và đời sống. Các nội dung được bố trí dạy học phù
hợp với khả năng nhận thức và năng lực của học sinh trong từng
cấp học.
2.2.3.3. Bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên
môn cho đội ngũ GV môn Âm nhạc

 Tăng cường bồi dưỡng các phân môn như: Đàn, thanh nhạc,
nhạc lý, âm nhạc thường thức, phương pháp giảng dạy âm
nhạc, kỹ năng dàn dựng chương trình nghệ thuật…
 Giới thiệu, triển khai sử dụng các công trình nghiên cứu khoa
học, sáng kiến kinh nghiệm về môn âm nhạc hàng năm cho
toàn thể GV âm nhạc ở địa phương để ứng dụng vào thực tiễn
giảng dạy.
 Hướng dẫn, xây dựng cho GV hình thức tự bồi dưỡng bằng
cách hình thành các cụm trường gần nhau để tự bồi dưỡng
thường xuyên theo mô hình phương pháp dạy học theo dự án.
 Tăng cường sinh hoạt chuyên môn ngành hẹp để đổi mới
phương pháp có hiệu quả
2.2.3.3. Bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên
môn cho đội ngũ GV môn Âm nhạc


 Khuyến khích, hướng dẫn các GV nên thành lập và sử dụng các trang
mạng xã hội vào học tập nghiên cứu như (Zalo, Facebook…) để trao
dồi chia sẽ với nhau về chuyên môn: Văn bản nhạc, file âm thanh - hình
ảnh, thông tin mới cập nhật, phương pháp giảng dạy mới… để giúp
nhau trong giảng dạy, cùng học cùng tiến bộ trong chuyên môn nghiệp
vụ.
 Về tài liệu giảng dạy GV cần có đầy đủ giáo trình, sách giáo khoa
theo quy định, tăng cường sưu tầm, nghiên cứu các tài liệu
nghiệp vụ để bổ sung kiến thức về con người, tự nhiên, xã hội có
liên quan đến bài giảng.
 Áp dụng công nghệ thông tin, một việc làm cấp bách hiện nay
đối với giáo viên âm nhạc THCS
 Tập huấn thường xuyên cho giáo viên âm nhạc THCS đ ể nâng
cao trình độ chuyên môn
=> Tóm lại, điều quan trọng theo chúng tôi là:
Người giáo viên âm nhạc phải luôn nghiên cứu để tìm ra
phương pháp phù hợp với từng nội dung tiết học.


Muốn nâng cao được chất lượng giảng dạy thì “người dạy
phải biết cách dạy” và “người học phải biết cách học”, cả thầy
và trò luôn phải nghiên cứu, tìm tòi để tìm ra cách dạy - học sao
cho đạt kết quả tốt nhất, hiệu quả nhất.
Đặc biệt đối với giảng dạy âm nhạc, tố chất “bẩm sinh”, cái
mà người ta gọi là năng khiếu “trời cho” không phải ở người nào
cũng có những năng khiếu đặc biệt này.
=> Cho nên, giáo viên âm nhạc luôn luôn phải suy nghĩ, trăn
trở, tìm ra những phương pháp tối ưu, hiệu quả nhất để dạy - học
âm nhạc đạt được những yêu cầu và mục tiêu đề ra đối với từng
phân môn âm nhạc.
2.2.3.4. Phát huy tính tích cực học tập của
HS trong quá trình dạy học


GV cần kết hợp một cách sáng tạo, nhuần nhuyễn các phương pháp
dạy học khác nhau cùng với việc sử dụng thiết bị dạy học, đảm bảo vừa
đạt mục tiêu dạy học vừa phù hợp với đối tượng và điều kiện của từng
trường.
Tăng cường thực hành âm nhạc theo hình thức tổ, nhóm, cá nhân, chú
trọng về yêu cầu bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng, hình thành năng lực cảm
thụ âm nhạc, phát huy tính tích cực học tập của học sinh.
Ngoài học tập trên lớp, GV cần tổ chức cho HS học tập, thực hành ở
ngoài trường, tham quan, tìm hiểu các công trình văn hóa, sưu tầm vốn âm
nhạc dân gian ở địa phương, tổ chức cho HS đi xem hoặc mời các nghệ sĩ
đến trường nói chuyện, biểu diễn… Khuyến khích HS tự tin, tự giác tham
gia các hoạt động văn hóa, văn nghệ ở trong và ngoài nhà trường.
2.2.3.5. Đổi mới phương pháp dạy học phát huy tích
cực của HS trong dạy học môn âm nhạc tại trường.


Đổi mới việc thiết kế và chuẩn bị bài dạy học; cải tiến các
PPDH truyền thống; kết hợp đa dạng các phương pháp dạy học;
vận dụng dạy học giải quyết vấn đề; vận dụng dạy học theo tình
huống; tăng cường sử dụng phương tiện dạy học và công nghệ
thông tin trong dạy học môn âm nhạc; sử dụng các kỹ thuật dạy
học phát huy tính tích cực tư duy, sáng tạo; tăng cường các
phương pháp dạy học đặc thù bộ môn; bồi dưỡng phương pháp
học tập cho HS.
Ví dụ:
Phương pháp đặt câu hỏi - một phương pháp kiểm tra nhận thức
của học sinh.


Theo Bloom nhà giáo dục học của Mỹ, câu hỏi có các dạng sau:
Biết, hiểu, áp dụng, phân tích, tổng hợp, đánh giá... Tùy từng nội
dụng cụ thể mà giáo viên đưa ra các dạng câu hỏi cho phù hợp. Câu
hỏi là cách thức để kiểm tra sự hiểu biết, kiểm tra tri thức và đánh giá
tri thức của học sinh. Song câu hỏi đưa ra mà khó hiểu, không phù
hợp thì không những giáo viên không nhận được câu trả lời như
mong muốn và có thể có những tác dụng ngược lại. Do vậy khi đặt
câu hỏi giáo viên phải nắm được kỹ năng đặt câu hỏi, phải nắm được
trình độ, đặc điểm tâm, sinh lý lứa tuổi và phải có nghệ thuật đặt câu
hỏi để cho học sinh trả lời theo đúng trọng tâm của câu hỏi và nội
dung bài học.
Phương pháp dạy học theo nhóm: đây là phương pháp phát
huy được tính tích cực, tự giác cao, kiểm tra được nhận thức của
sinh viên cao nhất và phát huy tính sáng tạo tối đa của học sinh


Nội dung dạy hát chúng ta vẫn thường theo quy trình: giới
thiệu bài hát, cho học sinh nghe bài hát, chia đoạn chia câu để
hát, luyện thanh khởi động giọng, tập hát từng câu, tập hát cả
bài... nhưng khi áp dụng vào một số bài hát mà học sinh đã thuộc,
đã từng được nghe và đã có thể thâm nhập được bài hát.
Nội dung dạy nhạc lý, việc áp dụng phương pháp dạy theo
nhóm nhỏ sẽ giúp cho học sinh nắm chắc được những khái niệm,
nội dung, kiến thức của nhạc lý. Học sinh sẽ có mối liên hệ với
những kiến thức âm nhạc ở các bài hát, bài tập đọc nhạc, kiến
thức nhạc lý qua âm thanh một cách tích cực và sáng tạo
Đối với nội dung tập đọc nhạc, phương pháp này sẽ giúp cho
học sinh luyện tập được nhiều hơn, phát huy được khả năng tự
học, tự rèn, tự ghi nhớ độ cao, tiết tấu và khả năng tự ghép nhạc
của học sinh một cách tích cực và hiệu quả.

Nội dung âm nhạc thường thức, đây là nội dung mang tính
chất mở nhằm phát huy khả năng cảm thụ âm nhạc cho học sinh.
Phương pháp dạy học theo nhóm sẽ giúp cho học sinh phát
biểu cảm nhận hình tượng âm nhạc, tác phẩm, thể loại âm nhạc...
một cách độc lập theo chủ quan, học sinh sẽ được tập trình bày
vấn đề theo ý kiến của cá nhân và sẽ có được thói quen tiếp xúc
với lý luận âm nhạc.
Kết hợp đa dạng các hình thức tổ chức dạy học môn Âm
nhạc: Hình thức tổ chức dạy học môn Âm nhạc gồm các giai
đoạn:
Bảng 3: Các giai đoạn hình thức tổ chức dạy học môn Âm nhạc

Giai đoạn

Hoạt động của GV và học sinh
Tìm hiểu, gợi lại hiểu biết và kinh nghiệm của HS về
Khám phá những việc hoặc sự kiện đã diễn ra, điều đã học.
Giới thiệu kiến thức, thông tin mới và các kĩ năng liên
Kết nối quan.

Các hoạt động theo yêu cầu thực hành kĩ năng mới,
dưới sự hướng dẫn và xử lí, phân tích của GV để HS tự
Thực hành suy nghĩ, phản ánh.

Áp dụng các kĩ năng mới học được trong và ngoài lớp,


liên kết với các tình huống thực trong cuộc sống, trong
Áp dụng đó có sự tương tác với bạn bè, gia đình, cộng đồng...
Những biểu hiện về cách tổ chức dạy học theo quan điểm
"GV làm trung tâm" và "HS làm trung tâm".
Bảng 4: Những biểu hiện về cách tổ chức dạy học


GV làm trung tâm HS làm trung tâm
- Phần thảo luận của HS tương đương
- GV thuyết trình nhiều hơn học sinh. hoặc
nhiều hơn phần thuyết trình của GV
(GV
chỉ định hướng và hướng dẫn).
- Sử dụng nhiều tài liệu và phương tiện
- GV chủ yếu là nói, viết, diễn giải dạy
theo sách giáo khoa. học phong phú, đa dạng.
- Bàn ghế của HS được sắp xếp theo
- Bàn ghế của HS thường được sắp xếp hình
thức hỗ trợ linh hoạt cho hoạt động của
đối diện với bảng và giáo viên. các
- Chủ yếu là ngồi một chỗ, ít quan sát , em.
- HS có thể tự do đi lại khi đang học
ít di chuyển. Không cho HS di chuyển. trong
những trường hợp cần thiết.

=> GV cần chú ý trong quá trình tổ chức dạy học, chỉ nên
chọn cách dạy phù hợp với năng lực âm nhạc và cách áp dụng
những kỹ thuật mà mình đã thành thục. Tránh vận dụng những
điều mới biết nửa vời, điều đó sẽ làm tiết học trở nên rắc rối,
không thể kiểm soát được.
Tăng cường hiệu quả dạy thực hành âm nhạc
hướng tới sự tích cực học tập của học sinh


Trong quá trình thực nghiệm tại trường THCS chúng tôi đã
chọn các Phương pháp dạy học sau: Phương pháp dạy học nhóm;
Phương pháp dạy học giải quyết vấn đề; Phương pháp dạy học
theo dự án; Phương pháp dạy học Webquest – Khám phá trên
mạng; Phương pháp trình diễn.
Nhìn chung các phương pháp dạy học trên đều tạo được sự hứng
thú, phát huy tính tích cực trong học tập của HS trong quá trình dạy
học thực nghiệm tại trường. Với điều kiện hiện có của nhà trường,
việc thực hiện các phương pháp dạy học này trong tương lai là rất
khả thi và hiệu quả.
Thành lập câu lạc bộ âm nhạc ở trường phổ thông
Các trường phổ thông cần phải có những điều kiện tốt thì câu
lạc bộ âm nhạc mới được tồn tại và phát triển theo đúng nghĩa của
nó như:

 Các trường phổ thông cần phải chọn địa điểm thích hợp hoặc
phải tạo được cảnh quan như: hòn non bộ, cây cảnh, các loại
tranh ảnh và phải có không khí thoáng mát...để mở câu lạc bộ.
 Trang trí trong câu lạc bộ phải phù hợp, đẹp mắt và hợp lý
mang tính chất của hoạt động âm nhạc.
 Chọn người có khả năng quản lý tốt và am hiểu về âm nhạc
để tổ chức điều hành câu lạc bộ.
 Không ngừng cải tiến phương pháp để có bài giảng hay, hấp
dẫn và sinh động.
Hoàn thiện phương tiện dạy học môn Âm nhạc


Muốn đổi mới phương pháp thì điều đầu tiên cần quan tâm
đến đó là điều kiện cơ sở vật chất phục vụ nó. Có thể nói trong
những năm qua, được sự quan tâm của Bộ Giáo dục và Đào tạo;
các ngành chức năng có liên quan đã trang bị cho bộ môn âm
nhạc các trang thiết bị cần thiết như: đàn Organ, nhạc cụ gõ đệm,
tranh ảnh... Phải trang bị dần từng bước và ngay cả các trường
cũng cần quan tâm để trang thiết bị dạy học âm nhạc nhanh
chóng được hoàn thiện đáp ứng yêu cầu hiện nay.
2.3. Cách thức đánh giá môn Âm nhạc ở
các cấp THCS và THPT


Đánh giá kết quả giáo dục trong môn Âm nhạc nhằm cung
cấp thông tin chính xác, kịp thời, có giá trị về mức độ đáp ứng
yêu cầu cần đạt của chương trình và sự tiến bộ của học sinh;
hướng dẫn, điều chỉnh hoạt động dạy học, quản lí và phát triển
chương trình để nâng cao chất lượng giáo dục âm nhạc.
Đánh giá môn âm nhạc được thực hiện ở các hình
thức sau:

Đánh giá chẩn đoán: sử dụng vào đầu giai đoạn dạy học,
nhằm giúp giáo viên thu thập những thông tin về kiến thức và kĩ
năng âm nhạc của từng học sinh, cũng như những điểm mạnh,
những nhu cầu của học sinh, từ đó xây dựng kế hoạch và phương
pháp giáo dục thích hợp.
Đánh giá thường xuyên và đánh giá định kì


 Đánh giá thường xuyên (đánh giá quá trình): bao gồm đánh giá
chính thức thông qua các hoạt động thực hành, luyện tập, biểu diễn
hoặc sáng tạo âm nhạc, dùng bài kiểm tra giấy kết hợp âm thanh,
câu hỏi trắc nghiệm khách quan, viết tiểu luận hoặc báo cáo,...; và
đánh giá không chính thức như: tìm hiểu hồ sơ học tập, quan sát
trên lớp, đối thoại, học sinh tự đánh giá hoặc đánh giá đồng đẳng,...
 Đánh giá định kì (đánh giá tổng kết): sử dụng ở cuối học kì, cuối
năm học, cuối cấp học nhằm phối hợp với đánh giá thường xuyên
cung cấp thông tin để phân loại học sinh và điều chỉnh nội dung,
phương pháp giáo dục.
Đánh giá định tính và đánh giá định lượng


 Đánh giá định tính: kết quả học tập được mô tả bằng lời
nhận xét hoặc biểu thị bằng các chữ cái. Học sinh sử dụng
hình thức này để tự đánh giá sau khi kết thúc mỗi nội dung,
mỗi chủ đề; giáo viên sử dụng để đánh giá chẩn đoán và đánh
giá thường xuyên không chính thức. Đánh giá định tính được
sử dụng chủ yếu ở cấp tiểu học.
 Đánh giá định lượng: kết quả học tập được biểu thị bằng
điểm số. Đánh giá định lượng được sử dụng chủ yếu ở cấp
trung học cơ sở và trung học phổ thông, bảo đảm quan điểm
phân hoá dần ở các lớp học trên.
Thực hiện các hình thức đánh giá như sau:

Hình thức đánh


Thời điểm thực hiện Người thực hiện
giá

Đánh giá chẩn
Đầu giai đoạn dạy học Giáo viên
đoán

Đánh giá thường


Trong suốt quá trình dạy học Giáo viên
xuyên

Cuối học kì I và cuối năm Giáo viên và nhà


Đánh giá định kì
học trường

Trong điều kiện lớp học đông học sinh, việc đánh giá từng em sẽ
khó khăn. Vì vậy, cần phát huy việc đánh giá các nhiệm vụ theo
nhóm. Khi học sinh thực hiện nhiệm vụ, giáo viên quan sát đánh giá
sự tiến bộ chung của cả nhóm chú ý các em chưa làm tốt thì có thể
tách ra và cho học sinh này thực hiện lại nhằm giúp đỡ học sinh này
khắc phục các khó khăn, hạn chế.
Đối với các lớp bậc THCS, theo chương trình giáo dục Âm nhạc
mới không học lí thuyết âm nhạc như một phân môn hay mạch nội
dung riêng mà tích hợp trong các hoạt động thực hành. Vì vậy, giáo
viên có thể khéo léo đặt các câu hỏi (miệng) để kiểm tra hiểu biết của
học sinh về tính ứng dụng của các khái niệm hay kí hiệu âm nhạc có
liên quan trực tiếp đến bài thực hành mà học sinh được kiểm tra.
2.4. Soạn một bài học theo theo phương pháp
dạy học tích cực thì cần lưu ý điều gì ?



Thứ nhất, lựa chọn nội dung thích hợp.
Những kiến thức có vấn đề để suy nghĩ tích cực thường không
phải là loại trả lời câu hỏi “ Cái gì ?” mà là loại trả lời câu hỏi câu
hỏi “ Vì sao ?”, “ Như thế nào ?”, và có nhiều ý nghĩa về lý luận
thực tiễn. Thường thì loại kiến thức lý thuyết thuận lợi hơn cho việc
giảng dạy theo phương pháp tích cực hơn là loại kiến thức sự kiện.
 Thứ hai, xác định nhiệm vụ nhận thức.
Trước đây chúng ta thường xác định mục tiêu, yêu cầu của bài
học một cách chung chung, vì vậy không thể dựa vào đó để đánh giá
chất lượng, hiệu quả dạy và học. Cần chuyển sang cách xác định
mục tiêu của bài học càng cụ thể càng tốt, phát biểu rõ những tiêu
chí làm căn cứ cho việc triển khai và đánh giá sự thực hiện trên lớp.
Viết mục tiêu bài học phải tuân theo những
quy tắc sau:

 Mục tiêu phải định rõ mức độ hoàn thành công việc của học
sinh.
 Mục tiêu phải nói rõ “đầu ra” của bài học chứ không phải tiến
trình bài học.
 Mục tiêu không phải đơn thuần là chủ đề của bài học mà là
cái đích bài học cần đạt được.
 Mỗi mục tiêu chỉ nên phản ánh một đầu ra để thuận tiện cho
việc đánh giá kết quả bài học.
 Mỗi đầu ra trong mục tiêu phải được diễn đạt bằng một động
từ được lựa chọn để xác định rõ mức độ học sinh phải đạt
được bằng hành động.
Mục tiêu bài học



Được xác định cho người học: Sau khi học xong học sinh phải đạt
được kiến thức, kỹ năng, thái độ gì ? Học sinh làm được gì ?
• Được viết bằng ngôn ngữ dễ hiểu, phù hợp.
• Phải cụ thể, có thể quan sát được, thống kê được, học sinh có thể đạt
được và giáo viên có thể đánh giá được sau khi học xong bài.
• Khi xác định mục tiêu về kiến thức có thể sử dụng các động từ như:
sắp xếp, liệt kê, mô tả, định nghĩa….
• Về kỹ năng có những động từ như: tính toán, phân loại, nhận dạng,
vẽ…
• Về thái độ có những động từ như: phản đối, hưởng ứng, bảo vệ, có
ý thức….
Để có một bài soạn tốt, cần theo theo quy
trình như thế nào ?

Mỗi môn học, mỗi loại bài có những đặc trưng riêng về các
bước soạn giáo án, nhưng có thể hình dung các bước cơ bản để
soạn một giáo án như sau:
* Xác định mục tiêu bài học: Mục tiêu được thể hiện bằng
các động từ có thể lượng hóa được với 3 mức độ: Biết, Hiểu, Vận
dụng. Phải đối chiếu với mặt bằng trình độ của học sinh để quyết
định thứ bậc cụ thể của mục tiêu.
* Xác định công việc chuẩn bị của giáo viên và học sinh:
Giáo viên và học sinh cần chuẩn bị những đồ dùng dạy học cần
cho bài học.
* Thiết kế các hoạt động dạy - học cụ thể


- Lựa chọn các phương pháp dạy học sao cho đơn giản, phù hợp
- Thiết kế các hoạt động của giáo viên và học sinh ở trên lớp. Mỗi
bài học có thể chia ra thành một số hoạt động nhất định nối tiếp nhau
và có thể được phân thành:
+ Hoạt động khởi động: Là hoạt động tổ chức lớp và đặt vấn đề
cho bài mới, mục mới ...
+ Hoạt động giải quyết vấn đề: Bao gồm những hoạt động nhằm
đạt được mục tiêu của bài học.
+ Hoạt động tổng kết và vận dụng những kiến thức thu được.
+ Hoạt động đánh giá kết quả bài học: Kết hợp đánh giá của giáo
viên với tự đánh giá của học sinh và cần phải: bám sát mục tiêu, đảm
bảo được nhiều học sinh và đảm bảo thời gian.
PHẦN KẾT LUẬN


Dạy học phát triển phẩm chất, năng lực người học được xem như
một nội dung giáo dục, một phương pháp giáo dục như phương pháp
dạy học nêu vấn đề, phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của
học sinh.
Điều quan trọng hơn cả là nếu so sánh với các quan niệm dạy học
trước đây, việc dạy học phát triển phẩm chất, năng lực sẽ làm cho việc
dạy và việc học được tiếp cận gần hơn, sát hơn với mục tiêu hình thành
và phát triển nhân cách con người.
Trong bối cảnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam, với
vai trò là bậc học cơ sở chúng ta cần quan tâm, đầu tư hơn nữa cho
công tác giáo dục nghệ thuật nói chung và dạy học âm nhạc nói riêng ở
bậc THCS để đáp ứng các nhiệm vụ giáo dục của bậc học.

You might also like