You are on page 1of 457

CỤC VĂN THƢ VÀ LƢU TRỮ NHÀ NƢỚC

TRUNG TÂM LƢU TRỮ QUỐC GIA III

ĐIỆN BIÊN PHỦ


MỘT THIÊN SỬ VÀNG

Nhà xuất bản


1
CHỊU TRÁCH NHIỆM CÔNG BỐ
TS. VŨ THỊ MINH HƢƠNG
Cục trƣởng Cục Văn thƣ và Lƣu trữ Nhà nƣớc

BAN BIÊN SOẠN

ThS. VŨ XUÂN HƢỞNG Trƣởng ban


Giám đốc Trung tâm Lƣu trữ quốc gia III
ThS. NGUYỄN MINH SƠN Phó Trƣởng ban
Phó Giám đốc Trung tâm Lƣu trữ quốc gia III
ThS. MAI THỊ XUÂN Ủy viên
Phó Giám đốc Trung tâm Lƣu trữ quốc gia III
ThS. NGUYỄN THỊ NGỌC DIỆP Thƣ ký
Trƣởng phòng Công bố và Giới thiệu tài liệu

CÁC THÀNH VIÊN THAM GIA THỰC HIỆN

VŨ THỊ LAN ANH


LÊ THỊ LÝ
NGUYỄN LAN PHƢƠNG
TẠ VĂN THUẬN
TRẦN THỊ THÖY LAN
NGÔ THỊ MAI
PHẠM THỊ THANH
NGUYỄN THẾ ANH
NGUYỄN THỊ MINH LÝ

2
LỜI GIỚI THIỆU

Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công chƣa đƣợc bao lâu, quân
Pháp quay lại nổ súng gây chiến tại Nam Bộ với quyết tâm cƣớp nƣớc ta một lần
nữa, buộc nhân dân ta phải đứng lên chiến đấu bảo vệ nền độc lập.
Đến cuối năm 1953, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lƣợc của
nhân dân Việt Nam đã bƣớc sang năm thứ 8. Trên khắp các chiến trƣờng, quân
đội Việt Nam dồn dập phản công quyết liệt, buộc đối phƣơng phải phân tán lực
lƣợng, bị động đối phó.
Nhận rõ ý đồ chiến lƣợc của Việt Nam, Bộ chỉ huy quân đội Pháp ra sức
tập trung quân, xây dựng lòng chảo Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm
mạnh nhất Đông Dƣơng, nhằm thu hút chủ lực của quân đội Việt Nam vào cuộc
chiến.
Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng Lao động Việt Nam nhận
định, đây là thời cơ để tiêu diệt sinh lực địch. Bộ chỉ huy Quân đội Việt Nam
quyết định mở chiến dịch tấn công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Chủ tịch Hồ
Chí Minh chỉ thị: “ Chiến dịch này là một chiến dịch rất quan trọng, không
những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nƣớc mà đối
với quốc tế. Vì vậy, toàn quân, toàn dân, toàn Đảng phải tập trung hoàn thành
cho kỳ đƣợc”.
Ngày 13/3/1954, Chiến dịch Điện Biên Phủ bắt đầu. Sau 56 ngày đêm
chiến đấu gian khổ, tới ngày 7/5/1954, ta đã hoàn toàn chiến thắng. Từ đây, Điện
Biên trở thành một địa danh chói sáng, một bản hùng ca vẻ vang và oanh liệt của
dân tộc Việt Nam.
“Chín năm làm một Điện Biên
Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng”
(Tố Hữu)
Chiến thắng Điện Biên Phủ đã kết thúc cuộc kháng chiến vĩ đại của nhân
dân ta chống thực dân Pháp xâm lƣợc, là tác nhân quan trọng đƣa đến việc ký
Hiệp định Giơ-ne-vơ ngày 21/7/1954, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Chiến thắng

3
Điện Biên Phủ không chỉ cổ vũ nhân dân Việt Nam mà còn là khâu đột phá mở
đầu, cổ vũ các dân tộc ở các nƣớc thuộc địa trên thế giới đứng lên giành độc lập.
Nhằm tích cực phát huy giá trị của tài liệu lƣu trữ, cung cấp cho độc giả
những thông tin mang tính khách quan và chân thực, Trung tâm Lƣu trữ quốc gia
III đã tổ chức biên soạn sách “Điện Biên Phủ - Một thiên sử vàng”. Hàng trăm
tài liệu, hình ảnh đƣợc chọn lọc từ các phông Phủ Thủ tƣớng, Bộ Ngoại giao, Bộ
Lao động, Nha Giao thông, Ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu III, … đã
phản ánh cụ thể và sinh động sự lãnh đạo tài tình, những quyết sách chiến lƣợc
nhạy bén của Đảng, của Chính phủ và Quân đội Nhân dân Việt Nam, những năm
tháng chiến đấu, hy sinh oanh liệt, hào hùng của hàng nghìn chiến sĩ, hàng vạn
dân công cũng nhƣ sự đóng góp vô cùng to lớn của nhân dân cho chiến dịch
Điện Biên Phủ nói chung.
Công bố giới thiệu những tài liệu này, Ban Biên soạn sách “Điện Biên Phủ
- Một thiên sử vàng” hi vọng sẽ đem đến cho bạn đọc những thông tin về cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp, về Chiến dịch Điện Biên Phủ bằng những số
liệu cụ thể, những báo cáo chi tiết, những hình ảnh chân thực. Cuốn sách có độ
dài gần 500 trang, bố cục thành 2 phần. Phần 1: Tài liệu lãnh đạo, chỉ đạo của
Đảng và Chính phủ về Chiến dịch Điện Biên Phủ. Phần này gồm những tài liệu
liên quan gián tiếp hoặc trực tiếp tới việc chuẩn bị và tổ chức Chiến dịch. Phần
2: Chiến dịch Điện biên Phủ - Diễn biến và kết quả, gồm những tài liệu, hình ảnh
một số sự kiện theo diễn biến Chiến dịch, những kết quả trong và sau Chiến dịch
mà ta thu đƣợc.
Sau đây, xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc!

BAN BIÊN SOẠN

4
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

GTCC Giao thông công chính


HĐCCMTTW Hội đồng cung cấp Mặt trận Trung ƣơng
HĐCCTW Hội đồng cung cấp Trung ƣơng
LKVB Liên khu Việt Bắc
TNXP Thanh niên xung phong
UBKCHC Ủy ban kháng chiến hành chính
VTĐ Vô tuyến điện

5
PHẦN I
TÀI LIỆU LÃNH ĐẠO, CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG VÀ
CHÍNH PHỦ VỀ CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ

6
Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân dịp kỷ niệm Cách mạng
tháng Tám và Ngày Độc lập, 02/9/1953.

7
LỜI KÊU GỌI
CỦA HỒ CHỦ TỊCH
NHÂN DỊP KỶ NIỆM CÁCH MẠNG THÁNG TÁM VÀ
NGÀY ĐỘC LẬP

CÙNG TOÀN THỂ ĐỒNG BÀO


CÙNG TOÀN THỂ CHIẾN SĨ VÀ CÁN BỘ
Hôm nay chúng ta vui vẻ kỷ niệm Cách mạng tháng 8 và ngày Độc Lập.
Độc lập này là do 80 năm phấn đấu oanh liệt của nhân dân ta mà tranh
đƣợc.
Độc lập này là do 8 năm anh dũng kháng chiến của nhân dân ta mà giữ
vững.
Suốt gần một thế kỷ, đế quốc và phong kiến kìm hãm nhân dân ta trong
địa ngục nô lệ. Chúng tƣởng đã tiêu diệt hết tinh thần yêu nƣớc của nhân dân ta.
Nhƣng chúng đã lầm to. Trong thì nhờ khối đoàn kết chặt chẽ và đấu tranh anh
dũng của nhân dân ta; ngoài thì nhờ Liên Xô đã đánh thắng đế quốc Nhật, nên
Cách mạng tháng 8 đã thành công, nƣớc ta đã thống nhất và độc lập.
Nhƣng bọn đế quốc cƣớp nƣớc và lũ Việt gian bán nƣớc “chết mà nết
không chừa” gây ra chiến tranh, hòng đặt lại nền thống trị của chúng ở nƣớc ta.
Trƣớc hành động xâm lƣợc đó, Đảng và Chính phủ kiên quyết lãnh đạo và đoàn
kết nhân dân kháng chiến đến cùng, tiếp tục sự nghiệp vẻ vang của Cách mạng
tháng 8, giữ vững thống nhất và độc lập của Tổ quốc.
Kiểm điểm lại mấy năm kháng chiến vừa qua, chúng ta thấy rõ: thế ta
ngày càng mạnh, thế địch ngày càng yếu.
VỀ TA. - Khi bắt đầu kháng chiến, nhân dân ta tinh thần thì rất hăng hái,
nhƣng vật chất thì rất thiếu thốn. Giặc thì ào ạt tấn công. Ta thì phải giữ thế thủ.
Tuy hoàn cảnh rất khó khăn, Đảng và Chính phủ đã trông xa thấy rộng, đã đề ra

8
khẩu hiệu: Kháng chiến nhất định thắng lợi, nhưng phải trường kỳ gian khổ, tự
lực cánh sinh.
Sự thực đã chứng tỏ chính sách của Đảng và Chính phủ rất đúng: càng trải
nhiều thử thách, thì tinh thần nhân dân và quân đội ta càng mạnh mẽ, lực lƣợng
vật chất ta ngày càng lớn mạnh. Từ cuối năm 1950, ta đã đuổi địch khỏi biên giới
Việt - Hoa, đã giải phóng Tây Bắc, đã đánh sâu vào sau lƣng địch, đã thắng lợi
nhiều trận vẻ vang. Bộ đội địa phƣơng và dân quân du kịch khắp nơi cũng phát
triển và hoạt động mạnh.
Đó là thắng lợi về mặt quân sự. Về các ngành khác, nhƣ kinh tế tài chính,
nội chính, văn hóa xã hội, ta cũng tiến bộ không ngừng. Thí dụ: do chính sách
của Đảng và Chính phủ đúng và do đồng bào hăng hái thi đua sản xuất, chúng ta
đã xây dựng đƣợc một nền kinh tế tài chính dân chủ. Trong hoàn cảnh khó khăn
của thời kỳ kháng chiến, mà Chính phủ đã giảm nhẹ thuế nông nghiệp cho nông
dân, đồng thời cải thiện một bƣớc đời sống cho bộ đội, công nhân và cán bộ. Đó
là những tiến bộ rõ rệt của nền kinh tế tài chính của ta.
Những kết quả tốt của những cuộc chỉnh Đảng, chỉnh quân, chỉnh huấn là
một thắng lợi chính trị rất lớn của chúng ta.
Cuộc phát động quần chúng thực hiện chính sách ruộng đất có kế hoạch,
từng bƣớc một, có trật tự, có lãnh đạo, sẽ cải thiện đời sống cho nông dân, tiến
tới giải phóng hàng chục triệu động bào nông dân khỏi ách địa chủ phong kiến,
sẽ giúp cho sự phát triển kinh tế quốc dân, sẽ mở rộng Mặt trận dân tộc thống
nhất, sẽ củng cố chính quyền dân chủ nhân dân, sẽ tăng cƣờng quân đội nhân dân
và sẽ đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.
Ngày bắt đầu kháng chiến, phong trào dân tộc giải phóng của Miên - Lào
hãy còn non yếu. Ngày nay, cuộc kháng chiến của Miên và Lào đã thu đƣợc
nhiều thắng lợi. Khối đoàn kết giữa 3 dân tộc anh em Việt - Miên - Lào ngày
thêm chặt chẽ.

9
Ngày bắt đầu kháng chiến, Liên Xô và các nƣớc dân chủ mới Đông Âu
đang phải ra sức hàn gắn những tổn thất nặng nề do chiến tranh thế giới lần thứ
hai gây ra: Cách mạng Trung Quốc đang gặp khó khăn; phong trào hòa bình thế
giới chƣa tổ chức. Ngày nay, Liên Xô đang tiến mạnh sang chế độ Cộng sản, các
nƣớc dân chủ Đông Âu đang ra sức xây dựng chủ nghĩa xã hội, Cách mạng
Trung Quốc đã thành công và đang ra sức xây dựng dân chủ mới. Ngày nay
phong trào hòa bình thế giới phát triển rất mạnh; kháng chiến Triều Tiên thắng
lợi. Đó là thắng lợi lớn của phe ta. Thắng lợi của anh em ta cũng tức là thắng lợi
của ta.
VỀ ĐỊCH.- Ngày bắt đầu chiến tranh, giặc Pháp hung hăng, tƣởng nuốt
sống chúng ta. Chúng rêu rao rằng độ 5, 6 tuần lễ chúng sẽ cƣớp lại nƣớc ta.
Chúng đã đƣa hơn 1 phần 4 số sĩ quan, gần một nửa số hạ sĩ quan, hàng chục vạn
binh lính Pháp sang xâm lƣợc nƣớc ta. Nhƣng mỗi năm chúng đã hao tổn độ
mƣời vạn ngƣời, hàng ngàn triệu bạc, mà kết quả là chúng đã thất bại liên tiếp.
Chiến tranh ở Việt Nam đã làm cho Pháp kinh tế ngày càng khủng hoảng,
tài chính ngày càng thiếu hụt, thuế khóa ngày càng nặng nề, nhân dân ngày càng
khổ cực, chính trị ngày càng bối rối, quân sự ngày càng suy yếu. Chiến tranh ở
Việt Nam đã làm cho Pháp ngày càng dân cùng tài tận, ngày càng bị phụ thuộc
vào đế quốc Mỹ.
Ngày nay thậm chí báo chí và chính khách phản động Pháp phải thừa nhận
rằng: Chƣa bao giờ tình hình quân đội Pháp ở Việt - Miên - Lào nguy ngập nhƣ
ngày nay, thất bại từ trận này đến trận khác, phải chạy dài hơn 500 cây số, từ
biên giới Hoa - Việt đến cánh Đồng Chum. Chúng đã phải thừa nhận rằng chiến
tranh ở Việt Nam đã hút hết sinh lực của Pháp. Pháp chẳng những không có hy
vọng thắng lợi mà lại không tránh khỏi thất bại.
Phe đế quốc do Mỹ cầm đầu, kinh tế ngày càng khủng hoảng, giữa các đế
quốc mâu thuẫn ngày càng sâu sắc. Chúng đã thất bại nặng nề ở Trung Quốc và
Triều Tiên, nhân dân lao động trong nƣớc chúng đấu tranh ngày càng mạnh
10
chống chính sách gây chiến của đế quốc. Các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc
ngày càng nổi lên đấu tranh chống lại chúng. Dù Mỹ can thiệp ngày càng mạnh
vào chiến tranh xâm lƣợc Việt - Miên - Lào, nhƣng chúng nhất định không tránh
khỏi thất bại.
Nói tóm lại, thế của giặc ngày càng yếu, phe đế quốc Pháp - Mỹ cũng
ngày càng yếu:
Cuộc đình chiến ở Triều Tiên là một thắng lợi to lớn của nhân dân Triều
Tiên và Trung Quốc, một thắng lợi to lớn của phe hòa bình dân chủ thế giới; mà
cũng là một thắng lợi của nhân dân ta.
Tranh đƣợc thắng lợi ấy là vì quân và dân Triều Tiên đoàn kết một lòng.
Vì quân đội giải phóng Triều Tiên và quân chí nguyện Trung Quốc chiến đấu
anh dũng. Vì có phong trào hòa bình thế giới ủng hộ. Thắng lợi ấy do chiến đấu
gian khổ, hy sinh rất nhiều mới tranh đƣợc.
Đế quốc Mỹ và phe Mỹ phải nhận đình chiến vì chúng thất bại đau đớn,
chúng không thể tiếp tục đánh nữa. Tuy vậy, từ đình chiến đến hòa bình còn có
nhiều khó khăn, vì đề quốc Mỹ có thể tìm cách phá hoại. Cho nên quân và dân
Trung - Triều cùng phe hòa bình dân chủ thế giới cần phải đấu tranh và tỉnh táo
đề phòng âm mƣu phá hoại của đế quốc và bọn tay sai của chúng.
Thắng lợi của Triều Tiên làm cho quân đội và nhân dân ta càng tin tƣởng
lực lƣợng của phe ta rất mạnh, càng thấy rõ thế lực của đế quốc suy yếu, càng
làm cho quân và dân ta thấy rõ phải chiến đấu cực kỳ gian khổ mới tranh đƣợc
thắng lợi vẻ vang.
Việc đình chiến ở Triều Tiên làm cho nhân dân Pháp đẩy mạnh hơn nữa
phong trào phản đối chiến tranh xâm lƣợc ở Việt Nam, làm cho ngụy quân và
ngụy quyền thêm hoang mang và sợ sệt. Vì vậy thực dân Pháp, can thiệp Mỹ và
bè lũ bù nhìn, một mặt tung ra luận điệu hòa bình giả dối, độc lập giả hiệu, và cả
những cải cách lừa bịp, hòng làm giảm bớt tinh thần quyết chiến của nhân dân ta.
Mặt khác chúng gấp rút tập trung và tăng thêm quân đội và vũ khí để đẩy mạnh
11
chiến tranh hơn nữa. Vậy quân và dân ta phải luôn luôn tỉnh táo, luôn chuẩn bị
để đánh tan âm mƣu của chúng, đánh tan tƣ tƣởng sợ Mỹ, tƣ tƣởng sợ gian khổ,
ảo tƣởng hòa bình.
Chúng ta bao giờ cũng chủ trƣơng hòa bình. Nhƣng chúng ta biết rằng
cuộc kháng chiến trƣờng kỳ gian khổ có thắng lợi mới tranh đƣợc hòa bình. Chỉ
có thống nhất và độc lập thật sự mới có hòa bình.
Nhân dịp Quốc khánh, tôi thay mặt nhân dân, quân đội và Chính phủ ta
cảm ơn sự ủng hộ của nhân dân các nƣớc bạn, nhân dân Pháp và nhân dân thế
giới đấu tranh cho hòa bình;
Tôi kính cẩn nghiêng mình trƣớc linh hồn các liệt sĩ đã hy sinh cho tổ
quốc;
Tôi gửi lời thân ái an ủi các thƣơng binh, bệnh binh và gia đình liệt sĩ;
Khen ngợi:
Toàn thể chiến sĩ Vệ quốc quân, bộ đội địa phƣơng, dân quân du kích và
công an;
Đồng bào dân công,
Chiến sĩ thi đua tăng gia sản xuất;
Cán bộ quân, dân, chính, Đảng,
Các cụ phụ lão, các cháu thanh niên và nhi đồng,
Đồng bao ở vùng tạm bị chiếm và kiều bào ở nƣớc ngoài.
Nhân dịp này tôi kêu gọi những ngƣời lầm đƣờng theo địch. Hãy giác ngộ
và trở về với Tổ quốc. Chính phủ và nhân dân ta bao giờ cũng khoan hồng với
những ngƣời cải tà quy chính.
Tuy chúng ra đã tranh đƣợc nhiều thắng lợi lớn, nhƣng chúng ta tuyệt đối
không chủ quan khinh địch. Để lấy độc lập và thống nhất thật sự và góp phần
vào việc giữ gìn hòa bình thế giới, cuộc kháng chiến của ta vẫn còn phải trƣờng
kỳ và gian khổ, quân và dân ta phải quyết tâm vƣợt mọi khó khăn, thực hiện
những nhiệm vụ sau đây:
12
- Quân đội phải ra sức thi đua học tập chính trị và quân sự, nâng cao chí
khí chiến đấu, tiêu diệt sinh lực địch nhiều hơn nữa, phá tan mọi âm mƣu tấn
công của địch.
- Nhân dân phải thi đua tăng gia sản xuất và tiết kiệm, tham gia kháng
chiến.
- Đồng bào sau lƣng địch phải ra sức ủng hộ kháng chiến, đấu tranh chống
địch càn quét, bắt lính, phá hoại sản xuất; phải ra sức giữ gìn tính mệnh tài sản
của mình.
- Mọi ngƣời hãy sốt sắng tham gia và ủng hộ công cuộc phát động quần
chúng thực hiện chính sách ruộng đất.
- Cán bộ phải ra sức học tập chỉnh huấn, phát triển ƣu điểm, sửa chữa
khuyết điểm, hết lòng hết dạ phục vụ nhân dân, thực hiện đúng chính sách của
Đảng và Chính phủ, đi đúng đƣờng lối quần chúng.
Để làm tròn những nhiệm vụ này, quân đội, nhân dân và cán bộ ta:
- Phải nâng cao tƣ tƣởng trƣờng kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh; phải
nhận rõ ta, bạn, thù; phải luôn luôn tỉnh táo và ra sức phá tan mọi âm mƣu của
địch lừa bịp và tiến công, đập tan chính sách “dùng ngƣời Việt đánh ngƣời Việt,
lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”.
- Toàn dân đoàn kết, vƣợt mọi khó khăn, làm tròn nhiệm vụ, đẩy mạnh
kháng chiến, giữ vững độc lập.
TRƢỜNG KỲ KHÁNG CHIẾN NHẤT ĐỊNH THẮNG LỢI!
ĐỘC LẬP THỐNG NHẤT NHẤT ĐỊNH THÀNH CÔNG!

Chào thân ái và quyết thắng


Ngày 2 tháng 9 năm 1953
HỒ CHÍ MINH

Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Công báo năm 1953, số 8, tờ 97-99
13
Thƣ của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi toàn thể đồng bào, bộ đội và cán
bộ Tây Bắc, ngày 16/9/1953.

14
CHỦ TỊCH PHỦ VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÕA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Ngày 16 tháng 9 năm 1953
Thân gửi toàn thể đồng bào,
bộ đội và cán bộ.
Nhân dịp Phái đoàn Chính phủ lên Tây Bắc, tôi thân ái gửi lời thăm toàn
thể đồng bào, bộ đội và cán bộ.
Trƣớc kia, đồng bào, bộ đội và cán bộ đã anh dũng tham gia đánh đuổi
giặc Tây. Ngày nay, đã đƣợc giải phóng, chúng ta cần phải ra sức củng cố và
phát triển thắng lợi ấy.
Vậy:
- Đồng bào ta phải đoàn kết chặt chẽ, giúp đỡ lẫn nhau, tăng gia sản xuất
để mọi ngƣời đƣợc no cơm ấm áo, và phải ra sức tham gia kháng chiến.
- Bộ đội thì phải thi đua học tập giúp đỡ đồng bào, liên hệ chặt chẽ với
nhân dân để quét sạch bọn thổ phỉ và mật thám; và phải luôn luôn sẵn sàng xung
phong giết giặc lập công khi đƣợc lệnh đi chiến đấu.
- Cán bộ thì phải hết lòng hết sức chăm lo đến đời sống của nhân dân, phải
đi đúng đƣờng lối quần chúng, làm đúng chính sách của Chính phủ và phải thực
hiện Cần, Kiệm, Liêm, Chính.
Kháng chiến của ta nhất định thắng lợi, nhƣng phải trƣờng kỳ gian khổ, tự
lực cánh sinh. Đồng bào, bộ đội và cán bộ ta ở Tây Bắc phải hăng hái tham gia
công cuộc kháng chiến, để cùng đồng bào, bộ đội và cán bộ toàn quốc đánh đuổi
giặc Tây giặc Mỹ, và tranh lại độc lập cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân.
Tôi riêng gửi lời thăm các cụ phụ lão, các cháu thanh niên và nhi đồng.

Chào thân ái và quyết thắng


Hồ Chí Minh

15
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, phông Phủ Thủ tướng, hồ sơ 2475, tờ 01
Thƣ của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi cán bộ, đồng bào dân công đƣờng
cầu, ngày 16/9/1953.

16
CHỦ TỊCH PHỦ VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÕA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Ngày 16 tháng 9 năm 1953
Thân gửi cán bộ,
đồng bào dân công đƣờng cầu.
Gửi cán bộ và đồng bào dân công;
Nhân dịp Phái đoàn của Chính phủ đi kinh lý, Bác Thân ái gửi lời chúc
các Cô các Chú vui vẻ, mạnh khỏe và cố gắng làm việc.
Công việc cầu đƣờng là rất quan trọng. Nó cũng là một chiến dịch, mà các
Cô các Chú là chiến sĩ.
Bác cùng Đảng và Chính phủ luôn luôn theo dõi công tác của các Cô các
Chú.
Bác rất vui lòng vì đã có những chiến sĩ gƣơng mẫu nhƣ cô Mao, cô Ly,
chú Chum, chú Chiêu, và các chiến sĩ khác.
Bác mong rằng: từ nay, các cán bộ và anh chị em dân công phải ra sức
thực hiện kế hoạch thi đua, có chuẩn bị, có tổ chức, thiết thực và dẻo dai, để đƣa
chiến dịch cầu đƣờng đến hoàn toàn thắng lợi. Đó sẽ là chiến công vẻ vang của
các Cô các Chú.
Chính phủ và Bác sẵn sàng khen thƣởng những đội và những chiến sĩ xuất
sắc nhất.
Mong các Cô các Chú cố gắng thi đua để giật giải thƣởng.

Chào thân ái và quyết thắng


Hồ Chí Minh

Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, phông Phủ Thủ tướng, hồ sơ 2475, tờ 02

17
Nghị định số 308-TTG ngày 10/9/1953 của Thủ tƣớng Chính phủ về
sửa đổi Điều lệ tạm thời về huy động và sử dụng dân công.

18
THỦ TƢỚNG CHÍNH PHỦ
Chiểu bản Điều lệ tạm thời số 184-TTG ngày 14 tháng 7 năm 1952 về huy
động và sử dụng dân công;
Theo đề nghị của ông Bộ trƣởng Bộ Lao động.
Nghị định:
Điều 1.- Các điều 2, 3, 5, 6, 7, 8, 23, 24 và 25 trong bản Điều lệ tạm thời
số 184-TTG ngày 14 tháng 7 năm 1953 về huy động và sử dụng dân công nay
sửa đổi nhƣ sau:
Điều 2 mới. - Đƣợc miễn đi dân công:
- Thƣơng binh;
- Ngƣời tàn tật không thể làm lụng đƣợc;
- Vợ ngƣời thƣơng binh bị tàn phế (nếu dân chủ bình nghị xét ngƣời
thƣơng binh đó phải sống nhờ vào vợ);
- Vợ (hoặc chồng) ngƣời dân công bị tàn phế (nếu dân chủ bình nghị xét
ngƣời dân công đó phải sống nhờ vào vợ hoặc chồng);
- Ngƣời ốm lâu năm có giấy chứng nhận của thầy thuốc; hoặc do dân chủ
bình nghị công nhận;
- Bố mẹ có ba con đi bộ đội.
Điều 3 mới.- Đƣợc tạm miễn đi dân công:
- Bệnh binh trong thời hạn một năm kể từ ngày về nhà;
- Đàn bà có mang;
Đàn bà đẻ nuôi con trong thời hạn một năm sau khi đẻ. Sau thời hạn tạm
miễn một năm thì đƣợc huy động làm việc nhẹ ở gần nhà cho đến khi con đƣợc
24 tháng;
- Ngƣời mà gia đình có ông bà già, hoặc con trẻ, hoặc ngƣời tàn tật, đƣợc
dân chủ bình nghị công nhận là nghèo và phải trông vào lao động của ngƣời đó
để sống;
19
- Công nhân và nhân viên Chính phủ, công nhân và nhân viên các xí
nghiệp quốc gia;
- Cán bộ đoàn thể thoát ly sinh sản, giữ những chức vụ thƣờng xuyên,
đƣợc cấp bộ đoàn thể từ huyện trở lên xét cần thiết phải ở nhà để tiến hành công
tác;
- Giáo viên các trƣờng tƣ;
- Học sinh các trƣờng chuyên nghiệp;
- Những cán bộ xã bán thoát ly sinh sản nói trong Thông tƣ số 9-NV-TC
ngày 31 tháng 3 năm 1952 của Bộ Nội vụ;
- Những ngƣời cần thiết cho các ngành sản xuất quan hệ cho quốc phòng
(ví dụ sản xuất diêm tiêu, than chạy xe v.v..), những Tập đoàn vận tải đang thực
hiện một kế hoạch quốc gia cấp bách. Việc miễn này do UBKCHC tỉnh quyết
định;
- Những ngƣời vừa bị tai nạn lớn (thiên tai, thủy họa, địch tàn phá…) đƣợc
hoãn đi dân công trong thời gian từ 1 đến 4 tháng (nếu đƣợc dân chủ bình nghị
công nhận là thiếu thốn và chƣa gây lại đƣợc cơ sở làm ăn).
Điều 5 mới. - Đƣợc hoãn đi dân công:
- Ngƣời ốm có giấy chứng nhận của thầy thuốc hoặc đƣợc dân chủ bình
nghị công nhận;
- Những ngƣời nhà neo và mắc công việc sản xuất, hoặc có ngƣời ốm phải
săn sóc, mà đƣợc dân chủ bình nghị công nhận;
- Công chức, công nhân Chính phủ đề ra ngoài biên chế; bộ đội đƣợc giải
ngũ; công nhân các xƣởng tƣ bị rãn, hoặc thôi việc sau khi làm việc một năm trở
lên; ngƣời tản cƣ vì địch chiếm đóng địa phƣơng vẫn ở, đƣợc hoãn đi dân công
trong thời gian từ 1 đến 4 tháng (nếu đƣợc dân chủ bình nghị xét thấy chƣa có
sinh kế vững chắc);
- Học sinh các trƣờng phổ thông công và tƣ trong thời gian đang học.
(Trong lúc nghỉ mùa thì đƣợc huy động đi dân công làm công việc gần).
20
Trong trƣờng hợp cấp bách, nhƣ địch tấn công, vỡ đê v.v.., những ngƣời
đƣợc hoãn đi dân công trên đây vẫn có thể huy động đƣợc.
Điều 6 mới: - Ngƣời đi dân công phải tự túc:
- 3 ngày đầu, nếu đợt đi dân công dài từ 5 ngày đến một tháng;
- 7 ngày đầu, nếu đợt đi dân công dài trên một tháng.
Những ngƣời luôn luôn phải huy động đi những đợt ngắn dƣới 5 ngày thì
không phải tự túc.
Ngƣời dân công đi phục vụ tiền tuyến hoặc công trƣờng mà đƣợc dân chủ
bình nghị công nhận không thể tự túc đƣợc, thì đƣợc cấp thù lao kể từ ngày ở xã
lên đƣờng đi phục vụ.
Sau những ngày phải tự túc, dân công đƣợc trả thù lao nhƣ sau:
- Dân công thƣờng: 1 kg gạo và 16 gam muối mỗi ngày;
- Hộ lý: 1kg200 gạo và 16 gam muối mỗi ngày;
- Chèo thuyền: 1kg400 gạo và 16 gam muối mỗi ngày.
Tiền thù lao dân công do cơ quan sử dụng đài thọ.
Điều 7 mới: - Để dƣỡng sức dân công, sau 6 ngày làm việc liên tiếp thì
dân công đƣợc nghỉ một ngày, hoặc sau 5 đêm làm việc liên tiếp thì đƣợc nghỉ
một đêm.
Nếu vì nhu cầu công tác dân công phải làm việc liên tiếp quá 6 ngày, hoặc
quá 5 đêm, thì cơ quan sử dụng sẽ châm chƣớc mà định ngày nghỉ cho lợi việc.
Ngƣời dân công phục vụ ở tiền tuyến và ở công trƣờng phải lấy công tác
làm chính. Gặp trƣờng hợp đặc biệt, ngƣời dân công có nhiệm vụ làm việc cả
ngày nghỉ.
Điều 8 mới: - 1) Ngƣời dân công phục vụ ở tiền tuyến hay ở công trƣờng
bị thƣơng nặng do tai nạn chiến tranh, hoặc tai nạn lao động đƣợc đƣa vào điều
trị tại các bệnh viện quân y hoặc dân y và đƣợc hƣởng chế độ bồi dƣỡng của
thƣơng binh (4 lạng, 8 lạng hay 1kg 700 gạo mỗi ngày do cơ quan y tế quyết
định).
21
2) Ngƣời dân công ốm nặng trong thời gian phục vụ đƣợc đƣa vào các
bệnh viện quân y hoặc dân y và đƣợc cấp thêm 2 lạng hay 4 lạng gạo mỗi ngày
để bồi dƣỡng sức khỏe.
3) Đối với dân công bị thƣơng hoặc bị ốm ở trƣờng hợp không đƣa đi
bệnh viện, cơ quan sử dụng có trách nhiệm săn sóc chu đáo. Những ngƣời mà
nhân viên phụ trách y tế hoặc cơ quan sử dụng xét cần phải bồi dƣỡng, thì đƣợc
thƣởng thêm 2 lạng hay 4 lạng gạo mỗi ngày.
4) Nếu không có điều gì trở ngại, ngƣời dân công bị ốm có thể xin về nhà
điều trị; trong khi đi đƣờng về nhà đƣợc hƣởng thù lao, và tiền bồi dƣỡng (nếu
xét cần đƣợc cấp thêm).
5) Số gạo mà ngƣời ốm ăn không hết đƣợc trả bằng tiền.
6) Đối với ngƣời dân công bị tàn phế, chính quyền ở địa phƣơng có trách
nhiệm săn sóc và giúp đỡ.
Dân công bị tàn phế thiếu ruộng cày, đƣợc xếp vào hàng những ngƣời
đƣợc quyền ƣu tiên trong khi chia cấp ruộng đất.
7) Đối với dân công bị hy sinh, việc mai táng sẽ làm theo chế độ áp dụng
cho bộ đội. Sự phí tổn do cơ quan sử dụng đài thọ.
Ngƣời dân công bị hy sinh trong khi làm nhiệm vụ đƣợc coi là nhân khẩu
nông nghiệp trong thời hạn 3 năm. Đối với gia đình ngƣời đó, nếu túng thiếu,
chính quyền địa phƣơng sẽ tùy hoàn cảnh mà giúp đỡ; nếu gia đình đó thiếu
ruộng cày thì đƣợc xếp vào hàng những ngƣời đƣợc quyền ƣu tiên trong khi chia
cấp ruộng đất.
Điều 23 mới.- Công tính cho dân công căn cứ vào khối lƣợng công tác đã
làm.
Tiêu chuẩn tính công do cơ quan sử dụng dân công, cán bộ dân công và
dân công bình nghị ấn định, căn cứ vào hoàn cảnh và điều kiện công tác (trời
mƣa nắng, đƣờng bằng, đƣờng dốc, đi ban ngày, đi ban đêm, đất rắn, đất mềm,
v.v…)
22
Tiêu chuẩn chung để tính công, cách trả thù lao và trả tiền công cho dân
công quy định nhƣ sau:
A. - Dân công gánh và cáng
1) Gánh:
- Gánh nặng từ 20 đến 30 kg;
- Đi đƣờng bằng ban ngày, từ 20 đến 25 cây số, ban đêm từ 15 đến 20 cây
số;
Đi đƣờng núi ban ngày, từ 15 đến 20 cây số, ban đêm từ 12 đến 18 cây số.
Mỗi ngày làm nhƣ vậy tính một công và trả thù lao 1 cân gạo nhƣ đã định
ở điều 6.
2) Cáng:
- Đi mỗi ngày hoặc mỗi đêm tính một công và trả thù lao 1 cân gạo định ở
điều 6.
B. - Dân công cuốc đất, đắp đất, gánh đá, rẫy cỏ, phát cây, v.v..
Tiêu chuẩn tính công do cơ quan sử dụng dân công, cán bộ dân công và
dân công bình nghị ấn định cho mỗi loại công tác. Sẽ căn cứ vào công tác làm
đúng tiêu chuẩn để tính công và trả thù lao.
C. - Dân công vận tải bằng xe, thuyền
Dân công vận tải bằng xe, thuyền đƣợc tính công và trả thù lao, hoặc cƣớc
phí.
Cƣớc phí nói ở các khoản dƣới đây là “cƣớc phí phục vụ”, do những
ngƣời vận tải bình nghị và cơ quan sử dụng ấn định, căn cứ một mặt vào cƣớc
phí ở thị trƣờng, một mặt vào khả năng tài chính quốc gia. Cƣớc phí này có thể
thấp hơn cƣớc phí ở thị trƣờng, nhƣng phải đủ để đảm bảo bồi dƣỡng sức khỏe
cho ngƣời dân công, để đền bù hao mòn, giữ gìn, sửa chữa xe, thuyền và chăn
nuôi súc vật.
1) Vận tải bằng xe đạp, ngựa thồ, xe trâu, xe bò, xe ngựa:
a) Xe đạp tải từ 60 kg đến 100 kg, mỗi ngày đi từ 20 đến 25 cây số.
23
b) Ngựa thồ tải từ 60 kg trở lên, mỗi ngày đi trung bình 20 cây số.
c) Xe trâu tải từ 350 kg trở kên, mỗi ngày đi trung bình 12 cây số.
d) Xe bò tải từ 250 kg trở lên, mỗi ngày đi trung bình 15 cây số.
e) Xe ngựa tải từ 250 kg trở lên, mỗi ngày đi trung bình 20 cây số.
Ngƣời có phƣơng tiện vận tải thực hiện đƣợc tiêu chuẩn công tác nói trên
đƣợc tính một công và trả cƣớc phí về trọng lƣợng hàng chuyên chở.
2) Vận tải bằng thuyền:
Trọng lƣợng hàng phải chuyên chở, mỗi ngày phải đi bao nhiêu cây số, do
cơ quan sử dụng ấn định tùy theo thuyền nhớn hoặc nhỏ, mới hoặc cũ, đi ngƣợc
hoặc đi xuôi, đi ban ngày hoặc đi đêm v.v..
Mỗi ngƣời phục vụ trên thuyền mỗi ngày đƣợc tính một công.
Việc trả công chuyên chở định nhƣ sau:
a) Thuyền buôn, đò dọc, đò ngang, thuyền chài, trọng tải: trên một tấn,
đƣợc trả cƣớc phí về trọng lƣợng hàng chuyên chở;
b) Thuyền buôn, đò dọc, đò ngang, thuyền chài, trọng tải: dƣới một tấn
đƣợc chọn một trong hai cách sau đây:
- Hoặc trả cƣớc phí nhƣ thuyền trọng tải trên một tấn,
- Hoặc trả thù lao 1 kg 400 gạo cho mỗi ngƣời chèo thuyền.
c) Thuyền nan nhỏ, thuyền độc mộc đƣợc trả thù lao 1 kg 400 gạo mỗi
ngày cho mỗi ngƣời chèo thuyền.
d) Những thuyền đƣợc trả công theo chế độ thù lao, ngoài số thù lao còn
đƣợc hƣởng tiền bồi thƣờng hao mòn. Tiền bồi thƣờng hao mòn sẽ định căn cứ
vào trị giá chiếc thuyền đƣợc bình nghị khi huy động và tỷ lệ hao mòn đƣợc bình
nghị sau thời hạn phục vụ. Nếu sau thời hạn phục vụ thuyền đã bị hƣ hỏng đến
80 phần trăm thì đƣợc bồi thƣờng bằng trị giá chiếc thuyền đã bình nghị.
3) Trường hợp người có phương tiện vận tải giao cho người khác mang đi
phục vụ.

24
Mỗi ngày thực hiện đƣợc tiêu chuẩn công tác, ngƣời có phƣơng tiện vận
tải và ngƣời sử dụng, mỗi ngƣời đƣợc tính một công.
Ngƣời có phƣơng tiện vận tải không đƣợc trả cƣớc phí hoặc thù lao.
Ngƣời sử dụng phƣơng tiện vận tải đƣợc trả cƣớc phí về trọng lƣợng số
hàng đã chuyên chở trừ đi một phần bằng từ 10 đến 25 phần trăm trọng lƣợng
hàng tối thiểu phải chuyên chở định ở tiêu chuẩn. (Phần không đƣợc trả cƣớc phí
coi nhƣ trọng lƣợng hàng mà ngƣời có phƣơng tiện vận tải phải chuyên chở để
đƣợc tình công, và do cơ quan sử dụng ấn định tùy theo từng loại phƣơng tiện
vận tải)
4) Người có phương tiện vận tải mang theo đi phục vụ có thể xin trả cƣớc
phí theo cách định ở khoản 3 trên đây (cho ngƣời sử dụng phƣơng tiện vận tải
của ngƣời khác) để đƣợc tính công thêm cho phƣơng tiện vận tải.
Công tính thêm cho phƣơng tiện vận tải có thể dùng để trừ vào đợt sau,
hoặc chuyển cho ngƣời trong gia đình, hoặc đổi cho ngƣời khác.
5) Cước phí trả theo tạ - Cây số căn cứ vào trọng lƣợng hàng đã chuyên
chở.
Chuyến xe thuyền trở về không có hàng chở thì không đƣợc trả cƣớc phí,
những ngƣời đƣợc tính mỗi ngày một công.
Cƣớc phí trả bằng tiền và gạo cho ngƣời có phƣơng tiện vận tải nhƣ sau:
1/ Một phần trả bằng gạo để ăn.
2/ Một phần bằng tiền theo giá gạo nơi phục vụ để mua thức ăn, thuốc
men bồi dƣỡng sức khỏe cho ngƣời dân công, giữ gìn sửa chữa phƣơng tiện vận
tải và chăn nuôi trâu, bò, ngựa tại chỗ.
3/ Phần còn lại trả bằng tiên theo giá gạo trung bình giữa nơi phuc vụ và
nơi ngƣời có phƣơng tiện vận tải trở về để tiếp tục làm ăn.
6) Người mang phương tiện vận tải không được hưởng thù lao những
ngày nghỉ thường lệ.
Những ngày phải chờ đợi thì đƣợc hƣởng thù lao nhƣ sau:
25
- Ngƣời: 1kg400 gạo mỗi ngày
- Trâu: 1kg 000 gạo mỗi ngày
- Ngựa: 1kg200 gạo mỗi ngày.
D.- Huy động trâu để kéo gỗ
Mỗi ngày phục vụ trả thù lao 1kg gạo và tính một công cho chủ có trâu.
E. - Nếu phƣơng tiện vận tải bị hƣ hỏng lớn vì tai nạn xảy ra, không
do sự bất cẩn của ngƣời chủ, hoặc ngƣời mang đi phục vụ, thì đƣợc bồi thƣờng.
Số tiền bồi thƣờng do dân chủ bình nghị và cơ quan sử dụng ấn định một cách
thỏa đáng.
Điều 24 mới. - Để khuyến khích mỗi ngƣời phát huy khả năng, sáng kiến
làm tăng năng suất, và đồng thời để dân công có điều kiện bỗi dƣỡng sức khỏe,
nay áp dụng hai chế độ:
- Khoán công,
- Thƣởng năng suất.
1) Khoán công:
Phải tranh thủ trong mọi trƣờng hợp giao công việc cho các đơn vị dân
công làm khoán. Đơn vị nào làm nhanh, làm tốt theo đúng tiêu chuẩn, yêu cầu,
và xong trƣớc thời hạn, nếu là dân công công trƣờng thì đƣợc về trƣớc; nếu là
dân công phục vụ chiến dịch thì việc cho về trƣớc hay giữ lại do cơ quan sử dụng
quyết định. Nếu đƣợc giữ lại, những ngày công làm thêm đƣợc trừ vào đợt sau,
hoặc chuyển cho ngƣời trong gia đình, hoặc đổi cho ngƣời khác.
2) Thưởng năng suất: Trƣờng họp giao làm khoán đƣợc thì áp dụng chế độ
thƣởng năng suất cho cá nhân hoặc đơn vị.
Làm vƣợt mức bao nhiêu phần trăm thì đƣợc hƣởng thêm ngần ấy phần
trăm thù lao.
Công làm dôi ra do tăng năng suất đƣợc tính để về trƣớc. Nếu ở lại làm
việc thì đƣợc trừ vào đợt sau, hoặc chuyển cho ngƣời trong gia đình, hoặc đổi
cho ngƣời khác.
26
Tiền thƣởng năng suất đƣợc trả vào những ngày cấp phát để dân công kịp
thời bồi dƣỡng sức khỏe.
Tiền thƣởng năng suất và tiền công khoán do đơn vị bình nghị chia cho cá
nhân theo nguyên tắc:
- Ngƣời nào tăng năng suất thì đƣợc hƣởng;
- Ngƣời tăng năng suất nhiều hƣởng nhiều, tăng ít hƣởng ít.
Điều 25 mới:
1) Những ngày làm việc đƣợc tính và ghi công. Ngày đi, về, nghỉ, ngày
nằm chờ, ngày ốm nhẹ, không đƣợc tính công nhƣng vẫn đƣợc trả thù lao.
2) Khi đi và khi về, dân công phải đi trung bình mỗi ngày 25 cây số. Đối
với ngƣời có mang theo phƣơng tiện vận tải thì tùy theo phƣơng tiện vận tải đi
nhanh hay chậm, đƣờng khó đi hay dễ đi,v.v.. mà định mỗi ngày phải đi bao
nhiêu cây số.
3) Những ngƣời vì nhu cầu công tác phải ở lại làm thêm sau thời hạn đã
định thì số công làm thêm đƣợc trừ vào đợt sau, hoặc chuyển cho ngƣời trong gia
đình, hoặc đổi cho ngƣời khác.
Điều 2. - Trong điều 20 bản Điều lệ, nay:
1) Bỏ chức “trung đội phó” trong Ban chỉ huy trung đội.
2) Định lại biên chế của một cáng là 5 ngƣời.
Điều 3.- Một thông tƣ của ông Bộ trƣởng Bộ Lao động sẽ giải thích về
việc thi hành các điều sửa đổi nói trên.
Điều 4.- Ông Bộ trƣởng Bộ Lao động chiểu nghị định thi hành.
Ngày 10 tháng 9 năm 1953
KT. Thủ tƣớng Chính phủ
Phó Thủ tƣớng
Phạm Văn Đồng
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Công báo năm 1953, số 9 và 10, tờ 109-
113
27
Thông tƣ số 12-LD-TT ngày 10/9/1953 của Bộ Lao động v/v thi hành
Nghị định số 308-TTG ngày 10/9/1953 sửa đổi bản Điều lệ tạm thời về huy
động và sử dụng dân công (kèm theo: bản Điều lệ tạm thời về huy động và
sử dụng dân công đã đƣợc sửa đổi.

28
BỘ TRƢỞNG BỘ LAO ĐỘNG
Kính gửi: Các ông Chủ tịch UBKCHC Liên khu Việt Bắc, 3, 4, 5,
Khu Tả Ngạn, Khu Tây Bắc, Nam Bộ và Hà Nội.
Sau một năm thi hành bản Điều lệ tạm thời về huy động và sử dụng dân
công, xét ra có nhiều điều cần đƣợc sửa đổi và bổ khuyết để hợp với một số
nguyện vọng chính đáng của nhân dân và để giải quyết một vài khó khăn đã gặp.
Vì vậy Thủ tƣớng Chính phủ căn cứ vào các kinh nghiệm công tác phục vụ chiến
dịch và phục vụ công trƣờng cầu đƣờng đã ban hành nghị định số 308-TTG ngày
10 tháng 9 năm 1953 sửa đổi các điều 3, 3, 5, 6, 7, 8, 20, 23, 24, 25, của bản
Điều lệ.
Thông tƣ này giải thích thêm về các điều mới đƣợc sửa đổi.
I. CÁC ĐIỂM SỬA ĐỔI CĂN BẢN
Bản Nghị định đã giải quyết những vấn đề căn bản sau đây:
1. - Việc ghi công và tính công (Điều 3 và 25 mới):
Từ trƣớc đến nay trong việc huy động và sử dụng dân công chƣa có tổ
chức việc ghi công và tính công cho dân công, có ngƣời hàng năm đi 3, 4 tháng
trong khi có ngƣời chỉ mới đi 5, 10 ngày. Lợi dụng tình trạng chƣa có sự ghi
chép để kiểm soát, một số ngƣời đã trốn tránh nhiệm vụ, chƣa đi làm dân công
ngày nào. Giữa ngƣời làm nhiều, ngƣời làm ít, giữa ngƣời tích cực và ngƣời lƣời
biếng lại không có sự phân biệt, nên những ngƣời cố gắng và ngƣời tích cực vì
thế mà tị nạnh và thiếu bền bỉ làm cho năng suất chung của dân công không
đƣợc nâng cao. Ngƣời đi dân công rồi thì cũng muốn có một giấy tờ chính thức
công nhận sự đóng góp của mình vào công việc kháng chiến chung. Ngoài ra
nhân dân cũng muốn biết rõ số ngày phải phục vụ hàng năm để tiện sắp xếp công
việc làm ăn. Đó là những nguyện vọng rất chính đáng của nhân dân cần đƣợc
giải quyết để dân công an tâm phục vụ.
Để việc huy động dân công từ nay đƣợc điều hòa và công bằng, để có tài
liệu chính xác để sau này ấn định đƣợc sát số ngày phục vụ hàng năm cho mỗi
29
công dân, cũng nhƣ để cơ quan sử dụng có những số liệu cụ thể để tính giá thành
cho mỗi công việc, cho nên từ nay sẽ thi hành việc tính công và ghi công cho dân
công phục vụ tiền tuyến và ở hậu phƣơng.
Công tính nhƣ sau: ngày làm việc, thực hiện đƣợc tiêu chuẩn công tác đã
ấn định (thí dụ: ở địa phƣơng A gánh đƣờng đồng bằng 25 cân đi 20 cây số, ở
công trƣờng 1 đào 3 thƣớc khối đất một ngày vì đất dễ đào, đƣợc tính 1 công.
Điều 23 mới nói rõ: tiêu chuẩn tính công do cơ quan sử dụng cán bộ dân công và
dân công bình nghị dựa vào bảng tiêu chuẩn chung định cho toàn quốc, và căn
cứ vào hoàn cảnh và điều kiện công tác ở nơi làm việc. Thí dụ: trên một quãng
đƣờng này đi dễ dàng thì định mỗi xe đạp thồ nặng 80 cân; trên một quãng
đƣờng khác phải leo nhiều dốc thì chỉ phải mang 65 cân.
Tiêu chuẩn tính công ấn định xong phải báo Ban Chỉ huy công trƣờng hay
cơ quan đƣợc Hội đồng cung cấp mặt trận ủy nhiệm để xét và sửa đổi nếu thấy
sát.
Những ngày đi, về, nghỉ, nằm chờ, ốm nhẹ, không đƣợc tính công vì
không thực sự đóng góp vào nhiệm vụ công tác nhƣng vẫn đƣợc hƣởng thù lao
cho ngƣời và súc vật.
Bộ Lao động sẽ định mẫu phiếu ghi công thống nhất cho dân công. Trong
phiếu ghi rõ:
- Số ngày thực sự làm việc.
- Số công đã làm.
- Số ngày nghỉ, ốm, đi, về.
Khi huy động, các cơ quan phụ trách cũng cần chú ý vào số ngày đi, về để
việc huy động đƣợc công bằng và hợp lý.
2) Khoán công và thƣởng năng suất (Điều 24 mới:
Đi đôi với việc ghi công và tính công việc thi hành chế độ khoán công và
thƣởng năng suất rất hợp với nguyện vọng của dân công là muốn làm nhanh để

30
về sớm. Dân công có dịp để phát huy khả năng và sáng kiến làm tăng năng suất,
và đồng thời có điều kiện để bồi dƣỡng sức khỏe.
a/ Khoán công: Khoán công là giao cho dân công làm một khối lƣợng
công tác nhất định trong một thời hạn định trƣớc. Nếu do cố gắng, cải tiến lề lối
làm việc, chấn chỉnh tổ chức, dân công làm xong nhiệm vụ trƣớc thời hạn đã
định thì đƣợc về sớm và đƣợc hƣởng tất cả số tiền thù lao về khối lƣợng công tác
đã khoán.
Việc khoán công sẽ áp dụng rộng rãi trong tất cả những trƣờng hợp có thể
đƣợc, để gây ý thức trách nhiệm chung cho dân công và để dân công tự đôn đốc,
khuyến khích tƣơng trợ nhau để thực hiện kế hoạch chung. Công việc sẽ giao
khoán cho từng đơn vị từ đại đội trở xuống. Giao khoán đƣợc cho từng đơn vị
càng nhỏ bao nhiêu càng lợi bấy nhiêu. Kinh nghiệm cho biết khoán công cho
những đơn vị to gồm hàng nghìn ngƣời gặp nhiều khó khăn, trở ngại: dân công ở
nhiều địa phƣơng tập hợp lại thành phần dân tộc khác nhau, khả năng lao động
chênh lệch, nhƣ ngƣời khỏe phải gánh đỡ cho ngƣời yếu nhiều qúa, công việc
theo dõi kiểm tra cũng không đƣợc sát.
Tiền công khoán không chia đều cho cả mọi ngƣời trong đơn vị khoán mà
sẽ chia theo năng suất của từng ngƣời. Trong trƣờng hợp không ghi chép cụ thể
năng suất của từng ngƣời thì toàn thể đơn vị sẽ bình nghị để quyết định việc trả
thù lao cho từng cá nhân, theo nguyên tắc ngƣời làm nhiều hƣởng nhiều, ngƣời
làm ít hƣởng ít.
b/ Thưởng năng suất:
Trƣờng hợp không khoán công đƣợc thì áp dụng chế độ thƣởng năng suất.
Làm vƣợt mức tiêu chuẩn công tác đƣợc bao nhiêu phần trăm thì đƣợc
hƣởng thêm ngần ấy phần trăm thù lao, tức là đƣợc hƣởng số thù lao về khối
lƣợng công tác làm vƣợt mức. Thí dụ:

31
1) Tiêu chuẩn định là gánh 25 cân đi 20 cây số 1 ngày, nếu gánh đƣợc 30
cân tức là tăng đƣợc 20 phần trăm (5 kilô) thì đƣợc hƣởng thêm 20 phần trăm thù
lao của 1 ngày tức là 1 lạng gạo.
2) Tiêu chuẩn vận tải bằng xe đạp thồ là 75 cân đi 30 cây số; thực hiện
đƣợc tiêu chuẩn thì đƣợc hƣởng 3 cân gạo thù lao tức là cho 75:3 = 25 cân thì
đƣợc hƣởng 1 cân gạo, nếu chở đƣợc 100 cân, tức là thêm 25 cân, thì đƣợc
hƣởng thêm 1 cân gạo nữa.
Việc thƣởng năng suất có thể thi hành cho từng đơn vị (từ Đại đội trở
xuống) trong đơn vị sẽ chia tiền thƣởng cho từng cá nhân theo năng suất của
từng ngƣời căn cứ vào số ghi công hoặc dân chủ bình nghị.
Tính công cho người làm khoán và người được thưởng năng suất:
Ngƣời làm khoán làm xong công việc trƣớc thời hạn đƣợc về trƣớc. Nếu
đƣợc giữ lại làm việc thì số ngày làm thêm cũng đƣợc tính công; thí dụ 1 đơn vị
đƣợc giao khoán đắp 1 quãng đƣờng trong 30 ngày, làm xong thì đƣợc về, đơn vị
đó đã làm xong trong 25 ngày nếu đƣợc giữ lại làm hết đợt thì đến cuối đợt tính
mỗi ngƣời đã làm 30 ngày + 5 ngày = ngày.
Đối với ngƣời đƣợc thƣởng năng suất, số lƣợng công tác làm quá mức đã
định cũng đƣợc tính công. Thí dụ: tiêu chuẩn đào đất ở công trƣờng X. là 3
thƣớc khối 1 ngày. Một ngƣời phục vụ trong 10 ngày đã đạo đƣợc 42 thƣớc khối,
tức là vƣợt mức 12 thƣớc khối. Ngƣời đó đƣợc tính thêm 12:3=4 công. Và sau
đợt đƣợc coi là đã làm 14 công.
Công làm thêm đó tăng năng suất trong hai trƣờng hợp làm khoán và đƣợc
thƣởng năng suất nói trên đƣợc sử dụng nhƣ sau:
- Trừ vào đợt sau.
- Chuyển cho ngƣời trong gia đình (cha, mẹ, vợ, con, anh em ngƣời cùng
sống trong gia đình)
- Đổi công cho ngƣời khác làm việc cho mình ở nhà.

32
Sau khi hết hạn huy động nếu xung phong ở lại làm thêm thì số ngày công
làm thêm cũng đƣợc sử dụng nhƣ trên.
Ngƣời làm việc đổi công cho ngƣời khác đƣợc trả công ngang với thù lao
của dân công. Thí dụ: anh Mão đi dân công, làm thêm đƣợc 10 công. Công đó
anh Mão đổi cho anh Sửu. Anh Sửu đến làm công việc đồng áng cho anh Mão
10 ngày. Trong 10 ngày đó anh Mão trả cho anh Sửu mỗi ngày 1 cân gạo, vì anh
Mão làm việc công trƣờng mỗi ngày đƣợc hƣởng 1 cân gạo. Các điều kiện đổi
công hai bên có thể thỏa thuận với nhau để cùng có lợi.
Việc chuyển công và đổi công nói trên nhằm mục đích khuyến khích
ngƣời ở tiền tuyến hoặc ở công trƣờng cố gắng làm tăng năng suất, hoặc xung
phong ở lại làm thêm ngày, nhƣ vậy để đỡ phải huy động các đợt dân công mới,
tránh đƣợc thì giờ đi, về lợi cho sản xuất. Việc này còn có tác dụng huy động
đƣợc dân công các loại B. C đi làm, công việc đồng áng ở nhà đổi công cho
ngƣời loại A đi phục vụ ở xa. Nhờ đó công tác phục vụ sẽ san sẻ đƣợc cho cả 3
loại, số ngày phục vụ của mỗi ngƣời sẽ đƣợc giảm đi.
3.- Tính công và trả thù lao cho ngƣời có phƣơng tiện vận tải
Để tiết kiệm nhân lực, từ nay cần phải huy động triệt để các phƣơng tiện
vận tải nhƣ xe đạp, ngựa thồ, xe trâu, xe ngựa, thuyền bè và sau này cả đến ô tô
có trong nhân dân. Để khuyến khích những ngƣời có phƣơng tiện vận tải mang
theo đi phục vụ, Điều 23 mới đã quy định lại thể lệ tính công và trả công và thù
lao cho những ngƣời đó.
Theo thể lệ mới, ngƣời dân công vận tải bằng xe, thuyền đƣợc trả cƣớc
phí. Cƣớc phí này áp dụng đối với công tác phục vụ kháng chiến, cho nên gọi là
cƣớc phí phục vụ và thấp hơn cƣớc phí trên thị trƣờng. Nhƣng cƣớc phí đó cũng
phải đủ để bảo đảm bồi dƣỡng sức khỏe cho ngƣời dân công, đền bù hao mòn,
giữ gìn sửa chữa phƣơng tiện vận tải chăn nuôi trâu, bò, ngựa kéo xe hoặc thồ.
Điều lệ chƣa quy định cách thức tính công và trả cƣớc phí cho ngƣời có ô
tô hoặc ca nô vì những thứ phƣơng tiện vận tải này huy động còn ít. Đối với
33
ngƣời có ô tô, ca nô, các cơ quan sử dụng tùy trƣờng hợp mà định cách tính công
và trả cƣớc phí phục vụ một cách thỏa đáng theo nguyên tắc đã nói rõ trên đây.
Cách tính công và trả công cho người có phương tiện vận tải:
1) Trƣờng hợp ngƣời có phƣơng tiện vận tải mang theo đi phục vụ: mỗi
ngày phục vụ thực hiện đƣợc tiêu chuẩn công tác tính một công. Cƣớc phí trả
theo trọng lƣợng hàng đã chuyển chở. Chuyến xe thuyền trở về không đƣợc trả
cƣớc phí và cũng không đƣợc hƣởng thù lao, nhƣng mỗi ngày đi đƣợc tính một
công. Nếu có chở hàng thì cũng đƣợc trả cƣớc phí.
Những ngày nằm chờ nhƣ vì nƣớc lũ không qua đƣợc sông, vì chƣa có
hàng phải chở… thì đƣợc trả thù lao cho ngƣời và súc vật nhƣng không đƣợc
tính công.
2) Trƣờng hợp ngƣời có phƣơng tiện vận tải giao cho ngƣời khác mang
theo đi phục vụ.
Theo Điều 23 mới mục C khoản 4 mỗi ngày làm việc thực hiện đƣợc tiêu
chuẩn công tác, và ngày xe thuyền trở về không, thì ngƣời chủ có phƣơng tiện
vận tải và ngƣời sử dụng phƣơng tiện vận tải mỗi ngƣời đƣợc tính một công.
Ngoài ra công đƣợc tính, ngƣời sử dụng xe thuyền còn đƣợc trả cƣớc phí về một
phần trọng lƣợng hàng chuyên chở, trừ đi một phần bằng 10% đến 25% trọng
lƣợng hàng tối thiểu phải chuyên chở định ở tiêu chuẩn.
Tỷ lệ từ 10% đến 25% nói trên mà không trả cƣớc phí cho ngƣời sử dụng
phƣơng tiện vận tải là để trừ vào công mà cơ quan sử dụng đã tính cho ngƣời có
phƣơng tiện vận tải,
- Tỷ lệ ấy nay tạm định là:
- 25% cho ngựa thồ
- 20% cho xe đạp
- 15% cho xe trâu, xe bò, xe ngựa, và thuyền dƣới 1 tấn.
- 10% cho thuyền trên 1 tấn.

34
Sở dĩ ấn định 25% cho ngựa thồ và 20% cho xe đạp là vì tuy trọng lƣợng
và cây số đƣờng chuyên chở trong tiêu chuẩn quy định tƣơng đƣơng nhau, một
đằng phải sửa chữa xe đạp, một đằng phải cho ngựa ăn cũng tốn phí tƣơng
đƣơng nhau nhƣng ngƣời chở hàng bằng xe đạp tốn sức lao động hơn ngƣời chở
hàng bằng ngựa thồ. Thí dụ thứ nhất: anh Ba có xe ngựa giao cho anh Nam mang
đi phục vụ, tiêu chuẩn định trọng lƣợng hàng chuyên chở là 60 kg và đi trong 20
cây số một ngày. Tỷ lệ trọng lƣợng tiêu chuẩn phải trừ vào hàng chuyên chở để
tính công cho ngƣời có ngựa là 25%, tức là 60 x 25/100 =15kg. Anh Nam chở
đƣợc 80kg. Nhƣ vậy trọng lƣợng hàng đã chuyển chở đƣợc trả cƣớc phí là 80kg -
15kg = 65kg. Nếu giá cƣớc phí là 0 kg 500 gạo mỗi tạ 1 cây số thì ngày hôm đó
anh Nam đƣợc trả cƣớc phí bằng 0kg500 gạo x 65/100 x 20 = 6kg500 gạo.
Thí dụ thứ hai: anh Bốn mang xe trâu của anh Tám đi phục vụ. Theo tiêu
chuẩn, xe phải chở 350 kg đi 13 cây số một ngày. Tỷ lệ trừ trọng lƣợng tiêu
chuẩn là 15% tức là : 350kg x 15/100 = 52kg500 gạo. Xe đã chở đƣợc 420 kg.
Vậy anh Bốn đƣợc trả cƣớc phí về 420kg - 52kg500 = 367kg500 hàng đã chuyên
chở. Nếu giá cƣớc là 0kg200 gạo một tạ 1 cây số thì cƣớc phí trả cho anh Bốn
ngày hôm đó là: 0kg200 x 167kg500 x 13/100 = 9kg500 gạo.
Nếu ngƣời có phƣơng tiện vận tải mang theo muốn đƣợc tính công thêm
cho phƣơng tiện vận tải để trừ vào đợt sau, chuyển cho ngƣời trong gia đình hay
đổi cho ngƣời khác thì cƣớc phí trả cho ngƣời đó cũng tính nhƣ cƣớc phí trả cho
ngƣời sử dụng phƣơng tiện vận tải của ngƣời khác. Trong thí dụ thứ nhất trên
đây nếu anh Ba đi phục vụ cũng chở đƣợc 80 kg và nếu muốn đƣợc tính công
cho phƣơng tiện vận tải thì chỉ đƣợc trả cƣớc phí về 65 kg hàng đã chuyển vận
nhƣ anh Nam. Trong thí dụ thứ hai, nếu anh Nam mang xe trâu đi mà cũng chở
đƣợc 420 kg hàng thì cũng đƣợc trả cƣớc phí về 367kg500 hàng chuyên chở nhƣ
anh Bốn.
3) Trả cƣớc phí bằng gạo và tiền (Điều 23, khoản 6, điểm 6), Ban Kinh tế
Chính phủ đã quyết định thi hành việc trả cƣớc phí bằng gạo và tiền nhƣ sau:
35
a/ Trả 50kg bằng một số gạo đủ để ăn và bằng tiền theo giá gạo ở nơi phục
vụ để mua thực phẩm.
b/ Một số gạo cần thiết trả bằng tiền theo giá gạo ở nơi phục vụ để mua
thuốc men khi ốm đau, sửa chữa giữ gìn phƣơng tiện vận tải, chăn nuôi trâu bò,
ngựa kéo xe.
c/ số gạo còn lại trả bằng tiền theo giá gạo trung bình giữa nơi phục vụ và
nơi trú quán.
Thí dụ: anh Hai trú quán ở Thanh Hóa đi dân công tải gạo ở Mộc Châu
trong chiến dịch Tây Bắc đƣợc trả cƣớc phí trong một tháng là 96 kg gạo. Anh
đã ăn 24 kg gạo, chữa xe đạp ở Mộc Châu mất 7.200đ và mua thêm thuốc uống
khi ốm mất 1.200đ công 8.400đ. giá gạo tháng đó ở Mộc Châu là 600đ, ở Thanh
Hóa là 240đ một ki lô. Nhƣ vậy anh Hai đƣợc trả cƣớc phí bằng gạo và tiền nhƣ
sau:
- 24kg gạo để ăn lĩnh ở khi.
- 50 kg - 24 kg gạo trả theo giá gạo ở Mộc Châu, tức là 600đ x 26 =
25.600đ để mua thức ăn và thực phẩm bồi dƣỡng sức khỏe.
- 14kg gạo trả bằng tiền theo giá gạo ở Mộc Châu tức là 600đ x 14 =
8.400đ để chữa xe đạp và mua thuốc men thêm.
- Số gạo đã chi dùng ở Mộc Châu là 24 + 26 + 14 = 64kg. Số còn lại là
96kg - 64kg = 32kg đƣợc trả bằng tiền theo giá gạo trung bình giữa Mộc Châu
và Thanh Hóa là 600 + 240/2 = 420đ một ki lô (tức là 420đ x 32 = 13.440đ)
4.- Vần đề tự túc 7 ngày đầu (Điều lệ mới)
Theo Điều 6 cũ của bản Điều lệ, ngƣời dân công phải tự túc 7 ngày đầu
mỗi đợt. Nhƣ vậy ngƣời đi phục vụ nhiều đợt ngắn trong một năm phải tự túc rất
nhiều ngày, đó là một gánh vác quá nặng cho ngƣời đi dân công, phần lớn là bần
cố nông. Cho nên Điều 6 mới đã quy định lại nhƣ sau: Ngƣời dân công đi phục
vụ đợt từ 5 ngày đến 1 tháng phải tự túc 3 ngày đầu. Ngƣời đi đợt dài trên một
tháng phải tự túc 7 ngày đầu. Những ngƣời phải huy động luôn luôn đi phục vụ
36
những đợt ngắn dƣới 5 ngày thì không phải tự túc. Ngoài ra những ngƣời đi phục
vụ ở tiền tuyến cũng nhƣ ở công trƣờng mà dân chủ bình nghị xét không thể tự
túc đƣợc thì đƣợc hƣởng thù lao kể từ ngày ở xã lên đƣờng đi phục vụ. Về điểm
này Điều 6 mới không phân biệt dân công phục vụ tiền tuyến và dân công phục
vụ công trƣờng.
Từ trƣớc đến nay các địa phƣơng thƣờng đợi đến khi có lệnh huy động
dân công mới tổ chức bình nghị trợ cấp cho ngƣời không tự túc đƣợc nên không
kịp thời và chu đáo. Để tránh tình trạng dân công nghèo thiếu ăn dọc đƣờng, việc
bình nghị trợ cấp cho ngƣời nghèo từ nay phải làm trƣớc, làm cùng lúc bình nghị
xếp loại ngƣời khỏe, yếu, và cứ 6 tháng thì bình nghị lại một lần.
Khi dân công ở xã ra đi, UBKCHC xã sẽ ứng trƣớc thù lao cho những
ngƣời không tự túc đƣợc rồi thanh toán với quỹ quốc gia sau.
5. - Quyền lợi của dân công bị ốm, bị tàn phế, bị hy sinh (Điều 8 mới)
1) Các khoản 1, 2 và 3 của Điều 8 mới đã quy định chi tiết về trƣờng hợp
ngƣời bị thƣơng nặng, ngƣời bị ốm nặng và ngƣời bị ốm hoặc bị thƣơng nhẹ.
Các cơ quan sử dụng dân công cần phối hợp chặt chẽ với cơ quan quân dân y thi
hành cho đúng để bảo đảm sức khỏe và ổn định tinh thần cho dân công đau ốm.
Khi cho dân công đến bệnh viện, cơ quan sử dụng có trách nhiệm bố trí việc
chuyển vận cho đƣợc chu đáo. Đối với dân công bị thƣơng, bị ốm ở tiền tuyến
hoặc ở công trƣờng, khi công việc kết thúc, cơ quan sử dụng cũng có trách
nhiệm phối hợp với cơ quan quân dân y để tổ chức việc chuyển vận về hậu
phƣơng, giao cho các Ty Y tế tỉnh săn sóc cho đến khi lành mạnh.
2) Đối với dân công bị tàn phế (nói ở khoản 6 Điều 8) chủ trƣơng của
Chính phủ là đƣa về xã nhƣ đối với thƣơng binh. Các cấp chính quyền và đoàn
thể có nhiệm vụ vận động các gia đình nuôi giúp. Những ngƣời không trông cậy
vào đâu đƣợc sẽ đƣợc gửi vào trại thƣơng binh và do quỹ tỉnh (quỹ hỗ trợ xã) đài
thọ.

37
3) Đối với dân công bị hy sinh (phần 7 Điều 8 mới), việc mai táng sẽ làm
theo chế độ áp dụng cho bộ đội. Tiêu chuẩn mai táng phí ấn định cho bộ đội là
30 ki lô gạo, nay áp dụng cho dân công bị hy sinh. Cơ quan sử dụng có nhiệm vụ
trong phạm vi tiêu chuẩn, tổ chức việc mai táng cho đƣợc chu tất.
Điều 8 mới đã định ngƣời dân công bị hy sinh trong khi làm nhiệm vụ
đƣợc coi là nhân khẩu nông nghiệp trong 3 năm.
4. Để chiếu cố đến ngƣời dân công bị tàn phế và gia đình dân công bị hy
sinh, Điều 8 mới đã xếp những ngƣời đó vào hạng những ngƣời đƣợc quyền ƣu
tiên trong khi chia cấp ruộng đất. Các cấp chính quyền và đoàn thể cần chú trọng
đặc biệt đến điểm này trong cuộc phát động quần chúng thi hành chính sách
ruộng đất.
II. CÁC ĐIỂM SỬA ĐỔI NHỎ
Ngoài những điểm sửa đổi căn bản nói trên. Nghị định 308 - TTG ngày
10/9/1953 còn sửa đổi về những điểm sau đây:
1. - Về việc miễn đi dân công (Điều 2 mới):
Miễn thêm cho vợ ngƣời thƣơng binh và cho vợ hoặc chồng ngƣời đi dân
công bị tàn phế nếu ngƣời thƣơng binh hoặc ngƣời dân công bị tàn phế phải sống
nhờ vào vợ hoặc chồng, nhƣ vậy để bảo đảm đời sống của những ngƣời đó và để
đề cao ngƣời có công với kháng chiến.
2.- Về việc tạm miễn đi dân công (Điều 3 mới)
a/ Về điểm đàn bà có thai, việc miễn đi dân công trong thời gian từ 5
tháng trƣớc khi đẻ đến 6 tháng sau khi đẻ quy định trƣớc đây không đƣợc sát nên
đã có nhiều trƣờng hợp đàn bà bị xảy thai trong khi phục vụ. Từ nay theo điều
mới, ngƣời đàn bà đƣợc tạm miễn đi dân công kể từ ngày biết có thai. Trong việc
này sẽ căn cứ vào lời khai danh dự của ngƣời đàn bà. Để bảo vệ thiếu nhi và sản
phụ, Điều 3 mới quy định ngƣời đàn bà nuôi con đƣợc tạm miễn đi dân công
trong một năm sau khi đẻ. Sau thời hạn đƣợc tạm miễn một năm ngƣời đàn bà
nuôi con đƣợc huy động làm việc nhẹ và gần nhà cho đến khi con đƣợc 24 tháng.
38
b/ Ngƣời trụ cột gia đình đƣợc tạm miễn phải có 2 điều kiện sau đây:
- Gia đình nghèo có ông bà già, con trẻ, ngƣời tàn tật đƣợc dân chủ bình
nghị công nhận.
- Phải là trụ cột kinh tế, tức là gia đình phải trông cậy vào lao động của
ngƣời đó để sống.
c/ Điều 3 mới còn tạm miễn cho giáo viên các trƣờng tƣ trong những kỳ
nghỉ mùa vì đó là thời gian các giáo viên phải bổ túc thêm.
d/ Ngoài ra việc tạm miễn cho các tƣ nhân cần thiết cho các ngành sản
xuất quan hệ cho quốc phòng từ nay do UBKCHC tỉnh quyết định cho đƣợc
nhanh chóng.
3.- Hoãn đi dân công
a/ Điều 3 mới định lại thời hạn hoãn đi dân công từ 1 đến 4 tháng cho
công chức, công nhân Chính phủ đề ra ngoài biên chế và cho bộ đội giải ngũ.
Điều 3 mới lại thêm những hạng ngƣời sau đây đƣợc hoãn đi dân công:
- Công nhân các xƣởng tƣ bị rãn, hoặc thôi việc sau khi đã làm việc đƣợc
1 năm (khác với công nhân Chính phủ, công nhân các xƣởng tƣ nhân xin thôi
việc thƣờng đã có cơ sở kinh tế vì đƣợc làm ở gần gia đình hoặc ở những nơi để
làm ăn).
- Ngƣời phải tản cƣ vì địch chiếm đóng quê quán (những ngƣời dịch từ nơi
này đến nơi khác để tiếp tục làm ăn không đƣợc hoãn).
- Ngƣời vừa mới bị thiệt hại lớn vì thiên tai địch họa nhƣ vỡ đê, hạn hán,
địch càn quét v.v…
b/ Đối với học sinh các trƣờng phổ thông, nguyên tắc là có thể huy động
đi dân công trong các kỳ nghỉ mùa để giáo dục học sinh về ý thức kháng chiến
và quan điểm lao động, nhƣng chỉ huy động họ đi những đợt ngắn và cho
làm việc gần nhà.
4.- Nghỉ dƣỡng sức hàng tuần

39
Điều 7 mới quy định sau 6 ngày, làm việc liên tiếp, hoặc 5 đêm làm việc
liên tiếp thì dân công đƣợc nghỉ 1 ngày hoặc 1 đêm. Sau khi làm việc 4 ngày hay
3, 4 đêm liên tiếp, nếu dân công vì hoàn cảnh khách quan nhƣ mƣa gió, chờ đợi
mà phải nghỉ việc thì cũng coi nhƣ đã nghỉ thƣờng lệ. Thời gian làm việc 6 ngày
hay 5 đêm liên tiếp lại tính kể từ ngày làm việc sau ngày nghỉ đó.
Dân công theo đơn vị ra tiền tuyến có lúc làm việc liên tiếp 10, 15 ngày
những cũng có lúc nghỉ 2, 3 ngày liền, thì vần đề nghỉ hàng tuần không cần đặt
ra.
Đoạn cuối điều 7 có nhấn mạnh: ngƣời dân công phải bảo đảm hoàn thành
nhiệm vụ công tác trong thời hạn đã định cho nên gặp trƣờng hợp đặc biệt, cấp
bách, ngƣời dân công có nghĩa vụ làm việc cả những ngày nghỉ mà không đƣợc
nghỉ bù về sau. Cần giải thích cho dân công hiểu rõ điểm này để vui vẻ tiến hành
công tac với tinh thần tự nguyện, tự giác những khi cần thiết và bảo đảm kết quả
công tác.
5. - Ban chỉ huy trung đội (Điều 20)
Căn cứ vào sự phân công của cơ quan huy động và sử dụng dân công,
chức Trung đội phó trong Ban chỉ huy Trung đội xét ra không cần thiết (vì cấp
trung đội chỉ là 1 cấp trung gian) nên đã bỏ đi (Điều 2, Nghị định số 308 - TTG
ngày 10 tháng 9 năm 1953).
6.- Biên chế cáng (Điều 20):
Biên chế mới của 1 cáng nay định là 5 ngƣời: 2 ngƣời khiêng, 3 ngƣời
thay đổi và chuyển vận các thứ vật dụng của ngƣời bị thƣơng hay ngƣời ốm.
Những điều mới quy định trên đây để kiện toàn chính sách dân công nhằm
bảo đảm thỏa mãn nhu cầu kháng chiến về nhân lực mà không ảnh hƣởng nhiều
đến công việc sản xuất ở hậu phƣơng. Các cấp chính quyền và đoàn thể, các cơ
quan huy động và sử dụng dân công có nhiệm vụ tổ chức việc phổ biến và sử
dụng dân công có nhiệm vụ tổ chức việc phổ biến và học tập sâu rộng trong cán
bộ và nhân dân. Cán bộ cần nắm vững chính sách để thi hành cho đúng. Nhân
40
dân cần nhận rõ nghĩa vụ cao quý và quyền lợi chính đáng của ngƣời dân công
để hăng hái và tích cực trong công tác. Năng suất của dân công tăng lên thì số
ngày phục vụ hàng năm của mỗi ngƣời sẽ bớt đi. Thực hiện đƣợc đầy đủ những
điều mới quy định sẽ tránh đƣợc nhiều hiện tƣợng lãng phí dân công, việc huy
động và sử dụng dân công sẽ đƣợc công bằng và hợp lý hơn trƣớc, tiết kiệm
đƣợc nhiều nhân tài vật lực, lợi cho sản xuất và lợi cho kháng chiến.
Đính theo đây bản sao toàn bộ bản Điều lệ dân công trong các điều 2, 3, 5,
6, 7, 8, 20, 23, 24 và 25 cũ đã đƣợc thay bằng những điều mới sửa đổi.

Ngày 10 tháng 9 năm 1953


Nguyễn Văn Tạo

ĐIỀU LỆ TẠM THỜI VỀ


HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG DÂN CÔNG
(Đã được sửa đổi ở những điều 2, 3, 5, 6, 7, 8, 20, 23, 24 và 25 theo Nghị
định số 308-TTG ngày 10/9/1953 của Thủ tướng Chín phủ)

Công tác dân công là một trong những công tác kháng chiến trọng yếu. Đó
là hình thức động viên sức lực toàn dân để kháng chiến.
Nhân dân rất hăng hái làm nghĩa vụ kháng chiến, nhƣng việc huy động
chƣa đƣợc công bằng hợp lý, việc sử dụng còn nhiều khuyết điểm do đó lãng phí
nhiều sức dân, có hại đến việc sản xuất.
Công việc kháng chiến ngày càng phát triển sẽ đòi hỏi sự đóng góp nhân
lực ngày thêm nhiều. Cho nên càng phải quy định việc huy động, sử dụng dân
công thật công bằng hợp lý để một mặt bảo đảm nhu cầu kháng chiến, một mặt
tiết kiệm và bồi dƣỡng sức dân, đẩy mạnh phong trào sản xuất và tiết kiệm.

41
I.- NGHĨA VỤ VÀ QUYỀN LỢI NGƢỜI ĐI DÂN CÔNG
A.- Nghĩa vụ
Điều 1.- Công dân từ 18 tuổi đến 50 tuổi có bổn phận đi dân công.
Điều 2. - Đƣợc miễn đi dân công:
- Thƣơng binh;
- Ngƣời tàn tật không thể làm lụng đƣợc;
- Vợ ngƣời thƣơng binh bị tàn phế (nếu dân chủ bình nghị xét ngƣời
thƣơng binh đó phải sống nhờ vào vợ);
- Vợ (hoặc chồng) ngƣời dân công bị tàn phế (nếu dân chủ bình nghị xét
ngƣời dân công đó phải sống nhờ vào vợ hoặc chồng);
- Ngƣời ốm lâu năm có giấy chứng nhận của thầy thuốc; hoặc do dân chủ
bình nghị công nhận;
- Bố mẹ có ba con đi bộ đội.
Điều 3.- Đƣợc tạm miễn đi dân công:
- Bệnh binh trong thời hạn một năm kể từ ngày về nhà;
- Đàn bà có mang;
- Đàn bà đẻ nuôi con trong thời hạn một năm sau khi đẻ. Sau thời hạn tạm
miễn một năm đƣợc huy động làm việc nhẹ ở gần nhà cho đến khi con đƣợc 24
tháng;
- Ngƣời mà gia đình có ông bà già, hoặc con trẻ, hoặc ngƣời tàn tật, đƣợc
dân chủ bình nghị công nhận là nghèo và phải trông vào lao động của ngƣời đó
để sống;
- Công nhân và nhân viên Chính phủ, công nhân và nhân viên các xí
nghiệp quốc gia;
- Cán bộ đoàn thể thoát ly sinh sản, giữ những chức vụ thƣờng xuyên,
đƣợc cấp bộ đoàn thể từ huyện trở lên xét cần thiết phải ở nhà để tiến hành công
tác;
- Giáo viên các trƣờng tƣ;
42
- Học sinh các trƣờng chuyên nghiệp;
- Những cán bộ xã bán thoát ly sinh sản nói trong Thông tƣ số 9-NV-TC
ngày 31 tháng 3 năm 1952 của Bộ Nội vụ;
- Những ngƣời cần thiết cho các ngành sản xuất quan hệ cho Quốc phòng
(ví dụ sản xuất diêm tiêu, than chạy xe v.v…), những Tập đoàn vận tải đang thực
hiện một kế hoạch quốc gia cấp bách. Việc miễn này do UBKCHC tỉnh quyết
định;
Điều 4.- Đƣợc giảm ngày đi dân công:
Đối với cán bộ cấp xã không thoát ly sinh sản đƣơng phụ trách công tác
thật cần thiết cho địa phƣơng mà UBKCHC xã đề nghị, đƣợc dân chủ bình nghị
đồng ý, và UBKCHC tỉnh duyệt y, sẽ đƣợc tính giảm ngày đi dân công.
Điều 5. - Đƣợc hoãn đi dân công:
- Ngƣời ốm có giấy chứng nhận của thầy thuốc hoặc đƣợc dân chủ bình
nghị công nhận;
- Những ngƣời nhà neo và mắc công việc sản xuất, hoặc có ngƣời ốm phải
săn sóc, mà đƣợc dân chủ bình nghị công nhận;
- Công chức, công nhân Chính phủ để ra ngoài biên chế; bộ đội đƣợc giải
ngũ; công nhân các xƣởng tƣ bị rãn, hoặc thôi việc sau khi làm việc một năm trở
lê, ngƣời tản cƣ vì địch chiếm đóng địa phƣơng vẫn ở, đƣợc hoãn đi dân công
trong thời gian từ 1 đến 4 tháng (nếu đƣợc dân chủ bình nghị xét thấy chƣa có
sinh kế vững chắc);
- Học sinh các trƣờng phổ thông công và tƣ trong thời gian đang học.
(Trong lúc nghỉ mùa thì đƣợc huy động đi dân công làm công việc gần).
Trong trƣờng hợp cấp bách, nhƣ địch tấn công, vỡ đê v.v.., những ngƣời
đƣợc hoãn đi dân công trên đây vẫn có thể huy động đƣợc.
B.- Quyền lợi
Điều 6.- Những ngƣời đi dân công phải tự túc:
- 3 ngày đầu, nếu đợt đi dân công dài từ 5 ngày đến một tháng;
43
- 7 ngày đầu, nếu đợt đi dân công dài trên một tháng.
Những nmgƣời luôn luôn phải huy động đi những đợt ngắn dƣới 5 ngày
thì không phải tự túc.
Ngƣời dân công đi phục vụ tiền tuyến hoặc công trƣờng mà đƣợc dân chủ
bình nghị công nhận không thể tự túc đƣợc, thì đƣợc cấp thù lao kể từ ngày ở xã
lên đƣờng đi phục vụ.
Sau những ngày phải tự túc, dân công đƣợc trả thù lao nhƣ sau:
- Dân công thƣờng: 1 kg gạo và 16 gam muối mỗi ngày;
- Hộ lý: 1kg200 gạo và 16 gam muối mỗi ngày;
- Chèo thuyền: 1kg400 gạo và 16 gam muối mỗi ngày.
Tiền thù lao dân công do cơ quan sử dụng đài thọ.
Điều 7.- Để dƣỡng sức dân công, sau 6 ngày làm việc liên tiếp thì dân
công đƣợc nghỉ một ngày, hoặc sau 5 đêm làm việc liên tiếp thì đƣợc nghỉ một
đêm.
Nều vì nhu cầu công tác dân công phải làm việc liên tiếp quá 6 ngày, hoặc
quá 5 đêm, thì cơ quan sử dụng sẽ châm chƣớc mà định ngày nghỉ cho lợi việc.
Ngƣời dân công phục vụ ở tiền tuyến và ở công trƣờng phải lấy công tác
làm chính. Gặp trƣờng hợp đặc biệt, ngƣời dân công có nhiệm vụ làm việc cả
ngày nghỉ.
Điều 8.- 1) Ngƣời dân công phục vụ ở tiền tuyến hay ở công trƣờng bị
thƣơng nặng do tai nạn chiến tranh, hoặc tai nạn lao động đƣợc đƣa vào điều trị
tại các bệnh viện quân y hoặc dân y và đƣợc hƣởng chế độ bồi dƣỡng của thƣơng
binh (4 lạng, 8 lạng hay 1kg 700 gạo mỗi ngày do cơ quan y tế quyết định).
2) Ngƣời dân công ốm nặng trong thời gian phục vụ đƣợc đƣa vào các
bệnh viện quân y hoặc dân y và đƣợc cấp thêm 2 lạng hay 4 lạng gạo mỗi ngày
để bồi dƣỡng sức khỏe.
3) Đối với dân công bị thƣơng hoặc bị ốm ở trƣờng hợp không đƣa đi
bệnh viện, cơ quan sử dụng có trách nhiệm săn sóc chu đáo. Những ngƣời mà
44
nhân viên phụ trách y tế hoặc cơ quan sử dụng xét cần phải bồi dƣỡng, thì đƣợc
thƣởng thêm 2 lạng hay 4 lạng gạo mỗi ngày.
4) Nếu không có điều gì trở ngại, ngƣời dân công bị ốm có thể xin về nhà
điều trị; trong khi đi đƣờng về nhà đƣợc hƣởng thù lao, và tiền bồi dƣỡng (nếu
xét cần đƣợc cấp thêm).
5) Số gạo mà ngƣời ốm ăn không hết, thì có thể không phát gạo mà trả
bằng tiền theo thời giá.
6) Đối với ngƣời dân công bị tàn phế, chính quyền ở địa phƣơng có trách
nhiệm săn sóc và giúp đỡ.
Dân công bị tàn phế thiếu ruộng cày, đƣợc xếp vào hàng những ngƣời
đƣợc quyền ƣu tiên trong khi chia cấp ruộng đất.
7) Đối với dân công bị hy sinh, việc mai táng sẽ làm theo chế độ áp dụng
cho bộ đội. Sự phí tổn do cơ quan sử dụng đài thọ.
Ngƣời dân công bị hy sinh trong khi làm nhiệm vụ đƣợc coi là nhân khẩu
nông nghiệp trong thời hạn 3 năm. Đối với gia đình ngƣời đó, nếu túng thiếu,
chính quyền địa phƣơng sẽ tùy hoàn cảnh mà giúp đỡ; nếu gia đình đó thiếu
ruộng cày thì đƣợc xếp vào hàng những ngƣời đƣợc quyền ƣu tiên trong khi chia
cấp ruộng đất.
C.- Kỷ luật
Điều 9.- Ngƣời dân công có nhiệm vụ:
- Quý trọng, bảo vệ của công.
- Không phạm tài sản của nhân dân.
- Giữ bí mật quốc gia.
- Chăm chỉ làm việc, làm tròn nhiệm vụ, đi cho hết đợt dân công.
- Thi hành đúng nội quy công dân.
Ai không làm đúng những điều trên thì sẽ bị phạt (phê bình, cảnh cáo, làm
thêm ngày, đƣa ra tòa).

45
Những ngƣời dân công có thành tích tốt sẽ đƣợc khen thƣởng (hình thức
khen thƣởng).
Thƣởng, phạt đều phải do dân chủ bình nghị định.
Điều 10.- Khi hết hạn đi dân công, cơ quan sử dụng dân công phải bình
công, lựa chọn ngƣời gƣơng mẫu, tổng kết công tác và báo cáo kết quả cho
UBKCHC xã (nơi có dân công đi phục vụ) để Ủy ban nêu gƣơng những ngƣời
đƣợc khen thƣởng, ngƣời dân công phải hăng hái tham gia bình công.
Điều 11.- Ai trốn tránh; chống lại nghĩa vụ đi dân công sẽ bị đƣa ra tòa án
và bị phạt tù từ 1 đến 6 tháng (chiểu theo điều 6 Sắc lệnh số 93-SL ngày
22/5/51950) đặt nghĩa vụ kháng chiến.
II. NHỮNG VIỆC CẦN HUY ĐỘNG DÂN CÔNG ĐỂ LÀM
Điều 12.- Dân công chỉ đƣợc dùng trong những công tác sau đây:
- Chuẩn bị chiến trƣờng, phục vụ chiến dịch, làm các công tác cấp bách
trong khi thu hồi các đô thị, (tiếp tế, làm công tác vệ sinh v.v..)
Vận tải lƣơng thực, tiền bạc, dụng cụ, vật liệu cho Chính phủ; cho bộ đội.
- Làm các kho thóc.
- Làm và sửa chữa đƣờng, cầu, đặt đƣờng dây thép.
- Đắp đê, hộ đê, bảo vệ và sửa chữa các công trình thủy nông.
- Làm những công tác bảo vệ, chiến đấu để chống địch trong địa phƣơng
nhƣ: bảo vệ mùa màng, làm công tác phá hoại để ngăn địch, làm công sự, rào
làng chiến đấu, cấp cứu, sửa chữa những nơi bị địch phá hoại v.v…
- Ngoài các công việc trên ra, không đƣợc sử dụng dân công vào những
công việc khác, trừ trƣờng hợp đƣợc Chính phủ Trung ƣơng hay UBKCHC liên
khu cho phép.
Trong việc sử dụng dân công, ƣu tiên sẽ dành cho việc phục vụ chiến dịch,
chống thiên tai và địch phá hoại.
III.- NHỮNG CƠ QUAN CÓ QUYỀN SỬ DỤNG DÂN CÔNG
Điều 13.- Các cơ quan dƣới đây, đƣợc sử dụng dân công:
46
- Cơ quan quân sự: Bộ Tổng tham mƣu, Tổng cục Chính trị, Tổng cục
Cung cấp, Bộ Tổng Tƣ lệnh liên khu, Tỉnh đội bộ, các ban chỉ huy từ cấp tiểu
đoàn trở lên, bộ đội chủ lực và bộ đội địa phƣơng.
- Các xí nghiệp Quốc phòng (Quân giới, Quân nhu, Vận tải v.v…)
- Các cơ quan chính quyền: Chính phủ Trung ƣơng, UBKCHC liên khu,
UBKCHC tỉnh, các cấp giao thông công chính từ tỉnh trở lên, các cấp sở kho
thóc.
- Cơ quan Y tế của Bộ quốc phòng, Tổng tƣ lệnh, Bộ Tƣ lệnh liên khu của
các Đại đoàn, Trung đoàn, của các cơ quan Dân y trong việc tải thƣơng.
- Các cơ quan khác đƣợc Chính phủ Trung ƣơng hay UBKCHC liên khu
cho phép.
- UBKCHC xã (trong phạm vi 10 ngày công mà mỗi công dân đóng góp
hàng năm vào công ích xã.
Điều 14.- Các cơ quan sử dụng dân công phải báo cáo tình hình và thành
tích dân công kèm theo những nhận xét cho cơ quan huy động dân công.
IV. - NHỮNG CƠ QUAN CÓ QUYỀN HUY ĐỘNG DÂN CÔNG
Điều 15.- Các UBKCHC từ cấp tỉnh trở lên có quyền ra mệnh lệnh huy
động dân công, bộ đội và các cơ quan khác không có quyền này.
Trong trƣờng hợp cấp bách phải đối phó ngay (ví dụ: giặc tấn công, địch
phá hoại, đê vỡ, v.v…) UBKCHC huyện, xã có quyền huy động dân công.
V. - THI HÀNH VIỆC HUY ĐỘNG DÂN CÔNG
Điều 16.- Việc huy động dân công phải có kế hoạch để tránh lãng phí và
đƣợc công bằng, nhằm mục đích bảo đảm nhu cầu nhân lực phục vụ kháng chiến
đồng thời đảm bảo nhu cầu nhân lực phục vụ sản xuất và thắt chặt sự đoàn kết
trong nông thôn.
Điều 17.- Các UBKCHC liên khu tỉnh, huyện khi phân bổ mức cho cấp
dƣới phải căn cứ vào số dân công cần thiết, khả năng dân công và công tác sản
xuất của mỗi địa phƣơng. Trong lúc giao nhiệm vụ cho địa phƣơng, phải nói rõ
47
thời hạn của đợt đi dân công huy động bao nhiêu dân công để làm việc gì và dân
công phải chuẩn bị những gì.
Điều 18.- Những cơ quan Quân, Chính cần dân công phải trình bày kế
hoạch sử dụng dân công với UBKCHC từ cấp tỉnh trở lên.
VI. - TỔ CHỨC DÂN CÔNG
A. Cách lấy dân công ở xã.
Điều 19.- UBKCHC xã khi huy động số dân công trên giao cho, phải căn
cứ vào sức khỏe của từng ngƣời và công tác sản xuất của từng gia đình, phải tính
luân phiên cho công bằng.
Hội đồng nhân dân xã và các đoàn thể nhân dân (Nông hội xã) giúp
UBKCHC tổ chức, hƣớng dẫn nhân dân bình nghị để thực hiện việc huy động
dân công cho công bằng, hợp lý.
B. - Biên chế
Điều 20.- Dân công biên chế thành tiểu đội, trung đội, đại đội:
1) Dân công gánh 15 ngƣời thành 1 tiểu đội, tiểu đội trƣởng do dân công
bầu; 3 tiểu đội thành một trung đội, trung đội trƣởng, chính trị viên do UBKCHC
xã giới thiệu để dân công bầu; 3 trung đội thành 1 đại đội, đại đội trƣởng, đại đội
phó, chính trị viên do UBKCHC huyện chỉ định.
2) Một cáng 5 ngƣời, 3 cáng thành 1 tiểu đội, tiểu đội trƣởng do dân công
bầu ra; 3 tiểu đội thành 1 trung đội; trung đội trƣởng, chích trị viên do UBKCHC
xã giới thiệu để dân công bầu; 3 trung đội thành 1 đại đội, đại đội trƣởng, đại đội
phó, chính trị viên do UBKCHC huyện chỉ định.
3) Dân công làm các loại công việc khác thì tùy tính chất công việc ấy mà
biên chế thành tiểu đội, trung đội, đại đội.
Điều 21.- Dân công có thể đem theo những phƣơng tiện vận tải (xe cộ,
thuyền bè, súc vật vận tải (trâu, bò, ngựa trƣớc khi đẻ 2 tháng và sau khi đẻ 3
tháng không đƣợc đem theo đi phục vụ). Công tính cho những phƣơng tiện ấy sẽ
tính vào công của ngƣời chủ.
48
Điều 22.- Các phƣơng tiện vận tải sẽ theo biên chế dƣới đây:
1) Xe trâu, xe bò, xe ngựa, thì có 5 chiếc thành một tiểu đội.
2) Xe đạp thồ thì cứ 10 chiếc thành một tiểu đội.
3) Các phƣơng tiện khác (thuyền, ngựa…) thì tùy hoàn cảnh tổ chức cho
thích hợp với việc điều khiển.
C.- Chế độ làm việc và tiêu chuẩn tính công
Điều 23.- Công tính cho dân công căn cứ vào khối lƣợng công tác đã làm.
Tiêu chuẩn tính công do cơ quan sử dụng dân công, cán bộ dân công và
dân công bình nghị ấn định, căn cứ vào hoàn cảnh và điều kiện công tác (trời
mƣa nắng, đƣờng bằng, đƣờng dốc, đi ban ngày, đi ban đêm, đất rắn, đất mềm,
v.v…)
Tiêu chuẩn chung để tính công, cách trả thù lao và trả tiền công cho dân
công quy định nhƣ sau:
A. - Dân công gánh và cáng
1) Gánh:
- Gánh nặng từ 20 đến 30 kg;
- Đi đƣờng bằng ban ngày, từ 20 đến 25 cây số, ban đêm từ 15 đến 20 cây
số;
Đi đƣờng núi ban ngày, từ 15 đến 20 cây số, ban đêm từ 12 đến 18 cây số.
Mỗi ngày làm nhƣ vậy tính một công và trả thù lao 1 cân gạo nhƣ đã định
ở điều 6.
2) Cáng:
- Đi mỗi ngày hoặc mỗi đêm tính một công và trả thù lao 1 cân gạo định ở
điều 6.
B. - Dân công cuốc đất, đắp đất, gánh đá, rẫy cỏ, phát cây, v.v…
Tiêu chuẩn tính công do cơ quan sử dụng dân công, cán bộ dân công và
dân công bình nghị ấn định cho mỗi loại công tác. Sẽ căn cứ vào công tác làm
đúng tiêu chuẩn để tính công và trả thù lao.
49
C. - Dân công vận tải bằng xe, thuyền
Dân công vận tải bằng xe, thuyền đƣợc tính công và trả thù lao, hoặc cƣớc
phí.
Cƣớc phí nói ở các khoản dƣới đây là “cƣớc phí phục vụ”, do những
ngƣời vận tải bình nghị và cơ quan sử dụng ấn định, căn cứ một mặt vào cƣớc
phí ở thị trƣờng, một mặt vào khả năng tài chính quốc gia. Cƣớc phí này có thể
thấp hơn cƣớc phí ở thị trƣờng, nhƣng phải đủ để đảm bảo bồi dƣỡng sức khỏe
cho ngƣời dân công, để đền bù hao mòn, giữ gìn, sửa chữa xe, thuyền và chăn
nuôi súc vật.
1) Vận tải bằng xe đạp, ngựa thồ, xe trâu, xe bò, xe ngựa:
a) Xe đạp tải từ 60 kg đến 100 kg, mỗi ngày đi từ 20 đến 25 cây số.
b) Ngựa thồ tải từ 60 kg trở lên, mỗi ngày đi trung bình 20 cây số.
c) Xe trâu tải từ 350 kg trở kên, mỗi ngày đi trung bình 12 cây số.
d) Xe bò tải từ 250 kg trở lên, mỗi ngày đi trung bình 15 cây số.
e) Xe ngựa tải từ 250 kg trở lên, mỗi ngày đi trung bình 20 cây số.
Ngƣời có phƣơng tiện vận tải thực hiện đƣợc tiêu chuẩn công tác nói trên
đƣợc tính một công và trả cƣớc phí về trọng lƣợng hàng chuyên chở.
2) Vận tải bằng thuyền:
Trọng lƣợng hàng phải chuyên chở, mỗi ngày phải đi bao nhiêu cây số, do
cơ quan sử dụng ấn định tùy theo thuyền nhớn hoặc nhỏ, mới hoặc cũ, đi ngƣợc
hoặc đi xuôi, đi ban ngày hoặc đi đêm v.v..
Mỗi ngƣời phục vụ trên thuyền mỗi ngày đƣợc tính một công.
Việc trả công chuyên chở định nhƣ sau:
a) Thuyền buôn, đò dọc, đò ngang, thuyền chài, trọng tải: trên một tấn,
đƣợc trả cƣớc phí về trọng lƣợng hàng chuyên chở;
b) Thuyền buôn, đò dọc, đò ngang, thuyền chài, trọng tải: dƣới một tấn
đƣợc chọn một trong hai cách sau đây:
- Hoặc trả cƣớc phí nhƣ thuyền trọng tải trên một tấn,
50
- Hoặc trả thù lao 1 kg 400 gạo cho mỗi ngƣời chèo thuyền.
c) Thuyền nan nhỏ, thuyền độc mộc đƣợc trả thù lao 1 kg 400 gạo mỗi
ngày cho mỗi ngƣời chèo thuyền.
d) Những thuyền đƣợc trả công theo chế độ thù lao, ngoài số thù lao còn
đƣợc hƣởng tiền bồi thƣờng hao mòn. Tiền bồi thƣờng hao mòn sẽ định căn cứ
vào trị giá chiếc thuyền đƣợc bình nghị khi huy động và tỷ lệ hao mòn đƣợc bình
nghị sau thời hạn phục vụ. Nếu sau thời hạn phục vụ thuyền đã bị hƣ hỏng đến
80 phần trăm thì đƣợc bồi thƣờng bằng trị giá chiếc thuyền đã bình nghị.
3) Trường hợp người có phương tiện vận tải giao cho người khác mang đi
phục vụ.
Mỗi ngày thực hiện đƣợc tiêu chuẩn công tác, ngƣời có phƣơng tiện vận
tải và ngƣời sử dụng, mỗi ngƣời đƣợc tính một công.
Ngƣời có phƣơng tiện vận tải không đƣợc trả cƣớc phí hoặc thù lao.
Ngƣời sử dụng phƣơng tiện vận tải đƣợc trả cƣớc phí về trọng lƣợng số
hàng đã chuyên chở trừ đi một phần bằng từ 10 đến 25 phần trăm trọng lƣợng
hàng tối thiểu phải chuyên chở định ở tiêu chuẩn. (Phần không đƣợc trả cƣớc phí
coi nhƣ trọng lƣợng hàng mà ngƣời có phƣơng tiện vận tải phải chuyên chở để
đƣợc tình công, và do cơ quan sử dụng ấn định tùy theo từng loại phƣơng tiện
vận tải)
4) Người có phương tiện vận tải mang theo đi phục vụ có thể xin trả cƣớc
phí theo cách định ở khoản 3 trên đây (cho ngƣời sử dụng phƣơng tiện vận tải
của ngƣời khác) để đƣợc tính công thêm cho phƣơng tiện vận tải.
Công tính thêm cho phƣơng tiện vận tải có thể dùng để trừ vào đợt sau,
hoặc chuyển cho ngƣời trong gia đình, hoặc đổi cho ngƣời khác.
5) Cước phí trả theo tạ - Cây số căn cứ vào trọng lƣợng hàng đã chuyên
chở.
Chuyến xe thuyền trở về không có hàng chở thì không đƣợc trả cƣớc phí,
những ngƣời đƣợc tính mỗi ngày một công.
51
Cƣớc phí trả bằng tiền và gạo cho ngƣời có phƣơng tiện vận tải nhƣ sau:
1/ Một phần trả bằng gạo để ăn.
2/ Một phần bằng tiền theo giá gạo nơi phục vụ để mua thức ăn, thuốc
men bồi dƣỡng sức khỏe cho ngƣời dân công, giữ gìn sửa chữa phƣơng tiện vận
tải và chăn nuôi trâu, bò, ngựa tại chỗ.
3/ Phần còn lại trả bằng tiền theo giá gạo trung bình giữa nơi phuc vụ và
nơi ngƣời có phƣơng tiện vận tải trở về để tiếp tục làm ăn.
6) Người mang phương tiện vận tải không được hưởng thù lao những
ngày nghỉ thường lệ.
Những ngày phải chờ đợi thì đƣợc hƣởng thù lao nhƣ sau:
- Ngƣời: 1kg400 gạo mỗi ngày
- Trâu: 1kg 000 gạo mỗi ngày
- Ngựa: 1kg200 gạo mỗi ngày.
D.- Huy động trâu để kéo gỗ
Mỗi ngày phục vụ trả thù lao 1kg gạo và tính một công cho chủ có trâu.
E. - Nếu phƣơng tiện vận tải bị hƣ hỏng lớn vì tai nạn xảy ra, không
do sự bất cẩn của ngƣời chủ, hoặc ngƣời mang đi phục vụ, thì đƣợc bồi thƣờng.
Số tiền bồi thƣờng do dân chủ bình nghị và cơ quan sử dụng ấn định một cách
thỏa đáng.
Điều 24. - Để khuyến khích mỗi ngƣời phát huy khả năng, sáng kiến làm
tăng năng suất, và đồng thời để dân công có điều kiện bỗi dƣỡng sức khỏe, nay
áp dụng hai chế độ:
- Khoán công,
- Thƣởng năng suất.
1) Khoán công:
Phải tranh thủ trong mọi trƣờng hợp giao công việc cho các đơn vị dân
công làm khoán. Đơn vị nào làm nhanh, làm tốt theo đúng tiêu chuẩn, yêu cầu,
và xong trƣớc thời hạn, nếu là dân công công trƣờng thì đƣợc về trƣớc; nếu là
52
dân công phục vụ chiến dịch thì việc cho về trƣớc hay giữ lại do cơ quan sử dụng
quyết định. Nếu đƣợc giữ lại, những ngày công làm thêm đƣợc trừ vào đợt sau,
hoặc chuyển cho ngƣời trong gia đình, hoặc đổi cho ngƣời khác.
2) Thưởng năng suất: Trƣờng họp giao làm khoán đƣợc thì áp dụng chế độ
thƣởng năng suất cho cá nhân hoặc đơn vị.
Làm vƣợt mức bao nhiêu phần trăm thì đƣợc hƣởng thêm ngần ấy phần
trăm thù lao.
Công làm dôi ra do tăng năng suất đƣợc tính để về trƣớc. Nếu ở lại làm
việc thì đƣợc trừ vào đợt sau, hoặc chuyển cho ngƣời trong gia đình, hoặc đổi
cho ngƣời khác.
Tiền thƣởng năng suất đƣợc trả vào những ngày cấp phát để dân công kịp
thời bồi dƣỡng sức khỏe.
Tiền thƣởng năng suất và tiền công khoán do đơn vị bình nghị chia cho cá
nhân theo nguyên tắc:
- Ngƣời nào tăng năng suất thì đƣợc hƣởng;
- Ngƣời tăng năng suất nhiều hƣởng nhiều, tăng ít hƣởng ít.
Điều 25:
1) Những ngày làm việc đƣợc tính và ghi công. Ngày đi, về, nghỉ, ngày
nằm chờ, ngày ốm nhẹ, không đƣợc tính công nhƣng vẫn đƣợc trả thù lao.
2) Khi đi và khi về, dân công phải đi trung bình mỗi ngày 25 cây số. Đối
với ngƣời có mang theo phƣơng tiện vận tải thì tùy theo phƣơng tiện vận tải đi
nhanh hay chậm, đƣờng khó đi hay dễ đi,v.v.. mà định mỗi ngày phải đi bao
nhiêu cây số.
3) Những ngƣời vì nhu cầu công tác phải ở lại làm thêm sau thời hạn đã
định thì số công làm thêm đƣợc trừ vào đợt sau, hoặc chuyển cho ngƣời trong gia
đình, hoặc đổi cho ngƣời khác.
D. - Tổ chức giúp đỡ những gia đình có ngƣời đi dân công

53
Điều 26.- Để cho việc sản xuất không bị đình trệ, để thực hiện đoàn kết và
tƣơng trợ giữa ngƣời đi dân công và ngƣời ở nhà, UBKCHC và Nông hội xã có
nhiệm vụ tổ chức đổi công (hoặc làm giúp) cho những ngƣời đi dân công.
Đối với những ngƣời đi dân công quá hạn định, UBKCHC và Nông hội xã
có nhiệm vụ huy động ngƣời đến làm cho gia đình họ. Khi ngƣời dân công về có
thể hoặc không làm trả công; nếu làm trả công thì số ngày làm trội sẽ tính vào
công mình và đƣợc trừ vào đợt dân công sau; nếu không làm trả công thì số ngày
công ấy sẽ tính cho những ngƣời đến làm giúp (coi những ngƣời ấy nhƣ đã đi
dân công).
VII.- NHIỆM VỤ VÀ QUYỀN LỢI CỦA CÁN BỘ DÂN CÔNG
Điều 27.- Ngƣời cán bộ dân công có nhiệm vụ:
1) Đƣa dân công đi và về, dìu dắt giúp đỡ dân công làm việc xong đƣa dân
công về.
2) Điều hòa phân phối công tác cho dân công, đôn đốc và theo dõi dân
công làm việc.
Chăm nom chỗ ăn, chỗ ở, sức khỏe cho dân công.
Tổ chức thi đua, tổ chức bình công để chọn và đề cao ngƣời dân công có
thành tích.
3) Tổ chức sinh hoạt chính trị cho dân công, nâng cao tinh thần tƣơng trợ,
đoàn kết giữa dân công.
4) Tổ chức những hội nghị dân công để kiểm điểm công tác, kiểm điểm
việc thi hành nội quy.
5) Nêu tác phong gƣơng mẫu, dân chủ, quý trọng và tiết kiệm sức dân.
Điều 28.- Để cho cán bộ dân công có thể làm tròn nhiệm vụ và lãnh đạo,
các cán bộ dân công chỉ huy từ trung đội, đại đội đƣợc miễn công tác lao động.
Điều 29.- Việc thƣởng phạt sẽ căn cứ vào 9 điều trên.

54
Điều 30.-
1) Cán bộ bị thƣơng hay bị bệnh trong khi đi công tác ở tiền tuyến sẽ đƣợc
đƣa đến bệnh viện điều trị.
Cán bộ bị thƣơng hay bị bệnh trong lúc làm công tác ở hậu phƣơng thì cơ
quan sử dụng dân công hay chính quyền và đoàn thể địa phƣơng có nhiệm vụ săn
sóc họ.
2) Cán bộ bị hy sinh trong lúc công tác đƣợc coi là nhân khẩu nông nghiệp
trong việc tính thuế nông nghiệp.
Điều 31.- Những Điều đã quy định về dân công trái với bản Điều lệ này
đều bãi bỏ.
Điều 32.- Bộ Lao động phụ trách sự theo dõi thi hành Điều lệ tạm thời này
về huy động và sử dụng dân công.

Ban hành theo Nghị quyết của Hội đồng


Chính phủ ngày 30 tháng 6 năm 1952.
KT. Thủ Tƣớng Chính phủ
Phó Thủ tƣớng

Phạm Văn Đồng

Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Công báo năm 1953, số 9 và 10, tờ 118-
128

55
Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân kỷ niệm 7 năm kháng
chiến toàn quốc, tháng 12/1953.

56
LỜI KÊU GỌI CỦA HỒ CHỦ TỊCH
NHÂN NGÀY KỶ NIỆM 7 NĂM KHÁNG CHIẾN TOÀN QUỐC

Bƣớc sang năm thứ 8 của cuộc kháng chiến kiến quốc, tôi rất vui mừng
báo cáo với toàn thể đồng bào và chiến sĩ một thắng lợi chính trị rất to lớn của
chúng ta: Đầu tháng 12 vừa qua, Quốc hội nƣớc Việt Nam Dân chủ Công hòa đã
nhất trí nhiệt liệt thông qua Luật cải cách ruộng đất để thực hiện ngƣời cày có
ruộng.
Từ ngày thực dân Pháp bội ƣớc, gây ra chiến tranh xâm lƣợc nƣớc ta, và
nhân dân ta kiên quyết đứng lên kháng chiến để giữ gìn độc lập của Tổ quốc, thì
tình hình đã thay đổi nhiều: lúc đầu tình hình thế giới và tình hình trong nƣớc
đều khó khăn cho ta. Nhƣng tình hình thế giới phát triển ngày càng rất có lợi cho
cuộc kháng chiến của ta. Lực lƣợng hòa bình, dân chủ thế giới do Liên Xô đừng
đầu ngày càng vững vàng và phát triển, đã mạnh hơn nhiều lực lƣợng của phe đế
quốc gây chiến.
Ở trong nƣớc thì cuộc kháng chiến anh dũng của nhân dân ta ngày càng
thêm mạnh và đã thu đƣợc nhiều thắng lợi vẻ vang về mọi mặt: quân sự, chính
trị, kinh tế, văn hóa. Chúng ta đã đánh cho địch những đòn nặng nề, đã làm cho
địch thua thiệt đau đớn. Bẩy năm qua, chúng ta đã tiêu diệt hơn 32 vạn quân
địch, đã làm cho địch thiếu hụt binh sĩ. Để cứu vớt thất bại ấy, địch ra sức thực
hiện âm mƣu “dùng ngƣời Việt đánh ngƣời Việt”, gấp rút mở rộng ngụy quân;
song nhƣ thế thì khác nào uống thuốc độc cho đỡ khát. Bẩy năm qua, địch đã hao
tổn 3 triệu bạc Pháp, vì vậy mà kinh tế tài chính của địch kiệt quệ, chúng phải
quỵ lụy xin xỏ Mỹ, ngày càng phụ thuộc vào Mỹ, đế quốc Mỹ thì nhân đó mà nô

57
dịch nhân dân Pháp và trực tiếp can thiệp vào chiến tranh Việt - Miên - Lào,
hòng thay thế địa vị Pháp ở Đông Dƣơng.
Những sự thật đó đã chứng tỏ thế địch ngày càng yếu, thế ta ngày càng
mạnh.
Vì cuộc kháng chiến của ta là chính nghĩa cho nên nhân dân Pháp và nhân
dân các nƣớc bị Pháp thống trị, cùng nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới ủng
hộ ta, và đấu tranh ngày thêm mạnh chống cuộc chiến tranh xâm lƣợc ở Việt
Nam.
Nhân dịp này, tôi thay mặt nhân dân Việt Nam gửi lời thân ái chào nhân
dân Pháp và nhân dân các nƣớc bị Pháp thống trị. Tôi cảm ơn giai cấp công nhân
thế giới đã lấy ngày hôm nay làm “Ngày Quốc tế tích cực đoàn kết với nhân dân
Việt Nam”, và cảm ơn nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới đã hăng hái ủng
hộ cuộc kháng chiến của Việt Nam.
Vì độc lập dân tộc và hòa bình thế giới mà quân và dân ta kháng chiến rất
anh dung và đã thu nhiều thắng lợi to lớn. Với sức đoàn kết kháng chiến ngày
thêm mạnh của nhân dân ta, với sự ủng hộ ngày thêm tích cực của nhân dân
Pháp và nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới, cuộc kháng chiến của ta nhất
định thắng lợi.
Bởi thực dân Pháp cứ tiếp tục cuộc kháng chiến xâm lƣợc, cho nên nhân
dân Việt Nam quyết đánh mạnh hơn nữa, tiêu diệt sinh lực địch nhiều hơn nữa,
quyết kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng. Nhƣng nếu Chính phủ Pháp muốn đi
đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thƣơng lƣợng và muốn giải quyết vấn đề
Việt Nam theo lối hòa bình, thì nhân dân và Chính phủ nƣớc Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa cũng sẵn sàng nói chuyện.
Vậy, để thực hiện độc lập thật sự và hòa bình thật sự, quân và dân ta phải
ra sức làm trong hai nhiệm vụ trung tâm là đẩy mạnh kháng chiến và cải cách
ruộng đất. Hai nhiệm vụ ấy gắn liền chặt chẽ với nhau: phải cải cách ruộng đất

58
để bồi dƣỡng lực lƣợng nhân dân, đảm bảo kháng chiến thắng lợi. Phải đẩy mạnh
kháng chiến để đảm bảo cải cách ruộng đất thành công.
Cũng nhƣ công việc kháng chiến, cải cách ruộng đất là một cuộc đấu tranh
to lớn; cho nên công tác phát động quần chúng phải rất cẩn thận, phải có kế
hoạch đầy đủ, phải có lãnh đạo chặt chẽ, phải tuyệt đối tránh tự ý phát động - thì
cải cách ruộng đất sẽ chắc chắn thành công.
Hỡi đồng bào toàn quốc!
Hỡi toàn thể chiến sĩ và cán bộ!
Chúng ta hãy ra sức thi đua làm tròn hai nhiệm vụ trung tâm ấy để thực
hiện độc lập hoàn toàn cho Tổ quốc ta và hòa bình thật sự cho nhân dân ta.
Kháng chiến nhất định thắng lợi!
Kiến quốc nhất định thành công!

Chào thân ái và quyết thắng


Hồ Chí Minh

Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Công báo năm 1953, số 12, tờ 145-146

59
Trích công điện số 603-PL ngày 12/12/1953 của Thủ Tƣớng Phủ giải
thích v/v thi hành Sắc lệnh số 129-SL ngày 16/12/1952 đặt các bảng “Bảng
vàng danh dự” và “Gia đình vẻ vang”.

60
THỦ TƢỚNG PHỦ
Gửi: UBKCHC các Liên khu Việt Bắc, 3, 4, 5,
Khu Tây Bắc, Tả Ngạn, Hà Nội, Nam Bộ.

I. - Xin giải thích thêm về việc thi hành sắc lệnh số 129-SL ngày
16/12/1952 đặt bảng “Bảng vàng danh dự và Gia đình vẻ vang” nhƣ sau:
1) Ngƣời tòng quân là ngƣời đã ký giấy nhập ngũ và đƣợc hƣởng chế độ
quân nhân. Nhân viên các cơ quan quân sự không ký giấy nhập ngũ mà vẫn theo
chế độ nhân viên không đƣợc coi nhƣ ngƣời tòng quân.
2) Ngƣời đã lập công là ngƣời có thành tích về chiến đấu, trực tiếp phục
vụ chiến đấu, học tập và về kháng chiến nói chung nhƣ võ trang tuyên truyền, trừ
gian, diệt tề, địch vận, chống địch bắt phu, bắt lính, chống địch để bảo về sản
xuất, phá hoại kinh tế địch v.v… mà đƣợc từ các cấp chỉ huy trung đoàn, tỉnh đội
dân quân hoặc UBKCHC tỉnh trở lên cấp giấy khen, bằng khen hoặc thƣởng
huân chƣơng.
3) Các quân nhân thuộc bộ đội địa phƣơng chƣa nhập ngũ đủ 2 năm và
dân quân du kích chƣa lập công, nếu trong khi chiến đấu hoặc làm công vụ đã hy
sinh, hoặc bị thƣơng mà không thể tham gia chiến đấu đƣợc nữa thì đƣợc tính
trong việc tặng thƣởng.
4) Các quân nhân thuộc bộ đội địa phƣơng và bộ đội chủ lực trong trƣờng
hợp bị địch bắt mà nay chƣa biết rõ thái độ trong khi bị bắt nhƣ thế nào, thì vẫn
đƣợc tính trong việc tặng thƣởng. Nếu sau điều tra thấy ngƣời đó theo địch sẽ thu
hồi bản đã tặng thƣởng.
5) Các em thiếu sinh quân trƣớc đây đã tham gia công tác trong quân đội
thì đƣợc tính. Các em hiện là học sinh trƣờng Thiếu nhi mà trƣớc đây không
tham gia công tác trong quân đội thì không đƣợc tính.

61
II. - Yêu cầu UBKCHC các LK Việt Bắc, 3, 4, Tây Bắc, Tả Ngạn gửi gấp
lên Bộ Quốc phòng danh sách các gia đình đƣợc đề nghị khen thƣởng.
Danh sách gồm các cột sau đây:
1) Số thứ tự;
2) Tên, họ, nghề nghiệp, địa chỉ chủ gia đình;
3) Thành phần gia đình;
4) Tên, họ, tuổi những ngƣời tòng quân;
5) Cấp bậc, đơn vị, ngày nhập ngũ các ngƣời tòng quân;
6) Chú thích;
Các nơi nào chƣa làm danh sách theo mẫu chung nhƣ trên đây thì phải làm
lại.

TRẦN QUÝ KIÊN

Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Công báo năm 1953, số 12, tờ 147

62
Nghị định số 315-TTg ngày 26/12/1953 của Thủ Tƣớng Phủ v/v thành
lập các Phòng Dân công ở Trung ƣơng, khu và tỉnh.

63
THỦ TƢỚNG CHÍNH PHỦ
Chiểu Nghị quyết của Hội đồng Chính phủ ngày 27/7/1953 thành lập các
Hội đồng Cung cấp Mặt trận;
Chiểu Nghị quyết của Hội đồng Chính phủ chuyển công tác dân công và
bộ máy huy động dân công của Bộ Lao động sang Hội đồng Cung cấp Mặt trận
Trung ƣơng.
Nghị Định:

Điều 1.- Nay thành lập:


- Phòng Dân công Trung ƣơng trực thuộc Hội đồng Cung cấp Mặt trận
Trung ƣơng,
- Các phòng Dân công khu, tỉnh.
Tại các khu, tỉnh có thành lập Hội đồng Cung cấp Mặt trận thì Phòng Dân
công trực thuộc Hội đồng Cung cấp Mặt trận.
Tại các khu, tỉnh chƣa thành lập hội đồng Cung cấp Mặt trận thì Phòng
Dân công đặt dƣới quyền lãnh đạo trực tiếp của UBKCHC cấp tƣơng đƣơng.
Ở cấp huyện và cấp xã công tác dân công do một ủy viên trong UBKCHC
phụ trách.
Điều 2.- Các Phòng Dân công các cấp có những nhiệm vụ và quyền hạn
sau đây:
1) Phổ biến, hƣớng dẫn học tập chính sách, điều lệ dân công ở các cấp
chính quyền và đoàn thể. Phối hợp với các cơ quan Tuyên truyền và Văn nghệ,
các tổ chức quần chúng để tuyên truyền và giáo dục nghĩa vụ và quyền lợi của
dân công cho nhân dân.
2) Hƣớng dẫn và theo dõi việc bình nghị phân loại dân công; nắm khả
năng về nhân lực của các địa phƣơng.

64
3) Tập trung các nhu cầu về dân công của các ngành; đặt kế hoạch huy
động dân công cho từng thời gian, điều hòa và phối hợp các việc huy động và
phân phối dân công cho đƣợc công bằng, hợp lý, lợi cho sản xuất.
4) Kiểm tra, đôn đốc, theo dõi việc thi hành chính sách và điều lệ dân
công, và đặc biệt ở những nơi tập trung đông dân công làm công tác cung cấp
mặt trận, sửa chữa cầu đƣờng, vận tải.v.v..
Tổ chức và hƣớng dẫn việc ghi công cho dân công.
5) Sơ kết, tổng kết, phổ biến kinh nghiệm công tác dân công; hƣớng dẫn
theo dõi việc thi đua, đề nghị khen thƣởng.
6) Nghiên cứu và đề nghị các vấn đề về chính sách và điều lệ dân công.
Điều 3.- Tại các tỉnh, huyện mỗi khi phải huy động dân công, nếu xét cần
thiết, sẽ thành lập mỗi nơi một Ban Cán sự có nhiệm vụ:
- Lãnh đạo việc thực hiện kế hoạch huy động dân công, đảm bảo hoàn
thành nhiệm vụ;
- Tổ chức và lãnh đạo dân công thi đua;
- Săn sóc đến đời sống của dân công trong thời gian phục vụ, từ lúc đi đến
lúc về;
- Đề nghị khen thƣởng cán bộ và chiến sĩ có thành tích xuất sắc.
Về tổ chức:
1) Ban cán sự gồm có một Trƣởng ban và một số cán bộ do Ban Dân công
đề nghị Hội đồng Cung cấp Mặt trận hoặc UBKCHC cấp tƣơng đƣơng quyết
định.
2) Ban Cán sự tỉnh phải có liên lạc mật thiết với Phòng Dân công tỉnh;
3) Ban Cán sự tỉnh thuộc quyền lãnh đạo của Hội đồng Cung cấp Mặt trận
tỉnh, hoặc của UBKCHC tỉnh ở tỉnh nào chƣa thành lập Hội đồng Cung cấp Mặt
trận.
Ban cán sự huyện thuộc quyền lãnh đạo của UBKCHC huyện.

65
4) Ở tiền tuyến, Ban Cán sự thuộc quyền điều khiển của Ban chỉ huy mặt
trận.
Điều 4.- Các thể lệ ban hành trƣớc đây trái với nghị định này đều bãi bỏ.
Điều 5.- Một thông tƣ của Hội đồng Cung cấp Mặt trận Trung ƣơng sẽ giải
thích và quy định các chi tiết thi hành nghị định này.
Điều 6.- Hội đồng Cung cấp Mặt trận Trung ƣơng và các UBKCHC liên
khu chiểu nghị định thi hành.

Ngày 26 tháng 12 năm 1953


KT. Thủ tƣớng Chính phủ
Phó Thủ tƣớng

Phạm Văn Đồng

Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Công báo năm 1953, số 12, tờ 147-148

66
Báo cáo số 15/CCQP của Tổng cục Cung cấp - Bộ Quốc phòng về tình hình
đƣờng sá tháng 12/1953.

67
BỘ QUỐC PHÕNG TỔNG TƢ LỆNH CỘNG HÕA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỔNG CỤC CUNG CẤP Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Số: 15/CCQP

BÁO CÁO
Tình hình đƣờng sá tháng 12/1953

I. TÌNH HÌNH ĐƢỜNG CẦU


1) Đƣờng Lạng Sơn, Thái Nguyên:
- Trên quãng đƣờng này đều thông suốt.
2) Đƣờng Cao Bằng, Thái Nguyên:
- Trên quãng đƣờng này đều thông suốt, riêng ngày 18/12 vì mƣa to, bị đất
lở ở Nà Phạc, đã chữa xong ngay.
3) Đƣờng Thái Nguyên, Tuyên Quang, Phú Thọ, Hòa Bình:
- Ngày 3/12 máy bay lƣợn từ 10 giờ đến 4 giờ sáng ở vùng Tuyên Quang
đi Phú Thọ thả pháo sáng.
- Ngày 4, 5/12 và 6, 9/12 phi cơ ném bóm cách bến Hiên 1km50, phà ở
Hiên bị hỏng và bị tắc, 17 xe ô tô bị nghẽn.
- Từ 15 đến 18/12 bị mắc mƣa nƣớc lũ trôi mất cầu Ngòi Lát nên xe không
chạy qua đƣợc (Yên Mao, Xóm Mới).
- Từ Gia Dụ, Yên Mao ở cây số 17 đến cây số 20 và cây số 42 bị nƣớc
mƣa xói nên nhiều đá lởm chởm; và ở cây số 23 đến cây số 32, cây số 42 bị lún
vết bánh xe, nhiều ổ gà và đƣờng tránh Đông Tể, xấu nƣớc tràn lên mặt đƣờng.
Ta đã làm xong đƣờng tránh ở cây số 21 (đƣờng số 6) và đã chữa xong
đƣờng chỉnh ở quãng Mạnh Hùng, Cự Động, còn quãng Khoang Xanh (Đông
Tệ) vẫn đi đƣờng tránh. Đang xúc tiến sửa chữa cầu Yên Mao, Cầu Tre đang
tăng cƣờng, còn cầu Tu Vũ, Xóm Mới đã sửa chữa cho xe 8 tấn qua. Còn cầu
treo Đoan Hùng bị bom tháng 11/1953 nãy chƣa chữa xong, khách bộ hành phải
đi đò.

68
4) Đƣờng Hòa Bình, Suối Rút, Vạn Mai, Cẩm Thủy.
- Quãng đƣờng Vạn Mai, Cẩm Thủy rất xấu, những chỗ địch phá hoại
tháng trƣớc nay xe chạy thƣờng bị lún, có nhiều chỗ bị sát pont, xe chạy rất khó,
chỉ đi đƣợc số I, thỉnh thoảng mới chạy đƣợc số 2; nên trung bình 100 cây phải
tốn hết 100 lít ét săng (Việc này đã có đề nghị với Hội đồng Cung cấp Mặt trận
Trung ƣơng và Bộ Giao thông Công chính để chỉ thị cho Tỉnh tu bổ)
5) Đƣờng Yên Bái, Sơn La, Tuần Giáo, Điện Biên.
- Quãng Yên Bái, Ba Khe ở cây số 1, 6, 7, 9, 11, 27, 34, 40 bị bom vào
ngày 7 đến 11/12 nên vận chuyển bị tắc (đêm 10/12 bị tắc hoàn toàn), còn từ
12/12 trở đi đều thông suốt.
Và từ Yên Bái đến Tạ Khoa thì đƣờng tốt, còn từ Tạ Khoa trở đi thì xấu
nên mƣa thì bị lầy ở cây số 60 đến 79.
Còn từ Ba Khe tới Tạ Khoa thì ở Nhọt, Bản Ban, bến phà đèo Lũng Lô và
dốc Bản Ban đều bị bom vào ngày 1- 7/12. Sau đó ta chữa đƣợc thông suốt ở dốc
Bản Ban và đèo Lũng Lô xe 4 cái đã chạy qua đƣợc.
- Quãng từ Tạ Khoa - Cò Nòi: ở cây số 18 đều bị bom từ 30/11 đến 4/12.
Ở cây số (32, 33, 35, 36 quãng ngã ba Cò Nòi) đều bị bom vào ngày 10-15/12
nên 10/12 bị tắc nhƣng ngày sau từ 10 giờ đến 12 giờ xe đã chạy đƣợc.
Ở những chỗ bị bom khi trời mƣa thì đất lở nhiều và nhiều kè bị hỏng, còn
đƣờng thì chƣa đủ tiêu chuẩn cho pháo đi, việc này đã có chỉ thị cho công binh
và tỉnh để sửa chữa.
Còn ở cây số 3 bị bom từ ngày 9, 10, 11, 12/12 và cây số 20 bị phá từ 16,
18, 19/12 nên xe không thể đi đƣợc. Đã có 1 C chủ lực và 1.200 dân công và D
Côn binh sửa chữa.
- Quãng đƣờng Sơn La, Thuận Châu, Tuần Giáo: Địch phá hoại ở cây số
25 từ 3-7/12 (quãng Sơn La, Thuận Châu) những đã chữa, trung bình 2 giờ sáng
thì xong, đêm nào xe cũng qua đƣợc, và ngày 22, 24/12 bị phá trên đƣờng Sơn
La, Tuần Giáo nên có nhiều chỗ bị lầy, vệt bánh xe đi thành rãnh… Quãng
69
đƣờng này đã làm đƣợc một đƣờng vòng tránh cho xe thồ đi (chỗ địch hay phá
hoại ở cây số 6,5 và cây số 18).
Còn từ Thuận Châu - Tuần Giáo bị phá ở cây số 41 đèo Mèo hỏng 40
thƣớc (ngày 8/12), nên có D 106 đã làm và mở rộng nhƣ: Đƣờng vòng ở cây số
70 và 80 rộng 8 mét, còn cây số 50 chƣa chữa xong vì ngƣời ít và đƣờng bị lún
nhiều và sâu; chữa đến 23 giờ ngày 8/12 mở rộng đƣợc nhiều ổ gà ở cây số 50,
51, 70, 75 và 76 đƣợc lập và sửa chữa lại mặt đƣờng.
Quãng đƣờng từ Điện Biên, Tuần Giáo thì bị bom phá ở những cây số 5,
20, 29 (1/12) và ở cây số 5, 19 (ngày 24/12) còn ở cây số 20, 27 những chỗ bị
bom thì những lúc mƣa đƣờng khó đi và lại đƣờng xấu, hẹp, và ở cây số 40 có
nhiều cầu lớn, đƣờng xấu.
Ta đã có 2 C và 255 dân công đang chữa theo kế hoạch (ngày 10/12) có
thể xong tới cây số 20 và (từ Tuần Giáo đi Điện Biên) sửa chữa tới cây số 40, 20,
7 đã đi đƣợc. Ở cây số 38 thì xe Jeep đã đi thử (ngày 13/12) còn ngày 29/12 đã
chữa đến cây số 42, đƣờng hẹp nhất là từ cây số 26, 27. Thanh niên đã cho thêm
2 D bộ binh cùng 2 D của anh Hồng định đến 5/2/1954 thì đến cây số 64.
II. TÌNH HÌNH PHÀ, THUYỀN
1) Bến phà Ngọc Tháp hiện có 1 cái tại bến 11 tấn, dự trữ 2 cái; một cái 12
tấn và 1 cái (12 tấn) đã đóng xong chỉ đợi khô sơn là hạ thủy - đang sửa chữa
bến phà cho khỏi dốc để xe lên xuống dễ dàng.
2) Bến Tạ Khoa: ngày 2/12 chuận bị xong 2 phà 12 tấn, 30 thuyền gỗ, 30
thuyền nan, có thể phục vụ cho mỗi đêm 6.000 ngƣời qua. Ngày 12/12 đã rút 20
demibateaux.
3) Phà ở bến Ghềnh Nàng (Quãng Vạn Mai - Cẩm Thủy) thƣờng bị chậm
(11 giờ đêm) làm ảnh hƣởng đến vận chuyển.
III. NHẬN XÉT CHUNG VÀ ĐỀ NGHỊ

70
1) Trong tháng trọng tâm vận chuyển là đƣờng 13 nên địch phá hoại ở con
đƣờng này rất nhiều nên các đoạn đƣờng Yên Bái, Ba Khe, Tạ Khoa, Tuần Giáo,
Điện Biên bị oanh tạc nhiều nhất nên đã có đêm vận chuyển bị tắc.
2) Việc sửa chữa của ta đã tiến bộ hơn trƣớc nhiều nên nói chung sau các
vụ oanh tạc là chữa đƣợc thông suốt, riêng một vài chỗ bị tắc đã kể trên (cây số
1, 40 ở Ba Khe và ngã ba Cò Nòi) và một vài nơi nếu mƣa thì bị lầy, lún khó đi
lại (Tạ Khoa trở đi Thuận Châu, Tuần Giáo, Điện Biên).
3) Đề nghị Bộ Giao thông Công chính và HĐCCMTTW, Bộ Tổng Tƣ
lệnh; HĐCCTW, Bộ GTCC:
- Tăng cƣờng bảo đảm những quãng cây số 60, 79, từ Tạ Khoa trở đi và
cây số 50 đƣờng Thuận Châu - Tuần Giáo, thuộc đƣờng13 quãng Tạ Khoa, Cò
Nòi cây số 32, 33, 35, 36, 20…
- Chỉ thị cho tỉnh để tu bổ đƣờng, phà ở Vạn Mai - Cẩm Thủy nhƣ:
+ Cho sửa chữa ngay đƣờng Vạn Mai, Ghềnh Nàng (mở rộng mặt đƣờng
hay cấp phối cho bằng phẳng).
+ Củng cố các cầu yếu và rải đá lại, mở rộng cửa ở đƣờng ngầm.
+ Củng cố lại bến phà Ghềnh Nàng: bảo đảm 7h30 tối có phà tại bến và
4giờ 30 sáng mới đƣa đi dấu.
+ Đội phòng không tích cực bảo đảm quãng đƣờng Tả Khoa, Cổ Noi vì
đây là đƣờng nối đƣờng 13, 41.
Sao gửi: Ngày 7 tháng 1 năm 1954
- Hội đồng Cung cấp Trung ƣơng và Bộ Giao thông
TL. Chủ nhiệm Tổng Cục Cung cấp
Công chính để tƣờng và giải quyết đề nghị trên.
Phó trƣởng phòng Kế hoạch
Trần Ngọc Giao

Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, phông Nha Giao thông, hồ sơ 648, tờ 01-
03

71
Thông cáo của Hội đồng Chính phủ họp kỳ tháng 1/1954

72
Thông cáo về Hội đồng Chính phủ
Họp kỳ tháng 1 năm 1954
Hội đồng Chính phủ đã họp vào thƣợng tuần tháng 1/1954 dƣới quyền chủ
tọa của Hồ Chủ tịch. Trong phiên họp đầu năm nay, Hội đồng Chính phủ đã
kiểm thảo công tác năm 1953 và đặt chƣơng trình công tác 1954, và thông qua
ngân sách 1954.
Hội đồng nhận thấy, năm 1953 đánh dấu một bƣớc tiến rõ rệt của cuộc
kháng chiến trƣờng kỳ, gây cơ sở đẩy mạnh kháng chiến về mọi mặt, tiêu biểu ý
chí và lực lƣợng mạnh mẽ của nhân dân ta. Những thành tích và tiến bộ có tác
dụng gây cơ sở ấy là:
- Chỉnh quân là cơ sở để tăng cƣờng quân đội về mọi mặt;
- Chỉnh huấn là cơ sở để đảm bảo sự thực hiện đƣờng lối chính sách, hoàn
thành mọi nhiệm vụ kháng chiến;
- Phát động quần chúng triệt để giảm tô là cơ sở để tiến tới thực hiện cải
cách ruộng đất;
- Tài chính, tiền tệ, vật giá được ổn định, v.v.. là cơ sở để phát triển kinh
tế tài chính…
- Kinh nghiệm đấu tranh ở địch hậu Bắc Bộ là cơ sở để đẩy mạnh hơn nữa
cuộc đấu tranh ở các chiến trƣờng sau lƣng địch.
Trên cơ sở đó, công tác 1954 sẽ vững vàng tiến mạnh tới.
Đội đồng đã đặt chƣơng trình công tác về mọi mặt quân sự, kinh tế tài
chính, nội chính, văn hóa, xã hội và thông qua bản kế hoạch phát động đợt thi
đua năm 1954 trong quân đội, ở nông thôn, trong các xí nghiệp, trong cơ quan,
trƣờng học, trên công trƣờng để thực hiện hai nhiệm vụ trung tâm mà Hồ Chủ
tịch đã đề ra là: ra sức đánh giặc và cải cách ruộng đất.
Hội đồng Chính phủ cũng đã quy định việc tặng danh hiệu “Anh hùng”
cho những chiến sĩ thi đua xuất sắc trong các ngành.

73
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Công báo năm 1954, số 4, tờ 21-22
Nghị định số 29-ND ngày 17/2/1954 của Bộ Giao thông công chính v/v
miễn cƣớc phí tem cho việc gửi các di vật của tử sĩ về cho gia đình.

74
BỘ GIAO THÔNG CÔNG CHÍNH

Nghị định số 29-ND ngày 17/2/1954 miễn cước phí tem cho việc gửi các
di vật của tử sĩ về cho gia đình
BỘ TRƢỞNG BỘ GIAO THÔNG CÔNG CHÍNH
Chiểu Nghị định số 117-ND ngày 14/7/1952 tổ chức Bộ Giao thông Công
chính;
Chiểu Nghị định số 3-ND ngày 8/1/1952 ấn định cƣớc phí Bƣu điện -VTĐ
áp dụng trong nƣớc;
Theo đề nghị của Nha Bƣu điện-VTĐ.
NGHỊ ĐỊNH
Điều 1.- Nay thêm một khoản sau đây vào Điều 4 Nghị định số 3- ND
ngày 8/1/1953 về miễn cƣớc phí tem:
“Những di vật của tử sĩ do các đơn vị bộ đội hay cơ quan chính quyền gửi
về cho gia đình tử sĩ nhƣ giấy má, tiền bạc, huy hiệu, huân chƣơng và các đồ vật
có tính chất kỷ niệm.
“ Những bƣu kiện di vật của tử sĩ đƣợc đặc biệt ký gửi tại các Bƣu cục cho
tới trọng lƣợng tối đa là 2 kg”.
Điều 2.- Các ông Chánh Văn phòng Bộ Giao thông Công chính, Giám đốc
Nha Bƣu điện - VTĐ và Chủ tịch UBKCHC Liên khu Việt Bắc, 3, 4, 5, Khu Tây
Bắc, Tả Ngạn và khu Hà Nội chiểu Nghị định thi hành.

Ngày 17 tháng 2 năm 1954


KT. Bộ trƣởng Bộ Giao thông Công chính
Thứ trƣởng
Nguyễn Văn Trân

Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Công báo năm 1954, số 2, tờ 15

75
Chỉ thị số 365-TTg ngày 27/2/1954 của Thủ tƣớng chính phủ về việc
tăng cƣờng lãnh đạo thi đua ái quốc năm 1954.

76
CHỈ THỊ
VỀ VIỆC TĂNG CƢỜNG LÃNH ĐẠO THI ĐUA ÁI QUỐC
NĂM 1954

Để thực hiện hai nhiệm vụ trung tâm là: “Ra sức đánh giặc và cải cách
ruộng đất”. Hội đồng Chính phủ đầu năm đã đặt chƣơng trình công tác cho các
ngành quân sự, Nội chính, Kinh tế - Tài chính, Văn hóa - Xã hội.
Căn cứ chƣơng trình đó, các ngành, các địa phƣơng đều đã vạch chƣơng
trình cụ thể cho ngành mình và địa phƣơng mình.
Để thực hiện chỉ thị của Hồ Chủ tịch và nhiệm vụ công tác của chúng ta,
chúng ta phải đẩy mạnh phong trào thi đua ái quốc.
Năm 1953 phong trào thi đua ái quốc đã thu những thành tích xuất sắc
nhất trong quân đội (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phƣơng, dân quân du kích), trong
công tác cầu đƣờng, cung cấp mặt trận. Nhƣng nhìn chung thì phong trào còn
kém sôi nổi và đều đặn, do sự lãnh đạo và theo dõi của ban thi đua Trung ƣơng
và Ban thi đua các ngành, các cấp còn nhiều thiếu xót.
Vậy muốn đẩy mạnh phong trào thi đua ái quốc năm 1954, các cơ quan
phụ trách ở các cấp cần đặc biệt chú ý mấy điểm sau đây:
1) Cơ quan lãnh đạo các cấp phải chú trọng nhiều hơn nữa đến công tác thi
đua, tổ chức việc theo dõi, hƣớng dẫn và giúp đỡ ban thi đua các ngành và các
cấp.
Mỗi ngành, mỗi địa phƣơng phải chịu trách nhiệm tổ chức thi đua trong
ngành và địa phƣơng của mình. Phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức có
liên quan.
Một mấu chốt để đẩy mạnh thi đua ái quốc là kiện toàn ban thi đua, nhất là
những ban thi đua đơn vị, địa phƣơng trực tiếp với phong trào. Phong trào thi
đua ái quốc năm 1953 cho ta thấy: Ban thi đua nào làm việc thiết thực nhƣ ở

77
ngành cầu đƣờng, cung cấp mặt trận thì kết quả công tác rất tốt đẹp, phong trào
lên mạnh.
Điều đó chứng tỏ lực lƣợng nhân dân thật là vĩ đại, năng lực sáng tạo của
nhân dân rất dồi dào; nhƣng điều đó cũng chứng tỏ ta phải có tổ chức thích hợp
để phát huy năng lực sáng tạo và lực lƣợng vĩ đại ấy.
Cho nên việc kiện toàn các ban thi đua nói chung và nhất là ban thi đua
đơn vị, địa phƣơng trực tiếp với phong trào có tác dụng quyết định.
2) Cần chú trọng bồi dƣỡng hơn nữa các chiến sĩ; không nên tách chiến sĩ
khỏi công tác, xa rời quần chúng. Giúp đỡ những phần tử tích cực trở nên chiến
sĩ, và nhờ đó thúc đẩy những phần tử chậm chạp tiến lên.
3) Năm nay phải cố gắng lãnh đạo ký kết giao ƣớc thi đua và theo dõi sự
thực hiện.
Tổ chức thi đua đợt ngắn, kiểm điểm kết quả, không nhất thiết phải theo
những ngày lịch sử nhƣ những ngày: 3/3, 19/5, 19/8, 2/9, 19/12, mà có thể tùy
chƣơng trình công tác, tính chất công việc làm ăn từng nơi, từng lúc của dân để
ấn định các thời kỳ kiểm điểm thi đua. Trong mỗi thời gian, gặp những ngày kỷ
niệm thì nêu khẩu hiệu kết hợp để cổ động đẩy mạnh thi đua.
4) Cuối cùng phải đặc biệt chú ý đến việc khen thƣởng kịp thời và đúng
mực đối với những đơn vị, cá nhân có những thành tích xuất sắc, tổng kết và phổ
biến kịp thời những kinh nghiệm và thành tích ấy.
Chính phủ rất chú trọng đến vấn đề khen thƣởng này và dần dần đã có
chính sách cụ thể; Chính phủ mong đƣợc các địa phƣơng báo cáo lên những
thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua ái quốc để khen thƣởng.
Phong trào thi đua ái quốc năm 1953 cũng cho ta thấy việc khen thƣởng,
động viên kịp thời và đúng mực, và tổng kết, phổ biến kinh nghiệm kịp thời và
rộng khắp có tác dụng rất lớn trong việc đẩy mạnh thi đua ái quốc.
Mong các cấp Ủy ban, các Ban thi đua tích cực thi hành chỉ thị này.
Ngày 27 tháng 2 năm 1954

78
KT. Thủ tƣớng Chính phủ
Phó Thủ tƣớng
Phạm Văn Đồng
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Công báo năm 1954, số 2, tờ 11
Công văn số 149TC/KT ngày 6/3/1954 của Vụ Kế toán - Bộ Tài chính
v/v chiến lợi phẩm và tài sản thu về công sản.

79
BỘ TÀI CHÍNH VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÕA
VỤ KẾ TOÁN Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

SỐ 149 TC/KT Ngày 6 tháng 3 năm 1954


v/v khoản 1, 2, Ch.14

BỘ TRƢỞNG BỘ TÀI CHÍNH

Kính gửi ông Giám đốc Khu Tài chính Liên khu 3, 4,
Tây Bắc, Tả Ngạn, LKVB.

Trong năm 1953, Ngân hàng địa phƣơng đã nhận đƣợc một số vàng, bạc,
tiền D.Z mà các nơi đã nộp vào các khoản I (thu về công sản) Khoản 2 (Chiến
lợi phẩm và tài sản tịch thu) Chƣơng 14.
Nhƣng các số liệu mà Bộ hiện có, còn thiều sót vì có nơi không báo cáo,
không cho số liệu toàn năm đến hết ngày 31/12/1953. Thêm nữa, số vàng, bạc và
tiền D.Z hay tiền Ngân hàng có thể còn đó, nhƣng bộ đội hay cơ quan khác nộp
vào Ngân hàng mà Khu, Ty Tài chính tới nay chƣa rõ.
Để có thể sử dụng kịp thời số vàng, bạc, tiền D.Z nói trên và thanh toán
đƣợc với Ngân hàng Trung ƣơng, Bộ yêu cầu:”
1. Quý Khu cử ngƣời tới Khu Ngân hàng để lấy thêm số liệu và đối chiếu
số liệu (số lƣợng, chất lƣợng loại gì, trọng lƣợng, hiện Ngân hàng đã đúng chƣa)
về vàng, bạc, tiền D.Z mà cấp Khu Tài chính, các bộ đội và cơ quan khác đã nộp
vào Ngân hàng cấp Khu trong năm 1953 về tại khoản 1 và 2 thuộc Chƣơng 14.
Nếu năm 1954, địa phƣơng cũng có nộp thêm, đề nghị cũng ghi riêng ra một bản
về năm 1954.

80
2. Khu chỉ thị cho các Ty Tài chính cũng làm gấp những việc nhƣ trên để
báo cáo lên Bộ và Khu.
Chú ý: Khu, Ty Tài chính chịu trách nhiệm về sự chính xác và đầy đủ của
các số liệu báo cáo. Cần có biên bản xác nhận đúng số liệu tổng kết giữa Ngân
hàng và Tài chính gửi lên Bộ và Khu. Các báo cáo phải gửi đến Bộ trƣớc ngày
15/4/1954. Nơi nào gần Trung ƣơng nên gửi sớm hơn. Số liệu của cấp Khu có
thể gửi thẳng lên Bộ trƣớc.

TL. BỘ TRƢỞNG BỘ TÀI CHÍNH


Q. Chánh Văn phòng

Nguyễn Trần Độ

Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, phông Bộ Tài chính, hồ sơ 10694, tờ 13

81
Chính sách của Chính phủ nƣớc Việt Nam Dân chủ cộng hòa đối với
ngụy binh, nhân viên ngụy quyền bỏ hàng ngũ địch trở về với Tổ quốc (Đã
đƣợc Hội đồng Chính phủ thông qua trong phiên họp ngày 15/3/1954)

82
CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NGỤY BINH, NHÂN VIÊN NGỤY QUYỀN
BỎ HÀNG NGŨ ĐỊCH TRỞ VỀ VỚI TỔ QUỐC
(Đã được Hội đồng Chính phủ thông qua trong phiên họp ngày
15/3/1954)
Vì đồng bào ta ở vùng địch tạm chiếm bị địch cƣỡng bức đi ngụy binh,
làm nhân viên ngụy quyền, nhiều ngƣời muốn bỏ hàng ngũ địch trở về với Tổ
quốc. Đối với những ngƣời ấy, Chính phủ tuyên bố:
1) Sĩ quan, binh lính ngụy bỏ hàng ngũ địch trở về với Tổ quốc đƣợc
khoan hồng, đƣợc hƣởng tự do và quyền lợi công dân. Những ngƣời mang vũ khí
về với kháng chiến, những ngƣời giết địch lập công thì sẽ đƣợc khen thƣởng tùy
theo công trạng.
Nhân viên ngụy quyền bỏ hàng ngũ địch trở về với Tổ quốc sẽ đƣợc khoan
hồng, đƣợc hƣởng tự do và quyền lợi công dân.
2) Binh sĩ ngụy bỏ hàng ngũ địch về với kháng chiến vẫn đƣợc giữ cấp
bậc cũ. Họ muốn vào bộ đội ta, hoặc muốn làm công tác kháng chiến khác sẽ
đƣợc xét và dùng.
3) Từng đơn vị ngụy quân phản chiến trở về với kháng chiến, muốn tham
gia đánh giặc cứu nƣớc, sẽ không bị giải tán, đƣợc sắp xếp vào Quân đội nhân
dân Việt Nam và đƣợc hƣởng nhất luật chế độ của Quân đội nhân dân Việt Nam.
4) Sĩ quan, binh lính ngụy quân, nhân viên ngụy quyền có gia đình ở vùng
tự do mà bỏ hàng ngũ địch về nhà làm ăn lƣơng thiện sẽ đƣợc chiếu cố.

Chính phủ nước Việt Nam


dân chủ cộng hòa

Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Công báo năm 1954, số 7, tờ 40

83
Thông cáo của Hội đồng Chính phủ họp kỳ tháng 3/1954

84
Thông cáo về Hội đồng Chính phủ
Họp kỳ tháng 3 năm 1954

Hội đồng Chính phủ đã họp vào trung tuần tháng 3, dƣới quyền chủ tọa
của Hồ Chủ tịch.
- Nhận định về việc triệu tập Hội nghị Giơ-ne, Hội đồng nhấn mạnh: đó là
một thắng lợi của đƣờng lối hòa bình của Liên Xô và của phe dân chủ. Đó cũng
là thắng lợi của cuộc kháng chiến Việt, Miên, Lào; thắng lợi của nƣớc Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, của cuộc kháng chiến anh dũng của nhân dân Việt Nam, liên
tiếp đánh thắng địch, làm cho địch bị thua thiệt nặng và lúng túng ở Đông
Dƣơng, chính trị bối rối và kinh tế tài chính kiệt quệ ở Pháp.
- Đại tƣớng Tổng Tƣ lệnh báo cáo về hoạt động quận sự trong Đông -
Xuân. Chúng ta đã hoạt động đều và thu đƣợc nhiều thắng lợi rực rỡ trên khắp
các chiến trƣờng Trung, Nam, Bắc, tiêu diệt đƣợc nhiều sinh lực địch, thu đƣợc
nhiều vũ khí, đẩy mạnh chiến tranh du kích, giải phóng hàng vạn cây số vuông
và hàng chục vạn đồng bào, phá tan một phần quan trọng kế hoạch Na-va, phát
triển thế chủ động của ta trên khắp các chiến trƣờng.
Địch thua đau, chúng càng tăng cƣờng hoạt động. Nhiệm vụ của quân và
dân ta là phải duy trì liên tục chiến đấu, phá tan âm mƣu mới của địch, tranh
nhiều thắng lợi to lớn hơn nữa.
Chính phủ đã gửi thƣ khen ngợi các chiến sĩ, các cấp chỉ huy và anh chị
em dân công trong toàn quốc.
- Ông Phó Thủ tƣớng đã báo cáo về kế hoạch phát động quần chúng thực
hiện chính sách ruộng đất trong năm 1954.

85
Hội đồng Chính phủ đã thông qua điều lệ tổ chức các Ủy ban Cải cách
ruộng đất Trung ƣơng, khu và tỉnh. Và đã bầu Ủy ban Cải cách ruộng đất Trung
ƣơng.
Hội đồng chính phủ đã thông qua bản “10 chính sách khuyến khích sản
xuất nông nghiệp” và quyết định mở Trƣờng Cán bộ kinh tế tài chính.
- Hội đồng cũng đã thông qua bản “Chính sách đối với ngụy binh, nhân
viên ngụy quyền bỏ hàng ngũ địch trở về với Tổ quốc”.
Cũng trong phiên họp này, Chính phủ đã cử ông Lê Văn Lƣơng, giữ chức
Thứ trƣởng Bộ Nội vụ, và ồng Hồ Viết Thắng giữ chức Thứ trƣởng Bộ Canh
nông. Ông Nghiêm Xuân Yêm, nguyên Thứ trƣởng Bộ Canh nông, nay đƣợc cử
giữ chức Bộ trƣởng.

Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Công báo năm 1954, số 4, tờ 22

86
Nghị quyết của Bộ Chính trị tháng 4/1954 v/v tiếp tục thấu triệt
phƣơng châm đánh chắc tiến chắc, đề cao quyết tâm giành toàn thắng cho
chiến dịch Điện Biên Phủ.

87
TIẾP TỤC THẤU TRIỆT PHƢƠNG CHÂM ĐÁNH CHẮC TIẾN
CHẮC, ĐỀ CAO QUYẾT TÂM TÍCH GIÀNH TOÀN THẮNG CHO
CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ
(Nghị quyết của Bộ Chính trị
ngày… tháng 4 năm 1954)

1) - Hai đợt tấn công của quân ta ở mặt trận Điện Biên Phủ đều thắng lợi,
tiêu diệt hơn 2/5 sinh lực địch, chiếm lĩnh những cao điểm ở phía Bắc và hầu hết
những cao điểm ở phía đông Khu Mƣờng Thanh, đánh chiếm sân bay và bắt đầu
hạn chế tiếp tế của địch, tạo những điều kiện căn bản cho quân ta hoàn thành
nhiệm vụ tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ.
Những thắng lợi đó chứng tỏ sự chỉ đạo đúng của Trung ƣơng và sự
trƣởng thành của quân đội. Trung ƣơng rất vui mừng nhận thấy các cấp ủy, các
đảng viên, các cán bộ của chúng ta đã cố gắng và tiến bộ nhiều. Một trong những
nguyên nhân thắng lợi là sự giúp đỡ tận tụy của các… và của các…
Nhƣng vì cán bộ ta mắc nhiều khuyết điểm: chủ quan khinh địch, chủ
quan tự mãn, còn ngại thƣơng vong mỏi mệt, tinh thần trách nhiệm không đầy
đủ, tác phong quan liêu đại khái còn phổ biến. Vì vậy cho nên đã gây nên ít
nhiều tổn thất không cần thiết và hạn chế thắng lợi của ta một phần.
2)- Chiến dịch Điện Biên phủ đối với tình hình quân sự và chính trị ở
Đông Dƣơng, đối với sự trƣởng thành của quân đội ta, cũng nhƣ đối với công
cuộc bảo vệ hòa bình thế giới có một ý nghĩa rất quan trọng, nhất là trong lúc
Hội nghị Giơnevơ sắp họp. Bởi vậy ta phải kiên quyết giành toàn thắng cho
chiến dịch này. Các cấp ủy, các Đảng viên và toàn thể cán bộ phải:
a)- Nhận rõ những thắng lợi của hai đợt tấn công của quân ta vừa qua,
nhận rõ khả năng của quân đội và nhân dân ta hiện nay có đủ điều kiện tiêu diệt
toàn bộ quân địch, đồng thời nhân rõ những khó khăn của ta về tƣ tƣởng, về tác
chiến, về cung cấp.
88
Những khó khăn một phần do địch gây nên vì địch nhận rõ chiến dịch này
có quan hệ đối với toàn bộ cục diện chiến tranh xâm lƣợc của chúng và đƣợc Mỹ
giúp đỡ, chúng còn cố sống cố chết chống giữ. Nhƣng đó là những khó khăn ta
hoàn toàn có khả năng khắc phục đƣợc.
b)- Ra sức khắc phục tƣ tƣởng hữu khuynh, củng cố và đề cao quyết tâm,
đề cao tinh thần trách nhiệm trƣớc nhân dân, Quân đội và Đảng, kiên quyết sửa
chữa những khuyết điểm vừa qua, tiếp tục thâu triệt phƣơng châm đánh chắc tiến
chắc đồng thời tích cực tranh thủ thời gian, triệt để chấp hành mệnh lệnh, vƣợt
qua mọi khó khăn gian khổ, hoàn thành nhiệm vụ giành toàn thắng cho chiến
dịch này.
3)- Toàn dân, toàn Đảng và Chính phủ nhất định đem toàn lực chi viện
cho chiến dịch Điện Biên Phủ và nhất định làm mọi việc cần thiết để giành toàn
thắng cho chiến dịch này.
Toàn thể cán bộ và đảng viên ở các đơn vị và cơ quan ở mặt trận Điện
Biên Phủ phải nhận rõ vinh dự và trách nhiệm nặng nề trong chiến dịch lịch sử
này, đồng thời làm cho toàn thể chiến sĩ thấu triệt quyết tâm của Trung ƣơng,
tích cực phát huy tinh thần chiến đấu anh dũng và chịu đựng gian khổ, giành
toàn thắng cho chiến dịch.

Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, phông Khối tài liệu sưu tầm, hồ sơ 307, tờ
1-2

89
Báo cáo số 370/BC ngày 18/4/1954 của Ban Bảo đảm giao thông Khu
Tây bắc về sơ kết công tác bảo đảm giao thông Khu Tây bắc, phục vụ chiến
dịch Điện Biên Phủ từ 11/1953 - 3/1954.

90
BAN BẢO ĐẢM GIAO THÔNG CỘNG HÕA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
KHU TÂY BẮC Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Số: 370-/BC

BÁO CÁO
SƠ KẾT CÔNG TÁC BẢO ĐẢM GIAO THÔNG KHU TÂY BẮC,
PHỤC VỤ CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN, TỪ 11/1953 ĐẾN 3/1954

I- Nhiệm vụ trên giao cho


II- Chủ trƣơng công tác, thực hiện nhiệm vụ
III- Nguyên nhân thành công và thất bại
IV- Tình hình và nhiệm vụ mới.

I- NHIỆM VỤ TRÊN GIAO CHO


Đầu tháng 11/1953, sau khi tổng kết công tác kiến thiết đƣờng 13, kế
hoạch vận chuyển tiền phƣơng đã đòi hỏi ngành cầu đƣờng chúng ta một nhiệm
vụ mới. Để phục vụ chiến dịch, chúng ta lại đƣợc vinh dự nhận nhiệm vụ Bảo
đảm Giao thông các đoạn đƣờng từ Yên Bái - Tả Khoa - Cổ Noi đến thị xã Sơn
La, dài 235 cây số.
Đầu tháng 3/1954, do yêu cầu của tình thế mới, cấp trên lại giao cho
chúng ta bảo đảm giao thông thêm đoạn đƣờng 41 từ cây số 13-500 giáp giới
Hòa Bình đến ngã ba Cổ Noi và một đoạn từ Sơn La đi Tuần Giáo dài 224 cây
số.
Nhiệm vụ đó, tuy rất nặng nề, khó khăn nhƣng rất vinh quang
Lần đầu tiên, việc cung cấp cho chiến dịch, vận chuyển theo phƣơng châm
chính là cơ giới, quy mô, từ hậu phƣơng xã, trên tuyến dài mà chúng ta đƣợc
vinh dự Hội đồng Cung cấp Trung ƣơng Bộ và Khu ủy tín nhiệm giao phó cho
phụ trách bảo đảm thông suốt cầu, đƣờng, phà.

91
Vinh dự đƣợc nhận nhiệm vụ ấy, vì công tác bảo đảm giao thông của
chúng ta có quan hệ trực tiếp đến việc bảo đảm nhu cầu vật chất (lƣơng thực,
súng đạn.v…) cho bộ đội tác chiến tiêu diệt sinh lực địch, bảo đảm thắng lợi của
nhiệm vụ Đông Xuân năm 1953-1954.
II - CHỦ TRƢƠNG CÔNG TÁC, THỰC HIỆN NHIỆM VỤ
Để thực hiện nhiệm vụ trên chúng ta đã chủ chƣơng:
1.- Về mặt lãnh đạo công tác chính trị:
Giáo dục và nâng cao đƣợc tƣ tƣởng cán bộ, công nhân viên, dân công,
chủ lực, thủy thủ, TNXP, nhận thức rõ mục đích ý nghĩa của chiến dịch, tầm
quan trọng của công tác bảo đảm giao thông với nhiệm vụ cung cấp, đồng thời
xây dựng một quyết tâm, anh dũng, linh hoạt, khẩn trƣơng cho các đơn vị,
khuếch trƣơng chiến thắng ở tiền tuyến, tuyên truyền động viên đẩy mạnh phong
trào thi đua, tăng năng suất đảm bảo kỹ thuật, chiến đấu bền bỉ, phát huy chí căm
thù giặc và lòng yêu nƣớc nồng nàn, triệt để tin tƣởng và quyết tâm phục vụ
chiến dịch đến toàn thắng. Bồi dƣỡng và khen thƣởng kịp thời, hết sức chăm lo
đến đời sống của quần chúng, đẩy mạnh công tác phòng bệnh, cải thiện sinh
hoạt, tiếp nhận và tăng cƣờng công tác phòng gian bảo mật.
2.- Về mặt tổ chức: Củng cố và nắm vững các đơn vị chủ chốt (chủ lực,
bến phà), tăng cƣờng kiểm tra giáo dục và đôn đốc, chấn chỉnh một số ban chỉ
huy đơn vị kém.
3.- Về mặt lãnh đạo công tác chuyên môn:
- Khẩu hiệu lúc đầu là bảo đảm giao thông kết hợp với hoàn thiện và củng
cố mặt đƣờng càng ngày càng tốt, sửa chữa đƣờng ngầm, cầu cống, rãnh, mở
rộng các đƣờng vòng còn hẹp, nhận định trƣớc những nơi xung yếu có thể địch
oach tạc, hay lầy lún mà bố trí lực lƣợng mạnh mà giải quyết, đồng thời chuẩn bị
phƣơng tiện, vật liệu, ứng phó chống địch phá hoại, chống mƣa lũ, phổ biến và
học tập những kinh nghiệm đánh bom, chống lầy, đôn đốc và kiểm tra kỹ thuật.

92
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, chúng ta củng cố những khó khăn và
thuận lợi nhƣng nói chung đã thành công trong công tác bảo đảm giao thông đợt
đầu.
4. Về mặt lãnh đạo tƣ tƣởng:
Bƣớc vào bảo đảm giao thông, cán bộ sau đợt kiến thiết phần lớn đều uể
oải, muốn nghỉ phép hay về cơ quan cũ, dân công thì thắc mắc về Tết, mùa màng
nói chung là sốt ruột không an tâm công tác… Khi địch bắt đầu đánh phá thì một
phần bỡ ngỡ, một phần dao động nên lại nảy ra một số hiện tƣợng: Ngại khó,
ngại khổ, sợ chết.
Trƣớc tình hình nhƣ vậy, chúng ta đã lãnh đạo học tập tài liệu bảo đảm
giao thông tuyệt đối để các đơn vị nhận rõ tầm quan trọng của công tác cầu
đƣờng, của công tác cung cấp, có quan hệ lớn tới chiến thắng ở tiền tuyến để đề
cao tinh thần trách nhiệm. Do đó đã giải quyết đƣợc một phần tƣ tƣởng “Chợ
chiều”, không an tâm công tác. Trong tháng hữu nghị Việt - Trung - Xô, các đơn
vị lại đƣợc học tập hiểu biết thêm về Liên Xô, Trung Quốc và các nƣớc bạn, học
tập tinh thần chiến đấu và kiến thiết của nhân dân Hoa - Xô, kết hợp với học tập
tinh thần và nhiệm vụ nên dần dần đã phấn khởi thi đua phục vụ chiến dịch, đã
biểu hiện trong công tác.
5- Xây dựng quyết tâm anh dũng:
- Nhiều đơn vị chủ lực dân công, bến phà trong những đợt chiến đấu đánh
bom, bảo vệ đèo, bảo vệ bến, lúc đầu có lung tung thiếu chuẩn bị, kém quyết tâm
nên đã tắc cả thảy 14 điểm trong 3 tháng nhƣng dần dần học tập và rút kinh
nghiệm, các đơn vị đã xây dựng đƣợc một quyết tâm anh dũng, liên tục chiến
đấu. Lũng Lô bị địch oanh tạc tơi bời, C 236 và C Hùng Khánh (dân công) hạ
quyết tâm làm đƣờng kì thông suốt mới thôi. Khi đoàn xe nặng quá 8 đêm liền
thức suốt đêm đến sáng mở rộng đƣờng lấp hố bom để xe to tranh thủ qua đƣợc.
Cuối tháng 1 đầu tháng 2/1954, địch tập trung ném bom đèo Cổ Noi, và
Pha Đin trên 3000 quả bom, loại từ 250 đến 500 KL mà các đơn vị công binh
93
C221 và dân công địa phƣơng quyết tâm bảo đảm giao thông không để một đêm
bị tắc. Các chiến sĩ Đinh Trung Khải C222, ngồi lên bom nổ chậm, giữ vững tinh
thần anh em đồng đội, rồi lăn bom xuống suối, chiến sĩ Dung và Tỵ C221 chui
vào nổ bom chƣa nổ sau 6, 7 thƣớc áp bộc phá đánh bom nổ chậm và nhiều
chiến sĩ nữa đã anh dũng phá bom đạt nhiều thành tích đã đƣợc Chính phủ tặng
thƣởng Huân chƣơng chiến sĩ, Bộ và Hội đồng Cung cấp thƣởng bằng khen.
Bến phà là những nơi trọng yếu địch tập trung phá hoại nhiều nhất. Trong
tháng 11 và 12/1953 bến Âu Lâu địch đánh phá 10 lần, có ngày 4 đợt 21 phi cơ,
mà chỉ có 1 đêm bị tắc.
Tháng 12/1953 bến Tả Khoa địch bắn phá 17 trận, có ngày 8 đợt, 13 phi
cơ địch đã ném cả thảy 81 quả bom cả nổ chậm lẫn nổ ngay, đêm đêm thả pháo
sáng, nhƣng bến phà Tả Khoa vẫn thông suốt bảo đảm xe qua. Tinh thần của anh
em thủy thủ phục vụ vô điều kiện, đồng chí Tồ sốt cũng xung phong đi làm, phà
bị hở mạch trục tát nƣớc không nổi, trời rét buốt thịt, đồng chí sẵn sàng nhảy
xuống nƣớc để để săm kín mạch trục đƣợc phà. Có đêm cầu phao gãy 4 lần, 6
cheo nhƣng lúc nào cũng sẵn sàng đầy đủ không để bè ta tắc một giờ nào. Tả
Khoa có đêm máy đẩy bị hỏng anh em thủy thủ chở tay không vẫn đảm bảo kế
hoạch.
Do tinh thần quyết tâm ấy nên các đơn vị đã vƣợt mức quy định, bảo đảm
kế hoạch. Mức định có 30, Âu Lâu đảm bảo tới 40 xe qua. Toàn đợt 5 tháng tăng
năng suất 507 chuyến. Tả Khoa có đêm chở xong 40 xe nặng còn chở đƣợc 25 xe
vận tải qua.
Mức chuyên chở qua sông cả đi và về đợt đầu 30 phút, đợt 2 xuống 25
phút, đến nay trung bình từ 20 đến 15 phút, dìm vớt phà trƣớc 1 giờ rƣỡi nay chỉ
30 phút.
Khi bắt đầu bảo đảm giao thông Tả Khoa chỉ có 1 phà, học tập xong tài
liệu quyết tâm bảo đảm giao thông tuyệt đối, xƣởng đóng phà hoàn thành trƣớc

94
hạn định 3 tháng. Tiêu chuẩn đóng 2 cái 13 ngày làm hết có 9 ngày (những phà
3, 4, 5 xuống Tả Khoa).
Tóm lại trong công tác lãnh đạo học tập và xây dựng quyết tâm anh dũng
chiến đấu, chúng ta có đạt đƣợc những kết quả rực rỡ, nâng cao đƣợc một phần
về nhận thức tình hình và nhiệm vụ. Đề cao đƣợc tinh thần trách nhiệm cho các
đơn vị, giải quyết đƣợc tƣ tƣởng ngại khó, ngại khổ, sợ chết và phấn lớn đã an
tâm công tác. Nhƣng lãnh đạo học tập không đều, thiếu sơ kết, một số tƣ tƣởng
còn tồn tại chƣa giải quyết (ngại khó, sốt ruột cho nổ súng, mong chiến dịch
chóng kết thúc, thắc mắc về bồi dƣỡng khi phải làm nhiều đêm liền, hay là còn
chủ quan, khinh địch, tự kiêu tự mãn về thành tích, kém khẩn trƣơng linh hoạt và
thiếu ý thức tổ chức, ý thức báo cáo kịp thời).
Để thực hiện nhiệm vụ chúng ta cần kịp thời lấy những tin tức chiến thắng
phổ biến, học tập tình hình và nhiệm vụ mới, động viên làm anh chị em phấn
khởi tin tƣởng, thi đua hoàn thành nhiệm vụ phục vụ chiến dịch đến toàn thắng.
Trên công trƣờng lại phát động những đợt thi đua ngắn hạn, căn cứ vào
những đợt thực hiện kế hoạch do Hội đồng Cung cấp đề ra. Đợt đầu tính sơ kết
vào 19/12, 6/1 và sơ kết vào 18/1. Đợt 2 mừng tháng Hữu nghị Việt - Trung - Xô
từ 18/1 đến 18/2. Đợt 3 từ 18/2 đến 3/3 lấy thành tích kỷ niệm ngày Đảng Lao
động Việt Nam ra công khai, và 1 đợt thi đua đột kích mừng chiến thắng Điện
Biên cho đến cuối tháng 3/1954.
Các đơn vị đều tiến hành sơ kết từng đợt, bình bầu đơn vị, chiến sĩ xuất
sắc, gƣơng mẫu. Qua 5 tháng bảo đảm giao thông chúng ta đã có trên 60 đơn vị
và chiến sĩ đƣợc thƣởng Huân chƣơng chiến sĩ hạng ba, hai Bằng khen của Bộ
Giao thông Công chính, Hội đồng Cung cấp, Tổng cục Cung cấp và ban Bảo
đảm giao thông khu Tây Bắc, đây là chƣa kể những đơn vị, cá nhân xuất sắc
đƣợc các Ban Bảo đảm giao thông tỉnh, công trƣờng khen ngợi.
Những phong trào thi đua còn chƣa đều và sôi nổi, có nơi phát động đƣợc
đều, sơ kết đƣợc nhanh, nên công trƣờng bồi dƣỡng đƣợc kịp thời (Yên Bái,
95
412). Nhƣng có nơi phát động còn lẻ tẻ, sơ kết chậm, không chú trọng bình bầu
đơn vị và cá nhân, khen thƣởng và bồi dƣỡng chậm (Sơn La lúc đầu) lại quên cả
việc bồi dƣỡng chiến sĩ để làm đầu tàu cho phong trào (C251). Nhiều nơi không
có những hình thức đại động viên, thách thức thi đua, truyền tin thi đua, phổ biến
kịp thời kinh nghiệm và các thành tích của các đơn vị, chiến sĩ nên nói chung
công trƣờng chúng ta chƣa phản ánh đƣợc hết thành tích chiến đấu của các đơn
vị và chƣa phát huy khả năng của anh chị em.
6- Về mặt lãnh đạo tăng năng suất:
Thời kỳ đầu có một số cán bộ và công trƣờng còn chƣa thông về việc giao
khoán và lãnh đạo tăng năng xuất trong công tác bảo đảm giao thông, ngại khó,
cho là không thực hiện đƣợc, hoặc còn coi nhẹ là bảo đảm giao thông không để
tắc là đƣợc, còn gì phải làm khoán tăng năng suất vì chƣa nhận thức rõ cần phải
giao khoán và lãnh đạo tăng năng suất thì mới bảo đảm kế hoạch, đảm bảo khối
lƣợng và lập lại giao thông nhanh chóng, không để xe tắc và trong những trƣờng
hợp bị đánh phá, không thể toan tính kịp nên một số ở các Hat, Cung và đơn vị
chủ lực, TNXP lúc đầu không đảm bảo khối lƣợng công trình, quân số ra đƣờng
ít, sử dụng không hợp lý, làm không đúng giờ, lại thiếu kế hoạch, gặp đâu hay
đó.
Đó là một thiếu sót lớn lãng phí không phải là ít.
Nhƣng chúng ta đã kịp thời rút kinh nghiệm, đả thông cán bộ, đơn vị, kiên
quyết thực hiện chế độ làm khoán nên từ tháng 1/1954 đến nay, nhiều đơn vị đã
nhận làm khoán và tăng năng suất nhƣ ở Hạt Văn Chấn.
- B Đại Lịch 50 ngƣời, làm 1 tháng tăng 243 công
- B Trại Yên 50 ngƣời, cũng trong 1 tháng tăng 40 công
- C Lục Yên 120 ngƣời, lúc đầu hụt 172 công, sau khi học tập, 16 ngày
sau tăng hơn 200 công.
- Đặc biệt C Văn Chấn 103 ngƣời trong 39 ngày đã tăng 991 công trong
việc chuyên cấp phối, 1 công tác mà tiêu chuẩn khó đạt nhất. Riêng anh Cấn Văn
96
Sơ gánh trung bình bằng 3, 4 ngƣời khác, trong đợt 14 ngày anh tăng 24 công
tăng 171%, đã đƣợc bầu là chiến sĩ số 1 của hạt. Anh Hà Văn Chom số 2 cùng
đợt ấy tăng 15 công, tăng năng suất 107%. Tất cả các đơn vị ở Hạt Văn Chấn
đều đã tăng năng suất, còn bảo đảm đƣợc kỹ thuật, đã giải quyết đƣợc những
đoạn lầy lội (cây số 43, 69) xe đi đƣợc nhanh chóng.
Gần đây các đơn vị chủ lực đã nhận khoán và tăng năng suất. Riêng trong
tháng 3/1954, C 236 tăng công, C 222 tăng, C 251 tăng, C 221 tăng. Những sự
việc trên chứng tỏ trong công tác bảo đảm giao thông chúng ta có thể thực hiện
đƣợc chế độ làm khoán cho tất cả các đơn vị chủ lực, TNXP, Dân công và phải
lãnh đạo tăng năng suất thì mời đảm bảo đƣợc kế hoạch, trừ những trƣờng hợp
khẩn cấp, địch oanh tạc, phải lập lại giao thông ngay, không thể giao khoán đƣợc
công trong những ngày bình thƣờng, chúng ta phải thực hiện cho đƣợc chế độ
làm khoán (3 nhanh) và lãnh đạo đƣợc thi đua tăng năng suất, bồi dƣỡng khen
thƣởng, kỷ luật cho kịp thời.
4. Chăm lo đến đời sống của anh chị em: công tác phòng bệnh, vệ sinh,
phòng gian bảo mật, tiếp phẩm cũng đặc biệt chú ý, cơ quan y tế tiền phƣơng đã
cung cấp thuốc men, cán bộ y tế tƣơng đối đầy đủ, tiêu chuẩn thuốc nói chung
đều đến tay anh chị em. Các công trƣờng và đơn vị đã chú trọng tiếp phẩm, bò,
lợn, cá kho, đƣờng sữa và rau để cải thiện cho anh chị em nên nói chung đơn vị
bảo đảm đƣợc sức khỏe, quân số ra mặt đƣờng ngày một tăng, tỷ lệ ốm trung
bình từ 5 đến 10%.
Một vài công trƣờng đã đặt thành vấn đề bồi dƣỡng ngay cho các đơn vị
và phải chiến đấu và lập lại giao thông suốt đêm, nhƣng nói chung chúng ta chƣa
thật chú trọng và kịp thời xây dựng một chế độ bồi dƣỡng cho những đơn vị
chiến đấu liên tiếp đêm này qua đêm khác, hay những đơn vị làm tăng giờ mà
công tác chƣa thể khoán đƣợc, cũng nhƣ có 1 chế độ bồi dƣỡng cho cán bộ, công
nhân viên làm tăng giờ, do đó cũng ảnh hƣởng một phần đến tinh thần làm việc
và sức khỏe của anh chị em.
97
- Kết hợp công tác xây dựng quyết tâm chúng ta đã tổ chức học tập 10
điều bảo mật và công tác phòng gian bảo mật, tiến hành việc kê khai lý lịch,
kiểm điểm thực hiện nội quy đón quân cơ quan, đề cao cảnh giác chống âm mƣu
phá hoại của địch. Đến nay tuy chƣa xảy ra những việc đáng tiếc, nhƣng một số
đơn vị còn mắc chủ quan khinh địch, đi lại, phơi phóng, đun nấu có nhiều hiện
tƣợng lò bị mất, phòng không và kiểm tra nội bộ còn thiếu sót.
6- Về lãnh đạo chuyên môn:
Khẩu hiệu bảo đảm giao thông kết hợp với hoàn thiện và củng cố mặt
đƣờng ngày càng tốt, chúng ta đã thực hiện đƣợc kết quả. Những đoạn đƣờng
chúng ra phụ trách bảo đảm giao thông, sau thời kỳ kiến thiết còn nhiều quãng
hẹp khó đi (Lũng Lô, Suối Cao, Đèo Chen, cây số 14 -20 Tả Khoa, Cổ Noi …)
kỹ thuật còn thiếu sót nhiều đoạn mƣa là đƣờng lầy lún trơn, có thể tắc giao
thông (nhƣ cây số 69, 71 Lũng Lô, cây số 86, 88, Bản Ban, cây số 96-100 Quang
Huy, cây số 21-22). Lại có nhiều đoạn xung yếu, trên là vách đá cao, dƣới là suối
(cây số 27 Lũng Lô, Bản Ban, Bản Đông, Suối Cao). Nên kiểm điểm qua tình
hình, chúng ta có nhiều khó khăn phải khắc phục.
Đây là chƣa kể những đoạn mà mƣa lũ, có thể trôi đƣờng, cầu và có dốc
quá cao, mà lực lƣợng lúc đầu còn ít.
Nhƣng chúng ta đã nhận định đƣợc những nơi xung yếu địch có thể oanh
tạc hay lầy lún mà bố trí lực lƣợng mạnh giải quyết đƣợc, lại bố trí lực lƣợng
khống chế địch phá hoại nên đã tranh thủ giải quyết phối hợp, mở những quãng
đƣờng võng còn hẹp, sửa lại các đƣờng ngầm, cầu và đặt các cầu khỉ lát phên
cho xe thồ qua, làm 2 đƣờng tránh dọc suối Nghè dài 886 và Bản Đông dài 628
thƣớc.
Sang tháng 2 và 3/1954 tranh thủ lúc phi có địch bị thu hút ở hòa tuyến
ngớt đánh phá, chúng ta đã tiến hành kế hoạch củng cố mặt đƣờng, chuẩn bị đối
phó với mƣa lũ, tích cực chuẩn bị vật liệu (đá, gỗ…) sửa chữa cống rãnh để

98
chống lầy nhất là ở các đoạn đèo. Do đó chúng ta đã bảo đảm đƣợc mức ấn định
của trên cho tốc độ của xe chạy 1 đêm 70 đến 100 cây số.
Ngoài ra các Ty và công trƣờng đều đã lập đƣợc kế hoạch bảo đảm kế
hoạch giao thông mùa mƣa.
Xong, về phần lãnh đạo chuyên môn, chúng ta còn thiếu sót chƣa kịp thời
phổ biến những kinh nghiệm chống lầy ở Lũng Lô cho Bản Ban và Đèo Chen,
lúc đầu hƣớng dẫn xếp đá làm đƣờng ngầm, trơn xe khó đi. Chƣa đôn đốc và
kiểm tra việc cắm biển báo hiệu ở các đoạn đƣờng cong nguy hiểm, thực hiện kế
hoạch làm đƣờng ngầm, hay giải quyết bắn phá ở những suối lớn chuẩn bị kế
hoạch chống lũ về mùa mƣa, nói chung còn chậm.
7- Nhiều đơn vị, đã đƣợc củng cố hãy đƣợc xây dựng, nhất là các bến phà,
bến vƣợt sông, bảo vệ đèo và các đơn vị chủ lực, dân công tác phong khẩn
trƣơng, linh hoạt tranh thủ cũng đƣợc nâng cao. Nhƣng thời kỳ đầu, chúng ta còn
lung tung, trong việc lập lại ban Vƣợt sông, thành phần còn có tính chất liên
hiệp, quyền hạn và nhiệm vụ chƣa quy định rõ ràng, trật tự khu bến, sang sông
vƣợt đèo còn lộn xộn, lung tung ảnh hƣởng nhiều đến kế hoạch.
Sự liên hệ giữa Ban và các công trƣờng, Ty đƣợc chặt chẽ do thỉnh thị,
báo cáo cũng đƣợc đề cao.
Qua những đợt vận chuyển lớn, Ban và Công trƣờng, Ty đều xuống các
đơn vị trực tiếp chỉ đạo, nắm vững tình hình, nên đảm bảo cho kế hoạch.
Những khuyết điểm ở 1 vài nơi, công trƣờng và Ban chỉ huy các đơn vị
chƣa thống nhất trong việc thực hiện kế hoạch bảo đảm giao thông. Chủ trƣơng
công trƣờng là tranh thủ rải đá, củng cố mặt đƣờng, thì một vài đơn vị TNXP lại
nhận đƣợc chỉ thị của ngành dọc nghỉ để học tập, củng cố đơn vị, không nhận
làm khoán với công trƣờng lấy lý do làm tỷ lệ công gián tiếp của đoàn quy định
cao hơn với mức 35% của Bộ giao thông Công chính ấn định. Do đó không hoàn
thành đƣợc kế hoạch.

99
Nguyên nhân cũng vì chƣa quan niệm thống nhất lãnh đạo và chỉ đạo ở
trên tuyến bảo đảm giao thông, ý thức tổ chức chƣa đƣợc đề cao, và tình thần
tranh thủ bảo đảm giao thông tuyệt đối chƣa triệt để.
- Việc báo cáo kết quả công tác và thành tích của cá nhân đơn vị suất sắc
còn chậm, vai trò chiến sỹ chƣa đề cao, có nơi coi nhẹ không làm hay làm chiếu
lệ, thiếu cụ thể, khi địch phá, báo cáo còn thiếu khẩn trƣơng, chính xác, làm ngăn
trở không nhớ đến việc nắm tình hình đƣờng xá, lực lƣợng và chỉ đạo công tác
của Ban và của các Công trƣờng.
- Tóm lại, đợt đầu chúng ta có thu đƣợc nhiều thắng lợi bảo đảm vận
chuyển cung cấp cho tiền phƣơng, nhƣng chúng ta cũng còn mắc nhiều khuyết
điểm và để tắc giao thông 14 đêm, ảnh hƣởng rất nhiều đến việc thu chiến kế
hoạch.
III.- NGUYÊN NHÂN THÀNH CÔNG VÀ THẤT BẠI
Qua 5 tháng bảo đảm giao thông, chúng ta đã chiến đấu với địch chống lầy
lún, địch đã dùng 362 máy bay ném 300 tấn bom trên đƣờng 13 và 300 quả đủ
các loại trên Cổ Noi, Pha Đin, quấn chiếu từ Âu Lâu vào Lũng Lô, Chen, Cổ
Noi, Pha Đin.
Nhƣng chúng ta đã anh dũng đánh bom lập lại giao thông nhanh chóng,
chúng ta đã chống lầy trên 28 km 600 thắng lợi.
Sở dĩ đạt đƣợc những thắng lợi là do:
1) Công tác lãnh đạo chính trị và chuyên môn của chúng ta thu đƣợc nhiều
kết quả tốt đẹp, đƣợc sự giúp đỡ của cấp trên, chúng ta đã lãnh đạo học tập, thi
đua, động viên khen thƣởng, bồi dƣỡng tƣơng đối kịp thời, thực tế, nên đã giải
quyết đƣợc tƣ tƣởng cho cán bộ, dân công an tâm phục vụ, phát động đƣợc tƣ
tƣởng xây dựng đƣợc quyết tâm, khắc phục khó khăn chiến đấu anh dũng cho
các đơn vị, làm anh em phấn khởi trƣớc tin chiến thắng, tin tƣởng ở sự lãnh đạo
của Đảng, tin tƣởng ở chiến dịch toàn thắng, và nhận thức đƣợc vinh dự của

100
ngành bảo đảm giao thông quan hệ mật thiết đến chiến thắng ở tiền tuyến, đẩy
mạnh thi đua tăng năng xuất và bảo đảm kỹ thuật.
2) Nâng cao đƣợc chí căm thù đế quốc, phong kiến sâu sắc và lòng yêu
nƣớc nồng nàn của anh chị em trong các đơn vị. Nó biểu lộ sự quyết tâm khắc
phục khó khăn, anh dũng bền bỉ chiến đấu của cán bộ và chiến sĩ trong những
trận bắn phi cơ, đánh bom, chống lầy, vƣợt sông, thức suốt đêm này qua đêm
khác.
3) Sự chỉ đạo của cấp trên luôn luôn soi sáng cho chúng ta, phải nắm vững
đƣờng lối chính sách, phƣơng hƣớng công tác do đó ta nhận định trƣớc những
khó khăn, thuận lợi, những nơi xung yếu địch có thể phá hoại mà bố trí lực
lƣợng. Bản thân cán bộ gƣơng mẫu đi sát đơn vị, giúp đỡ đôn đốc trong những
giờ phút phải chiến đấu gay go và chăm lo đến đời sống của quần chúng, ảnh
hƣởng lớn đến tinh thần chiến đấu của anh em.
4) Ảnh hƣởng thắng lợi của phong trào phát động quần chúng và chiến
thắng ở tiến tuyến về, làm cho tất cả chúng ta vô cùng phấn khởi, tin tƣởng quyết
tâm và nỗ lực. Hơn nữa, kẻ địch cũng bị thu hút vào mặt trận, nên chúng chỉ tập
trung dành thời gian đầu, còn về sau thì tƣơng đối ngớt. Thời tiết lúc đó lại khô
ráo do đó, tạo cho ta nhiều điều kiện thuận lợi khách quan.
Nhƣng bên cạnh thành công ấy, chúng ta cũng có những thất bại và khuyết
điểm lớn, đã để xảy ra một số thƣơng vong và tắc giao thông 14 đêm.
Nguyên nhân thất bại, mỗi nơi tùy trƣờng hợp khác nhau, nhƣng nói
chung là:
1 - Tổ chức thiếu chặt chẽ, thống nhất, thiếu phối hợp, tƣơng trợ, sự chỉ
huy lúc lập lại giao thông lung tung, không thống nhất, nên bố trí lực lƣợng và
sắp xếp từng việc không hợp lý (Bản Ban ngày 29/11/1953) và vƣợt sông bến
phà Âu Lâu.
2 - Không nắm vững đƣợc tình hình địch (quy luật của bom nổ chậm, số
lƣợng bom) cán bộ kém quyết tâm và một số anh chị em dân công chủ lực, lúc
101
đầu hoang mang, dao động, cầu an, sợ chết (Lũng Lô đêm 9 và 10/11/1953) bản
Ban đêm 28/11/1953).
3 - Chủ quan khinh địch, không chuẩn bị đầy đủ phƣơng tiện đề phòng
địch oanh tạc (nhƣ đá, cỗ, phên, dụng cụ nhƣ cƣa, bộc phá) nên lúng túng, điều
quân chậm, dụng cụ thiếu (dao cùn) cán bộ Hạt kém quyết tâm (trƣờng hợp cây
số 113, Suối Cao, cây số 134-500 đêm 7/12/1953).
4 - Thiếu tinh thần trách nhiệm, kém khẩn trƣơng linh hoạt và tranh thủ
chậm lại thiếu cụ thể, có đơn vị dân công đến ngƣời làm ngƣời chơi, cán bộ thì
quan liêu, ngại khó, không kiểm tra đôn đốc, sợ đơn vị địch đánh phá chỉ báo cáo
qua loa, không xuống tận nơi xem một cách xác thực.
5 - Công tác lãnh đạo tƣ tƣởng chƣa đƣợc chặt chẽ và kịp thời, thiếu chuẩn
bị tƣ tƣởng trƣớc khi ra chiến đấu, nên một số ra làm sợ bom khóc (dân công).
Khen thƣởng không kịp thời nên một số thắc mắc: “Làm thế này, chả ai biết
đến”.
Bài học thành công và thất bại trên là những kinh nghiệm lớn cho chúng ta
học tập trong đợt bảo đảm giao thông sắp tới.
IV - TÌNH HÌNH VÀ NHIỆM VỤ MỚI
Tiếng súng Điện Biên đã nổ. Qua 2 đợt, bộ đội ta đã tiêu diệt đƣợc một bộ
phận quan trọng sinh lực địch tinh nhuệ của địch ở Điện Biên Phủ (trên 6 tiểu
đoàn của địch) và đang xiết chặt vòng vây để tiến lên tiêu diệt toàn bộ quân địch.
Về phía địch, chúng bị thất bại liên tiếp, nhƣng chúng vẫn liều chết cố thủ,
điên cuồng đối phó với ta, lúc đầu còn lờ mờ, chƣa biết đích xác hƣớng chiến
dịch của ta, nên phá hoại chƣa quyết liệt, nay chúng đã rõ mạch máu cung cấp
của chúng ta, nên chúng sẽ tăng cƣờng phá hoại bắn phá ác liệt đƣờng giao thông
vận chuyển, hòng ngăn cản cung cấp cản ta. Do đó chúng ta bảo đảm giao thông
sẽ gặp nhiều khó khăn gian khổ hơn trƣớc nhiều.
Hiện nay địch đang bị còng vào thế bí ở Điện Biên. Chúng chỉ có 2 khả
năng: một là tích tăng viện để cố thủ, âm mƣu kéo dài đến mùa mƣa, hy vọng
102
cung cấp của ta sẽ gặp khó khăn, bộ đội không thể giải quyết đƣợc trận địa, thì
chúng sẽ thực hiện âm mƣu cũ là lấy Điện Biên làm địa bàn đánh toàn ra Tây
Bắc. Hai là chúng nằm chờ ngày bị tiêu diệt toàn bộ hay đầu hàng. Nên địch
đang sống chết cố thủ giữ Điện Biên tích cực tăng viện và tăng cƣờng phi phao
tiếp tế và đánh phá.
Nếu chiến dịch kéo dài, địch sẽ có những khó khăn của địch (tiếp tế khó
khăn) thƣơng bệnh binh ngày một nhiều, bộ đội ta luôn luôn tập kích khiến
chúng mất ăn mất ngủ, nằm dƣới hầm thời tiết mƣa, nắng sẽ làm cho tinh thần
binh lính chúng bạc nhƣợc, ngày càng thêm suy nhƣợc.
Chúng ta cũng có khó khăn của ta, việc vận chuyển trên một tuyến dài trên
450 cây số vận chuyển bằng cơ giới, đòi hỏi phải bảo đảm giao thông tuyệt đối
mới bảo đảm cung cấp cho tiền phƣơng. Lúc này 1 cân gạo, 1 viên đạn tranh thủ
vận chuyển nhanh đến tay bộ đội là thêm một thắng lợi, đổ xƣơng máu.
Chúng ta cấn nhận rõ ràng địch nhất định tích cực phá cầu đƣờng của ta,
những trận oanh tạc gần đây, vào đầu tháng 4/1954 ở Lũng Lô (từ 5 đến
10/4/1954) và ở Cò Nòi (từ 5 đến 7/4) đã biểu lộ rõ nét, giặc đang điên cuồng
đánh phá tiếp vận của ta, hơn nữa mùa mƣa lũ sắp tới, đƣờng chúng ta còn nhiều
chỗ hẹp, chƣa rải đá, hễ mƣa là lầy lún, các đƣờng ngầm lũ to là có thể trôi đi
đƣợc. Mƣa lũ cũng là kẻ địch nguy hiểm nhƣ địch phá hoại.
Cho nên chúng ta phải nhận thức đƣợc rõ tình hình mới hiện nay, thấy
đƣợc những khó khăn mới của địch và của ta để nhận rõ nhiệm vụ bảo đảm giao
thông đợt mới.
Hồ Chủ tịch, Trung ƣơng Đảng và Bộ tổng Tƣ lệnh chỉ thị cho toàn quân
và dân chúng ta là quyết tâm tiêu diệt bằng đƣợc địch ở Điện Biên Phủ. Chiến
dịch đang tiếp diễn thắng lợi sang đợt 2. Bộ đội ta sẵn sàng chiến đấu tiêu diệt
địch. Chỉ cần chúng ta bảo đảm kế hoạch cung cấp là chiến dịch Điện Biên dễ
toàn thắng.

103
Cho nên, nhiệm vụ Bảo đảm giao thông lúc này vô cùng quan trọng và
quan hệ đến chiến thắng ở Mặt trận. Tắc một đêm là hàng trăm tấn gạo, tấn đạn ứ
lại ảnh hƣởng đến kế hoạch. Chúng ta phải làm tròn nhiệm vụ bảo đảm giao
thông lúc này một cách triệt để, nghĩa là làm thế nào không để tắc một đêm. Anh
dũng chiến đấu, đánh bom lập lại giao thông nhanh chóng, tích cực chuẩn bị vật
liệu, chống lầy, phòng mƣa lũ làm sao bảo đảm cho xe đi đƣợc sớm và nhanh
chóng.
Nhiệm vụ bảo đảm giao thông lúc này là phải tuyệt đối, tính chất của công
tác lúc này là phải tranh thủ, khẩn trƣơng, linh hoạt, chiến đấu anh dũng và bền
bỉ.
Chúng ta phải nhận định cho đúng tình hình và nhiệm vụ mới, tin tƣởng ở
sự lãnh đạo của Hồ Chủ tịch, Trung ƣơng Đảng, Bộ tổng Tƣ lệnh và Hội đồng
Cung cấp Mặt trận Trung ƣơng, tin tƣởng ở thắng lợi vĩ đại của chiến dịch, xây
dựng đƣợc một quyết tâm bảo đảm giao thông tuyệt đối, đề cao tinh thần trách
nhiệm phục vụ chiến dịch Điện Biên cho đến toàn thắng.

Ngày 18 tháng 4 năm 1954


TM. Ban Bảo đảm giao thông khu Tây Bắc

Ban chỉ huy công trƣờng 15

Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, phông Nha Giao thông, hồ sơ 648, tờ 95-104

104
Thông cáo của Hội đồng Chính phủ về họp kỳ tháng 5/1954

105
THÔNG CÁO CỦA HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
Họp kỳ tháng 5 năm 1954
Trung tuần tháng 5, Hội đồng Chính phủ đã họp dƣới quyền chủ tọa của
Hồ Chủ tịch.
Sau khi nghe Đại tƣớng Tổng tƣ lệnh báo cáo về thắng lợi lớn của chiến
dịch Điện Biên Phủ và các chiến trƣờng, Hội đồng Chính phủ nhận thấy sở dĩ
thắng lợi đó là do:
- Lãnh đạo sáng suốt của Hồ Chủ tịch, Đảng và Chính phủ.
- Sự chỉ đạo đúng đắn và kiên quyết của Bộ Tổng tƣ lệnh và Ban chỉ huy
Mặt trận.
- Tinh thần chiến đấu rất bền bỉ và anh dũng của tất cả cán bộ và chiến sĩ
bộ đội chủ lực, bộ đội địa phƣơng và dân quân du kích.
- Đồng bào dân công, các đoàn vận tải, thanh niên xung phong đã nêu cao
tinh thần thi đua yêu nƣớc phục vụ tiền tuyến.
- Đồng bào các địa phƣơng đã thực hiện đúng khẩu hiệu “Tất cả cho tiền
tuyến, tất cả để đánh thắng”.
Hồ Chủ tịch và Hội đồng Chính phủ rất vui lòng gửi lời khen ngợi và
quyết định khen thƣởng Ban chỉ huy Mặt trận Điện Biên Phủ, cán bộ và chiến sĩ
các đơn vị chủ lực, bộ đội địa phƣơng, dân quân du kích, thanh niên xung phong,
đồng bào dân công và nhân dân các địa phƣơng.
Hội đồng Chính phủ, sau khi nghe báo cáo về Hội nghị Giơnevơ, gửi lời
hoan nghênh phái đoàn của Chính phủ nƣớc Việt Nam dân chủ Cộng hòa đã kiên
quyết đấu tranh cho lập trƣờng của chúng ta là hòa bình, thống nhất, độc lập, dân
chủ.
Hội đồng Chính phủ đã thảo luận những vấn đề về kinh tế và nội chính.
Có những điểm chính nhƣ sau:

106
1) Vấn đề thu và chi: Hội đồng Chính phủ quyết định các ngành, các cấp
phải triệt để giảm chi để dành tiền, gạo cho bộ đội đánh giặc. Việc giảm chi phải
đi đôi với vấn đề chỉnh đốn tổ chức, chống quan liêu, giấy tờ, chống tham ô lãng
phí. Đồng thời cán bộ và nhân dân phải làm cho đƣợc nhiệm vụ thuế nông
nghiệp và thuế công thƣơng nghiệp năm nay, để bảo đảm mức thu đã định.
2) Vấn đề tăng gia sản xuất: Việc sản xuất năm nay nhiều địa phƣơng
gặp khó khăn hạn hán và địch phá phách cho nên lúc này tăng gia sản xuất là
một công tác quan trọng. Các cơ quan địa phƣơng cần chú trọng lãnh đạo sản
xuất một cách thiết thực. Nhân dân cần ra sức đẩy mạnh sản xuất và tiết kiệm để
phục vụ kháng chiến và đề phong nạn đói.
Hội đồng Chính phủ quyết định trích 50 triệu đồng giúp đồng bào Điện
Biên Phủ phục hồi sản xuất bằng cách bán rẻ, bán chịu nông cụ, thóc giống hoặc
đổi lấy lâm thổ sản.
3) Vấn đề học tập tại chức: Hội đồng Chính phủ nhận định đó là một
nhiệm vụ cần thiết của cán bộ và công nhân viên. Cán bộ và công nhân viên cần
sắp xếp công việc cho hợp lý để học tập có kết quả, mà công việc vẫn chạy đều.
Các cán bộ phụ trách cơ quan phải chăm lo giúp đỡ anh chị em học tập.
Trong khi kết thúc hội nghị, Hồ Chủ tịch nhấn mạnh: cán bộ và chiến sĩ,
đồng bào chớ vì thắng mà kiêu, chớ chủ quan khinh địch, mà phải cố gắng thi
đua mọi ngƣời làm tròn nhiệm vụ để giành lấy nhiều thắng lợi lớn hơn nữa.

Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Công báo năm 1954, số 6, tờ 27

107
Mật điện số 138 P4B ngày 12/5/1954 của Thủ tƣớng Phủ gửi Ủy ban
Kháng chiến Hành chính khu Tây Bắc về việc thu thập và bảo quản chiến
lợi phẩm trong chiến dịch Điện Biên Phủ.

108
MẬT ĐIỆN
Số 138 P4B ngày 12/5/1954
Thủ tƣớng Phủ điện UBKCHC khu Tây Bắc.
Sau thắng lợi Điện Biên Phủ, đề nghị Liên khu chú ý mấy điểm dƣới đây:
1. Về chiến lợi phẩm:
Thi hành đúng Thông tƣ số 245-TTg ngày 29/3/1954 của Thủ tƣớng Phủ,
tích cực thu dọn và bảo quản, nếu cần thì tăng số ngƣời bảo quản lên, cố gắng
tập trung vào công quỹ để giải quyết khó khăn về chi phí tù binh. Tiến hành việc
thống kê và phân loại cho rõ ràng. Số dù còn tốt, chƣa rách thì tập trung bảo
quản cẩn thận để dùng vào việc rất cần thiết sau này.
Về phần giao Bộ Tài chính thì những thứ có thể sử dụng tại chỗ dùng vào
việc trả nợ dân và thƣởng năng suất cho dân công. Những thứ khác nên lợi dụng
phƣơng tiện của dân công để chở về các Ty Tài chính Tuyên Quang, Yên Bái,
Thái Nguyên, Phú Thọ.
Bộ Tài chính sẽ cử cán bộ lên giúp đỡ Ủy ban.
2. Về nông cụ:
a. Mậu dịch sẽ mang nông cụ lên để bán rẻ, bán chịu hay đổi cho dân lấy
lâm thổ sản.
b. Ủy ban nên có kế hoạch hƣớng dẫn ngay lò rèn địa phƣơng và dân tộc
thiểu số sản xuất cho giá thành đƣợc rẻ. Việc phân phối sắt thép vụn để làm nông
cụ cần có lãnh đạo; nếu cần thì cho không.
3. Tù binh có nhiều tiền Đông Dƣơng không? Nếu nhiều Ủy ban xử lý nhƣ
thế nào?
Ủy ban có ý kiến gì xin cho biết.
Sao kính gửi: CHÁNH VĂN PHÕNG THỦ TƢỚNG
- Tổng cục Cung cấp; PHỦ
- Hội đồng Cung cấp Mặt trận;
- Bộ Tài chính - Bộ Công thƣơng; (Đã ký và đóng dấu)
- Ngân hàng Trung ƣơng.
Phạm Mỹ
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, phông Bộ Tài chính, hồ sơ 10694, tờ 08.

109
Thông tri số 1793/QT/HC ngày 18/5/1954 của Ủy ban Hành chính
Khu Tả ngạn về việc ăn mừng chiến thắng Điện Biên Phủ.

110
ỦY BAN KHÁNG CHIẾN HÀNH VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÕA
CHÍNH KHU TẢ NGẠN Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
PHÕNG QUẢN TRỊ HÀNH CHÍNH
Số: 1793/QT/HC
THÔNG TRI
VỀ VIỆC ĂN MỪNG CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ

Nhân dịp quân ta đại thắng ở Điện Biên Phủ và các chiến trƣờng toàn
quốc Đông Xuân vừa qua, Chính phủ có quyết định khao thƣởng quân đội một
ngày trong toàn quân.
Thi hành chủ trƣơng trên, Ủy ban Kháng chiến Hành chính Khu quyết
định:
- Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phƣơng tỉnh và huyện kể cả cán bộ và chiến sỹ
mỗi ngƣời đƣợc thêm 1 kilô gạo, phụ cấp đó sẽ tính vào ngân sách của quân đội.
Đối với anh em du kích, Ủy ban Kháng chiến Hành chính xã cùng với Ủy ban
Liên Việt xã sẽ đứng ra vận động nhân dân khao cho anh em ăn tập trung một
bữa ở thôn, nếu có điều kiện có thể ăn tập trung ở xã.
Thôn nào bị giặc tàn phá, nhân dân túng thiếu không có khả năng, Ủy ban
xã sẽ điều hòa anh em du kích thôn này sang thôn khác, tuyệt đối tránh vận động
ở những nơi bị tàn phá không có khả năng và tiêu chuẩn khao cho anh em du
kích cũng chỉ bằng tiêu chuẩn của anh em bộ đội nghĩa là không quá 1 cân 600
một bữa để khỏi lãng phí, nhân dân khỏi phải đóng góp nhiều. Bộ đội đóng ở
thôn nào nên tổ chức ăn khao với anh em du kích.
Các cơ quan khu, tỉnh, huyện có thể tổ chức ăn mừng do anh em góp tiền.
Các tổ chức quần chúng ở xã và nhân dân có thể tổ chức ăn mừng, nhƣng
tránh tình trạng lãng phí. Ngày khao quân sẽ làm trong dịp lễ sinh nhật Hồ Chủ
tịch. Tuy nhiên phải đề phòng tƣ tƣởng ăn khao linh đình, quên nhiệm vụ, cho
nên các anh em du kích vẫn phải bố trí canh gác đều đặn, nhất là nhiệm vụ bao

111
vây vị trí không đƣợc lỏng lẻo. Tƣ tƣởng chủ quan, tập hợp đông đảo vô nguyên
tắc, lộ liễu bừa bãi có thể bị địch bắn phá.
Việc khao quân làm đƣợc chu đáo sẽ có ảnh hƣởng lớn đến tinh thần quân
dân ta, đẩy mạnh mọi công tác kháng chiến, nhất là hoạt động quân sự.
Nhận đƣợc Thông tri này, các cấp chính quyền nghiên cứu đặt kế hoạch
Thông tri hỏa tốc ngay xuống dƣới để tiến hành cho kịp và có kết quả.

Nơi nhận: Tả Ngạn, ngày 18 tháng 5 năm 1954


- Khu Ủy ban Tả ngạn “để tƣờng”; ỦY BAN KHÁNG CHIẾN HÀNH
- UBKCHC các tỉnh, thành;
- 11 khu chuyên môn;
CHÍNH KHU TẢ NGẠN
- Bộ Tƣ lệnh Tả ngạn; PHÓ CHỦ TỊCH
- Các E.42+50. F.320;
- Mặt trận Khu; (Đã ký bản chính)
- Các đoàn thể Khu;
- Lƣu.
Quyết Tiến

SAO LỤC KÍNH GỬI:


TL.UBKCHC KHU TẢ NGẠN
CHÁNH VĂN PHÕNG
(Ký và đóng dấu)
Vũ Văn Bính

Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, phông Ủy ban Hành chính Khu Tả ngạn,
hồ sơ 491, tờ 01.

112
Công văn số 360/TC/KT ngày 19/5/1954 của Vụ Kế toán Bộ Tài chính
về việc tiếp nhận chiến lợi phẩm ở Điện Biên Phủ.

113
BỘ TÀI CHÍNH VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÕA
VỤ KẾ TOÁN Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Số: 360/TC/KT Ngày 19 tháng 5 năm 1954

BỘ TRƢỞNG BỘ TÀI CHÍNH


Kính gửi: Ông Giám đốc Khu Tài chính Khu Tây Bắc
Tiếp theo Công văn số 351/TC/KT của Bộ về việc tiếp nhận chiến lợi
phẩm ở Điện Biên Phủ, Bộ giới thiệu với Khu là Nha Bƣu điện (Bộ Giao thông
Công chính) sẽ cử ngƣời đến phối hợp với Khu Tài chính trong việc tiếp nhận
những máy móc, phụ tùng, nguyên vật liệu về bƣu điện, vô tuyến điện mà bên
quân sự không lấy.
Khi giao nhận Khu sẽ làm biên bản kê rõ chi tiết để có thể tính giá cả gửi
lên Bộ. Ngoài ra những thứ thuộc loại về bƣu điện mà bên Bƣu điện thu đƣợc
trong khi đi công tác, Bƣu điện sẽ phải báo cáo với Khu Tài chính rồi hai bên
làm biên bản giao nhận nhƣ trên gửi về Bộ.
Việc bảo quản và vận chuyển sẽ do bên Nha Bƣu điện phụ trách.

Sao kính gửi: TL. BỘ TRƢỞNG BỘ TÀI CHÍNH


- Nha Bƣu điện “để cử ngƣời đi”. PHÓ GIÁM ĐỐC VỤ KẾ TOÁN

(Đã ký và đóng dấu)

Ngo Van Ngo

Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, phông Bộ Tài chính, hồ sơ 10694, tờ 11.

114
Thông tƣ số 379-TTg ngày 19/5/1954 của Thủ tƣớng Chính phủ về
việc thƣởng Huân chƣơng Kháng chiến cho những gia đình có từ 5 con trở
lên tòng quân.

115
Ngày 19 tháng 5 năm 1954

THỦ TƢỚNG CHÍNH PHỦ


Kính gửi: Ủy ban Kháng chiến Hành chính các Liên khu Việt Bắc 3, 4, 5;
Khu Tây Bắc, Tả ngạn, Nam Bộ, Hà Nội.

Hội đồng Chính phủ đã quyết định thƣởng Huân chƣơng Kháng chiến cho
những gia đình có từ 5 con tòng quân trở lên ở trong quân đội nhƣ sau:
1. Quân nhân ở bộ đội chủ lực, bộ đội địa phƣơng, công tác ở các đơn vị
chiến đấu hoặc ở các cơ quan văn phòng, các ngành chuyên môn của quân đội
nhƣ: quân y, quân dƣợc, thông tin liên lạc, vận tải, v.v… Những ngƣời đã hy
sinh hoặc đã đƣợc giải ngũ không vì bị thi hành kỷ luật cũng đƣợc kể.
2. Dân quân du kích đã lập công cũng đƣợc hƣởng quyền lợi này.
Dân quân du kích đã lập công là ngƣời có thành tích về chiến đấu, võ
trang tuyên truyền, trừ gian diệt tề, phá hoại kinh tế địch, địch vận, chống địch
bắt phu, bắt lính, v.v… mà đƣợc từ các cấp chỉ huy Trung đoàn, tỉnh đội dân
quân, Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh trở lên cấp giấy khen, bằng khen
hoặc thƣởng huân chƣơng.
Con là con đẻ hoặc con dâu. Con gái đã lấy chồng thì chỉ đƣợc tính ở gia
đình nhà chồng.
Trƣớc đây Chính phủ đã đặt Bảng vàng Danh dự và Bảng Gia đình Vẻ
vang để thƣởng những gia đình có từ 1 đến 3 con tòng quân. Nay lại thêm việc
thƣởng huân chƣơng này cũng là để tƣởng lệ những gia đình có nhiều con đi bộ
bội hoặc đi dân quân và đồng thời khuyến khích phong trào tòng quân. Vậy yêu
cầu Ủy ban chỉ thị cho các cấp chính quyền địa phƣơng cho lập ngay danh sách
những gia đình hiện có từ 5 con tòng quân trở lên, gửi lên Bộ Quốc phòng Tổng
tƣ lệnh để đề nghị Chính phủ khen thƣởng. Sau đây, mỗi khi có những gia đình

116
có 5 con tòng quân thì Ủy ban Kháng chiến Hành chính xã phải báo cáo ngay lên
cấp trên để đề nghị thƣởng huân chƣơng vào dịp gần nhất.
Các bản đề nghị sẽ làm theo mẫu thống nhất kèm theo đây.
ĐỀ NGHỊ THƢỞNG HUÂN CHƢƠNG KHÁNG CHIẾN
CHO GIA ĐÌNH CÓ 5 CON TÕNG QUÂN
Họ và tên chủ gia đình……………………...................., …………. tuổi
Nghề nghiệp……………………………………………………………..
Thành phần xã hội………………………………………………………
Nguyên quán…………………………………………………………….
Trú quán…………………………………………………………………
Có……….. con tòng quân

HỌ VÀ CHÚ
STT TUỔI CẤP BẬC ĐƠN VỊ
TÊN THÍCH

1 Bùi Văn A 32 Trung đội trƣởng B12, C153, D41, E36, F308 Đã hy sinh

2 Bùi Văn B 30 Xã đội phó dân quân Xã đội…huyện… Đã lập công

3 Bùi Văn C 29 Chiến sĩ C43, D174, F312 Con dâu

4 Đỗ Thị Đ 27 Y tá Ban Quân y E174, F312

5 ………….

6 …………
Ý kiến Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh:
Ý kiến Ủy ban Kháng chiến Hành chính khu:

TL. THỦ TƢỚNG CHÍNH PHỦ


THỨ TRƢỞNG TỔNG THƢ KÝ HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
(Đã ký và đóng dấu)

Cù Huy Cận

Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Công báo số năm 1954, số 6, trang 34.

117
Báo cáo số 1074/TYO/BC ngày 21/5/1954 của Vụ Bào chế Bộ Y tế về
việc thu thuốc chiến lợi phẩm.

118
BỘ Y TẾ VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÕA
VỤ BÀO CHẾ Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Số: 1074/TYO/BC
V/v thu thuốc chiến lợi phẩm.

Bộ trƣởng Bộ Y tế kính gửi: - Khu Y tế Liên khu Việt Bắc;


- Khu Y tế Liên khu III;
- Khu Y tế Liên khu IV;
- Khu Y tế Liên khu Tả ngạn;
- Khu Y tế Liên khu Tây Bắc.

Thời gian gần đây thuốc chiến lợi phẩm thu đƣợc ngày càng nhiều. Một
phần số thuốc thu đƣợc giao cho bên quân y sử dụng; còn một phần thì giao cho
các cơ quan y tế nhƣng vì việc bàn giao thuốc chiến lợi phẩm giữa các cơ quan
tài chính và y tế chƣa đƣợc quy định rõ ràng nên đã xảy ra ở một vài nơi là tình
trạng thuốc lấy đƣợc của địch từ lâu mà sau mấy tháng mới đem sử dụng.
Thí dụ: Cuối năm 1956, sau vụ Đông Sơn ở Liên khu 4, Ty Tài chính địa
phƣơng có thu đƣợc một số thuốc chiến lợi phẩm. Ty Tài chính có đặt vấn đề
giao cho cơ quan y tế, nhƣng cơ quan y tế địa phƣơng vì thấy thuốc đó quy ra
tiền, nên không rõ thực hƣ thế nào, lại hẹn để thỉnh thị cấp trên. Thế rồi hai bên
không tranh thủ bảo quản và sử dụng số thuốc trên nên để trong 3, 4 tháng sau số
thuốc đó mới giao cho cơ quan y tế. Sau một thời gian lâu nhƣ vậy, thuốc không
có nhân viên chuyên môn bảo quản và phân phối sử dụng, tất nhiên thế nào cũng
bị phân chất và hỏng mất một phần. Trong khi đó công nhân viên, dân công,
nhân dân thiếu thuốc dùng, có nơi phải bỏ tiền ra mua với một giá khá cao.

Để:
1. Bảo quản thuốc chiến lợi phẩm tránh hƣ hỏng và lãng phí.
2. Sử dụng thuốc chiến lợi phẩm kịp thời và nhanh chóng.

119
Bộ đã cùng Bộ Tài chính nghiên cứu đặt vấn đề sử dụng thuốc chiến lợi
phẩm và quy định nhƣ sau:
Mỗi khi thu đƣợc chiến lợi phẩm ở một nơi nào trong Liên khu hay Khu
thì nhiệm vụ của Ty Y tế địa phƣơng hay Khu là phải tranh thủ nhận ngay với Ty
Tài chính địa phƣơng hay Khu Tài chính. Thuốc nhận đƣợc sẽ giải quyết theo
những thể thức sau:
1. Ty Y tế địa phƣơng sẽ nhận của Ty Tài chính những thứ thuốc và dụng
cụ làm biên bản cụ thể và báo cáo về Khu Y tế. Khu Y tế sẽ báo cáo lên Bộ trong
khi chờ đợi quyết định về sử dụng. Ty Y tế sẽ chịu trách nhiệm bảo quản các
thuốc đó.
2. Việc sử dụng thuốc do Khu Y tế quyết định phân phối và sử dụng theo
nhu cầu của các tỉnh trong Liên khu. Khu Y tế có thể:
- Giao cho Ty Y tế địa phƣơng dùng nếu số thuốc đó ít, và sẽ trừ vào số
thuốc hàng tháng vẫn phát cho Ty.
- Nếu số thuốc đó nhiều thì điều hòa cho các Ty khác.
3. Vấn đề thanh toán.
Trong việc bàn giao không cần quy thuốc ra tiền hay thóc mà chỉ ghi tên,
số lƣợng, chất lƣợng thuốc nhận đƣợc. Cơ quan y tế chỉ việc báo cáo về Khu,
Khu báo cáo về Bộ việc nhận và sử dụng những thứ thuốc trên. Bộ sẽ xét những
thứ thuốc thu đƣợc và trừ vào số thuốc mà Bộ sẽ cấp cho các Liên khu nếu thấy
hợp lý và cần thiết. Một điểm mà các cơ quan y tế cần phải nhận rõ là thuốc
chiến lợi phẩm thu đƣợc cũng coi nhƣ thuốc cấp phát để theo đúng tiêu chuẩn
mà sử dụng, chứ không phải là một món quà đặc biệt đem sử dụng bừa bãi - vì
thế nên trong cơ quan Tài chính sẽ không tính ra tiền và trừ vào kinh phí hoạt
động của Khu Y tế (vì nguyên liệu đã do Bộ Y tế cung cấp bằng hiện vật cho
Khu) nhƣng Khu Y tế có thể trừ vào số thuốc cấp cho Ty hàng tháng và Bộ có
thể trừ vào số nguyên liệu cấp cho khu hàng năm nhƣ đã nói ở trên.

120
Nếu trong khi giao nhận thuốc gặp những khó khăn trở ngại (nhƣ vấn đề
bảo quản, vận chuyển, cơ sở, v.v…) cơ quan y tế địa phƣơng có thể đề nghị với
Ủy ban Kháng chiến Hành chính địa phƣơng giải quyết. Điều cần chú ý ở đây là
các cơ quan y tế phải tranh thủ nhận thức sớm và sử dụng kịp thời để tránh thuốc
hỏng và lãng phí.
Mặt khác, Bộ Tài chính cũng đã chỉ thị cho các Khu Tài chính về những
vấn đề trên.
Thuốc chiến lợi phẩm là xƣơng máu của bộ đội và nhân dân cần đƣợc bảo
quản cẩn thận để sử dụng hợp lý. Bộ mong các khu Y tế sẽ triệt để áp dụng
những điều đã quy định trên.

Sao kính gửi: TL. BỘ TRƢỞNG BỘ Y TẾ


- Khu Y tế Liên khu Việt Bắc (qua Ủy ban Kháng chiến GIÁM ĐỐC VỤ BÀO CHẾ
Hành chính Liên khu);
- Khu Y tế Liên khu III (qua Ủy ban Kháng chiến Hành
chính Liên khu);
- Khu Y tế Liên khu IV (qua Ủy ban Kháng chiến Hành (Đã ký và đóng dấu)
chính Liên khu);
- Khu Y tế Tả ngạn (qua Ủy ban Kháng chiến Hành chính
Liên khu);
- Khu Y tế Tây Bắc (qua Ủy ban Kháng chiến Hành chính
Liên khu);
- Bộ Tài chính “để tƣờng”.

Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, phông Bộ Tài chính, hồ sơ 10694, tờ 16-
17.

121
Công văn số 2461/TV/TU ngày 25/5/1954 của Nha Bƣu điện Vô tuyến
điện về việc thu thập chiến lợi phẩm ở Tây Bắc.

122
NHA BƢU ĐIỆN VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÕA
VÔ TUYẾN ĐIỆN Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Số: 2461/TV/TU Ngày 25 tháng 5 năm 1954


V/v thu thập chiến lợi phẩm ở
Tây Bắc.

Kính gửi: Ông Giám đốc Bƣu điện Vô tuyến điện Khu Tây Bắc.

Tiếp theo Công văn số 2220-TV/TU ngày 10/5/1954 về vấn đề thu thập
chiến lợi phẩm, xin báo để Khu rõ:
1. Bằng Công văn số 360-TV/KT ngày 16/5/1954 Bộ Tài chính đã báo cho
Khu Tài chính biết là Nha Bƣu điện Vô tuyến điện sẽ cử ngƣời liên lạc với Khu
Tài chính Tây Bắc để thu thập những chiến lợi phẩm cần thiết cho Bƣu điện Vô
tuyến điện mà quân sự không lấy. Ngoài ra nếu các cấp Bƣu điện Vô tuyến điện
ở Tây Bắc có thu hồi đƣợc một số nào thì cũng phải báo cho Tài chính địa
phƣơng, Khu và Nha rõ.
2. Chiểu Công văn số 360-TV/KT, Nha quyết định cử ông Bùi Văn Giới,
phụ trách bộ phận vật liệu ở Nha lên Tây Bắc liên lạc với Khu Bƣu điện Vô
tuyến điện, Khu Tài chính Tây Bắc, các Ty Bƣu điện vô tuyến điện địa phƣơng
để làm nhiệm vụ thu thập các chiến lợi phẩm nói trên. Nha cử thêm ông Nguyễn
Danh Viện, Trƣởng Đài Vô tuyến điện Khu Tây Bắc cùng với ông Giới làm
nhiệm vụ trên.
3. Những vật liệu cần chú ý thu thập:
- Vô tuyến điện: Những bộ máy điện, máy nổ, những bộ máy thu, máy
phát, bóng đèn, những vật liệu nhôm tấm, dura tấm, sắt tây, dầu, v.v…
- Điện tín, điện thoại: Các loại máy điện tín, điện thoại và vật liệu liên
quan đến máy, tổng đài, dây các loại, sứ, cầu chì, v.v…

123
- Bƣu vụ: Cần, vải dù, vải bạt, vải len, túi vải, một số dụng cụ tiếp tế nhỏ
(cho giao thông viên ở địch hậu).
Ngoài ra ông Bùi Văn Giới, Nguyễn Danh Viện và Khu sẽ tùy nghi định
đoạt những thứ khác cần phải thu thập.

Nơi nhận: GIÁM ĐỐC NHA BƢU ĐIỆN


- Nhƣ trên; VÔ TUYẾN ĐIỆN
- Bộ Tài chính để tƣờng trình;
- Khu Tài chính Tây Bắc đề tƣờng việc; (Đã ký và đóng dấu)
- Các phòng: TV-VL-BV-DTT-VTD để biết.

Trần Quang Bình

Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, phông Bộ Tài chính, hồ sơ 10694, tờ 10.

124
Báo cáo số 03/BC/UBHN ngày 30/5/1954 của Ủy ban Kháng chiến
Hành chính Hà Nội về tinh hình Hà Nội trong 2 tháng, tháng 4 và tháng 5
năm 1954 sau Chiến thắng Điện Biên Phủ.

125
ỦY BAN KHÁNG CHIẾN VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÕA
HÀNH CHÍNH HÀ NỘI Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Số: 03/BC/UBHN

BÁO CÁO TÌNH HÌNH HÀ NỘI THÁNG 4


VÀ THÁNG 5 NĂM 1954

Tình hình Hà Nội trong 2 tháng vừa qua có mấy việc đáng chú ý:
1. Ảnh hƣởng của chiến thắng Điện Biên Phủ.
2. Địch bắt lính và công tác chống bắt lính của ta.
3. Hội nghị Genève và cuộc vận động đòi Chính phủ Pháp phải thành thật
thƣơng lƣợng với Chính phủ ta.
4. Chống thuế, đòi tăng lƣơng, chống những áp bức bóc lột khác.
5. Kỷ niệm 19/5.
6. Địch vận.
7. Tổ chức.
Chú thích: Vì trong thời gian 2 tháng 4 và 5, việc báo cáo thƣờng xuyên
chƣa đƣợc đầy đủ nên báo cáo 2 tháng 4, 5 phải làm dài để trình bày đƣợc tƣơng
đối tỷ mỉ tình hình phong trào trong 2 tháng.
I. ẢNH HƢỞNG CỦA CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ.
Sau thất bại ở mặt trận Điện Biên Phủ, luận điệu tuyên truyền của địch che
giấu thất bại nhƣ sau:
- Ta cố đánh Điện Biên Phủ để giành uy thế ở Hội nghị Genève, nên ta đã
không quản gì sự hy sinh về ngƣời theo chiến thuật lấy số đông lan tràn. Ta
quyết đánh, Pháp cố giữ nên Điện Biên Phủ thành ra quan trọng. Thắng lợi là do
vũ khí của Trung Quốc hơn là thắng lợi của ta.
- Tinh thần chiến đấu của quân đội Pháp rất anh dũng.

126
- Chiến thắng Điện Biên Phủ nguy hiểm cho ta vì “thế giới từ đó thức tỉnh
để đối phó với hiểm họa Cộng sản”.
Đồng thời chúng phản tuyên truyền về chính sách thƣơng binh của ta, nói
ta phân biệt chủng tộc, không trao trả thƣơng binh ngụy, ta lợi dụng việc trung
lập đƣờng 41 để chuyển quân về Trung Châu.
Chúng lo ta đánh đồng bằng, chúng tăng cƣờng phòng thủ những nơi xung
yếu nhƣ trƣờng bay. Bọn Hội đồng Thành phố bù nhìn họp đề nghị sát nhập
ngoại thành với nội thành để tiện việc phòng thủ chung. Chúng lập Ủy ban An
ninh khu phố.
Bọn Việt gian bù nhìn đầu sỏ cho vợ con vào Nam, bọn thực dân cho vợ
con về Sài Gòn hay Pháp. Một số xí nghiệp thực dân đóng đồ gửi vào Sài Gòn.
Nhà băng Đông Dƣơng thải bớt nhân viên. Bọn tƣ sản mại bản hoãn việc đặt
hàng ở Pháp.
Khi địch chƣa thất bại ở Điện Biên Phủ bọn ngụy binh đã hoang mang.
Một số quen cơ sở của ta hỏi cách ra tự do hoặc về quê vùng du kích.
Sau khi Điện Biên Phủ thất bại, bọn ngụy binh tỏ ý vui mừng tổ chức ăn
uống cho là không phải đi Điện Biên Phủ nữa.
Nhân dân đều biết địch thất bại ở Điện Biên Phủ, ta thắng lợi lớn.
Trong quần chúng có nhiều ngƣời quá lạc quan cho ta đánh thắng cũng dễ
dàng: “Ta muốn đánh vào Hà Nội lúc nào cũng đƣợc, ta chƣa đánh vì còn sợ hại
đến dân”. Vì họ cho không có vị trí nào to bằng Điện Biên Phủ. Ta đánh ở đƣờng
số 5, nhân dân bàn tán là ta cắt đƣờng số 5 để bao vây Hà Nội. Có quần chúng
cảm tình nói: “Bây giờ thì ai chẳng thấy rõ ràng là kháng chiến thế nào cũng
thắng lợi, nhƣng còn số Mỹ can thiệp thì lại kéo dài hơn”.
Nhân dân đều ca tụng tinh thần anh dũng của bộ đội ta, kỹ thuật và vũ khí
của ta. Họ rất sung sƣớng, có nhà ăn mừng, có ngƣời nghỉ không đi chợ.
Trí thức thắc mắc về số phận Đờ- cát- tơ-ri, sau đƣợc tin ta bắt sống thì rất
hả dạ.
127
Quần chúng lao động lo giá gạo, giá sinh hoạt lên cao, thất nghiệp, lƣơng
bổng hạ, có ngƣời lo công việc bị gián đoạn nhƣ: chơi họ nửa chừng sẽ không
thu đƣợc, ngƣời có nhà cho thuê lo Cụ về thì giá nhà sẽ hạ, hiệu trƣởng trƣờng tƣ
lo chủ nhà đòi nhà.
Công chức lớp trung hoang mang sợ bị về rừng, sa thải lƣơng ít, hy vọng
Chính phủ Liên hiệp.
Những gia đình có con em đi ngụy binh hoặc sắp bị động viên, nửa mừng
nửa lo, mừng Hà Nội sắp đƣợc giải phóng, con cái không phải đi lính nữa, lo
chiến sự.
Một số nhất là những ngƣời đào ngũ kháng chiến hay cộng tác với địch lo
sợ ta về sẽ truy tố công chức cũng có ngƣời lo nhƣ vậy.
Một vài nhà tƣ sản một số công chức cao cấp sợ lúc ta tổng phản công bí
và lấy nên đã dự định bán nhà mua vàng hoặc tính đến lƣơng khô, gạo muối.
Giá nhà hạ đi, trƣớc 70 vẫn không bán nay 60 vẫn không ai mua. Việc
quảng cáo nhà rất nhiều.
II. ĐỊCH BẮT LÍNH VÀ CÔNG TÁC CHỐNG BẮT LÍNH CỦA TA.
Sau khi “Ủy ban Chiến tranh” của bù nhìn tuyên bố bắt một loạt lính mới,
từ tháng 4 năm 1954 đến nay chúng đã bắt lính rất gắt gao.
Chúng tung truyền đơn hô hào thanh niên tòng quân để “chống vào hàng
Cộng sản”. Tên thị trƣởng bù nhìn đã nói với chị em lên Thị chính đấu tranh
chống lính là “phải tiêu diệt hết Việt Minh mới không phải đi lính”.
Lâu nay chúng luôn luôn hăm dọa bắt phải đƣa ra tòa án quân sự những
ngƣời trốn lính động viên. Chúng đã dùng đủ mọi thủ đoạn lùng bắt thanh niên
vào lính. Chúng bất chấp cả những điều chúng đã quy định lứa tuổi, văn bằng,
trình diện, họ quây đƣờng bắt nhập ngũ bắt đƣợc thanh niên nào tƣơng đối khỏe
mạnh là cho ô tô mang đi.
Ở nội thành, chúng dùng bọn hiến binh, công an bù nhìn cảnh binh, mật
thám, 2B phối hợp chặn các ngả đƣờng, quây ráp cả ban ngày và đêm ở các khu
128
phố để bắt thanh niên. Bọn cảnh binh đột nhập vào từng nhà để bắt, chúng chú
trọng quây ở những nơi tập trung (khu lao động, rạp chiếu bóng… có nơi từ
trƣớc không quây lần nào nay chúng cũng quây bắt (Hạ Bồi). Chúng xông cả vào
các sở đang làm việc hoặc đón giờ tan làm việc của các sở để bắt anh em công
nhân.
Ở ngoại thành từng nơi chúng dùng thủ đoạn bắt khác nhau. Có nơi chúng
giao bọn tổ bảo an đi chỉ định từng nhà để bắt. Có nơi chúng dùng bọn đồn bốt đi
vây các xã (Hồ Khẩu, Yên Thái, Vạn Phúc…) để bắt thanh niên. Ở khu Bạch
Mai, chúng thƣờng vây dân vào khoảng chập tối thỉnh thoảng chúng tắt đèn vây
bắt. Ở mấy xã Hồ Khẩu, Đồng Xả, Yên Thái có khi 4 giờ sáng chúng đã nhảy
qua tƣờng để bắt thanh niên.
Ngoài ra, chúng còn kiểm soát phụ nữ ở thôn quê lên Hà Nội, vì chúng
nghi là nữ du kích. Nếu những phụ nữ nào không có giấy tờ ở Hà Nội và chỉ có
giấy của ta chúng đều bắt vào lính chiến đấu. Hiện nay chúng bắt lẻ tẻ một số
phụ nữ có văn bằng.
Đối với công chức, chúng đã có lệnh chuyển công chức sang quân sự khi
cần thiết.
Sang tháng 6 năm 1954, chúng lại gọi bắt thêm 1.200 sinh viên vào sĩ
quan và 8.000 thanh niên vào hạ sĩ quan.
Chúng chặn các ngả đƣờng đi, đuổi theo ca nô bắt giữ lại những thanh
niên trốn ra vùng tự do.
Đối với ngụy binh và gia đình ngụy binh, chúng dở trò mua chuộc lừa
phỉnh, nói là sẽ tăng lƣơng cho ngụy binh, tăng phụ cấp gia đình, tăng phụ cấp
thƣơng phế binh. Chúng đi tìm những con cái ngụy binh đã bị chết, tuyên truyền
nhồi sọ cho các em này là “Việt Minh đã giết bố các em” hòng gây oán thù cho
các em này đối với Chính phủ kháng chiến. Chúng đã tìm đƣợc 25 con em ngụy
binh trạc tuổi từ 13 trở xuống.
Chúng tuyển mộ bọn lƣu manh côn đồ để bảo vệ trƣờng bay.
129
Từ ngày 14/4 đến 26/4 chúng đã bắt cho đi 41 xe cam nhông (không rõ số
lƣợng).
Ngày 19/4 bắt hơn 100 ngƣời ở Kim Hạ.
Ngày 20/4 bắt hơn 100 ngƣời ở Khu Bạch Mai và 27 ngƣời ở cửa ga.
Ngày 20/4 bắt gần 200 ngƣời ở Khâm Thiên ở bắt 23 ngƣời ở ga.
Ngày 22/4 bắt gần 60 ngƣời ở phố Quan Thánh.
Ngày 3/5 bắt 14 ngƣời ở xã Yên Mỹ (sau lại gọi thêm 18 ngƣời hạn đến
15/5 phải đi).
Ở xã Yên Duyên chúng gọi bắt 70 ngƣời hạn đến 15/5 phải đi (chƣa rõ
chúng bắt đƣợc bao nhiêu).
Dƣ luận quần chúng sôi nổi về việc bắt lính của địch. Ai cũng thấy rõ bị
động viên là chết.
Hầu hết nhà nào cũng bị đứng chặn trực tiếp hay gián tiếp có ngƣời nhà bị
bắt lính nên hết sức lo sợ.
Thanh niên sợ không dám đi ngoài phố, không dám đi xem ciné vì thế có
đến rạp ciné chỉ có 7, 8 ngƣời, chủ rạp lại phải trả lại tiền.
Việc bàn tán về quê hay ra hậu phƣơng làm ăn gần nhƣ công khai. Phong
trào lan tràn tháo chạy càng ngày càng nhiều càng lan tràn mạnh. Dân nói nơi
nào chúng thấy có ngƣời trốn lính, về quê xa để ra hậu phƣơng tòng quân hay
làm ăn (có xí nghiệp tƣ nhân công nhân bỏ trốn ½, trong các trƣờng tƣ thục, có
lớp học sinh bị động viên vắng mặt 30%). Một mặt nhân dân ở các vùng du kích
cũng đi lên gọi về nhiều.
Có những xóm lao động nhân dân đã cam kết với nhau không đi lính cho
giặc, khi bị bắt đã đánh tháo chạy.
Quần chúng có ngƣời nói “nó bắt thế này thì loạn mất”.
Nhân dân giúp đỡ những ngƣời trốn lính nhƣ cho ở tạm thời vài ngày lúc
địch đang truy nã, hay bảo cho anh em thanh niên đi ngoài đƣờng tránh những
nơi địch đang ráp.
130
Trong việc ra vùng tự do quần chúng cũng còn thắc mắc là đã có ngƣời ra
tòng quân nhƣng lại không đƣợc nhận, không biết sống bằng cách nào lại phải
vào.
Do chỗ quần chúng bàn tán chạy ra vùng tự do, ngay đến con cái tƣ sản
địa chủ cũng chạy ra vùng tự do làm cho nhân dân rõ chính thể của ta là dân chủ
tiến bộ.
Trƣớc việc bắt lính của địch, ý thức chính trị của quần chúng càng tỏ ra rõ
rệt nhƣ: có thanh niên nói “Tao đi lính thì đi lính cho Cụ Hồ chứ tao thèm vào đi
lính cho Bảo Đại”, và quần chúng cũng đã thấy rõ Mỹ là kẻ gây chiến kéo dài
chiến tranh. Nhƣng vừa qua trƣớc âm mƣu tuyển mộ vào lớp không quân
Marrakech của địch, một số học sinh đã mắc phải. Địch chỉ tuyển lựa có 50
ngƣời mà số dự thi đến 600 ngƣời, tƣ tƣởng số học sinh này là số động viên đi
lính chiến đấu ngay nên cho rằng vào học hết hạn lớp này 2 năm thì chiến tranh
vừa chấm dứt và cũng mơ tƣởng sẽ thành phí công (có phiêu lƣu).
Tóm lại trƣớc tình hình bắt lính của địch, quần chúng đã có những thái độ
phản ứng nhƣ sau:
- Chạy trốn về quê vùng du kích, ra vùng tự do là phố biến.
- Khi bị bắt đã đánh tháo chạy.
- Một số vẫn còn hoang mang thắc mắc trốn thì khó, bị bắt đi thì chết, ra
vùng tự do thì khó.
- Đã có quần chúng thấy chƣa có lực lƣợng đoàn kết động viên cho là
chƣa đấu tranh đòi chồng con đƣợc (có quần chúng nói là vài ba ngƣời thì đòi
làm sao đƣợc, phải đông mới đòi đƣợc), một số ít quần chúng tích cực đã thấy
còn phải có những hình thức đấu tranh cao mới chặn tay địch đƣợc, về ý thức
chính trị quần chúng đã nhận rõ chính thể của ta là dân chủ, và nhận rõ Mỹ là kẻ
gây chiến kéo dài chiến tranh.
Trong thời gian tiến hành cuộc vận động chính trị “đòi nƣớc Pháp thƣơng
lƣợng với Chính phủ Hồ Chí Minh” việc chống bắt lính đƣợc tiến hành dƣới
131
nhiều hình thức mạnh bạo hơn: đồng thời với việc tiếp tục lấy chữ ký cho kiến
nghị đòi “bỏ lệnh cƣỡng bách tòng quân”.
a. Trong thanh niên học sinh:
11/5: Bãi khóa tại trƣởng Minh Tân có 1/3 học sinh tham gia (100/300),
một tổ xung phong vào nắm truyền đơn chống bắt lính và đòi Chính phủ Pháp
thƣơng lƣợng với Chính phủ Hồ Chí Minh và kêu gọi bãi khóa. Quần chúng reo
hò về đi và kéo nhau về. Công an bù nhìn đến trƣờng và sáng hôm sau quần
chúng lại đi học.
12/5: Một đoàn viên thanh niên Cứu quốc nhân dân là đại biểu của trƣờng
Minh Tân đến lớp Đại học Văn hóa và Sƣ phạm kêu gọi bãi khóa hƣởng ứng.
Sinh viên vỗ tay hoan nghênh và bò ra sàn bãi khóa một giờ (lớp này có hơn 30
ngƣời).
Chiều 12/5: Nữ sinh trƣờng Tây Sơn bãi khóa hƣởng ứng nằm dài. Có 2
lớp trong 6 lớp bãi khóa ½ buổi.
15/5: trƣờng nữ học Tây Sơn hai khóa nghỉ một buổi toàn thể trƣờng (650)
ngƣời. Ta vận động bằng cách tung truyền đơn và sử dụng hiệu trƣởng cảm tình
vận động bãi khóa.
Tổng cộng số học sinh trung học bãi khóa, trong thời gian 6 ngày là trên
800 ngƣời.
b. Trong sinh viên ta đã đƣa đƣợc vấn đề đấu tranh đòi hòa bình ra công
khai rộng phiên họp Ban Quản trị Hội Sinh viên mở rộng gồm 30 ngƣời. Khẩu
hiệu đƣa ra là: “Độc lập thống nhất dân chủ, hòa bình chân chính”, cụ thể là
không mở rộng chiến tranh, không quốc tế hóa chiến tranh Đông Dƣơng để đi
đến đình chiến. Tay sai của địch định gạt vấn đề ra cho là vấn đề chính trị, nhƣng
có quần chúng bảo là: “Không có chính trị gì cả, hòa bình khỏi đi lính thì bàn
chứ sao lại là chính trị”. Kết quả Hội nghị đã quyết nghị nhƣ trên.
c. Trong thanh niên lao động, ta huy động thanh niên, các bà mẹ, các chị
kéo lên Thị chính bù nhìn đòi bỏ lệnh động viên. Ta kéo lên hai lần vào ngày
132
14/5 và 21/5. Lần thứ nhất có 21 ngƣời, đƣa một bản kiến nghị 200 chữ ký. Tên
Đỗ Quang Giai chỉ huy xuống đe dọa mấy câu và tuyên truyền chống ta, quần
chúng ra về. Lần thứ hai ta huy động 70 ngƣời (có 30 thanh niên) kéo lên, thêm
một khẩu hiệu nữa là bỏ lệnh bắt ngang đƣờng. Tên Giai lừa quần chúng sang
Ban Âu Trí Viên nói là để tiếp rồi cho cảnh binh vây bắt thanh niên đƣa về Sinh
Từ, còn phụ nữ và các bà mẹ thì chúng phản tuyên truyền ta rồi cho về lẻ tẻ.
Chúng bắt tất cả 19 ngƣời rồi tha về 13 ngƣời, giữ lại 6 ngƣời, bắt vào lính 4
ngƣời và 2 ngƣời đƣa sang Công an, cuối cùng tha 1 chỉ còn giữ lại 1 chị đấu
khẩu hạng nhất với tên Giai. Bọn ngƣời bị bắt lính đã tuyệt thực để phản đối và
sau cùng bố trí trốn thoát đƣợc. Trong cuộc đấu tranh này, quần chúng đấu khẩu
rắt hăng về chính trị với địch, cụ thể nhƣ khi tên Giai bảo: “Vào đây ai cũng phải
đi lính, không muốn đi lính thì ra với Việt Minh” thì một chị đã nói “Chúng tôi
thích Việt Minh thì các ông đuổi chúng tôi cũng không đƣợc, chúng tôi muốn ra
với Việt Minh thì các ông muốn giữ chúng tôi cũng không đƣợc”. Quần chúng tố
khổ rất hăng đã làm cho một tên cảnh binh và một viên chức Thị chính cảm động
rơm rớm nƣớc mắt. Đối với việc bắt trắng trợn của địch, quần chúng có giằng co
lại nhƣng còn yếu ớt, nên 15 phút sau là chúng bắt đƣợc số thanh niên đứng
riêng và đƣa lên ô tô đi.
Tiếp sau đó ta phát truyền đơn vạch mặt phát xít của tên Giai và tiếp tục
vận động quần chúng lên đấu tranh đòi thả chị bị bắt ra, đồng thời tích cực bồi
dƣỡng chị thành một tích cực đấu tranh chống lính công khai. Việc vận động
đang tiến hành thì đến cuối tháng 5 chúng đã phải thả chị này về, sau khi tra tấn
dã man nhƣng chị không khai gì cả.
d. Trong công nhân:
- Tại một nơi đã vận động lấy đƣợc 8 kiến nghị “yêu cầu bỏ lệnh cƣỡng
bức tòng quân” gửi cho Thủ Hiến và báo Tia Sáng có đăng hai kỳ bản kiến nghị
đó nhƣng cắt đầu đuôi đi.

133
- Ta vận động một bà cụ đi vận động đƣợc 20 bà khác và một cụ lên đòi
cháu về. Địch phải thả.
- Một đoàn viên đi ngoài đƣờng thấy chúng bắt một thanh niên đang đi
cyclo, cũng vận động những ngƣời xung quanh hƣởng ứng đấu tranh nhƣng
không ai tham gia.
- Tuyên truyền xung phong chống bắt lính cùng với lấy chữ ký
Ở Bắc Việt: lấy đƣợc 3 chữ ký, mọi ngƣời chú ý nghe.
Ở Bờ Hồ nhân một đám xiếc: cũng đƣợc hoan hô lấy đƣợc 3 chữ ký của
ngụy binh.
Ở rạp Kim Chung lấy đƣợc 25 chữ ký.
- Vận động thực hiện cam kết chống lính thực hiện đƣợc ở thêm 2 xóm lao
động.
Tại một nơi có 25 công nhân ta chƣa có cơ sở nhƣng qua bạn bè vận động
đƣợc họ cam kết chống bắt lính.
- Một nơi khác cam kết giữa 300 công nhân cùng một khu phố nhƣng lại
bó hẹp trong việc giữ lại khi đụng chạm đến những ngƣời trong số 300 ấy do đó
không tích cực đấu tranh chống lại việc lùng bắt 11 thanh niên cùng khu phố.
- Đánh tháo: 2 đoàn viên bị bắt đêm 2/5 vận động 70 thanh niên cũng bị
bắt phá trại giam chạy thoát: một số xin tòng quân, một số về. Tại một nơi khác
cảnh binh công an vào bắt lính, ta đang tuyên truyền xung phong, đã dùng hình
thức chung để chạy về chạy thoát những ngƣời chúng định bắt lính.
- Một đoàn viên đến một rạp chiếu bóng định tuyên truyền xung phong thì
ngay lúc cảnh binh ập đến bắt lính. Anh hô to: “Tất cả anh em ta đây đều bị bắt
lính cả, phải cƣơng quyết không để giặc bắt lính đem đi giết hại đồng bào kéo
dài chiến tranh”. Rồi đấm ngã tên cảnh binh xông đến bắt anh và chạy thoát.
Nhân lúc đó hơn 100 thanh niên nam nữ ở đấy đều chạy thoát cả.
e. Trong phụ nữ:

134
Ngày 14, 15, 16/5: huy động chị em kéo lên trại Ngọc Hà lần thứ nhất 10
ngƣời, lần thứ hai 26 ngƣời, lần thứ ba 30 ngƣời với những khẩu hiệu hoặc đòi
tin tức chồng con, đòi phụ cấp, đòi xác chồng con chết trận.
Ta tố khổ, ngụy binh gác tuy không cho vào nhƣng không chống lại và
thái độ có cảm tình. Việc hƣởng ứng trong trại không thấy gì.
Một số gần 100 ngƣời lên trình diện hay thân nhân đến thăm trại chƣa dám
tham gia trừ một vài ngƣời, chỉ đứng xem.
g. Trí thức:
Một số giáo sƣ đã biểu đồng tình hƣởng ứng bãi khóa của học sinh. Trong
bác sĩ không trực tiếp chống bắt lính nhƣng những bác sĩ quân y thì trong việc
khám sức khỏe cho thanh niên cũng khéo léo bảo những bác sĩ khác khám qua
loa, cho họ không đủ sức khỏe.
NHẬN XÉT CHUNG VỀ CÔNG TÁC CHỐNG BẮT LÍNH
1. Cán bộ và đoàn viên các ngành đều có ý thức lo lắng cố gắng lãnh đạo
chống bắt lính.
2. Hình thức đã dùng nhiều hình thức:
- Kiến nghị xung phong diễn thuyết lấy chữ ký tại chỗ.
- Cam kết tập thể nhỏ, tập thể lớn (300 ngƣời) (thanh niên và công nhân).
- Đánh tháo – Phá chạy – Bãi khóa chống.
- Kéo lên đòi chống, con tại trại giặc, tại Thị chính.
- Vận động chống bắt lính ngoài đƣờng.
Những nơi nào chống một cách thực tế từ những ngƣời bị bắt lính mà đấu
tranh đòi chồng, con thực của họ bị bắt thì có kết quả mào đầu đấu tranh ít
ngƣời. Những nơi nào đấu tranh chính trị đơn thuần thì cũng đạt đƣợc kết quả là
động viên tinh thần quần chúng nhƣng chƣa giải quyết đƣợc cụ thể cho quần
chúng.
3. Trong học sinh, kinh nghiệm những nơi nào vận động kéo đƣợc cả giáo
sƣ học sinh thì có kết quả trong đấu tranh (nhƣ trƣờng nữ học Tây Sơn bãi khóa).
135
4. Phƣơng pháp vận động: Tổ chức lực lƣợng đấu tranh chống lính kém:
có những nơi biết bồi dƣỡng tích cực thì có kết quả, nhƣng có những nơi không
biết sử dụng tích cực, không biết mở rộng đấu tranh thêm. Việc đấu tranh có một
vài nơi chia khu, bộ chọn trong một số ngƣời đã cam kết, khi đụng đến mình mới
đấu tranh không hƣởng ứng đấu tranh của những ngƣời khác.
5. Chủ trƣơng cho đoàn viên về quê khi bị bắt lính là sai (cho 5 đoàn viên
bị bắt lính về quê trốn lính) tản mát lực lƣợng trung kiên đấu tranh chống lính.
Trong việc vận động bãi khóa, phƣơng pháp vận động rất quan liêu mệnh
lệnh, ỷ lại vào đội tuyên truyền xung phong đến diễn thuyết, đến kêu gọi, không
dám dùng lực lƣợng trung kiên vận động sợ lộ.
6. Về tƣ tƣởng của cán bộ thì còn hữu khuynh, không tin ở lực lƣợng tinh
thần quần chúng: nhƣng kết quả đạt đƣợc sau một cuộc đấu tranh đều quá sự
tƣởng tƣợng, dự đoán của cán bộ đầu não trong khi vận động đấu tranh do ta còn
mắc nhiều khuyết điểm khá nghiêm trọng. Những hình thức đấu tranh đề ra ở
một số cán bộ thƣờng xuất phát từ chủ quan: thấy cần bãi khóa là bãi khóa, kêu
gọi bãi công, bãi thị nhƣng thực tế ta chƣa chuẩn bị điều kiện để thực hiện nhƣ
thế nào.
MẤY VẤN ĐỀ CẦN ĐỀ RA ĐỂ GIẢI QUYẾT TRONG VIỆC
CHỐNG BẮT LÍNH
Hiện nay địch bắt lung tung khắp nơi, bắt trắng trợn dã man. Khó khăn là
vấn đề lãnh đạo đấu tranh cho kịp thời tại những nơi chúng bắt, nhất là trong lúc
đi đƣờng chúng bắt giữa đƣờng.
Do đó đề ra mấy vấn đề phải tiến hành:
- Phải làm cho quần chúng tự động đấu tranh đƣợc theo đúng đƣờng lối
khẩu hiệu của mình trong quần chúng nói chung và nhất là trong thanh niên, nếu
không thì dẫu ngƣời khác có đấu tranh mạnh nhƣng bản thân thanh niên không
tích cực chống thì khó có kết quả, nhất là những khi đã vào trại tập trung rồi.

136
Phải giáo dục cho quần chúng nâng cao lòng căm thù địch; tinh thần đoàn
kết đấu tranh, và lòng tin tƣởng ở đấu tranh nhất định thắng.
- Phải xây dựng lực lƣợng đấu tranh chống lính của ta bao gồm những
ngƣời bị hăm dọa phải bắt lính ở những xí nghiệp, xóm lao động mà ta có cơ sở.
- Chỉ đạo thì phải nắm đƣợc địch thƣờng quây bắt những nơi nào, tập
trung ở những nơi nào mà chủ trƣơng tập trung gây lực lƣợng của ta ở đó, ngoài
những chỗ ta đã có cơ sở.
III. HỘI NGHỊ GENÈVE VÀ CUỘC VẬN ĐỘNG ĐÕI CHÍNH PHỦ
PHÁP PHẢI THÀNH THẬT THƢƠNG LƢỢNG VỚI CHÍNH PHỦ TA
Trƣớc khi Hội nghị Genève họp và hiện nay cũng thế, địch và bù nhìn
luôn luôn gây tƣ tƣởng bi quan thất bại về Hội nghị Genève, cho là không có kết
quả, chiến tranh vẫn sẽ tiếp diễn.
- Chúng đón trƣớc nguyện vọng mong muốn hòa bình của quần chúng và
khi ta tiến hành mở cuộc vận động đấu tranh chính trị nhất là khi có Phái đoàn
Chính phủ ta tham dự Hội nghị Genève và đƣa ra 8 đề nghị cụ thể giải quyết hòa
bình vấn đề Đông Dƣơng, bọn bù nhìn đã tích cực hoạt động để tranh thủ ảnh
hƣởng của chúng trong nhân dân và đối phó với ta bằng cách:
+ Giả vờ ái quốc, muốn hòa bình. Chúng bày ra những trò vận động quần
chúng phản đối điều đình với Chính phủ kháng chiến, tung ra luận điệu phản đối
chia sẻ nƣớc Việt Nam cùng với những luận điệu cũ “độc lập thống nhất hòa
bình”.
+ Khủng bố, dọa dẫm những ngƣời tham gia cuộc đấu tranh ủng hộ lập
trƣờng của Chính phủ ta. Tìm cách lôi kéo một số trí thức.
+ Tuyên truyền nêu tố cáo việc Mỹ can thiệp vào Đông Dƣơng, gây một
tình thế căng thẳng trong nhân dân, gây không khí chiến tranh ác liệt sắp xảy
đến.
Ngày 20/4 bọn Nguyễn Hữu Trí tuyên bố là “Phải đề phòng một cuộc khai
loạn ở Hà Nội của Việt Minh để hƣởng ứng Hội nghị Genève”.
137
Mở đầu cho những thủ đoạn tích cực chống lại ta và hòng đề cao địa vị
hợp pháp của bù nhìn chúng tung ra luận điệu phản đối điều đình với ta, phản đối
âm mƣu chia sẻ nƣớc Việt Nam.
Ngày 30/4, chúng có quây bắt nhân dân ở nội ngoại thành đi dự biểu tình
ở Nhà hát lớn để phản đối điều đình với ta, phản đối chia sẻ nƣớc Việt Nam.
Cuộc biểu tình này có khoảng 3.000 ngƣời dù trong đó có hơn 1.000 cảnh binh
mật thám và một số trẻ em trƣờng mồ côi và học sinh.
Trong cuộc biểu tình này, chúng nêu khẩu hiệu “thề chết chứ không chịu
hòa bình nô lệ Việt Minh”, “Phản đối âm mƣu chia sẻ Việt Nam”.
Rồi từ đó chúng mở một tuần lễ chống chia sẻ Việt Nam. Bọn Hội đồng
Thành phố, Hội đồng hàng tỉnh bù nhìn về họp với tên Trí làm kiến nghị ủng hộ
Bảo Đại phản đối chia sẻ. Chúng bắt các tổ chức xã hội, nghiệp đoàn cũng phải
làm những trò hề kiến nghị ủng hộ và phản đối kiến nghị này.
Chúng tổ chức mít tinh tại vƣờn hoa Đông Kinh Nghĩa Thục (nhà Ga xe
điện cũ ở Bờ Hồ) để đọc hai bản thông điệp của tên Bảo Đại. Cuộc mít tinh này
khoảng độ 2.000 ngƣời dự. Bên cảnh binh công an bao vây chặt chung quanh.
Bọn thông tin ở ngoại thành về tận các xã giải thích về hai bản thông điệp trên.
Chúng tung ra rất nhiều truyền đơn rải khắp nơi, ở cả các xã ngoại thành
với những khẩu hiệu phá hoại Hội nghị Genève, chống lại cuộc vận động đấu
tranh chính trị của ta, nhƣ: “Điều đình với Cộng sản Việt Minh là tự sát”, “Việt
Minh nói hòa bình nhƣng sau lƣng giết ngƣời”. Chúng gọi tin điều đình là một
“tin rùng rợn”.
Không ngày nào, các báo chí Việt gian tay sai của Mỹ không nêu những
khẩu hiệu phản đối điều đình với ta. Chúng đều nói “Hòa với Cộng sản Việt
Minh là đƣa quốc gia vào chỗ chết”.
Chúng cho một bọn gồm có các tên Nguyễn Hữu, Nguyễn Công Hiếu,
Mai Ngọc Thiệu bày trò làm kiến nghị đòi Pháp cụ thể hóa năm độc lập Việt
Nam đúng công pháp quốc tế, và đội lốt hòa bình, chúng cũng tổ chức đi lấy chữ
138
ký trong quần chúng (cán bộ ta đi lấy chữ ký kiến nghị đúng phải hai cơ sở mà
bọn chúng cũng đến lấy chữ ký).
Cũng nhƣ trƣớc đây chúng đã xuyên tạc việc các nhà trí thức Sài Gòn ký
kiến nghị đòi chấm dứt chiến tranh Đông Dƣơng, nói là ta bắt ép họ ký. Đến nay
khi Phái đoàn ta ở Hội nghị Genève đƣa đề nghị cụ thể giải quyết hòa bình vấn
đề Đông Dƣơng chúng vội vàng xuyên tạc nhằm vào mấy điểm, chúng nói ta
công nhận vào Khối Liên hiệp Pháp đời nào nhân dân chịu, Chính phủ Liên hiệp
quốc công chúng không chịu, ta đề nghị trừng trị những ngƣời làm cho địch. Và
từ đấy chúng ráo riết nêu những khẩu hiệu phản đối điều đình với ta, tuyên
truyền Mỹ sẽ can thiệp trực tiếp vào Đông Dƣơng.
Tên Nguyễn Hữu Trí đã thông tri để dọa ai chứa Việt Minh hay thích vùng
tự do sẽ đƣợc đƣa ra vùng tự do. Nghiêm trị những ai xúi giục nổi loạn, phao đồn
nhảm.
Đã có bọn đến trực tiếp gặp quần chúng của ta ký kiến nghị để đe dọa.
Chúng bố trí theo dõi các quần chúng tích cực của ta. Cho bọn mật thám đi dò la
chủ trƣơng của ta.
Tên Phạm Hữu Chƣơng cho ngƣời đến dinh lôi kéo Vũ Văn Hiến. Tên
Chƣơng lập một Đảng Xã hội bí mật nói không theo lối Đảng Xã hội Pháp hay
Đảng Xã hội Đảng vụ Việt mà là thân kháng chiến muốn thực hiện hòa bình dân
chủ.
Hiện nay chúng đang vận động bày trò kiến nghị ủng hộ bọn bù nhìn ở
Hội nghị Genève. Chúng đã tăng cƣờng cho bọn này ở Gơnève, có 8 tên Phạm
Hữu Chƣơng, Trần Trung Dung, Lê Toàn Nguyên, Hoàng Cơ Binh, Nguyễn
Tiến Hy và Hoàng Quỳnh đi cùng một số nữa sang Genève.
Trong hàng ngũ tay chân thân Pháp và thân Mỹ cũng lục đục mâu thuẫn
nhau, nó thể hiện qua các báo chí của bọn này.
Nhóm Thống nhất của Nguyễn Thế Truyền công kích các chính sách của
Pháp và bù nhìn. Chúng đòi Pháp trả hoàn toàn độc lập cho bù nhìn và yêu sách
139
cải tổ nội các bù nhìn. Chúng bảo nội bộ có mạnh thì ngoại giao mới có ngƣời
nghe “không cải tổ nội các là tự tử, không gấp cải tổ chính sách là đƣa nhân dân
đến chết”.
Trƣớc khi Hội nghị Genève họp nhân dân cũng đã bàn tán đến Hội nghị
Genève nhƣng chƣa đƣợc rộng. Sau khi Hội nghị họp, nhân dân mới bàn tán đến
nhiều. Nhân dân miền Nam ngoại thành cũng bàn đến đòi đình chiến, nhân dân
mong đình chiến, mong Cụ về. Quần chúng bàn tán và nhận thức là: “Có hòa
bình ở Việt Nam là do Pháp ghét Mỹ với ta chứ thực ra bù nhìn đã có quyền lực
gì, cho giải quyết hòa bình nhất định phải có ta”.
Một số ít cho là không ăn thua gì, vì Mỹ hung hăng can thiệp. Đại đa số hy
vọng mang lại một cái gì, thanh niên hy vọng không phải động viên.
Lúc đầu do địch tuyên truyền gây bi quan về Hội nghị Genève nên quần
chúng có tƣ tƣởng hoài nghi, không tin Hội nghị Genève có kết quả, lo sợ Mỹ
can thiệp dân quân vào, giải phóng quân Trung Quốc sang nƣớc ta sẽ thành Triều
Tiên thứ hai, chiến tranh sẽ khốc liệt hơn.
Nhƣng trong việc này quần chúng cũng cho là: Mỹ can thiệp nay thấy Mỹ
ở Hội nghị Genève bị cô lập, lo Phái đoàn ta không đến dự nay đã tham dự, lo ta
phản đối không cho bù nhìn dự, việc điều đình Genève gay go, thấy Điện Biên
Phủ ta thăng hoa.
Khi Phái đoàn ta đến Hội nghị nhân dân tin và phục Phái đoàn ta cả trong
trí thức cũng vậy. Đối với Phái đoàn bù nhìn thì khinh thƣờng ngay cả bọn tay
sai địch cũng coi thƣờng không tin ở bọn phái đoàn của chúng, chúng nói:
“Thằng Binh thì bị ông Đồng nuốt sống”.
Đối với 8 đề nghị đồng chí Phạm Văn Đồng đƣa ra, quần chúng có bàn,
anh em lao động thắc mắc về việc ta không trừng trị những tên bù nhìn Việt
gian.
Trong trí thức họ cho những điều ta đƣa ra là hợp lý không có gì quá đáng,
ý nói điều ta không trừng trị những ngƣời cộng tác với Pháp, dám công nhận
140
quyền lợi kinh tế văn hóa của Pháp ở Đông Dƣơng. Họ cho rằng bù nhìn cũng
tham gia Hội nghị tƣ vấn chuẩn bị tổng tuyển cử. Họ nói là sẽ tỏ thái độ tán
thành ta bằng cách phát biểu ý kiến phản đối những điểm nào mà Pháp Mỹ bù
nhìn phản đối ta.
Đối với vấn đề Miên Lào, trí thức cho là không phải việc của mình, lý do
mình yếu rồi cũng rút thôi.
Khi địch đƣa ra luận điểm “chống chia sẻ Việt Nam” để phá hoại Hội nghị
Genève dƣ luận nhân dân bàn tán nhiều nhƣng không hiểu lo vì uất ức nhƣ sau
ngày 6/3/1946.
Bà con cho rằng có chia cũng là mƣu Cụ Hồ lấy xong miền Bắc, lấy miền
Nam sau. Cụ bảo giờ lại cho nó ở vĩnh viễn miền Nam nƣớc ta. Dƣ luận chung
cho là chẳng bao giờ Cụ Hồ chịu chia, hay cho là thủ đoạn đuổi Pháp dần dần, có
ngƣời nói chia nhƣ vậy lợi, ta cũng có lực lƣợng nếu ngoan cố ta đánh sau.
Nhân dân hầu nhƣ không đếm xỉa gì đến việc đàm phán bù nhìn Pháp. Họ
nói “độc lập gì mà thuế vẫn nặng, vừa bắt lính, vẫn còn lính Tây”.
Họ rất thờ ơ với cuộc biểu tình địch tổ chức ngày 30/4, những ngƣời bị bắt
đi vác bandorole đều đứng ở gốc cây hoặc để xuống đặt ngồi, khi chúng nói quần
chúng làm mất trật tự, lộn xộn không ai chú ý đến. Trƣớc khi đi dự nhân dân
thấy ta treo cờ, nên cho đó là một cái gì đặc biệt mà không chú ý đến việc làm
của địch. Khi đi về quần chúng bàn tán với nhau. Hôm nay ta đi xem cờ đỏ sao
vàng sƣớng quá.
Ngày 7/5 chúng tổ chức mít tinh ở vƣờn hoa Đông Kinh Nghĩa Thục,
chẳng mấy ai chú ý đến và cho đó là một cuộc càn bắt nhân dân.
Ngày 22/5 địch lại cho mấy phụ nữ tay sai của chúng tổ chức mít tinh
tuyên truyền cho luận điệu chống chia sẻ Việt Nam. Chúng hô khẩu hiệu “Đả
đảo Việt Minh, đả đảo Cộng sản”, nhƣng một số ít bà con lao động lại hô
“Không đả đảo Việt Minh, không đả đảo Cộng sản”.

141
Chúng tung rất nhiều truyền đơn, dán áp phích phản đối “âm mƣu chia sẻ
nƣớc Việt Nam, phản đối điều đình với Việt Minh Cộng sản”, “Việt Minh hòa
đằng trƣớc, giết đằng sau”, v.v… bà con bóc đi cũng nhiều nhƣng vẫn còn nhiều.
Căn cứ vào những dƣ luận và thái độ của quần chúng trên ta thấy:
- Tới đại đa số quần chúng nhân dân còn tha thiết mong mỏi hòa bình.
Việc bàn tán theo dõi Hội nghị Genève khá rộng, quần chúng đều tán thành và
hoan nghênh những khẩu hiệu ta đƣa ra.
- Có nhận thức dứt khoát muốn có hòa bình phải điều đình với Chính phủ
ta.
- Tin tƣởng ở đƣờng lối đấu tranh cho độc lập thống nhất của Đảng, Chính
phủ đều tin tƣởng ở Hồ Chủ tịch, tin tƣởng và phục Phái đoàn của ta ở Hội nghị
Genève.
- Có ý thức chính trị trong việc ký vào kiến nghị của ta không ký vào bản
của bọn tay sai địch giả danh hòa bình.
- Nhận thấy Mỹ là kẻ gây chiến và kéo dài chiến tranh xâm lƣợc nhƣng do
ảnh hƣởng tuyên truyền của địch nên tƣ tƣởng vẫn còn sợ Mỹ, lo Mỹ đem quân
vào, Trung Quốc sang, nƣớc ta thành Triều Tiên thứ hai.
- Lúc đầu do sự tuyên truyền của địch nên quần chúng có tƣ tƣởng hoài
nghi, kết quả Hội nghị Genève, nay thấy Hội nghị tiến triển thuận lợi cho ta nên
có tƣ tƣởng lạc quan cho là đình chiến dễ dàng.
- Trong trí thức, công chức, tƣ sản đã có tƣ tƣởng thỏa hiệp đối với vấn đề
Miên Lào.
- Trong quần chúng cơ bản có thắc mắc về việc ta không trừng trị bọn bù
nhìn Việt gian và ta mạnh sắp thắng sao lại cho Pháp điều đình.

VẬN ĐỘNG KÝ KIẾN NGHỊ ĐÕI CHÍNH PHỦ PHÁP THÀNH


THẬT THƢƠNG LƢỢNG VỚI CHÍNH PHỦ HỒ CHÍ MINH
1. Việc tuyên truyền giải thích và Hội nghị Genève và việc lấy kiến nghị.
142
Giải thích ở những nơi có cơ sở, những gia đình cảm tình, những xóm lao
động, nói chuyện về Genève và lấy chữ ký đƣa ra trong lớp học nói về ý nghĩa
Genève và ký cả.
- Diễn thuyết xung phong tại những nơi tập trung ngoài, trƣớc giờ làm
việc tại rạp ciné, rạp hát,v.v…
Cán bộ Công đoàn đã làm một cuộc 600 ngƣời dự, và những cuộc khác có
20, 50 ngƣời dự.
- Tung truyền đơn mỗi kiến nghị điểm tung tại một rạp ciné: 800 truyền
đơn, Công đoàn tung tổng cộng 8.000 cái, phụ nữ: 2.000 cái, công chức: 1.200
cái, thanh niên đƣợc 4.000 cái.
- Dán áp phích 40 cái.
- Viết khẩu hiệu to: 25 cái viết trên tƣờng.
- Cán bộ phụ nữ vẫn làm một cuộc tuyên truyền xung phong ở Lò Lợn
ngày 27/5 có 400 ngƣời dự. Nói xong ta vận động tán thành ký kiến nghị nhƣng
chị em im lặng.
2. Số chữ ký lấy đƣợc.
Tính đến ngày 15/5 các ngành đã lấy đƣợc:
Thanh vận: 1.878 chữ (trong đó có 1.000 chữ của học sinh và 878 chữ của
thanh niên khu phố).
Phụ vận: 1.500 chữ (trong đó có 46 nữ giáo viên và 49 nhân viên và học
sinh có đơn).
Công chức: 1.720 chữ (trong đó có 130 chữ của công tƣ chức).
Công vận: 919 chữ.
Trí thức vận: 133 chữ.
Tổng cộng: 6.150 chữ.
Thành phần tƣơng đối rộng rãi: từ quần chúng cơ bản đến tƣ sản, những ai
chung dung, quan lại có, ngụy binh cảnh binh, sỹ quan ngụy, Pháp kiều (blondel
muốn ký và nhận đƣa sang Pháp, 2 cô đầm ở trƣờng Co Dovor).
143
- Ngụy binh đƣợc 5, 6 ngƣời trong đó có 1 ngụy binh đi lấy đƣợc 20 chữ
ký khác mà với sỹ quan ngụy, 1 quan lại chỉ lấy 29 chữ ký của Việt kiều bên
Pháp.
3. Thái độ của quần chúng khi ký.
Hầu hết đều tán thành việc kiến nghị trên, nhƣng thái độ có khác nhau:
Trƣớc đây bọn giả danh hòa bình cũng đƣa cho quần chúng ký, quần
chúng thấy mập mờ không ký, khi ta đƣa kiến nghị với những khẩu hiệu rõ ràng
đòi Pháp phải thƣơng lƣợng với Chính phủ Hồ Chí Minh, thì quần chúng ký
ngay.
Đối với việc ký kiến nghị thái độ của mỗi tầng lớp có khác nhau.
- Công nhân thì tích cực nhất, có ngƣời nói: “Ngoài kia ngƣời ta đánh
nhau cũng chẳng sợ, mình ở đây ký đòi điều đình việc gì mà không ký”, có quần
chúng có bàn không ký cho là mình sắp thắng sao lại cho nó điều đình.
- Học sinh, thanh niên lao động tích cực tham gia ký và ký tán thành.
- Có quần chúng ký còn ghi thêm lại tố khổ kèm theo rất cảm động, ví dụ
nhƣ: “Gia đình tôi có 7 con, 2 đứa đã chết vì chiến tranh, còn 5 sắp bị động viên,
Chính phủ Bảo Đại không đại diện cho ai cả. Gia đình anh tôi đã tan cửa nát nhà
chết chóc hết cả, chiến tranh còn kéo dài đến bao giờ nữa”.
- Trong công chức có một số ít trung kiên và cảm tình ký.
- Trong trí thức thái độ chung là tán thành lập trƣờng của ta. Đại trí thức
còn sợ khủng bố, sợ Mỹ chƣa dám tỏ thái độ cụ thể của mình trong khi nêu khẩu
hiệu trên kiến nghị, bản kiến nghị dùng nhiều chữ mập mờ, chƣa dám nêu lên
chống Mỹ, đòi Pháp thƣơng lƣợng với Chỉnh phủ ta. Nhƣng số trí thức này lại có
xu hƣớng ra một bản hiệu triệu chung đi đầu trong cuộc vận động đòi đình chiến
ta nêu lên. Số trí thức khác nhƣ giáo sƣ, văn nghệ sĩ, thái độ tích cực hơn, họ đã
ký với những khẩu hiệu cụ thể của ta.
- Một số ít tƣ sản, tiểu chủ cũng đã tham gia ký, một chủ xe ô tô có xe bị
ta phá cũng ký, không cần gì ta, và cho là tại chiến tranh thì biết làm sao. Họ
144
muốn yên ổn làm ăn, có một tiểu chủ nói Chính phủ đƣa vào chúng tôi ký ngay
nhƣng sợ nó cứ kéo dài mãi thì làm thế nào?
- Một số gia đình ngụy binh (4 gia đình) cũng ký và lên gửi con về (1 ông
cụ đã gửi đƣợc con về hôm 1/5).
- Nhiều tầng lớp khác nhau cũng ký trong 1 bản, nhƣ giáo sƣ ký cùng học
sinh, tƣ sản ký cùng công nhân, tiểu chủ, v.v…
4. Phá cuộc vận động của địch.
Chuẩn bị kế hoạch phá tại Nhà hát lớn, nhƣng chúng chuyển sang Bờ Hồ
nên kế hoạch chệch choạc.
Làm đƣợc:
- Đƣợc có (2 cái trong khi chúng nói chuyện).
- Treo đƣợc 2 cờ buổi sáng trƣớc khi chúng họp.
- Vận động đƣợc 111 ngƣời đi dự đi ô tô hát hai lần bài Hồ Chí Minh
muôn năm.
- Tung đƣợc một số truyền đơn, chuyển đƣợc một số ảnh (không rõ con số
cụ thể).
- Việc hô khẩu hiệu và căng băng rôn không làm đƣợc vì cán bộ trực tiếp
phụ trách thấy cảnh binh, mật thám chúng gài nhiều quá, quần chúng thì thực tế
ít quá (1.000 trong số 3.000 ngƣời dự) nên không chịu hô.
Ảnh hƣởng trong quần chúng:
Quần chúng nhân dân bàn về việc ta treo cờ, không thèm chú ý nghe địch
nói gì, một số ở gần chỗ ta giƣơng cờ quay lại vỗ tay hoan hô. Nhƣng do ta
không có truyền đơn rải hay kế hoạch phản tuyên truyền một cách rộng rãi kịp
thời vạch mặt luận điệu xảo trả “chống chia sẻ Việt Nam” nên quần chúng cũng
có thắc mắc và bàn tán nhiều về vấn đề này.
5. Phản ứng của địch:

145
Đe dọa trí thức, học sinh, dọa khủng bố chung nhân dân (đề phòng khởi
loạn của Việt Minh hƣởng ứng Hội nghị Genève) ngƣời nào muốn ra tự do thì
cho nhảy dù ra).
Chia rẽ hàng ngũ của ta, cho tên Phạm Hữu Chƣơng vào lôi kéo trí thức
tham gia cuộc vận động “chia sẻ Việt Nam” của chúng. Đánh lạc mục tiêu đấu
tranh của ta.
NHẬN XÉT VỀ CUỘC VẬN ĐỘNG CỦA TA
Cuộc vận động với những khẩu hiệu trên có khả năng lan rộng ra công
khai, thực tế hiện nay đã khá rộng, hình thức lấy chữ ký, hình thức tuyên truyền
tuy đã tiến hành rộng rãi bán công khai trong quần chúng nhất là quần chúng cơ
bản học sinh. Nhân dân hoan nghênh (nhiều ngƣời vỗ tay khi nghe ta tuyên
truyền xung phong). Thành phần ký rộng rãi có những nơi ký cả, ký gần hết (900
học sinh tại 2 trƣờng)…
Nhƣng công tác vận động của ta còn nhiều thiếu sót:
- Việc phản tuyên truyền địch, chống những cuộc vận động của địch còn
kém. Ta nặng về việc đƣa khẩu hiệu ta ra và vận động lấy chữ ký mà không chú
ý đến mấy việc vạch mặt địch, vạch những luận điệu gian dối, lừa bịp, xuyên tạc
của chúng; nhƣ đối với âm mƣu chia sẻ Việt Nam của chúng trong quần chúng
của ta tuy không tin nhƣng cũng bàn tán nhiều cho là có thể có thật là chúng
chống thực sự, việc vạch mặt bọn bù nhìn nói chung và bọn phái đoàn bù nhìn
cũng ít đƣợc chú ý.
- Việc tổ chức của ta lúng túng, kém: lấy chữ ký vụng về, tổ chức bãi khóa
kém.
- Công tác tƣ tƣởng còn hời hợt chƣa sâu, phục vụ nhiều cho việc lấy cho
đƣợc chữ ký, chứ không nhằm đi sâu giáo dục lập trƣờng cho quần chúng nhân
dân, do đó đến lúc có những điều kiện cụ thể của Phái đoàn ta đƣa ra thì quần
chúng nhân dân có những nhận định sai lầm.

146
Đối với quần chúng ngay trong việc giải thích về Hội nghị Genève về vấn
đề hòa bình cũng qua loa, bao biện, giải thích từ trên xuống, quần chúng ký mà
chƣa thấu hiểu đầy đủ.
- Chính sách Mặt trận của ta kém. Trong trí thức, nhận thức của ta về việc
khơi mào không đúng đề ra hình thức và cách thức vận động nhƣ là trí thức dẫn
đầu phong trào. Khi vận động thì dựa vào tầng lớp trên, dựa vào ngay một tên
tay chân của địch (lúc đầu). Trong công nhân thì đi vận động lấy chữ ký của tƣ
sản trƣớc nhằm tranh thủ tƣ sản, hẹp hòi đối với việc tranh thủ cảnh binh (thành
kiến).
- Về tƣ tƣởng cán bộ:
+ Hữu khuynh, nhiều nhận thức sai lệch.
+ Cảnh giác kém, ý thức thỉnh thị báo cáo kém.
+ Lúc đầu hoài nghi kết quả của Hội nghị cho là không ăn thua. Bây giờ
thì lạc quan cho dễ dàng điều đình. Nhận thức khả năng hòa hoãn và khả năng
cƣơng quyết kháng chiến mơ hồ, lung tung.
- Việc kết hợp công tác: kém, chạy theo cuộc vận động chính trị đơn thuần
mà không nhớ nội dung quyền lợi thiết thân của quần chúng: đấu tranh chống
lính, đòi lƣơng, chống thuế, không kết hợp với công tác phát triển tổ chức quần
chúng và tổ chức Đảng.
- Việc chuẩn bị cho cuộc ủng hộ lập trƣờng, ủng hộ phái đoàn ta ở Genève
kém, đến nay còn lúng túng.
NHỮNG CÔNG TÁC TIẾN HÀNH ĐỂ TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH
CUỘC VẬN ĐỘNG ĐÕI CHÍNH PHỦ PHÁP THƢƠNG LƢỢNG THÀNH
THẬT VỚI CHÍNH PHỦ HỒ CHÍ MINH
- Giải thích những đề nghị của Phái đoàn ta mà hiện nay quần chúng đang
thắc mắc, trong khi cho đòi chỉ thị của Trung ƣơng bằng cách giải thích về lập
trƣờng của ta nhƣ từ năm trƣớc đến nay đã nhận định. Nhất thiết không nên và

147
không đƣợc đi vào giải thích cụ thể từng điều sẽ có hại và bản thân ta không nắm
đƣợc thế nào.
- Làm quyết nghị, trong các tập thể nhỏ lớn tùy điều kiện, ủng hộ Phái
đoàn và lập trƣờng Phái đoàn, đòi thành thật thƣơng lƣợng, viết thƣ ủng hộ, tỏ
thái độ phản đối địch trong lời nói, trong bài báo, trong việc cụ thể chống các
cuộc vận động của địch.
Nhƣng cách thiết thực nhất để ủng hộ Phái đoàn của ta là tiến hành công
tác đấu tranh, cụ thể giành quyền lợi cho quần chúng, tiến hành hoạt động cụ thể
của từng tầng lớp trong lĩnh vực của họ. Có thế thì những ngƣời ký rồi hay chƣa
ký mới cảm thấy chữ ký của mình đi liền với đấu tranh giành quyền lợi cụ thể.
Nếu tách rời ra thì không có nội dung để đẩy đấu tranh chính trị kia lên.
- Phải có tài liệu giải thích tình hình, nhận định tình hình về cuộc Hội nghị
Genève để chấn chỉnh những nhận định sai lầm trong cán bộ và quần chúng.
- Nâng cao cảnh giác đề phòng địch phá cơ sở của ta hay cho ngƣời vào
hàng ngũ ta vì kỳ vừa qua chúng ta hoạt động tƣơng đối mạnh rộng và có thiếu
cảnh giác trong khi hoạt động.
- Phát triển tổ chức, củng cố sự lãnh đạo của chi bộ, ban cán sự các ngành,
quy định rõ chế độ báo cáo, xin chỉ thị.
Nói tóm lại, cuộc vận động cần đi vào chỗ có tổ chức, có kế hoạch nữa.
IV. CHỐNG THUẾ, ĐÕI TĂNG LƢƠNG, CHỐNG NHỮNG ÁP
BỨC BÓC LỘT KHÁC:
Thuế: Bọn địch lại bắt đầu thu thuế môn bài năm 1953. Ở các chợ và chị
em bán hàng vỉa hè. Lâu nay chúng làm ráo riết hơn. Ai không nộp chúng thu vé
chỗ ngồi. Hiện nay chúng bắt đầu thu thuế Chợ Đồng Xuân, đã có đến 10 ngƣời
đã đóng, phần nhiều những ngƣời buôn bán nhiều vốn sợ phiền phức.
Lƣơng: Địch tung tin trên báo chí là Hội đồng Chính phủ bù nhìn tăng
ngân sách và đã chấp thuận quy chế mới cho công chức với cách giải quyết, hạ

148
lƣơng lớp trên, tăng lƣơng lớp dƣới và đòi giảm bớt các khoản phụ cấp, tập trung
vào hai phụ cấp chính là gia đình và đắt đỏ.
Tổ chức ngày 1/5: Chúng tổ chức mít tinh Nhà hát Lớn, ca tụng vai trò của
giới cần lao. Chúng ra lệnh cho công nhân đƣợc nghỉ ăn lƣơng ngày đó.
Đối phó với việc học sinh bãi khóa: Chúng cho bọn mật thám đến các
trƣờng len lỏi vào học sinh để nhận mặt bắt những ngƣời đã lộ, cho cảnh binh
mật thám gác ở cổng trƣờng đe dọa học sinh.
Trƣờng Tây Sơn, bọn thanh tra học sinh và tên trƣởng phòng công an đến
hỏi để đe dọa, nhƣng không bắt ai.
ĐẤU TRANH CHỐNG THUẾ, ĐÕI TĂNG LƢƠNG CHỐNG
NHỮNG ÁP BỨC BÓC LỘT KHÁC
1. Chống thuế: Gắn liền chống bắt lính. Ta vận động bãi thị ngày 25/5 tại
4 chợ chính: Đồng Xuân, Hàng Da, Cửa Nam, Chợ Hôm trong một ngày. Riêng
cả chợ Hàng Da 140 chỗ ngồi đã bãi thị cả ngày hôm đó, các chỗ khác thì bãi thị
trong 2 giờ từ 6 giờ đến 8 giờ. Khẩu hiệu nêu ra trong cuộc bãi thị “chống bắt
lính, chống thuế môn bài, chống vé phạt”. Hiện nay địch đang tìm bắt những
ngƣời lãnh đạo.
2. Việc đòi tăng lƣơng, chƣa làm đƣợc gì, đang nghiên cứu âm mƣu của
chúng về lƣơng công tƣ chức. Trong công nhân có một cuộc đấu tranh đòi tăng
tiền công khuân các hàng chuyến có thắng lợi.
3. Chống đuổi nhà lá: Tại xóm Lƣơng Yên ta đã vận động đấu tranh chống
việc đuổi nhà của 60 gia đình. Hiện nay chƣa thấy chúng bắt dọn đi nữa. Ta vẫn
tiếp tục vận động chuẩn bị tinh thần đấu tranh liên tục.
V. KỶ NIỆM 19/5 (đã có báo cáo riêng)
VI. CÔNG TÁC ĐỊCH VẬN
Việc kết hợp công tác địch vận trong thời gian qua với các mặt công tác
khác kém, ngay trong việc chống bắt lính và đấu tranh đòi Pháp thƣơng lƣợng
với Chính phủ ta, mặc dầu có nhiều khả năng, nhƣ ta không chú ý vận động mà
149
ngụy binh, cảnh binh, sĩ quan địch cũng ký vào và họ tự đi vận động những
ngƣời khác ký. Tƣ tƣởng cán bộ không chú ý đến công tác địch vận và có nghĩ
đến thì cho là không có khả năng, mặc dầu khả năng có nhiều. Cảnh binh vẫn
còn rất kém.
Kết quả công tác cụ thể trong thời gian qua các ngành đã làm đƣợc:
- Lấy một số ít chữ ký trong ngụy binh, cảnh binh, nhân viên ngụy quyền
cao cấp.
- Công đoàn vận động đƣợc gia đình lén gởi 4 con em đi ngụy binh về,
hiện còn 5 ngụy binh nữa đƣợc vận động hẹn đến cuối tháng này sẽ về nhà,
nhƣng lo không biết sinh sống bằng cách nào.
- Chuyển đƣợc một số truyền đơn 300 tờ cho ngụy binh và 27 quyển trở về
với kháng chiến. Trong quần chúng thì đã cho học tập chính sách ngụy vận
(trong Công đoàn).
Ngành Địch vận đã làm đƣợc:
- Vận động lấy đƣợc 80 chữ ký trong ngụy quân, trong số này có 2/5 muốn
ra. Vận động đào ngũ đƣợc 30 ngụy binh có 30 ngƣời xin ra. Chấp và bắt thêm
đƣợc một số mới nhƣng tình trạng địch đối phó đòi lung tung nên nắm các mối
cũng khó.
KẾT LUẬN
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, binh lính địch rất hoang mang. Địch vẫn
tiếp tục bắt lính, tuyên truyền gây bi quan về Hội nghị Genève.
Nhân dân bàn tán nhiều về chiến thắng Điện Biên Phủ, về Hội nghị
Genève, lo lắng về lính, thuế, mong mỏi đình chiến, hòa bình.
Ta bắt đầu vận động đòi Chính phủ phải thành thật điều đình với Chính
phủ ta đƣợc nhân dân hƣởng ứng. Phong trào tiến bộ đôi chút. Tuy nhiên cuộc
vận động cần đƣa vào tổ chức hơn. Công tác chống bắt lính đƣợc chú ý nhiều
nhƣng còn lúng túng. Cuộc vận động bãi thị chống thuế không thành công.

150
Hà Nội, ngày 30 tháng 5 năm 1954
ỦY BAN KHÁNG CHIẾN
HÀNH CHÍNH HÀ NỘI
KT. CHỦ TỊCH
ỦY VIÊN
(Đã ký và đóng dấu)

Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, phông Phủ Thủ tướng, hồ sơ 531, tờ 01-
13.

151
Báo cáo tổng kết công tác cung cấp cho chiến dịch Điện Biên Phủ năm
1954 của Ban Kho thóc tiền phƣơng ngày 01/6/1954

152
SỞ KHO THÓC TRUNG ƢƠNG VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÕA
PHÂN SỞ KHO THÓC LIÊN KHU 3 Độc lập - Tự do -Hạnh phúc
BAN KHO THÓC TIỀN PHUONG

BẢN TỔNG KẾT CÔNG TÁC CUNG CẤP


CHO CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ

I. TÌNH HÌNH VÀ NHIỆM VỤ


A. Nhiệm vụ
Cuối tháng 3 năm 1954, Sở Kho thóc Trung ƣơng giao nhiệm vụ cho Phân
sở Kho thóc Liên khu 3 (Ban Kho thóc Tiền phƣơng) phải chuyển vận 600 tấn
gạo để cung cấp cho kế hoạch Tây Bắc trong thời gian 15 ngày phải hoàn thành.
Trong lúc Trung ƣơng giao nhiệm vụ thì Phân sở Kho thóc Liên khu 3 đang làm
kế hoạch vận chuyển 2.000 tấn để tiếp trợ cho Phú Thọ mà kế hoạch do gạo đã
chuyển đi lên Phú Thọ rồi còn đại bộ phận là thóc mà thóc thì nằm rải rác trên
các trạm dọc đƣờng 12. Kế hoạch đợt I chƣa thực hiện xong tiếp sau đó Trung
ƣơng giao thêm đợt 2 là 300 tấn, đến 30/4/1954, đợt III là 200 tấn đến 10/5/1954
và đợt IV là 25/5/1954. Tổng cộng 4 đợt Trung ƣơng giao là 1.400 tấn gạo,
nhƣng sau khi giải phóng Điện Biên Phủ thì Trung ƣơng rút mức xuống 200 tấn
còn phải thực hiện 1.2000 tấn.
Đứng trƣớc tình hình nhiệm vụ Trung ƣơng giao cho trong hoàn cảnh:
- Thời gian gấp rút và tiếng súng đợt đầu quân ta tiến vào Điện Biên đã bắt
đầu nổ.
- Khả năng thóc gạo khan hiếm, gạo chuyển đi Phú Thọ vừa hết chỉ còn có
thóc mà thóc thì rải rác trên dọc đƣờng 12, khả năng xay giã ở dọc đƣờng 12 thì
khan hiếm, trái lại Ninh Bình có khả năng xay giã thì lại không đủ thóc, không
những thế Ninh Bình còn phải tập trung khả năng để trả thóc thuế thừa cho nhân
dân.

153
- Các địa phƣơng nhân dân đang phải chống hạn, trừ sâu và một vài nơi
đang bắt đầu phát động.
- Cán bộ của Ban Kho thóc tiền phƣơng thì một số Trung ƣơng trƣng tập
đang phục vụ ở các trạm Trung ƣơng trên dọc đƣờng 41.
- Kế hoạch đã tiến hành mà kinh phí chƣa về kịp.
Mặc dầu trong lúc thi hành đã có những khó khăn trên nhƣng chúng ta
cũng có nhiều thuận lợi căn bản để tạo điều kiện cho việc thực hiện nhiệm vụ
nhƣ:
- Có sẵn bộ máy của các trạm và 600 dân công, 120 phƣơng tiện đang
chuyển vận cho kế hoạch 2.000 tấn chuyển sang.
- Đƣợc sự lãnh đạo chặt chẽ của Khu ủy và Hội đồng Cung cấp Mặt trận
Liên khu 3.
- Nhân dân ở các xã vùng tự do phần lớn đã đƣợc phát động, cộng thêm
với tin chiến thắng ở các nơi nhất là ở Điện Biên Phủ nên cán bộ, nhân dân đều
phấn khởi hào hứng hăng hái đi phục vụ, nên việc huy động đƣợc dễ dàng.
- Trong khi đang sắp xếp bộ máy này thì Trung ƣơng cũng trả một số cán
bộ và phƣơng tiện đang phục vụ trên đƣờng 41 về, thêm vào đó một số cán bộ đã
qua các đợt phục vụ nên có kinh nghiệm trong công tác.
b. Chủ trƣơng thực hiện
Căn cứ vào nhiệm vụ của Trung ƣơng giao và tình hình thực tế của địa
phƣơng. Để thực hiện đƣợc đầy đủ nhiệm vụ phục vụ cho kế hoạch, bảo đảm
mức, thời gian, chính sách nên đã có chủ trƣơng:
1. Phân phối mua 600 tấn cho hai chi sở: Hòa Bình 300 tấn, Ninh Bình
500 tấn, kể cả gạo ăn và bố trí các trạm chuyển theo hai hƣớng: một từ Nho
Quan lên, một từ chùa Hƣơng đi theo đƣờng mắt xích lên.
2. Cho phát xay số thóc của hai chi sở Ninh Bình, Hòa Bình đang phục vụ
cho kế hoạch 2.000 tấn, vay thóc của nhân dân và mậu dịch.

154
3. Tận dụng khả năng của thƣờng xuyên (Ninh Bình) và tạm hoãn việc trả
lại thóc thuế thừa của nhân dân.
4. Không chuyển thóc Hòa Bình về Ninh Bình đề phòng phải cung cấp
thêm cho kế hoạch.
Sau khi đề ra những chủ trƣơng trên, Ban đã bố trí kế hoạch tiến hành:
Cử cán bộ xuống hai chi sở Ninh Bình, Hòa Bình để nắm vững khả năng
của địa phƣơng, kiểm điểm số gạo hiện có thấy không đủ bảo đảm thời gian. Vì
nguồn thóc gạo chính là ở Hòa Bình mà khả năng xay giã của Hòa Bình thì kém,
nên đã đề nghị với Khu vay gạo của nhân dân hai huyện Gia Viễn, Nho Quan
(Ninh Bình) 300 tấn gạo và vay thóc của mậu dịch, một mặt tích cực đôn đốc
Ninh Bình và Hòa Bình xay giã để bảo đảm đủ gạo.
Kết quả trong việc thi hành những chủ trƣơng trên, thì thấy chủ trƣơng đề
ra là đúng nhƣ việc vay thóc của nhân dân nhằm những ngƣời có khả năng thóc
gạo “trong một thời hạn ngắn sẽ trả”, để bảo đảm kế hoạch và cũng không ảnh
hƣởng đến sinh hoạt của nhân dân, việc tạm hoãn trả thóc thuế thừa của nhân dân
cũng nhƣ bảo đảm cho kế hoạch, và trông vào khả năng của Ninh Bình sau sẽ
chuyển thóc ở Đoàn Kết, Phú Thịnh ra trả, mặt khác không chuyển thóc ở Hòa
Bình về là để dự phòng phải cung cấp thêm cho kế hoạch thì đã có khả năng.
Quả nhiên, sau Trung ƣơng lại giao thêm mức cấp thêm cho kế hoạch khi thi
hành còn có những thiếu sót sau:
- Vay gạo của nhân dân không nhằm đúng đối tƣơng, vay cả của bần, cố,
nông và thƣơng nhân nghèo, làm ảnh hƣởng đến giá cả thị trƣờng, mậu dịch phải
tung thóc ra bình ổn.
- Không nắm và lƣờng đƣợc nhu cầu cung cấp bất thƣờng của Ninh Bình,
nên đã hoãn việc trả thóc thuế và gạo vay của nhân dân, nêu không giữ đúng
đƣợc lời hứa với nhân dân trong khi vay và ngày trả, do đó đã có một số nhân
dân kêu ca phàn nàn. Mặt khác không chuyển thóc ở Hòa Bình về Ninh Bình
nhƣ vậy chỉ bảo đảm đƣợc kế hoạch nhất thời mà không bảo đảm đƣợc kế hoạch
155
thƣờng xuyên do đó Ninh Bình vẫn mắc tình trạng không đủ khả năng cung cấp
cho thƣờng xuyên.
C. Nhận thức nhiệm vụ
Lúc đầu Sở Kho thóc Trung ƣơng giao nhiệm vụ, cán bộ phụ trách thấy
công việc nặng nề, khối lƣợng nhiều, thời gian lại ngắn nên thiếu tự tin và bi
quan trƣớc nhiệm vụ, do đó đã đề nghị với Sở rút mức, mặt khác cũng chƣa nhận
rõ tầm quan trọng của Chiến dịch nên việc phổ biến đả thông cho cán bộ, công
nhân viên nên cán bộ, công nhân viên cũng nhận thức một cách bình thƣờng và
coi nhƣ nhiệm vụ thƣờng xuyên chủ quan cho việc thực hiện kế hoạch chỉ độ
thời gian ngắn là xong tƣ tƣởng đố kỵ này nọ. Sau do Hội đồng Cung cấp Mặt
trận Trung ƣơng giao nhiệm vụ cho Hội đồng Cung cấp Mặt trận Liên khu 3 và
các ngành thì nhận thức nhiệm vụ có thay đổi và tin tƣởng ở khả năng có thể bảo
đảm đƣợc nhiệm vụ. Tiếp đó cán bộ, công nhân viên, dân công đƣợc học tập tài
liệu tình hình và nhiệm vụ trƣớc mắt của chiến dịch Điện Biên. Đa số anh em đã
thấy rõ tầm quan trọng của chiến dịch. Tinh thần phấn khởi và hăng hái phục vụ
khắc phục mọi khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ.
Nhƣng ngƣợc lại còn một số ít có tƣ tƣớng sợ trƣờng kỳ vô hạn đến bao
giờ giải phóng Điện Biên mà về.
II. THỰC HIỆN NHIỆM VỤ
1. Tổ chức bộ máy.
- Bố trí cán bộ: Kế hoạch của Trung ƣơng giao cho giữa lúc cán bộ trƣng
tập của Ban một số lên bổ sung cho Hòa Bình để thực hiện kế hoạch 2.000 tấn
tiếp cho Việt Bắc, một số cán bộ còn lại đang thực hiện kế hoạch cụ thể và trƣng
tập lên công tác Sở Kho thóc. Còn một số cán bộ ở lại phân phối cho các trạm
mới trạm thời kỳ đầu chỉ có 2, 3 ngƣời thủ kho và kế toán.
Kế hoạch 2.000 tấn định tại Hòa Bình trả một số cán bộ của Ban về, sau
có bộ máy của các trạm E400, 10, 15 và 20, theo việc bố trí cho kế hoạch đã rút

156
trạm 15 về để bổ sung và xây dựng cho Trạm 11 đƣờng mắt xích, Sở Kho thóc
lại trả về một số cán bộ, lúc đó cán bộ tƣơng đối đã đủ.
Việc xây dựng thêm các trạm đƣờng mắt xích đƣợc dần dần bổ sung thêm.
Với số cán bộ trên với nhu cầu cấp thiết của kế hoạch và khối lƣợng công
việc thì vẫn thiếu nhƣ ở T.13 thời gian đầu có hiện tƣợng kế toán kiêm thủ quỹ,
cán bộ dân công kiêm cán bộ công nhân: thiếu cán bộ chuyên môn nên đã phải
cử các đồng chí cán bộ chính trị lên để làm công tác kho lán. Thời kỳ thứ hai cán
bộ tƣơng đối đủ, bộ máy chạy đều.
Tóm lại việc bố trí bộ máy lúc đầu vá víu, giật gấu vá vai, sau cán bộ đủ
bộ máy chạy đều thì kế hoạch vừa xong.
- Đặt trạm bố trí kho, củng cố kho lán:
1. Đặt trận và củng cố:
Trên một tuyến dài 96 km đã bố trí hai đƣờng một đƣờng phƣơng tiện,
một đƣờng mắt xích, đƣờng phƣơng tiện dọc trên đƣờng 12 dài 96 km có 4 trạm:
E500, E400, 10, 20. Đƣờng mắt xiechs 36 km đặt 4 trạm (đƣờng xuyên sơn) 10,
11, 12 và 13. Việc đặt các trạm đã hợp với việc vận chuyển riêng về đƣờng mắt
xích trƣớc đây kế hoạch TA phải đặt 6 trạm kế hoạch này đặt 4 trạm, mà đối với
mức vận chuyển của anh em dân công thấy hợp lý. Đó là một tiến bộ.
2. Vấn đề xay giã:
Sau khi nhận nhiệm vụ Trung ƣơng giao cho lúc đó khả năng thóc gạo của
Khu tƣơng đối nắm vững đƣợc nhƣng số gạo trong Khu hiện có không đủ bảo
đảm thời gian, nguồn thóc Hòa Bình khả năng xay giã không bảo đảm thời gian,
nên đã đề nghị với Khu vay của nhân dân thóc của hai huyện Gia Viễn và Nho
Quan (Ninh Bình) 300 tấn gạo, một mặt tích cực đôn đốc Hòa Bình và Ninh
Bình xay giã để bảo đảm gạo. Kết quả, trong hai tháng đã vận động nhân dân xay
giã đƣợc 2.000 tấn thóc đã tận dụng việc xay giã của nhân dân vét cả thóc gạo
thƣờng xuyên để bảo đảm kế hoạch.
Nhƣng kiểm điểm việc xay giã gạo ta còn có những khuyết điểm:
157
- Việc phát xay khoán mức cho xã không nhìn thấy rõ khả năng xay giã
nhân số từng xã nhiều hay ít để phát xay cho thích hợp, để có xã làm tận dụng
khả năng mà vẫn không bảo đảm mức.
- Việc đôn đốc phát xay Hòa Bình đã trƣng tập 20 cán bộ dân công làm
nhiệm vụ đôn đốc lãnh đạo, do việc không chuyên môn nên việc đôn đốc phát
xay ít kết quả trong lúc đó cán bộ lãnh đạo dân công thiếu.
- Phát xay không nắm vững tỷ lệ, nên nhân dân không hào hứng, đặt mức
không sát để nhân dân kêu ca suy bì.
- Thủ kho phát xay không vào sổ sách kho để cho việc theo dõi khi xuất
nhập số liệu cung cấp lên trên không chính xác nhƣ E500.
- Không nắm vững đƣợc khả năng xay giã của địa phƣơng Hòa Bình thời
gian đầu mỗi ngày bảo đảm 30 tấn nhƣng sau chỉ làm đƣợc 15 tấn cũng một
phần làm ảnh hƣởng đến kế hoạch vận chuyển.
- Hòa Bình không đặt lịch phát xay nhân dân, phần đông việc phát thóc
không kịp, nhân dân chờ đợt mệt mất thì giờ, có lên 275 ngƣời dân lấy không
phát kịp phải trở về, trong số thóc Hòa Bình phát xay trên 1.000 tấn đã để 1/3
nhân dân phải chờ đợi mới lấy đƣợc thóc.
- E500 không nắm vững phƣơng tiện chuyển thóc về, nên xảy ra tình trạng
nhân dân ba lần đến mới lấy đƣợc thóc. Có khi báo nhân dân đến lấy thì cán bộ
thủ kho lại không cho.
- Cán bộ thủ kho nhập gạo phát xay không tháo vát kiểm soát phẩm chất
gạo giã rồi nhân dân mang đến nộp, cũng nhập kho (Gia Viễn, Ninh Bình). Tỷ lệ
không thống nhất nhân dân cũng một xã lấy thóc cùng một kho, ngƣời lấy tỷ lệ
62, ngƣời lấy tỷ lệ 60 (E500).
- Trong lúc kế hoạch cấp thiết mà Ninh Bình không phát xay cho các
thành phần có khả năng xay giã nhƣ trung, phú nông mà phải phát xay cho anh
em bần cố nông, anh em bần cố nông thì làm tận dụng khả năng vẫn không bảo
đảm.
158
- Việc xay giã trong thời gian qua sở dĩ còn có những khuyết điểm trên
đây là do những nguyên nhân:
Tinh thần trách nhiệm của chúng ta chƣa cao, lề lối làm việc còn luộm
thuộm, thiếu khoa học, tác phong còn quan liêu, không sát dƣới, thiếu điều tra
nghiên cứu, khả năng của nhân dân không đi sát đôn đốc và giúp đỡ cán bộ mới
tập trung ở địa phƣơng hoặc ở dân công lên, thiếu hồi ký hồi báo về rút những ƣu
khuyết điểm hàng ngày, nhân dân cán bộ không hợp với khả năng, nên cán bộ
lúng túng trong công tác.
3. Kho lán:
Trong kế hoạch này chúng ta đã dựa vào một phần lớn kho lán của kế
hoạch 2.000 tấn nên chỉ phải làm có một số ít. Việc đặt kho lán ở các trạm tƣơng
đối kín đáo, chắc chắn nên suốt trong thời gian phục vụ không bị kho nào xiêu,
đổ, dột nát, hoặc bị oanh tạc, nhƣng kiểm điểm việc làm kho còn thiếu sót:
- Kho làm không kịp nên khi dân công gánh gạo đến phải rải nylon, chiếu
xuống đất và nhà dân để đổ gạo (Trạm 11 thời kỳ đầu).
- Trạm E400 bố trí kho không căn cứ vào khối lƣợng đã để lãng phí 50 tấn
kho và bố trí 240 tấn kho ở 5 khu vực liên quan.
- Trƣớc khi làm kho không nghiên cứu tính toán vật liệu nên đã lấy thừa
vật liệu hàng 100 công, và phân công cán bộ làm kho không hợp lý cử cán bộ
của ngành khác mới trƣng tập lên phụ trách làm kho nên có tình trạng làm 1 tấn
kho hết 32 công mà sau thực tế chỉ làm hết 12 công (E400).
- Trạm 11 sau làm thừa 15 tấn kho.
- Tính trung bình mỗi tấn kho 12 công, trong việc làm kho chúng ta đã để
lãng phí 1.300 công kể cả lấy vật liệu thƣờng.
4. Cân đong cấp phát.
Việc cấp phát ở các trạm đều có tổ chức một tổ dân công từ 3 đến 5 mỏ
cân, có một đồng chí đôn đốc phụ trách chung, khi dân công phƣơng tiện đến
điều hòa vào các mỏ cân để giải quyết nhanh chóng tránh tình trạng lộn xộn nên
159
trong thời gian vừa qua có trạm xuất nhập có nơi từ 50 tấn đến 110 tấn mà vẫn
bảo đảm đƣợc, có trạm có những ƣu điểm nhƣ tổ chức giao tay ba khi hàng đến
dồn dập để đơn giản một lần cân.
Kiểm điểm trong thời gian qua đã có những ƣu điểm trên nhƣng cũng còn
có những khuyết điểm sau đây:
- Cân: Thời gian đầu cân của các trạm không thống nhất với nhau để tình
trạng phƣơng tiện kêu ca phàn nàn nhƣ Trạm 20, cân của trạm giữa khu vực này
với khu vực kia cũng không thống nhất với nhau để anh em phƣơng tiện đã thành
kiến với cân Trạm 20 và E500.
- Nơi cân không tổ chức giữ trật tự đoàn đến trƣớc cân trƣớc, đoàn đến sau
câu sau để tình trạng tranh nhau cân trƣớc (Trạm 10, 20) khi cân các đồng chí
thủ kho không kiểm soát phẩm chất để gạo ƣớt, thủ kho không biết cứ cho sếp
vào kho, đến khi xuất đi bị vào hơi và mốc 94 kg mới biết (Trạm 20).
- Sự phối hợp với các bộ phận giao nhận hàng không chặt chẽ cho tổ chức
tiếp nhận không ăn khớp, có nơi dân công nộp gạo nhƣ Trạm 10, 11 lúc đầu phải
chờ đợi.
- Có lúc bố trí dân công vào thì ô tô không tới (Trạm 10) Trạm 12 dân
công gánh gạo lên Trạm 13 không nhận dân công quây cót đổ gạo vào kho rồi bỏ
về, bố trí tiếp nhận chậm, nhân dân ca thán (Trạm 11) dân công gánh gạo đến cả
buổi chiều mới cân đƣợc 100 ngƣời xã Thạnh Bi.
Trong khi cấp phát còn bản vị, thiếu tinh thần trách nhiệm chung, nên gửi
hàng ra khỏi kho coi nhƣ hết trách nhiệm, không đặt vấn đề theo dõi số hàng
mình gửi gửi đi có đến nơi không.
Đôi khi cân không chú trọng lúc thừa, lúc thiếu phƣơng tiện (Trạm 20).
Bì đo của các mỏ cân trong một trạm trừ không thống nhất với nhau nên
anh em phƣơng tiện hoang mang.

160
Khi cân không kiểm soát kỹ càng để một vài phƣơng tiện bỏ gạch đá lẫn
với gạo để cân hoặc gian cân (Trạm 20, E500) gói đá nam châm vào khăn mùi
xoa đứng gần mỏ cân để hút mỏ cân (Trạm 20).
Chứng từ:
Chứng từ để mất mát không vào sổ E500 thừa 19 cân gạo, thiếu 30 tấn sau
mới điều tra thấy, nhận hàng của trạm khác giao đến không có phiếu gửi hàng
thủ kho biên nhận cho phƣơng tiện không làm biên lai lƣu để kế hoạch vào sổ
(Trạm 20). Có đồng chí thủ kho gửi và nhận không ký phiếu gửi hàng.
Thủ kho nhận hàng không ký rõ tên mình, tên trạm con số viết không rõ
ràng để kho dễ cho việc thanh toán của các trạm nhƣ 20, 10, coi nhẹ vấn đề
thanh toán chứng từ không ăn khớp với nhau nhƣ E400 gửi hàng ra khỏi kho
không làm phiếu (Trạm 20). Không cân hàng và làm phiếu để xe đạp tự tiện vào
kho lấy gạo (E.400).
Có trạm gửi hàng không ghi số lƣợng (Trạm 10).
5. Bốc vác, khâu bì đổ
Việc bốc vác ở mỗi trạm đều có tổ chức 1B đến 1C dân công thƣờng trực
để bốc vác.
Đặc biệt Trạm 20, E500 đã phối hợp với Công đoàn tổ chức đội công nhân
bốc vác chuyên nghiệp để bảo đảm cho xe thuyền chạy nhƣng vẫn không có
hàng, ngày hôm sau trạm đã kết hợp sử dụng số dân công đó làm nhiệm vụ chữa
đổ, khâu bì đổ (Trạm 20, 10).
- Nhƣng ngày đầu không đủ dân công bốc vác hàng đến dồn dập trạm đã
động viên anh em cán bộ và công nhân viên trạm đã bốc vác kịp thời cho xe và
đò đi (Trạm 2, 20) có đêm cán bộ bốc vác đến 7, 8 tấn hàng.
- Trong lúc thiếu dây đay trạm sáng kiến lấy dây rừng làm thay tổng số
đƣợc 192 kg.
- Thiếu kim khâu đã lấy dây đồng, sắt mài làm kim.
Kiểm điểm lại việc bốc vác ta còn những khuyết điểm.
161
- Các trạm ít chú ý đi sát lãnh đạo anh em để nghiên cứu tiêu chuẩn cho
thích hợp hơn.
- Việc bồi dƣỡng kém, đã tận dụng khả năng bốc vác, đong đo tăng năng
suất quá mức nên một số lớn dân công bị ốm 100 ngƣời, ốm 60 ngƣời (Trạm 20).
- Kém động viên anh em, ít tổ chức học tập, sinh hoạt chung nên trong khi
làm việc anh em cũng thiếu hào hứng.
Anh em công nhân thì ít giáo dục để có tình trạng làm công, bỏ ra về, sau
cũng phải tổ chức anh em cán bộ và nhân viên Trạm ra bốc vác E500.
6. Bảo quản:
Việc bảo quản gạo trong thời gian qua chúng ta đã tiến bộ. Nói chung cán
bộ trong toàn ngành đã có tinh thần lo lắng giữ gìn, bảo quản thóc gạo của nhân
dân giao cho, đã chú ý quét gạo vƣơng vãi chung quanh mỏ cân đem về sảy đãi
để ăn, đổi gạo tốt của mình vào kho để bảo toàn đƣợc phẩm chất (Trạm 20, 2,
10). Đó là những ƣu điểm, nhƣng kiểm điểm lại chính sách bảo quản chúng ta
còn những thiếu sót:
- Việc bảo quản dọc đƣờng chúng ta còn coi nhẹ, khoán cho anh em dân
công phƣơng tiện coi đó là trách nhiệm của anh em dân công và phƣơng tiện, ít
nhắc nhở anh em che đậy khi trời mƣa (Trạm 10).
- Trên dọc đƣờng vận chuyển có nơi gạo vƣơng vãi gần một cây số.
- Trạm E500 ô tô chuyển đi dọc đƣờng rơi một rổ gạo mà cũng không biết.
- Trạm E400, 500 gạo vƣơng vãi xung quanh mà vẫn không quét để nhân
dân vào quét mang về.
- E400 cửa kho không đóng, sàn thấp để lợn vào ăn hai đêm liền mất 30,
40 kg.
- Một vài trạm xung quanh kho nơi vẫn cân nhận để vƣơng vãi nhiều nhƣ
khu vực B106 xuất 4 tấn gạo vƣơng vãi 24 kg.
- Gạo xếp xuống thuyền không kê cẩn thận để sát mạn thuyền nên gạo
cũng một phần bị ẩm Trạm 20.
162
- Kho để gạo ngại không lót cót nên bị vƣơng vãi nhiều cụ thể Trạm 20 đã
vƣơng vãi trong thời gian qua mất 695 kg.
- Đổi cho dân: 25 kg
- Gạo nên hủy đi: 94 kg.
- Đổi cán bộ và đồng chí: 374 kg.
- Bán: 182 kg.
- Còn: 22 kg.
Tổng: 695 kg
Xe đạp thồ lấy gạo của E400 đi qua suối Vụ Bản không tháo hàng ra, trái
lại để cả hàng trên xe để qua suối bị ƣớt cả gạo.
Dân công đi đƣờng không che đậy, bị trời mƣa lấy cành lá cắm xung
quanh.
Dụng cụ vật liệu:
Việc sử dụng bảo quản vật liệu trong thời gian qua các trạm không đặt
thành vấn đề nên đã có những hiện tƣợng:
- Cân viện trợ để mất một quả 50 cân, một quả 100 cân (E400). Trạm 20
mất một mỏ lết, Trạm 10 mất một quả đo cân, cân bàn mài ít khi đƣợc lau chùi
giữ gìn mất mát các đinh ốc cân không dùng đƣợc phải bỏ (Trạm 20).
- Các trạm hầu hết không nắm vững bao bì đo của mình xuất nhập ra sao.
Cộng không biết mất không hay mới kiểm tra sơ bộ đƣợc 500 chiếc bì, do ở các
nhà thƣờng nhận trên dọc đƣờng, các lái thuyền và có trạm lấy bao bì đó về sử
dụng trong việc bếp núc.
Hiện tƣợng trên chứng tỏ:
Chúng ta thiếu tinh thần trách nhiệm với nhân dân, chƣa xót xa hạt gạo,
đồng tiền của nhân dân, chƣa thấy rõ đó là mồ hôi nƣớc mắt của nhân dân xƣơng
máu của chiến sĩ.
Chúng ta không biết rằng chúng ta dùng của nhân dân phải đem lợi ích
cho nhân dân, trên đây chúng ta để mất mát, lãng phí, nhƣ vậy đối với nhân dân
163
chúng ta không làm tròn trách nhiệm của ngƣời cán bộ, nó còn biểu lộ tinh thần
quốc tế kém cỏi đối với các nƣớc bạn nên chúng ta đã để bao bì, cân viện trợ mất
mát hƣ hỏng.
III. KIỂM ĐIỂM CHÍNH SÁCH
A. Chính sách kinh tế tài chính
Chấp hành chính sách:
Nhiệm vụ qua chúng ta phải bảo đảm phục vụ cho kế hoạch đồng thời để
song song với nhiệm vụ trên, chúng ta phải chấp hành chính sách kinh tế tài
chính phải thật nghiêm chỉnh bảo đẩm đầy đủ mọi chế độ, làm đƣợc hai nhiệm
vụ trên chúng ta mới làm tròn nhiệm vụ phục vụ bộ đội đánh thắng, ngƣợc lại
chúng ta làm trọn đƣợc nhiệm vụ phục vụ đầy đủ cho kế hoạch nhƣng làm sai
chính sách kinh tế tài chính cũng sẽ ảnh hƣởng đến kết quả của kế hoạch vì vậy
chúng ta cần phải kiểm điểm về thực hiện chính sách để rút ra những ƣu khuyết
điểm và kết quả của công tác.
Trƣớc hết chúng ta hãy kiểm điểm kết quả công việc đã thực hiện trong
thời gian qua.
- Chuyển lên Trạm 105 (Trạm Trung ƣơng) đƣợc 1.216 tên.
- Hao hụt dọc đƣờng: 127.800.
Trong việc chuyển vận trên đây chúng ta đã chi tiêu hết:
- Tiền: 115.876.000
- Gạo: 360.773 kg.
Nhìn quy số liệu trên đây chúng ta cũng đã lƣờng đƣợc kết quả của nhiệm
vụ và sự chi tiêu trong quá trình hoạt động. Kế hoạch này so với kế hoạch trƣớc
chúng ta đã tiến bộ hơn về phƣơng diện chấp hành chính sách, tình trạng chi tiêu
bừa bãi, về nguyên tắc ít xảy ra ở các trạm so với trƣớc, cụ thể là vấn đề ứng tạm
đƣợc hạn chế nhiều. Việc thanh toán phần lớn đã thanh toán tƣơng đối đúng kỳ
hạn, nên việc nắm tình hình chi tiêu không vấp phải tình trạng lung tung ảnh
hƣởng nhiều đến kế hoạch, giữ vững đƣợc nguyên tắc biểu hiện nhất là Trạm 10,
164
mỗi khoản chi hoặc cấp phát trái với nguyên tắc Trạm đã cƣơng quyết không giải
quyết. Có lần Hội đồng Cung cấp Liên khu 3 hoặc tuyến trực tiếp hạ lệnh xuất
kho cho đoàn dân công, cán bộ Trạm đã cƣơng quyết không xuất kho mà giới
thiệu việc đó về Ban để có đủ thẩm quyền giải quyết.
Trên đây là một vài sự tiến bộ của chúng ta trong kế hoạch này so với kế
hoạch trƣớc, nên chúng ta cần lấy đó để học tập và phát triển thêm.
Nhƣng kiểm điểm lại trong việc chấp hành chính sách kinh tế tài chính
chúng ta còn mắc nhiều sai lầm khuyết điểm nghiêm trọng nhƣ sau:
- Việc bảo quản và sử dụng công quỹ để nhân dân mất mát hoặc không
nắm vững tình hình quỹ nhƣ thế nào?
- Trạm 400 thƣờng xuyên không biết quỹ của Trạm mình còn thiếu đủ mất
ra sao, không biết số tồn quỹ của kế hoạch cũ bàn giao sang bao nhiêu, tính thừa
cƣớc phí cho phƣơng tiện 67 vạn đồng và hơn 500 kg gạo. Tính thiếu cho anh
em phƣơng tiện 12 vạn đồng.
- Trạm 20 cũng đã trả thừa cho phƣơng tiện 140.000 đồng. Chi tiêu lẫn
khoản nhƣ việc mua văn phòng phẩm để dùng mà không có phiếu chi của kế
hoạch, thủ kho tự động xuất gạo ra ăn không cân, không báo cáo, khi tính gạo
lƣợng cũng không trả vào kho lại dùng đem bán (Trạm E400).
- Không nghiên cứu kỹ càng về nguyên tắc thanh toán cho phƣơng tiện đã
có hiện tƣợng thanh toán cƣớc kế hoạch cũng nhƣ cƣớc thƣờng xuyên. Một thủ
kho ở E400 đã định bán số thóc thừa ở trong kho.
- E500 bảo quản quỹ để mất trên 477.500 đồng, nhƣng sau đó điều tra và
tìm thấy 461.000 đồng. Tự động xuất gạo ra ăn không có phiếu, tiêu chuẩn ăn 18
kg gạo một tháng, ăn cả tháng thủ kho vẫn có gạo thừa để bán (Trạm 10).
- E400 cử dân công vào làm thủ kho cấp phát phiếu lẻ, khi về đồng chí dân
công đó còn thừa 42 kg gạo.
- E400 cán bộ bán phiếu gạo cho cán bộ ngành khác.

165
- Đồng chí cán bộ chỉ huy Trạm E400 mua của dân công 30 kg gạo, đã
biến chất rồi đem ra kho đổi lấy gạo tốt bán.
- Anh Diển cán bộ thủ kho E400 không có phiếu gạo, sau khi phục vụ về
có 42 kg gạo cũng đem bán.
- Trạm 10 đã phát 208 cân mà phiếu ấy là phiếu chi gạo của E400 không
có giấy giới thiệu của E400 nhờ cấp phát mà cũng cấp phát.
- E400 đã xuất kho cho đoàn dân công bộ của Hội đồng Cung cấp Liên
khu 3 không có chứng từ chi mà căn cứ vào lời bảo đảm của Chủ tịch Hội đồng.
Việc sử dụng phiếu gạo cũng sai lầm, một nhân viên Trạm 2 đã dùng phiếu gạo
thanh toán tiền cơm với lái thuyền.
- Trạm 10 các nhân viên còn thừa gạo đã gọi nhân dân vào đến bán trong
lúc kế hoạch đang cần gạo, sử dụng văn phòng phẩm bừa bãi không căn cứ vào
tiêu chuẩn E400 một tuần lễ đã dùng hết một thùng dầu hỏa.
- Việc sử dụng quản lý dân chủ và tài chính công khai hầu hết chƣa đƣợc
thi hành.
Tóm lại những khuyết điểm trên đây là do chúng ta chƣa quan niệm rõ tầm
quan trọng của công tác quản lý tài chính quốc gia, chƣa thấy đồng tiền hạt gạo
là mồ hôi, nƣớc mắt của nhân dân, xƣơng máu của chiến sĩ mới có, nên còn thiếu
tinh thần trách nhiệm trong công tác. Việc tính thừa cƣớc cho phƣơng tiện ở
E400 do cán bộ thủ kho chúng ta không thận trọng trong việc ghi chép trên phiếu
gửi hàng, Trạm E400 gửi hàng đi Trạm 20 nhƣng nhập vào Trạm 10 thủ kho
nhận hàng chỉ ký không ghi rõ tên và tên trạm nên khi tính cƣớc E400 vẫn tính
cƣớc lên đến Trạm 20. Số thừa và nhận đã chiếm tới 40 vạn đồng và 300 kg gạo,
do trách nhiệm của anh em kế toán còn lơ là trong công tác, chƣa nhận rõ ràng
thóc gạo là của nhà nƣớc, không phải là của riêng ngành Kho thóc, nên đã có
quan niệm gạo trong kho muốn dùng vào việc gì xuất kho cấp phát cũng đƣợc.
Chúng ta là cán bộ tài chính mà chính sách tài chính kinh tế chúng ta không triệt
để chấp hành, vậy chính chúng ta có lỗi nặng với Chính phủ, Đảng và nhân dân.
166
B. Chính sách dân công.
Qua các đợt phục vụ kế hoạch Điện Biên chúng ta đã sử dụng 8.2000 dân
công, 1.000 xe đạp, 100 xe trâu, bò, ngựa, 98 ô tô và 100 chiếc thuyền. Trách
nhiệm của chúng ta là phải chú trọng bồi dƣỡng về tinh thần và vật chất, động
viên anh em để hào hứng phấn khởi để bảo đảm chính sách. Nhƣng kiểm điểm
lại trong quá trình phục vụ nhất là trong chiến dịch Điện Biên Phủ chúng ta đã
tiến bộ nhiều nhƣ đã chú trọng về tình thần cung cấp báo chí, tin tức, tổ chức học
tập cho anh em đƣợc kịp thời, động viên theo dõi thi đua khiến anh em càng
thêm phấn khởi, về vật chất cũng đã chú trọng bồi dƣỡng tổ chức tiếp nhận mua
đƣờng, đỗ, lạc để cung cấp cải thiện sinh hoạt cho anh em, việc tổ chức đón tiếp
nơi ăn chốn ở tƣơng đối đƣợc chu đáo, nhất là đối với những anh em ốm yếu
đƣợc đặc biệt chú ý trông nom chăm sóc đƣợc bồi dƣỡng tinh thần vật chất, do
đó có một ảnh hƣởng tốt trong hàng ngũ dân công và chính anh em công nhân rõ
nhiệm vụ quan trọng của mình.
Tuy nhiên chúng ta cũng còn mắc nhiều thiếu sót do hoàn cảnh chủ quan,
khách quan gây nên nhƣ:
- Khi anh em đến lĩnh quá giờ, các đồng chí thủ kho đƣa ra nguyên tắc cấp
phát máy móc làm khó dễ đối với anh em, và đôi khi anh em đến thanh toán thủ
kho, kế toán tỏ thái độ không nhã nhặn đối với anh em Trạm 10, E400, 500 thậm
chí còn có cán bộ gắt gỏng với anh em Trạm 20. Đối với anh em dân công xe thồ
thấy có khuyết điểm không giáo dục trái lại dùng thủ đoạn đối phó với anh em
Trạm 20. Trạm 10 lán bị dột Trạm không chú ý sửa chữa, đôi khi dân công về
đông Trạm không có cán bộ hƣớng dẫn xếp đặt nơi nghỉ cho anh em, trái lại ngồi
ở trạm chỉ khu rừng này khu rừng kia. Trạm 20, E400 sử dụng dân công thƣờng
trực làm đến 10 ngày liền mà không để anh em nghỉ. E500 không nắm vững tình
hình thóc gạo đã điều dân công đi lại nhiều lần làm lãng phí 724 nhật công. Trạm
20 sử dụng thuyền làm lãng phí hàng 100 tấn thuyền. Trạm E400 và 20 sử dụng
dân công bốc vác làm quá giờ mà không đƣợc tính tăng năng suất, và ít chú ý
167
đến sinh hoạt của anh em; một vài cán bộ thủ kho ở Trạm 10 và E400 đã hủ hóa
với chị em dân công đã giả mạo là công an khám giấy tờ để giữ lại Trạm. E500
lúc đầu dân công đi chỉ phát gạo không phát muối rồi giới thiệu đi trạm này trạm
khác để anh em mất thì giờ, không tra dầu cho 6 ô tô và 60 xe bò trong hai ngày,
khi dân công phục vụ hết thời hạn anh em đề nghị xin phiếu ghi công nhƣng
trạm không để ý đến E400 và 20. E500 thiếu sự kiểm tra đôn đốc dân công nên
chuyển vận trong quãng đƣờng dài 40 km anh em đã đi 4 ngày lãng phí 812 nhật
công.
Tóm lại những hiện tƣợng trên đây chứng tỏ cán bộ chúng ta chƣa quan
tâm đến đời sống của anh chị em dân công, chƣa thấy rõ anh chị em cũng là
những ngƣời bạn đã hy sinh công việc gia đình để làm nhiệm vụ tiền tuyến tiêu
diệt kẻ thù, chứng tỏ cán bộ chúng ta còn thiếu tinh thần trách nhiệm trƣớc nhân
dân, quan điểm quần chúng nhân dân cũng còn thiếu sót nhƣ đã không chú ý đến
bồi dƣỡng đến tinh thần vật chất để anh em phấn khởi phục vụ ngƣợc lại còn có
những đồng chí làm việc còn quan liêu, mệnh lệnh thái độ thiếu nhã nhặn gắt
gỏng với anh chị em, coi anh em nhƣ những ngƣời làm thuê cho mình.
C. Lãnh đạo
I. Lãnh đạo và tổ chức:
Thời kỳ đầu bƣớc vào kế hoạch Điện Biên công việc nhiều cán bộ không
kịp thời bổ sung, sau công việc tƣơng đối đi vào nề nếp thì cán bộ lại bổ sung
nhiều, khi bổ sung cán bộ cho các trạm thì không phân nhiệm vụ và đả thông rõ
rệt, để có hiện tƣợng cán bộ của Hội đồng và cán bộ của Kho thóc lủng củng với
nhau trong khi giải quyết công việc, thấy thế Ban cũng không kịp thời chấn
chỉnh ngay bộ máy của Trạm. Việc sắp xếp bộ máy của trạm thì quá cồng kềnh
nhƣ E400 đã có tới 7 cán bộ trong Ban chỉ huy Trạm, tuy vậy việc bố trí cán bộ
cũng không đều trạm nhiều việc nhƣ E400 thì để cán bộ chỉ huy và kế toán còn
Trạm 13 ít việc thì để cán bộ khá nên E400 xảy ra tình trạng cán bộ kế toán tính
nhập hàng 60, 70 vạn đồng, một vài cán bộ thủ kho tham ô hủ hóa.
168
2. Lãnh đạo tƣ tƣởng:
Nói chung công tác lãnh đạo tƣ tƣởng thì yếu, ngay trong nội bộ Ban chỉ
huy Trạm cũng lủng củng, tƣ tƣởng và quan niệm không thống nhất với nhau
Trạm E400 có 5 cán bộ chính trị mà công tác chính trị vẫn kém, phần nhiều chỉ
dùng mệnh lệnh chứ không động viên giáo dục anh em để phấn khởi, do đó cũng
có những hiện tƣợng:
- Cán bộ chính trị thì chỉ lo làm thế nào bảo đảm đƣợc công tác dân công,
còn trong nội bộ thì ít chú ý đến hay chỉ thiên về mặt giấy tờ mà ít chú ý đến
hoạt động về chính trị, thấy cán bộ có sai lầm thì không kịp thời ngăn chặn để
tình trạng hủ hóa với dân công, nội bộ Ban chỉ huy E400 mâu thuẫn đề cao tác
phong phê và tự phê để anh em coi thƣờng. Anh em có ấn tƣợng trạm thống nhất
là do Hội đồng chỉ huy và lãnh đạo cả mọi mặt chứ không phải là trách nhiệm
lãnh đạo của mình.
- Cán bộ mới bổ sung lên không đả thông nên khi mới lên đã xin về, ít chú
ý đến đời sống sinh hoạt và học tập cho anh em mà chỉ nặng về bảo đảm nhiệm
vụ nhƣ E400, Trạm 20 và Trạm 12 không chú ý đến vấn đề thi đua để động viên
anh em phấn khởi phục vụ và tổ chức khen thƣởng kịp thời.
Trong Ban chỉ huy và kế toán có thành kiến với nhau, nhƣng cũng không
tìm cách đả thông mà chỉ bảo để đồng chí kế toán kiểm thảo nhƣng sự giúp đỡ
không sát nên càng đi đến chỗ thành kiến sâu sắc E400.
3. Lề lối làm việc
a. Quan niệm giữa Tuyến và Ban:
Khi Ban chỉ huy đƣợc thành lập, các trạm cũng đƣợc củng cố, cán bộ trạm
trƣởng, các trạm viên phần nhiều do cán bộ Hội đồng phụ trách, cán bộ của kho
thóc xuống làm trạm phó công việc đều do Tuyến chỉ huy, do đó vai trò của Ban
Kho thóc tiền phƣơng rất lu mờ nên có hai hiện tƣợng:
- Giữa Tuyến và Ban sự liên hệ không đƣợc chặt chẽ, có những việc
Tuyên giải quyết thuộc phạm vi về chuyên mông cho các trạm thi hành mà Ban
169
cũng không biết đến nhƣ hạ lệnh cho Trạm 20, E400 cấp phát cho đoàn điện ảnh
và dân công bộ, hạ lệnh cho E500 không chuyển gạo lên Trạm trên, sau Ban Kho
thóc tiền phƣơng xuống lại bảo E500 chuyên lên nên E500 không biết thì hành
thế nào, nhập nhằng giữa Tuyên và Ban trong việc lãnh đạo nên dƣới không biết
thi hành lệnh của ai. Nhất là vấn đề tài chính chi cho kế hoạch không biết quỹ
Tuyên hay quỹ Ban chịu.
- Phân công phần nhiều không đƣợc dứt khoát, rõ ràng, đồng chí nào trong
Ban Chỉ huy cũng hạ lệnh chi tiêu đƣợc thậm chí đồng chí phụ trách văn thƣ của
Tuyên cũng ký hạ lệnh cho Trạm 10 và E400 phát gạo cho công nhân viên của
Tuyên ăn. Giữa Tuyến và Ban đôi khi giải quyết việc không thống nhất, khiến
cho các trạm khó thi hành.
b. Quan hệ giữa Ban và các ngành:
Giữa Ban và các ngành sự liên hệ cũng không đƣợc chặt chẽ nhƣ đối với
Vận tài, trong khi bố trí chuyển hàng đã báo cho E500 chở đò chuyển gạo ra bến
để cho 60 xe bò và 2 ô tô lấy nhƣng kết quả chỉ có một ô tô hơn ba chục xe đều
lấy hàng làm lãng phí sức của dân công. Cán bộ vận tải chỉ nặng về phía chuyên
môn để giải quyết công việc, không nhìn vào công việc chung của công việc.
Sự bố trí của Vận tải có ngày thay đổi nhƣ chủ trƣơng hai ba lần thƣờng
xuyên không nắm vững phƣơng tiện.
c. Quan hệ giữa Ban và trạm:
Trong việc quan hệ giữa Ban và trạm vai trò rất lu mờ, cán bộ Trạm
trƣởng và chính trị phần nhiều của Hội đồng Cung cấp sang chƣa rõ sự liên hệ
của ngành dọc do đó mọi việc đều trực tiếp với Tuyên mà không biết đến Ban
nên đã có những hiện tƣợng phổ biến:
- Công văn của Ban gửi xuống thi hành thiếu nghiêm chỉnh nói với anh em
“Ban Kho thóc tiền phƣơng sao lại chỉ thị xuống các trạm” có phải của Hội đồng
đâu mà thi hành nhƣ Trạm E400 mọi việc về chi tiêu hoặc về chuyên môn trạm
chỉ biết thi hành lệnh của Tuyên, sai đúng cũng không rõ, không có ý kiến gì
170
thỉnh thị về Ban hoặc báo cho Ban biết. Thậm chí đồng chí Giao cán bộ Hội
đồng ở Trạm 20 đã phát ngôn vô nguyên tắc là ở Kho thóc các anh em đề ra chứ
có phải Chính phủ đề ra đâu.
- Các trạm sự liên hệ với nhau cũng kém chặt chẽ, thấy trạm khác có
những mặt sai không phản ánh lên trên hoặc công văn của trạm khác biệt vội nói
ngày trƣớc các anh em phƣơng tiện bằng thái độ cáu gắt “nói xấu” làm cho anh
em dƣới hoặc phƣơng tiện có ấn tƣợng không tốt với cán bộ của trạm khác. Có
trạm trong khi trạm trên chƣa kịp gửi bì đo về thì đã nói bâng quơ ở trạm mình là
đem bắn thằng A ở trạm ấy đi nó là phản động (Trạm 20) các trạm không nhìn
thấy cái khó của nhau chỉ nhìn vào trạm mình rồi phát biểu về trách nhiệm.
Kiểm điểm lại những hiện tƣợng trên chúng ta đã nhìn thấy trong quá trình
hoạt động mắc phải những khuyết điểm nghiêm trọng về phần lãnh đạo nhƣ sau:
- Bộ máy Ban chỉ huy quá cồng kềnh, nội bộ giữa Ban chỉ huy trạm không
thống nhất khi tổ chức trạm thống nhất thiếu đả thông quyền hạn nhiệm vụ lãnh
đạo không rõ rệt nên có tình trạng dậm chân lên nhau, tƣ tƣởng cán bộ và công
nhân viên không uốn nắn kịp thời nặng về mệnh lệnh ít giáo dục giải thích cán
bộ, còn nặng về địa vị quan liêu chỉ nghĩ đến mình nhiều mà không nghĩ đến
việc chung.
IV. TRUY NGUYÊN
Vì sao có những ƣu khuyết điểm trên:
1. Ƣu điểm căn bản:
- Nói chung cán bộ đã quan niệm rõ tầm quan trọng của kế hoạch nên đã
tích cực cố gắng làm suốt ngày đêm để bảo đảm kế hoạch cụ thể nhƣ Trạm 20, 2
và E500 trong khi không có dân công bốc vác toàn thể cán bộ trạm đã tự mình
bốc vác thay cho dân công để bảo đảm cho xe chạy.
- Địa điểm kho tàng bố trí chu đáo, công tác bảo mật đƣợc đề cao nên suốt
trong thời gian chiến dịch dân công xe cộ đi lại dồn dập mà không bị oanh tạc
bắn phá chiếc kho nào.
171
- Bảo đảm đƣợc kế hoạch thời gian và số lƣợng, giữ gìn phẩm chất gạo
đƣợc ngon lành.
2. Khuyết điểm căn bản:
a. Quan niệm nhiệm vụ chuyên môn thuần túy: Vì quan niệm nhiệm vụ
chuyên môn thuần túy nên đã tách rời giữa công tác chính trị với công tác
chuyên môn nên nói chung cán bộ các trạm đã ỷ lại công tác chính trị cho cán bộ
Hội đồng, Vận tải và dân công.
b. Chúng ta bản vị chỉ bo bo bảo toàn trách nhiêm cục bộ không nhìn đến
nhiệm vụ chung. Vì bản vị bảo toàn trách nhiệm cục bộ không nhìn đến nhiệm
vụ chung nên Trạm 10 đã cất gạo quá mức làm cho Trạm 20 không đủ gạo
chuyển kết quả làm ảnh hƣởng đến kế hoạch làm lãng phí thuyền. Cũng vì bảo
toàn trách nhiệm nên khi xuất gạo ra khỏi kho coi là hết trách nhiệm khoán trắng
cho cán bộ vận tải dân công không kết hợp trong việc kiểm tra đôn đốc theo dõi.
c. Thiếu ý thức bảo vệ tài sản quốc gia, và tình thần quốc tế nên cân bàn
Trung Quốc, bao bì để thất lạc, gạo vƣơng vãi hao hụt nhiều chúng ta không thấy
rằng hạt thóc gạo là mồ hôi nƣớc mắt của nhân dân, xƣơng máu của chiến sĩ, tài
sản của nhà nƣớc.
Kết quả làm ngân sách quốc gia phải chi tiêu nhiều, nhân dân phải đóng
góp thêm.
d. Không triệt để chấp hành chính sách quản lý chi thu. Do việc không
chấp hành đúng chính sách quản lý chi thu nhƣ Trạm 200, Trạm 2, E400 cấp
phát gạo không có lệnh của Ban. Trạm 20, E400 đã tính nhầm cho phƣơng tiện
hàng 60, 70 vạn đồng, trạm 11, 10 và E400 lãng phí hàng nghìn nhật công làm
kho, với những sai lầm trên đã làm cho không nắm vứng đƣợc kế hoạch, tổn thất
đến công quỹ ảnh hƣởng đến sức lực của nhân dân.
e. Thiếu quan điểm nhân dân: Vì thiếu quan điểm nhân dân nên ít quan
tâm đến đời sống ăn nghỉ của chị em dân công, và coi rẻ các anh em dân công

172
gắt gỏng với anh chị em nhƣ Trạm 10, 20 do đó làm tổn thất đến tinh thần của
anh chị em ảnh hƣởng một phần đến kế hoạch.
V. KẾT LUẬN
Tóm lại trong hai tháng phục vụ kế hoạch cung cấp gạo cho kế hoạch Điện
Biên Phủ ngành chúng ta đã bảo đảm đƣợc mức vận chuyển cũng nhƣ số lƣợng
và thời gian, bảo đảm đƣợc phẩm chất gạo ngon đến tay bộ đội, kết quả là do
tinh thần tích cực của anh em cán bộ, công nhân viên, tinh thần phục vụ vô điều
kiện của anh em dân công và phƣơng tiện.
Nhƣng kiểm điểm lại trong quá tình thực hiện kế hoạch chúng ta đã để
lãng phí hàng 4.000 nhật công, lãng phí hàng trăm tàu thuyền, tính nhập cho
phƣơng tiện 60, 70 vạn đồng, lãng phí hàng tấn gạo, cấp phát bừa bãi. Tuy kế
hoạch chúng ta bảo đảm nhƣng đối chiếu với chính sách của Đảng và Chính phủ
đề ra cán bộ công nhân viên chúng ta còn phạm vào nhiều sai lầm khuyết điểm
mà những sai lầm khuyết điểm đó phần nhiều là những sai lầm khuyết điểm
nghiêm trọng đã làm tổn thất đến công quỹ quốc gia và sức lực của nhân dân,
nhƣ vậy so với nhiệm vụ điều căn bản chúng ta vẫn chƣa thực hoàn thành nhiệm
vụ của Trung ƣơng giao cho.

Nơi nhận: Liên khu 3, ngày 1 tháng 6 năm 1954


- Sở Kho thóc Trung ƣơng (để kính BAN KHO THÓC
tƣờng);
- Hội đồng Cung cấp LK 3 (để kính TIỀN PHƢƠNG LIÊN KHU 3
tƣờng); TRƢỞNG PHÕNG KẾ HOẠCH
- Các Chi sở Ninh, Hòa Bình (để rút kinh (Đã ký và đóng dấu)
nghiệm);
- Phòng Nghiệp vụ Phân sở (để tổ chức
học tập); Trần Đình Ngọc
- Các trạm (để tổ chức học tập).

Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, phông UBKCHC Liên khu III, hồ sơ 1269,
tờ 01-11

173
Công văn số 380 ngày 3/6/1954 của Vụ Kế toán Bộ Tài chính về việc
xử lý những tài sản do tù hàng ngụy binh mang theo ở Điện Biên Phủ.

174
BỘ TÀI CHÍNH VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÕA
VỤ KẾ TOÁN Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Số: 380/TYO/BC
V/v xử lý những tài sản do tù hàng Ngày 3 tháng 6 năm 1954
ngụy binh mang theo.

Bộ trƣởng Bộ Tài chính kính gửi:


- Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh Hà Nam;
- Khu Tài chính Liên khu 3.
Phúc Công văn 493/TC/KT ngày 29/4/1954 (Ty Tài chính) về việc nguyên
tắc xử lý những tài sản do tù hàng binh đem theo mình xem nhƣ của riêng từ
hàng ngũ giặc sang hàng ngũ ta.
Vấn đề này, Bộ sẽ cùng Bộ Quốc phòng trình Chính phủ quy định nguyên
tắc để các nơi thi hành thống nhất.
Trong lúc chờ đợi, cần giải quyết ngay trƣờng hợp đơn phạm xá nhƣ đã
trình bày ở Công văn 493/TC/KT nói trên. Ý kiến của Bộ là có thể tạm thời giải
quyết nhƣ sau:
- Để cho họ những đồ vật thƣờng dùng của cá nhân theo một số tối thiểu
bình thƣờng cần dùng.
Ngoài ra:
1. Tập trung lại giao chính quyền địa phƣơng hay cơ quan Tài chính bảo
quản.
2. Đồng thời tiến hành điều tra xem của cải ấy ở đâu mà ra rồi tùy đó mà
đặt kế hoạch giải quyết:
a. Nếu là cƣớp của nhân dân địa phƣơng thì đặt kế hoạch cẩn thận để của
ai thì trả lại cho ngƣời ấy.

175
b. Còn ra thì xem nhƣ là của vô chủ hay của giặc sẽ tịch thu và xử lý nhƣ
chiến lợi phẩm.
Trên đây là nguyên tắc trong trƣờng hợp cụ thể này cần có sự đối đãi với
hàng binh nếu về việc tập trung nói ở Khoản 1 trên hay việc trả lại dân nói ở
Khoản 2a trên thì nên có sự đả thông với những ngƣời này và đi đến chỗ họ tự
giác giao lại.
Trên đây là ý kiến của Bộ, Ủy ban sẽ tùy liệu đặt kế hoạch cụ thể để thi
hành xong rồi báo cáo gấp Bộ rõ với những nhận xét ý kiến của Ủy ban về mọi
mặt để Bộ rút kinh nghiệm xây dựng nguyên tắc và thể thức chung.

Sao kính gửi:


- Thủ tƣớng Phủ để cho biết ý kiến (kèm theo bản trích báo
cáo và đề nghị của Ty Tài chính họ nắm).

Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, phông Bộ Tài chính, hồ sơ 10694, tờ 12.

176
Công văn số 922/TN/NV ngày 12/6/1954 của Chi sở mậu dịch Thái
Nguyên về việc tiếp tế hàng cho bộ đội.

177
BỘ CÔNG THƢƠNG VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÕA
SỞ MẬU DỊCH Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
CHI SỞ THÁI NGUYÊN
Số: 922/TN/NV Ngày 12 tháng 6 năm 1954
V/v tiếp tế hàng cho bộ đội

Kính gửi: Cục Quân Nhu.


Theo đề nghị của ông Nguyễn Hiếu, cán bộ của Cục, Cục cần một số hàng
nhƣ sau để tiếp tế cho bộ đội:
- Bibbs: 1.000 hộp.
- Xà phòng giặt: 5.000 bánh.
- Xà phòng thơm: 1.000 bánh.
- Đá lửa: 10.000 viên.
- Nylon: 4.00 mét.
- Dầu hỏa: 30 thùng.
- Sữa bò: 1.000 hộp.
- Đƣờng: 4 tấn.
Hiện nay, trong kho chúng tôi chỉ còn:
- 2.000 bánh xà phòng giặt.
- 108 bánh xà phòng chanh.
- 452m 50 nylon.
- 50 hộp thuốc đánh răng Trung Quốc.
Có thể bàn giao ngay cho ông Hiếu đem về phân phối cho các đơn vị
dƣợc.
Với số lƣợng hàng của Cục đặt trong một thời gian ngắn, chúng tôi chƣa
thể có ngay để cung cấp đƣợc.
Việc này, chúng tôi đã báo cáo lên Sở Mậu dịch Trung ƣơng, đề nghị chỉ
thị cho Chi sở Xuất Nhập khẩu Bảo Bảo nhập và giao ngay hàng cho chúng tôi.
178
Khi nào nhận đƣợc hàng của xuất nhập khẩu Bảo Bảo giao, chúng tôi sẽ báo Cục
biết và cho cán bộ đến nhận hàng

Sao kính gửi: TUN/ CHI SỞ TRƢỞNG


Sở Mậu dịch Trung ƣơng (để báo cáo) TRƢỞNG PHÕNG HÀNH CHÍNH
(Đã ký và đóng dấu)

Lƣu Công Tỉnh

Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, phông Sở Mậu dịch, hồ sơ 121, tờ 03.

179
Báo cáo ngày 18/6/1954 của Ban Kho thóc tiền phƣơng Liên khu III
về tình hình quỹ kế hoạch Điện Biên Phủ hết tháng 5 năm 1954.

180
BAN KHO THÓC TIỀN VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÕA
PHƢƠNG LIÊN KHU 3 Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

BÁO CÁO TÌNH HÌNH QUỸ KẾ HOẠCH ĐIỆN BIÊN PHỦ


HẾT THÁNG 5 NĂM 1954
CÁC KHOẢN “CÓ”
I. Quỹ 363.931 đồng
Số tiền còn tại quỹ đến 31/5/1954
II Chi cho kế hoạch Điện Biên Phủ 107.231.875
Ban Kho thóc tiền phƣơng chi……….80.313.814
Chi Sở Kho thóc Ninh Bình chi………26.918.061
(Theo Quyết toán ngày 18/6/1954)
III. Chi hộ Hội đồng Cung cấp miền Trung III 3.397.501
E400 chi tiền vận chuyển thực phẩm…..3.397.501
Ứng tạm cho các nhân viên do Hội đồng trƣng tập đến phục vụ
Tuyến 25 (Theo Chỉ thị của Ban Chỉ huy Tuyến 25)(1).
IV. Chi hộ Chi Sở Thanh Hóa 218.211
Trạm E400 chuyển tiền làm kho hộ Thanh Hóa
V. Ngân hàng Liên khu 3 3.666.000
Còn gửi lại Ngân hàng số tiền đƣợc Sở Kho thóc Trung ƣơng
cấp chƣa lĩnh hết (sang tháng 6 sẽ trả cho Sở Ninh Bình).
VI. Tạm chi 34.255.869
Các nhân viên thuộc Ban Kho thóc tiền phƣơng ……140.210
Các trạm thuộc Ban Kho thóc tiền phƣơng ……...34.255.659
Còn lại đã chi nốt về tháng 6:
+ Trạm 10: 2.681.612
+ Trạm 20: 3.960.513

181
+ Trạm 2 (từ 21/5): 13.742.018.
+ Trạm E400: 13.342.443 33.726.586
Thiếu quỹ sau khi thanh toán:
+ Trạm 11: 14.200
+ Trạm 12: 2.100
+ Trạm 13: 16.000
+ Bệnh xá dân công: 112.647.
+ Bộ phận tiếp phẩm: 244.126 389.073
Tổng cộng: 149.127.387
CÁC KHOẢN “NỢ” đồng
I. Kinh phí đƣợc cấp
Sở Kho thóc Trung ƣơng cấp để chi cho kế hoạch Điện Biên
100.005.000
Phủ đồng
+ Lần thứ nhất: 2.300.000
+ Lần thứ hai: 9.045.000
+ Lần thứ ba: 88.660.000
II Quỹ kế hoạch năm 1953
67.532
Thu hộ tiền ứng tạm của kế hoạch
III. Quỹ kế hoạch Đông Xuân 14.436.177
Chuyển số tiền còn lại của kế hoạch Đông Xuân cuối năm
1953 đầu năm 1954 sang.
IV. Thu để giảm chi
325.546
Thu lại số tiền đã trả quá cho dân công, phƣơng tiện
V. Thu bắt đền hao hụt
702.272
Thu tiền bắt đền gạo hao hụt quá tỷ lệ vận chuyển
VI. Bán lƣơng thực xấu
4.250
Bán gạo đất quét kho, sau khi đãi không dùng đƣợc.

182
VII. Thu linh tinh 1.123.200
Chủ phƣơng tiện gửi lại tiền để đi phục vụ: 1.116.000
Tiền thuế sát sinh đƣợc nộp nhờ chuyển trả cơ quan thuế:
32.463.419
7.200
VIII. Chủ nợ
Vay của các cơ quan sau đây để chi cho kế hoạch:
+ Hộ đồng Cung cấp miền Trung Liên khu 3: 9.640.557
+ Chi Sở Kho thóc Ninh Bình: 8.815.061.
+ Chi Sở Kho thóc Hòa Bình: 13.890.886
+ Thu hộ Trạm 105.
+ Ban Vận tải tiền phƣơng
149.127.387
(tiền trả thiếu cho phƣơng tiện): 106.083
đồng
Tổng cộng:
(1) Có bảng chi tiết riêng

Nơi nhận: Liên khu 3, ngày 18/6/1954


- Sở Kho thóc Trung ƣơng (để báo cáo); BAN KHO THÓC TIỀN PHƢƠNG
- Hội đồng Cung cấp Mặt trận (để báo cáo)
KT. Trƣởng Ban và TUQ
Phụ trách kế toán Phụ trách Kế hoạch

Nguyễn Hợp Phan Trần Đình Ngọc

Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, phông Ủy ban Kháng chiến Hành chính
Liên khu III, hồ sơ 1297, tờ 23.

183
Bảng tổng quyết toán ngày 27/6/1954 của Phân Sở Kho thóc Liên khu
III cho kế hoạch Điện Biên Phủ từ đầu tháng 4 đến hết kế hoạch “thanh
toán đến 26/6/1954”

Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, phông Ủy ban Kháng chiến Hành chính
Liên khu III, hồ sơ 1297, tờ 46.

184
Báo cáo tháng 6 năm 1954 của Ty Giao thông công chính Yên Bái về
tổng kết địch phá hoại từ 20/11/1953 đến 31/5/1954.

185
TY GIAO THÔNG CÔNG CHÍNH VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÕA
YÊN BÁI Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

TỔNG KẾT CHIẾN DỊCH PHÁ HOẠI


TỪ 20/11/1953 ĐẾN 31/5/1954

Nhiệm vụ bảo đảm giao thông tuyệt đối của Yên Bái bắt đầu tiến hành từ
ngày 20/11/1953 cho đến nay: Trong quá trình công tác chống địch phá hoại lấp
lại giao thông từ km 8 đƣờng Yên Bình tới km 84 chân Đèo Lũng Lô phía Sơn
La; Trong khoảng thời gian này sự chiến đấu chống bom nổ chậm, nổ ngày của
địch phá hoại có nhiều khó khăn gian khổ và hy sinh xƣơng máu.
Địch đã dùng các loại máy bay: B29, B24, B26, Hen-li-vo 2, mình đánh
phá liên tiếp có ngày 5, 6 lần liền, có đợt đúng từ ngày 16 đến 19 máy bay tập
trung đánh phá một chỗ. Số lƣợng bom các loại tính đến ngày 31/5 chúng đã
ném đánh phá đƣờng:
- Bom nổ ngay: 719 quả, trọng lƣợng 189 tấn 750k.
- Bom nổ chậm: 81 quả, trọng lƣợng 20 tấn 250k.
- Bom napan: 19 quả.
- Bom không lõi: 11 quả
Và gần đây ném cả loại bom hỏa mù (Ngoi Lao)
Trong số lƣợng bom trên chúng đã ném xuống các địa điểm:
- Đèo Lũng Lô: 467 quả nổ ngay (3/5 tổng số).
- Đèo Lũng Lô: 51 quả nổ chậm (2/3 tổng số).
- Đèo Lũng Lô: 11 quả không nổ.
+ Km 10 và 11 chúng đã ném 91 quả nổ ngay và 10 nổ chậm.
+ Ngoi Lao từ cơ sở 52 đến 54 chúng ném 63 nổ ngay, 12 nổ chậm.
+ Bắn phá Âu Lâu thời ký đầu chúng ném 23 nổ ngay và 5 napan.

186
+ Rải rác ở hai ven đƣờng Hao Gia, Âu Lâu, cây số 6, 27, 28, 35, 38, 63,
64 chúng ném 74 nổ ngay, 8 nổ chậm.
Với tinh thần chiến đấu lập lại giao thông của lực lƣợng dân công chủ lực,
tu bổ … trong khi thi hành nhiệm vụ đã đạt đƣợc nhiều thành tích tuy có gian
khổ khó khăn, hy sinh và nhiều khuyết điểm, trƣởng thành trong công tác phải
nói đến C236, một đơn vị xuất hiện chiến đấu đầu tiên và liên tục anh dũng dẻo
dai suốt từ đầu chiến dịch cho tới nay quyết tâm bảo vệ đèo, tiếp sau đó là ở dân
công Hùng Khánh, một đơn vị mở đầu chiến đấu trong hàng ngũ lực lƣợng dân
công nhiều lần đƣợc trên khen thƣởng, ca ngợi và tuyên dƣơng thành tích. C237
và các đội tu bổ Thƣơng Bang La, Cát Thịnh cũng đƣợc rèn luyện trong chiến
đấu, ngoài ra đào tạo đƣợc nhiều cá nhân xuất sắc, anh hùng (có báo cáo riêng).
Tinh thần chiến đấu anh dũng và quyết tâm trong 85 đem lấp lại giao
thông đã bảo đảm thông suốt 76 đêm, còn 9 đêm bị tắc. 81 nổ chậm đã phá đƣợc
5 quả, thu 1.013 cân thuốc trong đó chủ lực 236 phá 3, công binh phá 2, đó là
những thành tích đáng kể.
Công tác nặng nề quan trọng nhƣng vinh dự, Ban Bảo đảm giao thông Yên
Bái đã nghiêm chính chấp hành lãnh đạo toàn bộ lực lƣợng, toàn bộ công tác
phục vụ trọng tâm góp phần vào chiến dịch có kết quả. Song cũng có nhiều
khuyết điểm thiệt hại và tổn thất do địch gây nên. Con số thiệt hại trên dọc
đƣờng, trong hàng ngũ dân công cán bộ chủ lực từ ngày 20/11/1953 đến
31/5/1954 theo thống kế nhƣ sau:
1. Hy sinh:
- Dân ở ven đƣờng: 2.
- Dân công xe thồ: 8.
- Dân công làm đƣờng chết vì bom đạn: 19.
- Dân công chết vì ốm bệnh: 11.
- Công binh phối hợp chiến đấu: 4.
- Cán bộ chuyên môn (ông Thắng): 1.
187
Tổng cộng: 45 ngƣời.
2. Bị thƣơng nặng và nhẹ:
- Nhân dân địa phƣơng: 9.
- Dân công: 44.
- Chủ lực: 2.
Tổng cộng: 55 ngƣời.
3. Bị phá hoại và cháy:
- 16 nóc nhà của dân.
- 8 quán bán hàng trên dọc đƣờng.
- 1 ô tô của quân sự bị bắn cháy Hao Gia tháng 5 năm 1954.
Trong thống kê thiệt hại trên chƣa kể khối lƣợng đất đá phải lấp lại giao
thông. Đặc biệt công tác phòng gian bảo mật để bảo vệ lực lƣợng phƣơng tiện cơ
quan, kho tàng, doanh trại đƣợc phổ biến kịp thời và triệt để thi hành nên ít có
những thiệt hại, cụ thể chƣa một lán trại nào của dân công, chủ lực bị bom, bị
bắn, chƣa một kho tàng nào bị phá hủy. Suốt dọc đƣờng từ km 8 Yên Bình đến
km 84.
Ngày…. tháng 6 năm 1954
TRƢỞNG TY GIAO THÔNG
CÔNG CHÍNH
(Đã ký và đóng dấu)
Nguyễn Trung

Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, phông Nha Giao thông, hồ sơ 648, tờ 176-
177

188
Chỉ thị số 14-CT ngày 30/6/1954 của Ban Chấp hành Khu Tả ngạn về
việc đẩy mạnh hoạt động phá tan âm mƣu mới của địch sau khi toàn thắng
Điện Biên Phủ năm 1954.

189
ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM Tả Ngạn, ngày 30/6/1954
BAN CHẤP HÀNH KHU TẢ NGẠN
Số: 14-CT
CHỈ THỊ

Gửi tỉnh ủy: Thái Bình, Hƣng Yên, Hải Dƣơng.


Căn cứ vào tình hình hoạt động của địch và ta hiện nay, Khu ủy nhận thấy
có mấy vấn đề cần phải chú ý:
Về hoạt động của địch: Từ sau khi bị thất bại ở Điện Biên Phủ đến nay
địch có âm mƣu rút hẹp địa bàn chiếm đóng, củng cố những khu vực trọng yếu,
tập trung và khuếch trƣơng lực lƣợng cơ động.
+ Ở Trung Bộ, chúng đã rút An Khê, Sông Cầu, Phú Yên, Chi Thành và
chuẩn bị rút Pleiku.
+ Ở Bắc Bộ, chúng định bỏ zoone Sud (gồm Phát Diệm, Ninh Bình, Nam
Định, Phủ Lý, Thái Bình và Nam Hƣng Yên).
- Ở Phát Diệm lực lƣợng BVN đã chuyển đi bọn Bảo chính đoàn và địa
phƣơng quân cũng đang chuẩn bị rút nốt.
- Ở Nam Định chúng đang tàn phá thành phố và vận chuyển đồ đạc đi Hải
Phòng bằng đƣờng thủy.
- Có tin chúng đã điều các GM 3, 1, 5, 9, 31, 31, Sgb1, sgb2 về các đƣờng
giao thông Nam Định, Ninh Bình, Phủ Lý để bảo vệ cho quân ở những nơi này
rút.
- Ở Thái Bình chúng đã rút 3 tiểu đoàn 58 BVN, 22 BVN và 712 khinh
quân, các đơn vị cơ giới, khinh quân khác và cả bọn chỉ huy secteur, bọn ngụy
quyền, cha cố, phản động, do thám tay chân cũng rút theo.
Các dụng cụ nặng đã chuyển sang Nam Định. Một số tay sai của giặc đang
tích cực bắt lính và dụ dỗ con chiên đi theo.

190
Số ngụy quân còn lại cũng sẵn sàng đợi lệnh rút. Máy bay thám thính của
địch ném hộp thƣ báo cho quân chiếm đóng ở các vị trí ven đƣờng giao thông số
10 và 223 chuẩn bị rút.
+ Về phía Hà Nội, chúng đang củng cố ngoại vi, thiết lập những trận địa
pháo ở Đan Phƣợng và đã lập xong SM16 và GM17.
+ Trên đƣờng 5 nhiều dụng cụ và quân lính địch đã vận chuyển về phía
Hải Phòng.
Dọc con đƣờng này CM 3 đóng từ Lục Diên về Lào Viên, làm áp lực để
củng cố cơ sở. GM5 đang tàn phá khu Nhƣ Quỳnh, GML làm áp lực cho địch
củng cố công sự ở Tiên Kiêu.
+ Về khu vực Hải Phòng, quân số tăng thêm CM ngụy về đông Hải
Phòng, thị xã Kiến An có 3.000 tên. Kiến Thụy gồm 2.000, Trung Lãng (Tiên
Lãng) trên một tiểu đoàn Âu Phi. Tại Ninh Giang địch đang chuẩn bị nhà cửa để
đón quân về đóng, làm thêm bai nhông lên sang huyện Phú Đức (Thái Bình)
chúng đang chữa đƣờng 17 từ Ninh Giang về Câu Rầm, chữa con đƣờng số 8 từ
Kinh Thành về Kiến An, làm một số nhà dọc ven đƣờng sát nhập Ninh Giang
vào Zône Hải Phòng và khắp trên khu vực Hải Phòng, chúng đang ráo riết củng
cố công sự.
Căn cứ vào hoạt động trên của địch Khu ủy nhận thấy ở Bắc Bộ địch có
thể rút bỏ Zône Sud (gồm Phát Diệm, Nam Định, Thái Bình, Phủ Lý, Ninh Bình
và Nam Hƣng Yên) tiến hành việc củng cố khu vực Hà Nội, Khu đƣờng 5 và Hải
Phòng (khu Hải Phòng gồm Ninh Giang, Kiến An và thành phố Hải Phòng).
Hoạt động của địch trên đấy đã tạo điều kiến tốt cho ta tiêu diệt sinh lực
chúng.
- Tại Liên khu 5, ngày 23/6 ta đã diệt 1 đ, đánh tan 2 đ địch, thu 203 xe
các loại và 12 đại bác.
Ngày 28/6 ta tiếp tục tác chiến ở đó, tiêu diệt và làm tan rã trung đoàn
Pháp ở Triều Tiên mới về. Hiện nay ta đang truy kích lùng bắt tù binh.
191
+ Ở đƣờng 5 từ ngày 22 đến 26/6 ta đánh đổ 7 đoàn tàu hỏa, diệt 300 tên
và liên tiếp phá các loại xe cơ giới của giặc.
+ Tại Thái Bình, ngày 28/6 địch rút các vị trí Cầu Sôp Du Đai, Đông Cƣ
bị ta chặn đánh diệt một số, bắt 38 tên thu 38 súng, và tiếp tục bám sát bao vây
chặn đánh số quân địch đang rút trên đƣờng 10.
- Tinh thần binh lính rất hoang mang. Phong trào đòi giải ngũ đang lên
mạnh. Tại Phát Diệm 200 bảo chinh quân ra hàng, 200 đào ngũ, 150 địa phƣơng
quân ra hàng. Tại Thái Bình tiểu đội ở vị trí Thái Học, 8 ngụy binh ở Đông Các,
10 tên ở thị xã mang vũ khí ra hàng.
- Nhân dân ở trong các khu vực chiếm đóng của giặc rất hoang mang, dao
động: một phần nhờ có tiền tìm cách đi vào Sài Gòn, Hà Nội hay Hải Phòng, một
phần còn ở lại nhƣng rất hoang mang.
Để đối phó kịp thời với âm mƣu địch, Khu ủy chỉ thị:
1. Tỉnh ủy Thái Bình, Hƣng Yên, Trung đoàn ủy… tích cực lãnh đạo bộ
đội đánh địch khi chúng rút hoặc khi chúng đƣa cơ động về để bảo vệ cho quân
chiếm đóng rút, tiến hành bao vây chặt chẽ các vị trí áp bức địch phải hàng, tiếp
tục công tác phá hoại và đánh địa lôi trên các đƣờng giao thông nhất là đƣờng
10, đƣờng 39.
2. Nhân lúc tinh thần binh lính địch hoang mang, đẩy mạnh công tác địch
ngụy vận, đòi chồng con nhằm gây một phong trào đào ngũ, binh biến trở về với
hàng ngũ kháng chiến.
3. Đối với ngụy quyền phải nhân lúc chúng đang dao động mà giải tán hết
các ban tề còn lại. Đối với bọn công chức phải tìm cách khuyên họ về với kháng
chiến, ăn năn hối lỗi, hƣởng lƣợng khoan hồng.
4. Phải tìm mọi cách phá âm mƣu vơ vét thanh niên nhất là thanh niên
công giáo của địch sau khi chúng rút.
5. Đối với nhân dân phải có kế hoạch phòng phi, phòng pháo và chống càn
quét cho nhân dân cho chu đáo để khỏi bị thƣơng vong. Phải tăng cƣờng công
192
tác tuyên truyền, giải thích cho nhân dân thấy rõ thất bại của địch vừa qua, âm
mƣu và hành động hiện nay của chúng, gây lòng căm thù giặc và lãnh đạo nhân
dân chống giặc nếu chúng dở trò vơ vét, hãm hiếp, đàn áp, khủng bố.
6. Các cán bộ, cơ sở của ta phải tích cực lãnh đạo nhân dân chống giặc,
nhƣng không đƣợc hoạt động bộc lộ, công khai để cho giặc tàn phá, sát hại.
7. Đối với thị xã, nếu chúng rút thì phải:
a. Ban hành ngay lệnh giới nghiêm để tiện việc thu dọn chiến trƣờng và
bảo đảm an ninh cho nhân dân. Việc thi hành lệnh giới nghiêm phải bảo đảm cho
nhân dân sơ tán tránh phi pháo, nhƣng việc đi lại ra vào của nhân dân phải có sự
hƣớng dẫn, kiểm soát của bộ đội. Phải giao cho đơn vị bộ đội tỉnh chuyên trách
về việc này. Lệnh giới nghiêm không nên kéo dài và có thể tuyên bố bỏ lệnh đó
khi tình thế đã ổn định.
b. Ta không chủ trƣơng giải tán thị xã nhƣng cũng không để tập trung
đông đảo dân cƣ ở đó. Những ngƣời nào có cơ sở kinh tế ở thôn quê thì khuyên
họ nên về nhà làm ăn. Nhà cửa, tài sản của họ thì để họ tự quyết rõ về hoặc bán
đi hoặc đƣợc phá phách, hủy hoại.
c. Tổ chức phòng phi pháo cho nhân dân bằng cách đào hầm hố hoặc ở tản
mát ra nhiều nơi.
d. Tiến hành tổ chức quét những chân tay của địch còn ở lại trong đô thị
hoặc lẩn trốn ra ngoài, nhƣng tránh tình trạng bắt bớ lung tung. Đối với việc này
nếu bắt đƣợc chúng, nguyên tắc là phải giam giữ, đối đãi cẩn thận, sau sẽ xét xử
không đƣợc có những hành động ẩu đả.
Đối với vợ con ngụy quân ở trại con gái thì tập trung về một khu vực ở
hậu phƣơng để tiến hành giáo dục, điều tra và cấp giấy cho họ về làm ăn. Cho họ
đƣợc phép mang tài sản và sinh hoạt hàng ngày khi giáo dục phải do họ tự túc.
Đối với các gia đình ngụy binh khác thì hƣớng dẫn cho họ tản cƣ, sau này
sẽ tiến hành việc giáo dục.

193
Phải đề cao cảnh giác đối với bọn do thám trà trộn trong nhân dân, nhƣng
tránh tình trạng nghi ngờ gây hoang mang trong nhân dân.
e. Phải thu thập những tài liệu của địch nếu chúng còn bỏ lại không đƣợc
hủy hoại.
g. Tiến hành việc tổ chức chính quyền và các đoàn thể của ta trong thị xã.
Nếu đã có rồi thì đƣa ra công khai hoạt động nhƣng trong khi phát triển phải đề
phòng bọn cơ hội chân tay của địch chui vào dò xét và phá rối.
h. Đối với chiến lợi phẩm phải thu dọn mau lẹ và theo đúng chính sách
của Chính phủ, vi phạm chính sách đều phải trừng phạt.
i. Tiến hành việc tổ chức làm ăn buôn bán cho nhân dân, nguyên tắc là
phải phân tán. Không đƣợc tịch thu, trƣng thu hàng hóa đồ ăn thức đựng của
nhân dân, phải công bố cho nhân dân biết là tại thị xã trong thời gian này đƣợc
tiêu cả hai thứ tiền Đông Dƣơng và Việt Nam. Ai cần đổi tiền Đông Dƣơng lấy
tiền Ngân hàng thì có thể đến đổi tại Ngân hàng theo tỷ giá của thị trƣờng bên
cạnh, không đƣợc nâng hạ tỷ giá một cách quá đáng làm thiệt hại cho nhân dân.
Nhƣng kẻ đầu cơ trục lợi đều phải trừng trị kịp thời.
Không đƣợc nhân cơ hội này mà mua rẻ bán đắt đối với nhân dân. Những
tài sản của Việt gian thì giao cho Ủy ban Kháng chiến Hành chính thị xã phải
chịu trách nhiệm quản trị.
k. Phải tổ chức các trƣờng học cho nhân dân, nguyên tắc là phải lƣu động
và phân tán.
i. Khi trật tự đã trở lại, chính quyền tổ chức ra mắt nhân dân và tổ chức
những buổi liên hoan để ổn định tinh thần nhân dân.
m. Tiến hành tổ chức Tuần lễ Vệ sinh để tẩy uế thị xã, để phòng bệnh tật.
Tổ chức cứu tế, y tế để giúp đỡ và chữa cho những nạn nhân bị địch làm
thƣơng vong. Các địa phƣơng cần tìm mọi cách giúp đỡ và gây tinh thần tƣơng
trợ của nhân dân địa phƣơng đối với đồng bào thị xã tản cƣ ra ngoài và phải có
một thái độ đúng mực, tránh gây thành kiến có phƣơng hại đến khối đoàn kết.
194
n. Thủ tiêu những sách báo, tàn tích dấu vết của địch và giải tán những tổ
chức của địch đặt ra.
8. Về mặt tƣ tƣởng:
Tỉnh ủy phải đả thông thật kỹ cho cán bộ và nhân dân nhận rõ âm mƣu của
địch đang rút hẹp địa bàn chiếm đóng, củng cố những khu vực trọng yếu, tập
trung và khuếch trƣơng lực lƣợng cơ động để tiến hành đối phó với hoạt động
của ta cho có hiệu quả hơn.
Phải chống tƣ tƣởng chủ quan khinh địch; làm cho cán bộ và nhân dân
hiểu rõ cuộc đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị ngoại giao của ta nhằm
thực hiện độc lập, thống nhất dân chủ hòa bình thật sự cho dân tộc còn phải khó
khăn, gian khổ.
Phải đề cao tinh thần cảnh giác đối với địch và phải nhận rõ cuộc chiến
tranh giữa ta và địch vẫn còn diễn ra trên địa bàn chung mới rút đi và sẽ có thể
còn gay go, ác liệt hơn nữa.
9. Bộ Tƣ lệnh cần phải đả thông tình hình nhiệm vụ và giao nhiệm vụ cho
các đơn vị 64, 50 và 42 thi hành nghiêm chỉnh chỉ thị trên.
Các ngành các khu phải cử ngƣời về giúp đỡ cho các địa phƣơng về các
vấn đề nói trên.
10. Riêng về kế hoạch tiếp thu thị xã Thái Bình và Hƣng Yên thì chỉ mới
là chuẩn bị để kịp tiến hành trong trƣờng hợp địch rút. Còn các công việc khác
đề ra trên đây đều phải tiến hành.
Tỉnh ủy và Thị ủy Thái Bình và Hƣng Yên đặt kế hoạch thi hành Chỉ thị
này, tăng cƣờng cán bộ chỉ đạo cho thị xã và thƣờng xuyên báo cáo lên Khu ủy.

BAN THƢỜNG VỤ KHU ỦY


TẢ NGẠN

195
VĂN PHÕNG TRUNG ƢƠNG
Số 164 SL/TW
Sao kính gửi: Bác, đồng chí Kiêu, các anh Nam, Tú, Hùng, Thao, Thiên,
Thang.
Ngày tháng 7 năm 1954
VĂN PHÕNG TRUNG ƢƠNG
Đã ký: Hà Chấn
(có đóng dấu VPTW)
_________________________________________________________

Số SL/KLT Sao nguyên văn bản sao tài liệu lƣu trữ trong
Sao 4 bản đánh máy: Lan đối hộp số H10 hồ sơ số 091 của phông tại Kho
chiếu: Ron + Hải ngày 3/11/1975 Lƣu trữ Trung ƣơng

Hà Nội, ngày … tháng 11 năm 197


TRƢỞNG KHO LƢU TRỮ
TRUNG ƢƠNG

Trần Văn Khuông

Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Phông Phủ thủ tướng, hồ sơ 1430, tờ 1-8

196
PHẦN II
CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ
DIỄN BIẾN VÀ KẾT QUẢ

197
Bản đồ địa hình Châu Điện Biên Phủ năm 1954.

Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, phông Đơn vị trực thuộc khu Tự trị Việt Bắc, hồ
sơ 1714, tờ 01
198
Ngày 21/11/1953, theo lệnh của Đế quốc Mỹ, giặc Pháp tập trung quân nhảy dù
chiếm đóng Điện Biên Phủ, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3155

Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các đồng chí Trƣờng Chinh, Phạm Văn Đồng,
Võ Nguyên Giáp quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh L III giai đoạn 1945-1954, SLT 412
199
Các đoàn xe vận tải đã chuẩn bị sẵn sàng, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3103

Những khẩu đại bác 105 ly nặng trên 2 tấn đã đƣợc bộ đội ta kéo qua đèo dốc
gập ghềnh đem đến vị trí chờ ngày nổ súng, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3105
200
Các chiến sĩ cao xạ đang theo dõi máy bay địch, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3106

Đại tƣớng Võ Nguyên Giáp duyệt các đơn vị pháo cao xạ, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3107

201
Những khẩu pháo cỡ lớn đƣợc các đoàn xe kéo vào Điện Biên Phủ, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3108

Những cây gỗ to đƣợc chuyển từ các khu rừng xa về mặt trận để làm hầm
bảo vệ những khẩu đại bác lớn, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3109

202
Những khẩu đại bác lớn đã nhằm thẳng vào đồn địch, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3110

Đại tƣớng Võ Nguyên Giáp đang quan sát tình hình mặt trận Điện Biên Phủ, năm 1954.

203
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3111

Nhân dân các thị trấn ở Thanh Hóa tiễn đƣa các đoàn dân công xe thồ
lên đƣờng phục vụ tiền tuyến, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3181

Ngƣợc dòng sông Mã (Thanh Hóa), từng đoàn thuyền vƣợt qua những ghềnh thác
nguy hiểm chuyển gạo lên phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, năm 1954.

204
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3112

Anh chị em dân công gánh gạo đi trên những con đƣờng dốc đem gạo đến địa điểm
trƣớc ngày hành binh, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3180

Gạo đƣợng chuyển nhanh đến các bến sông đã ấn định,


dân công chuyển gạo lên bờ, năm 1954.
205
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3113

Và gạo đƣợc mang vào các kho để phát cho các đơn vị bộ đội, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3114

Sau ba tháng vây hãm địch, chiều 13/3/1954 theo lệnh của Đại tƣớng Võ Nguyên Giáp,
bộ đội ta bắt đầu tấn công Điện Biên Phủ.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3140
206
Tại một trận tập trung, anh em dân công xe thồ lấy lá ngụy trang để tránh máy bay địch và
chuẩn bị xuất phát, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3179

Các đoàn dân công vùng bị chiếm liên khu 3, liên khu 4 và Việt Bắc
nối tiếp nhau chuyển gạo ra mặt trận, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3142
207
Càng tiến sát vào mặt trận đƣờng đi càng thêm khó khăn nhƣng anh chị em dân công
vẫn hăng hái vƣợt qua những suối sâu, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3143

Vâng lệnh Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ, bộ đội đã rầm rập tiến quân vào Tây Bắc
quyết tâm tiêu diệt địch đem lại đời sống yên vui, hạnh phúc cho nhân dân, năm 1954.

208
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3144

Đoàn xe chuyển súng cao xạ vào mặt trận, năm 1954.


Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3145

209
Một đơn vị phất cờ “Quyết chiến, quyết thắng” đánh chiếm cầu Mƣờng Thanh, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3115

Tại Đồi “C” khu đồi phía Đông là vị trí án ngữ Mƣờng Thanh của quân Pháp bị quân đội
nhân dân Việt Nam tiêu diệt trên một tiểu đoàn, xác chết nằm ngổn ngang, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3116

210
Các chiến sĩ và nhân viên quân y vâng lệnh Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ ngày đêm
săn sóc, cứu chữa những vết thƣơng của các chiến sĩ bộ đội, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3117

Các chị em y tá, hộ lý luôn ở bên cạnh chăm nom thuốc men, cơm cháo cho thƣơng binh,
năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3118

211
Nhân dân các địa phƣơng yêu mến và nhớ ơn bộ đội, đã cử các đại biểu mang quà bánh đến
biếu tặng các anh, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3119

Tên phi công Rôbe (Pháp) bị bộ đội ta bắt sau khi nhẩy dù ra khỏi chiếc máy bay
trúng đạn bốc cháy, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3120

212
Những thùng mìn khói địch vừa thả dù xuống đã bị ta thu, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3121

Vị trí Him Lam, năm 1954


Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3141

213
Vị trí Him Lam bị đại bác của ta bắn bốc cháy mù mịt, quân địch kinh hoàng,
giờ báo tử cho bọn địch ở Điện Biên Phủ, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3122

Bộ đội chuyển thƣơng binh địch ra khỏi các căn hầm của địch
trong chiến dịch Điện Biên Phủ, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3124

214
Khu chứa bom napan của địch bị trọng pháo của ta phá hủy, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3125

Ngay tại mặt trận Điện Biên Phủ, thƣơng binh địch đƣợc săn sóc, cứu chữa chu đáo,
215
năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3126

Các cỡ súng lớn của địch bắn ra rất ác liệt nhƣng bộ đội ta vẫn hăng hái tiến lên, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3127

Sau khi xong nhiệm vụ, các chiến sĩ phấn khởi vui sƣớng đọc những bài thơ ca

216
và các mẩu chuyện chiến đấu, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3128

Đội dân công miền xuôi đang san đá rải trên mặt đƣờng, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3130

217
Ta thu đƣợc hàng nghìn thùng thực phẩm của địch còn nguyên vẹn, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3131

Khẩu đại liên 4 nòng do Mỹ giúp Pháp, bộ đội ta thu đƣợc, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3132

Quân ta xung phong lên chiếm cột cờ một lô cốt cuối cùng của địch ở Đồi C1,
218
năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3133

Diệt xong cứ điểm thứ nhất, quân ta xung phong chiếm cứ điểm thứ hai, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3134

219
Bộ đội ta đang theo giao thông hào tiến sát vào vị trí Him Lam, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3135

Các đơn vị bộ binh đã đào những giao thông hào và theo đó tiến vào sát địch, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3136

Những xe cơ giới và trọng pháo của địch bị phá hủy ở trƣớc sân bay Mƣờng Thanh,
năm 1954.

220
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3137

Vƣợt qua lƣới đạn của địch, các chiến sĩ tải thƣơng dũng cảm đƣa đồng đội
ra ngoài băng bó, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3138

Các chiến sĩ xung kích lao nhanh lên khỏi giao thông hào
truy kích những tên còn sống sót bỏ chạy, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3139
221
Bộ đội cao xạ đã bắn cháy một máy bay vận tải (Đacota) của địch, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3146

Chiếc xe tăng 18 tấn của địch bị quân ta chiếm ngay từ đầu, tất cả địch ở trên xe
đều xin hàng, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3147

222
Trên các bến sông ở Tây Bắc từng đoàn thuyền của dân công miền xuôi và miền ngƣợc tấp
nập đi tiếp tế lƣơng thực cho bộ đội, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3148

Những đội thanh niên xung phong công tác hăng hái thi đua làm con đƣờng mới, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3149

223
Càng ngày con đƣờng mới càng sát địch. Để giữ bí mật, các đội công binh đã dùng sức
ngƣời và xẻng, cuốc, búa để thay mìn phá núi năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3150

Vƣợt qua những xác địch ngổn ngang, các chiến sĩ ta tiến lên chiếm các lô cốt, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3151

224
Xác máy bay của quân đội Pháp bị hạ nằm ngổn ngang khắp mặt trận Điện Biên Phủ,
năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3152

Các tổ xung kích vừa đào vừa tiến sang các lô cốt khác của địch, năm 1954.

225
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3153

Những khẩu trọng pháo 105 ly của địch ta thu đƣợc ở Mƣờng Thanh, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3154

Bộ đội ta từ sân bay tiến vào trung tâm Mƣờng Thanh, năm 1954.
226
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3156

Một thƣơng binh địch hôn tay một đồng chí bộ đội của ta tỏ lòng biết ơn, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3157

Những xe vận tải và máy bay của địch bị phá hủy trên chiến trƣờng Điện Biên Phủ,
năm 1954.

227
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3158

Khu trung tâm Mƣờng Thanh của địch rung lên và bốc cháy vì đạn đại bác của ta, năm
1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3159

228
Các đội súng cao xạ đã chuẩn bị xong trận địa và đang lau chùi súng đạn, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3160

Nhiều chiến sĩ đã bị thƣơng cũng không rời trận địa quyết tâm tiêu diệt địch, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3161

229
Ngoài số trên một tiểu đoàn địch bị tiêu diệt, hơn 200 tên lính đã bị bắt năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3162

Vƣợt qua nhiều khó khăn nguy hiểm các chiến sĩ công binh vừa làm đƣờng
vừa phá bom nổ chậm của địch, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3163

230
Hầm chứa đạn trọng pháo 105 ly còn nguyên vẹn, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3164

Các cánh quân của ta đang tiến đánh vào các cứ điểm địch, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3165

Trong lúc gay go nhất, anh hùng quân đội Nguyễn Quốc Trị luôn ở bên cạnh

231
động viên đồng đội chiến đấu, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3166

Trên trận địa Điện Biên Phủ ngổn ngang những xác máy bay gồm đủ các loại vận tải, thám
thính khu trực, trực thăng và những máy bay Mỹ vừa giúp Pháp loại C119 năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3167

232
Trong khi đại bác ta bắn dồn dập vào đồn bộ đội cũng tiến theo dọc giao thông hào
vào sát vị trí địch, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3168

Những kho đạn của địch bị trúng đạn lửa cháy ngút trời năm 1954.

233
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3169

Ngay cạnh chiếc máy bay này là nơi cuộc chiến đấu diễn ra rất ác liệt giữa ta và địch,
năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3170

234
Khẩu đội DKZ của ta liên tiếp nhả đạn vào đội hình của địch, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3171

Bộ đội tiến đánh cứ điểm thứ ba, cuộc chiến đấu diễn ra rất ác liệt, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3172

235
Địch liều chết xông ra, chống lại. Các cỡ súng ta thi nhau nhả đạn tiêu diệt địch, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3173

Bộ đội ta tiến đánh khu vực để máy bay Dacota vận tải của địch, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3174

236
Các bác sĩ và nhân viên quân y băng bó cho thƣơng binh, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3175

Những dụng cụ về vô tuyến điện của Mỹ giúp cho Pháp ở Điện Biên Phủ, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3176

Lính địch ở sây bay ra hàng, năm 1954.

237
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3177

Trƣớc khi máy bay cất cánh, thƣơng binh địch nắm tay cảm ơn bộ đội dân công và nhân
viên quân y của ta đã chăm nom cứu chữa cho họ tại Điện Biên Phủ, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3178

Bộ đội rƣớc ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh đi tuần hành trên những chiếc xe tăng chiến lợi
phẩm giữa tiếng hoan hô vang dậy của quân dân Điện Biên Phủ năm 1954.
238
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3286

Đại tƣớng Tổng Tƣ lệnh Võ Nguyên Giáp tới thăm Điện Biện Phủ sau khi giải phóng,
năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3287

Đại tƣớng Tổng Tƣ lệnh Võ Nguyên Giáp đọc Nhật lệnh


trong Lễ mừng chiến thắng, năm 1954.

239
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3295

Các binh chủng tề chỉnh tập hợp đông đủ trƣớc kỳ đài Lễ mừng chiến thắng,
năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3296

240
Đại tƣớng làm lễ trao cờ “Quyết chiến, Quyết thắng” cho những đơn vị có nhiều thành tích
nhất trong chiến dịch Điện Biên Phủ, năm 1954.

Nhận đƣợc tin giải phóng Điện Biên Phủ, các chị em dân công miền núi ở Tây Bắc
đã nhảy múa ngay trên mặt đƣờng để mừng chiến thắng, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3309

241
Đồng bào Thái gánh đá rải đƣờng, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3191

Bộ đội giúp dân sửa lại nhà cửa, năm 1954.


242
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3288

Nghề làm vải đƣợc phục hồi và phát triển nhanh chóng.
Đồng bào Thái tự dệt lấy vải để may mặc, năm 1954.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Mục lục ảnh Bộ Ngoại giao, SLT 3303

243
Báo cáo số 813/BC ngày 10/7/1954 của Hội đồng Cung cấp Mặt trận Trung ƣơng
về công tác phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ.

244
HỘI ĐỒNG CUNG CẤP VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÕA
MẶT TRẬN TRUNG ƢƠNG Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Số: 813/BC

BÁO CÁO CÔNG TÁC PHỤC VỤ


CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ

Thƣa các đồng chí!


Tháng 10 năm 1953 chúng ta bắt đầu tổ chức bộ máy cung cấp và đồng thời
nhận đƣợc nhiệm vụ cung cấp cho bộ đội hoạt động thụ động. Tính đến nay là 8
tháng công việc xong. Kết quả đã phục vụ tƣơng đối đầy đủ, bộ đội ta toàn thắng,
đồng bào Tây Bắc đƣợc hoàn toàn thống nhất, địch bị một đòn thất bại lớn lao nhất
từ đầu kháng chiến tới nay, do đó cuộc kháng chiến của nƣớc ta bƣớc vào một giai
đoạn mới.
Đó là vinh dự của chúng ta. Đó là thắng lợi của chúng ta.
Trong 8 tháng phục vụ ấy các khu, các tỉnh và các ngành đều có thành tích,
đều có tiến bộ, đồng thời cũng đều trải qua bao nhiêu khó khăn về chủ quan và
khách quan. Những khó khăn ấy hoặc đã vƣợt qua, hoặc chƣa vƣợt qua đầy đủ,
nhƣng đều là một quá trình đấu tranh gian khổ cả. Đó là cuộc thử thách của mỗi
một cán bộ, mỗi một công tác, mỗi một địa phƣơng, mỗi một ngành. Đó là những
bài học, hay những kinh nghiệm quý báu, là những then chốt làm cho công tác
thắng lợi.
Hội nghị Tổng kết của chúng ta có nhiệm vụ tìm hiểu cho đƣợc những bài
học trong công tác. Qua báo cáo của các địa phƣơng và các ngành, tổng hợp tình
hình công tác phục vụ vừa qua, tôi xin báo cáo tổng kết các vấn đề sau đây:
I. Thành tích công tác phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ.
II. Việc huy động lực lƣợng ở các địa phƣơng.
III. Tổ chức vận chuyển ra tiền tuyến.
IV. Vấn đề dân công và phƣơng tiện.
V. Vấn đề bảo đảm giao thông và thông tin liên lạc.
VI. Vấn đề tài chính.
245
VII. Những khuyết điểm và sai lầm chính trong tƣ tƣởng và lãnh đạo.
I. THÀNH TÍCH CÔNG TÁC PHỤC VỤ CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN
PHỦ
1. Từ Lai Châu chuyển sang Điện Biên Phủ.
Bƣớc vào thu đông năm 1953, Trung ƣơng chủ trƣơng tiêu diệt địch ở Lai
Châu để giải phóng hoàn toàn Tây Bắc, đập tan âm mƣu của giặc Pháp và can
thiệp Mỹ định chiếm lại Tây Bắc lập căn cứ uy hiếp chúng ta và che chở cho chúng
ở Thƣợng Lào. Trong lúc chúng ta đang ráo riết chuẩn bị thi hành ngày 20/11/1953
địch nhảy dù xuống Điện Biên, rút Lai Châu. Âm mƣu mới này càng chứng tỏ địch
rất quỷ quyệt, chúng tích cực giữ kế hoạch chiếm lại Tây Bắc.
Trƣớc tình thế ấy, Trung ƣơng kiên quyết chủ trƣơng tiêu diệt địch, mặc dầu
chúng tăng cƣờng. Trung ƣơng còn nhận định rằng: Chiến dịch này sẽ gặp khó
khăn vì âm mƣu địch rất lớn, vì chiến trƣờng xa, mà ở đó nhân dân mới đƣợc giải
phóng, cơ sở còn non kém. Những trận đánh này sẽ có ý nghĩa vô cùng quan trọng
về quân sự, về chính trị có ảnh hƣởng đến toàn bộ giai đoạn cuộc kháng chiến của
chúng ta.
Để phục vụ bộ đội, công tác cung cấp lúc này phải hoạt động trong một
chiến trƣờng rất là rộng lớn. Chính nơi chiến trƣờng là nói nhiều lúa gạo nhất tỉnh
Lai Châu thì địch chiếm, những vùng xung quanh thì dân chúng thƣa thớt, núi cao
rừng rậm, ít gạo dân đói. Yêu cầu của chiến trƣờng thì nhiều buộc chúng ta phải
huy động từ xa lại từ hạt gạo, con trai, con cá, mắm, muối, lạc, v.v.. Chúng ta đã
phải huy động gạo từ Thanh Hóa, Ninh Bình, Vĩnh Phúc, huy động thực phẩm từ
Bắc Giang, Thanh Hóa, huy động trâu bò từ Lạng Sơn, Nghệ An. Tính ra phải
chuyên chở trên những con đƣờng dài 50 cây số đến 700 cây số. Lúc bắt đầu chuẩn
bị thì lúa còn xanh, Việt Bắc đang thiếu gạo. Khu 3 đang có kế hoạch tiếp tế lên
Phú Thọ, Khu Tây Bắc thì đang còn nhiều làng mới qua nạn đói hoặc đang còn nạn
đói. Về thực phẩm khô thì lúc ấy cũng không phải mua, do lạc khan mà cá cũng
khan. Về thịt thì trong chiến dịch trƣớc đã huy động những nơi gần, nhất là vùng
Sơn La và Yên Bái tiện đƣờng thì cung cấp? Về rau xanh thì đƣơng mùa, nhƣng

246
không vận chuyển đƣợc, còn ở tại chỗ thì chƣa có kế hoạch trồng và sau này thì
muốn không trồng đƣợc.
Do là tình hình và hoàn cảnh lúc ấy, xem thế chúng ta có thể thấy công tác
cung cấp sẽ gặp phải nhiều khó khăn.
2. Chuẩn bị tổ chức và cán bộ.
Nhận đƣợc nhiệm vụ, Hội đồng lo xếp đặt tổ chức và bố trí cán bộ. Ở Trung
ƣơng quan niệm rằng: việc huy động thì phải do các ngành, quân, dân, chính đảng
ở địa phƣơng làm, và do đó có thể đủ khả năng làm tròn nhiệm vụ. Do quan niệm
nhƣ thế nên ỷ lại vào địa phƣơng, khoán trắng cho địa phƣơng, chỉ bố trí một số ít
cán bộ để kiểm tra truyền đạt, không nghĩ gì đến việc thƣờng xuyên lãnh đạo chặt
chẽ các khu, các tỉnh. Ngoài ra thì lo tổ chức bộ phận trên tuyến. Tuy rằng trƣớc
khi lên tuyến đã tập trung tất cả cán bộ của Hội đồng, đã tổ chức ra các ngành tiền
phƣơng, nhƣng xét ra còn rất yếu, rất thiếu cán bộ có nghiệp vụ, nhất là thiếu tổ
chức, cán bộ và lực lƣợng vận tài là một lực lƣợng chủ yếu trên tuyến. Ở các địa
phƣơng Khu và tỉnh thì bộ máy cũng rất đơn giản, số cán bộ vừa ít vừa thiếu chất
lƣợng, bộ máy chỉ đủ theo dõi công việc bình thƣờng hàng ngày, còn ngoài ra đều
trông cậy vào việc trƣng tập cả.
Trƣớc khi đi công tác các cán bộ đều đƣợc học tập mục đích, ý nghĩa chiến
dịch để chuẩn bị tƣ tƣởng, có học tập tài liệu kinh nghiệm của chiến dịch trƣớc,
nhƣng vì đó số chƣa đi phục vụ lần nào cho nên hoang mang, rất khó hấp thu đƣợc
những kinh nghiệm thực tế, chỉ mới nhận thức đƣợc trên mặt lý luận. Số cán bộ
này chỉ mới là số ít, sau này trƣng tập số đông ở các đội phát động quần chúng, cải
cách ruộng đất và các trƣờng học lên, không đƣợc học tập thì tƣ tƣởng, tác phong
càng phức tạp.
Về tổ chức Đảng thì chƣa đƣợc quy định hẳn hoi, sinh hoạt các chi bộ lỏng
lẻo, lãnh đạo của Đảng thƣờng do cán bộ phụ trách làm cả. Trên các tuyến vận tải,
trên các đƣờng đảm bảo giao thông có nhiều lực lƣợng của các địa phƣơng tới, sự
lãnh đạo của Đảng không đƣợc tập hợp thống nhất, mạnh mẽ.
Tình hình tổ chức và cán bộ khó khăn nhƣ thế rất khó làm nổi công tác lớn
lao, nhƣng chủ yếu nhờ có chỉnh huấn, nhờ có kinh nghiệm qua phát động, nên tƣ
247
tƣởng phục vụ của anh em cán bộ rất tốt, rất tích cực, rất cố gắng đã vƣợt qua đƣợc
nhiều khó khăn sau đó cũng học tập dần dần trong nhiệm vụ.
3. Tổng hợp kết quả và thành tích công tác phục vụ”
Kể từ lúc hành quân đến lúc hội quân, chia làm nhiều đợt kế hoạch cung cấp.
Qua các đợt kế hoạch ấy, có lần làm đủ, có lần vƣợt mức, có lần thiếu hụt, đến nay
thống kê lại cũng chƣa đƣợc chính xác.
a. Yêu cầu và thực hiện nhiệm vụ:
Yêu cầu tổng hợp theo Điều chỉnh Thực hiện
kế hoạch TCCC
Gạo 17.125 T 14.124 T 12.110 T
Thịt 905 - 707 - 570 -
Thức ăn khô 790 - 595 - 512 -
Đƣờng 78 - 48 - 61 -
Muối 359 - 293 - 259 -
Dân công 27.655 ngƣời - 25.155 ngƣời
Xe đạp 3.000 xe 2.724 xe
Chú thích: Số nhu cầu trên só với con số thực hiện hơn nhiều vì để thu mua
thực phẩm và tổ chức vận chuyển những khối lƣợng gạo và thực phẩm lớn nhƣ
vậy, chúng ta đã phải chi tiêu một tiền rất lớn.
c. Khối lƣợng tiền và gạo tiêu cho công tác cung cấp của Hội đồng Cung cấp
Mặt trận các cấp:
Tiền (1) Gạo (2)
Tuyến Trung ƣơng 1.245.617.556 dNH 914 T
Việt Bắc 1.129.525.527 - 1.182 -
Tây Bắc 400.926.361 - 416 -
Khu 3 318.860.186 - 418 -
Thanh Hóa 1.289.680.235 - 1.542 -
Tổng cộng 4.384.609.867 dNH 5.472 T

248
(1) Số tiền này là số tiền đã cấp phát cho các địa phƣơng, chƣa thanh toán
xong thực chi, nhƣng số tiền cấp phát này so với thực chi cũng không chênh lệch
nhau nhiều.
(2) Số gạo này nằm trong khối lƣợng gạo huy động tận gốc trong bản thống
kê trên trong số này yêu cầu tháng 11 năm 1953 đến tháng 2 năm 1954 đã tính gạo
hồi mà chƣa phải thực hiện và nhu cầu tháng 5 đã thực hiện do sau khi ta đại thắng
Điện Biên thì đã cắt vì tính sang kế hoạch mới.
Trên đây là những con số đã cung cấp cho bộ đội ngoài tiền tuyến. Thực
hiện đƣợc nhiệm vụ trên chúng ta đã huy động sức ngƣời sức của đảo lộn hơn
nhiều:
B. Số huy động tận gốc của các địa phƣơng:
Khu Việt Bắc Khu 3 Khu 3 và Thanh Hóa Tổng
Tây mậu dịch cộng
Bắc
Gạo 7.310 T 5.229 T 1.464 T 9.052 T 24.086 T
Muối 389 - 454 - 64 - 1.700 con 907 -
Thức ăn 64 - 51 - 640 - 918
Đƣờng 42-5 2-2 18 - 62-7
Muối 266 T
Những con số trên đây thật vĩ đại, chẳng những địch phải khiếp sợ, mà
chúng ta cũng phải ngạc nhiên. Nói nói lên sức vĩ đại của nhân dân ta, nóa làm cho
chúng ta càng thêm tin tƣởng cách mạng có sức mạnh vô địch. Đồng thời nó cũng
chứng tỏ công tác cung cấp là một yếu tố quan trọng trong cuộc chiến đấu. Đồng
chí Tổng Tƣ lệnh đã chỉ thị cho chúng ta “Công tác cung cấp là một trong những
yếu tố quyết định thắng lợi”, chúng ta càng nhận thức đƣợc tinh thần và nhiệm vụ
công tác cung cấp từ nay về sau một cách thấm thía, rõ ràng hơn.
4. Thành tích của các Khu, các tỉnh, các ngành, các chiến sĩ.
Nói chung các khu, các tỉnh, các ngành đều có thành tích, mà thành tích rất
nhiều rất mới từ trƣớc đến nay chƣa có. Đây mới chỉ tóm tắt chung.

249
Về mặt huy động: Tây Bắc đã làm tròn nhiệm vụ và vƣợt mức về gạo, chiếm
½ tổng số yêu cầu của bộ đội. Đó là một thành tích lớn nhất, nhờ gạo của Tây Bắc
mà bảo đảm kế hoạch tƣơng đối chắc chắn, nhờ gạo của Tây Bắc mà đỡ tốn bao
nhiêu nhân tài, vật lực của các khu khác.
Bảng tổng huy động của Tây Bắc:
- Gạo: 7.143 T.
- Thịt: 389 –
- Rau: chƣa thống kê đƣợc ƣớc lƣợng từ 700 T đến 800 T.
- Dân công: 31.818 dân công ngắn hạn gồm 1.296.078 nhật công làm cầu
đƣờng kho lán.
Việt Bắc thì từ mấy năm nay đã đóng góp nhiều nhất cho chiến dịch, đã
quen huy động kỳ này đã giữ phần chủ yếu về huy động dân công đi hỏa tuyến, đã
chuẩn bị chọn lọc chu đáo. Đến lúc phải huy động đợt 2 cấp tốc trong 3 ngày cũng
đã làm đƣợc đầy đủ. Có hai thành tích mới trong kỳ này là huy động xe đạp và
thức ăn khô. Theo khả năng của Việt Bắc chỉ có độ 2.000 xe và thức ăn khô thì rất
hiếm, thế mà lần này đã huy động xe đạp đƣợc gấp 3, thức ăn khô cũng gấp 2, gấp
3.
Bảng tổng hợp huy động của Việt Bắc:
- Gạo: 4.660 T.
- Thức ăn khô: 177 –
- Thịt: 394 –
- Đƣờng: 42 –
- Xe đạp: 8.065 xe.
- Dân công: 36.519 ngƣời.
Khu 3 khả năng tuy ít, kỳ này đã tích cực phục vụ đã biết vận động vay của
nhân dân và đã có thành tích trong việc chấn chỉnh tổ chức vận tải, nâng cao đƣợc
lƣu lƣợng trƣớc khia chỉ đƣợc 10, 12 tấn một ngày nay đã lên 30, 40 tấn. Khu 3 đã
giữ phần chủ yếu về muối:
Bảng tổng hợp huy động của Khu 3:
- Gạo: 1.485 T.
250
- Thức ăn khô: 51 –
- Thịt: 33 –
- Muối: 126 –
- Đƣờng: 2 –
- Xe đạp: 1.712 xe.
- Dân công: 6.400 ngƣời.
Thanh Hóa xƣa nay vẫn là kho dự trữ lớn nhất để phục vụ chiến dịch. Trong
lần này nhờ có các khu khác gánh vác nên chỉ còn giữ phần chủ yếu về cung cấp
thức ăn khô. Về gạo, tuy không phải là số lớn nhất, nhƣng số 4.000 T gạo cua
Thanh Hóa về sau thật có ý nghĩa đặc biệt. Nhờ có gạo Thanh Hóa lên kịp nên đã
cứu vãn đƣợc những lúc hết gạo gay go nhất.
Bảng tổng hợp huy động của Thanh Hóa:
- Gạo: 3.994 và 367 T cho cầu đƣờng.
- Thức ăn khô: 320 –
- Thịt: 18 –
- Đƣờng: 18 –
- Muối: 16 –
- Dân công: 186.714 ngƣời.
- Xe đạp: 11.214 (kể cả 1.400 của Nghệ An).
Về vận chuyển và các ngành công tác chúng ta đã thu đƣợc những thành tích
sau đây:
a. Vận tải:
1.486.734 T/km + 56.000 T/km = 1.542.734 T/km (chỉ kê trung tuyến của
Hội đồng Trung ƣơng).
Đã huy động và sử dụng các loại phƣơng tiện và một số lớn công sau đây
trong việc vận tải.
Bảng tổng hợp đôn đốc và phƣơng tiện sử dụng trên tuyến Trung ƣơng và
Khu:
- Dân công huy động: 253.592 dân công trụ sở giao TCCC còn sử dụng
228.427.
251
- Xe đạp huy động: 20.991 xe trừ số giao TCCC còn 18.267 chiếc.
- Thanh niên xung phong sử dụng: 2.822; chủ lực: 1.722.
- Ô tô: 180 (kể cả 41 xe quân sự và xe của các khu sử dụng ở các tuyến
dƣới).
- Xe đạp: 155.
- Xe trâu bò: 581.
- Ngựa thồ: 914.
- Thuyền:
+ Việt Bắc: 3.130 T bằng thuyền.
+ Tây Bắc: 83 thuyền.
+ Thanh Hóa: 955 thuyền vận và 170 thuyền nan.
Nhật công: 10.900.000 nhật công chƣa kể Việt Bắc chƣa tính thành nhật
công.
Đã có những chiến sĩ và đơn vị thi đua đạt những thành tích rất cao:
+ Chiến sĩ gánh bộ Hoàng Văn Duy vác bao 97 cân sau đó Nguyễn Văn
Thắng trong đợt thi đua phát huy sáng kiến vác dây chuyền vác đƣợc 100 cân.
+ Chiến sĩ xe đạp: Cao Ty (Thanh Hóa) thồ 320 cân, đồng chí Nam tuyến
Trung ƣơng thồ 306 cân.
+ Chiến sĩ lái xe: đồng chí Sỹ đêm đi 3 chuyến vƣợt đèo Lũng Lô 138 cây số
bằng xe gaz, đồng chí Ninh một đêm đi 145 cây số bằng xe sang. Đồng chí Tú
(Thanh Hóa) chở 3T4 đi 180 cây số trong đợt vận chuyển 20 ngày.
+ Đơn vị: C32 và C6 tuy xe xấu nhƣng thƣờng đảm bảo cung độ, tiết kiệm
xeng, dầu, tròn 7 tháng phục vụ đào tạo đƣợc nhiều lái, luôn luôn đảm bảo sửa
chữa xe chạy đủ số.
B, Kho thóc: Đã có thành tích trong việc cân đong bốc vác.
Bốc vác xe ô tô: đột xuất 4 phút một xe đã có các chiến sĩ: Chu Thị Mỳ,
Nguyễn Thị Chất tích cực xung phong lôi cuốn đƣợc đồng đội đẩy năng suất đơn
vị lên cao. Đơn vị cua đồng chí là C dân công Vĩnh Phúc bốc vác 4 phút 1 xe và 1
ngƣời 1 đêm bốc từ 4T2 đến 4T4.
Cấp: Đồng chí Hoàng Văn Tiệm và Trần Ngùy từ 30 đến 50 xe.
252
Đã có thành tích trong việc làm kho lán và bảo quản. Tổng số hao hụt 132
tấn tỷ lệ 1%. Phẩm chất của gạo đại bộ phận đều tốt.
c. Đảm bảo giao thông:
Trên đƣợc rải 450 cây số đã sử dụng 10.270 ngƣời bằng 1.311.000 nhật
công.
Đã chống địch phá hoại và mùa lũ có kết quả. Số phi cơ đánh đƣờng chƣa
thống kê đầy đủ đã tới 1.186 và số bom nổ ngay 8.100 nổ chậm 508, bom dù 10,
bom bƣơm bƣớm 3.100.
Dù đảm bảo đƣờng trong nhiều đợt kế hoạch vận chuyển pháo đi có kết quả,
số ngày tắc 37 ngày và số ngày thông 185 ngày, phần nhiều ngày tắc là những
ngày địch đánh lại gặp mƣa vào đợt hội. Riêng về phà thì thƣờng xuyên thông suốt
bảo đảm vƣợt mức lƣu lƣợng có đêm qua 94 xe hai bên đều đƣợc thƣởng Huân
chƣơng Chiến sĩ.
Đã có những chiến sĩ phá bom nhƣ Đinh Trung Khai, Đỗ Văn Ham nêu
gƣơng anh dũng trƣớc đồng đội xung phong vào phá bom lôi cuốn đồng đội. Đồng
chí Luyên chiến sĩ chồng lấy lặn lội trong rừng chặt rông đánh động viên toàn đội
dƣới trời mƣa và bùn lấy kéo xe chống lầy không biết mệt. Đồng chí Tiến chiến sĩ
phà thƣờng xuyên rà phá bom có nhiều sáng kiến trong việc vớt phà, dìm phà. Về
dân công C Đông Anh tăng năng suất 3.334 công tiêu chuẩn đƣơng lại đƣợc đảm
bảo về kỹ thuật nhƣ ở Ban Coi.
Tất cả đều đƣợc thƣởng Huân chƣơng Chiến sĩ hạng Ba.
d. Y tế: Năm nay đã giải quyết đƣợc tƣơng đối đầy đủ thuốc phòng và đặt
chế độ bồi dƣỡng bệnh nhân nặng nhẹ khác nhau, các bệnh xá ở trung tuyến tƣơng
đối chu đáo.
Số bệnh nhân 3.566, số khỏi 3.512. Đã có các chiến sĩ:
+ Cụ thể là chị Nhài 66 tuổi cấp dƣỡng hộ lý có khi cấp dƣỡng cho 75 bệnh
nhân.
+ Chị Phạm Thị Mùi, v.v…
d. Thực phẩm: Ngành Thực phẩm mới tổ chức còn thiếu nhiều cán bộ cho
nên công tác làm chƣa xuể, nhƣng đã có thành tích trong việc rút kinh nghiệm tổ
253
chức vận chuyển và bảo quản trâu, bò và việc thí nghiệm làm thịt khô đã có kết
quả tránh đƣợc lãng phí lớn.
Từ khi bắt đầu lập tuyến vận chuyển trâu bò đến nay đã giảm bớt đƣợc số
hao hụt. Trƣớc hao hụt 255 này chỉ tới 5% (gần đây là tính theo con, về cần có thể
hao hơn).
e. Công an: Đã liên lạc chặt chẽ với địa phƣơng vận dụng lực lƣợng bộ đội
địa phƣơng và du kích xã bảo vệ các kho tàng bắt biệt kích, cũng vận tải canh gác
chỗ chặn xe ở các đèo bến phà.
Đã bắt đƣợc 5 vụ biệt kích, và 3 máy vô tuyến điện, VTĐ thoại đã lấy mìn
của biệt kích đặt ở kho cây số 13.
g. Bƣu điện: Đặt đƣợc 258 cây số dây điện thoại, đƣờng điện nhanh chóng
và luôn luôn bảo đảm đƣợc dây nói.
Lực lƣợng điện dây ngày rất nhiều: Điện mỗi ngày 150 bức, đàm thoại từ
130 đến 150 lần mà đảm bảo tƣơng đối khá.
h. Dân công: Đã tổ chức đón tiếp chủ đạo tổ chức kiểm tra quân và học tập
kỹ đảm bảo đƣợc chính sách.
i. Tuyên huấn: Đã tổ chức học tập phát động tƣ tƣởng đƣợc dân công xuất
ban báo và những bản bƣớm truyền tin đều đặn, đổi vận công xuống ba cùng vận
động quần chúng làm văn nghệ cũng có kết quả. Lại tổ chức đƣợc một số đơn vị
dân công học tập văn hóa.
k. Thi đua: Kỳ này công tác thi đua thật sôi nổi và liên tục đã đẩy mạnh tăng
năng suất mỗi ngày một cao. Đó là nhờ biết làm công tác chính trị tuyên truyền
giáo dục quần chúng và nhờ áp dụng chính sách làm khoán tăng năng suất. Chúng
ta đã có sáng kiến tổ chức các hội nghị chiến sĩ và đoàn trao đổi kinh nghiệm là
một việc rất tốt. 140 chiến sĩ đƣợc tặng thƣởng Huân chƣơng Chiến sĩ.
Trên đây là số thành tích. Trong thời gian phục vụ vừa qua còn biết bao sáng
kiến chúng ta chƣa thu thập hết, còn biết bao chiến sĩ và cán bộ gƣơng mẫu khác.
5. Thành tích của Khu, các tỉnh, các ngành, các chiến sĩ ấy là một đảm bảo
cho việc hoàn thành nhiệm vụ của chúng ta. Nhƣng vì sao chúng ta có những thành
tích ấy? Vì sao chúng ta hoàn thành nhiệm vụ?
254
Đó là do mấy nguyên nhân sau đây:
1. Trƣớc hết là vì nhân dân rất yêu nƣớc, rất phấn khởi, rất tin tƣởng ở chính
sách và sự lãnh đạo của Đảng, của Chính phủ, của Hồ Chủ tịch, rất yêu mến bộ đội
và rất căm thù địch. Nhiều nơi đã phát động quần chúng giảm tô hoặc cải cách
ruộng đất, các tầng lớp cơ bản của cách mạng đã trỗi dậy, ruông đất đời sống đƣợc
đảm bảo nên rất hăng hái phục vụ. Nhân dân Tây Bắc tuy chƣa đƣợc phát động
nhƣng rất căm thù địch, có nhiều vùng địch đã bắt hết thanh niên vào ngụy binh
khi chúng rút chạy bắt đi theo, để lại cho các gia đình ấy chơ vơ đàn bà và trẻ con,
đồng bào phẫn uất vô cung. Họ mong bộ đội và trông cho chính sách của Đảng và
của Chính phủ đến giải phóng cho họ. Họ rất phấn khởi phục vụ, lực lƣợng nhân
dân thật vĩ đại, khả năng nhân dân là vô cùng tậm, nhƣng lúc khó khăn nhất, chúng
ta thấy bế tắc, nhƣng nhờ biết dựa vào dân đều giải quyết đƣợc. Lần phục vụ này
khu nào cũng đều có bài học ấy cả. Khu Tây Bắc huy động xay, giã và vận chuyển
gạo, Khu Việt Bắc vận động mua thức ăn khô, mua trâu bò. Khu 3 động viên vay
gạo, Khu 4 động viên tổ chức vận chuyển. Trên trung tuyến và hỏa tuyến cũng vậy,
mõi khi biết động viên và phát động quần chúng thì giải quyết đƣợc vận chuyển,
làm đƣờng, phá bom. Chính trong khi động viên quần chúng, quần chúng phát huy
rất nhiều sáng kiến giải quyết các công việc cụ thể nhƣ việc tổ chức vác gạo, bảo
quản trâu bò, thóc gạo, v.v…
2. Nhờ sự lãnh đạo sáng suốt và kiên quyết của Trung ƣơng, của Hồ Chủ
tịch cho nên mỗi lúc gặp khó khăn, nhƣ đợt kế hoạch tháng 4, 5 đã động viên toàn
Đảng, toàn dân ở các khu tiến lên phục vụ chiến dịch, thế là bao nhiêu khó khăn lại
vƣợt qua. Trung ƣơng và Hồ Chủ tịch lại luôn luôn theo dõi công việc cung cấp chỉ
cho chúng ta những khuyết điểm làm cho chúng ta rất tin tƣơng và phấn khởi nhƣ
việ phổ biến kế hoạch 1.200 tấn không hoàn thành. Nhờ việc kiểm điểm đó, chúng
ta mới thấy rõ tính chất công tác cung cấp là phải tranh thủ chủ động, chúng ta mới
thấy rõ tính chất và nhiệm vụ quan trọng phục vụ bộ đội để chiến thắng.
3. Nhờ bộ đội chiến thắng liên tiếp rất anh dũng, nhờ các cán bộ và các
ngành quân sự đã giúp đỡ chúng ta phƣơng tiện kinh nghiệm, và nhất là có sự giúp
đỡ của đồng chí cố vấn, nên đã làm cho chúng ta vừa phấn khởi, vừa có đủ điều
255
kiện, vừa biết cách giải quyết khắc phục mọi khó khăn nhất là trong các đợt kế
hoạch sau tháng 3.
4. Cuối cùng nhờ tinh thần phục vụ vô điều kiện của anh chị em dân công,
thanh niên, chủ lực, xe thồ, xe ô tô và các anh chị em công nhân viên cán bộ các
ngành đã tích cực công tác, chịu đựng gian khổ, vƣợt khó khăn, nên nhiệm vụ
chúng ta đã làm tròn.
Ngoài ra cũng nên nhận thêm rằng: Chúng ta còn có những điều kiện khách
quan tƣơng đối thuận lợi giúp vào. Nhƣ trời khô ráo, đƣờng tốt, sức địch đánh phá
còn yếu, cho nên những khó khăn trở ngại cũng có phần giảm bớt.
Thƣa các đồng chí!
Hôm nay kiểm điểm lại thành tích phục vụ chúng ta thấy lớn lao quá, nhƣng
đó chính là thành tích của nhân dân, của quân đội, của cách mạng, của Đảng, của
chúng ta, những ngƣời cán bộ và đảng viên chỉ thấy mình bé nhỏ, thấy mình còn
khuyết điểm trong công tác nhiều quá. Bởi vì nhƣ cầu tiến, muốn tiến, tiến lên mãi,
cho nên chỉ muốc lúc nào cũng sửa chữa khuyết điểm để tiến cho nhanh.
II. HUY ĐỘNG LỰC LƢỢNG PHỤC VỤ TIỀN TUYẾN
1. Kỳ này yêu cầu rất lớn, phải huy động khắp các khu, tùy theo khả năng và
thời gian và đƣờng xa, gần, Hội đồng Cung cấp Trung ƣơng chủ trƣơng phân phối
nhiệm vụ cho mỗi khu:
- Tây Bắc chủ yếu là gạo và rau xanh.
- Việt Bắc chủ yếu là thịt và dân công.
- Khu 3 chủ yếu là muối.
- Thanh Hóa chủ yếu là thức ăn khô.
Theo Chỉ thị của Trung ƣơng Đảng và Chính phủ cần phải tận lực huy động
tại chỗ để tránh lãng phí và đảm bảo thời gian cung cấp, đồng thời có thời gian
chuẩn bị những nơi xa.
Nhƣng do các địa phƣơng không nắm vững tinh thần huy động nhƣ vậy, nên
không biết trong việc huy động của địa phƣơng mình cái gì là chủ yếu, chƣa thực
hiện đúng tinh thần huy động tại chỗ của Trung ƣơng, chƣa huy động tận lực khả
năng của địa phƣơng, và khi huy động tại chỗ lại không biết chuẩn bị ở những nơi
256
xa để khi cần đến thì đã có sau và để chuyển vận. Khuyết điểm này, Hội đồng
Trung ƣơng và các khu tỉnh đều mắc phải.
2. Về gạo:
Các khu làm rất tích cực đầy đủ. Ở Tây Bắc mặc dầu chƣa tính đƣợc việc
thu thuế nhƣng đã có kế hoạch vận động rất tích cực nhân dân vừa đóng thuế trƣớc
vừa cho vay, cả những đồng bào cấy nƣong không phải nộp thuế cũng tự nguyện
đóng góp, đồng bào Mèo Ta xin Thang chỉ chuyên giống ngô củng cố thu nhặt gạo
để đóng góp. Nhƣng có khuyết điểm lúc đầu là không biết khai thác những thành
phần có khả năng, họ tìm cách trốn tránh lại ngăn cản những thành phần cơ bản
bần cố nông hăng hái cho vay. Đây là bài học chung ở đâu cũng thế, thành phần cơ
bản bao giờ cũng hăng hái, còn thành phần có khả năng thì lại tìm mọi cách để trốn
tránh. Đối với những phần tử ấy chúng ta phải cƣơng quyết, còn đối với những
thành phần cơ bản thì phải luôn luôn xem xét, không để họ kiệt sức. Cũng trong
việc huy động gạo, ở Khu 3 đã biết động viên tạm vay của dân, trong khi ở tỉnh
Ninh Bình kêu hết sạch khả năng. Chỉ trong 5 hôm đồng bào đã tập trung cho vay
đủ số. Trong việc này có sai lầm là một vài nơi đặt vay cả của thƣơng nhân, làm
cho họ phải đi mua. Vì họ mua với giá gạo lên mậu dịch lại lo để gạo ra để giữ giá.
Thật là cái vòng luẩn quẩn. Nhƣng chủ yếu là chỗ đặt vay của ngƣời không gạo là
sai.
Trong vấn đề gạo, chúng ta còn thu đƣợc thắng lợi lớn nữa là vấn đề xay giã
và vận chuyển của Tây Bắc, ở Hòa Bình. Ở những nơi này đồng bào không có cối
xay, nồi giã cho nhanh lại thiếu ngƣời vận chuyển đến chỗ tập trung. Lúc dầu
chúng ta chuẩn bị 1.000 dân công đóng cối và xay đã lên để vận động đồng bào và
coi vấn đề này là vấn đề mấu chốt khó giải quyết. Nhƣng sau nhờ sự vấn đề rộng
rãi, đồng bào đã tự giải quyết rất nhanh, không một chút khó khăn nào cả. Mỗi bản,
mỗi xóm đồng bào tổ chức từng nhóm giúp đỡ, thi đua với nhau, đàn bà trẻ con ai
ai cũng làm gạo cho bộ đội liên miên cả ngày lẫn đêm, khi vận chuyển đến kho
đồng bào dùng đủ mọi cách vận chuyển và giúp nhau vận chuyển, nhiều khó khăn
không kịp.
3. Về thực phẩm:
257
Trƣớc hết chúng ta phải nói rằng vấn đề thực phẩm rất phức tạp gồm nhiều
thứ lại dễ bị hỏng. Số lƣợng tuy ít hơn gạo, nhƣng khó khăn hơn vì khan hiếm, vì
phân tán, vì có gặp ngày mùa mới có. Nhƣng chúng ta vẫn còn tƣ tƣởng coi nhẹ,
thấy không quan trọng bằng gạo, bởi vì anh em chƣa cảm thông đƣợc sự chịu đựng
thiếu thốn của bộ đội ngoài tiền tuyến, chƣa thấy rõ ảnh hƣởng đến sức khỏe của
bộ đội.
Trong việc huy động thì mỗi nơi làm một khác nói chi mậu dịch, nơi thì vận
động nhân dân tập trung tại huyện xã tùy theo hoàn cảnh.
Nhƣng có hai việc đã xảy ra cần rút kinh nghiệm:
1. Khu 3 vào Thanh Hóa mua, trong lúc Thanh Hóa cấm thƣơng nhân cho
mậu dịch thu mua. Bởi vậy sinh ra mua lén lút, giá cao lên, trƣờng hợp do Khu 3
phối hợp với Thanh Hòa để tránh giá đắt.
2. Việt Bắc đặt vấn đề huy động ở các xã. Cuộc vận động có kết quả tốt,
nhƣng cần đề phòng khuynh hƣớng dốc cạn của dân nghèo, mà không triệt để huy
động vào những thành phần có khả năng.
Về phƣơng diện bảo quản, đóng gói nhiều nơi còn sơ sài quá cho nên hao
hụt lãng phí. Nhƣ đƣờng của Việt Bắc đóng dở bị chảy mất 5 tấn, trái lại đƣờng
của Khu 4 đóng thùng thì tốt.
Về phẩm chất, khi mua không lựa chọn kỹ hoặc có tƣ tƣởng cốt cho đủ số,
hoặc có thể có tƣ tƣởng tham ô nên khi đƣa lên tuyến bị hƣ hỏng. Nhƣ mỡ của Việt
Bắc có pha bột, đỗ xanh của Thanh Hóa bị ƣớt, lạc bị mốc, v.v…
Phẩm chất đã xấu, đóng gói bảo quản lại sơ sài, khi vận chuyển lại không
gìn giữ, hoặc để trong kho không xem xét, nên cũng bị hƣ hỏng. Nhƣ cá của Thanh
Hóa bị lên mùi hàng tấn, thịt ƣớp của quân nhu bị thối, v.v…
Tóm lại, vấn đề thực phẩm chúng ta còn coi nhẹ quá về mặt bảo quản, vận
chuyển không chú ý để lãng phí mà bộ đội thì thiếu thốn. Trong suốt chiến dịch
này trừ muối, đƣờng, mắm, kem còn các thứ thực phẩm khác đều bị chậm và
thiếu? Đó là chƣa kể vấn đề giá cả hiện nay rất rắc rối khi mua giá đắt giao lại cho
bộ dội không đủ tiêu chuẩn để ăn mà thực tế cũng không có đủ.

258
Đối với anh chị em cán bộ và dân công trên tuyến vận chuyển chƣa đạt vấn
đề tiếp tế thực phẩm để cải thiện sinh hoạt cho họ là một vấn đề quan trọng để bảo
đảm công tác. Có một số thực phẩm tiếp tế đƣợc nhƣ đƣờng, vừng, đỗ lạc, thì vì
giá vận chuyển xa nên thành đắt giá anh em kêu ca.
Từ nay về sau chúng ta cần tích cực giải quyết vấn đề thực phẩm cho bộ đội
mà cả cán bộ công nhân viên và dân công nữa.
Phải đặc biệt chú trọng phẩm chất bảo quản giá cả và có phƣơng pháp huy
động để khỏi ảnh hƣởng tăng giá ở thị trƣờng.
4. Về rau xanh:
Vấn đề rau xanh gay go nhất. Yêu cầu thì to lớn là 2.000 tấn mà phải tập
trung ở một vùng hẹp thì không giải quyết nổi, nếu vận tải nơi khác đến thì càng
khó khăn hơn. Kết quả dân chúng cũng đã tích cực đem đến các trạm bán cho quân
nhu khá nhiều, phần khác thì bộ đội cũng tự tìm chuối rừng, rau rừng giải quyết
đƣợc một phần lớn.
Nhƣng kiểm điểm lại chúng ta thấy còn những khuyết điểm sau đây:
1. Không có kế hoạch trồng rau. khu Tây Bắc có vận động dân trồng và bán
những không tích cực giải quyết hạt giống.
Sau có hạt gống của quân nhu và Hội đồng Cung cấp Trugn ƣơng phát cho
dân thì gặp kỳ nắng rau bị hỏng.
2. Dân chúng tích cực đêm từ trên núi xuống bán, nhƣng tổ chức việc thu
mua và trả tiền, bảo quản không chu đáo, nhiều ngƣời bó rau thối làm cho nhân
dân kêu ca phàn nàn.
3. Trên tuyến vận tải và bộ đội cũng không có kế hoạch tự trồng hoàn toàn,
trồng cây vào mua của đồng bào, đáng lý ra trồng có thể đƣợc.
Có những khuyết điểm trên trƣớc hết là vì không có tƣ tƣởng chuẩn bị lâu
dài, tƣởng là ta sẽ đánh mau rút mau. Hai là công tác biến chuyển luôn, có tƣ tƣởng
tạm bợ. Ba là vì ngại khó, nghĩ rằng lúc ấy quá mùa muốn trồng không đƣợc, mùa
nóng sắp đến thì khó kiếm đất rau, v….

259
Chúng ta cần khắc phục những tƣ tƣởng ấy để có tinh thần chuẩn bị lâu dài,
và trƣớc hết là phải chuẩn bị kế hoạch cho dân từ trƣớc, không nên để đến nơi mới
lo thì không kịp.
5. Về thịt:
Nhiệm vụ kỳ này không những nặng nề phải cung cấp một số khá lớn gồm
570 tấn, ƣớc lƣợng 2 vạn rƣỡi mà còn vì thời gian thì gấp, đƣờng đi thì xa nữa.
Kiểm điểm việc phân phối cho các khu chƣa thật sát. Đáng lẽ Sơn La và Lai
Châu còn có khả năng nhiều hơn cần tích cực huy động nữa thì bớt đƣợc các khu
khác đỡ hao hụt, lãng phí.
Việc huy động cũng mỗi nơi một khác, Khu Tây Bắc tập trung lại bình quân,
định giá quân khu trả tiền ngay. Thanh Hóa thu mua tại chỗ. Khu 3 thu mua của
các lái ở các cửa xuất khẩu. Việt Bắc rút kinh nghiệm bình quân lúc đầu cao, sau
chỉ mua qua (mặc cả theo giá thƣờng mua bán của dân, không bình cần định giá).
Chúng ta còn một số khuyết điểm sau đây:
1. Binh quân cao quá và thấp quá. Ở Lạng Sơn đợt đầu bình quân cao quá, ở
Tuyên Quang nhiều chỗ bình quân thấp quá, thiệt cho dân, hiện còn 25 ngƣời chƣa
chịu nhận tiền.
2. Khu 3 mua ở cửa khẩu nhiều trâu bò da dày và đã đi đƣờng lâu, lúc vận
chuyển càng hao hụt. Ở Khu 3 đợt đầu đặt vấn đề động viên thu mua của dân,
nhƣng vì không vận động ký, lại có những thƣơng nhân mạnh khoe đặt giá cao hơn
nên không thu mua đƣợc.
3. Thanh Hóa, Hội đồng Trung ƣơng không nắm vững đƣợc khả năng, giao
nhiệm vụ mỡ cho Thanh Hóa nên địa phƣơng đã giết lợn lấy mỡ, thịt bị đông phải
vận động nhân dân tiêu thụ mà cũng không hết.
4. Về giá cả, giá thịt bị nông dân vì một phần bị thƣơng nhân ăn lại, một
phần nữa các anh em đi thu mua đã nâng giá lên để mua cho dễ.
Nhƣng khuyết điểm nhất hiện nay là vấn đề tổ chức vận chuyển và bảo
quản. Trong đợt đầu Việt Bắc và Thanh Hóa hao hụt đến 60%. Sau đó Việt Bắc đã
kịp thời sửa chữa nên những đợt sau tiến bộ rõ rệt, vừa không hao, vừa có trâu bò
béo tốt cho bộ đội.
260
Tóm lại việc huy động thực phẩm kỹ này chúng ta rút ra đƣợc những bài
học:
1. Không nắm vững khả năng, chƣa tin ở sức mạnh của dân, còn nhiều tƣ
ƣởng ngại khó, chƣa tỏ rõ đầy đủ ý thức phục vụ bộ đội đảy đủ sức khỏe đánh giặc.
2. Thiếu một kế hoạch lâu dài, điều tra, chuẩn bị dựa vào quân chúng cơ bản.
3. Về phƣơng pháp và chính sách huy động còn chƣa giữ vững lập trƣờng
khai thác vào tầng lớp nào? Làm sao lợi cho kháng chiến, lợi cho dân, không hại
đến sản xuất, không hại đến sinh hoạt của quần chúng giá cả thị trƣờng.
4. Về giá cả cần có một chính sách giá cả rõ rệt. Nếu định giá một cách quan
liêu thì sẽ xảy ra tình trạng nơi cao quá, nơi thấp quá, không những ảnh hƣởng đến
giá cả thị trƣờng mà lại còn ảnh hƣởng đến đời sống của bộ đội, cán bộ công nhân
viên và dân công nữa.
5. Cần phải tịch cực chống lãng phí, phát hiện trừ bỏ tham ô, bảo đảm chất
lƣợng thực phẩm.
6. Nói chung là phải đề cao tinh thần phục vụ bộ đội, thƣơng yêu quần
chúng, không làm thiệt hại cho quần chúng.
Vấn đề chủ yếu là phải đảm bảo đƣợc yêu cầu của bộ đội và phải mỗi ngày
một nhiều, một tốt hơn. Lại phải kết hợp với chính sách kinh tế tài chính và bồi
dƣỡng quần chúng. Muốn thế chính là chống tham ô, lãng phí, càng ngày càng hạ
giá thành khi vận chuyển đến tay bộ đội.
III. VẤN ĐỀ TỔ CHƢC VẬN CHUYỂN.
Vì đƣờng vận chuyển từ hậu phƣơng ra đến hỏa tuyết rất xa, chúng ta chủ
trƣơng phân chia ra làm nhiều đoạn:
- Tiến tuyến do Tổng Cục Cung cấp phụ trách.
- Trung tuyến do Hội đồng Cung cấp Trung ƣơng phụ trách.
- Hậu tuyến do các khu và tỉnh phụ trách.
Trên mỗi tuyến tùy theo tình hình đƣờng xã và khả năng phƣơng tiện mà bố
trí. Nhƣng nguyên tắc là: Cơ giới và xe cộ lên trên, dân công ở dƣới. Việc tổ chức
lãnh đạo vận chuyển cũng tùy theo mỗi loại phƣơng tiện mà sắp xếp, do đó kinh
nghiệm cũng mối thứ mỗi khác.
261
Ở đây tôi chỉ nêu lên mấy vấn đề chung:
1. Phải tranh thủ chủ động
Bất kỳ khi đặt kế hoạch vận tải nào cũng phải nắm vững phƣơng châm “linh
hoạt, cơ động”, bởi vì yêu cầu ngoài tiền tuyến không bao giờ tính nhƣ chúng ta đã
tính, mà phải thấy nó luôn luôn đòi hỏi, thay đổi, chẳng những vì chúng ta tính
toán không hết mà thay đổi, mà còn do tình hình địch thay đổi, hoặc do những điều
kiện khác mà thay đổi nữa. Một khi yêu cầu ngoài hỏa tuyến thay đổi thì phải đụng
chạm đến trung tuyến và đến cả hậu phƣơng. Nhƣ kỳ này, lúc hoàn thành kế hoạch
tháng 3, đang làm kế hoạch tháng 4 thì lập tức phải làm thêm một kế hoạch dự
phòng. Nếu không có chuẩn bị trƣớc nhất định sẽ thành bị động. Vì vậy, khi đặt kế
hoạch phải có tinh thần và tính toàn giành lấy chủ động. Nghĩa là bao giờ cũng đặt
mức để hoàn thành sớm hơn hạn định. Nếu khi thay đổi thì còn có thì giờ để xoay
chuyển.
Phải nắm vững khối lƣợng và thời gian của kế hoạch nhất là phải nắm vững
lực lƣợng hàng ngày của từng trạm, từng đơn vị và dân công. Trận tuyến vận tải ví
nhƣ một dòng nƣớc chảy, cách bố trí lực lƣợng giữa đoàn này với đoàn khác đều
quan hệ với nhau, và đã định rõ nhiệm vụ phải vận chuyển bao nhiêu khối lƣợng.
Nếu các đoàn ấy không đảm bảo cho lực lƣợng đều hòa thì ảnh hƣởng tai hại cho
các đoàn khác. Kỳ vừa qua giữa trung tuyến và tiền tuyến, giữa trung tuyến và hậu
tuyến, giữa các trạm trong tuyến nữa, đều có hiện tƣợng khi nhiều, khi ít. Đó là vì
chúng ta chƣa nhận rõ sự quan trọng của việc bảo đảm lƣu lƣợng hàng ngày, tác
phong quan liêu, bố trí kế hoạch không sát, có tình trạng cục bộ bản vị làm nhỡ kế
hoạch của các trạm khác. Do đó nhiều lúc phải điều chỉnh lực lƣợng, và từ chỗ
điều chỉnh đi đến chỗ rối loạn, mất hẳn sự ổn định bình thƣờng, khi ấy rất khó đảm
bảo kế hoạch, mà còn sinh ra nhiều tình trạng lãng phí.
Phải nắm vững tình hình từ gốc đến ngọn: Trong lần vừa qua có khuyết
điểm là tuyến nào biết tuyến ấy, giữa tiền, trung và hậu tuyến không có sự thông
suốt. Vì thế rất hại cho mỗi khi tình hình cần phải thay đổi, cần phải điều chỉnh
không ăn khớp với nhau. Tuyến nọ kéo tuyến kia bị động.
2. Về tổ chức.
262
Phải xây dựng trạm thống nhất cho mạnh mẽ: Trên trung tuyến và hậu tuyến
kỳ vừa qua xây dựng trạm thống nhất, nhƣng sự lãnh đạo của trạm chƣa mạnh mẽ,
chƣa toàn diện, các ngành trong trạm còn lủng củng, vấp váp, nhiều khi sinh ra
chậm chạp lãng phí trong công tác.
Chúng ta phải nhận rằng, nội dung công tác trên tuyến chính là công tác vận
tải, các ngành công tác khác đều phải phục vụ cho vận tải. Nhƣng kỳ vừa qua chƣa
làm đƣợc nhƣ thế, các ngành công tác khác có tính cách giống nhƣ tách rời vận tải.
Phải tăng cƣờng và củng cố trạm đầu dây: Về việc lãnh đạo cần phải nắm
vững các trạm đầu và trạm cuối để điều khiển mới đảm bảo đƣợc kế hoạch. Trạm
đầu và trạm cuối dễ điều khiển hơn đảm bảo đƣợc kế hoạch. Những trạm ấy lúc
đầu chúng ta chƣa nhận đƣợc rõ hết tính chất quan trọng của nó, nhƣng về sau
càng ngày càng thấy nó quan trọng. Các đồng chí phụ trách các trạm ấy phải liên
hệ với tuyến khác, nên phải hiểu rõ toàn bộ kế hoạch của tuyến vận chuyển, đồng
thời cũn phải cố tìm hiểu tuyến kia để dễ dàng giúp đỡ lẫn nhau.
Tổ chức cung đỗ, địa điểm kho tàng: Đối với bất kỳ phƣơng tiện gì việc bố
trí cung đỗ và địa điểm kho tàng đều rất quan trọng. Bố trí đúng thì có ít phƣơng
tiện mà vận chuyển đƣợc nhiều. Bố trí không đúng thì kế hoạch không đảm bảo dù
phƣơng tiện có thừa thãi. Lại còn sinh ra lãng phí vô kể. Nhƣng việc bố trí kho làm
không có lối vào cho xe ô tô, xe thồ, dân công bỏ cung xảy ra không phải ít, vấn đề
này nhiều cán bộ còn coi thƣờng chƣa nhận thấy rõ tầm quan trọng của nó, nhƣ
trạm 100, trạm 20, ở trung tuyến, trái lại trạm 35 thì kho lán rất tốt.
Về vận chuyển còn rất nhiều vấn đề có liên quan khác nữa nhƣ bốc vác,
thông tin liên lạc, đảm bảo giao thông, v.v…ở đây kho bàn hết đƣợc.
Bây giờ tôi nói đến một số khuyết điểm của chúng ta:
1. Có những đợt kế hoạch hoàn thành hay vƣợt mức không kiểm điểm để rút
lấy ƣu điểm làm bài học lại sinh chủ quan. Có những đợt kế hoạch thiếu hụt, không
kiểm thảo nghiêm khắc về chủ quan, thƣờng cho là khách quan khó khăn hoặc gặp
những lúc gay go thì không cố tìm mọi cách khắc phục, thƣờng ỷ lại vào phƣơng
tiện, chƣa biết rằng phải khắc phục những cái bất hợp lý lãng phí để nâng cao hiệu
suất.
263
2. Để lãng phí nhiều công, xe nhiều thì giờ chết, bị bắn thiệt hại ngƣời, xe
đạp, kho không chuẩn bị đủ phƣơng tiện, cân, cót, bao bì để sinh ra lãng phí nhiều
mặt khác.
3. Chƣa tin quần chúng, nhƣ việc điều động xe ô tổ chạy dƣờng khó, xe đạp
thồ đi đƣờng dốc, nhất là trong dịp vận động dân công ở lại.
Công tác vận chuyển còn rất nhiều khuyết điểm và ít kinh nghiệm nhƣng nói
chung tuyến nào cũng đã có thành tích lớn nhất trong việc vận động thi đua tăng
năng suất, thi đua đảm bảo cung độ, chính nhờ đó mà nhiệm vụ vận chuyển của
chúng ta đã hoàn thành. Công lao đó cũng là một phần cán bộ phụ trách rất tận tụy.
IV. VẤN ĐỀ DÂN CÔNG VÀ PHƢƠNG TIỆN VẬN TẢI
1. Việc huy động dân công đi phục vụ tiền tuyến kỳ này tƣơng đối chu đáo.
Việc chuẩn bị ở nhiều địa phƣơng đƣợc kỹ càng, chuẩn bị về vật chất đƣợc học tập
và bình nghị xếp loại sau nên ít sai chính sách. Quần chúng sau phát động rất có ý
thức, coi việc đi phục vụ tiền tuyến là một vinh dự, một nhiệm vụ cao quý. Có
quần chúng cho rằng: đó là cuộc chiến đấu không thể cho những phần tử tình nghi
phức tạp lên đó đƣợc mà phải là việc của quần chúng cơ bản.
Tuy vậy cũng vẫn còn lẻ tẻ những tình trạng huy động sai chính sách nhƣ
huy động thƣơng binh, phụ nữ có mang, ở một vài xã đã chủ trƣơng huy động
nhiều địa phƣơng và một số con cháu cƣờng hào gian ác đi phục vụ để bắt nó “lao
động” cho nên sau này trong những lúc gay go, loại này đã gây ra nhiều khó khăn
trở ngại. Ngoài ra một số địa phƣơng cũng còn khuyết điểm là cử cán bộ đi phụ
trách dân công không thận trọng, không chú ý đến chất lƣợng cán bộ, cán bộ không
tƣơng xứng với nhiệm vụ. Một số cán bộ bị thi hành kỷ luật ở hậu phƣơng hoặc là
cán bộ kém nên lên đến tuyến không làm đẩy đủ nhiệm vụ, cũng ảnh hƣởng một
phần đến công tác lãnh đạo.
Trƣớc khi đi ở địa phƣơng kỳ này nhiều nơi Tổ Nông Hội đã tổ chức giúp
đỡ gia đình ngƣời dân công thực sự nhƣ Thanh Hóa đã tổ chức cấy lúa, làm cỏ, cày
ải, v.v… 368.000 công và 139.000 công trâu bò. Phú Thọ tổ chức làm giúp cho
3.990 gia đình đƣợc 132.681 công.

264
Những ngƣời đi lại đƣợc giúp đỡ thuốc men, quần áo, khăn mặt, v.v… Sau
này, khi phục vụ, các xã, các tỉnh còn cử các đoàn đại biểu lên thăm hỏi và báo cáo
tin tức gia đình, tin tức hậu phƣơng làm cho anh chị em dân công rất an tâm.
Ở nhà, ngoài việc giúp đỡ sản xuất, các gia đình còn đƣợc giúp đỡ các công
việc khác trong gia định nhƣ chăm nom thuốc men, con cái, v.v…
Đó là những kinh nghiệm rất hay, còn nhiều nơi chƣa biết áp dụng mong
rằng từ nay sẽ cố gắng hơn.
2. Việc huy động dân công xe thồ kỳ này nhiều hơn mọi lần. Trong việc huy
động ở Thanh Hóa có sáng kiến lãnh đạo trong việc phát triển, từ việc khuyến
khích anh em trung nông mua xe đến việc tổ chức mua, tiếp tế phụ tùng để chống
bọn đầu cơ trục lợi, lại tổ chức tập đi xe đạp, cho nên đã phát triển đƣợc nhiều. Ở
Việt Bắc và Khu 3, trong lúc gấp rút đã dùng lối mệnh lệnh, tổ chức bắt ngang
đƣờng làm hại đến việc buôn bán của anh em mà đến nơi phục vụ còn rất nhiều
thắc mặc, dân công, cán bộ không lãnh đạo nổi.
Về vận chuyển thì lâu nay xe đạp thồ giữ vai trò khá quan trọng, nhiều đoàn
tổ chức chặt chẽ, nhất là các Công đoàn ở các thị trấn. Xe đạp đã chiếm hơn 1/3
tổng số trọng lƣợng vận chuyển. Trong tình hình hiện tại và hoàn cảnh của nƣớc ta,
từ nay cần chú trọng đặc biệt đến lực lƣợng vận tải này, tăng cƣờng tổ chức lãnh
đạo.
3. Công tác dân công còn rất nhiều thiếu sót. Thƣờng thƣờng anh chị em dễ
thắc mắc nhiều nhất về:
+ Thời gian phục vụ.
+ Sản xuất ở hậu phƣơng.
+ Lo ốm đau.
+ Không đƣợc hiểu rõ nhiệm vụ công tác.
Về thời gian phục vụ thì khi ở xa đi nói một khác, lên đến tỉnh, đến công
trƣờng lại nói một khác. Từ nay về sau cần sửa cho thống nhất nhất là đối với đồng
bào thiểu số càng phải nói cho đúng.

265
Về sản xuất ở hậu phƣơng phải hiểu rõ việc làm ăn có mùa cho nên các cơ
quan chính quyền và đoàn thể địa phƣơng phải lo tổ chức làm đổi công để giúp đỡ
những anh em đi phục vụ để cho họ an tâm công tác.
Về ốm đau phần chính là cán bộ không quan tâm đến sinh hoạt của quần
chúng, không chú ý bảo vệ sức khỏe của quần chúng, phần khác do thiếu thuốc.
Trong hoàn cảnh hiện tại chúng ta cần phải và có thể khắc phục đƣợc nhiều cách
để bảo vệ sức khỏe cho anh em: làm trại cho sạch, tiếp phẩm cho đủ, cải tiến cấp
dƣỡng, sửa đổi điều kiện làm việc,v.v… Mặt khác cần phải tăng thêm thuốc men
và củng cố bộ máy y tế, nếu có thể thì nên tăng thêm thù lao đồng thời nâng cao
tiêu chuẩn công tác.
Về nhiệm vụ công tác cần phải định cho rõ, phải làm cho ngƣời dân công
hiểu rõ công việc của ngƣời ta làm để làm gì? Quan hệ thế nào? Làm bao nhiêu?
Bao giờ xong? Có hiểu rõ nhƣ thế ngƣời dân công mới tích cực, mới tìm tòi sáng
kiến. Bây giờ không nên chỉ nói chung chung rằng: Công tác phục vụ rất quan
trọng, rất khẩn trƣơng để bộ đội đánh giặc để kháng chiến chóng thành công. Cần
phải đi vào cụ thể hơn.
Thí dụ: Trạm này có nhiệm vụ vận chuyển trong một kế hoạch bao nhiêu
tấn? Phải hoàn thành thời gian nào? Để phục vụ cho Trạm trên và đón tiếp trạm
dƣới, nên không hoàn thành thì sinh ra những tai hại gì? Trong trạm này nhiệm vụ
của đơn vị thế nào? Đơn vị hoàn thành thì lợi thế nào? Không hoàn thành thì hại
thế nào?, v.v…
Về bồi dƣỡng vật chất:
Nhiều nơi chƣa thực sự chú trọng việ tiếp phẩm cho dân công. Có chỗ ăn
chỗ ở thì chỉ mới có một số trạm săn sóc, nhiều nơi còn bẩn thỉu, dột nát. Trên
tuyến Thanh Hóa số dân công đông nhất thì việc săn sóc đến sinh hoạt của anh em
cũng rất sơ sài và sinh ra ốm đau rất nhiều đã có lúc tỷ lệ ốm trong một đơn vị lên
đến 70, 80% rất ảnh hƣởng đến năng suất công tác. Đó là một khuyết điểm rất lớn
chứng tỏ thiếu quan điểm quần chúng, không săn sóc đến quần chúng, không bảo
vệ sức khỏe của quần chúng, thì làm sao mà có thể tăng năng suất, làm sao mà
hoàn thành nhiệm vụ đƣợc.
266
Về giáo dục tinh thần:
Kỳ này có ƣu điểm là luôn luôn động viên vàa đề cao việc học tập chính
sách, học tập mục đích ý nghĩa chiến dịch làm cho ngƣời dân công hiểu rõ mục
đích công tác của mình. Nhƣng còn về mặt văn nghệ và đẩy mạnh văn hóa là
nguyện vọng tha thiết của quần chúng, trong việc động viên đã biết luôn luôn khen
thƣởng đề cao chiến sĩ, phổ biến kinh nghiệm, nhƣng một đôi nơi đối pháp với
những phần tử phá hoại chƣa đúng. Nhƣ việc “dâu” ở T35, việc bắt giam ở T60.
Có chỗ làm sai chính sách, bắt trói dân công định trốn. Nhƣng nhiều nơi đã theo
đúng đƣờng lối kiên trì và vận động quần chúng (khắp các trạm ở trung tuyến vận
động dân công ở lại hai lần). Ở Thanh Hóa có ƣu điểm thực hiện vinh công kháng
chiến, anh chị em rất phấn khởi.
Đối với những dân công bị tai nạn:
Đối với những anh em này, chúng ta có nhiều khuyết điểm, nhƣ ở T20 vì bị
phi cơ oanh tạc, một số anh em bị hi sinh, xe đạp hƣ hỏng nhiều, trạm đã không
chú ý chôn cất ngay, cô vận không có, không nghiên cứu đề nghị bồi thƣờng ngay
cho những ngƣời có xe dạp bị hƣ hỏng làm cho anh em hoang mang, thắc mắc, ảnh
hƣởng khá nhiều đến những anh em dân công khác. Khuyết điểm này ở một vài
khu, tỉnh cũng mắc phải. Còn đối với một số anh em dân công bị tàn tật trong khi
đi phục vụ này trở về hậu phƣơng không săn sóc, giúp đỡ đến nơi đến chốn, đã có
tình trạng có một chị dân công bị tàn tật từ chiến dịch Hòa Bình đến nay cũng
không đƣợc giúp đỡ, đề nghị địa phƣơng thì hết lên đến xã lại lên đến huyện vẫn
không giải quyết đƣợc (Phú Thọ).
4. Việc vận động ở lại, vận động thi đua tăng năng suất, thƣởng năng suất và
việc làm khoán:
Những việc trên đây đều dính líu với nhau rất chặt chẽ. Do kinh nghiệm ở
trung tuyến, trong lúc dân công hết hạn phục vụ đòi về, chúng ta chủ trƣơng vận
động anh chị em ở lại. Khi anh em đã quyết tâm ở lại, chúng ta giao khoán nhiệm
vụ cho từng đơn vị. Anh chị em rất phấn khởi, tích cực đề xuất sáng kiến làm cho
chóng xong, vì thế tăng năng suất, đƣợc cải thiện sinh hoạt. Phong trào thi đua
càng ngày càng lan rộng và mạnh mẽ.
267
+ Năng suất đột xuất xe thồ từ 70, 80 lên đến 300 tấn.
+ Năng suất đột xuất dân công bổ tu 15, 20 cân đến 90 cân.
+ Năng suất đột xuất bốc vác ô tô từ 20, 30 phút xuống 4 phút.
Sau đó phong trào còn tiến lên bƣớc nữa: Nâng cao năng suất bình quân toàn
đơn vị:
+ Xe đạp từ 100 cân lên 140 cân.
+ Dân công từ 25 cân lên 63 cân.
+ Xe ô tô thì trọng lƣợng có hạn nên đã chuyển sang thi đua bảo đảm cung
độ, tiết kiệm xăng dầu.
Ở đây chúng ta rút ra mấy bài học: Muốn thi đua tăng năng suất thì phải tổ
chức làm khoán, phải thƣởng năng suất nhanh chóng, phải khen thƣởng kịp thời,
và phổ biến kinh nghiệm nhanh chóng.
Chúng ta đã vận động đƣợc phong trào thi đua rộng rãi, sôi nổi, đó là vì đã
biết vận động liên tục, từng bƣớc, lúc đầu vận động đột xuất rồi lấy thành tích đột
xuất mà kéo theo cả phong trào, sang bƣớc thứ hai tiến lên nâng cao năng suất toàn
đơn vị.
Tóm lại tuy có khuyết điểm, nhƣng công tác dân công đã có nhiều tiến bộ
lớn, chúng ta cần tích cực sửa chữa khuyết điểm và giải quyết các việc sau đây:
1. Chăm nom hơn nữa về sinh hoạt của dân công nhất là vấn đề thuốc men,
tiếp phẩm.
2. Đặt chế độ làm khoán tăng năng suất.
3. Bồi thƣờng ngay cho những ngƣời có phƣơng tiện bị phi cơ oanh tạc.
Giúp đỡ gia định những ngƣời đã hi sinh hay bị tàn tật.
4. Phổ biến chế độ tính công kháng chiến.
V. VẤN ĐỀ ĐẢM BẢO GIAO THÔNG VÀ THÔNG TIN LIÊN LẠC.
Đây là vấn đề rất quan trọng trên những tuyến vận tải cơ giới và dài. Hai
công tác này đã có nhiều thành tích và ƣu điểm trong báo cáo “Tuyến Hội đổng”
đã nói tôi chỉ tóm tắt mấy nhận xét sau đây:
1. Công tác đảm bảo giao thông rất nặng và có ý nghĩa quyết định cho việc
vận chuyển cơ giới. Trong kỳ vừa qua, cán bộ đảm bảo giao thông tuy có tích cực
268
nhƣng chƣa thấy hết sự khó khăn trong công tác, thiếu tinh thần chuẩn bị công tác
lâu dài (có tƣ tƣởng chỉ đảm bảo hết mùa khô là chiến dịch cũng xong, không
chuẩn bị đảm bảo mùa xuân), tác phong còn quan liêu, đại khái. Vì vậy không nắm
đƣợc khói lƣợng công tác, thiếu kế hoạch cụ thể chuẩn bị cho từng quãng.
2. Không nắm đƣợc quy luật đánh phá của địch, không đi sâu tính toán bố trí
công tác cụ thể mỗi khi địch phá hoại, cho nên có tình trạng ngƣời thừa mà thiếu
dụng cụ, có nơi thiếu ngƣời làm, có nơi thừa ngƣời mà không có chỗ làm, có nơi
làm xong đất chỉ còn mắc một cây gỗ (Lũng Lô) mà đành chịu tắc một đêm, v.v…
nghĩa là việc bố trí công tác thiếu kế hoạch, cho nên tốn ngƣời mà nhiệm vụ không
đạt. Cũng do không nắm đƣợc quy luật phá hoại của địch, không phán đoán đƣợc
đúng kế hoạch phá hoại của địch nên có nhiều trọng điểm không chuẩn bị lực
lƣợng đối phó (Ngã ba Cổ Noi, Ngòi Lao) khi địch tập trung phá hoại đã bị tắc mất
nhiều đêm ảnh hƣởng đến kế hoạch vận chuyển. Ngoài ra, việc điều lực lƣợng từ
nơi này đến nơi khác cũng còn lúng túng, chậm chạp.
3. Khi mới bắt đầu kế hoạch làm đƣợc một số công tác có kết quả sinh ra
chủ quan, tự mãn, không thƣờng xuyên kiểm tra lực lƣợng, giáo dục cán bộ và đội
viên chủ lực, dân công, trong các đội chủ lực có nhiều cán bộ phạm sai lầm, khuyết
điểm không kịp thời sửa chữa.
4. Có khuyết điểm để tắc đƣờng (4 đêm) làm ảnh hƣởng đến kế hoạch vận
chuyển thiếu hụt (tháng 4 năm 1954) đến khi hội quân còn bị tắc nhiều hơn. Nhƣng
trong các bến phà, trong việc phá bom, chữa cầu (Đƣờng 41) làm đƣờng tránh có
nhiều cố gắng và kết quả.
5. Về tổ chức bảo đảm giao thông cần liên hệ chặt chẽ với vận tải phục vụ
vận tải, và để vận tải có thể chuyển cho giúp, thế mà lúc đầu có khuyết điểm tách
rời nhau, sau này có sửa chữa.
6. Vấn đề thông tin liên lạc bằng điện thoại lâu nay chứng tỏ anh em cố gắng
đến tột bậc, nhƣng khả năng vấn đề bị hạn chế không thể thỏa mãn nhu cầu. Sau
này cần tăng cƣờng hơn nữa. Về vô tuyến điện còn khuyết điểm nhầm lẫn nhiều,
gây ra rất nhiều khó khăn cho việc truyền đạt kế hoạch và báo cáo. Nói chung là
phải tìm mọi cách để giải quyết thông tin liên lạc thì mới chỉ đạo nhanh chóng
269
đƣợc. Trên tuyến của Hội đồng Trung ƣơng vấn đề thông tin liên lạc chƣa đƣợc đặt
thành vấn đề quan trọng. Khu 3 ngành Bƣu điện chƣa nhận thức rõ trách nhiêm của
mình trong công tác phục vụ tiền tuyến.
Hai công tác này rồi đây cũng phải cải tiến hơn nữa.
VI. VẤN ĐỀ TÀI CHÍNH
1. Nói đến tài chính hiện nay là một khó khăn rất lớn, đối với địa phƣơng
cũng nhƣ đối với Trung ƣơng. Đối với địa phƣơng phải thực hiện nhiệm vụ cấp tốc
mà tiền thì chậm, phải lấy món tiền này chi vào món khác hoặc lấy vào tiền thuế,
tiền mậu dịch là một hiện tƣợng lộn xộn, cả Trung ƣơng và địa phƣơng đều phải
tìm cách khắc phục, chúng ta sẽ bàn sau. Trong vấn đề tài chính lại còn các chế độ
và các tiêu chuẩn chƣa đƣợc quy định thống nhất nhƣ bồi dƣỡng cán bộ, thù lao
dân công, giúp đỡ gia đình dân công khi bị tàn tật hay hi sinh, chế độ lập dự toán
quyết toán, v.v…. và còn nhiều khoản chi chƣa đƣợc quy định mà vẫn phải chi
chúng ta cũng phải nghiên cứu, sau giải quyết dần dần. Ở đây tôi chỉ nêu lên hai
việc lớn:
1. Thanh toán nhanh chóng:
Chiến dịch vừa qua, khối tiền chi tiêu trong chiến dịch rất lớn gần 5.000
triệu đồng cần đƣợc thanh toán dứt khoát không để dây dƣa, kéo dài, rồi chiến dịch
này qua chiến dịch khác sau này gỡ không ra. Thanh toán nghĩa là kiểm tra tổng
kết công tác không thể coi việc ấy là của mấy cán bộ kế toán chuyên môn mà phải
nhận thức nó là công tác lãnh đạo vì thanh toán là phải tìm ra những việc chi tiêu
dùng, những thứ mua của dân có trả tiền đến tay dân không, và cuối cùng có những
chỗ nào tham ô lãng phí.
2. Vấn đề chống tham ô lãng phí:
Bản thân công tác cung cấp là tiền, là gạo, là thực phẩm, là việc mua bán,
nghĩa là công tác để xảy ra tham ô lãng phí nhất. Mà tham ô lãng phí thƣờng to
lớn. Những việc lãng phí hàn mấy chục vạn công, hƣ hỏng hàng tấn hàng đều đã
có, trong bệnh xé những hiện tƣợng tham ô tiền gạo thuốc men cũng đã có, trong
việc mua trâu bò cũng có cán bộ xã tự tƣ tự lợi. Thậm chí ngay trong công tác cung
cấp của các đơn vị dân công, chủ lực, thanh niên trong các cơ quan cũng đểu đã có
270
xảy ra tham ô và lãng phí. Chính vì tham ô lãng phí mà hao tốn sức dân, thiệt cho
bộ đội, hao hụt công quỹ quốc gia. Và cũng chính vì tham ô, lãng phí mà không
hoàn thành nhiệm vụ. Nếu lấy tổng số huy động nhân, tài, vật lực lâu nay mà thí dụ
là tham ô, lãng phí mất 10% thì chúng ta đã thấy những con số ghê ngƣời:
+ Tiền: 480.000.000 đồng.
+ Gạo: 2.400 tấn.
Mà việc ấy có thể có làm.
Bởi vậy, chúng ta muốn hoàn thành nhiệm vụ phải đặc biệt chú trọng chống
tham ô, lãng phí. Chống tham ô lãng phí sẽ nâng cao đƣợc mọi mặt công tác, giáo
dục đƣợc cán bộ, hoàn thành đƣợc nhiệm vụ một cách nhẹ nhàng.
Trong chiến dịch vừa qua, trên tuyến của Trung ƣơng và của các địa
phƣơng, vấn đề chống tham ô lãng phí chƣa đƣợc đặt ra là một việc quan trọng,
chƣa giáo dục đề cao đƣợc phong trào chống tham ô lãng phí trong cán bộ công
nhân viên và các anh chị em dân công. Đó là một khuyết điểm lần sau cần cố gắng
sửa chữa.
VII. NHỮNG KHUYẾT ĐIỂM VÀ SAI LẦM CHÍNH VỀ TƢ TƢỞNG
LÃNH ĐẠO VÀ TỔ CHỨC
1. Kiểm điểm những khuyết điểm trong toàn bộ công tác cung cấp phục vụ
chiến dịch vừa qua chủ yếu là gốc ở sai lầm chƣa thấm nhuần đầy đủ phƣơng châm
của Trung ƣơng “đánh chắc, ăn chắc, có thể kéo dài” cho nên việc gì cũng chỉ thấy
trƣớc mắt không chuẩn bị lâu dài trong kế hoạch vận chuyển không có kế hoạch dự
phòng. Đứng về công tác cung cấp mà xét thì tƣ tƣởng đó càng nguy hiểm, vì công
tác cung cấp vốn có tính chất bị động, nếu không chuẩn bị lâu dài, một khi tình
hình thay đổi thì sẽ bị động mà đi đến chỗ thất bại. Từ việc chuẩn bị lƣơng thức
đến việc tổ chức vận chuyển, đảm bảo giao thông, cả trung tuyến và hậu phƣơng
đều phạm phải khuyết điểm đó. Do đó đến lúc tình hình đòi hỏi gấp rút mới vội
vàng động viên toàn lực ra giải quyết vì thế sinh ra lãng phí vô kể.
2. Không nhận rõ tính chất và nhiệm vụ công tác cung cấp ngay bay rất quan
trọng. Nó là một trong những yếu tố quyết định thắng lợi của bộ đội. Chúng ta
muốn thắng lợi phải đảm bảo sức khỏe cho bộ đội liên tục chiến đấu, phải làm cho
271
việc cung cấp lƣơng thực mỗi ngày một nhiều, mỗi ngày một tốt. Thời gian vừa
qua mỗi khi có yêu cầu của bộ đội, gặp không chỉ bàn cách rút chứ không bàn cách
khắc phục, có tính chất mặc cả, cò kẻ bớt một thêm hai. Trong ý thức hình nhƣ chỉ
cốt cho đủ số là đã mãn nguyện, cho nên bất kể phẩm chất xấu tốt, bất kể giá đắt
hay rẻ, bất kể lãng phí hao hụt thế nào đều ít quan tâm đến.
Chúng ta phải nhớ rằng: bộ đội càng lớn mạnh, nhu cầu càng phải tăng.
Ngày nay không thể chỉ cung cấp gạo muối nhƣ mấy năm trƣớc, mà phải có thực
sự, có thịt, có rau nữa.
3. Chƣa nhận rõ công tác cung cấp gắn liền với chiến trƣờng, nó thay đổi
theo tình hình thị trƣờng, nó có tính chất chiến đấu, linh hoạt cơ động. Vì vậy cho
nên đặt kế hoạch và lãnh đạo kế hoạch vận chuyển một cách qua loa, không chuẩn
bị để giữ lấy chủ động mỗi khi thay đổi. Trong thời gian vừa qua mỗi khi tiền
tuyến thay đổi là trung tuyến kêu ca, trung tuyến thay đổi là hậu tuyến kêu ca, rồi
dùng dằng qua lại, thiếu khẩn trƣơng. Bởi chƣa nhận thức rõ nhƣ thế cho nên việc
điều lực lƣợng rất chậm chễ làm cho lực lƣợng không điều hòa càng rối thêm việc
điều động.
4. Đối với một số việc đã làm đƣợc, một vài kế hoạch đã hoàn thành sinh ra
chủ quan tự mãn, cho ràng việc gì cũng để và coi là đã có kinh nghiệm. Tƣ tƣởng
đó đã biểu lộ ra trong những khi đặt kế hoạch vận tải và trong các công tác đảm
bảo giao thông, vận động dân công, v.v… Cũng vì có tƣ tƣởng này nên tỏ ra coi
thƣờng những kinh nghiệm của anh em bên quân sự, chủ quan trong việc bố trí các
công tác và sau này đã khuyết điểm rất lớn trong việc đảm bảo giao thông và kế
hoạch vận chuyển 1.200 tấn.
5. Về lãnh đạo của Hội đồng Trung ƣơng rất là phân tán. Mỗi ngƣời một nơi
thiếu hẳn tinh thần tập thể kết quả là cá nhân quyết định cho nên công việc rất
thiếu sót, về cuối có tập trung nhƣng cũng không phân công rành mạch, làm việc
gia đình chủ nghĩa, thiếu đấu tranh xây dựng.
Đối với các khu thì khoán trắng, thiếu sự lãnh đạo thông suốt trên dƣới,
không năm đƣợc tình hình, có cán bộ kiểm tra truyền đạt, nhƣng không giao nhiệm
vụ cho các khu, các tỉnh đƣợc rõ ràng, không tích cực giải quyết những khó khăn
272
về tài chính, chế độ cho nhanh chóng. Cũng không đôn đốc các ngành giúp đỡ các
khu các tỉnh cho đến nơi đến chốn. Nhƣ việc ốm đau ở tuyến Thanh Hóa.
Đối với các ngành thì khoán trắng cũng có, mà bao biện cũng có nhƣ dân
công, tuyên huấn, bƣu điện ít đƣợc giúp đỡ. Trái lại vận tải thì có khi Hội đồng lại
bao biện làm cho vận tải bị động và khi phát huy đƣợc các ngành phục vụ công tác
vận tải.
Đối với cán bộ thì thiếu hẳn việc giáo dục động viên thƣờng xuyên ít săn sóc
bồi dƣỡng, đối với cán bộ cũ cho là đã có kinh nghiệm, với cán bộ mới thì thiếu sự
theo dõi giúp đỡ nên cán bộ lúng túng trong công tác.
Hội đồng lại kiêm cả Ban Cán sự Đảng nhƣng không đề cao đƣợc sự lãnh
đạo của Đảng, giữa Đảng và Hội động không có giới hạn phân minh.
Đối với quần chúng thì ít chú ý lãnh đạo săn sóc đến sinh hoạt của họ, nhƣ
tình hình tuyến Thanh Hóa thiếu sót nhƣ vậy, ốm đau nhƣ vậy mà không giải quyết
kịp thời.
6. Về mặt tổ chức thì bộ máy còn yếu ớt. Nói là Hội đồng nhƣng ở Trung
ƣơng cũng nhƣ ở Khu tỉnh chỉ có một vài cán bộ làm việc. Các ngành chuyên môn
chỉ có một số ít cán bộ đủ làm việc bình thƣờng ở hậu phƣơng. Khi lên tuyến hay
lúc huy động thì phải trƣng tập cán bộ các nơi. Tổ chức vận tải là một tổ chức quan
trọng nhất thì chƣa đƣợc xây dựng và chƣa có lực lƣợng. Nhiều ngành chƣa đƣợc
tổ chức dứt khoát. Thông tin tuyên truyền, công an hoặc đã tổ chức nhƣng chƣa có
nhiệm vụ rõ ràng.
7. Về phần tƣ tƣởng và ý thức của cán bộ, nói chung cả các ngành cao cấp
đều còn chƣa nhận thật rõ tiến độ công tác vinh quang của mình, còn có một số cán
bộ cho là công tác phức tạp quả cả, mắm muối. Đa số cán bộ thì tích cực tận tụy
phục vụ vô điều kiện, nhƣng vẫn còn một số có tƣ tƣởng ngại khó ngại khổ, hầu
hết chƣa thật tin tƣởng ở quần chúng, còn lơ là với sinh hoạt của quần chúng, một
số còn phạm sai lầm về chính sách trong việc huy động.
Thƣa các đồng chí!

273
Tình hình trƣớc mắt biến động rất mau, bộ đội ngày càng phát triển, nhu cầu
tiền tuyến ngày một nhiều. Tính chất chiến tranh ngày một rộng rãi, linh hoạt và
liên tục.
Tình hình ấy buộc chúng ta phải gấp rút chỉnh đốn công tác cung cấp.
Chúng ta phải làm gì?
Những khó khăn về lƣơng thực, về phƣơng tiện vận chuyển, về đƣờng xá, về
tài chính, về tổ chức và lề lối làm việc là những khó khăn thực sự nhƣng không
phải là tuyệt đối.
Tôi cho rằng khó khăn nhất của chúng ta ngày nay là làm thế nào để xây
dựng đƣợc một tƣ tƣởng thống suốt nhất trí trong cán bộ: nhận rõ công tác cung
cấp, đề cao tinh thần phục vụ bộ đội.
Nắm vững đƣợc nhƣ thế mới đề cao đƣợc tinh thần trách nhiệm. Có tinh
thần trách nhiệm mới có lòng dũng cảm: đấu tranh khắc phục mọi khó khăn, mọi
khuyết điểm.
Chiến dịch vừa qua, chúng ta toàn thắng, trong có phần công lao của anh chị
em cán bộ làm công tác cung cấp. Chúng ta tiến bộ và trƣởng thành trong công tác,
chúng ta lại nhận rõ đƣợc những khuyết điểm và nhƣợc diểm còn lại trong công tác
của chúng ta, đem phơi bày trong dịp tổng kết này, đó là một thắng lợi nữa.
Đảng và Chính phủ đã tin cậy chúng ta giao cho chúng ta trách nhiệm nuôi
nấng bộ đội, chúng ta cố gắng sao cho tròn trách nhiệm vinh quang ấy.

Ngày 10 tháng 7 năm 1954


HỘI ĐỒNG CUNG CẤP
MẶT TRẬN TRUNG ƢƠNG
(Đã đóng dấu)

Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, phông Phủ Thủ tướng, hồ sơ 1692, tờ 01-26.

274
Báo cáo số 42/BC ngày 12/7/1954 của Ty Giao thông công chính Yên Bái
về tổng kết bảo đảm giao thông trong nhiệm vụ phục vụ chiến dịch Điện Biên
Phủ lịch sử từ tháng 11 năm 1953 đến ngày 6/7/1954

275
TY GIAO THÔNG CÔNG CHÍNH VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÕA
YÊN BÁI Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Số: 42/BC

BÁO CÁO TỔNG KẾT BẢO ĐẢM GIAO THÔNG CỦA TY YÊN BÁI
TRONG NHIỆM VỤ PHỤC VỤ CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ LỊCH SỬ
TỪ THÁNG 11 NĂM 1953 ĐẾN NGÀY 6/7/1954.

Báo cáo gồm:


I. Vinh dự nhận nhiệm vụ của trên giao cho.
II. Nhận định tình hình cầu, đƣờng, phà và những khó khăn thuận lợi của
công tác bảo đảm giao thông trong phạm vi tỉnh Yên Bái phụ trách để bảo đảm kế
hoạch.
III. Kiểm điểm sự lãnh đạo về tổ chức thực hiện nhiệm vụ nêu lên thành
công và thất bại.
IV. Những nguyên nhân thành công và thất bại trong việc thực hiện nhiệm
vụ.
V. Kết luận chung của báo cáo.
I. MỘT VINH DỰ CỦA ĐẢNG VÀ CHÍNH PHỦ TRAO CHO ĐỂ
PHỤC VỤ CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ VÀ TIÊU DIỆT SINH LỰC
ĐỊCH, THỰC HIỆN MỘT TRONG HAI NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM NĂM
1954.
Tháng 9 năm 1954, chúng ta đã hoàn thành nhiệm vụ khai thông đƣờng 13
thuộc phạm vi tỉnh Yên Bái phụ trách. trong quá trình kiến thiết, chúng ta đã hoàn
thành nhiệm vụ đúng hạn định của trên, và chúng ta đã đƣợc vinh dự nhận lá cờ
(Thi đua khá nhất) của Hồ Chủ tịch trao cho trong Hội nghị Cầu, đƣờng, phà toàn
quốc về thành tích lãnh đạo thi đua tăng năng suất trên toàn bộ công trƣờng và góp
một phần trong việc xây dựng tiêu chuẩn tăng năng suất mới của Bộ và Nha.
Sau Hội nghị tổng kết của tỉnh, Ty đã đang dự Hội nghị tổng kết của Công
trƣờng 13 (ngày 27/10/1954) thì nhiệm vụ vinh dự đã tới với chúng ta (nhiệm vụ
bảo đảm giao thông tuyệt đối) để phục vụ cho chiến dịch vĩ đại và lịch sử Điện

276
Biên Phủ. Mà qua 8 tháng đấu tranh vừa qua quân và dân ta dƣới sự lãnh đạo của
Hồ Chủ tịch, Đảng và Chính phủ, dƣới sự lãnh đạo tài tình của Đại tƣớng và Bộ
Tổng Tƣ lệnh đã tiêu diệt, bắt sống, bắt ra hàng 16.000 quân tinh nhuệ của địch,
giải phóng hoàn toàn cho nhân dân Tây Bắc thoát khỏi ách đế quốc, giải phóng
cánh đồng phì nhiêu Điện Biên Phủ thực hiện một trong hai nhiệm vụ của Đảng và
Chính phủ đề ra năm 1954 là (tiêu diệt sinh lực địch và cải cách ruộng đất).
Với tính chất quan trọng của chiến dịch, để đáp ứng những nhu cầu cho tiền
tuyến, một tuyến chạy dài từ 5 đến 60 km với một phƣơng châm mới nhất từ trƣớc
trong các chiến dịch là chuyển vận cơ giới là chủ yếu, lại tiến hành bảo đảm trong
một hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, đƣờng mới làm xong phần khai thông chƣa hoàn
thiện, nhiều đoạn đƣờng, cũ, xấu, hẹp, núi cao, vực sâu, đèo dốc nhiều, thời tiết
không thuận lợi, bắt đầu vào mùa mƣa cộng thêm địch ác liệt đánh phá đƣờng giao
thông có trọng tâm, trọng điểm. Với nhiệm vụ quan trọng đó, với tinh chất chiến
đấu gay go gian khổ của công tác, bảo đảm giao thông mới, bảo đảm cho cung cấp
hoàn thành đƣợc nhiệm vụ nên Đại tƣớng đã nói “ Cung cấp là quyết định 90% cho
thắng lợi”.
Trƣớc ý nghĩa và tầm quan trọng trong đó chúng ta vinh dự nhận nhiệm vụ
của trên nhƣ sau:
1. Thời kỳ phục vụ cho chuẩn bị:
- Bảo đảm tốc độ cho xe chạy trung bình một đêm 70 km.
- Vƣợt sóng của bến phà Âu Lâu phải bảo đảm tối thiểu 30 chuyến.
- Hết sức giảm ngay tắc giao thông không đƣợc quá 6 đến 1 tháng.
2. Tới khi tiếng súng anh dũng của quân dân ta nổ bắn vào tập đoàn cứ điểm
Điện Biên Phủ, thu đƣợc những thắng lợi đầu tiên và tiếp diễn gay go ác liệt. Để
chuẩn bị cho đợt tổng công kích cộng thêm thời gian do địch đánh phá dữ dội câu
kết với kẻ địch mƣa lũ, phá hoại yêu cầu cung cấp đã đặt tới một mức cao hơn
nghĩa là;
- 6 ngày tỷ lệ tắc của một tháng này nhất định phải bảo đảm hoàn toàn 30
đêm không đƣợc tắc đêm nào, phải dùng mọi giải pháp để chống mƣa lũ, chống

277
địch phá hoại không một đêm nào đƣợc tắc, nếu địch đánh phá phải lập lại giao
thông trƣớc 12 giờ.
- Về tốc độ phải nâng lên một tiêu chuẩn cao hơn là phải bảo đảm một đêm
xe chạy từ 80 km đến 100 km.
- Bến phà Âu Lâu phải bảo đảm từ 60 đến 70 chuyến cả khi địch đánh phá
hay nƣớc sông Hồng, mƣa lũ. Nhiệm vụ bảo đảm giao thông gay go và quyết liệt,
không những phải bảo đảm cho kế hoạch vận chuyển tổng công kích mà liên tục
bảo đảm cho kế hoạch khi kết thúc chiến dịch là kế hoạch hồi quân của toàn bộ lực
lƣợng lực lƣợng đƣợc an toàn không sứt mẻ.
Tóm lại nhiệm vụ bảo đảm giao thông quan trọng cần thiết cho kế hoạch
cung cấp để bảo đảm lực lƣợng thực và sức dân ra tiền tuyến, đòi hỏi khẩn trƣơng
và quan trọng nhất là đợt Tổng công kích phải tính toán kế hoạch cung cấp và
tranh thủ vận chuyển từng ngày, từng giờ để khỏi ảnh hƣởng tới tác chiến, tới
thắng lợi.
II. NHẬN ĐỊNH ÂM MƢU KẾ HOẠCH ĐÁNH PHÁ CỦA HAI KẾ
HOẠCH VÀ TÌNH HÌNH CẦU ĐƢỜNG PHÀ CỦA TA TRONG HOÀN
CẢNH THỰC TẾ PHẢI BẢO ĐẢM GIAO THÔNG TUYỆT ĐỐI.
Trƣớc nhiệm vụ của trên giao cho, chúng ta đã có những nhận định về âm
mƣu của địch nhƣ sau:
1. Khi tiến quân địch sẽ đánh phá theo kiểu cuốn chiếu từ ngoài vào và lúc
đầu Yên Bái sẽ phải chịu đựng năng nhất, và dần dần địch sẽ đánh vào mạn Sơn
La, rồi sau khi hội quân địch sẽ đánh ra ngoài Yên Bái, giai đoạn đầu và cuối Yên
Bái nặng.
2. Địch sẽ nhằm những nơi xung yếu tập trung đánh phá nhƣ hai bên ven
đƣờng là ruộng, đƣờng chạy qua, một bên là núi cao, một bên là suối sâu, đèo,
v.v… các cầu khó làm đƣờng tránh hoặc không có đƣờng tránh, đƣờng ngầm
tƣơng đối quan trọng, bến phà Âu Lâu cổ họng của đƣờng tiến quân.
3. Đối với kẻ địch là mƣa lũ thì trọng điểm là các đƣờng ngầm dốc, Ngòi
Lao và Đá Trắng và các cầu hoặc những nơi bị đánh bom nhiều, mƣa lũ sẽ làm đất
sụt.
278
4. Giặc Pháp sẽ kết hợp với mƣa lũ đánh hỏng làm tắc giao thông bế tắc của
ta.
Tình hình đƣờng, cầu, phà của ta phụ trách:
1. Đƣờng của chúng ta vừa làm xong, mới khai thông chƣa đƣợc hoàn thiện,
đƣờng chạy dài 96 km chỉ có 15 km tức 8 km Yên Bình đến km 6 vào trong thì dân
cƣ thƣa thớt mới hồi cƣ, có xã đã về hết có xe mới về một nửa, hoàn cảnh kinh tế
thiếu thốn (Cát Thịnh, Chân Thịinh) các lực lƣợng bảo vệ cầu đƣờng mới đang ở
thời kỳ xây dựng chƣa đƣợc huy động ra phục vụ bảo đảm giao thông lần nào, hơn
nữa chƣa có kinh nghiệm.
2. Nhiều nơi địch đã đánh phá mà chính trong thời gian bảo đảm giao thông
chiến dịch Tây Bắc địch đã đánh phá dữ dội nhƣ:
- Bến phà Âu Lâu.
- Km 10 (7 km cũ).
- Km 14.600 (Đá Trắng, đƣờng ngầm, cầu treo, bến phà gần sát nhau).
- Km 15.600 (Voi Vƣợt).
- Km 27 (Đạt Thiện).
- Km 53 (Ngòi Lao, Đƣờng Ngầm).
- Từ km 67 đến km 81 (Đèo Lũng Lô).
Ngoài những noi địch đánh phá bom nên mùa lũ thì có thể làm đƣờng tắc
(Ngòi Lao, Đá Trắng, riêng Âu Lâu ảnh hƣởng tới lực lƣợng vận chuyển và tốc độ
phà qua lại, Lững Lô trên đỉnh phía Yên Bái nhiều suối, 5 lacet chen nhau xếp
hàng, nên mùa lũ thì đất sụt hàng 100 đến 1.000 khối, km 10, một phần nữa những
nơi lúc kiến thiết về bảo đảm thời gian khai thông với khối lƣợng nhật công ít nên
talu nhiều, ở những nơi xa nhiều tháng qua, mƣa nhiều cũng làm đất sụt do tiêu
chuẩn kỹ thuật kém (hầu hết các talu của đƣờng nhƣ km 36 đến km 41, từ km 50,
60 vào tới km 84 Lũng Lô, cụ thể nhiều nơi đất đá sụt, km 37. 39, 60, 69, 71, 74,
77, 79.
3. Cầu đại bộ phận làm từ tháng 4 đến tháng 6 tính nhƣ vậy cũng đã đƣợc
nửa năm hoặc gần 1 năm, nhiều cầu làm bằng gỗ tạp nên trọng lƣợng của cầu kém.
Đối với các cầu địch để đánh phá nhƣ cầu:
279
- Khe Dai.
- Cầu thị xã Yên Bái.
- Cầu km 49.
Các cầu nêu mùa lũ dễ bị mất cầu ảnh hƣởng đến giao thông là: đông cái,
cầu phà...
4. Đƣờng nhiều chỗ hãy còn hẹp nhƣ km 10, một vài đoạn đƣờng ở Đèo
Lũng Lô, các cua nhiều chỗ bị ngoặt, chƣa đủ tiêu chuẩn cho xe có remorque qua
lại nhƣ km 15+ 700 đoạn đƣờng từ 42 đến km 50+500 các chữ chi ở đèo (69km,
73 km, từ 79 đến 81 km).
5. Những quãng đƣờng nếu mƣa dễ bị lầy lún:
Km 10 Km 21 Km 36 67 km 77 đến 79 km
Km 22 43 68
Km 27 50 72
6. Bến phà Âu Lâu đƣờng phía bên thị xã do độ dốc cao có ít bên, phía bên
Âu Lâu bên phải chạy qua bãi dài, do đó nếu mùa nƣớc lên luôn luôn phải chạy
bên cũng rất ảnh hƣởng tới kế hoạch lƣu lƣợng qua sông.
TÌNH HÌNH CÁC LỰC LƢỢNG VÀ DIỄN BIẾN TƢ TƢỞNG CỦA
TOÀN CÁN BỘ VÀ CÔNG NHÂN VIÊN
I. Sau nhiệm vụ kiến thiết đƣờng 13 khai thông, qua 8 tháng chị em dẫu để
bảo đảm nhiệm vụ, tới tháng 9 năm 1953, hội nghị toàn công trƣờng tổng kết, sau
cuộc hội nghị tổng kết tƣ tƣởng của một số cán bộ và công nhân viên này ra mệt
mỏi muốn nghỉ ngơi nhƣ:
1. Muốn đƣợc nghỉ về thăm gia đình.
2. Muốn cơ quan lui ra ngoài thị xã để đƣợc nâng cao mức sinh hoạt về vật
chất.
3. Một số cán bộ điều đi Sơn La tỏ ra ngại ngùng không muốn đi, sợ khó, sợ
khổ.
4. Các cán bộ cua công binh và Tổng cục Cung cấp đƣa sang làm nhiệm vụ
kiến thiết, thắc mắc về quyền lợi, so sánh hai chế độ bộ đội và công binh, một số
muốn trở về bộ đội, một số muốn đi học, một số muốn quay về cơ quan cũ, các cán
280
bộ của cơ quan tỉnh đƣa sang cho là hết nhiệm vụ muốn quay về cơ quan tiếp tục
công tác.
5. Một số thắc mắc chƣa đƣợc chỉnh huấn, một số thắc mắc không đƣợc
tham gia phát động quần chúng.
Sau nhiệm vụ và kiến thiết đƣờng, nhiều tƣ tƣởng sai lầm này nó cũng trở
ngại cho nhiệm vụ bảo đảm giao thông.
2. Trong quá trình kiến thiết đƣờng 13 đối với các lực lƣợng chủ lực, vừa
kiến thiết vừa xây dựng nhƣ chủ lực 236 thành lập ngày 10/4/1953 xây dựng tuyển
mộ ngay số anh em dân công tại công trƣờng đó do lựa chọn đƣợc cẩn thận, đại bộ
phận là thành phần quần chúng cơ bản nhƣng về mặt tƣ tƣởng, kỹ thuật nhất là
đánh bom cũng nhƣ tổ chức còn yếu ớt. Chủ lực 237 cũng đƣợc xây dựng tiếp tục
tháng 9 năm 1953 là một lực lƣợng xây dựng sau, vừa lựa chọn xong, không đƣợc
chu đáo nhƣ 236 đồng thời lại chƣa chiến đấu kinh nghiệm ít nên càng yếu hơn cả
về mọi mặt, tƣ tƣởng, tác phong, tổ chức. Bến phà Âu Lâu quá trình của tổ chức
sau chiến dịch Tây Bắc không đƣợc củng cố, thỷ thủ thì sống lẻ tẻ, cán bộ thì số
trách nhiệm, khối lƣợng vận chuyển chỉ đảm bảo đƣợc 10 xe là tối đa một đêm,
công tác chính trị hầu nhƣ không có gì? Hoàn cảnh sống thái độ của một, hai đồng
chí thủy thủ không đƣợc chỉnh đốn, gây cho hành khách qua lại một ấn tƣợng xấu.
Các lực lƣợng từ bộ máy tới tháng 11 năm 1953 mới dần dần xây dựng, đại
bộ phận là anh em miền núi vùng mới giải phóng nên tổ chức chƣa chấn chỉnh,
chƣa quan niệm rõ nhiệm vụ tính chất của đời tƣ họ.
Bên cạnh những hiện trạng trên về mặt lực lƣợng nhƣng cũng có những điều
kiện thuận lợi của việc bảo đảm giao thông là:
1. Đa số cán bộ và công nhân viên cũng nhƣ dân công của tỉnh là ngƣời đã
từng chiến đấu trong thời gian kiến thiết, đã quen thuộc với con đƣờng thân mến
của họ.
2. Vinh dự và phấn khởi với đà chiến thắng nói chung của toàn riêng về
ngành thì phấn khởi với sự chú ý của trên cộng thêm ban thân cố gắng nên đã đƣợc
danh dự nhận cờ của Hồ Chủ tịch trong chiến dịch cầu đƣờng năm 1953.

281
3. Đƣợc sự giúp đỡ tích cực của trên nhƣ Nha, Bộ, Khu và địa phƣơng, tỉnh
nhận rõ trách nhiệm của địa phƣơng nên sự giúp đỡ vô điều kiện.
III. KIỂM ĐIỂM KẾT QUẢ CỦA VIỆC THỰC HIỆN NHIỆM VỤ ĐỂ
THẤY RÕ THÀNH CÔNG CỦA CÔNG TÁC NHƢNG ĐỒNG THỜI
CŨNG PHẢI NGHIÊM KHẮC VỚI NHỮNG SAI LẦM TRONG QUÁ
TRÌNH BẢO ĐẢM GIAO THÔNG TUYỆT ĐỐI
Trƣớc nhiệm vụ nặng nề nhƣng vinh dự đó, vƣợt trên những điều kiện khó
khăn và dựa trên điều kiện thuận lợi đó, điều căn bản là phải giải quyết tƣ tƣởng
cho cán bộ và công nhân viên nhằm nhận rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của chiến
dịch để bảo đảm kế hoạch, thực hiện bằng đƣợc khẩu hiệu: “Bảo đảm giao thông
tuyệt đối” nên về mặt lãnh đạo tƣ tƣởng đã phát động một phong trào học tập sâu
rộng trong cán bộ công nhân viên và các đơn vị học tài liệu bảo đảm giao thông
tuyệt đối, học tập liên hệ sâu sắc để đề cao trách nhiệm trong công tác, nhận rõ
nhiệm vụ vinh dự mà phục vụ, tiến tới học luôn tài liệu ý nghĩa và mục đích của
chiến dịch và từng đợt này qua, đợt khác học tiếp để nâng cao ý thức tƣ tƣởng và
luôn luôn bồi dƣỡng tƣ tƣởng nhƣ học thƣ của Hồ Chủ tịch gửi cho dân công và
cán bộ cầu đƣờng, thƣ của Hội đồng Cung cấp Mặt trân Trung ƣơng, v.v…
Chính do đó nên đã có cán bộ bố chết đã đƣợc phép Ty cho về thăm gia đình
nhƣng cũng không về mà vẫn ở lại bảo đảm kế hoạch (Tuế), hoặc đi lâu đã 3 năm
chƣa về đến nay trong tƣ tƣởng muốn xin về nhƣng thấy nhiệm vụ nặng nề nhƣ
vậy lại thôi mà không hề phàn nàn kêu ca (Miên).
Về phần tổ chức.
Trong thời gian nhận nhiệm vụ kiến thiết công trƣờng Yên Bái vẫn tồn tại
nhƣng tiếp đến bảo đảm nhiệm vụ bảo đảm giao thông tuyệt đối, với tầm quan
trọng của công tác, cần phải có một tổ chức cao hơn và nhiệm vụ nặng nề, nên kịp
thời Ủy ban Kháng chiến khu cũng nhƣ tỉnh ra quyết định giải tán công trƣờng và
thành lập Ban Bảo đảm giao thông tỉnh Yên Bái đại diện của Ủy ban tỉnh, hoặc cán
bộ đoàn thể. Đồng chí phụ trách Ty Công chính, Công an, Tỉnh đội về để đảm
nhiệm trách nhiệm đó, dựa vào biến chế của Ty và tổ chức của công trƣờng cũ làm
cơ sở, giúp việc để tiến hành, chuyển các công trƣờng cũ làm cơ sở, giúp việc để
282
tiến hành, chuyển cá công trƣờng ra các hạt và cũng để đảm nhiệm. Trƣớc sự
chuyển biến về mặt tổ chức đó Ty ta đã chuyển thành hai Hạt: Trấn Yên, Văn
Chấn. Hạt phà Cung trực thuộc để tiện sự lãnh đạo và đồng thời chấp hành chỉ thị
của trên, riêng đối với Đèo Lũng Lô là một trọng điểm vì vậy nên phải thành lập
Ban Vƣợt đèo để bảo đảm và chống địch phá hoại cũng nhƣ mùa lũ.
Vừa chuyển công trƣờng ra Ty đồng thời Ty ta cũng phải xây dựng bộ máy
theo chủ tƣơng và biên chế của Nha, một mặt vẫn bảo đảm giao thông phục vụ kế
hoạch, nên cũng gặp nhiều khó khăn trở ngại, nhƣng do sự giúp đỡ xây dựng của
cán bộ, nên vừa chuyển vừa bảo đảm giao thông tới nay Ty ta tƣơng đối có một nề
nếp gọn gàng.
Ban Bảo đảm giao thông đƣợc thành lập nhƣng sự chuyển từ công trƣờng ra
Ban Bảo đảm giao thông, Hạt, Cung thi hành cũng bị chậm, cuối tháng 1 năm 1954
mới chuyển hạn; kiểm điểm sự lãnh đạo của Ban Bảo đảm giao thông thì thấy tuy
có hợp đƣợc lúc đầu nhƣng sau này vì nhu cầu công tác đại đa số các đồng chí
trong Ban bận công tác nên công việc chỉ có một đồng chí trong Ban đảm làm việc
về chính quyền là Trƣởng Ty Giao thông Công chính, nhƣng về phần đoàn thể thay
mặt địa phƣơng còn các đại diện cơ quan trong Ban thì đều có cán bộ tới làm việc
và đồng chí phụ trách giao thông đƣợc ủy nhiệm của đoàn thể sử dụng và điều
động các lực lƣợng dọc tiền tuyến để bảo đảm nên sự thống nhất chỉ đạo đƣợc dễ
dàng hoàn thành nhiệm vụ, thành phần các Ban Bảo đảm giao thông trong các Hạt
thêm đại diện các huyện địa phƣơng nhƣng do sự chỉ đạo và liên hệ mật thiết tranh
thủ lãnh đạo nên công việc đều mang lại kết quả mặc dầu không có đại diện địa
phƣơng.
1. Cũng trực thuộc từ km 8 Yên Bình đến bến phà Âu Lâu dài 11 km.
2. Bến phà Âu Lâu (kể cả hai bên lên xuống phà).
3. Hạt Trấn Yên từ km 3 Âu Lâu tới 43 trong đó chia làm 4 cung.
4. Hạt Văn Chấn từ km 43 đến km 89 trong đó chia làm 3 cung.
5. Ban Vƣợt đèo phụ trách từ km 69 đến km 84.
Tổng số đƣờng do Yên Bái phụ trách là 96 km.

283
HUY ĐỘNG DÂN CÔNG VÀ BỔ SUNG CÁC LỰC LƢỢNG ĐỂ LÀM
NHIỆM VỤ ĐẢM BẢO GIAO THÔNG LÖC GAY GO CÓ ĐỊCH BẮN PHÁ
CŨNG NHƢ CHỐNG MÙA LŨ.
Trƣớc lực lƣợng sẵn có của Ty Giao thông sau kiến thiết và trong quá trình
xây dựng của lực lƣợng để đảm nhiệm kế hoạch nên Ban Bảo đảm giao thông tỉnh
đã đề nghị với tỉnh ủy và Ủy ban để huy động cho các lực lƣợng dân công để đảm
nhiệm:
Trong quá tình 8 tháng chiến đấu, luôn luôn phải bảo đảm qua các kế hoạch
nhỏ của chiến dịch tỉnh đã huy động cho một lực lƣợng dân công khá đông để đảm
nhiệm kế hoạch, đợt 45 ngày, đợt 15 ngày và đợt 2 tháng chia ra cho các huyện
nhƣ sau:
Trấn Yên tổng số trong 8 tháng: 891.
Lục Yên tổng số trong 8 tháng: 994.
Văn Chấn tổng số trong 8 tháng: 1.080.
Văn Bàn tổng số trong 8 tháng: 445.
Tổng số: 3.410.
Ngoài số anh em dân công huy động của địa phƣơng ra những lúc địch đánh
phá gay gắt nhƣ Đèo Lũng Lô, do đó Ban Bảo đảm giao thông Khu đã tăng cƣờng
cho các lực lƣợng dân cộng viện trợ của các tỉnh nhƣ Tuyên Quang, Vĩnh Phúc,
Sơn La,… để bảo đảm đèo hoặc dân công của Thái Nguyên. Tổng số dân công
viện trợ chia ra nhƣ sau:
Vĩnh Phúc: 302.
Tuyên Quang: 97.
Thái Nguyên: 107.
Sơn La: 60.
Tổng số: 594 ngƣời.
Do anh em dân công viện trợ này trung bình làm từ một đến 2 tháng. Ngoài
những lực lƣợng dân công ra có từng thời gian ngắn, tùy theo kế hoạch quan trọng
nên các lực lƣợng khác cũng đƣợc điều tới để phối hợp nhƣ 10 công binh ở Đèo
Lũng Lô và 18 của chủ lực cũng ra phối hợp.
284
Nhận định việc huy động dân công trong việc thực hiện chính sách.
Trong quá trình, với nhiệm vụ đòi hỏi đúng thời gian hạn định của kế hoạch
nên việc huy động dân công trong thời gian qua, các địa phƣơng huy động cũng
còn một số hiện tƣợng chƣa đƣợc đúng với chính sách nhƣ có xã huy động cả phụ
nữ có thai đi dân công (Cơ Phúc, Trấn Yên và Lục Yên, tổng số 7 ngƣời trong đó
có 3 ngƣời đi ngang đƣờng bị trụy thai, phải nằm bệnh xá tĩnh dƣỡng, song phải
cho về, trƣớc sự đánh bom dữ dội và ác liệt của địch thì hoang mang, dao động
nhƣ một xã ở Vĩnh Quang, Đồng Tâm, Việt Cƣơng hoặc có một, hai dân công ở
huyện Văn Chấn tỉnh nhƣ vậy là đi tới 6 tháng từ đầu năm 1954 đến nay, khi huy
động dân công đi thiếu giải thích tuyên truyền vận động, nên khi anh em ra đi
mang theo thắc mắc về tăng gia sản xuất, về không công bằng, hợp lý, còn cảm
tính cá nhân trẻ chọn, nhất là đối với Văn Chấn. Thiếu những anh em cán bộ của
đoàn thể đi theo lãnh đạo, vì vậy nên một số cán bộ ngại khó, ngại khổ gây nhiều
khó khăn cho kế hoạch. Việc dân công ra công trƣờng thì ra không đúng hạn định,
ra lẻ tẻ có khi ra 5 ngƣời, khi 7 ngƣời. Vì vậy cũng làm cho việc học tập của dân
công bị trở ngại, hoặc về mặt cấp phát cũng khó khăn nhất là ngay cho kế hoạch
bao đảm mặt đƣờng.
Trong việc huy động dân công cho công trƣờng, bên cạnh kế hoạch bảo đảm
giao thông thƣờng hay có các kế hoạch khác nhƣ cung cấp của tỉnh do đó vào cuối
tháng 4 đầu tháng 5 tình trạng rút quân của công trƣờng bổ sung cho các kế hoạch
khác cũng gây nhiều trở ngại cho anh em nhƣ đang làm khoán thì lại rút quân, thời
gian phục vụ có hai tháng, nay lại đi ba tháng ra hỏa tuyến nên vẫn để thời gian lại
thành vấn đề với anh em dân công.
Bên cạnh những điều thiếu sót đó, chúng ta cũng thấy có những tiến bộ về
việc huy động dân công và đặc biệt tinh thần chiến đấu anh dũng của dân công nhƣ
đa số anh em dân công của các xã đã đƣợc phát động.
Dân công của các xã thuộc địa phƣơng Yên Bái là đồng bào miền núi nên sử
dụng dân công đó vào việc bảo đảm giao thông thực tế không có lợi, vì lần đầu tiên
dân công mới làm nhiệm vụ đó. Trƣớc sự đánh phá ác liệt của địch, có lần 124
bom nổ ngay nhƣ ở Đèo Lũng Lô hoặc đánh phá dữ dội Ngòi Lao và km 10, những
285
chỗ đó anh em dân công vẫn anh dũng chiến đấu, mặc dầu nhiều bom nổ chậm nhƣ
Ngòi Lao. Trƣớc đây anh em nói: “Dân công Lục Yên là dân công sợ máy bay
nhất”, thì trái lại dân công của các đơn vị ở đèo không những chiến đấu anh dũng
trong các trận đánh bom mà còn làm giữa trận địa có bom nổ chậm, dân công Lục
Yên đã từ đèo Lũng Lô hành quân hàng 25 cây số để ra Ngòi Lao nơi địch đánh
nhiều đợt trong một ngày, để hỗ trợ lập lại giao thông bảy tám lần ra hỗ trợ, đơn vị
làm có hôm chỉ thêm một vài tu bổ của Hạt Văn Chấn. Đơn vị Hùng Khánh vẫn
giữ truyền thống từ trƣớc nên khi địch đánh km 27, đơn vị Hùng Khánh phụ trách
ở đó là động viên huy động anh em ra để chữa mặc dầu có bom nổ chậm, một chị
phụ nữ đã nói: (bảo đảm giao thông tuyệt đối, có bom cũng phải chữa mới thông
đƣờng) sau tiếng nói đó chị đã xung phong tiến lên động viên anh em dân công ra
mặt đƣờng công tác, chị nói: nếu cán bộ ra lãnh đạo thì anh em chúng ta cũng ra
đƣợc, cán bộ còn không sợ, không tiếc thân nữa là. Sau đơn vị Hùng Khánh vào
Lũng Lô lại anh dũng chiến đấu luôn 5 ngày liền để lấp lại giao thông. Do đó đã
đƣợc khen thƣởng và bằng khen của Công trƣờng 13. Ngoài những đơn vị do các
đơn vị của Yên Lạc, Vĩnh Phúc cũng là những đơn vị chiến đấu gan dạ ở đèo trƣớc
những trận ác liệt đánh phá của địch nhƣ đánh Lũng Lô luôn 17 ngày, nên đã đƣợc
khen thƣởng Huân chƣơng Chiến sĩ hạng Ba.
Thời gian đầu khi quân mới bắt đầu tiến vào Tây Bắc địch đánh lấn lƣớt từ
Âu Lâu km 10, km 27, Lũng Lô theo cuốn chiếu, thời gian do dân công chủ lực tu
bổ chiến đấu gay go ác liệt để tranh thủ lấp lại giao thông từng giờ, nhƣng trong
tháng 2 năm 1954 là thời gian địch bị quân ta bao vây và tiêu diệt các vị trí ngoại
vi của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, nên một phần phi phao của địch bị thu hút
vào đó một phần nữa địch đánh phá vận chuyển giao thông của ta ở địa phƣơng,
nên phạm vi của Yên Bái ít bị đánh, thời kỳ này là thời kỳ mà dân công và chủ lực
vui vẻ hăng hái thi đua, làm khoán tăng năng suất, toàn bộ các đợ vị của Hạt Văn
Chấn đều tăng năng suất nên các đơn vị rất hứng thú trong công tác, phong trào thi
đua tăng năng suất lên cao, một số đơn vị của dân công của Hạt Trấn Yên tự cho
kém nhƣ: Việt Cƣờng, Lục Yên đã đƣợc học tập, Hội nghị từ trong đoàn thể rồi ra
toàn quân, giải quyết tƣ tƣởng chủ quan không tranh thủ cũng có mặt đƣờng, nên
286
đã tiến lên tăng năng suất tuy còn vài đơn vị chƣa làm, do đó nên Hạt Văn Chấn
trong Hội nghị sơ kết bảo đảm giao thông đã đƣợc Ban Bảo đảm giao thông khen
thƣởng bằng khen về mặt lãnh đạo tăng năng suất.
Trong 8 tháng bảo đảm giao thông, tuy địch đánh phá nhƣng trên nhận thức
tƣ tƣởng của cán bộ và kịp đề ra đồng thời luôn luôn đôn đốc từ trên xuống dƣới
do đó nên ngay trong việc chuẩn bị phƣơng tiện cho bảo đảm giao thông hoặc ngay
các buổi lấp hố bom xen kẽ cũng đều cố gắng tranh thủ giao khoán về điểm này nó
thích hợp với nguyện vọng của anh chị em dân công. Đối với anh chị em ra công
tác nơi công trƣờng là một diepj để rèn luyện vì là điều kiện tập trung hơn nữa nó
phải phục vụ cụ thể cho việc bảo đảm chiến dấu gay go hàng ngày, hàng giờ nên
về mặt lãnh đạo tƣ tƣởng cần phải lãnh đạo sát trong những trận chiến đấu, song
thƣờng xuyên vẫn phát động từng đợ thi đua để kịp thời khen thƣởng động viên
toàn bộ dân công và việc họt tập các tài liệu của Hội đồng Cung cấp, Mặt trận
trung ƣơng, từng thời gian và liên tục để giải quyết uốn nắn các tƣ tƣởng sai lầm,
do làm đƣợc nhƣ vậy đối với toàn bộ các đơn vị, nên phong trào thi đua từng đợt
trở thành nề nếp của các công trƣờng và các đơn vị, và uốn nắn tƣ tƣởng sai của
dân công, chủ lực, sau trận chiến đấu cũng làm đƣợc đều nên đƣợc khen thƣởng
đều làm đƣợc tƣơng đối, mặc dầu một vài đơn vị việc chấp hành chƣa nghiệm
chỉnh chủ trƣơng và nề nếp đó.
Đối với anh em dân công làm qua giờ theo chỉ thị của Tuyến với chế độ làm
khoán 3 tiếng trở lại hƣởng 5 lạng, nếu quá 4 tiếng về đêm trở lên thì đƣợc hƣởng
1 kg cũng thi hành đƣợc với những nơi chiến đấu gay go và ác liệt nhƣ: Đèo, Ngòi
Lao.
Những tiền bồi dƣỡng đó đã do những anh em cấp phát viên đến tận nơi
thanh toán và bản thân cấp phát viên cũng nhận rõ nhiệm vụ nên có tranh thủ tiến
hành cũng kịp thời, đẩy mạnh phong trào và tinh thần khen thƣởng trong việc bảo
đảm giao thông nhƣ Hạt Văn Chấn.
- Dựa trên lực lƣợng và tinh thần của các đơn vị bố chủ lực của ta đƣợc
chiến đấu lập lại giao thông bảo đảm kế hoạch.

287
Đối với phạm vị của Yên Bái phụ trách những trọng điểm của đƣờng dễ bị
đánh là Lũng Lô, Bến Phà và km 10, nên trung bình những lực lƣợng ở chỗ này
đều có nhiều và những đội quân tƣơng đối có khả năng nhƣ đèo Lũng Lô, có thời
gian có 6 đơn vị dân công và công binh làm nhận cót, các lực lƣợng dân công là
Vĩnh Phúc và Phú Thọ, hồi mới bắt đầu chiến dịch là dân dân công Phú Thọ, sau
rút đi từ hồi cuối tháng thay thế bằng dân công Vĩnh Phúc, mà thực tế trong việc
bảo đảm giao thông ở đèo, đòi hỏi quân dân công Vĩnh Phúc đã chiến đấu giữ
vững đƣợc truyền thống của Vĩnh Phúc trong biệc kiến thiết đƣờng 13.
Trên nguyên tắc bố trí xen kẽ làm sao có những đơn vị chủ công nên dân
công của Trấn Yên hầu hết là ngƣời Kinh đều ở km 10, cộng thêm vào km 27, Voi
Vƣợt có đơn vị chủ lực 237 làm đầu tàu. Những nơi trọng điểm cần có tổ chức và
cán bộ tƣơng đối vững để đảm nhiệm trách nhiệm nặng nề đó, cho nên đèo Lũng
Lô trở thành một địa điểm khá quan trọng mà phải thành lập riêng một bộ máy phụ
trách trực Ty không giao cho Ban Chỉ huy C236 phụ trách nữa, cán bộ phụ trách
đơn vị dân công cũng đƣợc tăng cƣờng chƣa kể các cán bộ ngành khác biệt phải
đến hoặc có trách nhiệm đến phối hợp làm nhiệm vụ.
SỰ ĐÁNH PHÁ CỦA ĐỊCH
Ngày 6/11/1953 khi tiến quân của ta vào Tây Bắc, các lực lƣợng bộ binh cơ
giới tiến vào là lúc địch tập trung máy bay đánh phá dội thêm bom nổ ngay, bom
nổ chận hòng đánh chặn ngay cổ họng của chúng ta làm cản trở cho việc hành
quân của ta, trƣớc sức đánh phá của địch, lúc đầu lực lƣợng dân công của ta chƣa
ra kịp ra công trƣờng nên thời gian này lực lƣợng phối hợp không chủ yếu dựa vào
lực lƣợng nhân dân hai bên đƣờng, quanh thị xã là chủ yếu. Hai bên phà Âu Lâu là
trận đánh đầu tiên của chiến dịch đối với Yên Bái nên chƣa có kinh nghiệm, lực
lƣợng dân công tập trung chƣa có mà khối lƣợng xe cộ phải qua sông thì nhiều, vì
vậy việc lập lại giao thông gặp nhiều trở ngại, khó khăn, lực lƣợng chủ công
không có vì vậy chỉ nhờ lực lƣợng nhân dân ven đƣờng nên bị tắc mất một đêm
mùng 7/11/1953, hơn nữa bom nổ chậm có những không nắm đƣợc tình hình và số
lƣợng nên ảnh hƣởng khi quân đang làm bị nổ.

288
Mở đầu trận đánh phá của địch là bến phà Âu Lâu rồi km 10, km 27 và vào
Lũng Lô, hoặc thời gian tiến quân ngoài những nơi đánh phá trọng điểm trên
chúng ta thấy địch đánh phá lung tung, dọc hai bên ven đƣờng nhƣ tính chất đánh
phá là truy các đoàn xe của ta giấu hoặc phá đƣờng xá kẹt bom với phá kho tàng và
quân tiến. Sợ mức độ đánh phá của địch lúc tiến quân và sau khi hội quân đang có
gay gắt và đánh có trọng điểm, chỉ tập trung đánh Lũng Lô và Ngòi Lao gây trở
ngại cho ta trọng vấn đề vận chuyển, nhƣng do sự quyết tâm của cán bộ và tinh
thần chiến đấu của chủ lực dân công, tu bổ do đó đã hoàn thành đƣợc nhiệm vụ của
trên giao cho, địch thƣờng đánh theo lối tập trung đánh trọng điểm rồi đánh phá tận
ra để làm ta phải phân tán lực lƣợng cụ thể nhất là ở đèo, địch tập trung đánh 5 chữ
chi phía Sơn La km 76 đến km 79, sau quay lại đánh chữ chi km 69 rồi 73, trung
bình các trọng điểm cách nhau 3 đến 4 km làm cho ta phân tán lực lƣợng hoặc có
thời gian địch đánh tạp trung ở Lũng Lô tới 7 ngày liền, tổng số bom đã ném gồm
các thứ bom không lõi nổ ngay, nổ chậm, nơi đánh của địch thƣờng ném không lõi
để truy đối không của ta hoặc đài quan sát có những trận địch đến đánh trận địa,
đối không trƣớc quay sang đánh phá trận địa dự trữ rồi mới quay ra đánh phá mặt
đƣờng, các trận tập trung tới 30 máy bay để đánh phá ném tới 124 quả xuống đèo
phía Sơn La.
Khi có đối không của ta địch lại bỏ trọng điểm đó quay ra đánh phá những
trọng điểm khác nhƣ Ngòi Lao địch đánh luôn 7 ngày liền, từ ngày 12/6 đến
19/6/1954, thả bom nổ ngay, nổ chậm và lần cuối cùng địch thả tới 540 quả bom
bƣớm để làm cho quân ta ra lập lại giao thông gặp trở ngại đồng thời lối đánh này
cũng định làm cho ta cũng sẽ phải phân tán lực lƣợng ra khó khăn trong việc bố trí
quân để chiến đấu, mỗi giờ của địch đánh phá cũng có nhiều sự thay đổi thời gian
dẫu trong các trận đánh của địch thƣờng thƣờng hay dành vào từ 1 đến 5 giờ và
trận cuối cùng của địch mấy cái bom nổ chậm nhƣng trong những trận đánh sau
khi hoi quân thời gian có thay đổi có khi sáng 8 giờ đã đánh và đã cài bom nổ
chậm nhƣ Ngòi Lao, 7 giờ kém 15 tới, còn tới hoàn toàn trận đánh này chỉ cái nổ
chậm, thƣơng lƣợng B26 nếu đánh có đội không của ta bố trí thì thƣờng đánh thêm
một chiều cao từ 2.500m đến 3.000 m bom nên trọng lƣợng là 200 cân, lối đánh
289
của B26 là bay thẳng để thả bom là bom chƣa nên khi xuống làm cho việc theo dõi
của đài quan sát khó khăn. Đài quan sát là bộ phận nắm vững tình hình địch bố trí
quân tác chiến. Trong quá trình của đài quan sát có đôi lần nó chƣa chính xác làm
là do nguyên nhân:
- Bom ném ngày hôm trƣớc có khi hôm sau mới nổ nên không nắm vững và
tính vào quy luật ngày hôm đó thì sẽ nguy hiểm cho việc chiến đấu.
- Hiệu Cất lên đánh thành nhiều đợt, cách nhau nhiều giờ nên đợt một địch
đã thả bom nổ chậm mà không nắm vững lại tính vào đợt sau hoặc đợt cuối cúng
làm cho việ tính quy luật cũng có nhiều thay đổi.
Quy luật của bom nổ chậm cũng có nhiều thay đổi vì vậy cũng làm cho ta
khó khăn trong việc theo dõi.
Nhƣ cũng có quả sau 45 phút ném đã nổ liên tiếp cách nhau 3 hoặc 4 phút cơ
quả sau ném 1 giờ, 1 giờ 30, 2 giờ, 3 giờ, 4 giờ, 48 giờ, 51 giờ, 70 giờ, 81 giờ, 105
giờ với tính chất đánh bom của địch nhƣ vậy 136 giờ Ngòi Lao.
Tổng số khối lƣợng bom của địch đánh trong phạm vị Yên Bái phụ trách
nhƣ sau:
Tổng số máy bay các loại địch đã dùng 414 cái gồm: B24, B26, B29, Hen-li-
vơ và Hen-cat đã ném 114 trạn trên chặng đƣờng dài 96 km.
Số bom nổ ngay: 1.414 quả.
Số bom nổ chậm: 156 quả.
Bom napan: 19 quả.
Bom lia: 3 quả.
Khong loi: 13 quả.
Bƣơm bƣớm: 540 quả.
Nếu tính trung bình mỗi quả bom nặng 250 kg thì số bom dùng để phá hoại
đƣờng xã và ám hại các lực lƣợng ở mặt đƣờng là: 391 tấn (chỉ tính số nổ ngay và
nổ chậm).
Riêng về phía đánh phá của địch chúng ta thấy trọng điểm Lũng Lô là nới
chịu đựng gian khổ gay go quyết liệt dũng cảm nhất là 993 quả vừa nổ ngay, nổ
chậm, sau đến trọng điểm đƣờng ngầm Ngòi Lao. Tổng số bom ta đã phá đƣợc do
290
chủ lực 236 và 237 là 8 quả nổ chậm và 70 qua bƣơm bƣớm, đại bộ phận chủ lực
là 236 chiến đấu phá lấy đƣợc một tấn 25 kg thuốc bom để dùng đánh bom và phá
đá.
Trƣớc sự đánh phá dữ dội của địch, tinh thần chiến đấu và sự quyết tâm của
cán bộ chủ lực, tu bổ và dân công càng nâng cao để hoàn thành nhiệm vụ.
Qua 8 tháng bảo đảm giao thông trƣớc sự đánh phá dữ dội của địch một cách
quy mô có hệ thống, có trọng điểm nên sự chiến đấu của ta có nhiều khó khăn phải
vƣợt nhƣng đồng thời cũng lạc quan và cần đƣợc rèn luyện về tƣ tƣởng đƣợc xây
dựng về tác động và chấn chỉnh tổ chức đƣợc kịp thời, xuất hiện đƣợc những chiến
sĩ dũng cảm xung phong gƣơng mẫu trƣớc sự sống còn để đấu tranh trực tiếp với
địch trên mặt trận bảo đảm giao thông ta đã thấy rõ ý trí căm thù địch lên cao.
Dự đoán đƣợc một phần âm mƣu của địch và nắm đƣợc trọng điểm nên lực
lƣợng và cán bộ bố trí cho những nơi đó tƣơng đối sát và quá trình đã kịp thời sửa
chữa.
Ty đã nhận thấy đèo Lũng Lô là một trọng điểm nên đã bố trí đội chủ lực
236 đồng thời một lực lƣợng dân công nhiều nhất có khi tới 6 o, thời gian này
trung bình ở đèo có từ 800 đến 1.000 kể cả chủ lực hoặc công binh. Chủ lực 237
làm nhiệm vụ km 10 vào Đá Trắng với mặt bắn phá Âu Lâu.
Đơn vị C236 đƣợc nhiệm vụ bảo vệ đèo cộng thêm với anh em dân công,
công binh luôn luôn nêu cao đƣợc vài trò đầu tàu của đơn vị nên đã đƣợc khen
thƣởng Huân chƣơng Chiến sĩ hạng Ba. Từ thẳng 53 vào Đèo đơn vị đã cố gắng có
khi thức 6 đêm suốt sáng nhƣ tháng 11 năm 1953 để làm nhiệm vụ chống lay la
đơn vị chƣa đƣợc xuất trận bao giờ, kinh nghiệm chƣa có mấy trong quá trình đơn
vị đã đánh đƣợc 8 quả bom nổ chậm, lấy đƣợc hơn 1 tấn thuốc phá đƣợc 70 quả
bom bƣơm bƣớm. Đội phá bom của chủ lực là đội trƣởng thành nhất trong thời
gian bảo đảm giao thông, địch tập trung có lần tới 30 mày bay ném 124 bom nổ
ngay, nổ chậm, có đồng chí cán bộ nói đèo Lũng Lô ngoài mƣa gió thiên nhiên
nhƣng có kỳ 7 ngày liền mƣa do đế quốc gây lên thế mà sau khi máy bay vừa rút
khỏi trận địa đội phá bom từ trên đèo cao băng qua các dốc với chiếc thuổng trên
tay xông vào trận địa để tác chiến với bom, tiếng gọi của các đội viên trong đội
291
mang bộc phá xem lẫn tiếng cuốc xình xịch đào hố bom, mặc quần áo xanh sợ lộ
mục tiêu, anh em đã cởi trần làm việc để vừa chiến đấu vừa bảo toàn đƣợc thực
lực. Trƣớc những giờ quyết liệt và gay go ngƣời ta thấy đội chủ lực nhƣ chiếc máy
lệnh vào trận địa là các tổ tiến vào không nói năng, gần hết giờ an toàn lệnh rút
quân là rút ngay ra vào trận địa nhƣ một chiếc máy nên đã nêu bật ý thức chấp
hành mệnh lệnh, có buổi tổ phá bom đánh bom suốt từ 3 giờ chiều đến sáng anh
em vẫn vui vẻ với bộ mặt nghiêm trang nghe lệnh của đồng chí C trƣởng đang đào
qua này qua kia nổ, nhƣng anh em vẫn bình tĩnh chiến đấu không hề nào núng. Đi
sát cùng tác chiến là anh em công binh ngƣời bận cũng chiến đấu thân thiết nhất có
trận công binh, chủ lực cũng đào một tổ một quả ngang nhau cách 2 m, một tiếng
nổ xé tung không khí trầm tĩnh át hẳn tiếng cuốc đào đất của anh em quay sang bên
cạnh 4 đồng đội công binh đã hy sinh trƣớc nhiệm vụ, trên không chỉ thấy phất
phới mảnh quần áo bay trƣớc sự đau thƣơng đó, anh em đã biến lòng đau thƣơng
thành trí căm thù hạ quyết tâm trƣớc Ban chỉ huy vƣợt Đèo và đồng chí Toan C
Trƣởng nghiêm trang quyết tâm xin tiếp tục đánh trả thù cho đồng đội, đồng chí C
Trƣởng ngƣời lăn lộn cùng anh em đã tham gia hơn 40 trận đánh bom tại đèo từ tổ
này qua tổ khác để nắm vững tình hình chỉ đạo cho sát, quá trình chiến đấu xuất
hiện đồng chí Cát, ngƣời đội viên dũng cảm của 236 tiểu đội đồng chí là tiểu đội
đầu tiên đánh bom của địch trên đèo Lũng Lô trong các trận đánh bom đều thấy
đồng chí cùng tiểu đội xuất hiện trên trận địa vai trò đầu tàu nêu cao trên trận địa
Ngòi Lao cũng đã lập thành tích phá 2 quả nổ chậm 70 quả bƣơm bƣớm.
Tổ chức lãnh đạo ở đèo một trong diện đánh bom là quan hệ không những
đánh bom còn phải chiến đấu với mƣa lũ một cơn mƣa xuống hàng mấy địa điểm
đặt sụt xuống hàng 100 đến 1.000 m3. Trƣớc đây đều có Ban Chỉ huy nhƣng quan
hệ của đồng chí Trƣởng ban với cán bộ dân công, với cơ quan phối hợp rất lỏng
lẻo và không chặt chẽ, tinh thần trách nhiệm thiếu đã làm cho tắc một đêm trong kế
hoạch tổng công kích, vì vậy Ty đã kịp thời chấn chỉnh, vì vậy Ty đã kịp thời chấn
chỉnh, Hội đồng Cung cấp và Ty đã có thái độ đối với đồng chí đó. Để tăng cƣờng
lãnh đạo cho các trọng điểm nên đã bổ sung thêm cán bộ kỹ thuật của Nha Cán bộ
chính trị của Đoàn Ủy cái cách và và sự kiểm tra đôn đốc của Ty tƣơng đối có chặt
292
chẽ hơn, nhƣ đoàn kiểm tra của Ty có đồng chí Trƣởng ban Kỹ thuật đi cùng, đồng
chí Trƣởng Ban Bảo đảm giao thông cũng có mặt trong các trận chiến đấu, hoặc
chính đồng chí thủ trƣởng cơ quan của Ty cũng tăng cƣờng lãnh đạo.
Từ khi chấn chỉnh, đồng chí Trƣởng ban Hành chính Quản trị đƣợc vào thay
thế, ta thấy bộ mặt lãnh đạo của đèo đƣợc thay đổi hẳn. Từ chỗ xộc xệch đã đến
chỗ tƣơng đối tốt hơn, thống nhất quan hệ giữa các cơ quan và quân cơ mật thiết
hơn, anh em cán bộ tham gia chiến đấu với một tinh thần phấn khởi và có một ý
thức trách nhiệm. Những buổi đánh bom đều thấy cán bộ có mặt ngay trận địa, sau
trận mƣa lũ đã thấy cán bộ bám sát mặt đƣờng. Ngay bản thân đồng chí Trƣởng
ban vƣợt đèo cũng đi sát anh em, trong hai tháng chị em đã bảo vệ đèo trƣớc các
trận mƣa lũ hay bom đạn đều thấy bám sát cán bộ và đơn vị có mặt tại trận địa, hai
tháng chiến đấu bảo vệ đèo trƣớc các trận mùa lũ hay bom đạn đều thấy bám sát
cán bộ và đơn vị có mặt tại trận địa, hai tháng trời chỉ vắng mặt tại trận địa có hai
tối. Nói chung tinh thần chiến đấu của cán bộ chuyên môn, chính trị ở đèo đã lên
cao, xứng đáng với trọng điểm Ty ta nhận định. Dân công Lục Yên, dân công Vĩnh
Phúc đều anh dũng chiến đấu, có ngày đã làm việc suốt ngày những chiều địch
đánh bom lại thêm mƣa lũ, có đơn vị đã băng qua suối là để ra đƣờng lấp lại giao
thông (Yên Lạc, Cung 3 Yên Lãng). Trƣớc tinh thần chiến đấu của chủ lực công
binh dân công Lục Yên từ chỗ ngần ngại máy bay, bom nổ chậm, song nhờ đã
đƣợc giáo dục trong phát động quần chúng, nhờ sự dìu dắt của các đơn vị chủ
công, dân công Lục Yên đã trƣởng thành trong chiến đấu. Có lần đơn vị làm cuốc
vào bom nổ chậm vội vàng rút ra, sau khi đội phá bom vào theo kịp đơn vị vẫn
bình tĩnh làm cố đêm trên mặt đƣờng còn bom nổ chậm tìm phá không chữa đƣợc,
nhu cầu cần thiết lập lại xe qua vẫn phải làm đơn vị cũng vẫn vào trận địa. Vì vậy
quá trình chiến đấu ở đèo, các đơn vị 236, ở Yên Lạc đã đƣợc Huân chƣơng Chiến
sĩ hạng Ba và nhiều bằng khen của Hội đồng Cung cấp Trung ƣơng lực lƣợng ở
đèo vẫn một phải hỗ trợ Ngòi Lao đơn vị Yên Lãng, đơn vị Cung 1 Lục Yên dƣới
sự hƣớng dẫn của đồng chí Năm hành quân xa 25 km ra Ngòi Lao lập lại giao
thông những đêm địch đánh phá dữ dội và nhiều bom nổ chậm.

293
Lúc hội quân là lúc địch tập trung đánh trọng điểm Lũng Lô sau gặp đối
không của ta, địch sợ phải bỏ trọng điểm Lũng Lô qua đánh Ngòi Lao. Đƣờng
ngầm Ngòi Lao là nơi trƣớc đây nhận địch địch tuy có thể đánh nhƣng không nguy
hại và đáng kể bằng mƣa lũ, trên nhận thức chƣa đầy đủ và chƣa sát nên địch liên
tục đánh phá từ 11/6 đến ngày 19/6/1954 nên ảnh hƣởng đến việc lập lại giao
thông vì chỉ bố trí dân công nên không có đài quan sát, không có lực lƣợng chủ
công nên khi bị đánh bom thiếu hẳn mọt lực lƣợng chủ công để dìu dắt. Nên nhiều
hôm dân công ra lập lại giao thông gặp bom nổ chậm bị dao động, nhƣng quá trình
chiến đấu chống địch phá hoại ở Ngòi Lao đã xuất hiện những chiến sĩ cá nhân của
đội tu bổ Trƣơng Bằng La và một vài cá nhân của đội tu bổ Cát Thịnh.
Trƣớc tình trạng lực lƣợng chủ công không có, nhƣng với hoàn cảnh gặp
thiệt hại nắm vững tình hình Ty đã điều một tổ phá bom của 237 vào làm nhiệm vụ
dìu dắt và nắm vững tình hình bom. Đội tu bổ Hạt Văn Chấn dƣới sự lãnh đạo của
Hạt đã chiến đấu dũng cảm trƣớc sự phá hoại của địch có những lần địch đánh phá
nên nhiều bom nổ chậm đã đƣợc tháo ngòi dƣới sự hƣớng dẫn của anh em chủ lực
237 và đồng chí công trình An Gian hoặc đồng chí Dân ra đào bom đại bộ phận đội
là phụ nữ ngày 27/5 địch thả bom Ngòi Lao chị em dƣới sự hƣớng dẫn của hai
đồng chí chủ lực 237 đã ra đào bom, khi đang đào qua bên cạch nổ cách 5 thƣớc
anh chị em sau khi tiếng nổ kiểm điểm lại chị bị đất đá nên cuối lên với nhau trong
những giọng cuối dũng cảm trong chiến đấu, Ngòi Lao là nơi đƣờng ngầm nhiều
đá mới khi bom nó đã bắn lên rào rào nhƣ mƣa có đồng chí nói đối với Ngòi Lao
mảnh không không sợ nhƣng chỉ sợ đá Ngòi Lao. Có những đêm trên trận địa Ngòi
Lao sau một tiếng bom nổ ta chỉ còn thấy đội tu bổ ở lại tiếp tục lấp lại giao thông
đội tu bổ Trƣơng Bằng La chiến đấu ngang chủ lực ở đèo cũng nhƣ chủ lực 237 ở
tại km 10, mọi việc từ đi cáng ngƣời bị thƣờng giữa trận địa có bom nổ chậm đêm
thứ nhất cuốc xẻng bỏ rơi vãi, trƣớc những việc khó khăn đều đổ Đội phụ trách, có
thời gian đội tu bổ làm việc suốt 10 ngày từ tối đến sáng, ban ngày nghỉ thì lại đan
sọt, đan phên có những ngày đây ở tổ bị xã lấy tới 8 giờ sáng trấn lũ Ngòi Lao
nƣớc lên gần một thƣớc, đội vẫn nhặt đá cho vào sọt để củng cố đƣờng ngầm, có
đêm ngâm mình dƣới đá suốt từ 8 giờ tối đến 2 giờ sáng dƣới nƣớc chảy suốt của
294
con nƣớc Ngòi Lao, liên tục là việc không hề phàn nàn kêu ca, do đó đội đã đƣợc
Hội đồng Cung cấp Trung ƣơng khen thƣởng toàn đội với tinh thần một đơn vị
kém chƣa có kinh nghiệm thời gian đã trở thành chủ công của trận địa Ngòi Lao.
Tập trung lực lƣợng phi pháo đánh phá Ngòi Lao khi gặp đội của ta, địch rời bỏ
Ngòi Lao quay đánh km 10, với tính chất cuốn chiếu từ trong đánh ra Lung Lô qua
Ngòi Lao đánh ra km 10, nhận định km 10 cũng là một trọng điểm của địch đánh
phá nên chủ lực 237 đƣợc bố trí làm nhiệm vụ vinh dự đó, trong số địch đánh 4
ngày từ ngày 30/4/1954 ngày 3/3/1954, ngày 20/6/1954, ngày 24/6/1954. Lần đầu
tiên chủ lực 237 xuất trận chiến đấu với quân địch trung đội phụ nữ và gồm một số
các trung đội khác đã nêu cao tinh thần chiến đấu của Đội đã gan dạ trong chiến
đấu để xây dựng, trận đánh ngày 30/5/1954 địch ném bom nổ chậm trên talu còn
bom nổ chậm cạnh chỗ làm việc của đơn vị chủ lực 20m, đội vẫn vừa làm vừa hô,
tiếng bom thứ nhất nổ dƣới sự chỉ dẫn của cán bộ C, đội đã nằm xuống tránh nguy
hiểm, tiếng bom nổ xong tiếng hát cất lên, nhƣ quên tiếng nổ khủng khiếp mới nổ
qua, quả bom thứ hai cũng trên ta-lu cách đội 30m nổ, lại nhƣ lần trƣớc đội vẫn
tránh bom và lại hò hát vang lên để làm động lực cho các đội khác, trƣớc những
tiếng hô dò ta thấy chỉ còn lại có đơn vị chủ lực vẫn miệng hát tay xếp kể để bảo
đảm xe qua, trƣớc hiện trạng đánh phá của địch, tiếng bom nổ chậm ban đêm nổ
đến liên tiếp, nhƣng về mặt phá bom đội đã đánh đƣợc một quả, mở đầu cho việc
kiểm điểm rút kinh nghiệm bồi bổ cho nghiệp vụ phá bom sau này. Có lần trung
đội phụ nữ, đƣợc điều cấp tốc từ km 10 vào Ngòi Lao lấp lại giao thông hành quân
trên chặng đƣờng dài 30 km đội vụ vẻ lên đƣờng và chiến đấu ở Ngòi Lao bên
cạnh đội Văn Chấn chủ lực 237 đã nêu cao vai trò chủ lực của đội, bom nổ đội vẫn
cứ làm, có đêm ngâm dƣới nƣớc lũ từ 8 giờ đến 2 giờ sáng để tăng cƣờng đƣờng
ngầm, xong lại đẩy xe bị lầy đến 7 giờ sáng làm 20 xe qua, đội mới quay về doanh
trại để nghỉ, chiến đấu bện cạnh chủ lực 237 Ty không quên nhắc đội tu bổ cung 2
và 3 của Hạt Trấn Yên, trong mấy trận đánh km 10, trƣớc những giờ chiến đấu ác
liệt lấp lại giao thông đội tu bổ của Cung 2, Cung 1 Trấn 1 có bom nổ chậm đội
vẫn vào chiến đấu có lần đẩy ô tô suốt sáng, trong đội đã nảy nổ những đồng chí
khẩn trƣớc quyết tâm nhƣ đồng chí Bay, chị Lộc.
295
Trƣớc sự trƣởng thành của đơn vị, đồng chí C Trƣởng và Chính trị viên luôn
luôn bám sát trận địa, sau một trận đánh bom là đã có mặt. Đặc biệt quá trình chiến
đấu của 237 chị Nguyễn Thị Lan, thành phần bần nông sau mấy trận lập lại giao
thông anh em đã bầu làm chiến sĩ và đề nghị lên Hội đồng Cung cấp Mặt trận
Trung ƣơng đã đƣợc thƣởng Huân chƣơng Chiến sĩ hạng Ba, với những tinh thần
chiến đấu, mặt dầu bị bom, bị thƣơng ở đâu chị vẫn chiến đấu khi Ban Chỉ huy cho
nghỉ về đơn vị chị vẫn tiếp tục công tác không nghỉ, trong công tác luôn luôn xung
phong gƣơng mẫu, thân ái, đoàn kết với đồng đội, lôi kéo đồng đội tiến lên, về tăng
năng suất chị đã tăng đƣợc 175% so với tiêu chuẩn tăng năng suất.
Trong 8 tháng bảo đảm giao thông gay go, gian khổ, anh dũng chiến đấu nói
chung toàn bộ cán bộ lãnh đạo chúng ta đều lo lắng với nhiệm vụ, tự mình đã xác
định đƣợc nhiệm vụ của mình mà Đảng, Chính phủ giao cho để làm nhiệm vụ
chiến dịch lịch sử. Công tác bảo đảm giao thông phải dựa vào tổ chức bảo vệ cầu
đƣờng và thực tế nhân dân hai bên ven đƣờng đã tham gia thiết thực với công tác
đƣờng xá.
Các tổ chức bảo vệ cầu đƣờng của chúng ta tuy mới thành lập nhƣng quá
trình 8 tháng bảo đảm giao thông, nhân dân hai bên ven đƣờng 13 đóng góp vào
việc bảo đảm giao thông không phải là nhỏ.
Kiểm điểm lại qua các thời kỳ từ tháng 11 năm 1953 đến tháng 6 năm 1954
chúng ta thấy:
Nhân dân Thƣợng Bằng La trong tháng 11 năm 1953 từ km 60 6’-67 đến 69
Đèo Lũng Lô bị chôn lầy xe đi ngập pont, một đêm xe đi đƣợc 4 km. Đƣờng nhỏ
và lầy xe 1 pont qua lại luôn luôn phải đẩy, rất ảnh hƣởng tới kế hoạch vận chuyển
có ngƣời đã nói “Đèo Lũng Lô có thể cày mà đƣợc, quân của ta chia ra một đơn vị
chủ lực 236 làm suốt 7 ngày đêm cho đá vào vết bánh xe nhƣng không sao giải
quyết đƣợc thì đội nhân dân cao cả về cầu đƣờng đã huy động ra 80 ngƣời làm
trong 3 ngày để chống lầy, ngoài ra trong khi lầy gỗ chuyển dịch và phƣơng tiện
đều đƣợc nhân dân xã Thƣợng Bằng La hết sức giúp đỡ. Ngoài việc công tác thực
tế, nhân dân còn tập trung học tập phá bom và kỹ thuật để chiến đấu, có khi địch
đánh đèo, đội bảo vệ cầu đƣờng cũng ra để cùng lập lại giao thông.
296
Đội bảo vệ cầu đƣờng Chân Thịnh thƣờng xuyên cử 10 ngƣời ra với công
trƣờng để bảo đảm trong thời gian kế hoạch.
Đội Hùng Khánh một trung đội đƣợc Ty huấn luyện về bom nổ chậm đã ra
gác đài ở km 27 hàng ngày vừa làm công tác mặt đƣờng, vừa quan sát đài, để
chuẩn bị kế hoạch đánh bom, đội đã huy động nhân dân lấy 1.000 gỗ để chuẩn bị ở
km 27 chống địch phá, ngoài ra đội Cát Thịnh và Hùng Khánh còn giúp nhiều về
sông, để dùng vào việc cầu phao Ngòi Lao. Đội Âu Lâu, Hợp Ninh đã trực tiếp
tham gia hai trận đánh ở bến phà và km 10, giúp đỡ đan phên đƣợc 300 m và 2.000
gỗ chống lầy, các đội bến phà, Nguyễn Phũc, Vĩnh Bảo, Xuân Lan, Nam Cƣờng,
Cƣờng Thịnh khi làm cầu phao đã lấy ba ván nứa để làm cầu và đan phên chống
địch cũng nhƣ lật bãi cát cho xe qua lại trong thời gian 3 ngày.
Một thành tích đáng ghi nhớ và đáng kể là nhân dân các xã Binh Thuận, Đại
Lịch, Thƣợng Bằng La, Chân Thịnh, Cát Thịnh đã khai thông con đƣờng chạy từ
km 57 đến km 42 rút ngắn theo đƣờng 13 đƣợc 9 km với một số nhật công cứu
cuốc to lớn là 8.000 công của 800 ngƣời trong 10 ngày. Dƣới sự tận tụy và hƣớng
dẫn của hai đồng chí cán bộ chuyên môn và 3 đồng chí cán bộ chính trị cải cách
ruộng đất.
Trên đây là những công tác phục vụ cho mặt đƣờng chữa kể làm việc cho
thƣơng binh, dân quân du kích, công an canh gác bến phà Âu Lâu và dọc đƣờng 13
suốt trong thời gian bảo đảm giao thông.
Bên cạnh sự cố gắng của nhân dân ven đƣờng đứng về phía Ty lãnh đạo còn
những thiếu sót nhƣ:
Lúc đấu sự liên kết kém chặt chẽ sự giúp đỡ xã trong việc củng cố các đội
còn kém về chính trị, tổ chức cũng nhƣ về phƣơng tiện theo dõi khen thƣởng đối
với nhân dân chƣa làm đƣợc đầy đủ, mặc dầu đối với Âu Lâu trong trận đánh bom
km 10 có làm đƣợc một phần.
Đối với nhân dân tuy có sự sốt sắng nhƣ về mặt bảo đảm tiêu chuẩn của gỗ
lấy chƣa đúng, nên nhiều gỗ nhỏ không dùng vào việc lập lại giao thông đƣợc.
KHU BẾN ÂU LÂU ĐÃ HOÀN THÀNH NHIỆM VỤ VƢỢT YÊU
CẦU CỦA TRÊN ĐỀ RA
297
Bến phà hiện trạng lúc đầu, về mặt tinh thần tƣ tƣởng thủy thủ luôn luôn
diễn biến, muốn tới làm thì làm rồi lại về nhà, không sống tập thể, luôn luôn nêu
khó khăn trở ngại, dựa vào khuôn khổ tổ chức đều không muốn. Đi làm mắng mỏ
cãi nhau, cãi nhau cả với khách hàng làm mất ảnh hƣởng nhân dân, chỗ ăn chỗ ở
lộn xộn, suy tỵ từng miến với nhau xảy ra xích mích.
Về mặt công tác thì một đêm chỉ bảo đảm đƣợc có 8 xe đến 10 xe là tối đa,
mặc dầu có ca-nô. Đang làm nghề thấy máy bay bỏ chạy, khi địch đánh ngày
7/11/1954 thì đồng chí Trƣởng ban Chỉ huy chỉ còn đồng chí Niên ở lại, còn phần
lớn bỏ chạy theo gia đình vào rừng Âu Lâu. Bắc cầu trung bình từ 20 phút đến 25
phút, dấu phà chìm lầy lên mất 2 tiếng đồng hồ.
Trƣớc hoàn cảnh đó, thực là nguy kịch, cán bộ của nhà xƣởng củng cố, cán
bộ của công trƣờng 13 xuống, ngƣời này qua ngƣời khác nhƣng chỉ ở một thời gian
ngắn rồi lại đi, có đêm có bỏ lại hàng 20 xe là lúc bắt đầu vào chiến dịch đang lúc
tiến quân.
Trƣớc hoàn cảnh khó khăn đó, Ty ta luôn luông đƣợc gọi tới để kiểm điểm
về mặt lãnh đạo bến phà với hiện tƣợng đó nên đã đề nghị với Bến và Tỉnh ủy để
bổ sung cán bộ cho bến. Theo tiêu chuẩn của trên là một ủy viên. Mặc dầu hoàn
cảnh công tác tỉnh ủy và Ủy ban cƣơng quyết đƣa một đồng chí cán bộ đoàn thể
phụ trách tổ chức chính quyền sang để phụ trách (đồng chí Đạt).
Vấn đề đặt ra đầu tiên với Bến phà là chấn chỉnh tổ chức, căn bản là giải
quyết tƣ tƣởng cho thủy thủ. Lớp học ngắn hạn đã đƣợc mở để học tập. Một mặt
xét lại lý lịch và quá trình công tác của thủy thủ để sa thải những phần tử ƣơn hèn,
một mặt bổ sung quân số tuyển lựa các anh em, thành phần bần cố nông ở các xã
phát động quần chúng chờ đợi để đủ số bảo đảm kế hoạch.
Qua quá trình của bảo đảm nhiệm vụ giao thông, vừa chấn chỉnh tổ chức,
cán bộ quyết tâm đi sát, nắm vững phƣơng châm giáo dục là chủ yếu và chấn chỉnh
tổ chức xây dựng cho anh em thủy thủ một quyết tâm làm tròn nhiệm vụ.
Đến nay đội thủy thủ đã trở thành một đơn vị tƣơng đối vững chắc để bảo
đảm bến. Qua thời gian bảo đảm, vừa rồi bến đã tiến một bƣớc khá mạnh cả về mặt
tƣ tƣởng và mặt tổ chức và công tác khẩn cấp cần phải bảo đảm kế hoạch đã nắm
298
vững lƣu lƣợng qua sông, Cục Vận tải lại điều thêm đồng chí Thái về nằm hẳn
trong Ban chỉ huy để xây dựng và lãnh đạo. Cán bộ đƣợc tăng cƣờng và thống nhất
nên cũng thống nhất đƣợc yên vị. Những đêm lƣu lƣợng nhiều, bến phà thƣờng
phải dùng tới 4 phà 12 tấn, 11 tấn, 10 tấn, 3 tấn và 2 máy để bảo đảm lƣu lƣợng.
Sự chú ý của Thủ trƣởng Lê Dung và ông Thủ trƣởng Nguyễn Trần cũng làm cho
thủy thủ, cán bộ phấn khởi. Có lần thủ trƣởng Nguyễn Trân mang các đồ chính phủ
tặng ca nô xuống tới nơi cho. Sự có mặt đó động viên và làm cho anh em nhận rõ
tầm quan trọng của bến phà Âu Lâu, nói có hỏng của đƣờng 13 và đƣờng tiến quân
Tây Bắc. Những ngày có kế hoạch phao qua là ngày Ủy ban tỉnh cử đại diện Ủy
ban họp đồng chí Trƣởng Ty trực tiếp phụ trách để bảo đảm kế hoạch qua sông,
thống nhất mới lực lƣợng. Với hoàn cảnh mực nƣớc lên xuống thất thƣờng, có đêm
phải thay đổi bến 3, 4 lẫn mức nƣớc lên đến 2m50 đến 3m50.
So với mức và yêu cầu của trên, bến phà Âu Lâu đã đạt đƣợc nhiều thành
tích:
1. Về bắc cầu, trƣớc phải 9 ngƣời bắc trong 20 phút và 25 phút nay chỉ có
mất 3 hoặc 4 phút mà phải dùng mất 6 ngƣời.
2. Tiêu chuẩn một đêm là 70 chuyến mà trƣớc đây hồi tiến quân chỉ bảo đảm
đƣợc có 8 đến 10 xe, nay có bảo đêm bảo đảm kế hoạch chở gạo qua đã đột xuất
tới 96 xe khả năng có thể bảo đảm đƣợc 102 xe qua trong một đêm.
3. Phà đậu chìm trƣớc mất hai giờ lấy lên, nay cải tiến kỹ thuật của những
buổi đi học tập rút kinh nghiệm, các bến Bình Ca, Đoan Hùng, Giả Du và Tả Khoa
nên lấy phà chìm nay chỉ mất có 30 đến 45 một phút.
4. Tốc độ qua, trƣớc đi mất 20 phút nay chỉ có 13 phút là trung bình qua
đƣợc
5. Trƣớc qua một huyện phải mất dầu litre 300 hay hai litre tới nay chỉ mất 0
litre 800 hoặc 1 litre một huyện từ Âu Lâu đi Yên Bái.
Trƣớc đấy khi nghe tiếng máy bay tới, đội thủy thủ lúng túng, sợ sệt, trong
tháng 1 năm 1954 địch bay luôn ban đêm thử pháo sáng, nhƣng đội thủy vận bình
tĩnh cho phà qua sông đi vào bờ. Sự ăn ở của anh em đã vào tổ chức, nề nếp, có
chỗ ăn chỗ ngủ, có giờ giấc hẳn hoi, học tập chính trị, nề nếp thi đua từng đợt đã
299
trở thành một nguyên tắc đối với bến phà. Qua thời gian bảo đảm giao thông, bến
phà đã nảy nở nhiều chiến sĩ và cá nhân gƣơng mẫu đã đƣợc thƣởng Huân chƣơng
Hạng Ba cho toàn đơn vị, cá nhân chiến sĩ đã đƣợc Huân chƣơng Chiến sĩ hạng Ba
và đƣợc bằng khen của Hội đồng Cung cấp, Ủy ban tỉnh, Ty Giao thông công
chính. Chiến sĩ Tiến là ngƣời có thành tích trong kế hoạch bảo đảm giao thông cho
chiến thắng Nghĩa Lộ, nay quá trình này lại nêu cao vài trò gƣơng mẫu tổng số lƣu
lƣợng của bến phà Âu Lâu qua sông;
Ô tô Xe ngựa Ba gác Bộ đội Cán bộ
Xe đạp Xe bò Xe thồ Dân công Tù binh
Ngoài các lực lƣợng phải bảo đảm khi tiến quân cũng nhƣ hồi quân, ngoài
lực lƣợng phà phải bảo đảm cỏ lau đã trƣng dụng hàng 100 thuyền nên để bảo đảm
lực lƣợng qua sông, và Ban vƣợt sông đƣợc thành lập để bảo đảm kế hoạch.
Quá trình chiến đấu, xây dựng đội thủy thủ và tổ chức đội trƣởng thành
trong chiến đấu nguyên nhân sự trƣởng thành đó là do chính anh em cũng phấn
khởi trƣớc nhiệm vụ nhận rõ yêu cầu và bảo đảm nhận rõ tính chất quan trọng của
kế hoạch, ý nghĩa chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ một phần là do trên luôn luôn
chú ý giúp đỡ, một mặt khác đa số anh em là quần chúng cơ bản đƣợc rèn dũa
trong đấu tranh phát động quần chúng giảm tô nên hăng hái hoạt động cộng thêm
sự quyết tâm của cán bộ đi sát ngày mƣa đến ngày nắng, không lúc nào xa rời anh
em. Bên cạnh những trƣởng thành anh dũng đó, cũng còn những khuyết điểm nhƣ
sau:
1. Tuy về mặt tổ chức và tƣ tƣởng có tiến bộ nhƣng việc nắm vững tƣ tƣởng
chƣa sát, chƣa nắm phƣơng châm giáo dục là chủ yếu, vụng nên kiểm thảo nặng
nề, dùng quần chúng áp đảo làm ngƣời có khuyết điểm không tự nguyện, tự giác
nhận. Nặng về mặt chấn chỉnh tổ chức, đƣa ngƣời ra chỉ muốn cho yên chuyện, đỡ
gai mắt.
2. Về sinh hoạt, tuy có làm nhƣng không thƣờng xuyên vì vậy chƣa giải
quyết đƣợc kịp thời thắc mắc của anh em, đồng thời chƣa tận tụy và phát huy đƣợc
khả năng của anh em quần chúng thủy thủ, chƣa bồi dƣỡng đƣợc cán bộ và chiến sĩ
thi đua làm động cơ thúc đẩy phong trào tiến lên.
300
3. Về phần áp dụng những kinh nghiệm cũng còn ít, chƣa chịu nghiên cứu
để cải tiến kỹ thuật, mới khi làm xong một việc ít chịu tổng kết để phổ biển và
nâng cao trình độ nghiệp vụ của anh em.
4. Sự hoạt động của chính quyền mạnh, nhƣng về mặt Công đoàn các đoàn
thể chƣa hoạt động đƣợc nhiều để kết hợp chặt ché.
LẬP LẠI GIAO THÔNG NHỮNG TRẬN ĐÁNH
Sự đánh phá của địch gay go ác liệt, đợt tiến quân của ta, tuy địch có đánh
nhƣng không gay gắt nhƣ đợt hội quân. Trong các trận đánh bom, nhiều cán bộ đều
trực tiếp lãnh đạo và có mặt tại mặt đƣờng để giải quyết định phƣơng châm. Cán
bộ phải bám sát trận địa và quyết tâm gƣơng mẫu nhƣ các trận đánh bom nào cũng
có mặt cán bộ ngay tại trận địa, các cán bộ chính trị, chuyên môn đều tận tụy, có
khi vào trận địa trƣớc để làm gƣơng mẫu cho anh em dân công, chủ lục. Các cán
bộ thƣờng thƣờng đến trƣớc hố bom hoặc qua lại luôn để kiểm tra đôn đốc. Lực
lƣợng bố trí với trọng điểm tƣơng đối đầy đủ tại Ngòi Lao nhận định nặng về mùa
lũ hơn về địch đánh phá.
Quá trình 8 tháng, địch tập trung đánh các trọng điểm nên làm cho một số
ngày đƣờng bị tắc cũng ảnh hƣởng tới kế hoạch theo lịch trình nhƣ sau đây:
Ngày 9/10/1953 Đèo Lũng Lô tắc 2 đêm.
Ngày 7/11/1953 Bến phà Âu Lâu tắc 1 đêm.
Ngày 8/11/1953 km 27 Đập Thiện tắc 1 đêm.
Ngày 2/12/1953 Đèo Lũng Lô tắc 1 đêm.
Ngày 18/1/1954 cụm phà tắc 1 đêm.
Ngày 5/4/1954 Đèo Lũng Lô tắc 1 đêm.
Ngày 8/4/1954 Đèo Lũng Lô tắc 1 đêm.
Ngày 11/4/1954 Đèo Lũng Lô tắc 1 đêm.
Ngày 15/4/1954 Đèo Lũng Lô tắc 1 đêm.
Ngày 17/4/1954 Đèo Lũng Lô tắc 1 đêm.
Ngày 3/5/1954 Cây số 10 tắc 1 đêm.
Ngày 4, 5/5/1954 Đèo Lũng Lô tắc 2 đêm.
Ngày 24/5/1954 tắc 1 đêm.
301
Ngày 27/5/1954 Ngòi Lao tắc 1 đêm.
Ngày 5/6/1954 Ngòi Lao tắc 1 đêm.
Ngày 8, 9, 10/6/1954 Đèo Lũng Lô tắc 3 đêm.
Ngày 9, 10/6/1954 tắc 2 đêm vỡ đƣờng ngầm.
Ngày 11, 12, 13, 14, 15/6/1954 Ngòi Lao tắc 5 đêm.
Ngày 17, 18/6/1954 Ngòi Lao tắc 2 đêm.
Ngày 23/6/1954 Km 10 tắc 1 đêm.
Tổng cộng: 30 đêm trong 8 tháng.
Trong những đêm tắc nguyên nhân có nhiều điểm khác nhau:
1. Do bom nổ chậm: Nổ liên tiếp không nắm đƣợc địch tính cụ thể nên việc
điều quân vào làm chậm. Do đó, có khi làm một suốt sáng không bảo đảm xe qua
(km 10).
2. Việc chuẩn bị các phƣơng tiện nhƣ ron-đin, phên, thiếu dây dù nên khi lấp
lại giao thông thiếu phƣơng tiện (Ngòi Lao, đợt sau).
3. Cán bộ thiếu trách nhiệm, quyết tâm nên không trực tiếp lãnh đạo dân
công và trận địa hoặc có khi một quả bom nổ anh em dân công chạy chỉ còn lại
một số lực lƣợng không giải quyết nổi (ở Đèo tháng 12 năm 1954).
4. Khối lƣợng nhiều quá không đủ lực lƣợng và không điều quân tới kịp nên
bị tắc (Ngòi Lao).
5. Trong khi lấp lại giao thông, chủ quan tính khối lƣợng không sát, hoặc coi
thƣờng cho là khối lƣợng ít, bố trí quân ít, đến khi hóa khối lƣợng to và nhiều lực
lƣợng không đủ đảm bảo hoặc có chỗ thì khối lƣợng nhiều địa hình địa vật nhỏ
hẹp, không bố trí đủ quân số vào chỗ đó thừa quân phải làm chỗ khác, mặc dầu đã
áp dụng lối đội này vào làm, đội kia ra thay đổi nhau.
6. Nhiều đơn vị khi ra là lại giao thông không mang đủ phƣơng tiện thiếu
chuẩn bị trƣớc nên khi ra không đủ dụng cụ làm hoặc có cái này thiếu cái khác,
rìu, cƣa, đục, v.v… vì vậy có khi chỉ vƣớng một chút mà đƣờng vẫn không qua
đƣợc (cây và đã ở đèo) nên gây nhiều lãng phí của nhân dân của chính phủ, tóm lại
những nguyên nhân nhất là:
- Thiếu phƣơng tiện chuẩn bị trƣớc.
302
- Không nắm đƣợc tình hình.
- Ảnh hƣởng của bom nổ chậm.
Trong 8 tháng bảo đảm giao thông chúng ta đã chiến đấu gay go với địch,
nhiều đồng chí đã đƣợc biểu dƣơng khen thƣởng hoặc bị kỷ luật về trách nhiệm
của mình thiếu.
Bên cạnh chiến công vẻ vang đó chúng ta cũng thƣơng tiếc các chiến sĩ và
cán bộ bị hy sinh về chiến đấu, tổng số 32 ngƣời đã hy sinh, trong đó có cả công
binh, dân công, chủ lực.
Trong số này có 2 cán bộ là tham sự chuyên môn và một cán bộ cải cách
ruộng đất, nguyên nhân bị hy sinh là không nắm vững quy luật của bom hoặc bị
đất đã bắn phải mà hy sinh nhƣ Ngòi Lao.
SỰ LÃNH ĐẠO CỦA TY VỀ MỌI MẶT TUY CÓ TIẾN BỘ SONG
CŨNG CÕN KHUYẾT ĐIỂM CẦN PHẢI NGHIÊM KHẮC SỬA CHỮA
Lãnh đạo về phần chính trị:
Trong thời gian bảo đảm giao thông có phát động các đợt thi đua sau từng
đợt để khen thƣởng bồi dƣỡng kịp thời, nhƣng chƣa làm đƣợc sâu rộng và hầu hết
các nơi nên cũng còn sót các anh em có thành tích chƣa làm đƣợc.
Đối với sự giúp đỡ lãnh đạo tƣ tƣởng của bên dƣới có tài liệu có gửi để anh
em nghiên cứu, học tập, hoặc các trận gay go ác liệt cũng xuống tận nơi bố trí lực
lƣợng, chuẩn bị tƣ tƣởng cho anh em dân công, thiếu một bộ phận theo dõi thƣờng
xuyên để có một chƣơng trình toàn bộ về công tác chính trị.
Việc vận dụng các lực lƣợng tổ chức tiến hành. Đối với quyền lợi thiết thân
hàng ngày vì làm thêm giờ, phải bồi dƣỡng cho anh em cán bộ cũng có làm đƣợc
một phần để bồi dƣỡng động viên anh em chiến đấu.
Nói chung gây phong trào thi đua cũng có nề nếp hết đợt này qua đợt khác,
cũng lấy những ngày kỷ niệm để đẩy mạnh phong trào hoàn thành nhiệm vụ và
công trình nhƣ, các công trình đã hoàn thành dịp ngày 19/5/1954.
- Ngồi Lấp (sau địch đánh phá).
- Đá Trắng.
- Dƣơng Mỹ, Thƣơng Bằng La.
303
Đại bộ phận các công trình đã hoàn thành đúng hạn định hoặc trƣớc một, hai
ngày. Song công tác liên hệ giữa địa phƣơng và công trƣờng để gắn chặt hậu
phƣơng với tiền tuyến chƣa làm đƣợc đặc biệt đối với các dân công mất tinh thần
sua những trận ném bom, việc tập hợp giải quyết tƣ tƣởng còn chậm và yếu nhƣ
các C của Văn Chấn, Ngòi Lao B Tân Tiến ở km 10. Hoặc đối với anh em dân
công địa phƣơng và Ty chƣa thăm hỏi ân cần đƣợc nhƣ trận đánh bom km 10 ngày
30/4/1954.
Trong quá trình chiến đấu, Ty đã khen thƣởng hoặc đề nghị khen thƣởng
đƣợc nhƣ sau và đã nảy nở đƣợc nhiều cán bộ và chiến sĩ gƣơng mẫu:
- 2 Huân chƣơng của đơn vị C236 và Bến phà Âu Lâu.
- 3 Huân chƣơng cá nhân.
- 1 cờ Hội đồng Cung cấp.
- 20 bằng Hội đồng Cung cấp.
- 25 bằng của Ủy ban tỉnh.
- 15 Công Chính khu.
- 90 giấy khen của Ty.
Lãnh đạo về mặt kỹ thuật:
Trong công tác bảo đảm giao thông tuyệt đối phƣơng châm cụ thể của nó mà
các cán bộ cần phải nắm là lấp lại giao thông là chủ yếu, củng cố mặt đƣờng và
mở rộng là thứ yếu, với phƣơng châm đó nên về mặt lãnh đạo kỹ thuật cũng phải
giải quyết các trận đánh bom mới nhanh chóng bảo đảm đƣợc xe qua, tranh thủ
từng giờ từng phút với địch.
Nói chung việc lãnh đạo tƣ tƣởng để nắm vững phƣơng châm do tƣơng đối
thẩm nhuần và thực hiện đƣợc trong việc lấp lại giao thông thƣờng thƣờng trên
quan điểm tƣ tƣởng kỹ thuật. Nếu không nhận rõ để đi vào tƣ tƣởng cầu toàn,
muốn vĩnh viễn, hoặc đẹp, hoặc bền lâu, thì sẽ không tranh thủ đƣợc. Trong quá
trình chúng ta thấy các nơi đều làm đƣợc và thực hiện đƣợc, nhƣng qua các thời kỳ
nó vẫn thể hiện những sai lầm tỏ ra chƣa nắm vững đƣợc tƣ tƣởng trong bảo đảm
giao thông.

304
1. Trong thời gian chống lầy, trên nhận thức tƣ tƣởng cảu đồng chí Lợi Hạt
phó Văn Chấn cho là phải chuẩn bị đầy đủ đã, cấp phối, khi có đủ các nguyên vật
liệu rồi mới giải để chống lấy. Trong khi đó xe qua bị ngập pont, đƣờng hai vẹt
bánh xe sau tới 4, 5 mƣơi phân (km 42 đến km 50+500), vì vậy nếu cứ cho quân
chuẩn bị dƣ dả, xe qua lại khó không đi đƣợc ảnh hƣởng tới tốc độ của xe mà
không nhận thấy cứ chuẩn bị đƣợc đến đâu cho làm đến đấy, vừa tranh thủ giải để
bảo đảm tốc độ xe vừa chuẩn bị.
2. Trong trận đánh km 10, khi lấp lại giao thông thì kẻ một đƣờng chạy giữa
hố bom sau tới 6 m rồi bắt hai đầu xe để xe qua, trong lúc đó đƣờng có thể dành
theo men miệng hố bom đƣợc, làm nhƣ vậy vừa tốn công vừa khong bảo đảm. Khi
mƣa, hai bên kè đƣờng là hai cái ao đƣờng chạy giữa bị ruộng đất xe qua bị lún do
dọc các xe khó lên, cũ mới lấn lên là phải đẩy (trƣờng hợp hay hố bom la-cet, cây
số 60 đèo cũng bị nhƣ vậy).
3. Trong những trận đánh bom nếu tƣ tƣởng kỹ thuật của cán bộ vững thì có
thể quyết định cách làm và nắm vững giờ xe qua đƣợc. Nhƣng có đồng chí cán bộ
chƣa thực tin vào kỹ thuật của mình nên rụt rè, nửa tin nửa ngờ, nên giải quyết kỹ
thuật có khi không sát, không dám quyết định.
4. Quan niệm kỹ thuật là một vấn đề phải hoàn toàn chuyên môn nên phải có
cán bộ chuyên môn làm mới đƣợc và phải có trình độ chuyên môn khá.
5. Đối với các cán bộ bên dƣới chƣa làm cho anh em coi trọng kỹ thuật làm
sao vấn đề kỹ thuật cũng phải đƣợc đẩy ngang bằng để tổ chức và tƣ tƣởng thi
công tác mới giải quyết đƣợc nhanh chóng và kịp thời.
Đối với kế hoạch và lãnh đạo của Ty chƣa đƣợc sát với hoàn cảnh thực tế ở
địa phƣơng chỉ giải quyết nên cũng gây lãng phí của nhân dân, không đến tận nơi
để đặt, đến khi làm rồi lại bỏ nhƣ mở cầu Ngòi Lao về mặt kỹ thuật cán bộ thƣờng
không đồng ý kiến với nhau trong khi quyết định mỗi ngƣời một nhận thức. Đối
với sự lãnh đạo kỹ thuật nếu không có một nhận thức đúng sẽ làm sai lạc nhƣ việc
xếp kê làm cầu không sát để bảo đảm tiêu chuẩn kỹ thuật sẽ làm không nhƣ các
khuyết điểm sau của các công trình. Ngòi Lao mặt đƣờng ngấm không thăng bằng
phía Sơn La cao hơn phía Yên Bái thấp hơn nên nƣớc chảy dồn về một bên, phía
305
hạ lƣu đƣờng ngầm chắn đƣờng ngầm chƣa xếp thoải theo độ dốc 5 phân 10 khẩu
do cầu của công trình Ngoi Lau quá rộng rãi với dầm gỗ cho nên sƣu tầm gỗ làm
dầm khó và tốn công vận chuyển, mỏ chống lề thì hẹp.
- Việc làm cầu phao qua sông việc nghiên cứu kỹ thuật quay cần không sát
cũng nhƣ làm bến phà tính theo ý trí kỹ thuật chủ quan nên không sát thực tế. Do
đó cầu rộng khó quay bến làm không đúng đƣợc nên cũng lãng phí một số dân
công.
VỀ MẶT CUNG CẤP TRONG THỜI GIAN QUA CÓ NHIỀU ĐIỂM
TIẾN BỘ NHƢNG CŨNG CÕN SAI LẦM
Về mặt cung cấp, trƣớc đây nhƣ hồi công trƣờng có nhiều thiếu sót. Do đó,
khi tổng kết công trƣờng quyết toán chi tiêu lung tung tới gần một năm mới xong
đƣợc rút kinh nghiệm do bộ máy cung cấp đƣợc kiện toàn đã theo dõi và cấp phát
kịp thời cho nhu cầu chiến dịch, một mặt khác các cán bộ của bộ phận Cung cấp
cũng cố gắng đề cao trách nhiệm để cấp phát đƣợc kịp thời, chế độ cấp phát viên
cũng giải quyết đƣợc nhiều khó khăn và nắm sát đƣợc tình hình, giải quyết đƣợc
kịp thời nhanh chóng, chính cũng vì thế mà cũng đẩy mạnh đƣợc tình thần tƣ
tƣởng dân công trong chiến dịch và tăng năng suất.
Hội nghị Cung cấp của Nha đã giúp cho Ty một phần lớn công tác quản lý
tai chính làm cho công việc quyết toán đƣợc gọn gàng. Đang trong hoàn cảnh của
kiến thiết, ý thức tƣ tƣởng của cán bộ đang chi tiêu rộng rãi vì sự quản lý của Ty
chƣa đƣợc chặt chẽ, sát nên sau khi củng cố đƣợc bộ máy Cung Tài đƣa dần vào nề
nếp thì cán bộ khó chịu, kêu ca, phàn nàn vì chƣa đứng trên quan niệm thăng bằng
thu chi chỉ trong một phía sử dụng, nhƣng một mặt khác cán bộ Cung Tài cũng còn
khuyết điểm là đôi khi cũng còn máy móc chƣa linh động trong phạm vị không
ngoài nguyên tắc và chính sách, chƣa biết kết hợp chính sách này với chính sách
khác để giải quyết và khi giải quyết chƣa thực sự hoàn toàn đứng trên quan điểm
lập trƣờng giai cấp mà giải quyết, việc cấp phát bằng hiện vật đã thực hiện đƣợc
một phần lớn và gọn trong các bộ phận giúp việc Ty ta thấy so với hồi công
trƣờng, bộ phận Cung cấp tiến bộ, nhất chính đã giúp cho thủ trƣởng nắm vứng
tình hình chặt chẽ hơn.
306
Trong phần cung cấp, Ty không quên nhắc tới trạm sản xuất một bộ phận
trong thời gian qua đã đƣợc tiến bộ nhiều về mặt sản xuất và mặt tổ chức. Tự cho
cách làm ăn còn luôm thuộm, sản xuất không có tiêu chuẩn, cung cấp chƣa kịp
thời, tới nay chế độ báo cáo luôn luôn đƣợc chấp hành nghiêm chỉnh, đều đặn, sản
xuất ra các tiêu chuẩn đang dần dần xây dựng một tiêu chuẩn năng suất cao hơn.
Trong thời gian qua về phà cũng làm đƣợc chu đáo, các kế hoạch của Ty đề ra đã
thực hiện đƣợc 90%. Anh em trong trạm tích cực thống nhất nội bộ để sản xuất với
tinh thần bảo đảm giao thông tuyệt đối phục vụ cho kế hoạch mặt đƣờng, mặc dầu
còn có một vài cá nhân trong trạm chƣa ổn định nhƣng chỉ là một số rất nhỏ, do
diêm nhất là một đồng chí trƣớc kém ý thức, ăn nói lung tung, tự cao tự mãn, nay
đã đƣợc tập thể giúp đỡ, bản thân có nghiêm khắc với mình, đƣợc thêm Ty giải
quyết đƣợc nguyện vọng thích đáng nên đã tiến bộ trở thành cá nhân gƣơng mẫu
của trạm.
TỔNG SỐ CHI TIÊU VÀ SỐ NHÂN CÔNG ĐÃ DÙNG TRONG THỜI
GIAN BẢO ĐẢM GIAO THÔNG TIỀN PHƢƠNG
1. Nhân công
Loại công tác Dân công Tu bổ Chủ lục Cộng
tho CM
Công tác tu bổ thƣờng xuyên 19.870c5 8.937c 30.993c 59.800c5
Công tác tăng cƣờng tu bổ 9.646 c - - 9.646c
Công tác bảo đảm giao thông tiền phƣơng 123.354.5 - - 192.354.5
Cộng: 52.871c 8.937c 30.993c 192.801c
Tổng số công đã sử dụng 192.801 công phân tách nhƣ sau:
- Trực tiếp sản xuất: 144.426 công.
- Gián tiếp sản xuất: 48.375 công (gián tiếp: 41.641 công, tăng năng suất:
6.734 công).
Tổng cộng: 192.801 công.
Tỷ lệ công gián tiếp so với trực tiếp = 48.375 x 100 = 25%
192.801

307
2. Chi tiêu:
Loại công tác Tiền Quy thóc Thóc hiện Cộng thóc
vật
- Công tác tu bổ thƣờng 27.165.864đ 137.685 k 140.780 k 278.464 k
- Công tác tăng cƣờng tu bổ 1.032.846 5.335k5 14.713.5 20.049k
- Công tác bảo đảm giao 19.579.650 118.952 150.990.5 269.941.5
thông tiền phƣơng
Cộng: 47.778.360 261.975k5 306.484 k 568.454 k5
Tổng số chi tiêu trong 5 tháng đầu năm tính thần thóc: 568 Tấn 454.
Chúng ta đã hoàn thành nhiệm vụ căn bản của trên đề ra, chúng ta đạt đƣợc
những thành tích và hoàn thành đƣợc nhiệm vụ đó:
1. Trƣớc khó khăn trở ngại ấy, đƣợc trên hoàn toàn giúp đỡ cụ thể, nhƣ các
ông thủ trƣởng luôn luốn hỏi và xuống tận nơi giúp đỡ, Ủy ban Kháng chiến Hành
chính Khu và Khu Công Chính cũng cử đồng chí Khu Ủy viên thƣờng trực trực
tiếp phụ trách, và luôn luôn có ý kiến giúp đỡ, nhất là những lúc địch đánh phá, đối
với Ủy ban và tỉnh giúp đỡ vô điều kiện, cần thiết gì đƣợc giúp đỡ ngay cán bộ,
dân công, phƣơng tiện.
2. Nhân dân tỉnh ta đã đƣợc phát động gần hết khơi sâu lòng căm thù địch,
phát huy trí căm thù, càng thêm lòng yêu nƣớc nồng nàn, nên đã chiến đấu anh
dũng để lấp lại giao thông các cán bộ và công nhân viên đƣợc chỉnh huấn tự mình
đã xác nhận đƣợc trách nhiệm của mình mà trên trao cho, nhận rõ ý nghĩa quan
trọng của chiến dịch Điện Biên Phủ nên cố gắng tiến hành nhiệm vụ.
3. Sự phối hợp của ta với các cơ quan đƣợc vững chắc nhƣ Vận tải, Công an,
Tỉnh đội và Mậu dịch, Kho thóc, v.v… nên nắm tình hình vững để phục vụ kế
hoạch.
Trƣớc đà chiến thắng, trƣớc nhiệm vụ nặng nề với đà phấn khởi của ta đã đặt
trƣớc, chúng ta nhất định xây dựng ngành lớn mạnh và thành công.
Ngày 12 tháng 7 năm 1954
TRƢỞNG TY CÔNG CHÍNH YÊN BÁI
(Đã ký và đóng dấu)
Nguyễn Trung

308
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, phông Nha Giao thông, hồ sơ 648, tờ 178-
202

309
Báo cáo số 43/BC ngày 12/7/1954 của Ty Giao thông Công chính Yên
Bái về tổng kết chiến đấu lập lại giao thông ở Đèo Lũng Lô

310
TY GIAO THÔNG CÔNG VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÕA
CHÍNH TỈNH YÊN BÁI Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Số: 43/BC

TỔNG KẾT CHIẾN ĐẤU LẬP LẠI GIAO THÔNG


Ở ĐÈO LŨNG LÔ
Sau một thời gian làm nhiệm vụ bảo đảm giao thông chống địch phá chống
mùa lũ, Đèo Lũng Lô là một trọng điểm đánh phá của địch.
Đèo Lũng Lô chạy dài 12 km, hai phía đầu Yên Bái và Sơn La phải qua các
địa phận Sơn La qua 5 Latce, phía Yên Bái qua 3 Latcé dài 1 km, đƣờng ngoằn
nghèo chữ chi tầng trên tầng dƣới nên địch đã đánh phá và việc chiến đấu lập lại
giao thông của ta cũng có nhiều khó khăn.
Địch đánh phá chia làm 3 thời kỳ:
Thời kỳ chuẩn bị: Chiến dịch (tháng 12 và tháng 1 năm 1954) địch bắt đầu
đánh phá ở phía latce Sơn La trong 5 ngày thả 300 bom.
Thời kỳ quân ta tiến công: Thì sau một thời gian từ trung tuần tháng 1 đến
hết tháng 3, địch không đánh phá gì nhƣng sau khi chúng thất bại ở Him Lam và
Độc Lập thì chúng lại tích cực đánh phá. Lần này chúng đánh nhiều đoàn và đánh
tập trung trong một số ngày liên tiếp nhƣ phía Sơn La, chúng đánh 5 ngày liên,
phía Yên Bái chúng đánh 4 ngày liền, chúng đánh ròng rã tới cả km 73, tất cả 110
bom.
Thời kỳ hội quân: Sau khi tiếng súng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ
ngày 7/5/1954 thì ngày 8/5/1954, chúng đã bắt đầu đánh phá, rồi từ đấy chúng ra
sức đánh rất ác liệt, có ngày đánh tới 7, 8 đợt, tập trung hàng 30 phi pháo, ném tới
124 bom trong một ngày, đánh liền tới tấp từ 3 tới 7 ngày và đánh tập trung trên
một phạm vi nhất định, chúng hoàn toàn đánh laccet Sơn La tất cả 566 bom. Ngày
8/6/1954, địch thôi đánh.
Tóm lại: Sau hai tháng trời bảo đảm giao thông Đèo Lũng Lô đã chịu đựng
tất cả 976 bom, thật là một trọng điểm chiến đấu ác liệt và gian khổ trên chiến

311
tuyến giao thông vận tải với địch. Ngoài việc địch đánh phá, lại có nhiều trận mùa
lũ kết hợp với địch đánh gây cho ta nhiều khó khăn trở ngại.
I. CHUẨN BỊ CHIẾN ĐẤU
Trong việc lập lại giao thông là cuộc chiến đấu gay go quyết liệt nên phải có
một sự lãnh đạo, tổ chức chặt chẽ, có một sự chuẩn bị về tƣ tƣởng, phƣơng tiện thì
việc chỉ đạo mới đƣợc kịp thời, mặt khác mới chủ động chiến đấu với địch đƣợc.
Đèo Lũng Lô là một nơi ở chiến đấu tƣơng đối gay go trong đó có những thành
công, và thất bại cho nên chúng ta sẽ tổng kết lại một vài trận chiến đấu điển hình
rút kinh nghiệm để làm bài học lãnh đạo cũng và cũng là để sau này vì cuộc chiến
đấu trên tuyến chúng ta còn lâu dài và gian khổ.
II. TỔ CHỨC LÃNH ĐẠO
Lũng Lô là trọng điểm đánh phá của địch, đồng thời cũng là trọng điểm lớn
đối phó của ta, Ty đã nhận định đã đặt dƣới sự lãnh đạo trực tiếp của Ty và đã cử
các đồng chí cán bộ có khả năng, có trách nhiệm làm nhiệm vụ lãnh đạo, mặt khác,
các bộ phận khác, nhƣ vận tải, công an cũng cử cán bộ đến trực tiếp xuống làm
nhiệm vụ bảo vệ Đèo, Tổng quân ủy, Tổng cục Chính trị, Hội đồng Cung cấp Mặt
trận Trung ƣơng, cũng thƣờng xuyên cử cán bộ tới kiểm tra và giúp đỡ kế hoạch
chiến đấu, nhƣng về mặt tổ chức bộ máy lãnh đạo chung chia làm hai thời kỳ:
- Thời kỳ trƣớc: (từ tháng 2 đến tháng 4) thì Ty đã quyết định Ban Chấp
hành vƣợt đèo và do đồng chí C Trƣởng 236 làm trƣởng Ban, cũng một số các cán
bộ ở ngành khác tham gia, nhƣng vì trách nhiệm chƣa dứt khoát, quyền hạn của
từng bộ phận chƣa rành mạch nên các bộ phận khác tham gia Ban Chấp hành vƣợt
đèo chỉ có danh mà không có thực, mặt khác đồng chí Trƣởng Ban thiếu trách
nhiệm không chú ý đến việc xây dựng tổ chức bộ máy nên tổ chức linh tinh, phức
tạp ảnh hƣởng tới sự lãnh đạo chiến đấu lập lại giao thông thƣờng bị chậm và tắc.
- Thời kỳ sau từ tháng 5 đến tháng 7 tổ chức vƣợt Đèo đƣợc chỉnh đốn, Ty
cử đồng chí cán bộ vào phụ trách thay thế, cùng một số cán bộ của Nha, Vận tải,
Công an, công binh, thành lập Ban Chấp hành Vƣợt đèo, có quy định, phân công,
quyền hạn nhiệm vụ nhất định, nên tổ chức lãnh đạo đƣợc xây dựng một cách chặt
chẽ, bảo đảm đƣợc việc chỉ đạo chiến đầu khen thƣởng và kịp thời.
312
Nhƣ thế cho chúng ta một kinh nghiệm những nơi chiến đấu tƣơng đối ác
liệt, lực lƣợng chiến đấu nhiều cần phải có một tổ chức thật chặt chẽ, đồng chí cán
bộ phụ trách phải bảo đảm đƣợc tín nhiệm về khả năng, về trách nhiệm, nếu không
thì dù lực lƣợng có cũng không sử dụng đƣợc để chiến đấu.
Về mặt khác đã tập trung nhiều lực lƣợng mạnh, 18 công binh, 12 chủ lực và
có thời kỳ có tới 60 dân công, cùng một số các cán bộ chính trị và chuyển lên làm
nhiệm vụ lãnh đạo các đơn vị.
Có thể nói trong một phạm vi Đèo 14 km đã đƣợc tập trung về mặt lãnh đạo,
một lực lƣợng tƣơng đối đƣợc sát, đó cũng là một nguyên nhân căn bản trong việc
chiến đấu lập lại giao thông.
2. CHUẨN BỊ TƢ TƢỞNG
Về âm mƣu đánh phá của địch, nhiệm vụ bảo đảm giao thông gian khổ, lâu
dài nhƣng vô cùng vinh quang đã đƣợc phổ biến nhiều lần trong các hội nghị,
trong các tài liệu học tập. Mặt khác, đã kiên quyết triệt để nhƣng ý thức tƣ tƣởng
sai lầm nhƣ sợ chết, sợ khổ.
Việc lãnh đạo tƣ tƣởng trên tƣơng đối đƣợc chặt chẽ với cán bộ nhƣng một
thời kỳ còn coi nhẹ giáo dục cho dân công, mãi sau mới đƣợc thật chú trọng.
- Sau chiến thắng Điện Biên, Ban Chấp hành Vƣợt đèo đã kịp thời phát động
phong trào học tập sâu rộng từ cán bộ tới dân công, chủ lực, làm cho anh em nhận
rõ nhiệm vụ hội quân rất nặng nề, địch sẽ đánh phá ác liệt, chuẩn bị một tƣ tƣởng
chiến đấu khi học tập có kiểm thảo liên hệ.
- Mặt khác Ban chỉ huy Vƣợt đèo thƣờng xuống tận đơn vị chú trọng trong
các đơn vị kém giáo dục nhiệm vụ nhất là 3 C Lục Yên chƣa quen chiến đấu.
- Sinh hoạt và lãnh đạo giao Ban Chấp hành Vƣợt đèo với cán bộ phụ trách
đơn vị đƣợc đều, chặt chẽ nên kịp thời giải quyết những mắc mứu của các đơn vị.
Do việc lãnh đạo tƣ tƣởng đƣợc chặt chẽ, bản thân các cán bộ từ Ban Chấp
hành Vƣợt đèo với cán bộ phụ trách đều quyết tâm gƣơng mẫu nên đảm bảo đƣợc
việc lãnh đạo các đơn vị dân công, chủ lực chiến đấu dũng cảm chống địch phá,
chiến đấu gian khổ chống mƣa lũ, chiến đấu bên bom nổ chậm. Có thời kỳ làm
thâu đêm suốt sáng, nhƣng cũng không biết mệt mỏi hàng 4, 5 đêm liền dầm mƣa
313
để bóc bùn anh em vẫn phấn khởi có những đơn vị vƣợt suối lũ, hành quân xa hàng
12 cây số trong 5, 6 đêm liền để lập lại giao thông, chiến đấu nhƣ vậy mà quân số
vẫn bảo đảm và có những đơn vị còn tăng, nhiều đồng chí ốm đau cũng tranh thủ
ra mặt đƣờng khi phải cƣơng quyết cho về mới chịu về, những đêm giao thông bị
tắc anh em rất lo lắng, điều đó chứng tỏ tầm quan trọng của việc lập lại giao thông
đã thấm vào đáy lòng mỗi ngƣời chủ lực dân công, cả những đơn vị Lục Yên có
đồng bào thiểu số chƣa dày dạn chiến đấu sau trở thành những đơn vị chiến đấu
khá ở Đèo, khi ra lập lại giao thông ở Ngòi Lao càng tỏ ra gan dạ và quyết tâm nên
đã góp một phần căn bản trong việc lập lại giao thông ở đây.
Việc giáo dục tƣ tƣởng, xây dựng quyết tâm chiến đấu cho các lực lƣợng ở
Đèo, về căn bản đã nắm đƣợc, nguyên nhân chủ yếu vì nhìn trƣớc và nắm vững
đƣợc những tƣ tƣởng sai lầm của cán bộ và anh em, mặt khác bản thân cán bộ xung
phong gƣơng mẫu trong mọi trƣờng hợp. Muốn xây dựng đƣợc quyết tâm cho đơn
vị thì trƣớc tiên phải xây dựng đƣợc quyết tâm cho cán bộ, ngƣời cán bộ có đƣợc
quyết tâm thì họ sẽ biến thành quyết tâm của quần chúng.
3. CHUẨN BỊ PHƢƠNG TIỆN
Để chủ động chiến đấu kịp thời vì những trận đánh của địch ngoài việc xây
dựng tổ chức lãnh đạo, giáo dục tƣ tƣởng thì việc chuẩn bị phƣơng tiện chiến đấu
rất cần thiết và có tác dụng trong việc lập lại giao thông nhanh hay chậm, nó sẽ
quyết định. Việc chuẩn bị phƣơng tiện ở Đèo cũng có những thành công và thất
bại:
- Thời kỳ trƣớc không chuẩn bị ronđin cọc và phên nên khi lấp hố bom, xếp
kè, chống lầy tốn rất nhiều công, và có khi lấp xong giao thông xe qua bị lún nhiều
không có gì cứu chữa nên xe qua bị chậm hay chỉ qua đƣợc một vài xe nhƣ một
đêm 0 cây số 69.
- Thời kỳ sau phải hai bên đèo đã đƣợc chuẩn bị đƣợc một ván rođin và cọc,
1.500 thƣớc femen khi chiến đấu chống địch phá chống lầy lún đƣợc kịp thời,
nhiều trận chiến đấu đã chứng tỏ khi bom bi mặt đƣờng hay sát đƣờng, khi đó có
phƣơng tiện thì làm rất nhanh chóng.

314
- Việc chuẩn bị dụng cụ trong khi chiến đấu cũng cần đƣợc kịp thời và chu
đáo, cũng có nhiều đêm chiến đấu việc nắm tình hình khối lƣợng không sát nên khi
ra đƣờng nhiều cái này không cái khác lại phải chờ ngƣời về lán trại lấy.
Thí dụ: Ngày 8/5 đá ở laccet 5 lán xuống mặt đƣờng 30 cube mà chỉ báo có
có 10 cube nên đem ít thuốc nổ, ít dụng cụ làm đá, do đó đƣờng chỗ khác thông 9
giờ mà ở đó mãi 10 giờ 30 mới thông. Do kinh nghiệm bản thân nên những lần
địch đánh các đơn vị có dụng cụ gì đều phải mang theo bằng hết, ngoài ra những
dụng cụ nhƣ cƣa, để chặt cây, dụng cụ phá đá thì tùy theo sự cần thiết mà mang
nhiều hay ít.
Do thực tế chiến đấu cho chúng ta thấy nắm vững đƣợc tình hình chuẩn bị
phƣơng tiện đƣợc đầy đủ tức là chúng ta đã chủ động trong việc chống địch đánh
phá, một mặt khác chuẩn bị đƣợc đầy đủ là đã thành công một nửa trong việc chiến
đấu, nó không khác gì việc chuẩn bị chiến trƣờng, trong một trận chiến đấu hay
một chiến dịch của bộ đội ta ở tiền tuyến.
II. LÃNH ĐẠO CHIẾN ĐẤU
Ở Đèo đã qua tất cả 31 trận chiến đấu lập lại giao thông ở đây chúng tôi xin
báo cáo một điển hình chiến đấu thành công, và một điển hình thất bại, sau đó
chúng ta sẽ rút ra những kinh nghiệm chung.
- Một cuộc chiến đấu thành công:
Ngày 24/5 địch dùng tới 30 phi cơ ném trong một giờ tất cả 124 bom trong
đó có 17 bom nổ chậm (ở mặt đƣờng và ven đƣờng 17 quả). Sau khi địch đánh
xong thì đài quan sát đã xuống trận địa để thuôn bom, điều tra sự thất bại. Đƣờng
bị hỏng nhiều suốt 5 laccet đều có hố bom và đất sụt, khối lƣợng tới 1.500 cube, có
lacet bị trúng 5 quả bom liền nhau, cắt đứt hẳn quãng đƣờng 50 thƣớc.
Với tình hình ấy, muốn để lấp lại giao thông đƣợc nhanh chóng Ban Chấp
hành Vƣợt đèo quyết định cho đội phá bom của chủ lực và công binh tranh thủ
đánh bom ngay từ 3 giờ chiều, trong khi anh em đánh bom thì 2 quả ở trên rừng nổ
cách 20 mét, đến 4 giời thì một quả ở mặt đƣờng nổ làm thƣơng vong 4 dân công
công binh. Trƣớc sự hy sinh ấy đã kịp thời khơi sâu căm thù giặc, động viên lòng
quyết tâm chiến đấu của anh em, nên anh em không hoang mang mà ngƣợc lại
315
càng xung phong vào trận địa để trả thù cho 4 dân công. Anh em lại tiếp tục chiến
đấu đến 6 giờ tối vẫn còn 5 quả ở mặt đƣờng thuôn chƣa thấy.
Về dân công thì sau khi địch đánh Ban Chấp hành Vƣợt đèo đã trực tiếp giao
trách nhiệm cho các cán bộ về chuẩn bị tƣ tƣởng chiến đấu cho anh em và 7 giờ tối
các lực lƣợng toàn đèo đã đầy đủ có mặt ở hai đầu laccet đợi lệnh vào lập lại giao
thông mặt dầu việc hi sinh của 4 đồng chí công binh anh chị em đều biết. Một số
nhỏ có dao động nhƣng thấy cán bộ quyết tâm nên không có biểu hiện một hành
động cụ thể làm sai lầm.
Sau khi xem xét tình hình trận địa tuy 5 quả bom nổ chậm vẫn còn, anh em
chủ lực công binh đang tích cực vƣợt đèo, nên lúc đầu Ban Chấp hành Vƣợt đèo
mới điều 1 C chủ lực và 1 C dân công khá vào trƣớc làm ở những nơi tƣơng đối an
toàn, sau đó mới điều toàn bộ lực lƣợng vào để lập lại giao thông có cả 1 C chủ lực
22 và 1 C dân công phối hợp.
- Khi điều quân vào những nới đã định Ban Chấp hành Vƣợt đèo thống nhất
kế hoạch sửa chữa với các đồng chí cán bộ phụ trách và giao cho một trách nhiệm
dứt khoát và trong một phạm vi nhất định ở những nơi gần bom nổ chậm thì cử
những đơn vị chủ lực và các C dân công chiến đấu khá. Trƣớc khi điều thì các cán
bộ đều đả thông những tƣ tƣởng sợ chết, sợ khổ, và xây dựng động viên tinh thần
chiến đấu của anh em, nên việc điều quân vào trận địa không gặp trở ngại gì.
- Trong khi chiến đấu thì Ban Chấp hành Vƣợt đèo phân công nhau phụ
trách từng khu vực, riêng đồng chí Trƣởng Ban thì đôn đốc chung chung, sợ nặng
ở những nơi trọng điểm, do đó việc lãnh đạo đều thống nhất và sử dụng lực lƣợng,
về kỹ thuật, sửa chữa, các đồng chí cán bộ phụ trách thì luôn luôn động viên kích
thích tinh thần chiến đấu nhƣ: nêu rõ tác hại việc đƣờng tắc, nêu tinh thần chiến
đấu anh dũng của bộ đội, nêu trách nhiệm của ngƣời dân công bằng những câu
chuyện hay những câu hò, nêu tinh thần chiến đấu của anh em vẫn luôn luôn phát
triển.
Với tinh thần chiến đấu từ cán bộ tới anh em nên khối lƣợng phải tới 5 đêm
mới xong, nhƣng anh em đã giải quyết đến đêm thứ 3 thì đƣờng thông, đêm đầu

316
900 ngƣời làm đến 3, 4 giờ sáng chải đặt đƣợc 1/3 khối lƣợng, trong cuộc chiến
đấu này biểu hiện này ƣu điểm:
1. Việc lãnh đạo tƣ tƣởng tƣơng đối sát từ cán bộ tới dân công, bản thân cán
bộ xung phong gƣơng mẫu, nên đảm bảo đƣợc quyết tâm chiến đấu bên cạnh bom
nổ chậm, cũng nhƣ việc lãnh đạo chủ lực và công binh đánh bom.
2. Việc đặt kế hoạch sửa chữa, định trọng tâm trọng điểm để bố trí lực lƣợng
đƣợc sát khi chiến đấu sự chỉ huy đƣợc thống nhất, trách nhiệm từng bộ phẩn đƣợc
dứt khoát.
MỘT CUỘC CHIẾN ĐẤU THẤT BẠI
Ngày 26/5/1954 địch đánh 97 bom, lacet 1 và 2 đều bị trúng bom riêng lacet
6 bị 66 qua có một quả trúng mặt đƣờng còn toàn trung vào taluy đã làm sụt xuống
tới 150 m3 đá, có tăng tới 20 m3 che lấp mặt đƣờng 100m, nhiều chỗ phải bám vào
đá mới qua đƣợc, ngƣời đi bộ rất khó khăn và chật vật, bên cạnh đó lại có 3 cây to,
đƣờng kính 1 mét.
Sau khi địch đánh phá thì đài quan sát xuống trận địa không đến tận nơi, chỉ
đứng xa nhìn nên không năm đƣợc tình hình cụ thể do đó chỉ báo cáo ở đây có một
số đá, chỉ cần 1 B chủ lực đến phá đá 10 g lacet trên, còn ở đây giao cho một đồng
chí cán bộ phụ trách mang theo 1 B chủ lực phá đã xuống. Khi tới nơi thấy khối
lƣợng nhiều cũng không kịp thời báo cáo ngay để bổ sung thêm lực lƣợng do đó
đềm đầu bị tắc.
Đến đêm thứ hai thì chỗ đó có thêm 100 bộ đội pháo binh tới lập lại giao
thông nhƣng vì chủ quan thấy bắn đƣợc một số đá to trên mặt cho là khối lƣợng ít,
nhƣng khi phá thì trên mặt đƣờng rất nhiều đá to bị chìm phía dƣới nhỏ cách bom
mặt đƣờng 30, 30 phân, mặt khác coi nhẹ 3 cây to nên khi áp bộc phá, bắn mãi
không cắt đƣợc trong khi đó thì đƣờng có thể xe dịp qua đƣờng (lúc đó 3 giờ sáng).
Về mặt sử dụng lực lƣợng thì do địa thế hẹp không thể bố trí nhiều ngƣời vào làm
lại không tổ chức tiếp sức nên ngƣời thì đông việc làm thì ít, do đó đêm thứ hai lại
tắc. Mãi đến đêm thứ ba mới giải quyết đƣợc hồi 9 giờ.
Qua việc thất bại trên nguyên nhân căn bản đó:

317
1. Không nắm vững đƣợc tình hình khối lƣợng công tác, chủ quan cho khối
lƣợng ít nên bố trí lực lƣợng ít không đảm nhiệm đƣợc khối lƣợng.
2. Khi sử dụng lực lƣợng thì thiếu tổ chƣc, thiếu sắp xếp nên lực lƣợng
nhiều nhƣng sử dụng lãng phí.
Qua hai điển hình trên và trong quá trình chiến đấu lập lại giao cho chúng ta
một số kinh nghiệm sau đây:
- Việc nắm vững tình hình lực lƣợng là một yếu tố căn bản quyết định việc
chiến đấu lập lại giao thông thành công hay thất bại, nói một cách khác đây là việc
nắm vững tình hình khi đánh một đồn địch. Nắm vững đƣợc tình hình thì kế hoạch
sửa chữa đƣợc sát, bố trí lực lƣợng vững mạnh đúng từng điểm, việc lãnh đạo đƣợc
tập trung. Trong thực tế chiến đấu ở Đèo đã một vài lần thất bại do việ không nắm
vững tình hình gây nên cho nên sau đó có quy định:
Đài quan sát sau khi địch đánh phá thì phải cử cán bộ có trách nhiệm xuống
trận địa để nắm vững tình hình phá hoại của địch.
Ban Chấp hành Vƣợt đèo và các cán bộ phụ trách đơn vị khi địch đánh thì
cứ 5 giờ chiếu phải tập trung tại địa điêm nhất định để đi xem xét trận địa. Nắm
vững khối lƣợng phải định kế hoạch sửa chữa, bố trí lực lƣợng, phân công trách
nhiệm.
Mấy vấn đề trên đã trở thành một nguyên tắc nên mỗi khi địch đánh cán bộ
rất bình tĩnh, và khi quyết định chiến đấu đƣợc khẩn trƣơng chính sách, do đó thời
gian hội quân địch đánh phá nhiều và ác liệt nhƣ việc lãnh đạo chiến đấu không bị
dao động. Nhƣng muốn làm đƣợc việc đó có kết quả thì yêu cầu đầu tiên là phải
xây dựng cho cán bộ một quyết tâm anh dùng với nhiệm vụ.
- Kế hoạch lập lại giao thông, bố trí lực lƣợng: Sau khi nắm vững đƣợc tình
hình thì việc căn bản là phải thống nhất một kế hoạch sửa chữa, giao trách nhiệm
cho từng đơn vị, từng cán bộ, tùy theo khối lƣợng nặng hay nhẹ mà bố trí cho sát.
Đây cũng là một nguyên tắc chúng ta vẫn làm thƣờng xuyên trong một cuộc chiến
đấu nhƣng trên thực tế nó cũng còn có nhiều thiếu sót:
Khi thảo luận kế hoạch sửa chữa không đƣợc dứt khoát, và khi giao nhiệm
vụ không phổ biến đƣợc cụ thể, nên có trƣờng hợp đồng chí cán bộ phụ trách làm
318
sai khối lƣợng bị tính ra tốn công và chậm thời gian nhƣ vậy giao cho công binh
làm ở lacet 3 và 4 nếu mở theo đƣờng cũ bắt thêm về phía taluy thì đò dọc thấp đỡ
tốn công, hay việc làm cầu ở 1 lacet 6 vừa tốn công, vừa khó cho việc tu bổ, vừa
nguy hiểm cho xe qua hoặc có tình trạng cán bộ chung nhiều quá mỗi ngƣời đến
thăm một ý kiến làm cho anh em dân công hoang mang không biết nghe ai cho
phải.
Khi bố trí lực lƣợng không sát với khối lƣợng nên phải điều quân đi lại mất
thì giờ lãng phí hoặc khi chiến đấu thiếu kiêm không đặt thành một chế độ báo cáo
nên có tình trạng đơn vị hết việc làm, đơn vị công việc còn nặng.
Khi giao trách nhiệm cho cán bộ và đơn vị không giao cho một thời gian
nhất định phải hoàn thành nên cán bộ làm đƣợc đến đâu hay đấy, mà thiếu phần
khẩn trƣơng tranh thủ:
Do kinh nghiệm thực tế ấy, nên Ban Chỉ huy Vƣợt đèo có quy định một cách
dứt khoát:
+ Khi đã thống nhất chủ trƣơng sửa chữa thì nhất thiết đồng chí ở nơi đó
không đƣợc linh động tiến hành sai, mà khi thấy cần thì phải để đạt ý kiến để xét.
Khi chiến đấu thì giao trách nhiệm cho từng cán bộ, từng đơn vị dứt khoát,
mỗi đồng chí có trách nhiệm trong phạm vi mình phụ trách nhất định mà không
đƣợc tự ý chạy đi lại mà tham gia ý kiến tung tung hay chính Ban Chỉ huy Vƣợt
đèo khi thấy cần tham gia ý kiến thì sẽ tham gia qua đồng chí cán bộ phụ trách mà
tránh việc tham gia ngay với quân.
Nơi nào khó làm mà điều kiện không bố trí đƣợc nhiều lực lƣợng thì tổ chức
làm tiếp sức một phần làm một bộ phận nghỉ thay thế nhau, nhƣ thế sức làm cũng
sung sức công việc đƣợc nhanh.
Những nơi trọng điểm thì ngoài việc giao trách nhiệm cho cán bộ có năng
lực phụ trách, nhƣng bản thân Ban Chỉ huy phải luôn có mặt để đặt vấn đề điều
chỉnh lực lƣợng cho sát, và khi chiến đấu thì trong một phạm vi tổ hay nhờ đều
phải tập trung vào giải quyết trọng điểm trƣớc nghĩa là những nơi nào khó sửa
chuẩn, kinh nghiệm ở lacet 5 chỉ loay hoay làm đất còn có một ít đã thì coi thƣờng
đến khi đất giải quyết xong xe có thể qua đƣợc nhƣng lại mắc đá.
319
Những đêm lập lại giao thông, hay những đêm mƣa lũ, những đêm có kế
hoạch đặc biệt Ban Chỉ huy Đèo phải có ngƣời thƣờng trực ở mặt đƣờng cũng một
hoặc hai đơn vị tùy theo tình hình đƣờng lúc đó quyết định.
Với những việc trên tiến hành chu đáo thì sẽ tạo một cơ sở thuận lợi cho
việc lập lại giao thông đƣợc nhanh chóng.
3. Việc lãnh đạo tƣ tƣởng, động viên trong chiến đấu và sau chiến đấu
Muốn đảm bảo đƣợc tinh thần chiến đáu anh dũng, bền bỉ của quân thì việc
lãnh đạo giáo dục tƣ tƣởng cho cán bộ và quân phải đƣợc tiến hành sâu rộng và
thật chặt từ trƣớc, chứ không phải khi chiến đấu đến thì mới làm việc đó tất nhiên
quân sẽ dao động và có thể bị vỡ từng mảng. Với Đèo thì việc lãnh đạo tƣ tƣởng đã
đƣợc tiến hành từ trƣớc tƣơng đối chu đáo nên dã có nhiều biểu hiện tốt:
- Khi địch đánh thì anh em rất phấn khởi vì đƣợc chiến đấu nên đã chuẩn bị
đầy đủ dụng cụ và 6 giờ tối đều có mặt ngồi đồi ở phía 2 lacet để cho lệnh tiến
hành, cả những đơn vị ở xa 7, 8 cây số cũng tranh thủ đƣợc, nhƣ vậy điều đó
chứng tỏ nhiệm vụ bảo đảm giao thông đã đƣợc thấm nhuần sâu sắc biến thành
hành động cụ thể.
Khi nói có bom nổ chậm thì cũng có một số dao động, nhƣng do cán bộ
xung phong vào trƣớc nên khi điều quân vào chiến đấu rất dễ dàng không gặp một
trở ngại gì, nhất là lại có công binh và chủ lực là lực lƣợng cổ động nên làm cho
anh em tin tƣởng và an tâm chiến đấu. Nhƣ có ngƣời nói: “Chủ lực và công binh
anh em đứng trên miệng hố bom để đào còn chả sợ, nữa là mình xa bom hàng mấy
chục thƣớc”.
- Khi chiến đấu gian khổ thì lúc nào cán bộ từ Ban Chỉ huy Vƣợt đèo tới
đoàn cán bộ phụ trách đều có mặt luôn đi sát động viên tinh thần chiến đấu của anh
em, mặt khác gây một không khí vui nhộn nhƣ hò hát nên lại càng làm cho anh em
phấn khởi.
Có trƣờng hợp anh em hót đất thấy một quả bom nổ chậm bị thối nằm ở
dƣới, một số dao động bỏ về nhƣng khi ấy chính các cán bộ vẫn dựng nguyên quả
bom bình tĩnh xem xét tháo kíp ra nên anh em rất vững tâm lại trở lại chiến đấu
liên tục ngay. Điều căn bản đảm bảo việc lãnh đạo tƣ tƣởng trong chiến đấu là tinh
320
thần xung phong gƣơng mẫu dũng cảm của ngƣời cán bộ có một tác dụng lôi cuốn
vào quyết định.
Sau mỗi đợt chiến đấu thì các đơn vị tiến hành việc bình nghị khen thƣởng
ngay hay những trƣờng hợp chiến đấu đặc biệt thì ngay hôm sau đƣợc khen thƣởng
nhƣ đơn vị lội qua suối lũ để bảo đảm giao thông hay làm cả ngày tối lại ra đƣờng
chống lũ. Còn thƣờng xuyên thì sau mỗi ngày các đơn vị đều tiến hành việc bình
công những anh em giao thông mất tinh thần ngoài việc phê bình, giáo dục anh em
còn trừ công ghi vào nghĩa vụ. Việc khen thƣởng và kỷ luật kịp thời đã có tác dụng
xây tầm quyết tâm anh dũng cho các đơn vị.
4. Kỹ thuật trong việc lập lại giao thông:
Qua quá trình lập lại giao thông ở Đèo có 3 trƣờng hợp thất bại về kỹ thuật:
- Một lần ở lacet 3 và 4 bị hai bom trúng giữa Courbe làm mất hết mặt
đƣờng và sạt taluy, mới nhìn thì thấy khối lƣợng to, xếp một kè dài 30 thƣớc và
cho bắt thêm vào taluy thấy vậy sợ tốn công nên bắt ở phía trên làm một con
đƣờng Courbe khác đƣờng bị hẹp, độ dốc trở nên cao làm tốn công lại bị lầy lún
nhiều, sau này phải cho tiến hành làm theo cũ thì công chỉ bằng 2/3 khối lƣợng đã
làm.
- Một lần ở lacet 5 bị 3 bom vào một chỗ cắt đƣờng tới 30 mét dài sâu 7 mét
mất hết cả đƣờng phía taluy rã đất và là đƣơng cống nên cũng thấy sợ tốn công kè,
sợ vá cống nếu mở thêm vào taluy xe không đi. Do đó quyết định vá đá dọc hai
đầu hố bom và đánh một con đƣờng theo lòng chảo, kết quả là tốn nhiều công và
sau này việc tu bổ gặp nhiều trở ngại những đêm xe qua phải kéo.
- Một lần ở lacet 6 bị hai bom trúng hết mặt đƣờng phía trong là taluy đá nên
không thêm mố vào đƣợc, phải cho lấp giữa hố bom nhƣng vì sẵn cây nên công
binh cho xếp mỏng và làm một cầu ván dài 7 thƣớc, sợ thiếu đá, sợ mất thời gian
nên làm cầu quá thấp, mặt trên cầu phải tôn cao đá và đất tới 1 mét nên cầu bị yếu,
hai mảnh cầu không có thanh giữ đất nên khi mƣa bị lỗ và đã bị đổ một xe, sau này
phải cho lấp cả chỗ đó.
Nhƣ thế cho chúng ta một kinh nghiệm:

321
- Khi bom trúng mặt đƣờng thì nếu phía tatuy là đất có thể sả vào đƣợc thì
nhất thiết phải đánh võng vào màn taluy, điều cần tránh là không nên làm đƣờng
vòng giữa hố bom, chỉ trƣờng hợp đặc biệt không thể tránh đƣờng vòng đƣợc thì
mới nên làm đƣờng vòng.
- Khi bom trúng Courbe thì khi tiến hành phải tính toán độ dốc, đƣờng bán
kính cho thật cẩn thận, nếu không thì việc sửa chữa sẽ bị tốn nhiều công và sẽ đi lại
khó khăn.
Vấn đề kỹ thuật trong chiến đấu phải dựa theo tình hình cụ thể, theo ở trận
địa, địa hình, địa vật mà quyết định, một mặt khác phải đả phá triệt để nhận thức
cầu toàn muốn làm cho thật bền vững nhƣ thế sẽ tốn công mất thời gian tính, khi
đó phƣơng châm chủ yếu bằng mọi biện pháp lập lại giao thông nhanh chóng việc
bảo đảm chất lƣợng sẽ tăng cƣờng sau.
KẾT LUẬN
Qua thực tế chiến đấu cho chúng ta thấy, muốn chủ động chiến đấu lập lại
giao thông đƣợc nhanh thì cần phải có một quá trình chuẩn bị tƣơng đối chủ đáo về
mặt lãnh đạo tổ chức, lãnh đạo tƣ tƣởng, chuẩn bị nguyên vật liệu. Mặt khác khi
chiến đấu thì yêu cầu căn bản là tình thần anh dũng của cán bộ. Nhƣ thế dù địch
đánh phá ác liệt cao độ chúng ta vẫn chiến thắng địch một cách vinh quang.

Ngày 12 tháng 7 năm 1954


TRƢỞNG TY CÔNG CHÍNH YÊN BÁI
(Đã ký và đóng dấu)

Nguyễn Trung

Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, phông Nha Giao thông, hồ sơ 648, tờ 203-
211

322
Báo cáo ngày 24/7/1954 của Sở Giao thông Khu Tự trị Việt Bắc về tổng
kết xe đạp phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ.

323
BÁO CÁO TỔNG KẾT XE ĐẠP PHỤC VỤ
CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ
So với chiến dịch Thƣợng Lào năm ngoái năm nay ngoài lực lƣợng vận tải
cơ giới, dân công bộ, vận tài xe đạp đã góp một phần quan trọng trong chiến dịch
Điện Biên Phủ vĩ đại.
Nhiệm vụ vận tải xe đạp tới nay đã hoàn thành cần phải đƣợc tổng kết về
mọi mặt công tác lãnh đạo chính trị và thi đua, nghiệp vụ vận tải trong xe đạp
nhƣng bản báo cáo này chỉ trình bày mấy điểm chính về công tác nghiệp vụ nhƣ
sau:
1. Đặc điểm của vận tải xe đạp và những thành tích của nó.
2. Đơn quân và biên chế tổ chức,
3. Công tác chuyển vận,
4. Vấn đề cƣớc phí và bồi thƣờng,
5. Tính công, ghi công,
6. Kết luận.
I. ĐẶC ĐIỂM CỦA VẬN TẢI XE ĐẠP VÀ NHỮNG THÀNH TÍCH
CỦA NÓ
Qua 7 tháng phục vụ chiến dịch do yêu cầu của tiền tuyến đã huy động sử
dụng một lực lƣợng xe đạp to nhất từ trƣớc tới nay chuyển vận trên một tuyến dài
150 km có nhiều quãng đƣờng khó khăn. Với công tác thực tế trong vận tải xe đạp
đã nổi bật lên những đặc điểm:
- Thay thế cho ô tô trên những quãng đƣờng cần thiết, xe đạp là một phƣơng
tiện rất thích hợp trong việc phục vụ chiến dịch, so với việc sử dụng dân công bộ
xe đạp chuyển vận đƣợc nhiều, nhanh chóng, nhẹ nhàng đơn giản ai làm cũng
đƣợc, bớt đƣợc sức ngƣời tiết kiệm nhân công và công quỹ. Tận dụng đƣợc thêm
mọi khả năng của các tầng lớp đóng góp cho kháng chiến.
Dân công xe đạp bao gồm nhiều phần rất phức tạp: công nhân chuyển nghề,
nông dân, tiểu thƣơng, tiểu chủ, công chức ra ngoài biên chế, một số cán bộ bị đào
thải, một số tƣ sản dân tộc và có cả địa chủ phú nông tập hợp lại nên tính chất của
324
nó dễ tự do vô kỷ luật. Vì vậy công tác tổ chức vận tải xe đạp tuy đối với vận tải là
một công tác nghiệp vụ nhƣng đồng thời phải chú trọng đến công tác chính trị.
Nhận rõ tính chất của dân công xe đạp, cán bộ đã nắm vững đƣợc tình hình
tƣ tƣởng và khả năng phục vụ nên trong công tác vận tải xe đạp đã thu lƣợm đƣợc
kết quả tốt đẹp, một số thành tích sau đây chứng tỏ:
Tổng số huy động là 7.467 xe đạp chuyển vận đƣợc 369.128 T/km với
681.455 nhân công và 113.620 công tăng năng suất.
Mức trọng tải bình quân lúc đầu 92 cân 500 trên quãng dƣờng tƣơng đối để
đi, thời kỳ cao nhất là 120 cân, quãng đƣờng trung bình lúc đầu 79 cân, bình quân
tới thời kỳ cao nhất 115 cân. Quãng đƣờng nhiều đèo dốc lúc đầu 71 cân tới thời
kỳ cao nhất là 90 cân bình quân.
Đa số cá nhân chở trên 100 cân, có những cá nhân năng suất đột xuất nhƣ
anh Cừ cung 21 Thái Nguyên chở tới 287 cân, anh Thắng cung 1 Phú Thọ chở 296
cân, anh Hàm cung 1 Phú Thọ chở tới 303 cân. Một kỷ lục chƣa từng có từ trƣớc
tới nay và đã chiếm 24% trong tổng số khối lƣợng vận tải của Hội đồng đứng vào
hàng thứ hai sau vận tải ô tô.
Có những đơn vị phục vụ suốt trong thời gian 5 tháng hay cá nhân phục vụ
từ đầu chiến dịch cho nên cuối qua 4 cuộc vận động đều ở lại việc chuyển vận rất
nặng nhọc nhƣng tỷ lệ ốm chỉ tới 11,3% và số xe bị hƣ hỏng có 0,8%. 19 cá nhân
và 2 đơn vị đƣợc thƣởng Huân chƣơng Chiến sĩ hạng Ba, 196 bằng khen của Hội
đồng, 1.147 giấy khen của Hội đồng, Ban và Trạm. Với thành tích trên nhƣng cũng
còn có những khuyết điểm:
- Lúc đầu lãnh đạo dân công chƣa thật chặt chẽ, coi nhẹ vấn đề hành trú
quân, thiếu lán trại, để dân công ăn ở bừa bãi nên đã bị phi cơ oanh tạc. Một số dân
công bị thƣơng, bị hy sinh. Tổng số xe đạp bị phá hủy là 2%.
Để kiểm điểm công tác trong thời gian qua và để rút kinh nghiệm bồi bổ cho
công tác vận tải, phục vụ đắc lực cho những chiến dịch sau, chúng ta cần phải kiểm
điểm những vấn đề sau đây:
II. ĐÓN QUÂN VÀ BIÊN CHẾ TỔ CHỨC

325
Phần đón tiếp dân công chính là của Ban chỉ huy dân công, ở đây chỉ nói
đến những vấn đề mà vận tải phải làm khi dân công mới đến trạm đón tiếp.
Qua các đợt đón tiếp, cán bộ vận tải đều phải phân công nắm tình hình
phƣơng tiện, tƣ tƣởng của cán bộ và dân công, hƣớng dẫn thống kê thành phần,
phân loại xe đạp tốt, xấu, công tƣ, kiểm điểm các phụ tùng mang theo nhƣ bao bì,
nylon, xăm, lốp, nan hoa, v.v… Thiếu những thứ cần thiết thì tổ chức cho những
đơn vị cử ngƣời đi mua đồng thời thanh toán những khoản cƣớc từ hậu phƣơng tới
tuyến. Khi học tập phổ biến chế độ chế độ cƣớc phí, phổ biến kinh nghiệm, cách
thồ xe hàng, đầu dốc, anh em có gì thắc mắc thì giải đáp, sơ kết thi đua bình bầu cá
nhân xuất sắc trong thời gian từ hậu phƣơng tới tuyến để động viên thi đua tiếp tục
thực hiện kế hoạch của tuyến.
Điểm qua công việc làm ở trên (trừ đƣờng 41), việc tiếp đón ở đƣờng 13 đã
có nhiều tiến bộ so với những chiến dịch trƣớc. Cán bộ đã nhận thấy tầm quan
trọng của việc đón lúc đầu nên đã có ảnh hƣởng tốt cho công tác vận chuyển và
những cuộc vận động gia hạn sau này, nhƣng cũng còn nhiều thiếu sót. Đợt đầu và
cuối không chuẩn bị chỗ ở đầy đủ cho dân công cơ đơn vị đến không có chỗ ở phải
vận động họ từ xây dựng lán nhất là đƣờng 41 việc đón tiếp lại càng sơ sài, dân
công nằm vạ vật, đun nấu bừa bãi, đi lại vô kỷ luật.
Đợt đầu thiếu chuẩn bị cán bộ kế toán việc thanh toán cƣớc phí từ hậu
phƣơng lên tuyến không thanh toán đƣợc ngay nên dân công thắc mắc, thiếu tiền
mua sắm thêm những thứ cần thiết.
Kinh nghiệm cho ta thấy:
a. Những trận sử dụng dân công xe đạp phải có cán bộ phối hợp với cán bộ
dân công để tiếp đơn vị mình sử dụng dân công nên lúc đầu phải nắm vững tình
hình tƣ tƣởng của cán bộ dân công, khả năng vận chuyển, xe tốt xấu, bao bì, áo
mƣa, xăm lốp, v.v… thiếu hay đủ để biết trƣớc hoặc chuẩn bị thêm bố trí kế hoạch
vận chuyển sau này mới đƣợc sát.
b. Trong khi học tập chủ yếu là phổ biến chế độ cƣớc phí, bình công, tính
công, giải đáp thắc mắc, đồng thời phải thanh toán dứt khoát ngay cƣớc từ hậu

326
phƣơng lên tuyến để anh em phấn khởi, tin tƣởng trong việc thực hiện chính sách
cƣớc phí.
c. Việc huy động ở hậu phƣơng lên tuyến không nên huy động ngay một số
lớn mà cứ dần dần độ 500 một, thời gian cách nhau vào khoảng 3 ngày để cho việc
đón tiếp đƣợc chuẩn bị chu đáo và tiện cho việc bố trí kế hoạch.
Biên chế đội ngũ:
Lúc đầu việc tổ chức biên chế xáo lộn thành phần cho rằng cần phải ghép
những đơn vị vận tải chuyên nghiệp làm với những thành phần khác để dìu dắt
tƣơng trợ nhau về nghiệp vụ, đẩy mạnh đƣợc TNX nhƣng khi thực tế thì trái hẳn vì
anh em vận tải chuyên nghiệp thành đơn vị riêng và tách rời những anh em tiểu
thƣơng, tiểu chủ không cùng với anh em nông dân, sau thấy không có lợi lại ghép
nông dân, tiểu chủ, tiểu thƣơng thành một đơn vị, chỉ để riêng có anh em vận tải
chuyên nghiệp là không ghép.
Biên chế đại đội chênh lệnh nhiều quá có cung 114 ngƣời (có một số ở Bắc
Giang, Phú Thọ, có cung chỉ có 53 ngƣời, cung 17 ngƣời ở Thái Nguyên), tổ chức
các tổ trong tiểu đội cứ 3 ngƣời một tổ nhƣ dân công Bo thành ra không sát vì khi
đầu dốc hay qua chỗ khó khăn thì cứ 2 ngƣời 1 xe.
Rút kinh nghiệm tổ chức các đơn vị nên đến một mức vừa phải đối với khả
năng của cán bộ phụ trách, nếu số lƣợng ít quá thì không tận dụng hết khả năng
của cán bộ.
- Tổ chức cung chỉ trên dƣới 100 ngƣời là vừa chia làm 3B, mỗi B có 3A,
trong A cứ 4 ngƣời thành một tổ, nhƣ vậy mới hợp lý để giúp nhau đầu dốc hay
qua những chỗ khó khăn. Trƣờng hợp quân số không đủ 1 cung hay hoặc thừa ra
một ít không nên ghép với tỉnh khác, cần giữ vững tính chất địa phƣơng vì họ có
nhiều quan hệ về gia đình thân thuộc, sinh hoạt kinh tế ở hậu phƣơng. Dân công và
vận tải chuyên nghiệp nếu họ có đủ số lƣợng tổ chức A, B, C thì tổ chức riêng
không nên ghép với thành phần khác.
Mỗi cung cần có một kế toán riêng để thanh toán giữa trạm với các đơn vị.
- Cán bộ phụ trách trong các đơn vị:

327
Có nhiều đơn vị ban chỉ huy thành phần cốt cán rất tích cực công tác, nhƣng
cũng có một số ít thành phần địa chủ phú nông vì chọn lọc chƣa đƣợc kỹ, thiếu tích
cực làm trở ngại cho những khi vận động dân công ở lại thời hạn. Việc phân công
trong Ban chỉ huy không rành mạch, cung trƣởng đi làm công tác tiền trạm, chính
trị viên làm mỗi việc có khi làm cả việc thanh toán cƣớc phí.
Vậy cán bộ trong các đơn vị xe đạp mỗi khi huy động sau này cần phải đƣợc
chọn lọc và phải là thành phần cốt cán, đồng chí chính trị viên đại đội trình độ
chính trị phải là bí thƣ chi bộ.
Ban Chỉ huy cung cần có sự phân công nhƣ sau:
- Cung trƣởng phụ trách kế hoạch thi hành kỷ luật hành trú quân.
- Cung phó quản trị nội bộ, kiểm soát thanh toán, chăm lo đời sống cho dân
công.
- Chính trị viên làm công tác chính trị, theo dõi tƣ tƣởng, tổ chức thi đua và
bảo mật.
Ban chỉ huy B có B Trƣởng và 2B phó, phân công nhau nhƣ Ban chỉ huy đại
đội.
Tiểu đội chỉ cần tiểu đội trƣởng, không cần tiểu đội phó rồi đến các tổ, vì
các ban chỉ huy B đều sản xuất và ở ngay tiểu đội, nếu thêm tiểu đội phó thì cồng
kềnh.
III. CÔNG TÁC VẬN CHUYỂN
1. Bố trí cung độ, lán trú quân:
Lúc đầu đƣờng mới làm, những nơi qua suối qua đèo đi rất khó, cung độ
trạm này tới trạm khác dài từ 15 đến 20 km anh em đi mệt quá có khi không đến
nổi mà nằm ngủ ngay dọc đƣờng nhƣ từ km 77,5 đến km 27-8 (trạm 20) có cung
độ đi từ 6 giờ tới 10 giờ đêm đã tới từ km 96 đến km 110, quãng đƣờng này lại dễ
đi (trạm 55 đi 45). Việc đặt cung độ, trạm triệu tập một số cán bộ để thảo luận và
liệu không km để anh em đi đến đề nghị cũng nhƣ việc xây dựng lán trại cũng đại
khái cho nên chƣa sát.
Sau một thời gian cung độ đi đƣờng đã đƣợc điều chỉnh lại, lán trú quân đặt
thành vấn đề xây dựng hẳn hoi, nhiều lần kín đáo, cao ráo, sạch sẽ, đƣờng ra vào
328
dễ đi (trạm 4 của tuyến 20, trạm 96 của tuyến 55), tiền nƣớc và củi, cũng có trạm
lán trú quân sơ sài quá, mái dột tƣờng xiêu, đƣờng ra vào ở bẩn thỉu, anh em không
muốn ở (tuyến 42, trạm 81, tuyến 55), hay đem chằng dây thép gai từng khoảng
một (tuyến 42), có nơi làm rất chu đáo sàn nằm cẩn thận nhƣng đƣờng đi vào trạm
bùn lầy, anh em cũ ở bên ngoài mà không vào (tuyến 20). Cán bộ phụ trách trú
quân vào nhà dân ở cách lán 1 km, vì ở xa nhƣ vậy nên trông nom không đƣợc chu
đáo để một số dân công xe đạp hay dân công bộ qua lại dỡ lán đun hoặc trâu bò
phá hoại (trạm 110, tuyến 66).
Chúng ta nhận thấy cung độ và lán trú quân có liên quan chặt chẽ với nhau,
lán trú quân bắt đầu cho cung độ, cung độ có hợp lý dân công mới có thể đi đƣợc
tới chỗ trú quân vì vậy nó có ảnh hƣởng lớn đến việc bảo vệ sức khỏe của dân
công, bảo đảm kỷ luật hành trú quân, bảo mật và việc lãnh đạo tăng năng suất.
Bố trí cung độ, xây dựng lán trú quân phải căn cứ vào khả năng vận chuyển
của dân công, địa điểm, tình hình đƣờng xá, thời gian phục vụ, thời tiết từng mùa.
Bố trí cung độ vận chuyển hàng trung bình 4 ngày đi 2 ngày về đƣờng bằng
không phải qua đò thì 20 km 1 đêm, đƣờng vừa phải thì 15 km đƣờng có đèo dốc
thì 10 km một đêm là vừa.
Địa điểm làm lán phải cạnh đƣờng chuyển vận trên 500 thƣớc và không xa
quá 1 km, tiện củi nƣớc nhất là đƣờng vào lán, không lầy lội, không quanh co, gồ
ghề, vì đƣờng vào tốt anh em vào dễ dàng dù cung độ có xa hơn một chút thì họ
cũng cố gắng để đến nơi, nếu có điều kiện nên làm hai đƣờng để ra vào đƣợc
nhanh chóng.
Trạm trú quân phải có lán để hàng và gần đƣờng ra vào nhƣng kín đáo để
tiện đóng hàng và nhanh chóng cho việc hành quân.
Địa điểm ở xây dựng theo từng cung và chia từng khu lán làm ở cho từng B1
và từng hàng thẳng tránh xây dựng theo lối chữ U ra vào bị vƣớng, mùa nực làm
rộng, mùa rét làm hẹp. Mái lợp bằng gianh phải dày, lợp bằng lá phải kín để dùng
đƣợc lâu dài, mái trƣớc dài bằng nứa, mái sau vì mái trƣớc phải làm rộng ra để
tiện việc xếp xe đạp. Sàn nằm làm phải chắc, chỗ đun nấu phải làm riêng, chống

329
đƣợc mùa nắng. Lán để hàng san không có đặt cao 50 phân, phải chắc chắn để
đƣợc trên 3 tấn cho từng B.
Tiêu chuẩn xây dựng lán thƣờng thƣờng cứ 10 công một lán cho 15 ngƣời ở
những nơi tiện nguyên vật liệu tiêu chuẩn làm lán là 80 phân, nơi không nguyên
liệu tiêu chuẩn là 50 phân một công.
Phải có một số dân công thƣờng xuyên sửa chữa lán trại những tổ chức
thành một đội chữa nơi này xong lại đến nơi khác để đảm bảo cho lán trại thƣờng
xuyên đƣợc tốt.
2. Tổ chức hành quân đón quân:
Việc hành quân ban đầu nói chung các trạm dân công giữ đƣợc kỷ luật đi
đêm giữ gìn khói lửa, các trạm cán bộ dồn quân chờ suốt đêm, cán bộ phụ trách
đơn vị thu quân luôn luôn thu quân gọn ghẽ nhƣng cũng có cá nhân đến trƣớc tìm
cho ngủ chỗ yên hay chỉ biết tìm cho đơn vị mình. Từ khoảng giữa thời gian phục
vụ, dân công hành quân cả ban ngày 4 giờ chiều đã xuất quân (tuyến 20) có đơn vị
thu quân từ 10 giờ đêm đến 5 giờ sáng mới đến đủ, những hiện tƣợng trên đã xảy
ra tai nạn bị phi cơ địch bắn phá bỏ bom (tuyến 20, 42). Đến trƣớc đến sau lẻ tẻ
không đúng lịch đáng lẽ theo đúng lịch ở tuyến 105 đi đƣờng tới một ngày nhất
định đến tuyến 42 đã có 32 tấn nhƣng kiểm điểm mới có 21 tấn còn thì ở dọc
đƣờng.
Càng về sau hiện tƣợng hành quân bừa bãi càng phổ biến ở hầu hết các đơn
vị thiếu trật tự đi trƣớc đi cho nhanh để tranh chỗ, về sớm trƣớc một ngày làm khó
khăn cho trạm trú quân bố trí chỗ ở.
Kinh nghiệm cho ta thấy là lúc đầu phải kiên quyết dựa vào kỷ luật là việc
hành trú quân làm trọng tâm thi đua kiểm điểm hàng ngày là chính, đề cao giáo
dục ý thức bảo mật.
Mỗi đơn vị C có một quyển sổ ghi rõ quân số, giờ hành quân ở trạm chính đi
và cũ qua, mỗi trạm trú quân đều có nhận xét ghi vào sổ. Việc hành quân tổ chức
đi từng B để tiện việc thu quân.
Cán bộ phụ trách phải luôn luôn giáo dục ý thức cho dân công, phải luôn
luôn tôn trọng kỷ luật hành trú quân và làm gƣơng mẫu, đi sát với anh em để giải
330
quyết khó khăn, giúp đỡ anh em đi đầu dốc, tránh la cà hàng quân đến trƣớc để thu
xếp chỗ ngủ cho các đơn vị khi nào xong mới đi ngủ, trong Ban Chấp hành phân
công từng ngƣời phụ trách từng B. Tuyệt đối cán bộ C không đƣợc thồ hàng trừ
trƣờng hợp thồ hộ anh em ốm ở dọc đƣờng.
3. Điều chuyển quân:
Điều quân giữa trạm nọ đến trạm kia phần nhiều chỉ báo bằng điện có khi
chậm quá và không hiểu rõ nội dụng yêu cầu hoặc bố trí không kịp, một vài ví dụ
trạm 55 phải điều 6 cung của Phú Thọ vào trạm 15, tới trạm 15 hai ngày nằm dài
sau lại về trạm 15. Trạm 15 điều 2 cung của Bắc Giang về trạm 55 hai ngày quân
phải nằm chỗ trạm 55 đánh điện báo cho trạm 20 có một cung của Phú Thọ ra,
Trạm 20 bố trí không kịp cũng phải chờ mất một ngày, có trƣờng hợp đi một quãng
dài từ trạm 20 đến trạm 55. Trạm 55 không nắm vững quân số và vừa báo xong
quân đã đến nơi bố trí ăn ở không kịp ùn lại một số ngƣời không sao kiểm điểm
đƣợc chu đáo. Trong những trƣờng hợp điều quân nhƣ vậy phần lớn không có cán
bộ đi theo để bàn giao cho trạm, đã có trƣờng hợp điều quân đi nhƣng không thanh
toán dứt khoát hay giải quyết những vấn đề thắc mắc của dan công với ban cán sự
nhƣ ở trạm 15 điều 5 cung của Thái Nguyên ra trạm 55, ra đến nơi nội bộ cán sự
thì lục đục, dân công thì thắc mắc, trạm 55 không nắm đƣợc tình hình cụ thể để
giải quyết.
Khi điều quân qua phà, bến phá không nắm đƣợc cụ thể quân số nên có một
vài lần nhỡ chuyến, có cung phải qua hai đêm mới hết (trạm 20). Khi đi thì báo
trƣớc, khi về thì không cho biết nên không có cầu phao phải đi ghép với phà chở ô
tô nên chậm trễ.
Rút kinh nghiệm:
Mỗi khi điều quân từ nơi nọ đến nơi kia tuy có điện báo trƣớc nhƣng vận tải
phải có cán bộ đến cho biết trƣớc tình hình tƣ tƣởng, quân số nhƣ những phƣơng
tiện để nơi nhận bố trí nắm vừng kịp thời, họp kiểm điểm tính công thanh toán dứt
khoát để tránh tình trạng gây khó khăn cho những trạm nhận.
Mỗi khi qua phà phải phối hợp với ban chỉ huy bến phà và phải biết rõ khi
quân qua sông dùng bằng phƣơng tiện gì để sắp xếp và phổ biến chở quân.
331
4. Tổ chức bình mục vận chuyển:
Thời gian đầu mỗi khi nhận đƣợc kế hoạch trạm không tổ chức phổ biến đặt
mức cho các đơn vị, kế hoạch thay đổi luôn không kiểm tra thi hành đƣợc sao hay
vậy (Trạm 20).
Từ đợt khoán và nhất là từ đợt đột kích trở đi mỗi khi nhận đƣợc kế hoạch
trạm đã họp các ban cán sự, cán bộ phổ biến kỹ, lấy ý kiến giải quyết những khó
khăn và bàn cách thực hiện. Trạm theo dõi các đơn vị sau hai, ba chuyến căn cứ
vào khả năng của ngƣời và xe, sự tăng tiến của mùa trọng tải, kế hoạch của các đơn
vị mà nâng lên dần dần.
Với tinh thần thi đua tích cực của dân công, sự lãnh đạo của trạm nên nhiều
đơn vị đều vƣợt mức, ấn định của trạm. Lúc ấn định mức trạm căn cứ vào từng
cung, nhƣng khi giao mức thì giao cho ban cán sự đại diện cho địa phƣơng sau đó
ban cán sự và cán bộ cung hội ý, đặt kế hoạch cụ thể cho từng đơn vị và xuống tới
tận cá nhân. Sau khi họp cán bộ xong họp chi bộ đã thông qua đảng viên, họp các
đoàn thể quần chúng động viên tinh thần gƣơng mẫu của đoàn viên (cung 10 Thái
Nguyên ở trạm 55). Khi định mức xong đƣa ra toàn thể A xét lại không nên định
sát nút quá để các đơn vị có thể vƣợt đƣợc 1, 2 cán bộ thì họ rất lấy làm hứng thú
và đẩy mạnh đƣợc thi đua. Ban cán sự cán bộ đi C đã đi sát quần chúng thăm dò tƣ
tƣởng, thu lƣợm thắc mắc để giải quyết (cung 5, 7, 9 Thái Nguyên ở trạm 55)
nhƣng cũng có đơn vị không đƣợc phổ biến sâu rộng, một số A, B đi vắng không
biết (Trạm 15, 20).
Trên đây là những trƣờng hợp, hoàn cảnh tƣơng đối thuận lợi những lúc kế
hoạch thay đổi gấp thì trạm giao cho các đơn vị rồi phổ biến cho các A, B để thực
hiện.
Trong việc ấn định mức và phổ biến cho các đơn vị trƣớc hết chúng ta cần
quan niệm đúng bình mức là bƣớc quan trọng trong việc thực hiện kế hoạch, bình
mức đúng sẽ sử dụng hết khả năng của dân công.
Muốn cho việc bình mức đƣợc sát cần nắm vứng sức khỏe của dân công,
tình hình xe, thời tiết từng mùa, đƣờng xá tốt xấu, chuyên nghiệp hay không

332
chuyên nghiệp, phân loại các xe ngƣời yếu dùng xe yếu, ngƣời khỏe dùng xe khỏe
và phải dựa vào những chuyến trƣớc để lấy mức.
Tổ chức việc theo dõi thƣờng xuyên mỗi khi thấy không đặt đƣợc kế hoạch,
trạm phải kịp thời xuống các đơn vị tìm nguyên nhân giải quyết những khó khăn,
sau mới kế hoạch căn cứ và năng suất mà điều chỉnh cho sát nhƣng không nên đặt
sát nút dân công khó vƣợt, họ dễ nản.
Lúc tổ chức bình mức lấy đơn vị A đồng thời phổ biến luôn việc tính công
kháng chiến để dân công háo hức thi đua.
5. Tổ chức giao nhận hàng, bảo vệ hàng hóa:
A. Giao nhận:
Việc giao nhận hàng nhiều đơn vị làm nhanh chóng vì chỗ cần, giao hay
nhận có mỏ cân, địa điểm tốt, cân đong đƣợc ban ngày, đƣờng ra vào dễ dàng nhƣ
ở trạm 55, 45, 15. Có nơi nhƣ ở trạm 20 kho giao hàng đƣờng ra vào đi vất vả, có
một kho ở trên đồi đƣờng lên thì dốc, phần nhiều có những đơn vị đóng hàng ở kho
ấy nếu biết trƣớc thì thế nào cũng có một số cao mết ở lại vì lên dốc xuống dốc rất
là vất vả.
Giao nhận hàng mà nhanh chóng ảnh hƣởng lớn đến việc bắt đầu cung độ,
giúp việc sản xuất quân đúng giờ và trật tự, đỡ lãng phí, lãnh đạo cũng đƣợc chặt
chẽ vì thời gian của anh em xe thồ đi đƣợc nhiều đƣờng đất nhất là vào khoảng từ
7 giờ tối đến 12 giờ đêm, nếu muộn giờ hành quân họ đi đƣợc rất ít vì càng về
khuya càng mệt.
Đƣờng ra vào kho phải thuận tiện, không lầy lội, để đi nên tìm địa điểm giao
nhận ban ngày, tránh làm trên đồi cao khi giao nhận tổ chức thành từng A một và
theo lối dây chuyền phân công ngƣời đóng, khuân vác, cân đổ vào kho.
Lúc giao nhận đơn vị A phải tập trung đầy đủ, trƣớc khi đóng hàng phải xét
lại bao bì chuẩn bị giây lát, có một bao nhỏ dự phòng để lúc đi tƣơng trợ đƣợc
những anh em khác gãy xe. Đong hàng dùng bao vừa phải từ 5, 60 cân một, bao
không dài để dễ mắc lên khuân xuống, phải có dụng cụ xúc gạo vào bao về lạc, đỗ
cho thật chặt.

333
Trạm phải có cán bộ trực tiếp ở nơi giao nhận để hƣớng dẫn giúp đỡ đo kế
hoạch khi giao nhận và kiểm điểm năng suất cho từng đơn vị.
b. Bảo vệ hàng hóa:
Nhiều đơn vị đã chú trọng đến việc bảo vệ hàng, khi trờ mƣa chịu ƣớt để
dùng nylon che hàng, chờ xếp hàng kê cao để khỏi ẩm ƣớt, nói chung đa số có ý
thức bảo vệ nhƣng cũng có một số để bao bị rách, không chú ý và nên khi đƣờng,
gạo rơi vãi, hay để lợn ăn, trú quân có giá để hàng nhƣng không có mái che, những
khi mƣa thì bị hắt, vẫn còn việc mất lẻ tẻ, hao hụt. Việc giáo dục và phổ biến kinh
nghiệm bảo vệ hàng không đƣợc luôn luôn chú trọng.
Vậy vấn đề bảo vệ hàng hóa căn bản là luôn luôn giáo dục một ý thức giữ
gìn bảo vệ của công cho dân công, mặt khác trạm phải có lán để hàng cẩn thận,
chống đƣợc lợn phá, qua những chỗ ta bốc thƣờng xuyên nên làm giá để hàng.
Giá để hàng phải cao để đề phòng lợn ăn, dƣới gầm nên rấp gai, lợn không
thể chui vào đƣợc. Khi qua suối cần đề phòng việc bắn lên gạo lấy nylon bọc ở
dƣới đít bao.
6. Tổ chức tiếp liệu sửa chữa giữ gìn xe:
Để đảm bảo việc hoạt động thƣờng xuyên của xe, tạo điều kiện cho dân
công tăng năng suất đi đôi với việc giữ gìn xe, tuyến đã tổ chức sửa chữa, tiếp liệu
phụ tùng cho xe đạp.
a. Sửa chữa xe đạp:
Trong các đợt huy động, số thợ chữa xe huy động tƣơng đối đủ nhƣng lúc đi
không mang đủ những dụng cụ vật liệu phụ tùng cần thiết. Tổ chức sửa chữa ở một
vài trạm đã lấy ý kiến của dân công và thợ chữa xe để ấn định giá cũng có trạm
không thực hiện đƣợc việc định giá cho từng thời gian (trạm 15), giá sửa chữa còn
cao, có thợ xe mỗi tháng ăn uống xong còn thua 3, 4 vạn ngân hàng, dân công đã
kêu “làm đƣợc đồng nào thì chui vào túi các ông ấy cả, giá chữa thế nào cũng
đƣợc, nhƣ hàn một cổ phuốc 1.000 hoặc 2.000, 5.000 đồng cũng hàn, tùy theo giá
trị của tiền mà làm. Giá quy định giữa trạm này và trạm khác không giống nhau,
sửa chữa đắt lại chóng hỏng nên đã có những anh thợ chữa xe đi phục vụ 7 tháng

334
dân công chỉ bình cho có 2 tháng. Ở mỗi trạm trú quân, thợ chữa xe ít đƣợc luân
chuyển thay đổi nhau nên quyền lợi không đều nhau để xảy ra ganh tỵ.
Nhìn lại việc tổ chức sửa chữa vừa qua đã giúp một phần lớn cho việc tu bổ
phƣơng tiện cho dân công nhƣng chƣa chú ý lãnh đạo thợ chữa xe đến nơi đến
chốn và chƣa có một chế độ quy định rõ ràng nên thợ chữa xe không đƣợc cấp phát
gạo mà phải đi mua ngoài.
Do những ƣu khuyết điểm trên nên việc tổ chức sửa chữa muốn đƣợc chu
đáo cần phải:
- Trƣớc khi huy động thợ chữa xe cần chuẩn bị mang đầy đủ dụng cụ nhất là
dụng cụ để hàn, một số phụ tùng cần thiết. Mỗi đơn vị cung cần có hai thợ chữa xe.
- Thợ chữa xe nên tổ chức cho chữa lấy tiền, với giá phục vụ do dân công và
thợ chữa xe thảo luận và quyết định.
- Trạm phải lãnh đạo giá cả và tiếp tế phụ tùng cho thợ chữa xe.
- Ở mỗi trạm trú quân đều phải có thợ chữa xe tùy theo sự cần thiết những
lúc tổ chức cần điều hòa có thợ kém, có thợ khá không nên để lâu ở một nơi cần
thay đổi thợ giữa trạm này và trạm khác vì ở trạm chính nhiều ngƣời nhiều việc, ở
những trạm trú quân rất ít việc không thì ghen tỵ và quyền lợi với nhau. Cũng do
ảnh hƣởng trên nên việc lên xuống giá hoặc sửa chữa không chu đáo.
- Trạm phải tổ chức việc kiểm soát việc thi hành giá cả, sự sửa chữa, ngăn
ngừa sự đổi chắc giữa dân công và thợ chữa. Hàng tháng tổ chức dân công bình
nghị về tinh thần ý thức của thợ chữa xe, chữa có bảo đảm không, giá cả ra sao,
giải thích cho thợ chữa xe về việc tính công và hàng tháng tổ chức tính công cho
thợ chữa xe.
- Tổ chức việc sửa chữa: Cung nào về trƣớc chữa trƣớc, về sau chữa sau,
tránh cảm tình, trừ trƣờng hợp có kế hoạch đột kích đơn vị nào phải đi trƣớc ngay
thì phải đƣợc chữa trƣớc.
- Việc cấp phát cho thợ thì trạm cấp mỗi tháng 24 kg gạo ăn, thợ trả bằng
tiền theo giá gạo quy định.
b. Tiếp tế phụ tùng vật liệu:

335
Trong đợt đầu, việc huy động xe đạp nhiều xe không đủ tiêu chuẩn, nhất là
xe công, phụ tùng mang theo ít, trạm chƣa kịp chuẩn bị. Song các đợt sau việc huy
động đƣợc chú trọng hơn, phụ tùng xe tƣơng đối đƣợc đầy đủ, trạm lại chú trọng
việc tiếp tế phụ tùng, mặt khác do ý thức bảo vệ xe cộ của dân công nên số xe hỏng
rất ít, tỷ lệ hỏng trong cả thời gian phục vụ chiến dịch chỉ chiếm 0,8% (không kể số
bị hỏng vì máy bay).
Nhìn lại việc tiếp liệu phụ tùng của các trạm để cung cấp đầy đủ nhu cầu cho
dân công xe đạp. Sau đây là mấy con số chứng minh, sức mua và nhu cầu từng loại
phụ tùng:
Những thứ cần thiết nhiều nhất đã tiếp liệu:
- Xăm 650: 842 cái.
- Lốp 650: 841 cái.
- Nan hoa 650: 15.388 cái.
- Vành: 320.
- Xích: 308.
- Má phanh: 3.878.
- Đèn: 503.
- Ruột phanh: 1.538.
- Dây phanh cả bộ: 145.
- Phanh, vỏ phanh sau: 784
- Cổ phuốc: 145 bộ.
- Bao tải: 1.421.
Nhƣng cũng có khuyết điểm là lúc đầu việc tiếp liệu bị chậm, có những thứ
khi mua không lựa chọn chu đáo, giá cao (nhƣ mua của mậu dịch) khi mang về anh
em không lấy hay mua không dùng yêu cầu khi cần bao lại mua phụ tùng, việc
mua bán chƣa kiểm soát đến nơi đến chốn (trạm 105). Việc bảo quản thiếu cẩn
thận, trạm đã để cả vào kho thực phẩm nên bị han rỉ , v.v…
Ngoài ra việc tiếp tế phụ tùng của trạm, các tỉnh cũng tổ chức việc mua phụ
tùng gửi lên tuyến, chứng tỏ ý thức phục vụ tiền tuyến nhƣng vì hàng mua không

336
lựa chọn cẩn thận, không nắm đƣợc những thứ cần thiết của dân công, giá mua của
mậu dịch lại cao thành ra dân công không muốn mua.
Rút kinh nghiệm trong việc tổ chức tiếp tế phụ tùng cho xe đạp chúng ta
thấy:
Đa số xe huy động là xe công không đƣợc tốt, phụ tùng thiếu nên việc tiếp tế
phụ tùng cho xe ở tuyến là một vấn đề quan trọng để bảo đảm sự hoạt động thƣờng
xuyên của xe, nên trạm phải có cán bộ phụ trách việc tiếp tế phụ tùng ngay từ đầu.
Lúc xe lên phải có phụ tùng dự trữ mang theo phƣơng pháp tốt nhất là khi huy
động, cho dân công vay tiền mua phụ tùng tùy theo xe của mình, vừa không phân
tán, thị trƣờng không bị đắt.
Bộ phận tiếp liệu của trạm cần liên lạc chặt chẽ với các đơn vị nắm vững
nhu cầu. Trong thời gian đầu xe mới lên ít hỏng nhƣng thời gian sau xe bắt đầu
hỏng nhiều. Việc tếp liệu cần chú trọng những thứ nhƣ: má phanh, đèn, xăm lốp,
xích, líp là những thứ cần thiết nhất. Đồng thời chú ý tiếp tế những phụ tùng cho
thợ chữa xe. Việc phân phối phải theo tình hình xe của từng đơn vị mà phân phối
theo tỷ lệ để tránh tình trạng đầu cơ mua về dự trữ.
Việc tiếp tế phụ tùng cho xe đạp, các tỉnh không nên làm vì không sát,
không kịp thời nhƣng đối với cả quân mậu dịch nên tổ chức một cửa hàng để bán
phụ tùng cho dân công.
c. Bảo vệ phƣơng tiện:
Chiến dịch năm nay số xe đạp huy động đi phục vụ dài hạn nhƣng tỷ lệ hỏng
rất ít, đó là do ý thức và kỹ thuật giữ gìn xe năm nay có nhiều tiến bộ, ý thức phục
vụ lên cao và củng cố chính sách cƣớc phí, dân công có tiền sẵn thế, lúc đi hàng
cũng nhƣ lúc nghỉ lúc về trú quân dân công rất giữ gìn nên xe luôn đƣợc tốt. Trái
lại số xe huy động năm nay nhiều, một phần lớn xe công, ý thức giữ gìn của dân
công còn kém nhƣ lúc đi hàng lao bừa và vào đá, đi về ít lau chùi sửa chữa, xe
chóng hỏng, có ngƣời lấy phụ tùng trong xe đổi chác nên xe chóng hỏng.
Rút kinh nghiệm trong việc này, chúng ta cần chú trọng giáo dục cho dân
công ý thức bảo vệ giữ gìn xe có việc tiếp liệu phụ tùng ở tuyến là một vấn đề khó
khăn, muốn tăng năng suất đi đôi với việc tiếp tế phụ tùng, sửa chữa xe, việc giữ
337
gìn xe càng cần thiết, ngƣợc lại giữ gìn xe có đƣợc tốt thì lại càng tăng năng suất
đƣợc thêm.
IV. CHẾ ĐỘ THÙ LAO, THANH TOÁN CƢỚC PHÍ, BỒI THƢỜNG
1. Chế độ thù lao cán bộ:
Từ trƣớc đến nay cán bộ cung đi theo dân công đƣợc phụ cấp mỗi ngày một
kg 400. Đêm phải đi với quân, ngày thì kiểm quân phải làm nhiều công tác, phải ăn
uống nhƣ dân công chế độ thù lao ít, nên ăn uống thiếu thốn. Phần lớn đi nhƣ vậy
đều phải mở hay bán những thứ cần dùng của cá nhân, gần về sau khi số lớn cán bộ
đã đi thồ cũng ảnh hƣởng đến công tác. Vì vậy chế độ thù lao cán bộ dân công cần
đƣợc xét lại, có thể theo hai cách:
- Tăng thêm thù lao.
- Thƣởng tăng năng suất.
Ngoài ra cần phụ cấp giấy cho cán bộ cung.
2. Chế độ cƣớc phí:
a. Định giá cƣớc:
Việc huy động xe đạp vừa qua nhiều, với thời gian lâu, nhƣng với tinh thần
phục vụ cao, nhờ chính sách cƣớc phí nên đã bồi dƣỡng đƣợc sức khỏe của dân
công, đẩy mạnh năng suất. Việc trả cƣớc phí cho xe đạp, dân công rất hoan nghênh
nhƣng việc định giá cƣớc chƣa đƣợc sát: trạm 55 đi trạm 15 đƣơng tƣơng đối dễ đi
hơn mà giá cƣớc phí cao hơn trạm 20 đi trạm 45. Trái lại, cung trạm 15 đi trạm 60
với giá cƣớc 0 kg 800 nhìn qua thì cao nhƣng nhìn vào đƣờng đi khó khăn, sinh
hoạt đắt, vận chuyển đƣợc ít. Đƣờng từ trạm 20 đi trạm 45 giá gạo hạ, giá thực
phẩm cao, cũng có nhiều quãng khó đi với giá cƣớc 0 kg 600 hơi thấp. Do đó dân
công có tƣ tƣởng so sánh. Nhận thấy giá cƣớc đƣờng trạm 20 hạ nên sau đã tăng
lên 0 lg 620. Trong thời kỳ giá hạ, Hội đồng có chủ trƣơng tăng thêm giá cƣớc để
dân công có điều kiện bồi dƣỡng chứng tỏ sự săn sóc của Hội đồng đến dân công.
b. Thanh toán:
Vài tháng đầu, vì tiền chậm không kịp thanh toán nên dân công thiếu thốn.
Việc trừ nợ không hƣớng dẫn cho các cung nên kế toán về phần chia cho các A trừ
ngày một lần, có những dân công không nợ cũng phải trừ nên dân công thắc mắc,
338
làm khó khăn cho công tác chính trị. Trạm thiếu kiểm tra đôn đốc nên có đơn vị
nhận tiền xong không thanh toán ngay cho dân công, sổ sách không rành mạch, có
tình trạng tham ô, nghi kỵ lẫn nhau giữa cán bộ và dân công. Việc thanh toán chậm
chạp cũng ảnh hƣởng đến tình thần thi đua của dân công. Nhƣng bắt đầu từ tháng 1
trở đi, việc thanh toán đƣợc sòng phẳng. Qua mỗi đợt gia hạn, trạm thanh toán
đƣợc kịp thời, dân công có tiền bồi dƣỡng và gửi về giúp gia đình.
Lúc đi lên tuyến cần phải chuẩn bị ngay một số tiền để thanh toán cƣớc phí
nhất là lúc đầu ở trạm tiếp đón để làm cho dân công tin tƣởng ở chính sách.
Để cho việc thanh toán đƣợc nhanh chóng, trạm trực tiếp thanh toán cho kế
toán của cung, kế toán trực tiếp thanh toán với dân công. Sau mỗi chuyến cố gắng
thanh toán dứt khoát cho dân công, trƣờng hợp thiếu tiền cũng nên thanh toán ngay
trên giấy tờ báo cho dân công biết. Trạm phải hƣớng dẫn cách thanh toán, sổ sách
ghi chép cho kế toán cung. Thƣờng xuyên thanh toán, sổ sách ghi chép cho kế toán
cung, thƣờng xuyên trạm cử cán bộ kiểm tra việc thanh toán và thông báo cho dân
công. Việc trừ nợ của dân công vay phải hƣớng dẫn cho cung tùy theo điều kiện
từng ngƣời mà trừ dần mỗi chuyến một ít và bảo đảm số tiền còn lại để họ bồi
dƣỡng, nhƣng phải cƣơng quyết trừ nếu không sau trừ một lần rất khó khăn.
c. Việc giữ lại tiền thừa:
Thanh toán hết thì sai chính sách nhƣng giữ lại thì có ngƣời thừa ít quá cũng
phải giữ lại, sau này có bổ khuyết là theo mức trọng tài để giữ lại nhƣng mói chỉ là
bổ khuyết thức ra chƣa đúng tính thần giữ lại tiền thừa. Lúc đầu chỉ ấn định trả một
số gạo và tiền ăn còn giữ lại nên có những dân công cho nhiều mà cũng giữ bình
quân nhƣ vậy, dân công không đƣợc bồi dƣỡng. Vì vậy vấn đề giữ lại tiền thừa cần
đề nghị quy định cụ thể hóa:
- Trọng tải dƣới 80 kg thì trả cả.
- Trọng tải 91 kg trở lên thì giữ lại 10% trở lên theo cƣớc phí.
d. Vấn đề trừ 20% xe công:
Áp dụng theo chính sách việc trừ 20% xe công cũng gặp nhiều khó khăn vì
đa số là xe xấu, chở đƣợc ít, thu hoạch đƣợc ít mà xe lại phải chữa luôn có khi bị
nổ. Về mặt bồi dƣỡng, anh em này bị thiệt, mặt khác không đẩy đƣợc năng suất lên
339
nên vài vấn đề này cần nghiên cứu lại, nếu trừ tối đa là 20% có thể trừ ít hơn dựa
theo sức trọng tải của phƣơng tiện do dân công bình nghị. Việc tính công cho xe
cũng dựa theo tỷ lệ trên mà tính.
e. Tiền sửa chữa xe công:
Đối với việc chi phí của dân công sửa xe công, theo điều lệ quy định xe xấu
phải sửa thì ngƣời chủ xe phải chịu, một số anh em chƣa tin rằng về ngƣời có xe
trả. Tuy chƣa có kinh nghiệm thực tế nhƣng để bảo đảm cho dân công an tâm
những giấy tờ chữa xe ban cán sự địa phƣơng phải chứng nhận và bảo đảm cho
việc thu hồi số tiền đó.
Trong vấn đề xe công có mấy trƣờng hợp đặc biệt cần chiếu cố.
- Xe công nhƣng là của cán bộ, thƣờng đƣợc bình nghị đƣợc miễn dân công
mà trƣng dụng đi phục vụ lên tuyến, ngƣời sử dụng đƣợc lĩnh hoàn toàn cƣớc phí
nhƣng tiền sửa chữa đó ngƣời sử dụng phải chịu. Ban cán sự cần giữ lại số tiền
cƣớc phí của ngƣời sử dụng để khi về nếu cần phải bồi thƣờng về giá trị hao mòn.
3. Bồi thƣờng:
Việc bồi thƣờng tuy có điều lệ, trạm không nghiên cứu thi hành nên lúc xảy
ra không giải quyết kịp thời, nhƣng mặt khác ban cũng thiếu kiểm tra, đôn đốc.
Một vài tai nạn nhƣ ô tô cán phải xe đạp trạm không tích cực can thiệp cho rằng
không biết xe của ai. Hiện tƣợng trên chứng tỏ trạm chƣa quan tâm giải quyết vấn
đề. Do việc bồi thƣờng không kịp thời, nên làm cho dân công thắc mắc không biết
rõ đƣợc bồi thƣờng hay không?
Rút kinh nghiệm, khi có những vụ tai nạm xảy ra có thiệt hại trạm cần để
cho dân công bình nghị. Trạm nên trả ngay sau sẽ thanh toán.
V. VẤN ĐỀ TÍNH CÔNG GHI CÔNG KHÁNG CHIẾN
Lúc đầu việc phổ biến chế độ tính công chƣa có điều lệ cụ thể, quy định cho
từng trƣờng hợp, lúc phổ biến dân công rất phấn khởi và hoan nghênh những cách
tính nhƣ thế nào thì chƣa quy định rõ. Hồi đầu tháng 2 năm 1954 mới có chỉ thị
xuống nhƣng cũng chƣa đƣợc phổ biến sâu rộng.
Nhiều điểm thuộc về công thức, quy định tính công chƣa rõ rệt, giải thích
chƣa đầy đủ nên lúc thi hành cũng gặp nhiều trở ngại nhƣ:
340
- Trong chính sách nói 70 kg là một công nhƣng lại tùy theo mức trọng tải
mà định nên trạm 55 dùng 80 kg, dân công thắc mắc.
- Công ngƣời ốm, công thợ chữa xe, y tá, v.v…. tính ra sao.
- Xe công gia hạn tính nhƣ thế nào?
Ban, trạm không tổ chức theo dõi thống kế ngay từ đầu nên lúc tính công
gặp trở ngại tài liệu không đủ, phải tìm kiếm hoặc nhƣ 4 cung Bắc Giang thì 2
cung mất tài liệu phải để cá nhân tự thuật và dân công nhận xét.
Qua quá trình thực hiện việc tính công kháng chiến cho ta thấy việc tính và
ghi công kháng chiến là quyền lợi vinh dự của dân công góp phần vào kháng chiến
nhƣng cũng là một hình thức giáo dục động viên dân công thi đua tăng năng suất.
Nhận rõ ý nghĩa và tác dụng nhƣ vậy nên lúc dân công mới nhận nhiệm vụ
trạm cần phổ biến mục đích, ý nghĩa của việc tính công kháng chiến. Ban cần
hƣớng dẫn điều lệ, cách tính công cho các trạm. Trạm phải tổ chức việc thống kê
theo dõi công của các đơn vị. Sau mỗi chuyến trong những ngày nghỉ kiểm điểm
công tác thì tiến hành bình và ghi công cho cá nhân. Việc bình công làm từng A,
việc ghi công do cán bộ A ghi chép. Ban chỉ huy cung phải theo dõi sau mỗi
chuyến đƣa cho trạm duyệt.
Ngoài những kinh nghiệm trên sau đây là một vấn đề đề nghị bổ sung thêm:
1. Công ngƣời ốm: Trong điều lệ áp dụng trên tuyến của Hội đồng, ngƣời
ốm đƣợc tính công, nhƣng xét ra thì không nên vì tính công, là công đóng góp vào
kháng chiến, ngày ốm đƣợc bồi dƣỡng, chỉ tính vào số ngày đi phục vụ.
2. Công cán bộ: Cán bộ làm việc một ngày tính một công, căn cứ vào tinh
thần phục vụ do dân công bình nghị (đi dự hội nghị cũng đƣợc tính công).
3. Công y tá, thợ chữa xe: Căn cứ vào tinh thần phục vụ, thái độ công tác
làm việc có lƣơng tâm, lúc bình nghị cũng căn cứ cả vào nhận xét của trạm thu
quân do dân công bình nghị.
4. Xe công: Xe công nếu cũng tính mỗi ngày một công nhƣ công lao động
thì không hợp lý, nên công xe chỉ bằng ½ công chính của ngƣời (không tính tăng
năng suất). Xe công gia hạn cũng đƣợc tính công. Xe công cán bộ cũ 40 km tính
một công.
341
5. Cách ghi phiếu: Trƣớc ấy công ngƣời và công phƣơng tiện ghi làm một
nay cần tách riêng và ghi rõ tên ngƣời có xe, ngƣời sử dụng.
VI. KẾT LUẬN
Chiến dịch Đông Xuân năm nay lực lƣợng vận chuyển xe thồ ở trung tuyến
rất trọng yếu, đã đảm nhiệm ¼ tổng số khối lƣợng vận chuyển, đã đạt đƣợc thành
tích về năng suất rất cao chƣa từng thấy so với các kỳ phục vụ chiến dịch trƣớc
hoặc trong khi phục vụ sản xuất ở hậu phƣơng, đã tiết kiệm đƣợc nhiều nhân tài,
vật lực của nhân dân.
Sở dĩ có đƣợc những thành tích nhƣ vậy là vì:
1. Đại đa số dân công xe thồ thuộc thành phần nông dân lao động, đƣợc rèn
luyện và giáo dục sau phát động quần chúng, rất phấn khởi với nhiệm vụ phục vụ
tiền tuyến nên đã thi đua rất hăng hái để bảo đảm kế hoạch.
2. Hoạt động của xe thồ năm nay so với chiến dịch trƣớc cũng có nhiều điều
kiện thuận lợi hơn, đƣợc hoạt động trên từng chặng đƣờng nhất định, đƣờng xa rất
quen thuộc, nên đƣợc an tâm phát huy sáng kiến và kinh nghiệm tăng năng suất
theo với khả năng của mình.
3. Vấn đề tổ chức của ta trong chiến dịch này tuy còn nhiều khuyết điểm lúc
đầu nhƣng có nhiều tiến bộ hơn, vấn đề cung độ, lán trú quân, y tế, tiếp liệu, tiếp
phẩm cũng đƣợc tƣơng đối chu đáo, bảo đảm đƣợc vấn đề sức khỏe và phƣơng tiện
cho dân công. Do đó tạo thêm điều kiện tốt cho anh em trong phong trào thi đua
tăng năng suất.
4. Vấn đề động viên thi đua có nhiều nội dung phong phú, tiến hành kịp thời
nên đã luôn luôn khuyến khích và giáo dục tinh thần cố gắng thi đua của dân công.
Tuy vậy còn có những khuyết điểm:
1. Vấn đề tiếp liệu, trả cƣớc phí, lán trại trú quân không đƣợc chuẩn bị ngay
từ đầu nên có ảnh hƣởng tới vấn đề hành quân lộn xộn, hại tới sức khỏe của dân
công, kìm hãm năng suất, trong một thời gian trƣớc.
2. Nhận thức của cán bộ khi nhận công tác phụ trách xe thồ lúc đầu chƣa
đánh giá đúng trình độ giác ngộ của dân công nên có hiện tƣợng ngại khó, sợ sự
phản ứng của dân công trong khi làm việc, nên không muốn làm công tác phụ trách
342
xe thồ, nhận thức này chứng tó chƣa thấy rõ trình độ giác ngộ của dân công sau
phát động quần chúng đã nâng cao hơn trƣớc rất nhiều.
3. Đối với vấn đề thời gian phục vụ của dân công, cán bộ không thấy trƣớc
vấn để đặt vấn đề chuẩn bị đả thông tƣ tƣởng cho anh em đƣợc chu đáo, nên trong
cuộc vận động gia hạn thƣờng khi sát nút với thời hạn của anh em mới đặt vấn đề
vận động nên trong khi tiến hành rất lúng túng, bị động.
Kiểm điểm công tác tổ chức và lãnh đạo xe thồ của Ban và các trạm đã rút ra
đƣợc những bài học lớn sau:
1. Trƣớc tiên là phải chú trọng đến việc tiếp đón để nắm vững tình hình tƣ
tƣởng của dân công, kiểm điểm quân số và tình hình phƣơng tiện để biết rõ ràng
sau này mà sử dụng, vì vậy khi dân công bắt đầu lên tuyến, các trạm phải cử cán
bộ đến tiếp nhận, khi thực hiện kế hoạch phải nắm vững vấn đề tổ chức hành quân,
vì có hành quân đúng cung độ mới giúp cho trạm nắm vững đƣợc thực hiện kế
hoạch, đồng thời mới bảo đảm đƣợc vấn đề an toàn cho dân công. Muốn tổ chức
vấn đề hành quân đƣợc chu đáo thì trƣớc tiên phải tổ chức vấn đề cung độ, các
trạm trú quân chu đáo, hợp với tình hình sức khỏe và thuận tiện việc ra vào chở
quân, mặt khác phải đề cao công tác giáo dục và ghép anh em với kỷ luật hành trú
quân chặt chẽ ngay từ đầu.
2. Vấn đề thanh toán cƣớc phí đúng kỳ hạn, các thanh toán, trừ hợp lý sẽ làm
cho anh em tin tƣởng vào chính sách mà hăng hái tăng năng suất, vì vậy trong quá
trình thực hiện kế hoạch, vấn đề tiền để trả cƣớc phí lúc nào cũng phải đủ, cách
thanh toán cần có sự hƣớng dẫn thống nhất làm sao khi thanh toán với anh em vận
chuyển nhiều có đủ tiền để bồi dƣỡng và tự sửa xe để tăng năng suất, tiền trả chậm,
việc trừ nợ khe khắt quá nhƣ từ tháng 1 năm 1954 trở về trƣớc làm cho một số anh
em trọng tải cao mà không đƣợc lĩnh tiền bồi dƣỡng sẽ làm cho nghi ngờ, thắc
mắc, thiếu tin tƣởng vào chính sách, không an tâm để tăng năng suất.
3. Vấn đề tổ chức và động viên thi đua thời gian vừa qua đã có nhiều tác
dụng trọng yếu đến việc bảo đảm kế hoạch vận chuyển của xe thồ để đẩy mọi mặt
vào nề nếp và làm cho anh em phấn khởi với nhiệm vụ, ngay từ đầu cần tổ chức
vấn đề thi đua kịp thời, việc lãnh đạo thi đua phải tiến hành từng bƣớc, thời kỳ đầu
343
vấn đề hành trú quân là trọng yếu, sau khi vào để cung độ và hành quân đã ổn định
thì vấn đề tăng năng suất, bảo đảm quân số là chủ yếu. Trong việc lãnh đạo tăng
năng suất tập thể của từng nhóm, từng ban, từng cung và đẩy mạnh phong trào thi
đua giữa các địa phƣơng cùng hoạt động trong trạm.

PHẦN PHỤ THÊM


BÁO CÁO TỔNG KẾT XE ĐẠP THỒ

NHỮNG KINH NGHIỆM VỀ PHẦN KỸ THUẬT TRONG VIỆC GIỮ


GÌN XE
- Khi đi xe về phải lau chùi ngay và tháo xăm lốp ra phơi.
- Lúc xuống dốc nếu dốc dài thì sau khi đi độ 2, 3 km thì nghỉ một lúc để
vành xăm khỏi nóng. Vì vành nóng dễ bị vênh, xăm lốp dễ bị hỏng.
- Dọc đƣờng nghỉ, chống xe không dùng que, gậy mà nên dùng ghế ba chân
mà chống, xe không đổ. Nghỉ nên chọn chỗ đất rắn khỏi lún bánh xe.
- Khung xe nên có cái chống từ giữa lên giữa khung để khung đƣợc vững, dễ
mắc hàng, chở đƣợc nhiều.
- Lấy tre cật cứng hoặc sắt táp từ hai bên hông lên ghi đông bảo vệ phuốc đỡ
gãy.
- Làm nan hoa giả hình chữ thập, bằng tre hay gỗ để giữ vành đỡ gãy, lấy
dấu luyn bôi vào vành, vành không rỉ, dễ lau chùi.
- Trong vành nên lót lốp ở chân nan hoa thì đỡ hại xăm.
- Lót miếng cao su vào chân van thì nƣớc không ngấm vào xăm.
- Xăm mới nên bơm căng, lúc trời mƣa nƣớc không vào.
- Táp một đƣờng xăm cũ vào bụng xăm mới thì xăm bền hơn.
- Lốp nên quét phía trong một nƣớc nâu hay sơn ta.
MẤY TRƢỜNG HỢP CẤP BÁCH GIẢI QUYẾT DỌC ĐƢỜNG
- Trƣờng hợp xăm hở, dùng miếng vải thấm nƣớc quấn xung quanh chỗ hở,
bơm lên có thể tạm đi đƣợc.
- Xăm thủng chƣa vá đƣợc thì buộc hông chỗ xăm thủng bơm lên cũng đi
đƣợc.
344
- Khung gãy lấy tre hoặc gỗ luồn vào trong ruột khung làm nong lấy tre gỗ
táp ngoài có thể tạm đi đƣợc.
CẢI TIẾN KỸ THUẬT, TĂNG NĂNG SUẤT
- Đi đôi với việc giữ gìn xe, thời gian qua cũng rút ra đƣợc nhiều sáng kiến
cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất. Sau đây là một số kinh nghiệm:
+ Cọc dọc nếu dài quà hoặc ngắn quá khó đẩy nên vừa phải đặt tay lên đầu
cọc vì tay vừa ngay với vai. Buộc cọc dọc nên tháo yên ra để buộc đƣợc thẳng và
vặn xe để đẩy. Không tháo yên thì bƣớc không thẳng, dễ bị vênh đuôi cá, yên dễ bị
rách mà dây không khỏe.
+ Tay ngai buộc vừa tầm ngƣời, cao hoặc thấp sẽ mỏi tay, khó đi lại, ngắn
quá sẽ phải vƣơn mình ra đằng trƣớc mỏi lƣng, chóng mệt.
+ Đầu dốc lên, ghé vai vào cọc dọc tay, tay nắm vào pooc-to-ba-ga nâng lên
thì hay đẩy đƣợc nhẹ hơn, ngƣời đẩy hộ thì buộc dây kéo trƣớc hoặc dùng cái gậy
có mấu dí vào xe mà đủn nhƣ vậy ngƣời đƣợc thẳng đỡ vất vả. Dốc ngắn nên đẩy
nhanh lấy đà lên.
+ Má phanh muốn đƣợc bền nên lấy lớp cao su đen còn có vải cắt ra, lắp vào
thì cho phía cạnh cọ vai vào vành. Dùng dây phanh này đƣợc bền. Không nên
cham cao su vào vành không đều dễ bị vênh vành..
THÀNH TÍCH PHỤC VỤ CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ CỦA VẬN
TẢI XE ĐẠP VIỆT BẮC
Đợt Xe đạp Ngày phục vụ cá nhân Tổng số nhật công
Đợt I 2.598 147 381.806
Đợt II 941 125 117.625
Đợt III 2.088 68 141.984
Nhật công: 641.515
Tăng năng suất: 13.620.
Tổng cộng: 655.135
Tỷ lệ ốm: 11,3%.
Tỷ lệ hỏng: 0,8%.
Bị oanh tạc: 107 chiếc.
345
TRỌNG TẢI BÌNH QUÂN
- Đƣờng khó đi nhiều đèo dốc cao 71 cân sau lên tới 82 cân.
- Đƣờng ít dốc tƣơng đối dễ đi 92 cân sau lên tới 109 cân.
- Đƣờng ít đốc thƣờng và trung bình 79 cân sau lên tới 103 cân.
- Cá nhân trọng tải nhất tuyến:
+ Anh Cừ cung 21 Thái Nguyên: 287 cân.
+ Anh Thắng cung1 Phú Thọ: 296 cân.
+ Anh Hàm cung 1 Phú Thọ: 303 cân.
+ Lúc đầu cá nhân đột xuất: 130 cân.
- Trọng tải đƣợc: 293.883.818 tấn, cây số
+ Chiếm: 24% tổng số vận chuyển.
+ Ô tô: 75% tổng số vận chuyển.
+ Dân công bộ 1% tổng số vận chuyển.
- Khen thƣởng: Huân chƣơng 19 cá nhân 2 đơn vị (1 Thái Nguyên, 1 Phú
Thọ).
+ 196 bằng khen.
+ 1.147 giấy khen.

Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, phông Đơn vị trực thuộc Khu Tự trị Việt
Bắc, hồ sơ 1403, tờ 01-18

346
Công văn số 491TC/KT ngày 5/8/1954 của Vụ Kế toán - Bộ Tài chính về
việc sử dụng chiến lợi phẩm ở Điện Biên Phủ

347
BỘ TÀI CHÍNH VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÕA
VỤ KẾ TOÁN Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Số: 491TC/KT
V/v C.L.P ở Điện Biên Phủ

BỘ TRƢỞNG BỘ TÀI CHÍNH


Kính gửi: Ông Chủ tịch UBHC tỉnh Lai Châu
Để kịp thời sử dụng chiến lợi phẩm ở Điện Biên Phủ nhất là các loại quần
áo, chăn màn, dù nói chung, tránh để lâu hỏng nát, Bộ có ý kiến giải quyết nhƣ
sau:

1/ Sở Kho thóc Trung ƣơng sẽ có một đoàn xe chở hàng lên huyện Tuần
Giáo, nhân dịp khi quay trở về, đoàn xe có thể chở giúp cho Mậu dịch để chuyển
về các tỉnh Yên Bái, Tuyên Quang tiêu thụ số chiến lợi phẩm do Ban Thu thập đã
giao sang.

2/ Những thứ còn lại Ủy ban cho kiểm kê:

a) Loại nào thuộc các ngành Giao thông, Bƣu điện, Y tế thì giao cho các
ngành ấy nhƣ đã quy định.

b) Về các loại khác, thứ nào tƣơng đối tốt có thể cấp phát cho các cơ quan
thì cấp và trừ vào kinh phí của cơ quan đó hoặc bán lấy tiền nộp công quỹ.

c) Những thứ nào không thể bán đƣợc thì giao hết cho các huyện phân phát
ngay cho những đồng bào nghèo, thiếu mặc, không nên để lâu hỏng nát, lãng phí vì
không đủ điều kiện bảo đảm chu đáo.

Số lƣợng giao sang Mậu dịch, cấp phát cho các cơ quan, phân phát cho nhân
dân, Ủy ban sẽ làm thống kê chi tiết và báo cáo Bộ rõ./.

SAO LỤC KÍNH GỬI Ngày 5 tháng 8 năm 1954


UBKCHC Khu Tây Bắc (Khu T.C).
TL BỘ TRƢỞNG BỘ TÀI CHÍNH
Nếu Khu cần dùng những thứ gì để cấp
PHÓ GIÁM ĐỐC VỤ KẾ TOÁN
phát thì chỉ thị ngay cho Lai Châu giữ
lại đồng thời có thể phối hợp trong dịp
vận chuyển này./.

348
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Phông Bộ Tài chính, hồ sơ 10694, tờ 22
Công văn số 609TC/KT ngày 28/8/1954 của Vụ Kế toán - Bộ Tài chính
v/v chiến lợi phẩm Điện Biên Phủ.

349
BỘ TÀI CHÍNH VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
VỤ KẾ TOÁN Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Số: 609TC/KT
V/v chiến lợi phẩm
Điện Biên Phủ

BỘ TRƢỞNG BỘ TÀI CHÍNH


Kính gửi: Ông Chủ tịch UBHC tỉnh Lai Châu
Đề nghị Ủy ban gửi cho Bộ và Khu Tài chính Tây Bắc các biên bản bàn giao
hàng chiến lợi phẩm Điện Biên mà UBKCHC huyện Tuần Giáo đã nhận của Ban
Quân nhu tiền phƣơng và đã giao cho Chi sở Mậu dịch Lai Châu bán.
Ngoài ra, Ủy ban cũng cho Bộ biết kết quả định giá Mậu dịch , đồng thời
cho biết tình hình giải quyết các hàng xấu rách còn lại (tiếp theo công văn số
491TC/KT ngày 5/8/1954 của Bộ gửi Ủy ban về việc giải quyết chiến lợi phẩm
Điện Biên)./.

Ngày 28 tháng 8 năm 1954


TL BỘ TRƢỞNG BỘ TÀI CHÍNH

Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Phông Bộ Tài chính, hồ sơ 10694, tờ 23

350
Công văn số 4324/OTL-TF ngày 27/11/1954 của Cục Quân nhu
về việc thanh toán tiền thực phẩm của Chiến dịch Điện Biên Phủ.

351
BỘ QUỐC PHÕNG T.T.L VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÕA
TỔNG CỤC CUNG CẤP Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
CỤC QUÂN NHU
* Ngày 27 tháng 11 năm 1954
Số: 4324/OTL-TF
V/v thanh toán tiền thực phẩm
của Chiến dịch Điện Biên Phủ

CỤC TRƢỞNG CỤC QUÂN NHU


Kính gửi:
ÔNG CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG CUNG CẤP MẶT TRẬN
TRUNG ƢƠNG
1. Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, chúng tôi đã nhận của Hội đồng: Muối
là: 263.537kg200
Nhƣng sau khi kết thúc Chiến dịch, chúng tôi đã giao lại cho địa phƣơng và
các Chi điểm Mậu dịch Lai Châu:
- Mƣờng Thanh, Hồng Cúm: 3.400kg
- Nà tắu: 9.810kg
- Nam Khu Hu 126kg
- Tuần giáo: 7.000kg
Cộng 20.336kg
Đối chiếu:
- Tổng số nhận của Hội đồng: 263.537kg200
- Đã trả Mậu dịch: 20.336kg
Thực nhận của Hội đồng: 243.201kg200
Số muối này chúng tôi sẽ xin lƣu ký của Bộ Tài chính để thanh toán trả Hội
đồng bằng hiện vật.
2. Tổng số thực phẩm huy động trong Chiến dịch kể cả muối trị giá là:
1.792.031.740 đồng Ngân hàng (một ngàn bảy trăm chín mƣơi hai triệu, ba mƣơi
mốt ngàn, bảy trăm bốn mƣơi đồng Ngân hàng).
Số tiền thực phẩm trên chúng tôi sẽ thanh toán nhƣ sau:
- Phần muối huy động sẽ trả bằng hiện vật cho Hội 500.720.680đ

352
đồng (nhƣ ở trên đã trình bày)
- Đỗ tƣơng giao cho Mậu dịch Lai Châu khi kết thúc: 7.621.900đ
6.929kg x 1.100đ
- Cá kho 45 x 2.000đ 90.000đ
- Đƣờng 17 x 2000đ 37.400đ
- Xã Độc Lập, Phu yênPhú YÊN, Sơn La nhận
+ 5 con trâu = 515 kg 566.500đ
+ 1 con trâu = 40 kg 44.000đ
+ 1 con bò = 40 kg 58.000đ
- Thƣơng Bằng La nhận 7 con lợn = 130 kg 5 349.950đ
- Xã Văn Yên, Yên Bái 1 con trâu = 50 kg 55. 000đ
- Xã Chân Thịnh Yên Bái 8 con trâu = 710 kg 781.000đ
- Xã Chân Thịnh Yên Bái 22 con trâu = 2.033 kg 2.236.300đ
- Thƣơng Bằng La 30 con trâu = 2.353kg 2.588.300đ
- Ông Lê Tƣ cửa hàng Mậu dịch Sơn La nhận của
E.151: đỗ xanh, đỗ tƣơng, lạc = 1.151 kg 1.362.150đ
Tổng cộng 516.511.130đ
Đối chiếu:
- Tổng số tiền huy động thực phẩm: 1.792.031.740đ
- Tổng số tiền thực phẩm đã hoàn lại và kể cả tiền 516.511.130đ
muối trả bằng tiền
Còn nợ lại Hội đồng 1.275.520.610đ
Số tiền nợ trên chúng tôi sẽ xin kinh phí của Bộ Tài chính để trang trải rút
với Hội đồng.

KT CỤC TRƢỞNG CỤC QUÂN NHU


(Đã ký và đóng dấu)

Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Phông Bộ Tài chính, hồ sơ 9064, tờ 3 - 4

353
Công văn số 4564/OTL-TF ngày 27/11/1954 của Cục Quân nhu về việc
đề nghị Bộ Tài chính chuẩn cho Sở Kho thóc đƣợc xuất số gạo chênh lệch,
thanh toán cho Chiến dịch Điện Biên Phủ.

354
BỘ QUỐC PHÕNG T.T.L VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÕA
TỔNG CỤC CUNG CẤP Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
CỤC QUÂN NHU
* Ngày 27 tháng 11 năm 1954
Số: 4564/OTL-TF

CỤC TRƢỞNG CỤC QUÂN NHU


Kính gửi:
ÔNG BỘ TRƢỞNG BỘ TÀI CHÍNH
Hiện nay, chúng tôi còn nợ Sở Kho thóc và Sở Mậu dịch:
- Gạo nếp: 12.289.931kg quy ra gạo tẻ là 11.287.235kg
- Thóc: 44.383kg
- Muối: 263.537kg200
Số gạo, thóc, muối trên chúng tôi nhận để sử dụng nhƣ sau:
Tài khóa năm 1953:
- Kế hoạch tiêu phỉ (MT.Y13) 121.332kg tẻ 15.647kg thóc
- Kế hoạch Điện Biên Phủ nhận 1.058.757kg tẻ 18.996kg thóc
Tổng cộng năm 1953 1.180.089 kg 34.643kg thóc và 18.996kg
muối.
Tài khóa năm 1954:
- Kế hoạch Điện Biên Phủ 6 tháng đầu năm 1954: 10.107.146kg te 9.740kg
thóc và 244.541kg muối.
Trong số biên nhận trên chúng tôi đã thanh toán với Kho thóc nhƣ sau:
- Ngày 20/8 thanh toán trả bằng Công văn số 3183-OTL
là: 5.772.200kg tẻ
- Kết thúc Chiến dịch Điện Biên Phủ bàn giao lại bằng
hiện vật cho địa phƣơng công văn số 3961.OTL ngày
27/10/1954 302.841,
- Trả lại Trạm 60A ghi nợ 2 lần, Công văn số 3976.OTL
ngày 27/10/1954 424,
- Ông Lò Văn Yên Chi sở Lai Châu nhận 10.000,

355
- Hoàn trả lại Sở Kho thóc bằng những lƣơng phiếu do
Kho Trạm Ban QNTF đã cấp 124.055,
Tổng cộng số gạo tẻ trả lại 6.109.520kg

Kết thúc chiến dịch trả lại muối cho địa phƣơng và Chi điếm Mậu dịch Lai
Châu Công văn sở báo số 4324/OTL ngày 6/11/1954.
Nhƣ vậy, đối chiếu với Kho thóc và Mậu dịch chúng tôi còn nợ:
NHẬP Gạo Thóc Muối
- Năm 1953 đã nhận 1.180.089 kg 34.643kg 18.996kg
- Năm 1954 đã nhận 10.107.146kg 9.740kg 244.541kg
11.287.235kg 44.383kg 263.537kg
Đã xuất trả Kho thóc và Mậu dịch 6.109.520kg 20.336kg
(nhƣ trên đã trình bày)
Thực còn nợ 5.177.715kg 44.383kg 243.201kg

Số gạo, thóc, muối còn nợ lại chúng tôi sẽ gửi trả thêm Sở Kho thóc và Mậu
dịch (trích Ngân sách năm 1954) là:
- Gạo tẻ: 542.500kg quy ra thóc: 875.000kg
- Muối: 224.205 kg
Phân tích ở những địa điểm sau đây:

Phần gạo Phần muối


Địa điểm Kilo thóc Địa điểm Kilo muối
- Hồng Quảng 65.000kg - Bắc Giang 8.000kg
- Bắc Ninh 70.000 - Thái Nguyên 13.000
- Tuyên Quang 130.000 - Tuyên Quang 44.000
- Yên Bái 70.000 - Vĩnh Phúc 5.000
- Sơn La 100.000 - Yên Bái 6.000
- Hòa Bình 90.000 - Lào Cai 3.000

356
- Ninh Bình 280.000 - Lai Châu 16.000
- Hà Nam 70.000 - Sơn La 14.000
Cộng 875.000kg - Hòa Bình 3.000
Quy ra gạo 542.500kg - Ninh Bình 20.000
- Thanh Hóa 42.000
- Nghệ An 4.000
- Hà Tĩnh 38.000
- Quảng Bình 8.000
Cộng 224.205kg

Để có thể thanh toán dứt khoát với Sở Kho thóc và Mậu dịch trân trọng đề
nghị Bộ chuẩn cấp kinh phí thêm cho Cục Quân Nhu:
- Ngân sách 1953: 1.180.089kg tẻ - 34.643kg thóc - 18.996kg muối
- Ngân sách 1954: 3.455.126kg tẻ - 9.740kg thóc
Cộng: 4.635.215kg tẻ 44.383 kg thóc 18.996kg muối
Ngoài ra trong Chiến dịch Điện Biên có tình trạng là huy động cả gạo nếp
lẫn gạo tẻ:
- Gạo nếp và tẻ: 12.289.931 kg
- Quy ra gạo tẻ: 11.287.235
Chênh lệch: 1.002.696kg
Số chênh lệch này chúng tôi đã thi hành theo quy định của Trung ƣơng cấp
cho bộ đội 1kg200 nếp trị giá bằng 1kg gạo tẻ do đó cũng trân trọng đề nghị Bộ
chuẩn cho Sở kho thóc đƣợc xuất số gạo chênh lệch trên, thanh toán dứt khoát cho
Chiến dịch Điện Biên Phủ và tiện việc khóa sổ cuối năm.
KT CỤC TRƢỞNG CỤC QUÂN NHU
(Đã ký và đóng dấu)

Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Phông Bộ Tài chính, hồ sơ 9064, tờ 5 - 7

357
Báo cáo số 5045/OTL-TF ngày 24/12/1954 của Cục Quân Nhu
về thanh toán toàn bộ Chiến dịch Điện Biên Phủ.

358
BỘ QUỐC PHÕNG T.T.L VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÕA
TỔNG CỤC CUNG CẤP Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
CỤC QUÂN NHU
*
Số: 5045/OTL-TF

BÁO CÁO
THANH TOÁN TOÀN BỘ CHIẾN DỊCH
ĐIỆN BIÊN PHỦ
Trong Chiến dịch Điện Biên phủ, đã huy động ra tiền phƣơng các loại: thóc,
gạo, muối, thực phẩm và tiền, Cục Quân Nhu đã phân phối cho toàn quân tham dự
Chiến dịch nhƣ sau:
I. PHẦN THÓC GẠO MUỐI
Thóc Gạo Muối
- Huy động 44.383kg 13.027.960kg 263.537kg2 Có thống kê
- Thực sử dụng 41.719kg 11.838.128 227.031 chi tiết kèm
Còn lại 2.664kg 1.189.832kg 36.506kg
Hoàn trả KT, MD 302.841 20.336
Tổn thất 2.664kg 886.991kg 16.170kg
Nhƣ vậy, tỷ lệ hao hụt trong Chiến dịch là: Thóc 6%
- Thóc: 6% của tổng số nhập: 44.383kg
- Gạo: 7% 13.127.960kg
- Muối: 6,1% 263.537kg
II. PHẦN THỰC PHẨM
Thịt, rau, khô huy động 821.330kg tiền 1.291.310.060đ
Đã sử dụng 797.924 1.250.886.710
Còn lại: 40.423.350
Thịt cá giao cho Mậu dịch 14.013kg 15.790.450đ
Thịt, cá, rau khô tổn thất: 9.393kg 24.633.900đ
Tỷ lệ hao hụt: 1,1% của tổng số huy động 821.330kg.
III. PHẦN TÀI CHÍNH

359
A. Tiền Ngân hàng
Thu: 1.272.815.949đ (báo cáo chi tiết kèm theo)
Chi: 1.271.557.839
1.238.110đ
Nộp Ngân hàng: 1.224.710
Tổn thất 33.400đ
B. Tiền Đông dƣơng
- Thu 1.684.383đ (báo cáo chi tiết kèm theo)
- Chi 1.684.145
Tổn thất 238đ

KẾT QUẢ CÔNG VIỆC TIẾN HÀNH THANH TOÁN


Phần thóc, gạo, muối huy động cho chiến dịch bao gồm cả hai tài khóa 1953
và 1954.
Tách riêng tài khóa năm 1953 để xin Bộ Tài chính cấp kinh phí trang trải với
Sở Kho thóc: 1.180.089kg gạo tẻ, 34.634kg thóc và 18.996kg muối.
Phần gạo: Năm 1954 Sở còn nợ đã tính trong Ngân sách của Cục Quân nhu
trang trải:
- Ngày 20.8 thanh toán bằng Công văn số 3183/OTL: 5.772.200kg tẻ
- Ngày 27.11 thanh toán bằng Công văn số 4564/OTL: 542.500kg tẻ
- Hoàn trả Sở Kho thóc khi kết thúc chiến dịch do các địa
phƣơng Lai Châu, Sơn La ký nhận 337.320kg tẻ
Tổng cộng 6.652.020kg
Phần muối: Năm 1954, số nợ Hội đồng Cung cấp Mặt trận đã trích Ngân
sách trang trải:
- Ngày 27.11 thanh toán bằng Công văn số 4564/OTL là 224.205kg
- Giao trả khi kết thúc Chiến dịch tại địa phƣơng 20.336kg
244.541kg
Nhƣ vậy, tổng số còn nợ lại chƣa thanh toán là:
Ngân sách năm 1953: 1.180.089kg gạo tẻ: 34.643kg thóc 18.996kg
360
Ngân sách năm 1954: 3.455.126kg gạo tẻ: 9.740kg thóc
Phần thuyết minh cặn kẽ xin xem Công văn số 4564/OTL gửi kèm.
Phần thực phẩm: Số thực phẩm trị giá thành tiền (quy ra gạo theo giá Chiến
dịch) xin Bộ Tài cấp kinh phí trừ vào Ngân sách năm 1954 là 1.275.520.610đ (hồi
Chiến dịch kinh phí 1954 Bộ Tài chính đã rút một phần tiền thức ăn của Cục Quân
nhu).
Phần cấp phát cho bộ đội ở Chiến dịch, Cục Quân nhu đã chuyển sang cấp
kinh phí chính thức cho bộ đội hiện đang tiến hành quyết toán cho các đơn vị.
Phần thanh toán cặn kẽ xin xem Công văn số 4324/OTL gửi kèm.
Tình hình chung
Về mặt thanh quyết toán cho Chiến dịch, Cục Quân Nhu đã thanh toán dứt
khoát cho tất cả các đơn vị chủ lực, và cơ quan Mặt trận Bộ. Hiện nay đang tiếp tục
thanh toán đòi nợ các đơn vị ngoài Ngân sách vì nhu cầu đặc biệt mà Ban Quân
nhu tiền phƣơng đã phải cấp ở tiền phƣơng.
Riêng về phần gạo, muối, tiền thực phẩm đối với Bộ Tài chính, Sở Kho thóc
và Mậu dịch, Cục Quân nhu đã công văn thanh toán dứt khoát và ghi sổ nhƣ kinh
phí đƣợc cấp ở hậu phƣơng./.

Ngày 24 tháng 12 năm 1954


(đã ký và đóng dấu)

Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Phông Bộ Tài chính, hồ sơ 9064, tờ 1 - 2

361
Báo cáo ngày 24/12/1954 của Cục Quân Nhu về tình hình tài chính
trong Chiến dịch Điện Biên Phủ.

362
BỘ QUỐC PHÕNG T.T.L VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÕA
TỔNG CỤC CUNG CẤP Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
CỤC QUÂN NHU
BÁO CÁO
TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH TRONG CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ
A. TÌNH HÌNH TIỀN NGÂN HÀNG
THU: - Nhận của Cục 1.139.394.700đ
- Đã tạm thu 2.745.570đ
- Tạm thu thực phẩm 106.078.779đ
- Tạm thu tiền gửi 24.596.900đ
Cộng thu 1.272.815.949đ
CHI: - Cấp kinh phí cho đơn vị 1.020.039.190đ
- Tạm ứng 251.518.649đ
- Tổn thất 33.400đ
- Nộp Ngân hàng 1.224.710đ
Cộng chi 1.272.815.949đ
Đối chiếu 000đ
B. TIỀN ĐÔNG DƢƠNG
THU: - Đổi tiền Ngân hàng 67.834đ
- Vay của E.148 903.045đ
- Tạm thu 8.828đ
- Tạm thu 704.676đ
Cộng thu 1.684.383đ
CHI: - Tạm ứng cho đơn vị 1.684.145đ
- Tổn thất 238đ
Cộng chi 1.684.383đ
Đối chiếu 000đ
Ngày 24 tháng 12 năm 1954
(đã ký và đóng dấu)

363
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Phông Bộ Tài chính, hồ sơ 9064, tờ 15
50. Báo cáo của Ty Giao thông công chính Yên Bái tổng kết về đánh
bom nổ chậm trong thời gian bảo đảm giao thông năm 1954

364
TY GIAO THÔNG CÔNG CHÍNH YÊN BÁI VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÕA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

BÁO CÁO
TỔNG KẾT VỀ ĐÁNH BOM NỔ CHẬM TRONG THỜI GIAN
BẢO ĐẢM GIAO THÔNG
I. Nhận định sự hoạt động của địch: (Đèo Lũng Lô + Ngòi Lao + km 10 +
Bến phà Âu Lâu).
II. Tổ chức đài quan sát của các thời kỳ phá hoại của địch:
- Công tác tăng cƣờng các đài quan sát và khó khăn trở ngại
- Lề lối làm việc của đài và ƣu khuyết điểm.
III. Theo dõi tình hình bom tại trận địa, sự hoạt động phi cơ của địch các loại
IV. Quy luật bom nổ chậm
V. Kết luận

I. NHẬN ĐỊNH SỰ HOẠT ĐỘNG CỦA ĐỊCH TẠI CÁC TRỌNG


ĐIỂM CỦA YÊN BÁI TRONG THỜI GIAN BẢO ĐẢM GIAO THÔNG
Trong quá trình bảo đảm giao thông nhƣ trên đã nhận định, tỉnh Yên Bái có
những trọng điểm địch có thể đánh phá gay go, kết hợp với mùa mƣa lũ, hòng làm
cản trở giao thông của ta.
Chúng đã đánh những trọng điểm nhƣ đèo Lũng Lô, Ngòi Lao, Đạt Thiên,
km 10, bến phà Âu Lâu. Những trận đánh phá nặng nhất trong các trọng điểm là
Đèo Lũng Lô và Ngòi Lao khi hội quân.
Chúng ta chia sự công phá của địch ra 3 thời kỳ: thời kỳ đầu tiến quân của
chiến dịch, thời kỳ giữa là khi chuẩn bị đợt II chuyển sang tổng công kích cứ điểm
Điện Biên Phủ (khoảng tháng 4-5.1954), thời kỳ hội quân sau tiếng sung toàn
thắng của quân ta là trung tuần tháng 5 và tháng 6.1954.
Thời kỳ tiến quân chúng ta bắt đầu đánh ở bến đò Âu Lâu tháng 11/1954
theo hình thái cuộn dần vào trong, chúng đã đánh km 10 Đạt Thiên, cùng với
những ngày đánh đèo Lũng Lô lần đầu tiên. Sau đó bẵng đi cho đến tháng 4/1954
365
thời kỳ ráo riết đánh phá. Chúng đã đánh km 10, Đèo Lũng Lô nhƣng đặc biệt
chúng đánh cả mặt Đèo về phía Yên Bái (km 69) rồi cú đánh kiểu cóc nhảy từ Đèo
ra km 10, lại vào Đèo. Nhƣng đợt này chúng tập trung đánh những cứ điểm trên từ
3 đến 7 ngày liên tiếp.
Tiếp sáng sau thất bại của chúng ở Điện Biên độ 1 tuần lễ tƣơng đối yên tĩnh
phía Yên Bái, chúng lại bắt đầu đánh phá dữ dội hơn, đợt này chúng đánh song
song hai cứ điểm đèo Lũng Lô, Ngòi Lao, chúng chuyển sang đánh phá đêm ở dọc
đƣờng, theo dõi hành quân, thƣơng binh và xe cộ vận chuyển của ta. Cho đến cuối
tháng 6/1954 chúng đánh ra km 10 ba trận trong hai ngày rồi yên hẳn cho đến nay.
Đó là thời kỳ thứ ba của đợt hội quân của ta.
Trong suốt thời gian này ta đã chủ trƣơng và tổ chức theo nhu cầu đòi hỏi cả
bộ phận theo dõi các quan sát đài, đội phá bom và huấn luyện các đội phá bom nổ
chậm, bố trí các đơn vị đối không đất việc báo cáo thỉnh thị, liên lạc đƣợc nhanh
chóng. Các công tác trên trong quá trình chiến đấu đã đƣợc xây dựng trƣởng thành
nhƣ đơn vị C236, đặc biệt là đội phá bom chậm của đơn vị đã nêu cao đƣợc một
tinh thần anh dũng quyết tâm và đạt đƣợc thành tích.
Tuy nhiên, cũng còn những hiện tƣợng chạy theo việc, bọ động nhƣ ở Đèo
Lũng Lô, khi bị đánh ở phía Yên Bái km 69-73 rồi mới bố trí thêm đài, cho là Ngòi
Lao không bị đánh phá quá gay gắt nhƣ thực trạng Điện Biên khi hội quân, nếu
không kịp thời bố trí đội phá bom ở cứ điểm này sau phải sử dụng một đội của
C236 ra kể cả việc bố trí quân số ở Ngòi Lao, cũng tƣơng đối, bố trí còn mỏng,
phải tiếp quản ứng chiến ở Hạt Trấn Yên vào và ở Đèo ra.
II. SỰ PHÁT TRIỂN VÀ TỔ CHỨC ĐÀI QUAN SÁT QUA CÁC
THỜI KỲ
Trong nhiệm vụ lập lại giao thông, tuy có nhiều điều kiện đảm bảo nhƣng
một trong những điểm quan trọng quyết định đó là vấn đề quan sát đài có thể nắm
vững đƣợc tình huống xấu và trong khi địch đánh. Bƣớc đầu khi thành lập đài quan
sát theo nguyên tắc thông thƣờng đã đƣợc học tập nhƣng thực tế còn bố trí đài quá
xa (500 thƣớc so với trận địa) ở Lũng Lô đã làm cho cán bộ và chiến đấu viên phải
chạy xa, mệt, mất thời gian tính. Song với khuyết điểm này có khi bố trí đài thấp
366
quá, tầm mắt không trông ngƣớc lên đƣợc (Chữ chi 1-2 phía Sơn La Đèo Lũng
Lô), đƣờng xuất kích xuống trận địa còn gồ ghề, khó đi, chƣa biết lợi dụng địa dƣ,
thế đứng nhìn ngƣợc ánh sáng mặt trời làm chói mắt quan sát viên. Ở Đèo Lũng Lô
có trƣờng hợp bố trí đài gần pháo đối không, khi địch đánh đối không làm tê liệt
đài quan sát, vì đối không phải di chuyển luôn khi rút đi dễ lộ, các ụ súng ở gần
không chịu ngụy trang kỹ đài sẽ bị ảnh hƣởng.
Việc xây dựng hầm trú ẩn ở các đài Lũng Lô, km 10 chƣa làm nắp đậy, dùng
kích thƣớc đã định để đề phòng mảnh bom, bom không lôi hoặc hầm còn làm chật
hẹp khi thụt đầu xuống tránh còn bị vƣớng gỗ, đá vv…quan sát viên phải chen
nhau đứng chật quá.
Bố trí sắp xếp còn vụng về, thiếu nguyên tắc, kéo cả tổ đào bom lên đài, vác
cả cuốc xẻng lên đài, không để ở nơi nào gần trận địa khỏi mất sức lao động khuân
vác và làm chậm trở ngại cho đội viên tổ đào bom khi cần thiết phải xuất trận.
Những hiện tƣợng trên ở Đèo sau tháng tƣ năm 1954 đã kịp thời bổ sung,
sửa chữa, cụ thể việc xây dựng thêm đài ở km 73 – 69 đã giải quyết đại bộ phận trở
ngại trên. Hiện nay có đài chính ở sát trận địa cách nhau độ 70 thƣớc, kèm theo đài
phụ để đảm bảo theo dõi đƣợc xác thực hơn. Sự phân công bố trí quân số cán bộ
trên đài theo nguyên tắc tổ chức trung đội, tiểu đội có các đài chính đài phụ, các tổ
thuốc, tổ cuốc bom, tổ bộc phá, tuy có đều và đủ nhƣng công tác lãnh đạo tƣ tƣởng
của đội viên từng tổ chƣa sát và bố trí từng tổ khi vào trận địa còn có nhiều khuyết
điểm nhƣ trong trận đánh hồi tháng 5/1954 ở Đèo Lũng Lô đã xảy ra hiện tƣợng
nhƣ sau:
Sau khi máy bay địch đi, tổ thuôn ở trên đài tranh thủ từng phút, xuống trận
địa tìm bom, khi thấy tổ cuốc bom quyết tâm tranh thủ thời gian, đào sâu hơn ba
thƣớc rồi thấy bom, quay lại gọi tổ bộc phá, tổ bộc phá có một vài cá nhân giao
động, chùng trình, không giám vào để lỡ thời cơ. Ngay lúc ấy trời mƣa lũ to, đất đá
sụt xuống lấp mất hố bom. Kết quả để bom nổ không phá đƣợc.
Còn những khuyết điểm trong tinh thần chuẩn bị dụng cụ nhƣ giữ thuốc
không cẩn thận, cán bộ không luôn kiểm soát cụ thể đội viên phụ trách dụng cụ
trƣớc khi đánh bom nhƣ km 10. Sau khi tìm thấy bom lại quên dây nổ chậm
367
(meche) thiếu giao con cắt dây, khi về nhà lấy đƣợc dây ra lúc đốt lại bị thuốc ẩm
không nổ đƣợc để đến hết giờ an toàn bom nổ.
- Cũng có trƣờng hợp trời còn sớm vì đề phòng phi cơ địch đánh tiếp nên
khong giám quyết tâm đánh những quả bom nổ chậm nằm nổi trên mặt đất, đợi đến
chiều hết giờ hoạt động của phi cơ địch bom nổ mất.
- Còn tƣ tƣởng say mê với thắng lợi, sau khi đánh đƣợc một quả không nắm
vững thời gian an toàn, nên cán bộ chỉ huy hạ lệnh rút nhƣng quân còn cố làm
thêm, không tính đến thời gian từ trận địa ra đến địa điểm an toàn còn mất đến 4, 5
phút nên đến khi bắt đầu thu quân thì đã quá sát giờ an toàn để bom nổ làm bị
thƣơng một số đồng chí (km10).
Công tác đánh bom về phần kỹ thuật cần nghiên cứu và xây dựng, xem xét
lại việc cắt giây meche dài ngắn, sử dụng các loại thuốc bom me-li-nit, sacdit,
sedit…cũng cần biết. C237 dùng tới hơn hai kilo thuốc, sức kích thích quá mạnh
làm nổ sức công phá của mọi loại thuốc nên bố trí nhiều hay ít. Có lần C237 dùng
tới hơn 2 kilo thuốc nổ sức kích thích quá mạnh làm nổ vài quả bom. Có khi bom
tuy không nổ nhƣng sức mạnh quá độ của bộc phá nên làm mất hết cả thuốc nhƣ ở
Đèo, km 10.
Trong những hiện tƣợng thiếu sót trên trong thời gian đầu trong công tác bố
trí sửa soạn dụng cụ, vật liệu đánh bom cũng nhƣ công tác chính trị lãnh đạo tƣ
tƣởng cho từng cán bộ, cho từng đội viên và đánh thông cho toàn thể đơn vị, tiểu
đội, và từng tổ chƣa thật chu đáo. Qua quá trình chiến đấu lập lại giao thông ta
cũng đã kịp thời chuyển sang chủ động chủ động đƣợc tình thế, về địa điểm bố trí
đài quan sát ở các nơi xung yếu địch thƣờng đánh nhƣ ở cây số 73, 69, 70, 77, km
10, 11, 50, 52 gồm có cả các đài phụ để nắm đƣợc địch tính bố trí đánh đƣợc
nhanh hơn. Các hầm an toàn cho bộ phận quan sát đã dựng đƣợc một phần. Nói về
cán bộ tuy đã phân công đƣợc hợp lý so với sự quan trọng của từng trọng điểm trận
địa, nhất là vấn đề lãnh đạo tƣ tƣởng các đội đã vững hơn trƣớc, nhƣng thực tế
cũng cần chú ý luôn luôn về tác phong lãnh đạo cụ thể của cán bộ phụ trách sát
đƣợc an hem, uốn nắn kịp thời những tƣ tƣởng sai lệch, động viên khen thƣởng và
kỷ luật, đặc biệt sự có mặt của các cán bộ chỉ đạo khi chiến đấu cũng là một yếu tố
368
quyết định, sự thành công của công tác và sự chiến đấu của đội viên trong các đài
quan sát cũng phấn khởi, tin tƣởng thêm.
Kết luận về phần tổ chức đài quan sát về bó trí, một cán bộ chiến đấu viên
với tinh thần chuẩn bị về tƣ tƣởng, về công tác của các bộ phận càng chu đáo
chừng nào, chịu rút tỉa kinh nghiệm những trận đánh thì vấn đề đánh lại chủ động
với địch trên trận địa càng thắng lợi chừng nấy.
III. THEO DÕI TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA PHI CƠ ĐỊCH VỀ
TÌNH HÌNH BOM
Qua các trận đánh ở Ngòi Lao, ở Đèo Lũng Lô địch thƣờng dùng các loại
bom khác nhau, các loại phi cơ thông thƣờng, nhất là dùng loại hen-cat, hen-li-vo,
B24, B26, và du-lat 19.
- Các thứ bom thả xuống dễ theo dõi nhất là Hen-cat, Hen-li-vo ném lối bổ
nhau (Piquet), mỗi lần tiện từ một đến hai quả, cách ném này dễ quan sát, dễ đếm,
bom xuống hồng hơn, hố bom khi xuyên ngang khi đào rẽ đơn, những loại này
ném thƣờng trúng đích, cắt phá mặt đƣờng ở các chỗ xung yếu, chính xác hơn.
Loại này thƣờng hay đánh ở các địa điểm một bên là vực sâu, một bên là ta-luy cao
hoặc hai bên là ruộng lầy hoặc hồ ao (km 10) và quãng trống (Đạt Thiên) cửa nhà
thờ Lê Đình Đô bên thị xã Yên Bái.
- Loại bom khó theo dõi nhất là các phi cơ khu trục phóng pháo (B26) và
phóng pháo hạng nặng nhƣ B24 – Du-lat – B19, loại này thƣờng ném bom trùm,
mỗi lần ném thƣờng từ 6 đến 10 quả nổ cách nhau từ 6 đến 10 thƣớc. Tác dụng của
bom trùm chỉ phá hoại trên một trận địa rộng, dài, nhƣng chỗ yếu của chúng là
không phá đƣợc những trọng điểm khó, dài, mỏng nhƣ nơi có taluy cao và một bên
là suối sâu. Cụ thể chúng chỉ dùng loại máy bay này đánh ở hai cứ điểm Ngòi Lao
và Đèo Lũng Lô (phía Sơn La). Loại máy bay B26 (khu trục phóng pháo) còn có
tác dụng theo dõi xe có bắn phá ban đêm những cứ điểm lộ mục tiêu ánh lửa,
doanh trại v.v…
- Các loại bom ném do những máy bay phóng pháo khi bom xuống thẳng và
đứng hơn các loại khác nên xuống sau, đào khó vì cách ném của máy bay này vẫn
bay thẳng mà thả nên đƣờng trúc xuống của bom xuống đúng hơn. Nhƣng đợt thứ
369
hai sau một vòng bay chúng ném cách nhau độ 10 phút thì trận địa bị khói đen,
khối đất đá làm mù mịt khó xem, khó theo dõi. Vả lại tƣ tƣởng quan sát viên
thƣờng bị giao động, lo có bom không lôi, nên không nắm vững đƣợc tình hình
trận địa khi chúng đánh bằng B24, B26, B11 càng thêm khó khăn.
- Còn tình trạng mất thời giờ, lãng phí nhân lực, gieo rắc thêm sự nghi kỵ
cho quân khi lập lại giao thông. Rất phổ biến là ta chƣa nhận định đƣợc các hố
bom, hay họ đã ở trận địa , chƣa phân định đƣợc chính xác là bom hay đá, nên sự
trao đổi kinh nghiệm cũng cần phải có, những bản Báo cáo về Ty nhận xét rút kinh
nghiệm qua các tổ đào bom, để trao đổi với các đơn vị có nhiều hoàn cảnh tƣơng
tự sau này dần dần tìm hiểu.
Một kinh nghiệm cần lƣu ý là ở các nơi xét ra thực là xung yếu trong một
trận địa nào ví dụ ở các chữ chi, Đèo, ở các quãng mặt đƣờng khó sửa chữa nhất
nếu bị trúng 2, 3 quả bom nổ ngay nhất định cách đấy độ 40 thƣớc trở lại cũng có
bom nổ chậm, chúng thƣờng thả vào đợt đánh cuối cùng của ngày hôm ấy và thả
ngay lúc mới bắt đầu lên khi trận địa còn chƣa có khói, đất, đá.
Gần dây trong đợt hành quân địch đã dùng các loại bom ngòi loại nổ ngay,
nổ chậm, bƣơm bƣớm còn có ném cả bom lia (ra-sang), cắt sát các cây cỏ, ở mặt
đƣờng với một hơi ép rất mạnh để giò xét phá hoại các kho tàng, cắt dấu của địa
điểm, trú quân của ta.
Chúng thƣờng ném ở những nơi tƣơng đối mặt đất bằng phẳng (Ngòi Lao,
km 74), hoặc đỉnh Đèo. Ngoài ra, loại bom (fuy-dang) nổ trên không không cách
mặt đất, trên dƣới 30 thƣớc để đánh đài quan sát đánh đối không, khủng bố tinh
thần các đội viên, sự hoạt động ở các khu vực chúng nghi là có địa điểm của ta
(Ngòi Lao, km 48). Khi chúng ném bom chum màu sơn của bom thƣờng hay lẫn
với da trời, trên trời có vân mây, bom thả hàng chum, nên làm khó cho quan sát
viên nắm đƣợc tình hình, khi chúng ném các bom nổ chậm. Đặc điểm của phi cơ
phóng pháo là bay cao trên dƣới 3000m, trên tầng cao xạ của ta nhƣng thƣờng sai
dịch có khí hàng 500 thƣớc tác dụng phá hoại, đối với các mặt đƣờng chạy dài
tƣơng đối kém hiệu quả. Có những khó khăn cho quan sát viên theo dõi rất khó.
Trong công tác theo dõi về hoạt động phi cơ bom của địch, ta còn chƣa thật bình
370
tĩnh gan dạ, khi bom đã bắt đầu cắt từ máy bay nhất là khi bom sắp xuống mặt đất,
chƣa tin chắc ở công sự, nắm vững quy luật ném bom của các loại phi cơ nhƣ trên,
và tác dụng của nó nên quan sát viên có tỏ ra giao động, ngại bom không lôi. Do tƣ
tƣởng trên nên ảnh hƣởng đến việc nắm vững tình hình bám không sát trận địa,
không nắm vững đƣợc bom chậm, bom nổ ngay làm chậm trễ việc điều quân lập
lại giao thông. Khi xếp bom bƣớm dùng bộc phá để phá lái không hoặc khi đánh
bom bƣơm bƣớm ở Ngòi Lao có những đồng chí nhặt đƣợc cầm trên tay còn đùa
bỡn nhau tỏ ra coi thƣờng thiếu thận trọng. Khi sắp xếp bom bƣơm bƣớm dùng
bộc phá để phá lại không đào hố sâu nên khi bộc phá nổ lại văng bom bƣơm bƣớm
đi nổ ở quãng khác một lần nữa, mà không tìm cách hủy ngay hay hủy cả một lúc
bằng phƣơng pháp khác tiện lợi hơn để tránh nguy hiểm.
Qua các trận đánh từ 3 đến 7 ngày liên tiếp 1 cứ điểm, mỗi ngày chúng đánh
từ 1 đến 4 đợt. Chúng ta chƣa nắm đƣợc vững tình hình địch về bom nổ chậm, sự
phán đoán và nhận xét quy luật của bom cũng vì đó mà không đƣợc chính xác, còn
bập bõm làm ảnh hƣởng đến sự điều quân lập lại giao thông. Thƣờng mỗi đợt đánh
của phi cơ từ lúc bắt đầu đến nhanh nhất là từ 7 đến 10 phút, lâu nhất là 45 phút.
Tùy theo dàn máy bay khu trục nhiều hay ít. Thƣờng những đoàn máy bay có từ 4
đến 6 chiếc chúng đánh lâu nhất là 45 phút, đoàn có 2 đến 3 chiếc chỉ đánh từ 7
đến 15 phút.
Những đoàn nhiều máy bay từ 4 đến 6 hoặc nhiều hơn thƣờng đánh về buổi
chiều đều đánh gài bom nổ chậm việc theo dõi từng giờ, từng phút phải ghi chép
cẩn thận mỗi lần nhả bom của phi cơ, bom rơi xuống trận địa vào quãng nào,
chúng ta nắm chƣa thật vững, chƣa tính từ quả bom đầu tiên xuống cho đến quả
bom cuối cùng của đợt cách nhau bao nhiêu phút (đợt đánh lâu đến 45 phút, nên
quả bom nổ cũng chênh lệch nhau từ 5 đến 45 phút, do đó ta còn nghi ngờ quy luật
bom 45 hay 1 giờ). Nếu ta theo dõi nắm vững ghi chép đƣợc tình hình từng quãng
của trận địa, nơi bom rơi, giờ cắt bom của máy bay và giờ nổ của quả bom ấy ta sẽ
dần dần nắm đƣợc quy luật chính xác hơn nhiều. Tuy nhiên ta không phủ nhận
những khó khăn gặp phải trong khi diễn biến ở trận địa khi địch đánh, trƣờng hợp
những quả trƣớc còn lại cũng làm khó thêm cho ta vì địch đánh liên tiếp. Ta chƣa
371
nhận rõ việc nghiên cứu tỉ mỉ phƣơng pháp, cố vƣợt mọi khó khăn mới để bồi bổ
khắc phục xây dựng việc theo dõi đƣợc chu đáo ngày một hoàn thiện hơn. Việc
theo dõi bom càng tỉ mỉ, tính sát từng phút, số lƣợng bom ở máy bay khi nổ, số
bom đã nổ ngay, nổ chậm ở các đoạn đƣờng, trong trận địa, số liệu này đòi hỏi một
việc bình tĩnh, can đảm ghi chép tại chỗ, có mẫu cụ thể, số sơ đồ chi tiết, càng chu
đáo chừng nào càng dễ cho cuộc rút kinh nghiệm, nắm quy luật, bớt đƣợc xƣơng
máu của chiến sĩ, làm cho chiến đấu viên, dân công, cán bộ vững tâm lập lại giao
thông nhanh chóng. Có đơn vị mắc phải khuyết điểm về chế độ thỉnh thị báo cáo,
hoặc không giám báo cáo, hoặc báo cáo mập mờ, báo cáo chậm chạp, cũng vì
nguyên nhân không nắm đƣợc tình hình trận địa sau một trận bom nổ ảnh hƣởng
lớn đến sự giúp cho cán bộ chỉ huy lãnh đạo trận địa quyết định trận đánh đƣợc
nhanh chóng và chính xác hơn.
Những hiện tƣợng trên là do chúng ta chƣa chú ý tỉ mỉ nghiên cứu kỹ, những
trận kinh nghiệm, những trận đƣợc coi nhƣ điển hình cho sự thành công hay thất
bại, sự chênh lệch, 5, 10 phút trong trận địa còn nhiều khi không đƣợc coi là quan
trọng. Chúng ta cần phải nhận thức sâu sắc điểm này trong mỗi cán bộ và chiến sĩ.
Quy luật bom của địch:
- Trong khoảng từ tháng 4 đến 10/5 chúng thƣờng đánh ở Đèo từ 10 giờ 30
đến 12 giờ về buổi sáng và chiều từ 14 giờ đến 17 giờ 30.
- Ngòi Lao tháng 5/1954 chúng đánh từ 7 giờ đến 10 giờ về buổi sáng, chiều
từ 14 giờ 30 đến 17 giờ 30 (có trƣờng hợp đánh sớm hơn).
- Km 10 tháng 5/1954 chúng thƣờng đánh từ 14 giờ đến 17 giờ 30. Giờ
đánh phá của địch nhằm những ngày tạnh ráo, trời mát, nhƣ ở Đèo, chúng đánh
nhiều từ 10 giờ đến 11 giờ 30, Ngòi Lao chúng có thể đánh sớm hơn vào vụ trời
còn nắng dịu. Nhƣng những ngày nắng to chúng thƣờng đánh vào buổi chiều từ 15
giờ 30 trở đi cho đến 17 giờ 30.
Giờ bom nổ sau lúc ném có nhiều loại:
- Loại nổ sau khi ném từ 30 phút đến 1 giờ.
- Loại nổ sau khi ném 2 tiếng hoặc trên dƣới 5, 10 phút.
- Loại nổ sau khi ném 10 giờ (trên dƣới 10 + 15 phút).
372
- Loại nổ sau khi ném 24 giờ (trên dƣới 30 + 40 phút).
- Loại nổ sau khi ném 81 giờ (trên dƣới 1 giờ) rất ít.
- Loại nổ sau khi ném 101 giờ (trên dƣới 1 giờ) rất ít.
Ngoài ra còn có những loại nổ sau 30 đến 32 tiếng.
- Thƣờng chúng ném 12 quả nổ chậm trong một ngày, ở một cứ điểm +
trong số 12 quả nổ thứ tự thông thƣờng nhƣ sau (tháng 6/1954 ở Đèo và Ngòi
Lao).
Từ 30 phút đến 1 tiếng sau khi ném (nổ từ 1 đến 2 quả).
- Giờ thứ ba sau khi ném, nổ liên tiếp 4 quả chỉ cách nhau từ 2 phút đến 30
phút + cách quãng một giờ, không nổ quả nào.
- Đến giờ thứ tƣ sau khi ném lại nổ 4 + 5 quả nữa liên tiếp cách nhau 15
phút.
Những giờ nổ thông thƣờng vào khoảng chập tối 19 giờ đến 22 giờ và 1 loại
nữa nó lẻ tẻ vào quãng từ 1 giờ đến 2 giờ sáng (chúng ta cần chú ý giờ nổ của bom
thì nhận định, nhƣng giờ giấc của ta từ Yên Bái theo đồng hồ của mỗi địa điểm,
mỗi cán bộ chênh lệch nhau hàng giờ, nên có nhiều chỗ thiếu thống nhất nhận
định).
Qua các trận đánh, chúng thƣờng bố trí bom nổ vào khoảng chập tối cho đến
22 giờ 30. Ở giữa quãng từ 18 giờ đến đến 22 giờ 30 có một giờ yên lặng vào
quãng 20 giờ 30 đến 21 giờ 30 (có thể chênh lệch nhau trên dƣới 30 phút).
Giờ an toàn thứ hai ta cần tranh thủ thƣờng là từ 23 giờ 30 đến 1 giờ 30
đêm.
Giờ an toàn thứ ba để tranh thủ xe qua hoặc lập lại giao thông là từ 2 giờ 30
cho đến sáng.
Chúng ta thƣờng nhận định bom nổ chậm thay đổi quy luật luôn, nhƣng ta
cần chú ý những loại bom nổ liên tiếp trong một giờ nhất định nào đó có thể cách
nhau từ 2 phút đến 20 phút, điểm này ta cần chú ý đến liên quan giữa bộ phận nổ
chậm trong quả bom với khi với khi cắt bom ở máy bay ném xuống trận địa ban
ngày cách nhau bao nhiêu phút thì lúc nổ cũng nổ cách nhau tuần tự với khi xuống
nhƣ thế. Một mặt khác chúng ta cần ghi rõ đợt đánh của địch nó cũng quyết định
373
việc nổ cách nhau hàng giờ hay 3,4 giờ khác nhau. Điểm này cần nắm đƣợc chính
xác những khi chúng ném các lần cả bom nổ ngay, nổ chậm. Do nhận định trên ta
nhận thấy quy luật của bộ phận bom nổ chậm thƣờng nhất định ta muốn quy luật
đƣợc chính xác rõ rang thì việc theo dõi giờ phút từ khi cắt bom ở máy bay xuống
trận địa là rất quan trọng, giờ ném bom tùy theo thời tiết nắng, mƣa, nóng, rét, trời
trong sáng hay sƣơng mù của cứ điểm mà địch định đánh đã đƣợc tính toán cho
hợp với việc bố trí bom nổ vào quãng chập tối từ 18 giờ nay máy bay của địch rất
khó hoạt động, có tác dụng kìm hãm hòng làm ta không đi lại đƣợc. Nếu ta thống
nhất nhận định trên ta có thể tính trƣớc những giờ nổ của số bom đã đánh ban ngày
hoặc liên tiếp hoặc cách nhau.
Muốn đạt đƣợc nhiệm vụ trên ta cần phải:
1/ Xem xét thời tiết mƣa nắng của ngày hôm ấy và ngày hôm trƣớc nhƣ thế
nào, ghi rõ để rút kinh nghiệm.
2/ Ghi rõ số phi cơ lên đánh vào từ mấy giờ, chúng cắt bom vào mấy giờ,
mấy phút. Bom rơi xuống nơi nào trong trận địa. Bom nổ ngay hay chƣa nổ, số liệu
bao nhiêu tất cả.
3/ Những đợt đánh của phi cơ đánh lâu bao nhiêu phút, bao nhiêu giờ, nhào
thả mấy lần, mỗi lần cách nhau từ chiếc nọ đến chiếc kia mấy phút.
4/ Những đợt đánh trong ngày hôm ấy cách nhau mấy tiếng.
5/ Nắm cho vững khu vực nào là trọng điểm của cứ điểm bị đánh, chia rõ rệt
từng phân khu, từng quãng, có bản đồ thật rõ, và cần ghi cụ thể để theo dõi suốt
trong thời gian địch đã phá. Làm đƣợc nhƣ thế thì chúng ta có thể giải quyết một
phần nào những nghi vấn có bom chậm hay không có ở những quãng bị đánh thật
nặng do máy bay Hen-cat, Hen-li-vo đã đánh phá, vì những loại phi cơ khu trục
này đánh phá thƣờng rất chính xác khi ta không có đối không.
Việc theo dõi chú ý thật kỹ, tỉ mỉ và tổ chức chu đáo ta chỉ còn một thắc mắc
là quả bom nào sẽ nổ vào mấy giờ nhƣng so với toàn trận địa ta có thể nắm đƣợc
số bom nổ cách nhau bao nhiêu phút, bao nhiêu giờ mà thống nhất đƣợc quy luật
và bom nổ chậm ở các trận địa của ta. Do đó, ta chủ động đƣợc chiến trƣờng quyết
định nhanh chóng việc lập lại giao thông, ổn định đƣợc tƣ tƣởng của dân công và
374
chiến sỹ, năng suất công tác và tinh thần tranh thủ đƣợc đề cao hơn và cũng tránh
đƣợc thƣơng vong nhiều.
KẾT LUẬN
Trong toàn bộ việc theo dõi bom nổ chậm, theo dõi phi cơ địch của các đài,
sự bố trí của các đài quan sát, sự lãnh đạo tƣ tƣởng của cán bộ, chiến đấu viên,
chiến sĩ, trong quá trình chiến đấu đã rút ra đƣợc nhiều kinh nghiệm phong phú, đã
tiến bộ rất nhiều, cụ thể trong những kết quả phá bom nổ chậm ở Đèo Lũng Lô, km
10. Những chiến đấu viên đã nắm vững đƣợc nhiều kinh nghiệm, từ một đồng chí
nông dân chƣa biết bố trí đƣợc khoa học, chuyên môn ra sao, qua chiến đấu gian
khổ và anh dũng quyết tâm phục vụ nhân dân nay đã trở thành những cán bộ chiến
sĩ xuất sắc không những về phƣơng diện lãnh đạo mà cả những nhận định về khoa
học thƣờng thức, nhận định về trận địa, về phi pháo của địch ra sao, nắm đƣợc chỗ
yếu của địch góp một phần quan trọng trong chiến dịch lịch sử và vĩ đại của chúng
ta.
Ngày tháng năm 1954
TRƢỞNG TY GIAO THÔNG CÔNG CHÍNH YÊN BÁI
(đã ký, đóng dấu)

Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Phông Nha Giao thông, hồ sơ 648, tờ 169 –
175

375
Báo cáo của Nha Giao thông về thành tích đặc biệt của vận tải phục vụ
chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954.

376
THÀNH TÍCH ĐẶC BIỆT CỦA VẬN TẢI
PHỤC VỤ CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ

Tầm quan trọng của vận tải đối với chiến dịch vĩ đại Điện Biên Phủ
Chiến dịch Đông Xuân năm 1953 – 1954 là một chiến dịch vĩ đại chƣa từng
có trong lịch sử kháng chiến.
Một lực lƣợng nhân dân, quân đội to lớn tập trung lên Điện Biên Phủ gồm
đủ các thành phần của dân tộc: Mèo, Mán, Thái, Thổ, Mƣờng, Trai, Kinh, không
phân biệt tôn giáo, đều một lòng yêu nƣớc nồng nàn, quyết tâm tiêu diệt quân thù,
giải phóng đất nƣớc, xây dựng hòa bình, từ các phƣơng xa kéo đến: miền núi,
trung du, đồng bằng, hậu địch (vùng quân đội thực dân Pháp còn đóng quân) để
vận chuyển lƣơng thực, vũ khí tiếp tế cho bộ đội tiêu diệt giặc xâm lăng, cƣớp
nƣớc, để tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ, một tập đoàn cứ điểm to lớn
nhất, kiên cố nhất của địch ở Đông Dƣơng, đồng thời đây cũng là trọng tâm điểm
của Kế hoạch Navarre và đế quốc Mỹ.
Chiến dịch vĩ đại nêu lên nhiệm vụ cung cấp chiến dịch rất lớn lao. Từ Tây
Bắc, Việt Bắc, Tả Ngạn, Khu 3, Khu 4, nhân dân đóng góp một khối nhân vật lực
vĩ đại cho hỏa tuyến.
Vấn đề vận tải đối với chiến dịch rất nặng nề, công tác vận tải đóng vai trò
quan trọng trong công tác cung cấp để bảo đảm tác chiến, cung cấp theo nhu cầu
của chiến trƣờng.
Nó đóng vai trò không kém phần quan trọng trong vấn đề quyết định thắng
lợi của chiến dịch.
Nó biến động, luôn luôn thay đổi, theo phƣơng châm, kế hoạch tác chiến của
bộ đội, thay đổi theo nhu cầu của hỏa tuyến và theo tình hình huy động vận chuyển
của hậu phƣơng.
Nó nắm vững quy luật hoạt động bắn phá của máy bay địch để bố trí kế
hoạch vận chuyển.
Nó là cái đòn ghánh giữa hậu phƣơng và tiền tuyến, nó nối liền tinh thần
chịu đựng gian khổ, khắc phục khó khăn, hy sinh chiến đấu của Bộ đội, cán bộ,
377
dân công, công nhân viên ở tiền tuyến với tinh thần thi đua đẩy mạnh sản xuất
cung cấp cho tiền tuyến của nhân dân hậu phƣơng.
Đặc điểm của công tác vận tải trong chiến dịch Điện Biên Phủ
Tuyến vận chuyển dài hơn 400 km. Phƣơng tiện vận tải chủ yếu là cơ giới,
đó là thứ phƣơng tiện đầu tiên mà ngành vận tải huy động để phục vụ chiến dịch
mà từ trƣớc đến nay chƣa từng có (chƣa dùng ô tô để phục vụ chiến dịch), hơn nữa
nhu cầu của chiến dịch đòi hỏi ở vận tải tinh thần hết sức khẩn trƣơng, thật tranh
thủ: càng nhanh càng hay, càng ít tốn nhân lực càng hay, dùng phƣơng tiện mỗi
đoạn đƣờng phải thích hợp với đoạn đƣờng ấy, phải thích hợp với khả năng, với
nhân vật lực, tranh thủ đƣợc thời gian cố gắng tiết kiệm .
Cán bộ làm vận tải đều do các ngành cung cấp ngay trong thời gian chuẩn bị
chiến dịch nên cán bộ còn bỡ ngỡ trƣớc công tác vận tải, nhất là đối với cơ giới.
Mới mẻ trong công tác nên bỡ ngỡ, rụt rè, chƣa hiểu biết gì về nghiệp vụ vận tải.
Số lƣợng phƣơng tiện nhiều và đủ các loại: gánh bộ, xe đạp thồ, ô tô, vv…
Tuyến vận chuyển dài, nhân dân thƣa thớt, đƣờng hẹp, cao, nhiều dốc, đèo.
Đƣờng mới làm, dễ lở, sụt đất, rồi đá mỗi khi mƣa lũ.
Thời gian phục vụ dài (7 tháng), dài nhất trong tất cả các chiến dịch.
Địch tăng cƣờng phá hoại đƣờng, cầu và phƣơng tiện vận tải, chúng thả rất
nhiều bom nổ và bom nổ chậm, có lần ở mỗi đèo chúng thả trên dƣới 200 quả bom.
Số phƣơng tiện đã đƣợc huy động đi phục vụ chiến dịch.
Do những đặc điểm của chiến dịch, nên vận tải bằng cơ giới đƣợc coi là chủ
yếu và hậu thuẫn của cơ giới là xe đạp thồ và dân công bộ.
Số dân công bộ đi phục vụ chiến dịch quy thành nhật công là 131.757 nhật
công.
Số xe đạp thồ đƣợc huy động là 7.467 xe quy thành 681.453 nhật công.
Về ô tô thì lúc đầu chỉ có 20 xe rồi cuối cùng tăng lên 198 xe quy thành
công xe là 12.141 công xe.
Về bộ máy phụ tách công tác vận tải khi mới lên Tuyến chỉ có 17 ngƣời, đến
cuối chiến dịch lên tới 190 ngƣời.
Tinh thần phục vụ và kết quả vận chuyển.
378
Do tinh thần phục vụ bền bỉ của cán bộ, dân công, công nhân viên, nên tỉ lệ
quân số vận chuyển ngày càng cao, trọng tải ngày càng nhiều, tốc độ ngày càng
tăng và tiêu chuẩn xăng dầu ngày càng đƣợc rút xuống.
Tất cả anh chị em dân công, cơ giới, cán bộ đều biểu dƣơng tinh thần quyết
tâm chiến thắng nên đã thực hiện đƣợc những kế hoạch vận chuyển.
Với tinh thần phục vụ vƣợt mức ấy, với lực lƣợng vĩ đại ấy, đã thực hiện
đƣợc 93,5% mức ấn định của tất cả các kế hoạch cung cấp cho Tuyến, tính ra
Tấn/km:
- Dân công gánh bộ đƣợc……………………………............ 17.500 T/km
- Dân công xe đạp thồ ……………………………................ 369.128T/km
- Xe ô tô…………………………………………………….. 762.479T/km
- Chở đặc biệt cho quân sự…………………………………. 56.969T/km
Tổng cộng số Tấn/km mà xe ô tô, xe đạp, dân công đã
thực hiện đƣợc là……………………………………………. 1.206.175T/km

Kết quả vận chuyển trên này không những bảo đảm cung cấp cho hỏa tuyến
mà còn biểu dƣơng đƣợc sức đóng lớn lao của hậu phƣơng đối với tiền tuyến.
Trong quá trình phục vụ, mặc dầu đƣờng xấu, hẹp, đèo dốc cao, máy bay
địch tìm mọi cách oanh tạc, khủng bố, phá hoại, ngăn cản, nhƣng với tinh thần chịu
đựng gian khổ, không quản mệt nhọc, vƣợt mọi khó khăn, nguy hiểm, luôn luôn
nhớ tới lời Hồ Chủ tịch dạy, nên tất cả anh em từ cán bộ, dân công, xe đạp thồ đến
cơ giới đều anh dũng vƣợt bom nổ chậm, vƣợt suối sâu, nƣớc lũ, đèo cao để bảo
đảm kế hoạch vận chuyển, đã bình tĩnh lái xe, bảo vệ xe dƣới làn bom, đạn của phi
cơ địch đuổi theo.
Trên những đoạn đƣờng hẹp, dốc cao, đá tai mèo lởm chởm, gồ ghề, chỉ đủ
cho một ngƣời đi thế mà dân công gánh bộ với tiêu chuẩn ấn định 22 - 23 kg mỗi
ngƣời, đã thực hiện đƣợc từ 28kg, 35 kg rồi đến 46 kg là mức quân bình, và đã
xuất hiện đƣợc nhiều chiến sĩ nhƣ chiến sĩ Duy đạt đƣợc 93 kg, nữ chiến sĩ An với
mức 78 kg và nhiều chiến sĩ trên 50, 70 kg.

379
Về xe đạp thồ, tiêu chuẩn đề ra là 70kg (mức bình quân cao nhất) đã thực
hiện đƣợc 83kg rồi 101 kg250, 106kg600 và cuối cùng lên đến 288kg, 300kg.
Về cơ giới, ở hậu phƣơng, trọng tải của mỗi xe ấn định từ 1 tấn 800 đến 2
tấn lên Tuyến, an hem đã tăng năng suất đến 2 tấn 193, 2 tấn 523, 2 tấn 611 và cuối
cùng đến 2 tấn 568, 3 tấn. Mặc dầu trong thời gian cuối chiến dịch mƣa nhiều,
đƣờng lở, trơn, lầy, lún, suối sâu, nhƣng số xe vận chuyển vẫn đƣợc bảo đảm đƣợc
nguyên số, mức vận chuyển đƣợc giữ vững và tăng năng suất.
Không những anh em vƣợt mức về chuyên chở, anh em cơ giới còn tranh
thủ từng cung độ; lúc đầu trung bình mỗi đêm chỉ chạy đƣợc 70km, sau tăng lên
85km, rồi cuối cùng mức trung bình là 100km, có xe tranh thủ 160km một đêm, xe
than cũng chạy đạt đƣợc mức 138km một đêm, có xe than vận chuyển trên đèo
Lũng Lô dài 24 km, đèo cao, nguy hiểm nhƣng đã tranh thủ đƣợc 3 chuyến mỗi
đêm cả đi và về là 144 km.
Anh em đã tiết kiệm xăng dầu, từ mức 51 lít mỗi 100km xuống đến 38 lít
100km.
Tất cả cán bộ, dân công, công nhân viên đã liên tục phục vụ chiến dịch 4, 5
tháng đến 6, 7 tháng, có nhiều đơn vị dân công xung phong ở lại tiền tuyến, phục
vụ cho đến khi chiến dịch toàn thắng; hầu hết anh em lái phụ ô tô phục vụ liên tục
4, 5 tháng không nghỉ ngày nào, đêm nào cũng làm việc suốt đêm, ngày chỉ ngủ
nhiều nhất là 4 giờ, vẫn nêu cao tinh thần phục vụ hăng hái và bền bỉ.
Trên đây là thành tích lớn nhất của ngành vận tải. Qua thành tích lớn lao
này, qua quá trình phục vụ, tất cả cán bộ, công nhân viên vận tải học tập đƣợc
nhiều trong công tác tổ chức, xây dựng và đƣợc tiến bộ về mặt tƣ tƣởng, tác phong
và nghiệp vụ.

Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Phông Nha Giao thông, hồ sơ 679, tờ 95 -
97

380
Báo cáo tổng kết của Bộ Giao thông Công chính về công tác vận tải
phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954

381
TỔNG KẾT CÔNG TÁC VẬN TẢI PHỤC VỤ
CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ
KIỂM ĐIỂM KẾT QUẢ THỰC HIỆN NHIỆM VỤ
Chiến dịch Đông Xuân năm nay là một chiến dịch vĩ đại chƣa từng có trong
lịch sử kháng chiến.
Một lực lƣợng quân đội to lớn tập trung lên Điện Biên gồm bộ binh, công
binh, pháo binh. Qua nửa năm xây dựng chiến trƣờng bao vây địch, quân đội ta đã
đạt đƣợc kết quả vĩ đại nhất từ trƣớc đến nay: Tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện
Biên Phủ, một tập đoàn cứ điểm to lớn nhất của địch ở Đông Dƣơng, đồng thời
cũng là trọng tâm điểm của kế hoạch Na-va.
Chiến dịch vĩ đại nên nhiệm vụ cung cấp chiến dịch này cũng rất lớn lao. Từ
Tây Bắc, Việt Bắc, Khu III, Khu IV, nhân dân đóng góp một khối nhân vật lực rất
to cho hỏa tuyến.
Ở Trung tuyến, Hội đồng cung cấp Mặt trận Trung ƣơng lãnh đạo các
ngành, tiếp nhận khối vật lực to lớn ấy từ đầu tuyến, vận chuyển đến hỏa tuyến
giao cho quân đội.
Không kể hậu phƣơng ra trung tuyến dài hàng 200, 300 km, đƣờng vận tải từ
trung tuyến ra hỏa tuyến dài trên 400km (riêng trong tuyến của Hội đồng mỗi
đƣờng dài 200km, 2 đƣờng dài 400km). Công tác cung cấp to lớn nhƣ vậy nên
công tác vận tải chiến dịch này cũng to lớn hơn chiến dịch nào hết.
Ngành vận tải gồm vận tải bộ, vận tải xe đạp thồ, vận tải cơ giới trong 7
tháng phục vụ, dƣới sự lãnh đạo thống nhất của Ban Cán sự và Hội đồng Cung cấp
Mặt trận Trung ƣơng, đã cùng với các ngành liên tiếp thực hiện 10 kế hoạch vận
chuyển.
Tuyến vận tải trong 7 tháng đã sử dụng về:
- Dân công bộ: Từ ít nhất là 170 ngƣời đến lúc nhiều nhất, tính nhật công là
131.757 nhật công, chƣa tính công tăng năng suất.
- Dân công xe đạp thồ: 7.467 xe trong 3 đợt với 681.453 nhật công, chƣa
tính công tăng năng suất.
382
- Ô tô từ 20 xe lúc mới lên tuyến đến 198 xe trong kế hoạch tháng 4/1954.
Tính công xe là 12141 công xe.
Bộ máy vận tải ở Ban và các Trạm từ lúc mới lên chỉ có 17 đồng chí đến
tháng 5 có 190 đồng chí chƣa kể cán bộ địa phƣơng đi với dân công.
Với lực lƣợng ấy đã thực hiện đƣợc 93,5% mức ấn định của 10 kế hoạch,
tính ra Tấn/km cho từng lực lƣợng nhƣ sau:
Dân công bộ đƣợc 17.599T/km
Xe đạp thồ đƣợc 369.128
Xe ô tô đƣợc 762.479 1.149.206Tkm
Thêm xe quân sự đƣợc 335.040
1.484.246Tkm
Ngoài ra, chở vũ khí sang cho quân sự đƣợc: 56.969 Tkm
Tổng cộng số Tấn kilometre xo ô tô Hội đồng, xe đạp và dân công bộ làm
đƣợc là: 1.206.175 vừa gạo, thực phẩm và sang vũ khí vv… Kết quả vận chuyển
của chúng ta không những đảm bảo cung cấp cho hỏa tuyến mà còn biểu dƣơng
đƣợc sức đóng góp lớn lao của hậu phƣơng đối với hỏa tuyến.
Trong quá trình phục vụ, công tác của chúng ta gồm: dân công bộ, xe đạp
thồ, và cơ giới, trạm tiến bộ không ngừng:
VỀ TRỌNG TẢI:
Dân công bộ tiêu chuẩn ấn định 22, 23 cân qua đƣờng Đèo Dao, đã thực
hiện từ 28 cân đợt một, 35 cân đợt hai, 46 cân quân bình trong đợt cuối, C 16 trọng
tải quân bình là…, các chiến sĩ Duy 93 cân, Chi An 78 cân và nhiều chiến sĩ trên
50, 70 cân.
Xe đạp thồ tiêu chuẩn đã ấn định 70 cân (mức cao nhất bình quân, trừ ốm,
hỏng xe của chiến dịch Thƣợng Lào), đã thực hiện 83 cân đợt 1, 102 cân 25 đợt
hai, 106,6 đợt ba và 111 cân đợt cuối (quân bình toàn các trạm có đơn vị bình quân
160 cân và nhiều cá nhân 300 cân, 288 cân).
Cơ giới trọng tải hậu phƣơng 1 tấn 8 đến 2 tấn, lên tuyến đợt đầu 2 tấn 193
kg, đợt hai 2.523 cân, đợt ba 2.611 cân, đợt 4 bốn 2.568 cân (mùa) bình quân, xe
các ngành Hội đồng có nhiều xe 2 tấn 800.
383
TRỌNG TẢI BÌNH QUÂN TOÀN TUYẾN
ĐỢT DÂN CÔNG BỘ XE ĐẠP THỒ CƠ GIỚI
Trọng tải Trọng tải Trọng tải Đột xuất
Đợt 1 28 k 88k8 2T235
Đợt 2 33 k 101k6 2T523
Đợt 3 46 k 106,6 2.618
Đợt 4 109,1 2.563

VỀ CUNG ĐỘ: Cơ giới, lúc đầu trung bình 70km một đêm, đợt 2 85km,
đợt 3 và nay trung bình 100km, có xe tranh thủ đi 160km xe than cũng 1.38 km có
xe than chuyến đi Đèo Lũng Lô một đêm 3 chuyến đi và về.
TỐC ĐỘ VẬN CHUYỂN BÌNH QUÂN TOÀN TUYẾN
VÀ TIÊU CHUẨN XĂNG/DẦU
CƠ GIỚI ĐỢT I ĐỢT II ĐỢT III VÀ IV
TỐC ĐỘ XE 70 80 100
Tiêu chuẩn xăng dầu

VỀ TỶ LỆ QUÂN SỐ VẬN CHUYỂN


Anh chị em dân công phục vụ liên tục 4, 5 tháng có đơn vị và nhiều dân
công xung phong ở lại 2, 3 đợt, anh em cơ giới số đông 4, 5 tháng không nghỉ một
ngày nào, đêm nào cũng làm việc suốt sáng, ngày chỉ ngủ nhiều nhất là 4 giờ, liên
tục phục vụ, năng suất ngày càng cao.

TỶ LỆ QUÂN SỐ VẬN CHUYỂN BÌNH QUÂN TOÀN TUYẾN


ĐỢT DÂN CÔNG BỘ XE ĐẠP THỒ CƠ GIỚI
Đợt 1 78% 88,5%
Đợt 2 88% 92,8%
Đợt 3 74% 86,5%
Đợt 4 82,6%

384
VỀ BỘ MÁY: Từ 17 đồng chí khi bắt đầu lên tuyến đến tháng 5 có 190
đồng chí không kể cán bộ dân công. Qua các đợt công tác, chúng ta đƣợc học tập
rèn luyện trong công tác, đặc biệt về tác phong và nghiệp vụ.
Về tinh thần phục vụ, bền bỉ, tỷ lệ quân số vận chuyển ngày càng cao, trọng
tải ngày càng tăng, tốc độ càng cao và tiêu chuẩn xăng dầu ngày càng thấp, của anh
chị em dân công và cơ giới thiếu sự tiến bộ của cán bộ, biểu dƣơng rõ rệt tinh thần
quyết tâm chiến thắng, tinh thần phục vụ bền bỉ của anh chị em dân công, anh em
cơ giới và cán bộ chúng ta, dƣới sự lãnh đạo sát sao, chặt chẽ của Ban Cán sự
Đảng và Hội đồng Cung cấp Mặt trận Trung ƣơng. Kết quả vận chuyển của chúng
ta cũng biểu hiện kết quả 7 tháng phục vụ của các ngành trên tuyến dƣới sự lãnh
đạo thống nhất của Hội đồng. Nói chung, về căn bản, chúng ta đã phục vụ bộ đội
toàn thắng. Đó là kết quả to lớn nhất và đầu tiên. Chúng ta đã học tập đƣợc nhiều
trong công tác, xây dựng đƣợc tổ chức ngành Vận tải, các Đại đội C, và đều tiến bộ
trong tƣ tƣởng, tác phong và nghiệp vụ. Đó cũng là kết quả lớn thứ hai.
Nhƣng đi sâu vào công tác cụ thể, nhìn riêng bộ phận công việc, từng kế
hoạch, ngành Vận tải có những khuyết điểm lớn. Trong 10 kế hoạch Vận tải, tính
chung ta thực hiện đƣợc 93,5% nhƣng chỉ làm 5 kế hoạch đƣợc đầy đủ, có kế
hoạch vƣợt mức 30% nhƣ kế hoạch ƣu tiên, còn 5 kế hoạch thiếu mức, nhất là kế
hoạch tháng 4, trong những ngày đầu kế hoạch, gạo lên ít đã làm cho hỏa tuyến
gặp khó khăn, bộ đội đã phải giảm mức ăn từng phần. Đó là trách nhiệm của chúng
ta, nhất là của Ban Vận tải tiền phƣơng.
Tóm lại, trong 7 tháng phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, ngành Vận tải có
nhiều thành công và cũng có nhiều thất bại. Những thành công và thất bại ấy đều
có nguyên nhân và kết quả của nó. Chúng ta cần kiểm điểm sâu sắc, phân tích rõ
ràng, rút ra những ƣu khuyết điểm để tổng kết kinh nghiệm, làm những bài học
chuẩn bị cho công tác Vận tải Chiến dịch sau này.

Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Phông Nha Giao thông, hồ sơ 679, tờ 18 -
21

385
Báo cáo năm 1954 của Bộ Tài chính về chiến lợi phẩm Điện Biên Phủ.

386
BỘ TÀI CHÍNH

BÁO CÁO
VỀ CHIẾN LỢI PHẨM ĐIỆN BIÊN PHỦ
I. Tổ chức
Ngay khi giải phóng Điện Biên, Quân sự tiền phƣơng thành lập ngay một
Ban Thu dọn chiến lợi phẩm chỉ gồm các ngành của quân sự (quân khí, vận tải,
quân nhu, quân y, thông tin) và ngành nào thu dọn riêng về ngành ấy. Nửa tháng
sau, khi đã tập trung gần hết, ban này giải tán và thành lập một ban khác tiếp tục
thu dọn chiến lợi phẩm do ông Chủ tịch tỉnh Lai Châu trực tiếp phụ trách và đặt
dƣới sự chỉ đạo của ông Bằng Giang Bộ tƣ lệnh khu Tây Bắc. Ban này gồm có đại
biểu của Nha Giao thông, của ngành quân khí và vận tải cùng quân nhu tiền
phƣơng. Giúp việc thu dọn có 100 tù binh Âu Phi và sau này có thêm một trung
đội thanh niên xung phong.
Một tháng sau khi giải phóng Điện Biên, thêm hai nhân viên của Bộ Tài
chính về giúp việc ông Chủ tịch tỉnh, và sau đó nửa tháng nữa, thêm một nhân viên
của Khu Tài chính Tây Bắc.
II. Cách thu và bảo quản
1/ Nói chung thì hầu hết đã do quân sự thu nhặt và tập trung vào kho hoặc
chuyển ra ngoài Điện Biên trong nửa tháng đầu. Ban thu dọn thứ hai chỉ có tính
chất nhận những hàng về quân nhu giao sang, dồn kho rải rác hoặc tìm thêm những
máy móc, dụng cụ về giao thông công chính còn sót lại (bộ phận của Nha Giao
thông).
Báo cáo này chỉ nói về những hàng do quân sự giao sang Ủy ban địa phƣơng
(tức loại thuộc Bộ Tài chính quản lý); những thứ khác theo lời đại biểu tổng cục
cung cấp tiền phƣơng, Bộ Quốc phòng sẽ báo cáo trƣớc Hội đồng Chính phủ.
2/ Số hàng quân nhu nằm chính ở ngay tại Điện Biên và Hồng Cúm, ngoài ra
còn một số kho khác rải rác ở dọc đƣờng Điện Biên đi Tuần Giáo hoặc ở quanh
Mƣờng Thanh 4, 5 cây số. Rải rác nhất là chum kho Điện Biên (Mƣờng Thanh)
gồm tới gần 20 kho có lợp bạt hoặc lợp sơ sài, ở rải rác rất khó cho sự bảo quản
387
chống mƣa gió và cho sự canh gác. Phụ trách về canh gác kho ở Mƣờng Thanh chỉ
có một tổ của Trung đội huyện đội gồm 3 ngƣời thiếu kế hoạch và tinh thần canh
gác kho, tổ canh gác này lại luân phiên đổi tổ khác từng tuần lễ một, nên trách
nhiệm gác không đƣợc liên tục. Các kho khác đều do các trƣởng ban phụ trách
trông nom.
Việc làm kho hoặc vận chuyển, kiểm kê hàng không tốn kém gì vì do bộ đội
làm hoặc sau này do dân công địa phƣơng làm, ngoài một số muối phát cho dân
công huy động về việc đó.
Trong việc tập trung và dồn các kho lẻ tẻ, địa phƣơng gặp nhiều trở ngại về
lực lƣợng dân công vì theo chỉ thị trên phải để nhân dân tranh thủ cày cấy cho kịp
vụ mùa. Cũng vì lẽ đó, nên việc sửa chữa các kho, phơi phóng các hàng ẩm ƣớt
không làm đƣợc kịp thời, nhất là sau khi giải phóng Điện Biên, mƣa nắng xen kẽ
luôn luôn. Việc tuyển thủ kho chuyên môn trông giữ cũng không làm đƣợc trong
giai đoạn đầu, vì khó tìm đƣợc ngƣời thoát li sinh sản để trông nom, các kho vừa
rải rác, vừa ở xa bản.
III. Kết quả thu.
Ngoài những sự hao hụt, lãng phí, còn một nguồn lãng phí khác là loại
“hàng quân sự dùng thừa ở chiến dịch giao lại cho Mậu dịch địa phƣơng”, thƣờng
bảo quản không cẩn thận (hiện chƣa thống kê đƣợc, vì quân sự giao thẳng cho Mậu
dịch Lai Châu).
Nguyên nhân mất mát và hao hụt do tổ chức tiếp nhận của địa phƣơng
không kịp với yêu cầu tiếp nhận (quân sự hồi quân rút nhanh và giao nhiều một
lúc; giao hẳn từng kho, không kịp điều chỉnh số liệu), và do gặp mùa mƣa, các
hàng trƣớc đã ƣớt, không đƣợc phơi phóng, nên số lƣợng bị nhân dân lấy mất hoặc
phải hủy bỏ rất nhiều, nhất là về dù, chăn, màn và áo mƣa. Số lƣợng còn lại rách,
bẩn mà Mậu dịch không nhận bán, cũng khá nhiều, nhất là về dù, chăn, màn, áo
mƣa, chandail, áo sơ mi, capote và quần tabo.
A. Hàng giao Mậu dịch
- Ƣớc lƣợng (vì hiện nay chƣa định giá bán): Tổng giá trị số hàng đã giao
cho Mậu dịch bán để tăng thu cho công quỹ, xét thị trƣờng (đã tràn ngập chiến lợi
388
phẩm) và giá bán trung bình ở Điện Biên, chỉ có thể chừng tăng thu, độ 300 tấn
thóc, nếu đặt giá bán khá chặt chẽ cho Mậu dịch.
Tƣơng lai Mậu dịch có thể bán cho đồng bào Mèo, còn việc chuyển vận
hàng ra những thị trƣờng khác nhƣ Tuần Giáo thì không bù lại tiền bán.
B. Hàng đã cấp phát cho nhân dân
- Theo chủ trƣơng của Ban Cán sự tỉnh Lai Châu, quyết nghị sẽ cấp phát ¼
tổng số các hàng quân nhu chiến lợi phẩm cho các huyện để phát cho nhân dân các
xã đã có công trong việc phục vụ chiến dịch Điện Biên. Nhƣng thực tế đã cấp phát,
thì có loại hơn ¼, có loại kém hơn rất nhiều. Ví dụ, dù đã cấp phát 1/3 tổng số,
chăn 1/13 tổng số, capote 1/28, quần dạ 1/11, áo blouson 1/13, áo gabardive 1/5,
màn 9/757, vv…
Nói chung, thì loại quần áo dạ phát ít mà giao cho Mậu dịch nhiều, mà và áo
mƣa thì phát rất ít vì rất rách nên không đủ để cấp phát, riêng về dù thì cấp phát tới
1/3 vì mục đích tranh thủ cấp phát những dù xấu và ƣớt để tránh lãng phí vì mất
mát hoặc ẩm mục.
C. Hàng hiện còn lại (bảng số 3).
1/ Hàng quân nhu
Đều là những thứ rách quá hoặc rách vừa, mà Mậu dịch xét không thể bán
tăng thu đƣợc. Ví dụ, dù nhiều chiếc đã bở không dùng đƣợc, còn thì có thể lọc ra
dùng đƣợc vài múi nhƣng phải lọc và dùng ngay đƣợc 1/3; chăn thì rách lấm đất
hoặc đã mất tuyết và mục (chăn sợi) nhƣng 1/3 có thể dùng đƣợc trong 1 hay 2 vụ
rét; loại quần áo dạ thì có thể lọc lại chọn một số ít bán rẻ cho nhân dân, còn thì
mốc quá hoặc mất tay hay phải vá mới dùng đƣợc; màn hoàn toàn gần hết không
dùng đƣợc vì chỉ là những mảnh con và ƣớt, những thứ quần áo linh tinh khác xét
bán cũng không có ngƣời mua.
Hiện nay, chƣa có chủ trƣơng của tỉnh để giải quyết số hàng còn lại này;
theo ý kiến của chúng tôi, số hàng này chỉ có thể cho nhân dân (đồng bào Mèo, xã
huyện Điện Biên) hoặc cho dân công sắp kiến thiết đƣờng ở Lai Châu, vì tại Điện
Biên không có thƣơng nhân để có thể bán từng lô đƣợc, trừ số brancard và giƣờng

389
gập có thể để địa phƣơng sử dụng đƣợc còn các hàng khác phải tranh thủ cấp phát
trƣớc vụ rét.
2/ Hàng về giao thông công chính
Nha Giao thông đã chở về Nha sử dụng hoặc sửa chữa ngày 25/7, hai xe ô tô
(chừng 2T hàng) vừa máy nổ, 1 máy cƣa và một số máy vô tuyến điện và pile vô
tuyến điện, một số súng trƣờng và Tulle.
Hiện còn lại tại Điện Biên một số dụng cụ về cầu đƣờng nhƣ: xẻng, cuốc,
lƣỡi cƣa to, đinh, dây thép gai và máy bơm nƣớc. Bộ phận của Nha Giao thông
hiện vẫn tiếp tục thu tìm thêm.
3/ Hàng khác
- Số mấy chục xác máy bay tại Sân bay Điện Biên cùng xác ô tô, xe tăng
hiện vẫn do ngành vận tải của quân sự phụ trách thu thập. Riêng về xác máy bay
vẫn nguyên, chƣa đƣợc phá để đúc thành thỏi dura.
- Chiến trƣờng Điện Biên nhƣ vậy đã thu dọn gần xong, trừ số dây thép gai
và cọc sắt giây thép gai chƣa thu dọn, vì địch gài rất nhiều mìn. Theo ý kiến khu
Tƣ lệnh Tây Bắc, phải chờ cho cỏ lau mọc cao, sau đốt lau, để mìn nổ bớt mới gỡ
đƣợc giây thép gai.
Ngoài ra, hiện Tổng cục Cung cấp Bộ Quốc phòng còn bảo quản một số dù
lành và tốt, chƣa sử dụng, để tại Điện Biên (số lƣợng sẽ hỏi Tổng cục).
Hiện nay, Bộ chƣa có số liệu về các hàng chiến lợi phẩm, Ủy ban Kháng
chiến Hành chính huyện Tuần Giáo (do quân sự giao) đã bàn giao cho Chi sở Mậu
dịch Lai Châu.
IV. Kinh nghiệm và đồng thời kết luận:
1/ Trong các chiến dịch lớn, cần có đại biểu của Bộ Tài chính hoặc khu Tài
chính ngay từ đầu để cùng đại biểu Tổng cục giải quyết ngay dần các chiến lợi
phẩm thu đƣợc, mới không xảy ra tình trạng chiến lợi phẩm để ứ đọng từ đầu hoặc
giữa chiến dịch và dồn một lúc đến cuối cùng mới giải quyết chung toàn bộ. Nhƣ
vậy, vừa không tranh thủ đƣợc vận chuyển và tăng thu mau chóng, vừa địa phƣơng
không kịp tổ chức bộ máy (kho và thủ kho) cùng lực lƣợng vận chuyển, kiểm kê để

390
cho kịp với yêu cầu của nhiệm vụ tiếp nhận của quân sự, vì thƣờng là quân sự hồi
quân nhanh và giao dồn một lúc nhiều kho, và nhiều kho lại rải rác, sơ sài.
2/ Cần phải bố trí trƣớc một bộ máy tiếp nhận, hoặc trƣờng hợp không bố trí
trƣớc đƣợc thì phải linh hoạt để giải quyết những vấn đề cấp bách đầu tiên về:
a. Lực lƣợng canh gác kho vì kho rải rác (bộ đội canh gác).
b. Lực lƣợng dân công để dồn các kho lẻ tẻ hoặc lợp sơ sài thành những
chùm kho chính thuận tiện cho việc bảo quản.
c. Lực lƣợng thủ kho, vì thƣờng không tuyển ngay đƣợc thủ kho hoặc kho xa
nhà dân, khó gửi dân. Cần có ngay thủ kho để sửa lại luôn luôn các mái và chung
quanh kho, thƣờng bị lật tung vì mƣa gió hoặc mất trộm.
Đối với ba loại lực lƣợng (canh gác, dân công vận chuyển kiểm kê, thủ kho)
nói trên, cán bộ đều phải giáo dục cho anh em về nhiệm vụ và giúp đỡ cho anh em
kế hoạch một cách tỉ mỉ và cụ thể trƣớc khi anh em đó bắt tay vào nhận nhiệm vụ.
Vì thƣờng an hem bộ đội địa phƣơng canh gác quan niệm nhiệm vụ canh gác một
cách đơn thuần và thiếu kinh nghiệm, an hem dân công một số kém năng suất vì
chủ ý trong khi làm việc để thu vén một vài thứ lặt vặt cho mình còn anh em thủ
kho (chuyên môn) mới đầu đều sợ trách nhiệm về số lƣợng hàng trong kho mất
mát, hoặc không phân biệt đƣợc các loại hàng khi cấp…

Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Phông Bộ Tài chính, hồ sơ 10694, tờ 01 –
02

391
Báo cáo của Hội đồng Cung cấp mặt trận Liên Khu III về tình hình
huy động nhân, vật, tài lực cung cấp cho chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954

392
HỘI ĐỒNG VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÕA
CUNG CẤP MẶT TRẬN LIÊN KHU III Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

BÁO CÁO TÌNH HÌNH


VẤN ĐỀ HUY ĐỘNG NHÂN, VẬT, TÀI LỰC
CUNG CẤP CHO CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ
A/ NHIỆM VỤ
Để cung cấp cho chiến dịch Điện Biên Phủ, Hội đồng Cung cấp mặt trận
Trung ƣơng đã giao cho Hội đồng Cung cấp mặt trận Liên Khu III nhiệm vụ:
Ngày giao Loại việc Số lƣợng Ngày giao hàng Nơi giao hàng
nhiệm vụ hàng
Đợt 1
15/12/1953 Chuyển thịt 10 tấn 15/2/1954 Sơn La
Chuyển thực phẩm khô 21 tấn 15/2/1954 Sơn La
Đợt 2
16/2/1954 Chuyển thịt 10 tấn 15/3/1954 Sơn La
16/2/1954 Huy động xe đạp 500 xe 1/4/1954 Cây số 1 Suối Rút
đạp
Đợt 3
25/3/1954 Chuyển thịt 10 tấn 30/4/1954 Sơn La
25/3/1954 Chuyển thực phẩm khô 10 tấn 15/4/1954 Cây số 1 Suối-Rut
12/4/1954 Chuyển muối 33 tấn 30/4/1954 -
30/4/1954 Chuyển thịt 20 tấn 25/5/1954 Sơn La
30/4/1954 Chuyển thực phẩm khô 20 tấn 25/5/1954 Cây số 1 Suối-Rut
30/3/1954 Chuyển muối 50 tấn 10/5/1954 -
25/3/1954 Chuyển gạo 600 tấn (15/4 có 300T -
3/5/1954 có 300T) -
5/4/1954 Chuyển gạo 300 tấn 3/5 -
23/4/1954 Chuyển gạo 200 tấn 3/5 -
1/5/1954 Chuyển gạo 300 tấn 25/5 -
Chú thích:
1/ Trong đợt 2, nhiệm vụ chính trung ƣơng giao cho là chuyển 10 tấn thịt và
huy động 500 xe đạp, nhƣng có thực phẩm khô thì chở kết hợp, dùng xe đạp thồ

393
chuyển lên cho Trung ƣơng (thực phẩm khô không ấn định mức, khô này có bao
nhiêu chuyển lên bấy nhiêu).
2/ Trong đợt 3, về nhiệm vụ chuyển muối, ngoài số lƣợng chính thức, Trung
ƣơng lại giao thêm chuẩn bị sẵn sàng 50 tấn muối nữa.
3/ Trong đợt 3, về nhiệm vụ chuyển 200 và 300 tấn gạo cuối cùng thì sau khi
chiến dịch Điện Biên chấm dứt, Trung ƣơng có thay đổi về mức và thời gian, cụ
thể chỉ còn phải chuyển tiếp 300 tấn ngày 25/5/1954 phải có đủ, ở cây số 22 Suối-
Rut (mức rút đi nhƣng thời gian ngắn lại và địa điểm xa hơn);
4/ Về đợt 3 nhiệm vụ chuyển 30 tấn thịt cũng rú xuống chỉ còn 17 tấn.
Tổng hợp lại, suốt chiến dịch, nhiệm vụ khu III gồm có:
- Thực phẩm khô: 51 tấn.
- Thịt: 50 tấn.
- Muối: 83 tấn (và chuẩn bị sẵn 50 tấn ngoài).
- Gạo: 1200 tấn.
- Huy động xe đạp 300 tấn.
B/ TÌNH HÌNH
1/ Khả năng của địa phƣơng:
- Thực phẩm khô ở địa phƣơng rất khan hiếm (vì đại bộ phận lo đồng
chiêm).
- Trâu, bò của địa phƣơng cũng thiếu, ở Ninh Bình thì qua kỳ tấn công của
địch lên Tây Nam Ninh Bình, giặc còn phá, bắn giết một số lớn. Ở Hòa Bình tuy
khả năng có nhƣng lại rải rác xa đƣờng vận chuyển.
- Muối có đủ để cung cấp cho kế hoạch.
- Gạo ở Ninh Bình thì ngay cả cho nhù cầu thƣờng xuyên cũng thiếu, chỉ
còn một số thóc ở sâu khu căn cứ sử dụng cho địa phƣơng và để trả thóc thuế thừa
cho nhân dân, kết hợp với chống đói. Ở Hòa Bình có sẵn thóc của kế hoạch tiếp
chuyển cho Phú Thọ, nhƣng khả năng này xảy ra của Hòa Bình không có dƣ để kịp
cho yêu cầu thời gian, cụ thể khả năng lúc đó có 1360 tấn thóc, và 70 tấn gạo.
- Nguồn nhân lực chính của Khu nằm ở các tỉnh địch hậu, việc huy động mất
nhiều thời gian và phí tổn, nguồn nhân lực ở các tỉnh vùng tự do cũng bị hạn chế vì
394
phần đông đã phục vụ nhiều và đang bận công tác phát động quần chúng, chống
hạn, trừ sâu vv…
- Phƣơng tiện vận chuyển, thì xe đạp thồ của địa phƣơng rất ít, đa số đã phải
phục vụ nhiều, qua các chiến dịch, số đông phục vụ cho Trung ƣơng, số còn lại thì
phân tán buôn bán ở xa, xe trâu, bò, ngựa cũng phân tán trên các đƣờng vận
chuyển nhân dân, địa phƣơng không nắm vững tổ chức khá nặng, xe cơ giới hầu
hết là của tƣ nhân, máy yếu không đi đƣợc đƣờng xa, dốc khó, riêng về ghe thuyền
thì ở Ninh Bình có trên 300 tấn, tập trung ở các bến, nhƣng thuyền ở Sông Đà có ít
và phân tán đi các ngả sông, mà địa phƣơng cũng không dám chắc đƣợc các tổ
chức này (cụ thể, khả năng có xe đạp 800, trâu bò 250, xe ngựa 100, ô tô 8 chuyển
250 tấn ở Ninh Bình và 125 tấn ở Hòa Bình).
2/ Thuận lợi:
- Việc huy động gấp giữa lúc tin chiến thắng Điện Biên Phủ vang dội đi đôi
với những chiến thắng to lớn của địa phƣơng, nhân dân phấn khởi hào hứng .
- Nhân dân đã cấy chiêm xong.
- Đƣợc phát động, ý thức phục vụ nâng cao.
- Qua những chủ trƣơng đúng mức của Liên khu Ủy nhƣ chống đổi trả thóc
thuế v.v…nhân dân tin tƣởng.
- Các tỉnh đã tiến hành bình nghị.
- Trong đợt đầu khu đã có sẵn một số thịt trên 200 con bò và 22 tấn thực
phẩm khô, song thời cũng có sẵm một số dân công, không phải mất thời gian huy
động lên, khi thực hiện đợt 3, nhờ có chủ trƣơng hạn chế xuất bo vào địch hậu,
việc thu mua dễ dàng…
- Chế độ cƣớc phí tƣơng đối đƣợc hợp lý, đã chiếu cố đến hoàn cảnh cụ thể
của anh em, phƣơng tiện.
- Đƣợc sự trực tiếp chỉ đạo của Liên Khu Ủy, các cấp huy động cũng tranh
thủ đƣợc sự chỉ đạo của cấp ủy.
- Cán bộ qua nhiều đợt huy động có kinh nghiệm, phấn khởi trƣớc chiến
thắng, tích cực công tác, ngoài ra Trung ƣơng lại trả lại cho khu một số cán bộ và
phƣơng tiện mà Trung ƣơng trƣng tập, để về làm nhiệm vụ mới của khu.
395
3/ Khó khăn:
- Nhiệm vụ thực hiện gặp giữa lúc tiếng súng Điện Biên đã nổ, cho nên yêu
cầu thời gian rất gấp rút.
- Đợt đầu huy động vào dịp tết nhân dân không muốn đi xa vì lâu ngày.
- Khả năng thực phẩm khô của địa phƣơng không có, phải trông vào nguồn
cung cấp của khu IV, giữa lúc ấy khu IV độc quyền thu mua.
- Khu nắm phƣơng tiện của địa phƣơng khan hiếm, nhiệm vụ phục vụ mỗi
ngày một tăng thêm, thời gian phục vụ không nhất định, không thống nhất đƣợc
với lối phổ biến khi huy động.
- Một số lớn các xã vùng tự do nhân dân bận phát động quần chúng.
TỒNG KẾT VẤN ĐỀ HUY ĐỘNG
I. HUY ĐỘNG XE ĐẠP THỒ
Trong kế hoạch Điện Biên Phủ, Hội đồng khu đã hoàn thành nhiệm vụ
chuyển vận. Việc sử dụng lực lƣợng vận chuyển trong kế hoạch này khu đã biết
tận dụng khả năng phƣơng tiện và hạn chế việc sử dụng khả năng nhân lực giành
vào việc bảo đảm sản xuất hậu phƣơng.
Trong các loại phƣơng tiện nhất xe đạp thồ đóng một vai trờ cốt yếu của kế
hoạch về thời gian, xe đạp thồ đã phục vụ suốt từ đầu kế hoạch cho đến cuối, rong
vòng 6 tháng liên tục, về khối lƣợng xe đạp thồ cũng đã bảo đảm một phần lớn
trong toàn bộ kế hoạch.
So với dân công thì một xe thồ bằng 8 dân công bộ, mà thời gian lại tranh
thủ đƣợc hơn 1/5; mặt khác, đỡ đƣợc mỗi phí tổn chi tiêu về cán bộ và xây dựng
kho lán. Anh em xe đạp thồ đỡ cƣớc phí, có khả năng tự bồi dƣỡng, vấn đề ốm ít
hơn dân công.
So với các loại phƣơng tiện khác nhƣ xe trâu, bò ngựa thì việc sử dụng cũng
có nhiều thuận lợi hơn trong hoàn cảnh đƣờng xa hiện nay. Việc điều quân và giải
quân bằng xe đạp thồ cũng đƣợc nhanh chóng, có thể điều đi xa để phục vụ trên
những chặng đƣờng ngoại vi khu mà các phƣơng tiện khác không làm đƣợc, hoặc
gặp nhiều khó khăn (ví dụ, điều xe ngựa lên đƣờng 41 thì lâu, không thích hợp với
tính chất của xe ngựa, đồng thời phải chuyển thóc đi theo cho ngựa ăn). Dùng xe
396
đạp thồ thì đƣờng xa đỡ bị hại hơn các phƣơng tiện thô sơ khác. Trƣờng hợp
đƣờng bị thiên tai địch họa, việc sửa chữa bảo đảm giao thông thông suốt cho xe
đạp đi cũng đƣợc nhanh chóng hơn, dùng xe đạp thồ cũng thuận tiện cho việc xây
dựng kho lán đỡ bị lộ, dễ dấu hơn các loại phƣơng tiện khác.
- Làm thế nào để huy động xe đạp thồ đƣợc nhanh chóng:
+ Trƣớc hết phải nắm vững khả năng xe và ngƣời, phải đƣa anh em vào các
tổ chức cơ sở ở xã và khu phố (từ hình thức thấp đến hình thức cao), chính quyền
địa phƣơng phối hợp cùng các đoàn thể để có kế hoạch tổ chức nắm lấy anh em.
+ Mỗi khi huy động thì nhất thiết phải bình nghị và bình tuyển. Vì có bình
nghị thì huy động mới công bằng, anh em mới có thời gian chuẩn bị đầy đủ về tƣ
tƣởng và vật chất có bình nghị thì nhân dân mới giải quyết đƣợc những thắc mắc
cụ thể ngay ở địa phƣơng, anh em yên tâm phục vụ, bình nghị là một dịp để giáo
dục và đấu tranh đƣợc với những phần tử ngang bƣớng. Trong bình nghị, anh em
cũng nhận rõ trách nhiệm của mình trƣớc nhân dân giao cho mà tích cực phục vụ,
không có hiện tƣợng đào ngũ và trốn.
+ Khi bình nghị xong phải sơ bộ sắp xếp, tổ chức, Chi bộ địa phƣơng phải
gài cán bộ và đảng viên, bố trí trung kiên để lãnh đạo và đƣa tổ chức của anh em
vào nề nếp ngay từ ở cơ sở đi.
+ Trƣớc khi lên đƣờng địa phƣơng phải tổ chức hoạt động, có hoạt động thì
mới đả phá đƣợc những quan niệm sai lầm của nhân dân cho rằng anh em đi chở
thuê cho Chính phủ lấy cƣớc. Có hoạt động mới động viên đƣợc anh em lên đƣờng
tích cực công tác hoàn thành nhiệm vụ. Có hoạt động mới đề cao đƣợc ý thức trách
nhiệm của ngƣời đi và ngƣời ở nhà.
+ Cần phải có sự đón tiếp chu đáo, có ban đón tiếp hẳn hoi để làm nhiệm vụ
đả thông giải quyết thắc mắc, củng cố và chấn chỉnh tổ chức, tiến hành sơ kết thi
đua, khen thƣởng kịp thời ngay từ chặng đƣờng đầu từ nhà lên tới khu để phát
động tinh thần phấn khởi trƣớc khi anh em bắt tay vào làm nhiệm vụ.
+ Do tính chất sinh hoạt, buôn bán của anh em nên phần lớn lực lƣợng xe
đạp thồ trong liên khu thƣờng phân tán trên các đƣờng vận chuyển thƣờng xuyên.
Mỗi khi huy động thì chủ yếu là tuyên truyền vận động ở nơi cơ sở của anh em.
397
Trong những trƣờng hợp cần thiết gấp rút, việc huy động từ cơ sở không bảo
đảm dủ mức và thời gian của kế hoạch, có thể dùng mọi hình thức để tập hợp anh
em trên các nẻo đƣờng. Dù huy động ở tại cơ sở hay ở các nẻo đƣờng đều phải dựa
trên nguyên tắc căn bản là tuyên truyền vậ động giải thích làm cho anh em tự
nguyện tự giác là chính. Trƣờng hợp anh em có thể tự nguyện đi ngay thì phải tổ
chức giải quyết mọi nhu cầu cần thiết của anh em trên dọc đƣờng, hoặc vận động
anh em trở về địa phƣơng để chuẩn bị lên đƣờng. Việc huy động ở nhiều nơi chỉ
nên đặt ở một vài địa điểm cốt yếu, cử cán bộ có khả năng làm nhiệm vụ giáo dục
và vận động.
+ Khả năng xe đạp thồ của địa phƣơng khan hiếm, nhiệm vụ của khu mỗi
ngày một nặng nề, rồi đây sẽ phải sử dụng rất nhiều đến lực lƣợng của loại phƣơng
tiện này, nên cần phải có một kế hoạch cụ thể để phát triển thêm, mới đủ khả năng
cung cấp cho nhu cầu của chiến dịch.
II. HUY ĐỘNG DÂN CÔNG BỘ
Nguồn nhân lực của liên khu phần lớn nằm trong các tỉnh địch hậu, còn ở
vùng tự do thì nhân dân đã phục vụ nhiều, đời sống bị thiếu thốn, cho nên mỗi khi
có kế hoạch thƣờng phải huy động một số lớn nhân lực ở các tỉnh địch hậu ra. Việc
huy động ở các tỉnh tự do thƣờng chỉ để sử dụng trong những trƣờng hợp dân
công địch hậu chƣa ra kịp, hoặc trong những trƣờng hợp cần thiết mà thôi.
Qua những đợt huy động, chúng ta thƣờng thấy anh em luôn luôn thắc mắc
về hoàn cảnh gia đình. Sở dĩ có những thắc mắc đó là vì các cấp ủy và cơ quan
đoàn thể địa phƣơng chƣa đặc biệt chú ý đến việc tổ chức đôn đốc vấn đề thực hiện
giúp đỡ gia đình những ngƣời dân công đi phục vụ. Đành rằng trong hoàn cảnh
khó khăn, nhất là ở những nơi địch tạm chiếm, nông cụ thiếu thốn, nhân công hạn
chế, khả năng giúp đỡ của nhân dân ít mà những ngƣời cần phải giúp đỡ lại nhiều
(thƣơng binh, tử sĩ, dân công) nhƣng không phải vì thế mà việc thực hiện giúp đỡ
không tiến hành đƣợc mà chính vì chúng ta chƣa đặc biệt chú ý đến mà thôi.
Muốn giải quyết đƣợc những thắc mắc của anh em dân công để anh em yên
tâm phục vụ, các tỉnh cần phải thực sự giúp đỡ những gia đình có ngƣời đi dân
công, nông hội phải kết hợp với các ngành các giới để chấn chỉnh và xây dựng các
398
tổ đổi công, các tổ sản xuất, nó là nền tảng có đủ khả năng giúp chúng ta thực hiện
đƣợc. Việc giúp đỡ phải đƣợc hợp lý, phải có sự bình nghị, ngƣời nào cần giúp đỡ
trƣớc, giúp đỡ bao nhiêu, giúp đỡ nhƣ thế nào, và cần phải có sự phân công để việc
giúp đỡ đƣợc hợp lý và có thể thực hiện đƣợc. Trong những tỉnh địch hậu có thể tổ
chức tiến hành kết hợp với việc bảo vệ sản xuất, chống địch cƣớp phá mùa màng
thóc lúa, bằng cách huy động dân công ngắn ngày ngay tại địa phƣơng (loại yếu)
đã gặt hái, cày bừa vv..cho nhanh chóng.
a) Huy động dân công ở địch hậu ra:
Việc huy động dân công ở địch hậu ra, cũng nhƣ việc đƣa dân công ở địch
hậu về thƣờng gặp phải nhiều khó khăn trở ngại vì tình hình đƣờng xa, tình hình
địch thay đổi luôn luôn. Cho nên mỗi khi huy động chúng ta phải nghiên cứu làm
thế nào để tập trung và đƣa ra đƣợc nhanh chóng.
Muốn thế phải:
- Tổ chức bình nghị, bình tuyển thƣờng xuyên, phải có sự chuẩn bị từ trƣớc
để nhân dân có thời gian thu xếp công việc gia đình, khi có lệnh tập trung không bị
lúng túng. Địa điểm tập trung nên bố trí làm nhiều nơi, tiện cho việc đƣa đón, đồng
thời bảo đảm đƣợc bí mật, tập trung đƣợc bao nhiêu, chấn chỉnh xong cho đi ngay
bấy nhiêu.
- Khi đƣa ra, phải bố trí tổ chức bằng nhiều đƣờng, tiện đƣờng nào cho ra
đƣờng ấy.
Phải nắm vững tình hình địch, phải có tiền trạm đi trƣớc, phải có một trạm
thống nhất đại diện cho tỉnh, có đủ thẩm quyền giải quyết mọi yêu cầu của anh em
dân công trong những trƣờng hợp cấp thiết khó khăn. Trạm phải có sự liên lạc trực
tiếp với các huyện để việc đặt và bố trí lịch đi đƣờng cho dân công từng xã đƣợc
hợp lý với tình hình đƣờng xa hàng ngày.
- Phải bố trí đầy đủ phƣơng tiện đò giang cơ sở trú quân, có ngƣời am hiểu
tình hình đƣờng sá để hƣớng dẫn. Trừ trƣờng hợp cần thiết, còn ngoài ra không
nên tổ chức cho dân công địch hậu gánh hàng để anh em đƣợc nhẹ nhàng tranh thủ
ra nhanh.

399
- Phải chấn chỉnh lại mối liên hệ cần thiết giữa các ngành bƣu điện, tỉnh đội
và bộ phận dân công, có sự phân công, phân nhiệm dứt khoát trong việc bố trí
đƣờng đi.
Việc tổ chức đƣa anh em dân công ra cần chu đáo bao nhiêu thì việc tổ chức
hồi quân cho anh em lại càng phải chu đáo bấy nhiêu, vì khi hồi quân từ cán bộ
cho đến anh em dân công đều nặng tƣ tƣởng mà hồi, nếu không tổ chức chặt chẽ sẽ
không bảo vệ đƣợc sức khỏe và tính mạng anh em trên dọc đƣờng.
- Phải tổ chức học tập cho cán bộ, cho anh em dân công và ngay cả các cơ
quan sử dụng thấy tầm quan trọng của việc bố trí hồi quân ngay từ lúc đầu khi mới
nhận nhiệm vụ. Nhất là trong khoảng thời gian kế hoạch sắp hoàn thành việc giáo
dục lại càng phải đề cao để nhắc nhở anh em chú ý, đồng thời phải có một tổ chức
chu đáo để bố trí và phụ trách việc hồi quân.
b) Huy động dân công ngắn ngày:
Trong những trƣờng hợp thật gấp rút về quân sự (đánh đồn, chuyển gạo,
thƣơng binh, vũ khí, chống càn ngay tại chỗ) hoặc thiên tai địch họa, hoặc để bảo
vệ chuyển vận cho kế hoạch kịp thời, chúng ta thƣờng hay huy động dân công
ngắn ngày. Trong chiến dịch vừa qua chúng ta đã huy động đƣợc một số lớn dân
công ở Hòa Bình (là nơi mà đời sống nhân dân chật vật về kinh tế và không quen
xa nhà lâu ngày) đi phục vụ dài ngày và xa địa phƣơng. Trƣớc đây việc huy động
dân công đi xa và lâu ngày ở Hòa Bình gặp rất nhiều khó khăn, nhƣng trong kế
hoạch vừa rồi chúng ta đã đặt đƣợc kết quả là do ở tinh thần và ý thức phục vụ của
nhân dân đƣợc nâng cao qua những đợt học tập về chính sách trong khi phục vụ,
mặt khác cũng là do ảnh hƣởng về kết quả phát động quần chúng.
- Dân công ngắn ngày phải đƣợc tổ chức chặt chẽ, mới tránh đƣợc những
lãng phí trong khi sử dụng. Muốn thế phải chỉnh đốn đội ngũ ngay từ ở địa
phƣơng, đơn giản tổ chức, tăng cƣờng cán bộ, phải bố trí kế hoạch cho sát và cụ
thể, chống tƣ tƣởng trừ hao, phải đả phá tƣ tƣởng tạm bợ, đồng thời cơ quan sử
dụng cũng phải tăng cƣờng mọi mặt về cán bộ cũng nhƣ về phƣơng tiện để bố trí
kế hoạch, sử dụng anh em đƣợc sát và hợp lý.
c) Sử dụng các loại tề, dõng, phú nông, địa chủ, cƣờng hào thế nào?
400
Chia làm hai loại:
- Đối với loại không bảo đảm về chính trị thì sử dụng trong những công việc
kiến thiết ở địa phƣơng nhƣ bắc cầu, xẻ cống, vv…
- Đối với loại mà địa phƣơng bảo đảm đƣợc về chính trị thì cũng huy động
nhƣ các loại khác, nhƣng không sử dụng vào những việc quan trọng của chiến dịch
nên dùng cho những kế hoạch thƣờng xuyên.
d) Sử dụng tiểu thƣơng và du kích:
Nói chung cũng huy động nhƣ các ngƣời khác nhƣng cần phải chiếu cố đến
hoàn cảnh và khả năng.
Tiểu thƣơng nên huy động ngắn ngày, chiếu cố thời kỳ buôn bán (tết), sử
dụng trong những trƣờng hợp cần thiết, gấp rút trong một vài chuyến rồi trả về.
Du kích: nên huy động 1/3 nếu tổng số 50 ngƣời trở lên và 20% nếu tổng số
có từ 50 ngƣời trở xuống. Nếu sử dụng trong những công tác hỏa tuyến và vận
chuyển cho chiến dịch.
e) Sử dụng dân công của từng địa phƣơng nhƣ thế nào cho hợp lý:
Hà Nam và Ninh Bình là những nơi địch hậu và là nguồn nhân lực chính của
Khu, phần lớn mỗi công tác phục vụ đều phải huy động ở hai tỉnh này, việc huy
động thƣờng khó khăn vì đƣờng xa, ra vào mất nhiều thời gian và phí tổn, nên
thƣờng huy động vào loại phục vụ lấy ngày trong công tác chuyển vận và cầu
đƣờng.
Tỉnh Ninh Bình là nơi có đông lại phải phục vụ luôn luôn cho những hoạt
động tại chỗ nên thƣờng huy động vào loại ngắn ngày sử dụng cho những công tác
bất thƣờng của chiến dịch hay phục vụ tại chỗ.
Tỉnh Hòa Bình là nơi nhân dân miền núi, kinh tế khó khăn, không quen xa
nhà lâu ngày nên thƣờng huy động vào loại ngắn ngày, sử dụng vào việc xây dựng
kho lán, sửa chữa cầu đƣờng giao thông, thông suốt, hoặc sử dụng trong những
cuộc vận chuyển ngắn khi kế hoạch cấp thiết yêu cầu.
g) Tiêu chuẩn thù lao cho từng loại dân công và cán bộ dân công:
- Dân công bốc vác: thù lao nhƣ dân công thƣờng là 1 cân 1 ngày, nhƣng cần
phải có chế độ tăng năng suất.
401
- Dân công bảo quản bộ: 1 cân 1 ngày và cũng phải có chế độ tăng năng
suất.
- Dân công vận chuyển bộ: 1 cân 2 ngày (và có chế độ tăng năng suất).
- Hộ lý cấp dƣỡng: 1 cân hai 1 ngày.
- Dân công giao thông: 1 cân hai 1 ngày.
- Cán bộ đại đội dân công bộ: 1 cân hai 1 ngày.
- Cán bộ đoàn dân công bộ: 38 cân 1 tháng và đƣợc tiền công tác phí đi
đƣờng.
- Cán bộ trung đội dân công bộ đƣợc hƣởng tăng năng suất bình quân của
đơn vị.
- Cán bộ đại đội các đoàn xe: 1 cân tƣ 1 ngày, hoặc 38 cân 1 tháng và đƣợc
hƣởng công tác phí 2 lạng rƣỡi 1 đêm. Cán bộ Y tế đại đội cũng nhƣ cán bộ công
an đi theo các đoàn dân công phải tham gia sản xuất.
h) Tỷ lệ đảng viên trong các đoàn dân công:
- Dân công bộ phải bảo đảm 5% đảng viên. Mỗi đại đội phải có 1 Chi ủy
viên, riêng tỉnh Hòa Bình và các tỉnh địch hậu vì số lƣợng đảng viên ít nên tỷ lệ
đảng viên ấn định từ 3 đến 5%. Đặc biệt, dân công hỏa tuyến phải bảo đảm 10%.
i) Quyền lợi hƣởng thụ của ngƣời dân công:
- Để bảo đảm sự thực hiện mối liên hệ chặt chẽ giữa hậu phƣơng và tiền
tuyến, động viên tinh thần phục vụ của anh em, cần phải có một chế độ bƣu phí về
thƣ từ cho dân công. Đối với những thƣ của gia đình dân công gửi lên thì phải dán
tem. Thƣ từ của dân công gửi về thì mỗi tháng sẽ đƣợc miễn tem 1 chiếc thƣ.
Việc tiêu chuẩn muối phải bảo đảm cấp phát bằng hiện vật cho dân công
theo đúng tỷ lệ 16gram 1 ngày (không đƣợc phát tiền vì phát tiền không bảo đảm
tiêu chuẩn).
III. HUY ĐỘNG GẠO
Trong thời gian qua, chúng ta đã bảo đảm đƣợc kế hoạch vận chuyển gạo là
nhờ tổ chức xay, giã đƣợc nhanh chóng và nhờ đƣợc việc tạm vay của nhân dân có
kết quả.

402
Phát huy đƣợc nhanh chóng là vì có kế hoạch tƣơng đối chu đáo và tỉ mỉ,
phổ biến nhanh chóng xuống các cấp thi hành. Khu đã làm cho cán bộ và nhân dân
thấm tầm quan trọng và yêu cầu cấp thiết của kế hoạch, lại nhằm lúc nhân dân rỗi
việc, có khả năng thóc gạo tự bỏ ra xay, tỷ lệ xay và kế hoạch xay cũng đem lại
chút ít quyền lợi cho nhân dân.
a) Làm thế nào để việc phát xay và thu hồi gạo đƣợc nhanh chóng:
- Đặt lịch xay giã cho sát, ăn khớp với việc tuyên truyền vận động.
- Phát xay lấy đơn vị là tổ, (không nên cân cho cá nhân hoặc đơn vị tốn quá
mất nhiều thời gian).
- Vận động nhân dân làm tập đoàn, sử dụng tổ hộ lƣơng để kiểm tra phẩm
chất.
- Phát triển phƣơng tiện xay giã, nhất là miền bán sơn cƣớc. Việc phát triể
dựa vào tổ chức nông hội là chủ yếu, kết hợp với các đoàn thể khác.
- Phải có sự phân công cụ thể trong việc xay giã (bố trí ngƣời xay, ngƣời giã,
ngƣời dần, sàng vv…).
- Tăng cƣờng cán bộ cân đong, phải tranh thủ khai thác lực lƣợng cán bộ
trong việc cân đong đƣợc nhanh chóng, phải nắm vững khả năng thóc gạo trong
kho mà phân phối cho hợp lý.
- Bố trí xuất nhập ở nhiều điểm. Phải chuẩn bị sẵn sàng kho, thùng, cân
quang, phải bố trí việc cân đong theo thời gian (theo thời gian nhân dân đến nhận)
không nên theo khối lƣợng hàng ngày từ trƣớc.
Trƣờng hợp cần thiết thì vận động nhân dân tự bỏ thóc nhà ra xay, đem gạo
đến nộp và lĩnh thóc về.
b) Tổ chức việc vay trả thóc gạo cho nhân dân thế nào đƣợc nhanh chóng:
Trong thời gian qua, trƣớc yêu cầu cấp bách, trƣớc khả năng khan hiếm của
địa phƣơng chúng ta đã biết dựa vào lực lƣợng của nhân dân để bảo đảm cho yêu
cầu của kế hoạch, sau đó, chúng ta lại tổ chức việc trả lại cho nhân dân. Muốn tiến
hành đƣợc nhanh chóng, cần phải có một tổ chức phụ trách việc vay, trả, phải có
kế hoạch cụ thể và tập trung cán bộ để làm, phải nắm vững tình hình của địa

403
phƣơng và khả năng của nhân dân, tiến hành việc vay, trả cho hợp lý. Phải làm cho
nhân dân và cán bộ nắm vững đƣợc tầm quan trọng và yêu cầu của kế hoạch.
Nói tóm lại, để bảo đảm cho công tác huy động nhân, tài, vật lực, ở hậu
phƣơng phục vụ tiền tuyến, các cơ quan huy động phải lấy việc vận động, tuyên
truyền, giải thích làm cho nhân dân tự nguyện, tự giác tham gia, phải nâng cao
trình độ và ý thức phục vụ của nhân dân và phải biết dựa vào lực lƣợng của nhân
dân để giải quyết những khó khăn của kế hoạch. Cán bộ thi hành cần phải nắm
vững yêu cầu nội dung kế hoạch huy động, phải có tác phong khẩn trƣơng, cụ thể,
bảo đảm chính sách đi đúng đƣờng lối quần chúng.

Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Phông UBKCHC Liên khu III, hồ sơ 1286,
tờ 01 - 08

404
Báo cáo tổng kết công tác phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ của Hội
đồng Cung cấp Mặt trận Trung ƣơng.

405
THỦ TƢỚNG PHỦ VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÕA
HỘI ĐỒNG CUNG CẤP Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
MẶT TRẬN TRUNG ƢƠNG

BÁO CÁO TỔNG KẾT


CÔNG TÁC PHỤC VỤ CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ
CỦA HỘI ĐỒNG CUNG CẤP MẶT TRẬN TRUNG ƢƠNG
(Trên tuyến đƣờng 13 và 41)

BÁO CÁO GỒM 4 PHẦN


I. THỜI KỲ CHUẨN BỊ
II. THỜI KỲ Ở TUYẾN
a) Kế hoạch hành quân
b) Kế hoạch hoạt động
c) Kế hoạch hội quân
III. NHẬN XÉT CHUNG
IV. NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN GIẢI QUYẾT
Bƣớc vào thu đông 1953, Trung ƣơng quyết định mở chiến dịch Tây Bắc
nhằm đánh vào Lai Châu.
Bám theo nhu cầu quân sự, Hội đồng cung cấp mặt trận Trung ƣơng phân
phối cho các liên khu phải cung cấp:
Gạo: 2480T và 660T
Thịt: 26T
Rau: 270T từ SL trở lên, 77 T từ SL trở xuống
KHU TÂY BẮC
Thức ăn khô:
Xe đạp
Dân công: 4940 đ/c
Gạo: 9,5 t
KHU VIỆT BẮC Thịt: 79T
Rau:

406
Thức ăn khô: 43T
Xe đạp: 2600 chiếc
Dân công: 10823 đ/c
Thức ăn khô: 65T
Đ/c: 290 đ/c
THANH HÓA
Xe đạp: 2000 chiếc
Gạo thành: 28T
Ở Tây Bắc, bộ máy cung cấp chƣa lập, cán bộ thiếu mà nhiệm vụ thì nặng
nên Hội đồng cung cấp mặt trận Trung ƣơng quyết định trực tiếp phụ trách tuyến
vận chuyển ở đây.
Lần này là lần đầu tiên Hội đồng cung cấp mặt trận Trung ƣơng phụ trách
trực tiếp một tuyến vận chuyển.
I. THỜI KỲ CHUẨN BỊ
Tiếp đƣợc nhu cầu quân sự vì thời gian quá cấp bách, nên một mặt, Hội
đồng cung cấp mặt trận Trung ƣơng trực tiếp chỉ thị cho các khu huy động gạo,
thực phẩm và xe đạp, dân công, một mặt họp với Khu Việt Bắc và Khu Tây Bắc,
Tổng cục Cung cấp và các ngành để ấn định mức huy động tại địa phƣơng, thảo
luận kế hoạch vận chuyển.
Nhận thấy gạo đƣơng ở thời kỳ giáp hạt, gạo mùa chƣa tới, Khu Tây Bắc
nhân dân thƣa thớt, phƣơng tiện xay giã thô sơ nên trong tƣ tƣởng Hội nghị ít tin
tƣởng vào khả năng địa phƣơng. Vả chăng thời kỳ bố trí gạo hành quân khẩn cấp
nên ngay đợt I Hội đồng đã thấy lúng túng trong vấn đề huy động gạo. Thêm vào
đấy, kho thóc không nắm đƣợc tình hình các kho nên đã phải lấy lẻ tẻ số tồn kho ở
Bến Than, Đại Từ, Yên Sơn, Chợ Đông, Sơn Dƣơng và Đoan Hùng để kịp cung
ứng chở gạo hành quân và giỏi tiêu phỉ. Nhƣng thực tế số gạo này không dùng đến
vì địa phƣơng đã có sẵn một số gạo tại chỗ.
Ở đƣờng 41 số gạo của địa phƣơng không ra kịp nên đã vay tạm của Công
trƣờng T/A một số gạo.
Vì không tin vào khả năng xay giã của địa phƣơng nên Hội đồng có huy
động một số thợ cối và xay giã. (900 thợ, đi 2 đƣờng).
407
Số thợ cối và xay giã lên một số không đúng thời. Phải sử dụng một số vào
việc khác nhƣ đi huy động, gặt hái, bốc vác.
Về mặt tổ chức cuộc Hội nghị đã quy định thành lập Ban Chỉ huy khu C
gồm đại diện Hôi đồng Trung ƣơng, một đại diện Tổng cục Cung cấp, một đại diện
Tổng cục Cung cấp, một đại diện Khu Tây Bắc.
Đại diện Hội đồng trực tiếp phụ trách tuyến vận chuyển sử dụng bộ máy Ban
Chỉ huy Tuyến để vận chuyển từ Âu Lâu lên Sơn La.
Đại diện Tổng cục Cung cấp sử dụng bộ máy Tổng cục Cung cấp tiền
phƣơng để vận chuyển từ Sơn La lên và chỉ đạo trong công tác, kết hợp giữa xe
quân sự và xe cải tiến.
Đại diện Khu Tây Bắc dùng bộ máy Khu huy động nhân tài vật lực giao cho
Hội đồng Trung ƣơng từ Âu Lâu lên Sơn La và giao thẳng Tổng cục cung cấp từ
Sơn La trở lên.
Sau khi đã quy định nhiệm vụ và quyền hạn của Ban Chỉ huy khu C và Ban
Chỉ huy Tuyến, Hội đồng đã thông qua kế hoạch vận chuyển kết hợp giữa quân sự
và xe cải tiến.
II. THỜI KỲ LÊN TUYẾN
a/ Thực hiện kế hoạch hành quân
Trong lúc cuộc Hội nghị đang họp thì phƣơng tiện, dân công và gạo đã bắt
đầu lên tuyến. Việc phái cán bộ lên tổ chức các Trạm Kho và chỗ trú quân rất cần
thiết. Nhƣng trái lại, số cán bộ Hội đồng chỉ có hạn. Một số đã phái đi Khu 3, khu
4 và Tả Ngạn, một số đang chỉnh huấn, vì vậy, Hội đồng đã phải giải tán họp chỉnh
huấn, cán bộ đi đôn đốc dân công và tổ chức tuyến và các trạm.
Ngoài ra, lại xin thêm đƣợc 100 thanh niên xung phong, 26 học sinh Tân
Trào và một số học sinh cơ khí để ta tăng cƣờng cho các bộ phận. Xin một số cán
bộ lớp phổ thông lao động.
Các bộ phận lần lƣợt lên tuyến và thiết lập các kho trạm nhƣng mỗi trạm vẻn
vẹn chỉ có 2 – 3 ngƣời, công việc đi lấy dân công địa phƣơng để xây dựng kho lán
không kịp nên số gạo hậu phƣơng đƣa ra đã phải tạm chứa ở các lán cũ hay phải đổ
ra giữa trời (T-15).
408
Các trạm bắt đầu thành lập: T-20, T-35, T-15, T-60 (cũ), T-100, T-50, lúc
đầu lấy gạo Nghĩa Lộ lại tổ chức thêm T-80.
Các ngành tiền phƣơng cũng bắt đầu hoạt động, ở mỗi trạm đều lần lƣợt có
cán bộ các ngành cử đến.
Đƣờng dây mới từ Nghĩa Lộ ra Ba Khe và từ T-15 trở đi bắt đầu xây dựng.
Ngành công an đi phối hợp với địa phƣơng trong vấn đề bảo mật phòng gian
và đề phòng biệt kích.
Ngành bảo đảm giao thông do địa phƣơng phụ trách, lấy cơ sở công trƣờng
13 chuyển thành bảo đảm giao thông Tây Bắc.
Trong thời gian này địch phá Đèo Lũng Lô; đƣờng giao thông bị tắc. Vì vậy,
chủ trƣơng huy động 1.000 dân công để tăng bo, thành lập ban phụ trách tăng bo
và hai trạm 45, 55. Sau bộ phận tăng bo T-45 sát nhập vào T-35.
Ban Y tế đã thành lập đƣợc hai bệnh xá: Z-1; Z-2.
Kiểm điểm lại hai kế hoạch:
- 187 tấn từ T-20 - T-15
- 82 tấn từ T-35 - T-60 Kế hoạch đều đầy đủ.
Còn ở Mộc Châu và Cổ Nội thì do xe quân sự trực tiếp chuyển vận, bộ đội
đủ nhu cầu trong lúc hành quân.
Nhƣng trong vấn đề thực hiện rất nhiều thiếu sót. Sự chỉ đạo kế hoạch gần
nhƣ không có. Các trạm không nắm đƣợc kế hoạch. Vì phƣơng tiện thì thiếu, xe thì
xuất và nhập chứ không nắm đƣợc cung độ và thời gian các xe hoạt động.
Lãnh đạo xe đạp kỷ luật hành, trú quân chƣa đƣợc đề cao nên đƣờng T-20
xảy ra mấy vụ ném bom, gây thiệt hại.
Lãnh đạo về tƣ tƣởng dân công và cán bộ mới lên nên đặt trọng tâm là đón
tiếp dân công. Những lúc đón tiếp dân công, không giải quyết thắc mắc về gạo ăn
của anh em từ nhà ra đi và cũng không nắm đƣợc diễn biến tƣ tƣởng để sau này cơ
quan sử dụng biết mà giải quyết.
Đội văn công bắt đầu ra đời và đƣơng tập dƣợt.
Về mặt tổ chức: chƣa có quan niệm cụ thể về trạm thống nhất, các cán bộ
đều tập hợp vào trạm, gặp việc gì làm việc ấy, không có ranh giới giữa các ngành.
409
Vì vậy, các ngành không xây dựng đƣợc nghiệp. Và cũng do đó gay tình trạng lộn
xộn, phạm chế độ cấp phát và thể lệ tài chính, chi tiêu cũng không phân ranh giới
khó thanh toán.
Về phần Ban Chỉ huy khu C, không có sinh hoạt tập thể, và cũng vì tổ chức
Ban Chỉ huy Khu C cách biệt Ban Chỉ huy tuyến nên việc thoe dõi chỉ đạo kế
hoạch bị cách bức làm cho công việc bị chậm trễ.
Ngành Tuyên huấn là một ngành phục vụ kế hoạch vận chuyển lại trực thuộc
Ban Chỉ huy khu C mà không thuộc Ban Chủ huy tuyến. Vì thế công tác chính trị
không kết hợp đƣợc công tác kế hoạch.
Ban Chỉ huy tuyến phụ trách công tác vận chuyển đáng lẽ phải đƣợc tập
trung mạnh mẽ mới đủ quyền hạn và phƣơng tiện để chỉ đạo những sự biến cố xảy
ra. Trái lại nó chỉ là một tổ chức kết hợp giữa các ngành rất lỏng lẻo ngành nào chỉ
lo công việc ngành ấy .
Mỗi ngành đặt trụ sở một nơi, đồng chí Liên đảm bảo giao thông ở Chẹn
trong một thời gian khá lâu, đồng chi Tam công an lên Sơn La, Cổ Nội.
Thời gian ngành thực phẩm chƣa thành lập chỉ có tiếp phẩm nội bộ ở tuyến.
Liên hệ với quân sự: Sự điều xe vƣợt đèo, qua phá đều do các binh trạm phụ
trách. Số xe chỉ tiến sát nhập vào xe quân sự (C202) việc hành quân vì thế cứ bị
cản trở do quan niệm hai bên chƣa đƣợc thông suốt. Có lần xe hơi đông đã phải
đậu lại 10 hôm ở Âu Lâu không qua đƣợc vì giành ƣu tiên cho xe quân sự .
Trên đƣờng 13 việc vận chuyển thì kết hợp giữa xe quân sự và Hội đồng,
con đƣờng 41 để đảm bảo gạo muối thì riêng xe quân sự đã chở đƣợc 210 tấn
muối.
Đây là do quan niệm đơn thuần, ỷ lại, không nhận thức phải xây dựng lâu
dài.
Cũng do tình hình trên, để tăng cƣờng liên hệ giữa vận tải quân sự và chi
tiến và thống nhất chỉ huy cơ giới sau đấy Tổng Cục Cung cấp đã cử đồng chí Đôn
tham gia ban chỉ huy tuyến.
Qua thời kỳ đầu, chúng ta thấy một phần cũng vì thiếu cán bộ, thiếu phƣơng
tiện, nhƣng một phần vì chƣa nhận thức đúng tầm quan trọng và phức tạp của
410
chiến dịch. Nên việc lãnh đạo tƣ tƣởng và tổ chức quá đơn giản. Mà không hiểu
rằng suốt thời kỳ chiến dịch, tƣ tƣởng nhân viên và dân công biến diễn rất nhiều.
Vì vậy, công tác chính trị phải theo dõi tƣ tƣởng diễn biến ngay từ đầu để có một
kế hoạch giáo dục tuyên truyền và động viên kịp thời.
Cũng vì thế nên sau này một số dân công đã bỏ trốn. Về mặt tổ chức, chính
trong chiến dịch cần phải xây dựng và củng cố tổ chức để phục vụ lâu dài thì trái
lại khoán cho binh trạm trong việc nắm xe, điều xe, sát nhập xe chỉ tiến vào xe
quân sự để xảy tình trạng lúng túng và không xây dựng đƣợc tổ chức.
Tính chất tuyến là linh động và hết sức khẩn trƣơng, đòi hỏi một tác phong
có tính chất quân sự. Trái lại, tổ chức Ban Chỉ huy khu C đến Ban Chỉ huy tuyến
cách bức, Ban Chỉ huy tuyến lại là một tổ chức liên hiệp không mạnh mẽ không
thể nào giải quyết kịp thời để bảo đảm kế hoạch đƣợc.
b. Thời kỳ thứ hai:
Giải tán Ban Chỉ huy tuyến, Hội đồng trực tiếp phụ trách tuyến vận chuyển,
củng cố hệ thống Đảng ở tuyến, thực hiện kế hoạch 600 tấn gạo lên Sơn La và sau
4 ngày đổi thành kế hoạch 700 tấn và 150 tấn vũ khí và xăng.
Do những thiếu sót trên nên cuộc Hội nghị mở rộng ngày 23, 24/11/1953
của Ban Chỉ huy tuyến có các ngành, các trạm dự để kiểm điểm về các mặt kế
hoạch, tổ chức lề lối làm việc, Hội đồng đã quyết định giải tán Ban Chỉ huy tuyến,
mỗi công tác ở tuyến do bộ phận tiền phƣơng Hội đồng cung cấp mặt trận Trung
ƣơng phụ trách. Bộ phận tiền phƣơng Hội đồng cung cấp mặt trận Trung ƣơng do:
- Đồng chí Đẩu, chỉ huy trƣởng.
- Đồng chí Nhiên, chỉ huy phó.
Các trạm thống nhất đƣợc quy định lại ranh giới giữa các bộ phận nhƣ vận
tải, kho thóc, công an, y tế, bƣu điện, đề cao sự chỉ đạo ngành dọc Ban Chỉ huy
trạm thống nhất gồm cán bộ Hội đồng và hai ngành quan trọng là Vận tải và Kho
thóc chỉ làm nhiệm vụ.
- Điều hòa kết hợp công tác giữa các ngành;
- Lãnh đạo công tác chính trị trong trận.
- Giải quyết những trƣờng hợp cấp bách đặc biệt.
411
Nhƣng cũng vì quan niệm trạm thống nhất và sự tập trung lãnh đạo ở tuyến
chƣa thông suốt, nên sau đó mặc dầu tôn trọng đƣợc ngành dọc nhƣng nhiều việc
trạm thống nhất không giải quyết đƣợc. Nhất là các trạm mà trạm trƣởng kiêm một
ngành thƣờng xảy ra bản vị cục bộ. Tình trạng ấy tiếp diễn đến sau này nên đã có
trƣờng hợp trạm trƣởng thống nhất không có đến đúng trong lúc các ngành khác có
đến hay nhƣ kho thóc bao tải để không trong lúc thực phẩm không có để dùng,
hàng chuyển đi cấp bách.
Về mặt công tác chính trị, đã đặt kế hoạch phát động tƣ tƣởng dân công với
tài liệu 8 tiêu chuẩn ngƣời dân công tốt.
Về mặt Đảng, đã thông qua kế hoạch củng cố đảng ở tuyến, thành lập và
củng cố các lien chi và chi bộ trên tuyến, đã chỉnh đốn lại Ban Cán sự đảng gồm
các đồng chí Đẩu, Mai, Nhiên.
Đồng thời với chấn chỉnh tổ chức, Hội đồng thực hiện kế hoạch 400 tấn gạo
từ Ba Khê và 200 tấn gạo từ Phù Yên tới Sơn La mỗi ngày rót lên Sơn La trung
bình 40 tấn.
Thực hiện đƣợc 4 ngày, mới đảm bảo đƣợc 100 tấn, thấy không đạt đƣợc kế
hoạch, lại hủy bỏ kế hoạch ấy xây dựng kế hoạch mới là 700 tấn gạo và 150 tấn vũ
khí và xăng, thực hiện trong thời gian từ 5/12/1953 đến 25/12/1953 là 570 tấn.
Một điểm đáng đƣợc chú ý trong thời kỳ này là mặc dầu Hội đồng đã chú ý
đến các tổ chức về chính trị ở trên tuyến nhƣng về mặt chỉ đạo kế hoạch vận
chuyển thì vẫn còn xem nhẹ, tổ chức chƣa đi kịp với nhu cầu vận chuyển cũng vì
vậy nên lúc cần để gạo ở T-60 vào ngày 28 thì đến ngày 26 mới có ngƣời đi xây
dựng kho lán. Cũng vì thiếu chuẩn bị chu đáo từ đầu nên ở T-15 gạo của địa
phƣơng đƣa ra phải hoãn lại vì không có chỗ chứa trong lúc ấy thì nhiệm vụ phải
tranh thủ chuyển đƣợc nhiều chừng nào và sớm chừng nào hay chừng ấy.
Lại cũng vì không dự đoán đƣợc tiến triển của kế hoạch cung cấp để có một
kế hoạch dự trữ và đi cơ quan cho thích hợp nên lúc gạo đã cần đƣa lên gấp, bộ
phận chỉ đạo còn lại Ba Khê nên Ban chỉ huy đã phải dời một bộ phận cùng Ban
Vận tải lên T-15 để theo dõi kế hoạch, cũng vì vậy mà các bộ phận khác và các

412
ngành khác còn nằm lại chỗ cũ, làm cho sự chỉ đạo thiếu tập trung, kế hoạch không
ăn khớp với chính trị.
Hơn nữa, trong thời gian này là thời gian mở đầu cho chiến dịch Điện Biên,
địch rút Lai Châu và nhảy dù xuống Điện Biên Phủ. Trƣớc tình hình trên, việc truy
kích địch để tiêu diệt địch phải đề ra cấp tốc, vì vậy, một xe ô tô đang đƣợc để chở
vũ khí, xăng và gạo theo đúng kế hoạch thì phải sử dụng để chở bộ đội, vì vậy, kế
hoạch 600 tấn đã không bảo đảm đƣợc phải xây dựng kế hoạch thứ hai 700 tấn gạo
và 150 tấn xăng và vũ khí. Nhƣng đến kế hoạch thứ hai này thì lại là giai đoạn phải
điều động pháo binh lên cổng hầm Điện Biên Phủ vì phải nhƣờng cho pháo binh
lại bị phi cơ tập trung oanh tạc đèo Chẹn nên kế hoạch đợt 2 cũng chỉ đảm bảo
đƣợc 581 tấn.
Cũng vì thấy không bảo đảm đúng yêu cầu, nên Đảng ủy đã quyết định
thành lập Ban Chỉ huy vận chuyển Tả Khoa – Có nơi gồm cán bộ Tổng cục Cung
cấp, Cục Vận tải và tỉnh lỵ địa phƣơng, về nội bộ nó là một bộ phận của Đảng Mặt
trận. Tổ chức này vô hình đã cắt tuyến Hội đồng trƣớc kia là ở Sơn La xuống đến
Tả Khoa. Nhƣng sau đó thì chủ trƣơng này không đƣa ra thực hiện. Hội đồng vẫn
phải phụ trách đến Sơn La nhƣ từ trƣớc đã quy định.
Cũng trong cuộc họp với Tổng cục Cung cấp để hủy bỏ chủ trƣơng trên, Hội
đồng và Tổng cục Cung cấp tiền phƣơng đã quyết định vì việc thống nhất vận
chuyển trên từng tuyến một, trên tuyến Hội đồng; Hội đồng sẽ phụ trách vận
chuyển mỗi thứ nhu cầu về gạo, muối, và cả vũ khí, xăng. Các cán bộ tổ chức của
quân sự trên tuyến Hội đồng đều thuộc quyền chỉ đạo của Hội đồng. Nhƣng thực
tế, quyết định này cũng không thực hiện đƣợc vì Tổng cục Cung cấp tiền phƣơng
thì phụ trách từ Sơn La đến Điện Biên, còn Âu Lâu đến Sơn La lại do Tổng cục
Cung cấp hậu phƣơng, nhƣng mệnh lệnh của Tổng cục Cung cấp hậu phƣơng làm
cho các binh trạm rất khó thi hành.
Hơn nữa, các binh trạm vì tƣ tƣởng chƣa thông suốt nên thƣờng không thi
hành những chủ trƣơng của Hội đồng.
3/ Tăng cƣờng công tác chỉ đạo của Hội đồng:

413
Đặt nề nếp công tác chính trị cho các ngành, các trạm đặt kế hoạch làm
khoán thực hiện 2 kế hoạch: kế hoạch ƣu tiên xăng, vũ khí và kế hoạch 300 tấn gạo
lên Sơn La.
Nhận thấy việc tổ chức Ban Chỉ huy tuyến chia thành 2 bộ phận, bộ phận kế
hoạch đóng ở chốt và bộ phận chính trị đóng ở Ba Khe cách nhau gần 70 cây số,
không hợp lý làm cản trở cho sự chỉ đạo tập trung của Hội đồng và làm cho công
tác chính trị tách rời công tác chuyên môn. Hơn nữa, các ngành tiền phƣơng cùng
mỗi ngành đặt trụ sở ở một nơi, công việc lãnh đạo tập trung rất khó khăn, nên
cuộc Hội nghị Ban Chỉ huy tuyến ngày 24/12 và cuộc Hội nghị các ngành ngày
25/12/1953 đã quyết định tăng cƣờng sự chỉ đạo của Hội đồng, Hội đồng sẽ chia
làm 3 bộ phận: 1 bộ phận nằm sát tổng cục cung cấp để hiểu rõ nhu cầu của hỏa
tuyến, một bộ phận ở trung tuyến và một bộ phận ở hậu phƣơng. Các ngành tiền
phƣơng phải tập trung xung quanh bộ phận trung tuyến của Hội đồng do bộ phận
này trực tiếp chỉ đạo.
Tuy vậy, quan niệm về tổ chức chƣa đƣợc thông suốt, nhất là đối với các
trạm thống nhất và trong công tác chính trị, nhiều ngành dẫm đạp lên nhau, vì vậy,
ngày 06/1 Ban Chỉ huy tuyến đã triệu tập một cuộc hội nghị bàn về quan niệm trạm
thống nhất, quy định lề lối làm việc giữa các ngành với bộ phận tiền phƣơng của
Hội đồng, giữa các ngành và các trạm, ngoài phần nghiệp vụ hội nghị quyết định là
các ngành phải làm công tác chính trị của các ngành, Hội đồng và các Trạm Thống
nhất, định chủ trƣơng phổ biến tài liệu và hƣớng dẫn các ngành trong công tác
chính trị. Ban Tuyên huấn tiền phƣơng là Ban Tuyên huấn của Hội đồng, đặt dƣới
quyền trực tiếp lãnh đạo và chỉ đạo của Hội đồng.
Ngoài ra, trong lúc kiểm điểm về tƣ tƣởng dân công và cán bộ thì đã thấy
xuất hiện những hiện tƣợng chán nản, theo dõi và cô lập những phần tử ngoan cố.
Nhƣng cũng vì việc nắm tƣ tƣởng đề ra quá chậm, việc đả thông phƣơng pháp vận
động dân công không đƣợc chu đáo nên một số trạm thiên về giam giữ nhiều hơn
là giải thích (T-60 + T-55).
Đồng thời với những công tác tổ chức và lãnh đạo tƣ tƣởng nói trên, Hội
đồng tiếp tục vận chuyển gạo và thức ăn lên Sơn La. Ban Cán sự Chẹn – Sơn La đã
414
giải tán trong lúc đƣơng thực hiện nhiệm vụ thƣờng xuyên thì Tổng cục Cung cấp
đề ra kế hoạch ƣu tiên xăng và vũ khí. Nhận thức đúng nhu cầu cấp bách của hỏa
tuyến, Hội đồng đã dốc toàn lực lƣợng cơ giới vào kế hoạch ƣu tiên. Kết quả, từ
16/1 đến 20/1 đã chở đƣợc 110 tấn vũ khí và 250 phút xăng vƣợt mức yêu cầu 40
tấn và 60 phút. Đó là nhờ tinh thần chấp hành triệt để mệnh lệnh của cán bộ nên có
nhiều lúc phải bỏ gạo xuống để chở xăng, và vũ khí. Nhƣng vì sự liên hệ giữa
Tổng cục Cung cấp tiền phƣơng và Tổng cục Cung cấp hậu phƣơng không đƣợc
minh định rõ rang, vì Chỉ thị của Tổng cục Cung cấp xuống các binh trạm không
thong suốt, nên mặc dầu kế hoạch đã vƣợt mức, đến lúc cần tiếp tục chở gạo thì
Tổng cục lại không cho giao sang cho Hội đồng, một số phải nghỉ việc. Hơn nữa
Tổng cục Cung cấp tiền phƣơng đã quy định giao C-206 cho Hội đồng để phục vụ
kế hoạch vận chuyển của Hội đồng nhƣng ngƣợc lại Cục Vận tải hậu phƣơng lại
điều về, cảnh cáo nếu không tuân mệnh lệnh. Sự quyết định giao ƣớc giữa hai bên
không thống nhất làm cho các ngành, các trạm cũng rất khó thực hiện. Cũng vì vậy
nên trong đợt này tuy có quy định là các binh trạm thuộc tuyến Hội đồng đều do
Hội đồng chỉ đạo, nhƣng thực tế các binh trạm luôn luôn phải tuân theo chỉ thị
ngành dọc mà các chỉ thị này tái ngƣợc nhau và không ăn khớp với chỉ thị của Hội
đồng (vấn đề điều xe, vấn đề cấp xăng).
Đứng trƣớc tình hình trên, Hội đồng tiền phƣơng đã phải vay tạm của khu
Công chính 9 phuy xăng và yêu cầu vay Bộ Tài chính cấp cho 50 phuy nữa, cũng
nhờ vậy nên kế hoạch 300 tấn trong đợt sau thực hiện đƣợc 410 tấn vƣợt mức 110
tấn gạo mà không cần phải phiêu lƣu dốc toàn lực xe đạp lên Sơn La hay 2 chuyến
đi cũng độ hàng trăm cây số do Tổng cục đã đề ra ý kiến.
Đứng trƣớc tình hình gay go trên trong lúc một số dân công xe đạp họ đã bỏ
trốn (Bắc Giang, Thái Nguyên), Hội đồng đã chủ trƣơng làm khoán chủ trƣơng này
đƣa ra đƣợc dân công hoan nghênh nhiệt liệt và năng suất tăng rất cao từ 71c – 92c
tăng 90c – 110c, nhƣng vì trong tƣ tƣởng của Ban Chỉ huy cũng nhƣ của các cán
bộ chƣa nhận thức đƣợc đầy đủ phƣơng châm tiến chắc, đánh chắc, đánh lâu dài,
có tƣ tƣởng đánh mau, thắng mau, nên trong lúc giải thích cũng nhƣ vận động đều

415
nêu vấn đề làm khoán xong sẽ đƣợc về mà không chú ý đến vấn đề lợi ích của làm
khoán.
Qua hai kế hoạch này, kế hoạch vận chuyển đều vƣợt mức cả, Hội đồng
tƣơng đối đã nắm đƣợc các ngành nên trong việc chỉ đạo vận chuyển đƣợc sít sao
hơn. Trong công tác chính trị những chủ trƣơng của Hội đồng đƣợc phổ biến và
các ngành đã tập trung vào những công tác chính, nhờ vậy, nên mặc dầu gặp hoàn
cảnh khó khan một số dân công đã bỏ trốn, nhƣng vẫn duy trì đƣợc tinh thần dân
công, và cũng nhờ đó, sau này thành một đà thi đua sôi nổi trong dân công xe đạp
và bộ.
Nhƣng trong quá trình công tác cũng đƣợc thấy rõ ràng tính chất cơ động,
linh hoạt của chiến trƣờng, tính chất liên tục của chiến dịch hiện nay, Nhu cầu và
thời gian luôn luôn thay đổi và một ngày một tăng vì vậy trong việc lãnh đạo và
chỉ đạo phải tiến dần từng bƣớc, vững vàng và chắc chắn, nhƣng chủ trƣơng phiêu
lƣu, ồ ạt chỉ có kết quả nhất thời nhƣng sẽ gây nhiều khó khăn cho các kế hoạch tới
(nhƣ điều động xe đạp đi thẳng từ T-20 lên Sơn La, vận động làm khoán để mau
về).
Cũng trong đợt này, lại càng thấy rõ sự tập trung chỉ đạo ở tuyến rất cần
thiết.
Một điểm thứ ba cần đƣợc chú ý nữa là sự liên hệ với quân sự cần đƣợc chấn
chỉnh lại. Đã trải qua hai thời kỳ. Thời kỳ đầu kết hợp vận chuyển thì xảy ra tình
trạng lủng củng, tranh giành ƣu tiên, đến thời kỳ này thống nhất chỉ huy thì lại dẫn
đến tình trạng cán bộ binh trạm chỉ thi hành mệnh lệnh dọc mà không biết đến chỉ
thị của Hội đồng. Hiện tƣợng này xảy ra một mặt về tƣ tƣởng chƣa thong suốt,
nhƣng một mặt khác về tổ chức và lề lối làm việc.
c/ Thời kỳ thứ ba:
1/ Thấu triệt chủ trƣơng đánh lâu dài, Hội đồng tổ chức thêm tuyến đƣờng
41 và đề ra việc vận động dân công ở lại thắng lợi. Kế hoạch 1.300 t gạo sắp hoàn
thành thì lại phải điều chỉnh kế hoạch mới. (Chuẩn bị thêm hai tháng 4+5/1954).

416
Sau lúc hoàn thành kế hoạch 300t gạo tiếp đƣợc điện của tiền phƣơng là phải
chuẩn bị đầy đủ nhu cầu cho hai tháng 4 và 5, và yêu cầu cấp bách là phải vận
chuyển đầy đủ 1.300t gạo từ 5/2 đến 5/3 phải hoàn thành.
Đứng trƣớc nhiệm vụ trên, Hội đồng nhận thấy nhiệm vụ còn lâu dài và
nặng nề, muốn đảm bảo kế hoạch, việc vận động dân công ở lại là một việc hết sức
cấp bách. Ngoài ra, khả năng cung cấp đƣờng 13 đã cần, cần khai thác khả năng
của Thanh Hóa và khú 3 vì vậy đã cho cán bộ đi tổ chức 2 trạm Suối Rút và Mộc
Châu (T-105 , T-42).
Đƣa ra chủ trƣơng vận động dân công ở lại, một số cán bộ hoang mang,
thiếu tin tƣởng. Tuyến triệu tập Hội nghị đả thông nhƣng nhờ sự phát động học tập
sâu rộng mục đích, ý nghĩa của chiến dịch Đông - Xuân làm cho anh em hào hứng
với nhiệm vụ. Mặt khác, đã tăng cƣờng bồi dƣỡng đời sống của anh chị em, đẩy
mạnh văn nghệ, thi đua, hƣớng dẫn thi đua làm khoán để phục vụ chiến dịch mau
thành công.
Cũng nhờ Hội nghị này đã giải quyết đƣợc thắc mắc cho cán bộ nên cán bộ
thêm tin tƣởng và đã đƣợc học tập phƣơng pháp vận động, nên cuộc vận động tiến
hành rất có kết quả, dân công ở tất thảy các trạm đều hạ quyết tâm thƣ ở lại phục
vụ đến chiến dịch Điện Biên toàn thắng.
Ngoài việc đả thông nhiệm vụ, hƣớng dẫn phƣơng pháp để cho các ban cán
sự tỉnh về triệu tập địa phƣơng, tổ chức các đoàn đại biểu địa phƣơng lên tặng quà
bánh tết và báo cáo tình hình ở địa phƣơng cho anh chị em rõ. Nhiều địa phƣơng
lại đã biết kết hợp việc úy lạo dân công với việc giúp đỡ gia đình dân công trong
sản xuất đã kiểm thảo gắt gao số dân công đã đáo nhiệm. Cũng nhờ sự kết hợp chặt
chẽ giữa hậu phƣơng và trung tuyến rất chặt chẽ trong chủ trƣơng vận động dân
công ở lại, nên trƣớc kia có một số trốn về, đến nay cũng phải lên phục vụ lại. Ảnh
hƣởng do lan tràn sâu rộng, làm cho số anh em tích cực thì phấn khởi mà số ngoan
cố thì dè chừng không dám hoạt động nhƣ trƣớc nữa.
Từ đây bắt đầu đà thi đua tăng năng suất. Kế hoạch 1300 tấn thực hiện trong
30 ngày, trung bình mỗi ngày phải rót 43 tấn. Đến ngày 25/2 đã đƣợc 1002 tấn,
trung bình mỗi ngày đƣợc 50 tấn.
417
Nhƣng đến ngày 25/2 trong lúc đƣơng tiếp tục thực hiện kế hoạch 1.300 tấn
thì tiền phƣơng kiểm điểm lại số tồn kho.
Kết quả từ lúc bắt đầu chiến dịch đã thực hiện đƣợc:
Gạo: 5.471 tấn (kể cả số huy động ở Bắc Sơn) là đầy đủ cho nhu cầu tháng 2
và còn thừa 778 tấn cho nhu cầu tháng 3.
Thức ăn khô: So với nhu cầu đƣợc là 191 tấn, thực hiện đƣợc 174 tấn, thiếu
17 tấn và chậm 10 ngày.
Thịt: Đƣợc 149T8 so với nhu cầu là 275 tấn, thiếu 125 tấn.
Muối: Đã chuyên chở đƣợc 112 tấn, so với nhu cầu là 140 tấn, thiếu 27 tấn
(thực tế muối vẫn thừa quá nhu cầu của quân) và Tổng cục Cung cấp đã kết thúc
vào ngày 25/2 và đề ra kế hoạch chở tháng 3 và tháng 4 là 1.600 tấn gạo.
Trong suốt thời gian này, một đặc điểm cần đƣợc nêu bật lên sự thành công
của việc vận động dân công ở lại, đã gây thành một đà thi đua trong dân công và
gây lòng tin tƣởng sâu sắc trong cán bộ, thành công này là do Ban Chỉ huy cũng
nhƣ cán bộ đã đi sát anh em, đả thông kỹ càng, đã đề ra việc học tập kỹ càng mục
đích ý nghĩa chiến dịch. Do thấm nhuần tầm quan trọng của chiến dịch, nên đến
lúc phổ biến đến chủ trƣơng gia hạn dân công thì ít ngƣời còn thắc mắc. Hơn nữa,
phƣơng pháp vận động cũng đƣợc áp dụng một cách cụ thể trân lập trƣờng căn bản
của Đảng và Chính phủ dựa vào những phần tử trung kiên lôi kéo hàng lƣng
chừng, và cô lập những tụi ngoan cố, nhờ biết áp dụng đúng đắn phƣơng pháp trên
nên đã thành một phong trào lôi cuốn tất thảy mọi ngƣời trong lúc hạ quyết tâm
thƣ ở lại.
Điểm thứ hai làm cho công cuộc vận động này đƣợc thêm kết quả là nhớ các
cán bộ biết tập trung vào trọng điểm từ các đại đội khá đi dần đến đại đội kém, lấy
tốt lôi xấu, lấy nhiều kéo ít vì cuộc vận động lại đƣợc kết hợp với tuyến và ở hậu
phƣơng 2 nơi hỗ trợ cho nhau, bồi bổ cho nhau.
Những cuộc hội nghị chiến sĩ thi đua cũng đã đề cao đƣợc vai trò của chiến
sĩ. Công lần này là lần đầu tiên ở trên tuyến đã nhận đƣợc một số Huân chƣơng và
7 chiến sĩ đầu tiên đã đƣợc vinh dự tặng Huân chƣơng chiến sĩ hạng ba.

418
Ngoài ra, vai trò lãnh đạo và xung phong gƣơng mẫu của Đảng vì riêng lần
này cũng đƣợc đề cao hơn bao giờ hết, chính nhờ nhắc nhở đến nhiệm vụ của
Đảng, của đảng viên nên một số chi bộ trƣớc còn uể oải kém tin tƣởng, nhƣng đến
nay đã tích cực công tác, đã có nhiều thành tích trong cuộc vận động.
2/ Hoàn thành kế hoạch cấp bách 1.600 tấn của tiền phƣơng đợt thi đua đột
kích để chào mừng ngày thành lập Đảng đã động viên lƣc lƣợng thi đua hoàn thành
mĩ mãn.
Để cung cấp cho nhu cầu tháng 3 và tháng 4, Tổng cục yêu cầu từ 26/2 đến
31/3 chuyển xong 1.600 tấn kế hoạch này đề ra 1/3 mà 5/3 mới về phổ biến và 7/5
mới có xe tăng thêm, trƣớc hoàn cảnh phƣơng tiện ở tuyến thì thiếu mà huy động ở
hậu phƣơng ra không kịp và cũng rất khó khăn, giải pháp độc nhất là đẩy mạnh
phong trào tăng năng suất vƣợt mức mới đảm bảo. Hội đồng chủ trƣơng phát động
phong trào thi đua đột kích chào mừng ngày thành lập Đảng.
Hội đồng đã họp các ngành, các bộ phận đả thông về yêu cầu cấp bách trên,
đặt kế hoạch động viên thi đua, giao mức cho các đơn vị, trạm, đoàn xe, đặt lại
cung độ để tranh thủ thời gian. Nhờ chỉ đạo sát và động viên thi đua sôi nổi thông
tin, nêu gƣơng, khen thƣởng kịp thời nên phong trào tiến bộ vƣợt mức. Cơ giới
đảm bảo cung độ, trọng tải nặng 2T6 đến 2T7, xe đạp, dân công bộ đều tăng vƣợt
mức bình thƣờng… Trong phong trào nảy ra nhiều sáng kiến (C-202 chuyển lối
tăng bo để cƣớp thời gian hoàn thành kế hoạch, dân công bộ có sáng kiến vác bao,
sáng kiến ấy sau này làm đổi hẳn bộ mặt vận chuyển dân công bộ), có C đạt mức
độ bình quân lên 57 cân sau lên đến hơn 63 cân xe đạp, có ngƣời đã tăng lên 250
cân 1 chuyến (bình quân 70 đều 110 cân).
Trong phong trào này, sự chỉ đạo của Hội đồng, các ngành đƣợc củng cố
thêm, các Ngành nhƣ bƣu điện, năng suất cũng tăng.
Để phục vụ cho xe đạp, Ban Bảo đảm giao thông đã sửa cầu ngầm sửa sang
đƣờng tắt cho xe đạp tăng năng suất.
Tuy cũng có nơi thiếu tu bổ (suối dốc), rải đá lên đƣờng một lần rồi không tu
bổ nên ảnh hƣởng đến việc vận động tăng năng suất.

419
Ngoài kế hoạch đột kích, Hội đồng còn tranh thủ dùng mọi phƣơng pháp để
hoàn thành nhiệm vụ.
- Giao cho Thanh Hóa chuyển thẳng lên Mộc Châu một chuyến 150 tấn, kế
hoạch không sát, Thanh Hóa không thi hành đƣợc.
- Đồng thời, Hội đồng chỉ thị cho các trạm đón các đoàn dân công xe đạp đi
hỏa tuyến tiếp chuyển thêm một số gạo để tăng thêm số lƣợng vận chuyển. Nhƣng
vì các trạm đƣợc phổ biến chậm, và không nắm đƣợc toàn bộ kế hoạch nên ít chú
ý.
Ngoài ra, đã yêu cầu Trung ƣơng tăng viện cho một số xe cơ giới nữa. Vì
vậy, số xe Hội đồng trƣớc có 32, sau này đã lên tới 81 chiếc. Ngoài ra, còn huy
động thêm 2200 xe đạp mới của Việt Bắc và 2000 dân công định tăng cƣờng lực
lƣợng tăng bo Lũng Lô.
Cũng nhờ tinh thần quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ của các ngành nhờ
phong trào thi đua sôi nổi của Cán bộ và dân công nên đến ngày 31 /3 đã thực hiện
đƣợc:
- Gạo: 1.774 tấn 5 vƣợt 5 ngày và 174 tấn 5.
- Thức ăn khô: đƣợc 128 tấn 5 so với nhu cầu thiếu 81 tấn nhƣng thời gian
còn 15 ngày.
- Đƣờng: 32 tấn so với nhu cầu vƣợt 12 tấn 4.
- Muối: 81 tấn so với nhu cầu vƣợt 1 tấn.
- Thịt: 120 tấn 5 so với nhu cầu thì thiếu 69 tấn.
Đặc điểm nhất trong thời kỳ này là phong trào thi đua lên đến cao độ từ
trƣớc chƣa từng có nhờ sự động viên đƣợc kịp thời, sự bồi dƣỡng chiến sĩ tƣơng
đối đƣợc chu đáo. Các đơn vị đều hào hứng thi đua, theo dõi nhau thi đua để đoạt
cờ của Hồ Chủ tịch và của Hội đồng.
Nhờ thấm nhuần ý nghĩa thi đua, mặc dầu ở một vài đơn vị, động cơ thi đua
chƣa đƣợc chính xác, nên năng suất tăng rất cao, có đơn vị vƣợt 150% và 200%.
Đó là nhờ sự chỉ đạo chặt chẽ của Hội đồng nhƣng đồng thời cũng nhờ sự
phối hợp chặt chẽ giƣa các bộ phận. Tuyên huấn, cán bộ và thi đua và toàn thể các
ngành khác đều phục vụ cho phong trào thi đua đột kích.
420
Nhƣng thời kỳ này cũng đánh dấu thời kỳ Hội đồng nắm sát việc điều động
xe cộ, nhiều lúc vì cấp bách mà thiếu phƣơng tiện, nên Hội đồng đã trực tiếp các
Trạm Thống nhất ra lệnh điều động 16 xe cộ, nhƣng trái lại, thiếu sự phối hợp chặt
chẽ với các ngành nên làm cho các ngành lúng túng nhất là Kho thóc trong một vài
trƣờng hợp. Một chủ trƣơng mới của Hội đồng nữa là chủ trƣơng cho một số xe
đạp xấu và lớp xe đạp cũ về hậu phƣơng.
Nhận thấy, trong kế hoạch 1.600 tấn, khả năng gạo đƣờng 13 đã cạn, số gạo
từ các tỉnh Tuyên Quang, Phú Thọ lên một ngày một ít. Trái lại số xe đạp ở tuyến
13 lại nhiều, đã nhiều lần dồn xe đạp lên đến T-60 nhƣng khối lƣợng vận chuyển
tƣơng đối ít.
Để giảm bớt số lƣợng gạo phải tiêu thụ trên đƣờng 13 giành cho nhu cầu
quân sự, Hội đồng chủ trƣơng giảm bớt số xe đạp ở đƣờng 13, chỉ sử dụng những
hàng tốt, khỏe đảm bảo năng suất đƣợc cao độ. Lại nhận xét thấy đƣa số xe này
sang đƣờng41 phục vụ không hợp lý, lãng phí rất nhiều nên Hội đồng có chủ
trƣơng cho số xe đạp cũ và xấu về bớt. Nhƣng vì muốn rút những kinh nghiệm quý
báu trong việc vận động dân công ở lại và phong trào thi đua trong thời gian vừa
qua nên đã chủ trƣơng mở nhiều Hội nghị thâu rút kinh nghiệm và tổ chức liên
hoan cho những ngƣời đƣợc về hậu phƣơng công tác.
Hội nghị liên hoan các chiến sĩ thu đƣợc nhiều kết quả làm cho số chiến sĩ
hiểu rõ chủ trƣơng của Hội đồng, tin tƣởng vào Hội đồng, nhƣng cũng vì thiếu đả
thông kỹ càng cho cán bộ mục đích yêu cầu nên một số cán bộ đã nặng về tổng kết
mà nhẹ về tiếp tục công tác.
3/ Áp dụng kinh nghiệm giao khoán các xe quân sự, chúng ta đã thất bại
trong kế hoạch 1.200 tấn.
Sau khi thực hiện xong kế hoạch 1.600 tấn thừa 174 tấn, Tổng cục Cung cấp
yêu cầu thêm 1.200 tấn định là đến 20/4 xong kế hoạch 1.200 tấn này là gồm 500
tấn bù cho số thiếu ở tuyến BNC 400 tấn dự phòng cho địa phƣơng miền Bắc Sơn
La chuyển bộ ra không kịp và tăng thêm 300 tấn vì tăng thêm quân số.

421
Rút kinh nghiệm mấy kế hoạch trƣớc, đã có nhiều lủng củng trong việc chỉ
đạo và sử dụng xe quân sự, nên lần này đã áp dụng cách thức khoán trắng cho xe
quân sự một khối lƣợng nhất định trong một cung độ và thời gian nhất định.
Căn cứ theo khả năng phƣơng tiện và khả năng thóc gạo ở các đƣờng 41 và
13, trong cuộc Hội nghị với đồng chí Thiên, Cục trƣởng Cục Vận tải đã quy định
từ T-20 đến T-50, Hội đồng phụ trách vận chuyển 200 tấn, từ T-105 đến T-42 Hội
đồng phục trách vận chuyển còn từ T-42 đến T-50 giao cho xe quân sự vận chuyển
trong thời gian 20 ngày, mỗi ngày 53 tấn, tổng cộng là 1060 tấn lên đến Sơn La,
tính ra phải có 50 xe chạy trên cung độ T-42 – T-50. Trong 5 ngày đầu hụt mất 150
tấn, mặc dầu Hội đồng đã điều động một số xe làm cung độ dƣới lên tăng cƣờng
cho cung độ trên. Vì xe không về đủ trong ngày thứ hai hụt thêm 150 tấn nữa, một
mặt vì xe không đủ, một mặt vì trời mƣa, tắc đƣờng phần hai hôm. Đến ngày 11 có
cuộc họp kiểm điểm và quyết định là từ 12/4 tuyến đồng chí Thiên phải giao đủ
cho Hội đồng đủ 75 xe, để bù những ngày thiếu trƣớc. Nhƣng số xe vẫn không về
đủ. Hơn nữa, những xe ở tuyến dƣới lúc lên tuyến trên đƣợc điều động đi thẳng rồi
lại thay thế thứ khác, lúng túng không thể nào nắm đích xác số xe đã giao hạn cho
Hội đồng. Kiểm điểm lại số xe đã đi về thì thấy vẫn còn thiếu.
Cuộc họp hôm 15/4 lại quyết định lại là từ ngày 16/4 tuyến trên phải đƣa
xuống mỗi đêm là 40 xe. Hội đồng có trách nhiệm phải đảm bảo đầy đủ kế hoạch
thiếu, nhờ vậy, trong 5 ngày cuối cùng đã tranh thủ vận chuyển đƣợc rất nhiều.
Kết quả đến ngày 20/4 đã thực hiện đƣợc gạo, 1.194 tấn thiếu 6 tấn, sở dĩ có
đƣợc 1194 tấn là nhờ trƣớc kia có đủ 174 tấn 5, tuy đã bù vào gần đủ kế hoạch
chung, kết quả tai hại nhất là vì kết quả vận chuyển của chúng ta trong 10 ngày đều
kém nên một số bộ đội văn phòng đã phải rút khẩu phần xuống 6 lạng. Thức ăn
khô đƣợc 45 tấn 4 còn thiếu 6 tấn thừa muối (thừa: đƣợc 19 tấn cộng với 1 tấn thừa
đợt trƣớc là 20 tấn, đƣờng đƣợc 5 tấn 7 cộng với 12 tấn 4 thừa đợt trƣớc, cộng thừa
18 tấn).
Thịt đƣợc: 111 tấn, do phía dƣới chuyển lên và phía trên đƣợc 21 tấn. Cung
là 63 tấn còn thiếu 6T9. Số thiếu này đã thỏa thuận bù bằng 8T đƣờng. Nhƣ vậy,
đƣờng còn 10 tấn giành cho kế hoạch sau.
422
Thực hiện kế hoạch 1.200 tấn này chúng ta đã rút đƣợc nhiều bài học quý
báu về chỉ đạo vận chuyển cơ giới và kết hợp vận chuyển cơ giới.
Việc giao khoán cho xe quân sự một khối lƣợng nhất định ở một cung độ
nhất định, trong lúc bình thƣờng, lực lƣợng đầy đủ thì không phải là vấn đề quan
trọng. Nhƣng trong lúc ở toàn bộ các tuyến, xe cộ thiếu thốn, vận chuyển gặp
nhiều khó khan, cung độ của xe quân sự lại tiếp giáp với cung độ của các xe quân
sự khác ở hỏa tuyến và nhu cầu hỏa tuyến lại cấp bách thì nhất định sẽ xảy ra tình
trạng điều xe đi thẳng, làm cho hỗn loạn tình hình và ảnh hƣởng đến kế hoạch.
Việc giao xe quân sự cho Hội đồng phải đƣợc quy định lại, dứt khoát, Hội đồng
phải chỉ đạo về mặt kế hoạch trong phạm vi tuyến của mình, quyền hạn có khớp
với nhiệm vụ mới có thể đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ đƣợc. Trái lại, quyền hạn
không đi đôi với nhiệm vụ thì nhất định sẽ thất bại.
Khuyết điểm của Hội đồng trong kế hoạch này là gần quá nửa kế hoạch sự
thất bại đã rõ rệt nhƣng không báo cáo phản ánh kịp thời lên trên để yêu cầu can
thiệp ngay, thực hiện kế hoạch 1.200T này cũng đã dạy cho chúng ta nhiều bài học
cụ thể: việc nắm vững điều động xe cộ, tổ chức cung độ, và kế hoạch bốc vác phải
đƣợc cụ thể, cần phải điều chỉnh cho ăn khớp với khối lƣợng vận chuyển.
Vì xe tập trung đông, trên một đoạn đƣờng gần 100 cây số, có lần chúng ta
đã sử dụng đến hơn 100 xe, có ngày riêng xuất và riêng nhập đã đến 160 tấn,
nhƣng lực lƣợng bốc vác trƣớc kia không đầy đủ, cần phải tăng cƣờng. Những kho
lán trƣớc chật hẹp chỉ đủ khả năng cho một số ít xe nay cũng không thích hợp.
Việc điều xe qua Bariere, qua đèo, vào các chùm kho cũng phải đƣợc tổ chức chu
đáo và chính những cán bộ khá, cán bộ nắm đƣợc kế hoạch đảm đƣơng công tác
này mới cho làm tròn nhiệm vụ. Trái lại, trƣớc kia, đối với công tác điều xe, trú
quân vì thiếu cán bộ, chúng ta chỉ khoán cho một số thanh niên xung phong, nên
trong thời kỳ này, rất lúng túng, làm cho giờ chết của xe mất rất nhiều. Sự liên hệ
giữa các đoàn xe và trạm cũng cần quy định thành nề nếp.
Việc chỉ đạo cơ giới muốn đƣợc chặt chẽ, muốn nắm đƣợc tình hình xe cộ
thật cụ thể thì việc thông tin liên lạc phải đề ra cấp thiết. Nhƣng giờ nhất định phải
đƣợc giành ƣu tiên cho việc báo cáo đƣờng xá và điều động xe cộ. Ngoài ra cũng
423
cần phải có những đài lƣu động đi theo đoàn xe thì mới có thể nắm đƣợc tình hình
ở dọc đƣờng.
Để đảm bảo cung độ và tranh thủ thời gian, tránh nhiều giờ chết, công tác
bảo đảm giao thông phải tăng cƣờng gấp bội nhƣng đoạn đƣờng tránh cần đƣợc
tăng thêm. Nhƣng yêu cầu, đƣờng xấu cần phải đƣợc tu bổ. Phải quan niệm cho
đúng, đảm bảo giao thông không phải là chỉ đối phó với địch phá hoại, mà cần phải
chống cả mƣa lũ, tu bổ cho đƣờng cầu chẳng những thông suốt nhƣng phải tốt đảm
bảo tốc độ tối thiểu.
4/ Thực hiện nhu cầu tháng 5 bằng 1.100 tấn, tranh thủ mùa mƣa, kế hoạch
Tổng cục yêu cầu 15/5, Hội đồng chủ trƣơng hoàn thành vào 5/5.
Mùa mƣa sắp bắt đầu, Hội đồng nhận đƣợc yêu cầu quân sự vào tháng 5.
Lúc đó nhận thấy, chúng ta có 2 kẻ sắp đe dọa, một là mùa lũ, mƣa ở đây sẽ gây
nhiều khó khăn chở ra, dân công cán bộ sinh bệnh tật, kho lán dột nát, lũ sông, lũ
suối, cắt đứt giao thông làm nhiều quãng và liên tục. Hai là, ta đánh lâu, nhất định
kẻ địch phải phá tiếp tế của ta, nếu chúng kết hợp với mƣa lũ đánh phá ta thì nguy
hiểm vô cùng. Hội đồng nhận thấy chỉ có một cách là tranh thủ càng sớm càng tốt,
nên quyết định, kế hoạch phải hoàn thành vào 5/5.
Song song với vận chuyển, Hội đồng đã chỉ thị cho các ngành, các trạm có
kế hoạch chuẩn bị đối phó với mƣa lũ và mọi mƣu mô của địch nhƣng các trạm
vẫn chƣa thấm nhuần sâu sắc mục đích yêu cầu nên chƣa có những kế hoạch cụ thể
cho ngành mình thực hiện.
Tuy trong thời gian này địch đã bắt đầu trở lại phá hoại lùng các đoàn xe,
mƣa đã bắt đầu đến nhƣng nhờ cố tâm tranh thủ nên trong 5 ngày có sụt mức,
nhƣng đến 5 ngày sau đã bù lại đầy đủ.
Trong lúc đƣơng thực hiện kế hoạch trên thì đƣợc chỉ thị của Bộ Chỉ huy
mặt trận là phải thanh toán kho T-50 đổi lại địa điểm giao nhận xuống T-100 và cắt
cho tuyến trên 40 xe từ 29/4 để di chuyển hết khối lƣợng ở T-50 lên hỏa tuyến.
Kế hoạch vận chuyển vì vậy phải thay đổi, khả năng kho T-100 trƣớc kia là
kho dự trữ, nay mỗi ngày không thể nào nhận đủ số 100 tấn, việc làm kho trở nên
cấp thiết, nhƣng trái lại, dân công địa phƣơng lại có hạn nên mất đến 100 ngày sau
424
mới xây dựng thêm đƣợc kho lán. Địa điểm trú xe trƣớc cũng không đƣợc đặt ra
với một số xe lớn, nay cũng thành một vấn đề quan trọng.
Vì vậy, nên trong thời gian sau (vì rút 56 xe và một số phải do các cung
dƣới) đến ngày 5/5 đã thực hiện đƣợc:
Gạo: 1.045 tấn (thiếu 52 tấn)
Thức ăn khô: 34 tấn (thiếu 36 tấn)
Muối: 12 tấn (cộng với 2 tấn thừa đợt trƣớc, so với nhƣ cầu thiếu 11 tấn 1
nhƣng ở tiền phƣơng đã có chỉ thị là đình chỉ việc chở muối).
Đƣờng: 5 tấn cộng với 10 tấn đợt trƣớc, so với nhu cầu thiếu 4 tấn 7.
Thịt: 43 tấn so với nhu cầu 70 tấn, thiếu 27 tấn.
Kinh nghiệm kế hoạch này cho ta thấy thêm tính chất linh hoạt của chiến
trƣờng, các kho tàng, tuy đƣợc thiết lập nhƣng không thể nào cố định đƣợc mà
luôn luôn phải thay đổi. Vì tình hình địch ta, và thời tiết. Vì vậy, đối với những
chiến dịch to lớn và lâu dài thì về mặt tƣ tƣởng phải thông cho cán bộ có tƣ tƣởng
lâu dài, chuẩn bị đầy đủ đề phòng mọi bất trắc xảy tới, về mặt tổ chức thì ở các địa
điểm thích hợp nhu cầu gần suối luôn luôn cần có kho và lực lƣợng dự trữ, ở
những kho đã thiết lập sẵn thì có thể điều hòa đƣợc kế hoạch, khỏi tình trạng bị
đông, lúng túng, lãng phí thời gian của xe cộ.
Điện Biên đại thắng dự kiến trƣớc những tƣ tƣởng mãn cuộc chờ trên chủ
quân sẽ xảy tới, Hội đồng đã đề ra kế hoạch và công tác chính trị và công tác
chuyên môn nhƣng tƣ tƣởng chủ quan vẫn bộc lộ rõ rệt trong kế hoạch hội quân.
Đang tiếp tục hoàn thành nhu cầu tháng 5 và thực hiện nhu cầu tháng 6, thì
đƣợc tin đại thắng Điện Biên Phủ, Hội đồng đã kịp thời nhận định tình hình là,
địch thù sẽ tăng cƣờng phá hoại đƣờng hội quân, lại gặp đến thời kỳ mƣa lũ sẽ gây
rất nhiều khó khăn cho chúng ta. Bộ đội đã tiêu diệt toàn bộ địch ở Điện Biên.
Nhiệm vụ Hội đồng hiện nay là phải khuyếch trƣơng thắng lợi ấy, đảm bảo đầy đủ
cho kế hoạch Hội đồng. Hội đồng cử các phái đoàn xuống các đơn vị giải thích và
động viên thi đua cùng giúp các đơn vị và các Trạm thực hiện kế hoạch chống địch
và chống mƣa lũ.

425
Đƣờng 13, sau lúc hoàn thành kế hoạch hội ở các Trạm đã cho tổ chức liên
hoan rút quân, tổng kết và đi vào nề nếp thƣờng xuyên, ở đƣờng 41 vì còn phải vận
chuyển một khối lƣợng dự trữ cho thƣơng binh và đơn vị, nên vẫn tiếp tục vận
chuyển nhƣng đồng thời tranh thủ tổng kết. Trong lúc tiếp tục thực hiện kế hoạch,
Hội đồng đặt trọng tâm là vấn đề tổng kết, cũng do đây và do tƣ tƣởng chủ quan,
thấy một số lớn bộ đội đã về, pháo đã qua, nên tƣ tƣởng chủ quan lại bộc lộ rõ rệt
trong việc làm kho dự phòng, đảm bảo giao thông và cơ giới bị địch phá hoại liên
tiếp, đƣờng tắc nhiều đêm liền, một số cán bộ đâm ra tiêu cực. Cũng vì vậy, đến
nay kế hoạch hội quân đã thực hiện đƣợc: Gạo 1794T, Thịt 109T997, thức ăn khô
151T, muối 33 T, đƣờng 16T8, các thức ăn đều vƣợt mức yêu cầu, trừ gạo còn
thiếu hơn 390 tấn (nhu cầu mới) ở T-100, Chẹn, Sơn La.
Kinh nghiệm đợt này cho chúng ta thấy việc đảm bảo kế hoạch hội quân lại
phức tạp nhiều hơn kế hoạch hành quân.
Địch sẽ tăng cƣờng phá hoại nhiều hơn, chúng đã ném liên tiếp mỗi ngày
trên 100 quả đến 160 quả bom, 170 quả. Hơn nữa, có rất nhiều vấn đề phức tạp sẽ
đề ra nhƣ vấn đề thƣơng binh, vấn đề dân công, nhu cầu cũng vì đó thay đổi luôn.
Vì vậy, trong kế hoạch hội, chúng ta không nên sợ thừa gạo, thừa thức ăn, thừa dân
công. Mà cần phải có một số dự trữ đầy đủ, để cung ứng kịp thời cho nhu cầu cấp
bách - có nhƣ vậy mới đảm bảo đƣợc tránh lãng phí, về kế hoạch mới bảo đảm
đƣợc kết quả.
Một kinh nghiệm thứ hai thì việc hội quân của quân sự cần phải kết hợp chặt
chẽ với việc bảo vệ tuyến của Hội đồng - lần này chúng ta thấy việc hội quân, tổ
chức lộn xộn, tù binh ngổn ngang dọc đƣờng, thiếu ngƣời trông coi, một số lớn bỏ
trốn bị bắt ở các trạm làm lộ các địa điểm, gây cho phi cơ oanh tạc - Hội đồng đã
dự kiến trƣớc, đặt các kho cấp phát riêng biệt, xa trạm, tổ chức đƣờng tránh.
Nhƣng tình trạng lộn xộn vẫn còn thiếu, vì không có kết hợp và không có ngƣời có
quyền hạn điều khiển.
Việc bố trí hội quân của quân sự, vì vậy muốn tránh khỏi thiệt hại chung,
phải quy định cụ thể hơn và phải có một bộ phận quân sự phụ trách đến hoàn toàn
kết thúc kết hợp chặt chẽ với bộ phận công an của Hội đồng.
426
Trải qua gần 8 tháng từ 29/10 đến nay, chúng ta ở tuyến đã trải qua nhiều kế
hoạch vận chuyển trừ thịt và thức ăn khô, có nhiều kế hoạch bị chậm trễ vì các địa
phƣơng huy động không kịp, nhƣng nói chung các kế hoạch đều đạt mức và yêu
cầu của Quân sự (trừ kế hoạch 1.200 tấn).
- Về gạo: chúng ta đã vận chuyển đƣợc: 5.614 tấn
Thực hiện kế hoạch hội: 1.794 tấn còn thiếu 330
nhu cầu thƣờng xuyên.
Cấp phát cho bộ đội trên tuyến Hội đồng 1.090 tấn
huy động giao cho quân sự tại phía bắc Sơn La 3.612 tấn
12.110 tấn
- Thức ăn khô: Đã chuyển vận đƣợc giao đến 31/4 512 tấn
- Đƣờng đã giao đƣợc 61 tấn
- Muối 259 tấn
- Thịt 570 tấn
Ngoài ra, chúng ta đã giao cho Tổng cục Cung cấp: 25.155 dân công bộ,
2.724 xe đạp.
Để thực hiện nhu cầu trên chúng ta đã huy động:
Gạo: 16.044 tấn hao hụt tại kho 93 tấn, chƣa kể hao hụt vận chuyển.
Đƣờng: 64 tấn (hao hụt 3.841)
Thịt: rơi rớt dọc đƣờng 719 con còn đến địa điểm Sơn La giao quân sự 5.504
con.
Muối: 260 tấn, hao hụt 1 tấn 151.
Chúng ta đã huy động kể cả hỏa tuyến và nhu cầu Hội đồng:
- Dân công: 36.547
- Xe đạp: 10.570 chiếc
- ô tô: 139 (riêng xe hội đồng lúc nhiều nhất).
- Chủ lực cầu đƣờng: 1.722 ngƣời
- Thanh niên xung phong: 2.822 ngƣời.
Ngoài ra, chúng ta còn huy động nhiều đợt dân công địa phƣơng từng đợt
làm kho lán, làm trạm trú quân, và tạm thời bốc vác mà đến nay chúng ta chƣa
427
thống kê đƣợc. Chúng ta đã sử dụng: 950 cán bộ chƣa kể bảo đảm giao thông trong
đó có 286 cán bộ trong biên chế và 664 trƣng tập. Nếu kể các Bảo đảm giao thông
thì số cán bộ 1.340 ngƣời.
Với khả năng trên chúng ta đã vận chuyển 1.486.734 T/km, phân tích:
- Vận chuyển bằng ô tô 1097.520 tấn/km: Do xe quân sự 335.040, xe Hội
đồng 762.474
- Vận chuyển bằng xe đạp: 369.128
- Bằng dân công bộ: 17.599
- Linh tinh xe ngựa, trâu: 2.456
Số nhật công chúng ta đã sử dụng:
- Cầu đƣờng: 1.311.000 nhật công
- Vận chuyển xe đạp: 681.455 nhật công.
- Vận chuyển dân công bộ: 131.757 nhật công.
- Vận chuyển ô tô: 12.141 nhân công xe.
Kho lán: 93.882 nhật công.
Đặc điểm nhất trong chiến dịch này là khối lƣợng vận chuyển bằng cơ giới
choán đến hơn 70% khối lƣợng vận chuyển toàn tuyến, nhờ đấy nên chúng ta đã
bớt đƣợc nhiều dân công bộ, đỡ một số gạo rất lớn cho nhu cầu của Hội đồng.
So sánh với các chiến dịch trƣớc, đê chuyên chở 100 tấn đi 100 cây số, bằng
dân công bộ chúng ta phải mất trung bình 100 tấn nữa. Tuyến của chúng ta lần này
hơn 200 cây số để chuyên chở 5.614 tấn gạo và hàng ngàn tấn thức ăn khô cộng
với một số […] trạm cho nhu cầu Hội đồng mà chúng ta chỉ sử dụng hết 2005 tấn
gạo. Đó là một kết quả to lớn nhờ chúng ta đã sử dụng cơ giới – và nhờ chúng ta
cũng đã cố tâm tranh thủ dùng xe đạp và đặt mức tăng năng suất lên cao độ.
Có đƣợc những kết quả trên là nhờ tinh thần anh em cán bộ nói chung trong
suốt chiến dịch đều tích cực, cố gắng mặc dầu chƣa có kinh nghiệm (trừ một số
không an tâm công tác và ngại khó) và đối với dân công thì nhờ đã kết liền hậu
phƣơng với tiền tuyến, nhờ đƣợc phát động tƣ tƣởng, lại đƣợc bồi dƣỡng kịp thời
nên đã hăng hái thi đua hoàn thành nhiệm vụ.

428
Ngoài ra, cũng nhờ sự tận tâm làm việc của các ngành xung quanh Hội đồng
đã giúp đỡ Hội đồng nhiều sáng kiến trong công việc lãnh đạo, và đã thực sự đi sâu
xuống các trạm để giải quyết nhiều công việc.
1/ Ngành Công an:
Trong suốt thời gian chiến dịch đã bảo vệ đƣờng vận chuyển, kết hợp với tổ
chức địa phƣơng khám phá ra nhiều vụ biệt kích, bắt đƣợc 5 vụ. Ngoài ra đã cùng
các cán bộ trạm các Ban Cán sự Tỉnh theo dõi hành động tụi ngoan cố trong hàng
ngũ dân công, cũng nhờ vậy đã giúp cho Ban Công tác chính trị của trạm trấn áp
kịp thời nhiều hành động phá hoại. Nhƣng một khuyết điểm nhất của ngành là tình
hình nắm không đƣợc kịp thời, thiếu cụ thể. Ngoài ra, đối với các kế hoạch báo
hiệu cho xe cộ, bảo vệ kho tang tuy có kế hoạch nhƣng việc đôn đốc thực hiện
cũng thiếu đến nơi đến chốn. Việc giữ trật tự trên tuyến cũng chƣa thành quy củ và
thiếu kết hợp với quân sự trong lúc hội quân.
2/ Ngành thực phẩm:
Mới ra đời từ tháng 12, vì nhu cầu công tác. Ngoài công việc theo dõi việc
nhận thịt, thức ăn khô, muối của các địa phƣơng ở đầu tuyến, việc vận chuyển lên
hỏa tuyến, Ban Thực phẩm lại còn nhiệm vụ tiếp phẩm để cải thiện sinh hoạt cho
an hem cán bộ công nhân viên và dân công trên tuyến.
Nhƣng vì tổ chức mới thành hình, công việc lại phức tạp nên suốt trong thời
gian nó chƣa làm tròn nhiệm vụ, nhất là trong vấn đề nắm tình hình cụ thể.
Việc tiếp phẩm lại không cung đúng theo yêu cầu của quần chúng nhằm mục
đích cải thiên sinh hoạt cho số đông ngƣời mà thu mua cá hộp, thịt hộp, tốn nhiều
tiền mà ít ngƣời có đủ tiền để sử dụng - giá cả định ra quá cao với các giá thị
trƣờng.
Ngành Y tế:
Trong suốt thời gian chiến dịch cũng đã cố gắng rất nhiều trong việc điều trị,
tỷ số ốm đau đối với xe đạp trung bình là 11,3% đối với dân công bộ là 20% vẫn
còn nhiều. Đó là do quan niệm về phòng bệnh còn thiếu sót, chƣa đặt thành một
vấn đề quan trọng ngay từ lúc bắt đầu lên tuyến.
Việc tổ chức các bệnh xá chƣa đƣợc hợp lý.
429
Bệnh xá Long đã ở quá xa trạm vì không tới kịp T-60 nên đã có thời kỳ rất
lúng túng về vấn đề cung cấp. Thêm vào đấy việc lãnh đạo tƣ tƣởng cho bệnh nhân
cũng không đƣợc chăm sóc chu đáo. Các trạm xá đã thay đi đổi lại nhiều lần, cần
phải có tổ chức thích hợp để thu dụng các bệnh nhân của dân công xe đạplúc hành
quân ở các cung độ.
Ngành kho thóc:
Trong 8 tháng vừa qua đã nêu cao đƣợc vai trò nghiệp vụ, bảo đảm chất
lƣợng gạo tƣơng đối tốt và ít hao hụt nhƣng vấn đề theo dõi gạo dọc đƣờng còn
lúng túng chƣa kịp.
Việc chuẩn bị kế hoạch chống mƣa chƣa làm đến nơi đến chốn, (Kho T-42
đã bị đốt) ngoài ra việc xây dựng kho và đƣờng vào kho chƣa thích hợp với kế
hoạch vận chuyển. Cơ giới cũng chƣa có kinh nghiệm về kế hoạch cụ thể. Việc chỉ
đạo bốc vác ở T15 tƣơng đối có kết quả (1 xe thời gian 4 phút). Nhƣng ở T-42 và
T-105 thì lại quá chậm chạp, có lúc xe phải chờ đến 5, 6 giờ.
Một điều đáng chú ý hơn hết của cán bộ Kho thóc là tƣ tƣởng ban ngành
dọc. Vì vậy, đã xảy ra tình trạng nhiều lúc cấp phát không kịp thời làm lãng phí
nhân công và chậm trễ kế hoạch.
Những tƣ tƣởng trên cũng cần đƣợc cải tạo để cho hợp với tính chất của
chiến trƣờng mạnh và nhanh.
Ngành Bƣu điện:
Trong thời gian vừa qua, ngành Bƣu điện cũng đã có nhiều cố gắng, công
văn hỏa tốc về hậu phƣơng và đi các trạm đƣợc đều đặn, các đƣờng dây cần thiết
đã đƣợc mắc hơn 252 cây số điện thoại lúc bình thƣờng đƣợc thông suốt. Nhƣng vì
tƣ tƣởng trong thời kỳ đầu thấy mỗi công việc đều thông suốt, nên chủ quan cán bộ
không cần xin thêm, nên đến lúc vào giai đoạn quyết liệt, công việc tăng gấp hai,
ba lần, lại bị địch phá hoại, kết hợp với mƣa lũ thành ra lúng túng có nhiều điện từ
T-20 đến T-100 mất đến 5 ngày, ảnh hƣởng đến công việc chỉ đạo rất nhiều. Nhiều
điện lại sai nội dung, làm cho Hội đồng nắm không đúng tinh thần của bức điện, về
việc bố trí cán bộ ở tuyến cũng chƣa hợp lý.

430
Ngành tuyên huấn: Đã cố gắng nhiều trong công việc chính trị động viên
trong việc phát hành báo chí – từ tổ chiến sĩ dân công đến tổ phục vụ tiền tuyến đã
xuất bản đƣợc 41 số nhƣng trong việc giáo dục tƣ tƣởng cho cán bộ và công nhân
viên, dân công thì còn thiếu sót rất nhiều, tác phong làm việc thƣờng thiên về văn
phòng, nghiên cứu hơn là đi sát cơ sở. Hình thức chính trị giáo dục thì nặng nề
không thích hợp với hoàn cảnh chiến trƣờng, hoàn cảnh luôn tinh thần căng thẳng.
Ban Bảo đảm giao thông:
Cán bộ chiến sĩ đều tích cực nhƣng chủ quan với những kết quả lúc hành
quân, nên trong suốt thời gian 3, 4 tháng đã rút một số quân đi làm công trƣờng
mới mà không chú ý chuẩn bị chu đáo để đề phòng lúc mƣa lũ, vì vậy, trong thời
gian gần đây đã nhiều ngày bị tắc nghẽn. Đến lúc này, một số cán bộ sinh ra tiêu
cực thiếu quyết tâm.
Một điểm nữa là ngành chƣa nắm vững đƣợc quy luật phá hoại của địch
trong chiến dịch nên việc bố trí lực lƣợng quá sơ sài, không bảo đảm đƣợc đƣờng
thông suốt lúc cần thiết. Việc tổ chức Ban Bảo đảm giao thông thuộc địa phƣơng
phụ trách, tuy có nhiều điểm thuận tiện, nhƣng rất cản trở cho việc chỉ đạo của Hội
đồng trên tuyến.
Ban Vận tải tiền phƣơng:
Tuy mới thành lập, cán bộ góp nhặt ở nhiều cơ quan, lúc đầu tiên còn lúng
túng, dần dần đã đi vào nền nếp, đã theo dõi đƣợc xe cộng xăng dầu vv…
Nhƣng việc nắm tình hình xe còn quá chậm, lúng túng, nhất là lúc thích ứng
với yêu cầu cấp bách của chiến dịch trong tháng 4.
Những công tác nghiệp vụ nhƣ Barriere, trú quân, cung độ cũng cần phải
xây dựng về nghiệp vụ rất nhiều, hơn nữa, để sau này tranh thủ đƣợc cung độ,
tránh lãng phí thì giờ chết, và cần phải phổ biến kịp thời cho cán bộ.
Riêng bản thân Hội đồng: thì trong quá trình công tác vừa qua, về mặt lãnh
đạo tƣ tƣởng, tổ chức và chỉ đạo kế hoạch đã trải qua nhiều thời kỳ có nhiều tiến
bộ, từ chỗ ít chú ý đến tƣ tƣởng cán bộ công nhân viên và dân công đến chỗ có kế
hoạch học tập, liên hệ kiểm thảo phát động tƣ tƣởng, từ chỗ không chỉ đạo thi đua
đi đến chỗ gây đƣợc một phong trào thi đua sôi nổi, có nhiều cá nhân xuất sắc và
431
chiến sĩ xuất hiện, từ chỗ ít chú ý lãnh đạo tổ chức đi đến chỗ giúp đỡ nhiều ý kiến
trong vấn đề tổ chức cung độ, các trạm vv… và trong thời kỳ gần đây đã chỉ đã chỉ
đạo chặt chẽ kế hoạch vận chuyển.
Tuy vậy, kiểm điểm về mặt lãnh đạo tƣ tƣởng các chính sách tổ chức và kế
hoạch Hội đồng vẫn còn nhiều thiếu sót cần đƣợc sửa chữa.
1) Về mặt tƣ tƣởng thì:
a/ Chính bản thân Hội đồng, Ban cán sự tiền phƣơng lúc đầu tiên cũng chƣa
nhìn nhận đúng tính chất lâu dài và liên tục của chiến dịch Điện Biên. Cũng vì vậy
nên lúc đầu lên tuyến, việc tổ chức quá đơn giản, không đủ cung ứng với nhu cầu
một ngày một to lớn. Cũng do đó nên ảnh hƣởng đến tƣ tƣởng một số cán bộ công
nhân viên trong công tác hàng ngày.
Cũng vì vậy cho nên việc dự trữ lực lƣợng không đƣợc đề ra đầy đủ, lúc cấp
bách không giải quyết kịp thời. Mới sụt mức 130 tấn trong kế hoạch 1.200 tấn mà
ở tiền phƣơng đã phải rút khẩu phần của một số đơn vị.
b/ Trong lúc kế hoạch thông suốt thì chủ quan, không lƣờng đƣợc những khó
khăn sắp tới (nhƣ mƣa lũ, địch phá lúc hội quân, vấn đề thiếu xe cộ vv…) cũng vì
vậy, chƣa có kế hoạch cụ thể để đề phòng. Hoặc giả lúc đã có dự kiến những tƣ
tƣởng phát sinh ra trong lúc hội quân, nhƣng việc kiểm tra đôn đốc cũng chƣa thật
đến nơi đến chốn, sau đấy, thấy kế hoạch gần hoàn thành lại bỏ lửng.
c/ Việc theo dõi tƣ tƣởng của cán bộ công nhân viên ở các ngành, trạm ít
đƣợc chú ý bằng theo dõi tƣ tƣởng dân công và các Trạm. Phòng tổ chức Cán bộ
của hội đồng chƣa làm đầy đủ nhiệm vụ của họ (trong suốt thời gian chiến dịch chỉ
có một số bằng khen và một vài việc thi hành kỷ luật.
d/ Đối với ngành Bảo đảm giao thông ít chú ý giúp đỡ về mặt công tác chính
trị - chỉ sau này đến cuối tháng 4 mới chú ý giúp đỡ.
đ/ Đối với Cán bộ ít chú ý thi hành kỷ luật để tăng cƣờng giáo dục cùng vì
vậy mệnh lệnh chỉ thị của Hội đồng nhiều lúc không đƣợc thi hành triệt để. Chính
Hội đồng cũng có lúc không phản ảnh đƣợc kịp thời cho Trung ƣơng biết để giúp
đỡ ý kiến.

432
Đối với các cán bộ trung lập Hội đồng cũng đã có đặt thành vấn đề giáo dục
ý thức tinh thần của ngƣời cán bộ phục vụ chiến dịch nhƣng sau đó ít theo dõi, để
giúp đỡ tiến bộ thêm.
Sở dĩ có những thiếu sót trên vì chƣa nhận thức đƣợc tính chất của các chiến
dịch hiện thời, chƣa nhìn trƣớc đƣợc những diễn biến về tƣ tƣởng của Cán bộ công
nhân viên và dân công.
Cuộc kháng chiến của chúng ta hiện nay đã trƣởng thành mau lẹ, các chiến
dịch của chúng ta hiện nay có tính chất linh hoạt cơ động và liên tục. Những tình
trạng, tăng khối lƣợng thay đổi địa điểm, kéo dài thời gian phục vụ, luôn luôn có
trong chiến dịch. Vì vậy trong tƣ tƣởng phải có một quan niệm cho dứt khoát, để
quyết tâm phục vụ chiến dịch trừ những tƣ tƣởng ngại khó, sợ địch, cố chấp làm
cản trở kế hoạch quân sự.
Hơn nữa tuy tổ chức là Hội đồng Cung cấp nhƣng công tác phục vụ là phục
vụ chiến dịch, phục vụ bộ đội tác chiến, tuyến là một chiến trƣờng – cán bộ công
nhân viên đều phải có tinh thần chiến đấu tích cực, luôn luôn phấn đấu để hoàn
thành nhiệm vụ - phải có tinh thần triệt để chấp hành chỉ thị của trên. Đó là kỷ luật
của Đảng, của Chính phủ mà lại là kỷ luật của tuyến nữa. Những cán bộ của chúng
ta vì quen theo tƣ tƣởng hậu phƣơng, tác phong lúc thời bình, lên đến tuyến cần
xây dựng ngay tƣ tƣởng khẩn trƣơng, tích cực, triệt để chấp hành mệnh lệnh.
Ngoài ra cũng cần phải nhìn trƣớc đƣợc diễn biến tƣ tƣởng của cán bộ và
dân công từ lúc lên tuyến và lúc ra về để có kế hoạch giáo dục cho thích đáng.
Bắt đầu lên tuyến vì quen với cách sinh hoạt và làm việc ở hậu phƣơng, nên
một số cán bộ đã chủ quan trong vấn đề hành trú quân. Đó là do chủ quan một
phần nhƣng một phần do tƣ tƣởng ngại khó, ngại khổ. Đến lúc bị oanh tạc dễ sinh
ra tiêu cực hoang mang.
Đối với dân công những lúc bắt đầu lên tuyến, vấn đề thắc mắc đầu tiên là
vấn đề thanh toán cƣớc phí và giúp đỡ sản xuất ở gia đình. Nếu lúc ra đi đƣợc giải
quyết dứt khoát, thì dân công sẽ an tâm phục vụ. Nếu đến tuyến lúc đón tiếp đƣợc
học tập chính sách và chế độ thù lao cƣớc phí và thanh toán ngay những ngày đi
đƣờng thì dân công sẽ phấn khởi và tin tƣởng. Những thắc mắc của anh em nếu
433
đƣợc giải quyết kịp thời, thì những lời tuyên truyền và tuyên bố sau này của cán bộ
sẽ đƣợc anh chị em coi trọng và tuân theo dễ dàng.
Trong quá trình phục vụ nếu công việc trôi chảy dễ sinh ra chủ quan, tự
mãn, thiếu cảnh giác, đề phòng vì vậy luôn luôn nhắc nhở đến những khó khăn sắp
tới. Công tác giáo dục phải làm thƣờng xuyên và lấy những chứng cớ cụ thể để
chứng minh mới có kết quả tốt.
Đối với dân công sau một thời gian phục vụ, gặp tết hay đến vụ mùa, nhất
định sẽ nảy nở tƣ tƣởng muốn về hậu phƣơng để tăng gia – kết hợp đƣợc hậu
phƣơng với tiền tuyến – có phái đoàn hậu phƣơng ra báo cáo tình hình sản xuất ở
nhà thì anh chị em sẽ phấn khởi. Những đại biểu ở hậu phƣơng phải là những đại
biểu xã hiểu rõ tình hình địa phƣơng mới có tác dụng.
Hơn nữa kết hợp đƣợc vấn đề kiểm thảo ở hậu phƣơng với phát động đƣợc
tƣ tƣởng ở tiền tuyến thì sẽ đẩy mạnh đƣợc phong trào dân công, dân công sẽ an
tâm phục vụ (kinh nghiệm ở Bắc Giang và Phú Thọ). Việc thƣởng năng suất cần
đƣợc kịp thời, việc bồi dƣỡng chiến sĩ cần đƣợc đề cao. Việc tuyên truyền động
viên đƣợc nhanh chóng thì nhất định một phong trào tăng năng suất sẽ xuất hiện.
Cũng nhờ vậy, nên trong thời gian vừa qua chúng ta đã có những chiến sĩ xe thồ,
thồ 306 cân, nhƣ những chiến sĩ dân công bộ vác 97 cân, trung bình cả đơn vị vác
57 cân.
Lúc đã kết thúc chiến dịch thƣờng có tƣ tƣởng chợ chiều, đa đam cần đả
thông thật kỹ càng chu đáo.
Đối với cán bộ trƣng tập thì thƣờng có hai tƣ tƣởng: muốn lên hỏa tuyến
hoặc muốn đi phát động quần chúng cải cách ruộng đất – cho mấy công việc trên
quan trọng hơn công việc phục vụ tiền tuyến. Việc học tập ý nghĩa của tuyến, cần
có kế hoạch cụ thể và đả thông kỹ càng.
Một tƣ tƣởng hay xuất hiện nữa là sợ dân công xe đạp. Lãnh đạo tƣ tƣởng
dân công xe đạp là một vấn đề hết sức phức tạp, vì dân công xe đạp không thuần
túy, lại là một tổ chức hỗn hợp. Vì vậy trƣớc lúc phái xuống, công tác chính trị
trong các đại đội dân công xe đạp phải nhận rõ tính chất phức tạp trên, nhƣng đồng
thời phải lấy những dẫn chứng cụ thể để chứng minh là rất có thể là phải phát động
434
tinh thần thi đua của xe đạp (kinh nghiệm đợt thi đua đột kích). Những lúc cán bộ
thiếu tin tƣởng vào khả năng của mình thì cấp chỉ đạo phải tới tận nơi giúp đỡ và
giải quyết khó khăn lấy những kết quả cụ thể để chứng minh (kinh nghiệm vận
động dân công ở lại). Muốn dẫn đến kết quả tốt cần đề ra việc học tập tình hình và
nhiệm vụ trƣớc. Thông suốt đƣợc hai vấn đề trên thì đến lúc thảo luận đến chủ
trƣơng thì rất ít thắc mắc. Trái lại nếu đem chủ trƣơng ra thảo luận trƣớc thì sẽ rơi
vào chỗ bí phải giải đáp liên miên.
Về mặt chấp hành các chính sách quan trọng nhƣ chính sách cán bộ, dân
công, chính sách kinh tế tài chính thì lần này Hội đồng cũng đã thu đƣợc nhiều tiến
bộ trong kết quả công tác với những số liệu cụ thể đã kể trên.
Tuy vậy cũng còn nhiều thiếu sót và cũng còn nhiều vấn đề cần đề xuất để
đƣợc giải quyết bổ sung thêm cho chính sách cụ thể.
a/ Về chính sách cán bộ thì trong việc sử dụng có nhiều trƣờng hợp chƣa
đƣợc hợp lý vì chƣa theo dõi đƣợc tận địa phƣơng thêm vào đó vì lúc bắt đầu lên
tuyến, số cán bộ thiếu nhiều nên thiêu đâu điều đấy, của ngành này đƣa sang ngành
khác không hợp với khả năng vì vậy cán bộ không phát huy đƣợc sở trƣờng của
mình.
Đến lúc đƣợc thêm một số cán bộ phát động quần chúng và cải cách ruộng
đất của Trung ƣơng cho thì tuy số lƣợng có nhiều, nhƣng khả năng một số không
thích hợp ở tuyến, nên lúng túng trong việc sử dụng nên đã phân phối cho các
ngành, các trạm thiếu một kế hoạch cụ thể. Có trạm có nhiều công việc cán bộ dẫm
đạp lên nhau.
Có tình trạng nhƣ trên vì một mặt thiếu kế hoạch sử dụng nhƣng một mặt vì
chƣa nhìn thấu nhu cầu cụ thể của các ngành, các trạm, và trƣớc lúc phân phối
cũng cần có kế hoạch và có giao nhiệm vụ cụ thể.
Số cán bộ kiểm tra tuyến đặt của Hội đồng cũng không có kế hoạch tỷ mỹ,
cụ thể, thời gian nhất định nên có một số cán bộ đi kiểm tra tuyến đặt về chậm
hoặc hết chiến dịch chƣa về, làm cho Hội đồng nắm đƣợc tình hình chậm, khó
khăn trong việc lãnh đạo.

435
Tình trạng trên một phần do khuyết điểm của Hội đồng, một phần do tƣ
tƣởng thiếu chấp hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh của cán bộ, mặc dù Hội đồng đã
có nhiều điện triệu tập để báo cáo.
Về phƣơng diện đào tạo và đề đạt cán bộ thì Hội đồng chƣa chú ý đến nơi
đến chốn, các cán bộ lúc mới lên tuyến có đƣợc đả thông thắc mắc, học tập ý nghĩa
mục đích chiến dịch, đả thông tác phong và tinh thần làm việc ở tuyến, nhƣng sau
đó ít giúp đỡ ý kiến để xây dựng nghiệp vụ. Những cuộc Hội nghị để kiểm điểm
công tác, rút kinh nghiệm ít đƣợc tổ chức.
Việc đề bạt cán bộ cũng ít đƣợc chú ý. Việc khen thƣởng có chú ý việc thi
hành kỷ luật để tăng cƣờng giáo dục cho cán bộ thì còn xem nhẹ.
Do cũng tỏ rõ tinh thần tạm bợ, biết sử dụng không biết bồi dƣỡng, đào tạo
cán bộ trong phong trào.
Công tác ở tuyến rất vất vả, làm việc suốt ngày đêm, tinh thần luôn luôn
căng thẳng, Hội đồng đã đề nghị và tạm thời áp dụng chế độ làm đêm, nhƣng lúc
Bộ Tài chính bác bỏ thì lại chƣa đề ra đƣợc một chế độ thƣởng năng suất cho cán
bộ. Vì vậy tuy trong chiến dịch đa số cán bộ hào hứng trong công việc, nhƣng đời
sống vật chất cũng ảnh hƣởng đến một phần tinh thần của anh em.
Trải qua thời gian phục vụ chiến dịch Điện Biên, chúng ta thấy rõ rằng công
tác ở chiến dịch rất phức tạp và rất nặng nề, tinh thần luôn luôn căng thẳng, luôn
luôn phải có tinh thần khẩn trƣơng chiến đấu. Tính chất phục vụ chiến dịch chẳng
những đòi hỏi một tinh thần cao, chịu khó, chịu đựng gian khổ, nhƣng một mặt
khác đòi hỏi cán bộ có một trình độ nghiệp vụ tƣơng đối đầy đủ mới hoàn thành
đƣợc nhiệm vụ.
Những số cán bộ của vận tải, kho thóc, y tế, thực phẩm, công an, bƣu điện,
giao thông đi phục vụ tuyến nên đƣợc chuyên nghiệp. Có nhƣ vậy những kinh
nghiệm thu lƣợm đƣợc trong chiến dịch trƣớc mới áp dụng kịp trong chiến dịch
sau. Trái lại, một số cán bộ là cán bột trƣng tập, gặp đâu làm đấy, lên tuyến nhất
định bỡ ngỡ và ảnh hƣởng đến kế hoạch.
Cán bộ ở tuyến phải là cán bộ khá, có tinh thần nghiệp vụ, cần chất hơn là
lƣợng, có nhƣ thế mới đỡ tốn phí, mới đỡ tài sản của nhân dân, trái lại lấy số lƣợng
436
nhiều bù chất lƣợng thì số ngƣời đông, gạo cơm tốn nhiều, vận chuyển phải tăng
thêm, ảnh hƣởng chẳng những ở tuyến mà ở hậu phƣơng nữa.
Một vấn đề nữa cần đƣợc đề ra để nghiên cứu là vấn đề bồi dƣỡng cho cán
bộ ở tuyến về năng suất, cán bộ cũng cần có chế độ thƣởng năng suất, có nhƣ vậy
mơi đẩy mạnh đƣợc tinh thần thi đua của cán bộ.
2/ Về chính sách dân công: Thì trong chiến dịch này, tƣơng đối chúng ta
dùng ít dân công, phần lớn dân công vận chuyển là dân công xe đạ và dân công
bốc vác kho lán.
Đối với dân công vận chuyển xe đạp và bộ thì nhờ thƣởng năng suất kịp
thời, thƣởng đối với cá nhân, nên đã đẩy mạnh đƣợc phong trào thi đua. Chúng ta
lại đã đề cao đƣợc chiến sĩ, đƣa chiến sĩ đi phổ biến những kinh nghiệm mới mẻ
cho các địa phƣơng, nên càng thúc đẩy đƣợc phong trào thi đua tăng năng suất
(Hội đồng cho chiến sĩ bốc vác bộ ở Đèo Dao đi T-105 và Thanh Hóa, phổ biến
kinh nghiệm và thu đƣợc nhiều kết quả). Nhƣng đối với dân công bốc vác, đào
hào, đảm bảo giao thông, chƣa quy định đƣợc tiêu chuẩn công tác nên các ngành
rất lúng túng trong việc thƣởng năng suất.
Có trạm, ngành lại thƣởng theo giờ làm việc mà không chú ý đến khối lƣợng
công việc. Có trạm lại hạ tiêu chuẩn để thƣởng năng suất làm cho 1 số dân công
khác phân bì, có cơ quan lại trả công tác phí cho dân công. Nhƣng tình trạng thực
hiện chế độ không thống nhất cần đƣợc chấm dứt. Đó là vì cán bộ chƣa đƣợc học
tập chính sách và điều lệ dân công.
Một khuyết điểm nữa là trƣớc kia chúng ta không quan niệm đúng tính chất
của dân công dắt trâu bò, coi đó là việc nhẹ nhàng. Trái lại công việc chăn dắt trâu
bò là một công việc phức tạp, cần có tinh thần kiên nhẫn, ái mộ của công, cần làm
việc cả ngày lẫn đêm (đêm dắt, ngày chăn cho ăn cỏ). Vì vậy, việc bồi đƣỡng cho
dân công trâu bò hoặc thƣởng năng suất cho dân công trâu bò cũng cần phải đƣợc
thảo luận lại.
Ở một số ngành lại chƣa chú ý đến việc cải thiện sinh hoạt của dân công, về
vật chất cũng nhƣ tinh thần – có hạt, để dân công ăn muối suốt tuần lễ, có trạm ít tổ
chức học tập cho dân công, trái lại nhiều trạm đã tổ chức ăn ngủ cho dân công
437
đƣợc chu đáo. Tự trạm tổ chức một phần và hƣớng dẫn dân công tự tổ chức lấy.
Nhờ vậy, dân công rất phấn khởi.
Kinh nghiệm cho ta thấy, lúc dân công đến trạm cao, nếu đã có chỗ trú quân
sạch sẽ, thì họ sẽ xây dựng quy củ thêm và dẫn đến cơ sở sẽ thành đẹp đẽ, sạch sẽ
(nhƣ T-35 dần dần dân công xây dựng thành câu lạc bộ, phòng thông tin, nhà ăn
vv…). Nhƣng trái lại, nếu đến đầu tiên, chỗ ăn, chỗ ngủ lụp xụp mất vệ sinh thì
dân công cũng vì vậy bị ảnh hƣởng và ít chú ý đến việc tự cải thiện sinh hoạt của
mình nữa.
Kinh nghiệm trong chiến dịch này cũng cho ta thấy rằng: một số đông cán
bộ không chấp hành đúng chính sách dân công vì không đƣợc đọc điều lệ dân công
– đến trạm rồi tự ý đặt thành chế độ. Vì vậy, ngoài phần nghiệp vụ, các cán bộ ở
tuyến cần đƣợc học tập, thảo luận về chính sách và chế độ dân công, có nhƣ thế
mới đảm bảo đƣợc chính sách dân công của Đảng và Chính phủ.
3/ Về chính sách kinh tế tài chính:
Từ trƣớc tới nay chƣa đƣợc quy định một chế độ rõ ràng ở trong tuyến, trong
các chiến dịch, mỗi chiến dịch áp dụng một chế độ. Bắt đầu lên tuyến, Hội đồng
căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể đã xây dựng những tiêu chuẩn và chế độ (tiêu chuẩn
hành chính phí, chế độ công tác phí), đặt cƣớc phí cho các chặng đƣờng, quy định
lại việc ghi công và trả cƣớc phí cho dân công và xe tƣ. Cách tính công trong việc
tăng năng suất vv…
Trải qua thời kỳ đầu, thấy ở các ngành, việc chi tiêu, chấp hành chế độ quá
lộn xộn, mắc nhiều sai lầm, nên Hội đồng đã kịp thời triệu tập Hội nghị kế toán các
ngành, để phổ biến thể lệ, hƣớng dẫn vè chuyên môn, nên từ đó về sau mắc ít sai
lầm khuyết điểm.
Một đặc điểm nữa là trong chiến dịch này, các ngành đã quyết toán gần đầy
đủ, chi tiêu đến đâu quyết toán đến đấy, tỏ rõ việc chi tiêu của chúng ta có theo
dõi, và quyết toán đƣợc kịp thời đúng theo yêu cầu về tài chính. Cƣớc phí thanh
toán đầy đủ.
Tuy vậy, vẫn còn nhiều thiếu sót trong lúc cho áp dụng chế độ công tác phí
ở tuyến, thì Hội đồng chƣa đả thông kỹ cho anh chị em công nhân viên nên đã có
438
tình trạng phân bì tuyến với hậu phƣơng mà không biết đến tình hình tài chính
quốc gia nói chung và tình hình anh em bộ đội đi chiến dịch. Điểm này cũng tỏ rõ
việc Hội đồng lãnh đạo tƣ tƣởng công nhân viên chấp hành chính sách kinh tế chƣa
đầy đủ.
Việc quản lý tiêu chuẩn của các Ngành cũng chƣa đƣợc chú ý đặc biệt, chỉ
chi tiêu theo nhu cầu, vẫn có nhiều lúc và vƣợt tiêu chuẩn quá nhiều (nhƣ đều vƣợt
từ 20 đến 80%). Ngoài ra, có trạm lại tự đặt tiêu chuẩn để chi tiêu nhƣ xuất gạo để
nấu nƣớc cho xe thồ, cấp phát thù lao và tiếp tân đoàn đại biểu địa phƣơng lên úy
lạo vv….
Việc quản lý tiền mặt chƣa chặt chẽ. Kho thóc xin một số tiền, chi tiêu từ
đầu đến cuối chiến dịch còn thừa 25%, ngành vận tải trong lúc thiếu tiền trả cƣớc
phí mà các Trạm thƣờng đề ra từ 5 đến 7 triệu để tiếp phẩm, số tiền tạm ứng lên
đến 30 triệu.
Việc quản lý tài sản thì còn hết sức lỏng lẻo, thiếu sót. Những dụng cụ cơ
quan hiện nay, một số chƣa thống kê đƣợc mất mát nhƣ thế nào. Qua những con số
sau đây chúng ta cũng đƣợc những sự lãng phí điển hình.
Kho thóc 213 cán bộ đã mua 330 chiếc đèn lớn nhỏ, hƣ hỏng không dùng
đƣợc 140 chiếc, còn 213 chiếc cán bộ dùng 190 chiếc.
Ngành thực phẩm ở T-105 có 7 ngƣời tự ý mua đến 4 đèn bão mà không cấp
phí.
Ngoài ra lại để mất mát (bị cắp ở T-105 và bị cháy có T-60, Y tế vv…).
Ngoài ra, những con số hao hụt trên tuyến cũng đủ chứng minh phần tổn thất nặng
nề.
- Gạo bảo quản hao hụt: 95T593 tỷ lệ 0,8%
- Thịt hao hụt mất mát: 799 con tức 12,6%
- Thức ăn khô: 13T281 tức 2,5%
- Đƣờng : 3.861 tức 6%
- Muối : 1.151 tác 1%
Trái lại, có một số cán bộ máy móc trong vấn đề chấp hành chính sách chế
độ, Bộ đội và dân công đi qua thiếu gạo, mặc dầu đã có lệnh của Hội đồng và sự
439
can thiệp của Trạm trƣởng, trạm thống nhất nhƣng cán bộ vẫn không chịu cấp phát
viện cớ là không có chỉ thị của ngành dọc sai thể lệ cấp phát của cấp trên.
Chúng ta phải chấp hành đúng chính sách, chính sách dựa trên căn bản lập
trƣờng giai cấp, chính sách là để mƣu lợi ích cho nhân dân, cho cách mạng.
Các thể lệ, chế độ là những chi tiết cụ thể của chính sách. Nó phải phục vụ
cho quyền lợi cách mạng, quyền lợi nhân dân, có thể lệ, chế độ cần đƣợc xây dựng
luôn luôn để bổ sung cho chính sách chứ không phải cố định ở đâu cũng vậy, lúc
nào cũng vậy.
Chúng ta phục vụ ở tuyến là để cung cấp cho bộ đội giết giặc, thì tất thảy
chế độ thể lệ tuyến phải làm thế nào để cho công việc chạy đều đừng cản trở đến
công việc giết giặc.
Bộ đội hành quân cần gạo để ra chiến trƣờng, nếu có lệnh của Hội đồng thì
cần cấp phát không đƣợc chậm trễ, không cấp phát là làm ảnh hƣởng đến tác chiến.
Không có lệnh của ngành dọc, vì ngành dọc làm việc chậm chạp, quan liêu hoặc vì
thông tin liên lạc bế tắc, những sai lầm ấy chúng ta phải tự bản thân kiểm điểm chứ
không đƣợc cấp phát không thể bắt đơn vị chịu.
Không cấp phát nhƣ vậy là máy móc, cục bộ - chúng ta phải triệt để chấp
hành chính sách, nhƣng phải linh động theo đúng yêu cầu của chính sách. Những
thể lệ, thủ tục ở hậu phƣơng nhiều lúc không thích hợp với hoàn cảnh ở tuyến là
nơi công việc rất khẩn trƣơng và đòi hỏi những quyết định kịp thời và dứt khoát –
Những thủ tục và thể lệ này cũng cần đƣợc nghiên cứu lại.
Một khó khăn của chúng ta trong việc chấp hành chính sách kinh tế tài chính
nữa là: cấp phí không kịp thời, vì vậy, thƣởng năng suất cho dân công có lúc làm
không kịp ảnh hƣởng đến kế hoạch.
Một điểm nữa là chúng ta cũng chƣa xây dựng đƣợc một nguyên tắc quy
định giá cả cho đúng.
Đầu tiên, chúng ta áp dụng thời gian chiến dịch đều hƣởng một giá gạo nhất
định không thay đổi, nhƣng thấy không hợp lý, chênh lệch với địa phƣơng rất
nhiều, sau đó, chúng ta áp dụng theo giá địa phƣơng nhƣng thực tế ở tuyến, sinh
hoạt của chúng ta lại theo phạm vi khu vực kinh tế, các trạm, và chẳng áp dụng
440
theo giá địa phƣơng, tháng nào theo tháng ấy, không thi hành đƣợc vì địa phƣơng
quy định giá chậm, tuyến không kịp giả cho công nhân viên và dân công chi tiêu.
Đối với giá thực phẩm, cũng chƣa áp dụng đúng nguyên tắc nhƣ đã quy định
trƣớc, nên có tình trạng lúc hạ hơn giá nơi mua (cá khô) có lúc giá cao hơn cả giá
thị trƣờng nơi tiêu thụ (Đƣờng, bán ở suối Rút).
Có những thiếu sót trên là vì các cán bộ, nhất là cán bộ phụ trách còn xem
nhẹ vấn đề kinh tế tài chính, hơn nữa, tổ chức chƣa ổn định, thủ tục cấp phát chƣa
hợp lý.
Qua quá trình công tác chúng ta thấy đặc tính của tiền phƣơng là khẩn
trƣơng, linh hoạt, kịp thời và bí mật.
Vì vậy :
a/ Về mặt tổ chức, cần thống nhất tập trung chi tiêu vào hệ thống chung của
toàn bộ chiến dịch do Hội đồng quản lý. Có nhƣ thế mới điều chỉnh đƣợc khoản
này qua khoản nọ khi cấp bách. Nếu không thi hành đƣợc nhƣ trên, ngành nào
quản lý ngành ấy thì sẽ xảy tình trạng thừa tiền cứ để lại trong lúc ngành khác
không có để chi tiêu (kho thóc nhận một số tiền dùng suốt chiến dịch còn 25% mà
vận tải thì luôn luôn thiếu tiền). Và cũng có nhƣ vậy thì việc quản lý chi tiêu mới
chặt chẽ. Việc lãnh đạo công tác cần phải đi đôi với lãnh đạo chi tiêu.
b/ Thủ tục cấp phát của ngân hàng, tài chính, kho thóc, mậu dịch phải đơn
giản, dễ dàng để thích hợp với hoàn cảnh hết sức phức tạp của chiến trƣờng.
c/ Nhu cầu luôn luôn thay đổi vì tính chất động của chiến dịch, nếu cho khai
toán, dự toán xong sẽ mất thời gian tính, vì vậy, cần phải có một khoản dự bị phí,
mở một vài khoản ở ngân hàng các tỉnh một mặt để quản lý tiền mặt đƣợc chặt chẽ,
một mặt bảo đảm tính chất bất thƣờng.
d/ Những nhân viên ở tuyến, bất kỳ là địa phƣơng hay của Hội đồng phục vụ
trên tuyến đều là phục vụ cho chiến dịch, căn đều, hƣởng một chế độ nhƣ nhau
theo một giá cả nhƣ nhau. Giá cả nên áp dụng theo một khu vực kinh tế, giá gạo
cần căn cứ vào giá tháng trƣớc mới kịp thời đƣợc.
đ/ Một điểm cuối cùng mà chúng ta cần phát động trong chiến dịch này là
cần phải chuyên môn hóa các bộ phận kế toán. Tình trạng lúc bắt đầu chiến dịch
441
rất lộn xộn, kế toán viên toàn là giáo viên, học sinh, cán bộ, dân công vv…Vì vậy,
việc thanh toán không theo một thể thức, một chế độ nào cả - trải qua một thời gian
khá lâu mới chỉnh đốn đƣợc.
2) Lãnh đạo về tổ chức :
Vì thiếu kinh nghiệm nên suốt thời gian chiến dịch, tiền tuyến đã thay đổi tổ
chứ nhiều lần.
Từ Ban Chỉ huy khu vực C trực tiếp chỉ đạo ban chỉ huy tuyến đến Hội đồng
trực tiếp phụ trách.
Ở trạm thì từ việc thống nhất các đơn vị thành một khối không có sự chỉ đạo
của ngành dọc, đến chỗ đặt tại các trạm cơ sở ngành dọc, mà trạm thống nhất chỉ là
đơn vị điều hòa và kết hợp.
Về Hội đồng thì cũng phải qua thời kỳ chia hai bộ phận ở tuyến và hậu
phƣơng, đến chia thành 3 bộ phận: hỏa tuyến, ở trung tuyến, và ở hậu phƣơng sau
cùng đều lên tuyến cả.
Trừ số của Hội đồng thì tùy theo công tác, lúc đầu đóng ở T-35 đến T-15 sau
dần dần lên đến T-100 để nắm cả hai đƣờng 13 và 41 mà trụ sở các ngành trƣớc ở
xa nhau, sau tập trung xung quanh Hội đồng. Các trạm thì tùy theo nhu cầu mà
thành lập và bãi bỏ: T-20, T-35, T-45, T-55, T-15, T-60, T-100, T-50, T-70, T-40,
T-42, T-105 và T-80.
Ở những cung độ nhất định đối với những công tác có tổ chức những bộ
phận chuyên trách, nhƣ ban bến phà Âu Lâu, bến phà Tả Khoa, Ban vƣợt đèo Lũng
Lô, Ban Chỉ huy Cổ Nội.
Về thành phần Hội đồng thì cũng thay đổi luôn, vì cần thiết kết hợp giữa xe
quân sự và chí tiến nên đồng chí Đôn tham gia ban chỉ huy tuyến, sau này, đồng
chí Thiên lại đƣợc chỉ định vào Ban Cán sự Đảng tiền phƣơng vv… Nhƣ thế là
chúng ta đã tùy theo nhu cầu công tác, rút kinh nghiệm những ƣu và khuyết điểm
về tổ chức trƣớc để quy định những tổ chức sau đó là một sự cố gắng của Hội đồng
về mặt lãnh đạo tổ chức.

442
Những cố gắng trên đã làm cho Hội đồng nắm đƣợc các ngành, sự lãnh đạo
sau này tƣơng đối đƣợc tập trung, mạnh, nhanh, Hội đồng nắm đƣợc kế hoạch các
ngành, xây dựng đƣợc nghiệp vụ.
Nhƣng thời gian qua, chúng ta thấy còn nhiều thiếu sót cần đƣợc sửa chữa.
- Việc tổ chức Ban Chỉ huy khu vực đến Ban Chỉ huy tuyến lắm cách tức
làm cho sự chỉ đạo kém nhanh nhẹn, thống nhất tất thảy các ngành vào một tổ chức
đơn thuần, không có sự chỉ đạo doc làm cho các ngành không xây dựng đƣợc phần
nghiệp vụ của mình mà chính trạm cũng không thể đi sâu vào nghiệp vụ đƣợc.
- Đến lúc Hội đồng trực tiếp chỉ đạo các ngành và các trạm nhƣng phạm vi
chỉ đạo các ngành nhƣ thế nào, chỉ đạo các trạm nhƣ thế nào cũng chƣa đƣợc định
dứt khoát, vì vậy, có nhiều quan niệm trái nhau, Trạm thống nhất chỉ làm nhiệm vụ
điều hòa kết hợp thì quyền hạn của Trạm không đƣợc tập trung, không có thể giải
quyết đƣợc nhiệm vụ của nó, và nhƣ thế thì không có thể quy định trách nhiệm cho
nó khi kế hoạch bị thất bại. Thêm vào đây, tƣ tƣởng bản vi cục bộ của cán bộ các
ngành ở trạm không có sự thống nhất chỉ đạo, cản trở nhiều cho việc tiến hành kế
hoạch.
Chỉ thị của Hội đồng vì vậy khó lòng thi hành triệt để ở các trạm.
Liên hệ giữa trạm và các đoàn xe, bệnh xá, thu dụng cũng chƣa đƣợc quy
định dứt khoát, vì vậy, nên nhiều lúc trạm bị động trong công việc thực hiện kế
hoạch.
Liên hệ giữa trạm và các Ban Cán sự dân công cũng chƣa thành nề nếp.
Nhiều lúc trạm lấn át cả tác dụng các Ban Cán sự dân công làm cho Ban Cán sự
dân công mất tính chất cán sự của địa phƣơng – cũng vì vậy nên giảm phần tác
dụng của Ban Cán sự.
Về mặt Đảng thì quan niệm về quyền hạn nhiệm vụ của Đảng bộ tiền
phƣơng chƣa thống nhất, có nơi lấn cả chính quyền, có nơi chỉ biết xây dựng Đảng
mà không biết lãnh đạo thực hiện kế hoạch.
Công tác chính trị ở các trạm thì dẫm đạp lên nhau, trải qua thời gian vừa
qua chúng ta thấy :

443
- Công tác cung cấp của Hội đồng ở tuyến rất to lớn và phức tạp, sử dụng
những khối lƣợng nhân tài vật lực rất lớn lao, bao gồm công tác của nhiều ngành,
nhiều bộ phận, công tác chủ yếu của nó là huy động vận chuyển giao tận tay bộ
đội.
- Tuy vậy, do không phải đơn thuần là vận chuyển. Muốn vận chuyển phải
có những bộ phận khác phục vụ vận chuyển. Phải có chuẩn bị gạo, thực phẩm,
muối, phải có phƣơng tiện, phải có đƣờng sá thông suốt, phải bảo vệ kho tàng,
đƣờng sá, phải có công tác chính trị động viên đảm bảo kế hoạch, phải có thông tin
liên lạc nhanh chóng.
Nhƣng ngoài những công việc trên Hội đồng có nhiều việc khác nhƣ vấn đề
thƣơng binh, tù binh dân công, đào lao, ngũ, dân công vv…mà nhiệm vụ của Hội
đồng ở tuyến phải trực tiếp giải quyết.
Những công việc ấy liên hệ đến địa phƣơng, và nhiều lúc liên hệ đến cả các
ngành hậu phƣơng (nhƣ trƣng dụng xe vv…)
Công tác trên tuyến lại là công tác luôn luôn cơ động, linh hoạt, khẩn cấp
theo yêu cầu tiền tuyến. Những yêu cầu này luôn luôn thay đổi. Vì vậy, tính chất tổ
chức ở tuyến phải là một tổ chức tập trung có quyền hạn đủ mọi mặt :
- Đối với địa phƣơng, để khi cấp bách có thể huy động lực lƣợng địa
phƣơng ra phục vụ, hoặc lấy khả năng của địa phƣơng ra thay thế (vay gạo, huy
động xe cộ vv…)
- Đối với số đơn vị bộ đội hoạt động ở trên tuyến, có nhƣ vậy mới sử dụng
đƣợc những lực lƣợng ấy vào công tác cung cấp cho tiền tuyến. Kinh nghiệm trong
thời gian vừa qua nhiều đơn vị công binh cao xạ đã biết kết hợp và hỏi ý kiến của
Hội đồng trong công tác, nhƣng cũng có nhiều đơn vị độc lập công tác không kết
hợp chặt chẽ vì vậy, công tác của họ không phù hợp, ăn khớp với kế hoạch của Hội
đồng (nhƣ cao xạ bắc sát trạm, đóng quân ở trạm để trạm bị oanh tạc vv…).
- Đối với tất thảy mọi ngành xung quanh Hội đồng, Hội đồng phải chỉ đạo
thật chặt chẽ, có nhƣ vậy mới ăn khớp, mới xoay quanh trọng tâm công tác. Trái
lại, nếu không tập trung vào Hội đồng, Hội đồng chỉ đạo chặt chẽ về tổ chức và cả
kế hoạch thì có thể có tình trạng kho thóc làm trạm một nơi, vận tải đặt cung độ
444
một nẻo (kinh nghiệm đặt kế hoạch lấy gạo ở T-15 kho thóc không biết nên đã rút
cán bộ và phƣơng tiện đi nơi khác vv…)
Ở tuyến lại có rất nhiều cán bộ, ở nhiều ngành có nhiều địa phƣơng tới.
Những cán bộ ấy trong lúc ở tuyến đã tách khỏi công tác và hệ thống địa phƣơng ở
lại phục vụ chiến dịch, phải có một tổ chức để duy tu lại, điều khiển và chỉ đạo
công tác, kinh nghiệm cho biết là các cơ quan ấy phải là Hội đồng chứ một ngành
không thể nào lãnh đạo và chỉ đạo đƣợc.
Vì vậy, cơ quan chỉ đạo ở tuyến phải là Hội đồng có quyền hạn nhất định đối
với địa phƣơng lân cận và tất thảy các cán bộ hoạt động trên tuyến bất kỳ là quân,
dân, chính, Đảng, có thể mới giải đáp đƣợc tính chất tập trung mạnh mẽ đƣợc.
Các ngành xung quanh Hội đồng phải chịu trực tiếp lãnh đạo và chi đạo của
Hội đồng cả về mặt tƣ tƣởng và về mặt tổ chức. Vì chính bản thân Hội đồng sẽ là
cơ quan phải nắm đƣợc quy luật của chiến trƣờng do đó có thể nhận định đƣợc tƣ
tƣởng sẽ diễn biến thì Hội đồng phải lãnh đạo về mặt tƣ tƣởng (nhu đã dự kiến tƣ
tƣởng lúc hội quân) Hội đồng lại nắm đƣợc yêu cầu quân sự vì vậy Hội đồng cũng
phải lãnh đạo và chỉ đạo cả về mặt tổ chức và kế hoạch. Có lãnh đạo sít sao nhƣ
vậy mới đảm bảo đầy đủ và kịp thời yêu cầu của tiền tuyến (kinh nghiệm dời T-50
xuống T-100, đặt Ban tăng bo Cổ Nội vv…)
Trái lại, nếu Hội đồng chỉ là cơ quan kết hợp khi những công việc trên
không đƣợc tập trung mạnh mẽ, không ứng phó kịp thời với tình thế biến chuyển,
(kinh nghiệm lúc mƣa lũ, địch phá hoại, kế hoạch phải thay đổi ngay). Nhƣng
trong công tác chúng ta cũng thấy là Hội đồng phải tập trung chỉ đạo chặt chẽ,
nhƣng không thể đi sâu vào phần nghiệp vụ đƣợc (Barriere, trú quân, cần đóng cấp
phát, kho lán, điều tra biệt kích vv…). Vì vậy, các ngành phải giúp đỡ Hội đồng
lãnh đạo về phần nghiệp vụ và các ngành phải trực tiếp chỉ đạo về kế hoạch nghiệp
vụ.
Ở các trạm phải có một hệ thống tổ chức của Hội đồng cũng phải đƣợc tập
trung quyền hạn, có nhƣ vậy mới giải quyết đƣợc kịp thời và mới giải quyết đƣợc
những vấn đề ngoài phạm vi của các ngành. Ngoài cán bộ của Hội đồng, đại diện
cho Hội đồng, hai ngành quan trọng nhất là vận tải, Kho thóc, phải có cán bộ tham
445
gia Ban Chỉ huy trạm. Những cán bộ này sẽ góp ý kiến cho trạm thống nhất về
phần nghiệp vụ để việc quyết định của trạm đƣợc đúng đắn, vừa nhằm vào lợi ích
chung, vừa giải đáp đƣợc lợi ích của ngành. Những kinh nghiệm cũng cho thấy
rằng trong Ban Chỉ huy trạm, quyền hạn và nhiệm vụ cũng cần phải tập trung vào
Trạm trƣởng, trạm trƣởng chịu trách nhiệm trƣớc Ban Chỉ huy trạm và trƣớc Hội
đồng về nhiệm vụ công tác của trạm, có nhƣ vậy mới theo đúng nguyên tắc: Dân
chủ tập trung. Tổ chức trạm thống nhất nhƣng không biết tập trung vào trạm
thƣờng thì dễ đi đến liên hiệp nhƣ tình trạng trong thời gian vừa qua, cũng vì vậy
nên các Trạm trƣởng đã gặp nhiều khó khăn lúc giải quyết công việc (T-105 trạm
trƣởng đã phải tự xuất tiền sinh hoạt phí của mình để trả cho dân công, trạm trƣởng
có ý kiến những cán bộ các ngành không thực hiện, trạm trƣởng chủ trƣơng lấy
bao thừa chở thực phẩm mà kho thóc không chịu thi hành).
Hệ thống giữa ngành và trạm cần đƣợc duy trì, có nhƣ vậy mới xây dựng đi
sâu vào nghiệp vụ đƣợc.
Liên hệ giữa các ngành tiền phƣơng và hậu phƣơng cần phải đƣợc củng cố
đối với một số ngành rất cần thiết, có nhƣ vậy mới nắm đƣợc tình hình địa phƣơng
mới kết hợp đƣợc trong công tác phục vụ, kinh nghiệm công an kết hợp với địa
phƣơng nên bắt đƣợc nhiều biệt kích, có kết hợp với hậu phƣơng mới theo dõi
đƣợc hành động của những tụi tình nghi, đào nhiệm, kho thóc có kết hợp đƣợc với
hậu phƣơng thì đạt đƣợc vấn đề huy động vay mƣợn tạm thời giúp cho kế hoạch
chóng hoàn thành vv…
Ở các trạm, việc chỉ đạo công tác của dân công phải đi qua Ban cán sự tỉnh,
có nhƣ vậy mới đề cao đƣợc vai trò hậu phƣơng, mới giải quyết đƣợc thắc mắc của
dân công.
Ban Cán sự lên tuyến, một mặt phải trực tiếp chịu sự chỉ đạo ở tuyến trong
công tác phục vụ, nhƣng một mặt phải có trách nhiệm với địa phƣơng, vì vậy, Ban
cán sự ở tuyến cũng cần có liên hệ với hậu phƣơng, kinh nghiệm trong cuộc vận
động dân công vừa qua thấy vai trò cán sự dân công rất cần, sự liên hệ giữa cán sự
dân công và địa phƣơng rất cần.

446
Ban Bảo đảm giao thông phải trực tiếp chỉ đạo về mọi mặt với Hội đồng kết
hợp đƣợc công tác giao thông đảm bảo cho vận chuyển. Đối với các đoàn xe, các
bệnh xá, quy định liên hệ với trạm, kinh nghiệm không nhất thiết phải đặt đoàn xe
dƣới tuyến chỉ huy của trạm, vì đoàn xe có tính chất riêng biệt trạm nhiều lúc ít
giúp đỡ đƣợc ý kiến. Hơn nửa kế hoạch thay đổi luôn, nên việc điều xe, cung độ
cũng nhƣ số lƣợng luôn luôn thay đổi.
Nhƣng việc cần thiết là trạm cũng nhƣ đoàn xe phải nắm đƣợc kế hoạch. Hai
bên phải đặt kế hoạch cùng thi hành kế hoạch vận chuyển, phạm vi của đoàn xe là
đảm bảo cung dôn xăng dầu, thời gian, của trạm là đảm bảo bốc vác, trú quân,
ra,vào vv…
Ở những trạm, ở những cung độ mà kế hoạch không thay đổi thì kinh
nghiệm cũng có thể giao đoàn xe cho trạm trực tiếp chỉ huy.
Về mặt Đảng thì nhiệm vụ của các cấp bộ là phải lãnh đạo đảm bảo kế
hoạch. Vì vậy phải xây dựng Đảng, phải lãnh đạo tƣ tƣởng, tác phong lãnh đạo
công tác chính trị.
Công tác chính trị ở Hội đồng là Ban Tuyên huấn của Hội đồng, về mặt
Đảng là, tuyên huấn là của Ban cán sự - công tác chính trị ở trạm di trạm phụ trách.
Về mặt Đảng là tuyên huấn của liên chi ủy.
4/ Lãnh đạo kế hoạch :
Tự lực lên tuyến, lần đầu tiên Hội đồng lãnh đạo kế hoạch của các ngành,
Hội đồng đề ra chủ trƣơng, các Ngành vạch kế hoạch, Hội đồng theo dõi kế hoạch.
Nhƣng mỗi ngày nhu cầu một tăng, Hội đồng có trách nhiệm chính trong
việc cung cấp đầy đủ cho bộ đội ở hỏa tuyến vì vậy, Hội đồng đã dần dần nắm lấy
kế hoạch, đầu tiên kế hoạch vận tải, đến chỉ đạo những kế hoạch chính của các
ngành: làm kho, tăng bo, quy định giờ đánh điện cho ngành. Đối với Công an cũng
đã góp ý kiến trong vấn đề giữ gìn trật tự trên tuyến.
Trong vấn đề lãnh đạo kế hoạch, Hội đồng đã đi sát nhiều nhất là kế hoạch
vận tải. Nhƣng kế hoạch vận tải đều do Hội đồng và ngành vận tải vạch ra và Hội
đồng theo dõi từng đợt, có lúc lại tự mình điều động xe cộ, cũng vì vậy, có lần làm

447
cho vận tải lúng túng. Còn đối với kế hoạch của các ngành khác thì việc lãnh đạo
của Hội đồng chƣa đƣợc chặt chẽ.
Trong lúc lãnh đạo kế hoạch, vạch kế hoạch, có lúc quên không phổ biến
cho các ngành liên quan nên có nhiều chỗ loạc choạc (đổi kế hoạch vận chuyển ở
T-15 mà quên không phổ biến cho kho thóc biết). Đó là vì lề lối làm việc chƣa
thành nề nếp, và một phần nữa là do Hội đồng đã coi nhẹ vấn đề kế hoạch và thiếu
tinh thần tranh thủ ý kiến các ngành quan hệ trong lúc xây dựng kế hoạch.
Trong việc lãnh đạo xây dựng và chỉ đạo kế hoạch cũng đã có nhiều chủ
quan. Quá gò ép (từ kế hoạch 1600 trở đi đều gò ép cả) nên nhiều lúc không thực
hiện đƣợc, làm cho anh em thiếu hào hứng.
Đó một phần là vì thiếu phƣơng tiện, muốn tranh thủ thời gian, nhƣng
phƣơng pháp lãnh đạo trên đã làm cho các đơn vị xe vì đó xem thƣờng kế hoạch.
- Tuy trong lúc vạch kế hoạch có chú ý đến chân gạo, đƣờng sá, lực lƣợng
vận chuyển, nhƣng nặng về lãnh đạo vận tải nhiều hơn là lãnh đạo bảo đảm giao
thông cho thông suốt và tốt để đảm bảo cung độ và tăng tốc độ. Tuy có hội nghị
với bảo đảm giao thông để bàn về kế hoạch tu bổ đƣờng sá, cầu cống nhƣng việc
chỉ đạo Ngành Bảo đảm giao thông còn lo là nhƣ thế cũng tỏ rõ việc chỉ đạo kế
hoạch còn phiến diện, cũng vì vậy, cung độ xe trong mấy kế hoạch sau không bảo
đảm.
Một khuyết điểm nữa về chỉ đạo kế hoạch là do tƣ tƣởng chủ quan, nên đã
làm cho kế hoạch vận chuyển thêm khó khăn. Đó là kế hoạch huy động. Vì lúc đầu
chỉ chú ý huy động đƣờng 13, mà không chú ý đến đƣờng 41 nên lực lƣợng tập
trung vào đƣờng 13 xe nhiều, dễ nghẽn. Đến lúc đƣờng 13 gần hết gạo, lại tập
trung vào đƣờng 41, đƣờng hẹp, xe nhiều nhất định là sẽ bị cản trở. Chính vì vậy,
nên hai tuyến không thể cứu ứng điều chỉnh cho nhau đƣợc lúc cấp bách.
- Việc bố trí điều xe nhiều lúc không tính toán kỹ lƣỡng, nên bắt buộc xe
dồn cung độ nhiều lần, mệt sức, lãng phí (xe đạp T-15 lên T-60 rồi về T-15).
- Kế hoạch bố trí các đầu dây và các trạm thiếu dự phòng để đề phòng bất
trắc xảy tới. Cũng vì vậy nên lúc cấp bách điều xe ở cung dƣới lên đi thẳng đến
cung trên thì ở dƣới thiếu kho nhập - ở trên thiếu lực lƣợng bốc vác vv…
448
- Việc điều xe ngoài cung độ nhiều quá tuy là nhất thời đảm bảo đƣợc kế
hoạch, nhƣng sẽ ảnh hƣởng nhiều đến kế hoạch sau.
Rút kinh nghiệm trong công tác vừa qua chúng ta thấy: lãnh đạo kế hoạch
phải lãnh đạo mọi mặt kế hoạch. Kế hoạch các ngành phải kết hợp phục vụ cho kế
hoạch vận chuyển. Lúc đã đặt xong kế hoạch vận chuyển thì phải phổ biến kịp thời
cho các ngành có kế hoạch phục vụ vận chuyển.
Các trạm và các đoàn xe phải nắm vững kế hoạch. Kế hoạch phải xây dựng
xuống đơn vị. Từ đơn vị theo dõi việc thực hiện thì mới đẩy mạnh đƣợc phong
trào thi đua quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ (kinh nghiệm C-202, đã nảy ra sáng
kiến tổ chức tăng bo …).
Kế hoạch xây dựng phải chú ý đến điều kiện khách quan phải có dự phòng.
Cần phải có kế hoạch chỉ đạo nhất quyết hoàn thành, tối thiểu phải đảm bảo
một kế hoạch giao mức cho các trạm và đơn vị. Kế hoạch chỉ đạo chỉ có Ban Chỉ
huy biết không đƣợc truyền đạt xuống các đơn vị mất tác dụng thi đua (kinh
nghiệm phổ biến kế hoạch C-202).
Một điều mà chúng ta thấy rõ ràng nữa là lúc mới bắt đầu chuẩn bị là lúc
địch bắn phá mục tiêu, thì ta cần phải tranh thủ thời cơ để vận chuyển đƣợc nhiều
chừng nào hay chừng ấy. Chiến dịch đánh lâu nhất định địch sẽ tập trung phá hoại
đƣờng tiếp tế, cần phải có kế hoạch đề phòng chu đáo.
Lúc chiến dịch kết thúc, quy luật oanh tạc của địch theo lối cuốn chiếu, đón
đánh ta, vì vậy cũng cần phải có kế hoạch chu đáo để tranh thủ thời gian khỏi bị
cản trở vì địch, vì hội quân, vì mƣa lũ, vì chiến dịch kết thúc thì là mùa mƣa.
Kinh nghiệm cũng cho thấy, để đảm bảo kế hoạch cần nắm vững chân gạo
luôn luôn có dự phòng ít nhất 5 ngày và có kho không dự phòng 5 ngày để lúc cấp
bách nếu phải điều xe thì cần có kho chứa gạo nhập (kinh nghiệm huy động gạo
Thanh Hóa chậm, cản trở kế hoạch phải cho xe đi thẳng). Chân gạo cần phải chia
nhiều đƣờng để lúc tắc đƣờng này cứu ứng đƣợc đƣờng nọ (trong kế hoạch 1600
tấn, đƣờng 13 đã cứu ứng cho đƣờng 41 hơn 50 tấn) nhƣ thế mới chắc chắn đảm
bảo đƣợc kế hoạch.

449
Một điều nữa cần chú ý là lãnh đạo kế hoạch trên tuyến cũng nhƣ chỉ đạo bộ
đội ra mặt trận, phải thấu triệt tình hình, phải chỉ đạo chặt chẽ, quyết tâm và khẩn
cấp.
Cán bộ cấp dƣới phải chấp hành triệt để, đó là điều kiện căn bản để hoàn
thành kế hoạch.
Hội đồng có nhiệm vụ trực tiếp với Trung ƣơng và Tổng quân ủy về việc
cung cấp đầy đủ cho bộ đội. Mà việc cung cấp đầy đủ cho bộ đội thì chủ yếu là
chân gạo, đƣờng thông suốt và chuyển vận. Vì vậy, Hội đồng phải lãnh đạo và chỉ
đạo kế hoạch thật sát.
KẾT LUẬN
Trong suốt 8 tháng phục vụ chiến dịch, chúng ta rút ra đƣợc nhiều ƣu khuyết
điểm, chúng ta cũng rút ra đƣợc nhiều bài học quý báu để làm cho chúng ta học
tập.
Trong những kinh nghiệm vừa qua, còn nhiều vấn đề chúng ta cần phải thảo
luận kỹ càng để có thể áp dụng trong thời gian sắp tới, ngoài ra chúng ta cũng đã
thấy đƣợc nhiều vấn đề về chính sách cụ thể hoặc chƣa đầy đủ mà chúng ta cần
phải đề ra để đƣợc nghiên cứu lại.
Những vấn đề cần nêu ra là :
- Vấn đề tổ chức chính quyền và Đảng trên tuyến, vấn đề lãnh đạo của Hội
đồng (Hội đồng các ngành, các trạm, đoàn xe cơ giới, cán sự, dân công, bệnh xá).
Những điểm về chính sách cán bộ (thƣởng năng suất cán bộ).
Những điểm về chính sách dân công (thù lao dân công trâu bò, thƣởng năng
suất cho những hộ lý cấp dƣỡng).
- Chế độ cho cán bộ dân công xe đạp và dân công bộ.
- Giúp đỡ những dân công bị thƣơng trong lúc phục vụ.
Những điều về chính sách kinh tế tài chính: ngân sách, chế độ vv…

Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Phông Bộ Lao động, hồ sơ 663, tờ 45 - 87

450
DANH MỤC TÀI LIỆU VỀ CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ

Stt Tài liệu giấy

1 Chỉ thị số 68-CT/TW của Ban chấp hành trung ƣơng Đảng Lao động Việt Nam về
việc mở rộng tuyên truyền cho những thắng lợi của quân ta trong Chiến dịch Điện
Biên Phủ, ngày 18.3.1954
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Phông UBKCHC Liên khu III, hồ sơ 3588

2 Chỉ thị số 76-CT/TW của Ban chấp hành trung ƣơng Đảng lao động Việt Nam về
việc tổ chức một cuộc tuyên truyền động viên mở rộng thắng lợi của chiến dịch Điên
Biên Phủ, ngày 11.5.1954
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Phông ủy ban Cải cách ruộng đất LK Việt Bắc,
hồ sơ 64

3 Báo cáo số 46 ngày 15.5.1954 của Ty Công an Lai Châu về tình hình giải phóng
Điện Biên Phủ
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Phông UBHC Khu Tự trịTây Bắc, hồ sơ 2376

4 Thông tri số 1793/QT/HC của Ủy ban kháng chiến hành chính Khu Tả ngạn ngày
18.5.1954 về việc ăn mừng chiến thắng Điện Biên Phủ
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Phông UBKCHC Khu Tả ngạn, hồ sơ 491

5 Thông báo của Hội đồng Chính phủ về việc khen tặng Ban Chỉ huy mặt trận
Chiến dịch Điện Biên Phủ, ngày 19.5.1954
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Phông Phủ Thủ tướng, hồ sơ 94

6 Báo cáo số 639 HD/TV của Hội đồng Cung cấp mặt trận trung ƣơng về việc quyết
toán kinh phí cho Chiến dịch Điện Biên Phủ, ngày 20.5.1954
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Phông UBKCHC Liên khu III, hồ sơ 1299

7 Báo cáo số 02/BC của Hội đồng Cung cấp mặt trận liên khu Việt Bắc từ tháng
10.1953 đến tháng 5.1954 về việc tổng kết công tác cung cấp cho Chiến dịch Điện
Biên Phủ
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Phông Bộ Lao động, hồ sơ 666

451
8 Báo cáo tổng kết công tác đảm bảo giao thông tiền phƣơng phục vụ Chiến dịch
Điện Biên Phủ của Ban đảm bảo giao thông khu Tây Bắc, từ tháng 11.1953 đến
tháng 5.1954
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Phông Nha Giao thông, hồ sơ 644

9 Báo cáo của Ban kho thóc tiền phƣơng Liên khu III về tình hình quỹ chi cho
Chiến dịch Điện Biên Phủ đến hết tháng 5.1954
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Phông UBKCHC Liên khu III, hồ sơ 1297

10 Bản tổng kết công tác cung cấp cho Chiến dịch Điện Biên Phủ của Ban Kho thóc
tiền phƣơng, ngày 01.6.1954
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Phông UBKCHC Liên khu III, hồ sơ 1297

11 Báo cáo số 10 BC/TB của Ban chấp hành Khu Tây Bắc về việc tổng kết công tác
phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, tháng 6.1954
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Phông Bộ Lao động, hồ sơ 665

12 Công văn của Khu Bƣu điện - Vô tuyến điện Liên khu III về việc nhận và chuyển
tặng phẩm gửi các chiến sĩ tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, tháng 6.1954
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Phông UBKCHC Liên khu III, hồ sơ 2884

13 Bảng kê chi tiết các khoản chi cho Chiến dịch Điện Biên Phủ (kèm theo quyết
toán chi lần thứ III) của Ban Kho thóc tiền phƣơng Liên khu III, ngày 08.7.1954
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Phông UBKCHC Liên khu III, hồ sơ 1297

14 Báo cáo số 893/BC của Hội đồng Cung cấp mặt trận trung ƣơng ngày 10.7.1954
về công tác phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Phông Phủ Thủ tướng, hồ sơ 1692

15 Báo cáo số 42/BC ngày 12.7.1954 của Ty Công chính Yên Bái về tổng kết công
tác bảo đảm giao thông phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ từ tháng 11.1953 đến
ngày 06.7.1954
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Phông Nha Giao thông, hồ sơ 648

452
16 Báo cáo tổng kết công tác phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ của Hội đồng Cung
cấp mặt trận trung ƣơng (trên tuyến đƣờng 13 và 41) năm 1954
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Phông Bộ Lao động, hồ sơ 663

17 Báo cáo tổng kết công tác vận tải xe đạp phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ của
Liên khu Việt Bắc năm 1954
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Phông Sở Giao thông Khu Tự trị Việt Bắc, hồ sơ
1403

18 Bản đồ địa hình châu Điện Biên Phủ năm 1954


Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Phông Sở Kiến trúc Khu Tự trị Thái Mèo, hồ sơ
1714

19 Báo cáo Tổng kết công tác vận tải phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ của Nha
Giao thông năm 1954
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Phông Nha Giao thông, hồ sơ 679

Tài liệu ảnh

20 Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các đồng chí Trƣờng Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ
Nguyên Giáp quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Tài liệu ảnh thời kỳ kháng chiến chống Pháp
(1946 - 1954), hồ sơ 412

21 Các đoàn xe vận tải đã chuẩn bị sẵn sàng ra mặt trận, năm 1954
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Tài liệu ảnh Phông Bộ Ngoại giao, hồ sơ 3103

22 Các đoàn xe vận tải nối đuôi nhau chạy ra mặt trận, năm 1954
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Tài liệu ảnh Phông Bộ Ngoại giao , hồ sơ 3104

23 Những khẩu đại bác 105 ly nặng trên hai tấn đã đƣợc bộ đội ta kéo qua những đèo
dốc cao, gập ghềnh đến vị trí chờ ngày nổ súng, năm 1954
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Tài liệu ảnh Phông Bộ Ngoại giao, hồ sơ 3105

24 Các chiến sĩ cao xạ đang theo dõi máy bay địch, năm 1954
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Tài liệu ảnh Phông Bộ Ngoại giao, hồ sơ 3106

453
25 Đại tƣớng Võ Nguyên Giáp duyệt các đơn vị pháo cao xạ chuẩn bị vào chiến dịch,
tháng 3 năm 1954
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Tài liệu ảnh Phông Bộ Ngoại giao, hồ sơ 3107

26 Đại tƣớng Võ Nguyên Giáp đang quan sát tình hình mặt trận, năm 1954
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Tài liệu ảnh Phông Bộ Ngoại giao, hồ sơ 3111

27 Ngƣợc dòng sông Mã (Thanh Hóa) từng đoàn thuyền vƣợt qua những ghềnh thác
nguy hiểm chuyển gạo lên Điện Biên Phủ, năm 1954
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Tài liệu ảnh Phông Bộ Ngoại giao, hồ sơ 3112

28 Nhân dân các thị trấn ở Thanh Hóa tiễn đƣa các đoàn dân công xe thồ lên đƣờng
phục vụ tiền tuyến, năm 1954
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Tài liệu ảnh Phông Bộ Ngoại giao, hồ sơ 3181

29 Các đoàn dân công vùng bị chiếm Liên khu III, Liên khu IV và Việt Bắc nối tiếp
nhau chuyển gạo ra mặt trận, năm 1954
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Tài liệu ảnh Phông Bộ Ngoại giao, hồ sơ 3142

30 Trên các bến sông ở Tây Bắc, từng đoàn thuyền của dân công miền xuôi và miền
ngƣợc tấp nập đi tiếp tế lƣơng thực cho bộ đội, năm 1954
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Tài liệu ảnh Phông Bộ Ngoại giao hồ sơ 3148

31 Bộ đội ta đang theo giao thông hào tiến sát vào vị trí Him Lam, ngày 17.3.1954
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Tài liệu ảnh Phông Bộ Ngoại giao, hồ sơ 3135

32 Các cánh quân của ta đang tiến đánh vào các cứ điểm địch, năm 1954
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Tài liệu ảnh Phông Bộ Ngoại giao, hồ sơ 3165

33 Những kho đạn của địch bị trúng đạn lửa cháy ngút trời, năm 1954
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Tài liệu ảnh Phông Bộ Ngoại giao hồ sơ 3169

34 Diệt xong cứ điểm thứ nhất, quân ta xung phong chiếm cứ điểm thứ hai, năm
1954
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Tài liệu ảnh Phông Bộ Ngoại giao, hồ sơ 3134

454
35 Nhiều chiến sĩ đã bị thƣơng cũng không rời trận địa, năm 1954
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Tài liệu ảnh Phông Bộ Ngoại giao, hồ sơ 3161

36 Quân ta xung phong lên chiếm cột cờ, một lô cốt cuối cùng của địch ở đồi C1,
năm 1954
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Tài liệu ảnh Phông Bộ Ngoại giao, hồ sơ 3133

37 Ngay tại mặt trận Điện Biên Phủ,thƣơng binh địch đƣợc săn sóc, cứu chữa chu
đáo, năm 1954
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Tài liệu ảnh Phông Bộ Ngoại giao, hồ sơ 3126

38 Những xe cơ giới và trọng pháo của địch bị phá hủy ở trƣớc sân bay Mƣờng
Thanh, tháng 4.1954
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Tài liệu ảnh Phông Bộ Ngoại giao, hồ sơ 3137

39 Bộ đội ta tiêu diệt một cứ điểm ở Điện Biên Phủ, năm 1954
Trung tâm Lƣu trữ quốc gia III, Tài liệu ảnh Phông Bộ Ngoại giao, hồ sơ 3172

40 Chiếc xe tăng 18 tấn của địch bị quân ta chiếm, tất cả địch ở trên xe đều xin hàng,
năm 1954
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Tài liệu ảnh Phông Bộ Ngoại giao hồ sơ 3147

41 Bộ đội ta từ sân bay Mƣờng Thanh tiến vào khu trung tâm chỉ huy của địch, tháng
5.1954
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Tài liệu ảnh Phông Bộ Ngoại giao, hồ sơ 3156

42 Khu trung tâm Mƣờng Thanh của địch rung lên và bốc cháy vì đạn đại bác của ta,
tháng 5.1954
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Tài liệu ảnh Phông Bộ Ngoại giao hồ sơ 3159

43 Một đơn vị phất cờ quyết chiến quyết thắng tiến lên đánh chiếm cầu Mƣờng
Thanh, sáng ngày 07.5.1954
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Tài liệu ảnh Phông Bộ Ngoại giao, hồ sơ 3115

455
44 Xác máy bay của quân đội Pháp bị quân đội ta bắn hạ nằm ngổn ngang
khắp mặt trận Điện Biên Phủ, tháng 5.1954
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Tài liệu ảnh Phông Bộ Ngoại giao, hồ sơ 3152

45 Trên trận địa Điện Biên Phủ, ngổn ngang những xác máy bay gồm đủ các loại vận
tải, thám thính, khu trục trực thăng và những máy bay loại C119 của Mỹ vừa giúp
Pháp, năm 1954
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Tài liệu ảnh Phông Bộ Ngoại giao, hồ sơ 3167

46 Những khẩu trọng pháo 105 ly ta thu đƣợc của quân đội Pháp ở Mƣờng Thanh,
năm 1954
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Tài liệu ảnh Phông Bộ Ngoại giao, hồ sơ 3154

47 Lính pháp ở sân bay Mƣờng Thanh ra hàng, năm 1954


Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Tài liệu ảnh Phông Bộ Ngoại giao, hồ sơ 3177

48 Bộ đội rƣớc ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh đi tuần hành trên những chiếc xe tăng
chiến lợi phẩm giữa tiếng hoan hô vang dậy của quân dân Điện Biên Phủ, tháng
5.1954
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Tài liệu ảnh Phông Bộ Ngoại giao, hồ sơ 3286

49 Đại tƣớng, Tổng tƣ lệnh Võ Nguyên Giáp tới thăm Điện Biên Phủ sau khi giải
phóng, năm 1954
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Tài liệu ảnh Phông Bộ Ngoại giao, hồ sơ 3287

50 Đại tƣớng Võ Nguyên Giáp làm lễ trao cờ “Quyết chiến quyết thắng” cho những
đơn vị có nhiều thành tích nhất trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, năm 1954
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Tài liệu ảnh Phông Bộ Ngoại giao, hồ sơ 3297

51 Nhân dân Điện Biên Phủ đến thăm bộ đội đã tham gia giải phóng Điện Biên,
tháng 5 năm 1954
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Tài liệu ảnh Phông Bộ Ngoại giao, hồ sơ 3306

52 Sau ngày giải phóng, nhân dân Điện Biên vui vẻ, tấp nập trở về bản làng cũ, năm
1954
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Tài liệu ảnh Phông Bộ Ngoại giao, hồ sơ 3307

456
MỤC LỤC

Trang
Lời giới thiệu………………….
Bảng chữ viết tắt…………………
Phần I: Tài liệu lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Chính phủ về chiến
dịch Điện Biên Phủ.

Phần II: Chiến dịch Điện Biên Phủ - Diễn biến và kết quả.

457

You might also like