You are on page 1of 543

1 | Tam mệnh thông hội

MỤC LỤC TAM MỆNH THÔNG HỘI TOÀN VĂN

Giới thiệu Tam Mệnh thông hội


Quyển 1:
Luận Ngũ hành Sinh Thành.
Luận Ngũ hành Sinh Khắc.
Luận Can Chi nguyên lƣu.
Tổng luận Nạp âm..
Luận Nạp âm thủ Tƣợng.
Trích lục tính chất cát hung Lục Thập Giáp Tý.
Kim..
Hỏa.
Nạp âm Mộc.
Nạp âm Thổ.
Nạp âm Thủy.
Quyển 2:
Luận Thiên can âm dƣơng sinh tử.
Luận Địa chi
Thập can phân phối thiên văn
Thập nhị chi phân phối địa lý.
Luận thuộc tƣớng Địa Chi
Luận Nhân Nguyên ti sự.
Luận Tiết Khí bốn mùa.
Luận Ngũ hành Vƣợng Tƣớng Hƣu Tù Tử.
cùng ký sinh thập nhị cung.
Luận độn Nguyệt Thời
Luận Năm tháng ngày giờ.
Luận Thai Nguyên.
Luận Đại Vận.
Luận Tiểu vận.
Luận Thái Tuế.
Tổng luận Tuế Vận.
Luận Thập Can hợp.
Luận Tiến giao Thoái phục.
Luận Thập Can hóa khí
Luận Chi nguyên lục hợp.
Luận Chi nguyên tam hợp.
Luận Tƣớng tinh, Hoa Cái
Luận Hàm Trì
Luận Lục Hại
Luận Tam Hình.
Luận Xung kích.
02-04-16, 08:52
lesoi
Quyển 3:
Luận Thập can Lộc.
Luận Kim Dƣ.
Luận Dịch Mã.
Tổng luận Lộc Mã.
Luận Thiên ất Quý nhân.
2 | Tam mệnh thông hội

Luận Tam Kỳ.


Luận Thiên Nguyệt Đức.
Luận Thái Cực quý.
Luận Học Đƣờng Từ Quán.
Luận Chính Ấn.
Luận Đức Tú.
Luận Kiếp Sát Vong Thần.
Luận Dƣơng Nhận.
Luận Không Vong.
Luận Nguyên thần.
Luận Ám kim đích Sát
Luận Tai Sát
Luận Lục Ách.
Luận Câu Giảo.
Luận Cô thần, Quả tú.
Luận Thiên la Địa võng.
Luận Thập Ác Đại Bại
Tổng luận chƣ thần sát
Quyển 4:
Luận Thập Can tọa Chi
kiêm luận gặp tháng giờ và hành vận cát hung.
Luận Nhật Can đƣợc 12 Chi tháng cát hung.
Tháng Tý:
Tháng Sửu:
Tháng Dần:
Tháng Mão:
Tháng Thìn:
Tháng Tị:
Tháng Ngọ:
Tháng Mùi:
Tháng Thân:
Tháng Dậu:
Tháng Tuất:
Tháng Hợi:
Luận ngũ hành thời địa phân dã cát hung.
Luận Mộc.
Luận Hỏa.
Luận Thổ.
Luận Kim..
Luận Thủy.
02-04-16, 08:56
lesoi
Quyển 5:
Luận Cổ nhân lập danh nghĩa Ấn Thực Quan Tài
Luận Chính Quan.
Thiên Phúc quý nhân.
Thiên Nguyên lấy Lộc.
Tuế Đức Chính Quan.
Thời thƣợng Chính Quan.
Quan Ấn Lộc khố.
3 | Tam mệnh thông hội

Tƣơng Hình ngộ Quý.


Tam Hợp ngộ quý.
Kim Mộc gián cách.
Thủy Hỏa ký tế.
Kim Hỏa tƣơng thành.
Luận Thiên Quan.
Thiên Nguyên tọa Sát
Thời thƣợng nhất vị quý.
Niên thƣợng Thất Sát
Quan Sát hỗn tạp.
Chuyên Lộc phải chế.
Khí mệnh Tòng Sát
Quan Sát khử lƣu tạp luận.
Quyển 6:
Nhâm kỵ Long bối
Tý diêu Tị lộc.
Sửu diêu Tị lộc.
Xung hợp Lộc Mã.
Phá Quan.
Phi Tài
Phá Tài
Hổ Ngọ bôn Tị
Dƣơng kích Trƣ Xà.
Lục Âm triều Dƣơng.
Lục Ất Thử quý.
Nhật Lộc quy Thời
Củng Lộc Củng Quý.
Xung Lộc.
Lục Nhâm xu Cấn.
Lục Giáp xu Càn.
Tài Quan song mỹ.
Nhật Quý.
Nhật Đức.
Khôi Cƣơng.
Phúc Đức tú khí
Lộc Nguyên hỗ hoán.
Tý Ngọ song bao.
Thanh Long phục hình.
Bạch Hổ trì thế.
Chu Tƣớc thừa phong.
Huyền Vũ đƣơng quyền.
Câu Trần đắc vị
Mƣợn khí hoàn Hồn.
Bát chuyên Lộc Vƣợng.
Khúc Trực.
Viêm Thƣợng.
Tòng Cách.
Nhuận Hạ.
Giá Sắc.
Thổ cục Nhuận Hạ.
4 | Tam mệnh thông hội

Kim bạch Thủy thanh.


Mộc Hỏa giao huy.
Hỏa Kim đúc Ấn.
Hỏa Thổ giáp tạp.
Mộ Sát
Tứ vị thuần toàn.
Nhất khí sinh thành.
Bối Lộc Trục Mã.
Ví dụ Thập can 12 năm sinh đại quý nhân.
Luận Chính Tài
Tuế mang Chính Mã.
Giờ mang Chính Mã.
Tài vƣợng sinh Quan.
Thiên Nguyên tọa Tài
Luận Thiên Tài
Thời thƣợng Thiên Tài
Khí mệnh Tòng Tài
Nhật tọa Thiên Tài
Hợp luận Thiên Chính Tài
Luận Ấn thụ.
Thời phùng sinh Ấn.
Bào Thai phùng Ấn thụ.
Khí Ấn tựu Tài
Luận Đảo Thực.
Luận Tạp khí
Phụ luận Mộ vận.
Luận Thƣơng quan.
Luận Thực thần.
Phi thiên Lộc Mã.
Đảo xung Lộc.
Phúc Tinh quý nhân.
Thực thần đái hợp.
Hồng Loan Thiên Ấn.
Mặc trì Dũng tuyền.
Luận Dƣơng Nhận.
Luận Kiến Lộc.
02-04-16, 09:03
lesoi
Quyển 7:
Luận tính tình, tƣớng mạo.
Luận biết trƣớc tật bệnh,
chỗ can chi thuộc ngũ tạng lục phủ.
Luận Nữ mệnh.
Thuần.
Hòa.
Thanh.
Quý.
Trọc.
Lạm..
Xƣớng.
5 | Tam mệnh thông hội

Dâm..
Vƣợng Phu khắc Tử.
Vƣợng Tử thƣơng Phu.
Thƣơng Phu khắc Tử.
An tĩnh thủ phận.
Hoành yểu thiếu niên.
Phúc Thọ lƣỡng bị
Chính Thiên từ xứ.
Chiêu Giá bất định.
Tổng ca
Luận Tiểu Nhi
Luận Lục Thân.
Định phụ nữ mang thai sinh nam hay nữ.
Quyển 8:
Đoán ngày giờ Lục Giáp.
1. Đoán ngày Lục Giáp giờ Giáp Tý.
Đoán ngày Lục Giáp giờ Ất Sửu.
Đoán ngày Lục Giáp giờ Bính Dần.
Đoán ngày Lục Giáp giờ Đinh Mão.
Đoán ngày Lục Giáp giờ Mậu Thìn.
Đoán ngày Lục Giáp giờ Kỷ Tị
Đoán ngày Lục Giáp giờ Canh Ngọ.
Đoán ngày Lục Giáp giờ Tân Mùi
Đoán ngày Lục Giáp giờ Nhâm Thân.
Đoán ngày Lục Giáp giờ Quý Dậu.
Đoán ngày Lục Giáp giờ Giáp Tuất
Đoán ngày Lục Giáp giờ Ất Hợi
Đoán ngày Lục Ất giờ Bính Tý.
Đoán ngày Lục Ất giờ Đinh Sửu.
Đoán ngày Lục Ất giờ Mậu Dần.
Đoán ngày Lục Ất giờ Kỷ Mão.
Đoán ngày Lục Ất giờ Canh Thìn.
Đoán ngày Lục Ất giờ Tân Tị
Đoán ngày Lục Ất giờ Nhâm Ngọ.
Đoán ngày Lục Ất giờ Quý Mùi
Đoán ngày Lục Ất giờ Giáp Thân.
Đoán ngày Lục Ất giờ Ất Dậu.
Đoán ngày Lục Ất giờ Bính Tuất
Đoán ngày Lục Ất giờ Đinh Hợi
Đoán ngày Lục Bính giờ Mậu Tý.
Đoán ngày Lục Bính gặp giờ Kỷ Sửu.
Đoán ngày Lục Bính giờ Canh Dần.
Đoán ngày Lục Bính giờ Tân Mão.
Đoán ngày Lục Bính giờ Nhâm Thìn.
Đoán ngày Lục Bính giờ Quý Tị
Đoán ngày Lục Bính giờ Giáp Ngọ.
Đoán ngày Lục Bính giờ Ất Mùi
Đoán ngày Lục Bính giờ Bính Thân.
Đoán ngày Lục Bính giờ Đinh Dậu.
6 | Tam mệnh thông hội

Đoán ngày Lục Bính giờ Mậu Tuất


Đoán ngày Lục Bính giờ Kỷ Hợi
02-04-16, 09:07
lesoi
Đoán ngày Lục Đinh giờ Canh Tý.
Đoán ngày Lục Đinh giờ Tân Sửu.
Đoán ngày Lục Đinh giờ Nhâm Dần.
Đoán ngày Lục Đinh giờ Quý Mão.
Đoán ngày Lục Đinh giờ Giáp Thìn.
Đoán ngày Lục Đinh giờ Ất Tị
Đoán ngày Lục Đinh giờ Bính Ngọ.
Đoán ngày Lục Đinh giờ Đinh Mùi
Đoán ngày Lục Đinh giờ Mậu Thân.
Đoán ngày Lục Đinh giờ Kỷ Dậu.
Đoán ngày Lục Đinh giờ Canh Tuất
Đoán ngày Lục Đinh giờ Tân Hợi
Đoán ngày Lục Mậu sinh giờ Nhâm Tý.
Đoán ngày Lục Mậu giờ Quý Sửu.
Đoán ngày Lục Mậu giờ Giáp Dần.
Đoán ngày Lục Mậu giờ Ất Mão.
Đoán ngày Lục Mậu giờ Bính Thìn.
Đoán ngày Lục Mậu giờ Đinh Tị
Đoán ngày Lục Mậu giờ Mậu Ngọ.
Đoán ngày Lục Mậu giờ Kỷ Mùi
Đoán ngày Lục Mậu giờ Canh Thân.
Đoán ngày Lục Mậu giờ Tân Dậu.
Đoán ngày Lục Mậu giờ Nhâm Tuất
Đoán ngày Lục Mậu giờ Quý Hợi
Đoán ngày Lục Kỷ giờ Giáp Tý.
Đoán ngày Lục Kỷ giờ Ất Sửu.
Đoán ngày Lục Kỷ giờ Bính Dần.
Đoán ngày Lục Kỷ giờ Đinh Mão.
Đoán ngày Lục Kỷ giờ Mậu Thìn.
Đoán ngày Lục Kỷ giờ Kỷ Tị
Đoán ngày Lục Kỷ giờ Canh Ngọ.
Đoán ngày Lục Kỷ giờ Tân Mùi
Đoán ngày Lục Kỷ giờ Nhâm thân.
Đoán ngày Lục Kỷ giờ Quý Dậu.
Đoán ngày Lục Kỷ giờ Giáp Tuất
Đoán ngày Lục Kỷ giờ Ất Hợi
Đoán ngày Lục Canh giờ Bính Tý.
Đoán ngày Lục Canh giờ Đinh Sửu.
Đoán ngày Lục Canh giờ Mậu Dần.
Đoán ngày Lục Canh giờ Kỷ Mão.
Đoán ngày Lục Canh giờ Canh Thìn.
Đoán ngày Lục Canh sinh giờ Tân Tị
Đoán ngày Lục Canh giờ Nhâm Ngọ.
Đoán ngày Lục Canh giờ Quý Mùi
Đoán ngày Lục Canh giờ Giáp Thân.
Đoán ngày Lục Canh giờ Ất Dậu.
7 | Tam mệnh thông hội

Đoán ngày Lục Canh giờ Bính Tuất


Đoán ngày Lục Canh giờ Đinh Hợi
Đoán ngày Lục Tân giờ Mậu Tý.
Đoán ngày Lục Tân giờ Kỷ Sửu.
Đoán ngày Lục Tân gặp giờ Canh Dần.
Đoán ngày Lục Tân giờ Tân Mão.
Đoán ngày Lục Tân giờ Nhâm Thìn.
Đoán ngày Lục Tân giờ Quý Tị
Đoán ngày Lục Tân giờ Giáp Ngọ.
Đoán ngày Lục Tân giờ Ất Mùi:
Đoán ngày Lục Tân giờ Bính Thân.
Đoán ngày Lục Tân giờ Đinh Dậu.
Đoán ngày Lục Tân giờ Mậu Tuất
Đoán ngày Lục Tân giờ Kỷ Hợi
Đoán ngày Lục Nhâm giờ Canh Tý.
Đoán ngày Lục Nhâm giờ Tân Sửu.
Đoán ngày Lục Nhâm gặp giờ Nhâm Dần.
Đoán ngày Lục Nhâm giờ Quý Mão.
Đoán ngày Lục Nhâm giờ Giáp Thìn.
Đoán ngày Lục Nhâm giờ Ất Tị
Đoán ngày Lục Nhâm giờ Bính Ngọ.
Đoán ngày Lục Nhâm giờ Đinh Mùi
Đoán ngày Lục Nhâm giờ Mậu Thân.
Đoán ngày Lục Nhâm giờ Kỷ Dậu.
Đoán ngày Lục Nhâm giờ Canh Tuất
Đoán ngày Lục Nhâm giờ Tân Hợi
Đoán ngày Lục Quý giờ Nhâm Tý.
Đoán ngày Lục Quý giờ Quý Sửu.
Đoán ngày Lục Quý giờ Giáp Dần.
Đoán ngày Lục Quý giờ Ất Mão.
Đoán ngày Lục Quý giờ Bính Thìn.
Đoán ngày Lục Quý giờ Đinh Tị
Đóan ngày Lục Quý giờ Mậu Ngọ.
Đoán ngày Lục Quý giờ Kỷ Mùi
Đoán ngày Lục Quý giờ Canh Thân.
Đoán ngày Lục Quý giờ Tân Dậu.
Đoán ngày Lục Quý giờ Nhâm Tuất
Đoán ngày Lục Quý giờ Quý Hợi
02-04-16, 09:10
lesoi
Quyển 9:
Khẩu quyết xem mệnh.
Quyển 10:
Vu Hàm toát yếu.
Ngọc Tỉnh áo quyết
Quyển 11:
Khí Tƣợng thiên.
Lục Thần thiên.
Tăng Ái phú.
Tiêu Tức phú.
8 | Tam mệnh thông hội

Thông Huyền Tử biên soạn.


Minh Thông phú.
Hỉ kỵ thiên.
Kế Thiện thiên.
Quyển 12:
Chân Bảo phú.
Nguyên Lý phú.
Nguyên Cơ phú.
Kim Thanh Ngọc Chấn phú.
Kim Đỉnh Thần Bí phú.
Lạc Dịch phú.
Kim Ngọc phú.
Kinh Thần luận.
Tinh Vi luận.
Nguyên Diệu luận.
Minh Tân tiên sinh Cốt Tủy ca.
Sƣu Tủy ca.
Chú giải 《 Thiên Nguyên phú 》
《 Tứ Ngôn độc bộ 》 bình chú.
Ngũ Ngôn Độc Bộ bình chú.

Các bạn tham khảo ở link sau:


http://xshx23.blog.163.com/blog/stat...1301405145586/

lesoi
Quyển 1:
Quyển 1:

Luận Ngũ hành Sinh Thành

Trời cao mênh mông, lục khí quay quanh đủ một vòng để thành bốn mùa; đất sâu âm u, ngũ
hành hóa sinh để thành vạn vật. Có thể nói là vô cùng tận mà khó đoán vậy. Thánh nhân lập
pháp để suy lối đi, không thể tránh khỏi số. Căn cứ xem lập số, đều cũng xuất phát từ tự
nhiên. Cho nên ghi ở kinh điển, giống mà khác nhau, suy tính để đạt huyền cơ, cùng để biến
thông, đều không rời khỏi con số bên trong. 1 viết Thủy, 2 viết Hỏa, 3 viết Mộc, 4 viết Kim,
5 viết Thổ, đều có chỗ tự nhiên. Thủy, Tý ở Bắc phƣơng vậy, Tý, 1 là dƣơng, là số dƣơng
vậy, cho nên Thủy viết là Nhất; Hỏa, Ngọ ở Nam phƣơng vậy, Ngọ, 2 là âm , là số âm vậy,
cho nên hỏa viết là Nhị; mộc ở Đông phƣơng, Đông, là dƣơng vậy, là 3, là số lẻ, cũng là
dƣơng vậy, cho nên mộc viết là Tam; kim ở Tây phƣơng, Tây, là âm vậy, 4 là số chẵn, cũng
là âm vậy, cho nên kim viết là Tứ; thổ ứng Tây Nam cuối mùa Hạ, là số 5, là số lẻ, cũng là số
dƣơng vậy, cho nên thổ viết là Ngũ. Bởi thế nói, số là lấy âm dƣơng mà phối vậy. Nếu khảo
sát nghĩa sâu, thì thủy sinh ở 1. Trời đất chƣa phân chia, lúc ban đầu chƣa thành vạn vật, chớ
không phải thấy ở thủy trƣớc, cho nên 《 Linh Xu kinh 》 viết: "Thái Nhất, tôn danh là
Thủy. Tiên Thiên là mẹ của địa, là nguồn gốc tiếp nối sinh ra vạn vật". Để chứng nghiệm
hiện tại, phôi quả hạt chƣa thành cây cỏ, động vật có chân giống con ngƣời, thai noãn, thai
phôi đều là thủy vậy, sao không lấy là số Nhất? Cùng tụ ở thủy mà hóa thành hình thể, chớ
nói không bị khí âm dƣơng ở trong mà sau đó mới thành. Cho nên vật nhỏ bé mà vị đắng,
tƣợng là hỏa vậy; vật thành thục thì ngọt, là thổ vậy. Quá ngọt thì thành nhạt, nhạt, là gốc
9 | Tam mệnh thông hội

vậy. Nhƣng mà con ngƣời nhận khí âm dƣơng của cha mẹ mà hóa sinh thành, cho nên đầu
tiên sinh hai quả thận, thận trái thuộc thủy, thận phải thuộc hỏa. Hỏa viết là Mệnh Môn, chính
là hỏa dựa vào thủy mà thấy sau. Cho nên viết là thứ 2. Tƣợng quả hạt cây cỏ, lớn nhỏ tuy có
khác, trong đó cả hai đều có lấy hợp nhau lại, cũng giống nhƣ thận con ngƣời, cũng có dấu
hiệu âm dƣơng. Là lấy vạn vật không phải âm dƣơng hợp thể thì không thể hóa sinh vậy. Đã
là âm dƣơng hợp thể, rồi mới đến Xuân sinh mà Thu thành, cho nên thứ 3 viết là mộc, thứ 4
viết là kim. Tƣợng thủy có chỗ nối liền, hỏa có chỗ ẩn tàng, mộc có chỗ phát sinh, kim có chỗ
ly biệt, chớ không phải tất cả đều dựa vào thổ mà sau mới thành vậy. Cho nên kim mộc thủy
hỏa đều chờ thổ mà mới sau. Bao gồm số của thổ, lấy 5 định sẵn, thì thủy là 6, hỏa 7, mộc 8,
kim 9; thổ thƣờng lấy 5 là số sinh không thể đến 10, thổ không đợi 10 để thành, là số sinh
thành đều lấy 5 để hợp lại. Hiểu số Đại Diễn, thuận theo để lập, thì vạn vật sao có thể thoát ra
khỏi con số chăng?

Luận Ngũ hành Sinh Khắc

Ngũ hành tƣơng sinh tƣơng khắc, lý là tự nhiên. Thập can thập nhị chi, lục khí ngũ vận, năm
tháng ngày giờ đều lập từ chỗ này, lại lấy làm dụng, ở trời thì là khí: Hàn, Thử, Táo, Thấp,
Phong; ở đất thì thành hình: Kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Hình khí tƣơng cảm mà hóa sinh vạn
vật, chỗ này là nhớ kỹ tạo hóa sinh thành vậy. Nguyên kỳ diệu dụng, có thể nói là vô cùng tận
vậy.
Mộc chủ ở phía đông, ứng mùa xuân. Mộc nói là Xúc vậy, dƣơng khí xúc động, tỏa ra đất mà
sinh vậy. Thủy chảy xu về phía đông để sinh mộc vậy; mộc phát ở trên mà che ở dƣới, chính
là Chất tự nhiên vậy.
Hỏa chủ ở phía nam, ứng ở mùa hạ. Hỏa nói là Hóa vậy, là hủy vậy, dƣơng ở trên, âm ở dƣới;
hủy nhƣng mà thịnh mà biến hóa vạn vật vậy. Khoan mộc lấy hỏa, chỗ mộc sinh vậy. Nhƣng
hỏa không có chính thể, là bản thể là mộc vậy. Xuất lấy ứng vật, hết mà lại nhập, chính là
Khí tự nhiên vậy.
Kim chủ ở hƣớng tây, ứng là mùa thu. Kim nói là Cấm vậy, âm khí mới cấm đoán vạn vật mà
thu lại, đãi cát tìm vàng, là chỗ thổ sinh vậy. Sinh ở thổ mà tách ra ở thổ, chính là Hình thể tự
nhiên vậy.
Thủy chủ ở phía bắc, ứng với mùa đông. Thủy nói là Nhuận vậy. Âm khí nhu nhuận, đảm
nhận nuôi dƣỡng vạn vật vậy. Thủy ở phía tây và đông, chỗ kim sinh vậy. Thủy chảy quanh
co, thuận xuống mà thông, chính là Tính chất tự nhiên vậy.
Thổ chủ ở trung ƣơng, kiêm vị trí tây nam, ứng ở sinh trƣởng mùa hạ. Thổ nói là Thổ vậy,
hàm chứa thổ của vạn vật, tƣơng sinh là xuất, tƣơng tử là quy, là nhà của vạn vật. Cho nên
sinh trƣởng ở cuối mùa hạ, chỗ hỏa sinh vậy. Thổ hoặc là gánh nhận thủy, thủy chính là
ngƣợc với thổ, nghĩa tự nhiên vậy.
Ngũ hành tƣơng khắc, Tử đều là có Mẫu, là phục thù vậy. Mộc khắc thổ, thổ tử kim lại khắc
mộc; kim khắc mộc, mộc tử hỏa lại khắc kim; hỏa khắc kim, kim tử thủy lại khắc hỏa; thủy
khắc hỏa, hỏa tử thổ lại khắc thủy; thổ khắc thủy, thủy tử mộc lại khắc thổ. Có thể tƣơng sinh
với nhau, chính là thủy vậy; có thể tƣơng khắc nhau, chính là cuối cùng vậy. Tính chất đều
xuất phát ở trời vậy. 《 Tố Vấn 》 chỗ nói thủy sinh mộc, mộc lại sinh hỏa, là mộc bị cƣớp
khí, cho nên thủy phẫn nộ mà khắc hỏa. Tức là Tử gặp cƣớp khí, Mẫu là tranh lực, cùng Mẫu
bị Quỷ hại, lực Tử đến cứu, nghĩa là một vậy. Cƣờng có thể tấn công nhƣợc, thổ đƣợc mộc
mà thông; thực có thể thắng hƣ, thủy đƣợc thổ mà tuyệt; âm có thể làm tiêu dƣơng, hỏa đƣợc
thủy mà diệt; mãnh liệt có thể địch cƣơng, kim đƣợc hỏa mà khuyết; cứng có thể nhu, mộc
đƣợc kim mà chặt. Cho nên ngũ hành lƣu mà càng chuyển, thuận thì tƣơng sinh, nghịch thì
tƣơng khắc, nhƣ vậy là từng cái đều có dụng, lấy thành đạo mà thôi.
02-04-16, 09:23
lesoi
10 | Tam mệnh thông hội

Luận Can Chi nguyên lưu

( Nguồn gốc Can Chi)

Nói về Can giống nhƣ thân cây, cƣờng mà thành dƣơng; Chi giống nhƣ cành cây, nhƣợc mà
thành âm. Xƣa để lại đạo trời đất là rất rõ ràng, biểu đạt âm dƣơng thành Tam Tài. Đứng đầu
là vua sau khi trời đất đã phân chia, trƣớc có trời mà sau có đất, thuận theo sự hóa khí mà con
ngƣời sinh ra ở chỗ này, cho nên Thiên Hoàng là một họ mà có đủ 3 ngƣời, tiếp theo là họ
Bàn Cổ lấy để cai trị, viết là Thiên linh đạm bạc, Vô vi mà ngƣời phàm tục tự cảm hóa, mới
quy định tên là Can Chi, định lấy chỗ năm.
+ Thập Can viết: Vu phùng, Chiên mông, Nhu triệu, Cƣơng ngữ, Trứ ung, Đồ duy, Thƣợng
chƣơng, Trọng quang, Huyền, Chiêu dƣơng;
+ Thập nhị Chi viết: Khốn đôn, Xích phấn nhƣợc, Nhiếp đề cách, Đơn vu, Chấp từ, Đại
hoang lạc, Đôn dƣơng, Hiệp hiệp, Than, Tác ngạc, Yêm mậu, Đại uyên hiến.
Thái Ung độc đoán viết: "Can, là thân vậy. Tên thì có 10, cũng viết là Thập Mẫu, tức là Giáp
Ất Bính Đinh Mậu Kỷ Canh Tân Nhâm Quý hiện nay vậy; Chi, là cành nhánh vậy. tên thì có
12, cũng viết là Thập nhị Tử, tức là Tý Sửu Dần Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi
ngày nay vậy". Xƣng là họ Thiên Hoàng, nghĩa là lấy trời mở ra ở Tý vậy; Xƣng là họ Địa
Hoàng, nghĩa là lấy Đất bắt đầu ở Sửu vậy; Xƣng là họ Nhân Hoàng, nghĩa là lấy Ngƣời sinh
ra ở Dần vậy.
Cho nên tên Can Chi là do lúc Thiên Hoàng bắt đầu quy định, còn họ Địa Hoàng thì định là
Tam Thần, đạo phân ra ngày đêm, lấy 30 ngày là một tháng, mà chỗ tất cả can chi mới bắt
đầu phối. Họ Nhân Hoàng, chủ làm Vua Bất Hƣ, Thần là quý bất hƣ, khởi đầu chính là từ chỗ
giáo dục quân thần, từ chỗ bắt đầu nam nữ ẩm thực, bắt đầu đƣợc khí trời đất mà có phân
chia Mẫu Tử, vì vậy chỗ này mới thuộc có Can Chi. Về phần Phục Hi ngửa mặt xem tƣợng ở
trời, cúi nhìn làm theo lễ pháp ở đất, ở giữa nhìn vạn vật và con ngƣời, lấy Đức mới họa Bát
Quái mà thông thần minh, lấy Tình mà phân loại vạn vật, nhằm làm Giáp lịch và chữ nghĩa
sinh ra chỗ này. Trao Hà Đồ đến cho Hoàng Đế, trông thấy tƣợng Nhật Nguyệt Tinh Thần, vì
vậy mới có sách xem Tinh sao. Mệnh Đại Nghiêu tìm tình Ngũ hành, mới thấy chỗ xem
Chiêm Đẩu, vì vậy mới lấy Giáp Tý phối thuộc ngũ hành nạp âm.

Tổng luận Nạp âm

Thƣờng xem 《 Bút Đàm 》 luận nạp âm Lục Thập Giáp Tý, vốn có 60 luật, xoay vòng
thành một cung, làm tiên chuẩn vậy. Phép nạp âm và nạp giáp trong 《 Dịch 》là giống nhau:
Càn nạp Giáp, Khôn nạp Quý, bắt đầu ở Càn và cuối cùng ở Khôn.
Nạp âm bắt đầu ở kim, Kim là Càn vậy, cuối cùng ở thổ, Thổ là Khôn vậy. Trong ngũ hành,
duy chỉ có kim đúc mà thành khí, là âm thanh rõ ràng, cho nên nạp âm đầu tiên là kim.
Phép nạp âm, giống nhƣ cƣới vợ, cách 8 ngôi là sinh tử, là phép Luật Lữ tƣơng sinh vậy.
Giáp Tý, là Trọng kim, đồng vị cƣới Ất Sửu, cách 8 ngôi Hạ sinh Nhâm Thân; Mạnh kim là
Nhâm Thân, đồng vị cƣới Quý Dậu, cách 8 ngôi Thƣợng sinh Canh Thìn; Quý kim Canh
Thìn, đồng vị cƣới Tân Tị, cách 8 ngôi Hạ sinh Mậu Tý. Mậu Tý là Trọng hoả, cƣới Kỷ Sửu,
sinh Bính Thân; Bính Thân là Mạnh hoả, cƣới Đinh Dậu, sinh Giáp Thìn; Giáp Thìn là Quý
hoả, cƣới Ất Tị, sinh Nhâm Tý. Nhƣ vậy Trọng mộc đi từ bên trái, đến ở Đinh Tị, gặp đúng
cung Lữ. Cuối cùng số một Ngũ âm, lại từ Giáp Ngọ là Trọng kim, cƣới Ất Mùi, cách 8 sinh
Nhâm Dần, phƣơng pháp giống nhƣ Giáp Tý, cuối cùng ở Quý Hợi.
( Ghi chú: Mạnh là tháng đầu mùa, Trọng là tháng giữa mùa, Quý là tháng cuối mùa)
Từ Tý đến Tị là dƣơng, cho nên từ Hoàng Chung đến Trọng Lữ đều là Hạ sinh; từ Ngọ đến
Hợi là âm, cho nên từ Lâm Chung đến Ứng Chung đều là Thƣợng sinh. Nói Thƣợng Hạ sinh,
11 | Tam mệnh thông hội

là chính vị Thiên khí giáng xuống, địa khí thăng lên. Chỗ số hợp, là từ chỗ biến mà ra vậy.
Càn là Thiên, Khôn là Địa, Càn Khôn hợp mà thành Thái; Đức là Phụ, Hồng là Mẫu, Đức
Hồng hợp mà thành phía Đông; Can là vua, Chi là thần, can chi hợp mà sinh nạp âm. Cho
nên Giáp Ất là vua, Tý Sửu là thần, Tý Sửu Giáp Ất hợp mà thành kim. Bởi vì ngũ hành ở
thiên hạ, đều có tính khí, có chỗ tài vật, hoặc cứu nhau hoặc khắc nhau, nhƣ thành khí không
thành khí, trong vƣợng nhận tuyệt, trong tuyệt nhận khí, duy chỉ có phối nhau mà lấy là khác
nhau thôi. Sở dĩ số kim này khó giống nhau mà lại có khác nhau tên gọi Hải Trung hoặc là Sa
Trung.
02-04-16, 09:25
lesoi
Luận Nạp âm thủ Tượng

Xƣa kia, Hoàng Đế đem Giáp Tý phân ra khinh trọng mà phối thành lục thập, hiệu là Hoa
Giáp Tý, chữ Hoa trở thành áo diệu, Thánh nhân mƣợn ý mà ví dụ, không thể chấp nê ý này.
Nói từ Tý đến Hợi là 12 cung, tất cả đều thuộc kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Khởi từ ở Tý là Nhất
Dƣơng, cuối cùng ở Hợi là Lục Âm, chỗ ngũ hành thuộc kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, ở trên trời
là Ngũ Tinh, ở dƣới đất là Ngũ Nhạc, ở đức là Ngũ Thƣờng, ở ngƣời là Ngũ Tạng, ở mệnh
cũng là Ngũ Hành. Cho nên chỗ thuộc Giáp Tý chính là ứng ở mệnh, mệnh là một thế sự.
Cho nên tƣợng nạp âm Giáp Tý, là thánh nhân ví dụ, cũng nhƣ việc cả đời ngƣời vậy. Tại sao
lại nói vậy?
Hai vị Tý Sửu, mới thành lập âm dƣơng, ngƣời đang ở bào thai, vật đang tàng căn, chƣa có
ranh giới; hai vị Dần Mão, âm dƣơng dần dần mở ra, con ngƣời dần dần sinh trƣởng, lấy vật
mở ra Giáp, hàng loạt hoa dần tách ra, giống nhƣ con ngƣời làm việc để lập thân vậy; hai vị
Thìn Tị, khí âm dƣơng thịnh, vật đang nở hoa, giống nhƣ con ngƣời 30, 40 tuổi mà có đất lập
thân, mới có tƣợng tiến thủ; hai vị Ngọ Mùi, lộ ra âm dƣơng rõ ràng, đồng thời vật đã thành,
giống nhƣ con ngƣời đến 50, 60 tuổi, là có thể biết phú quý hay bần tiện, phàm suy ra có thể
thấy trăm chuyện hƣng suy; hại vị Thân Dậu, lúc âm dƣơng xác xơ tiêu điều, vật đã thu tàng,
con ngƣời đã rụt cổ lại, tất cả đều yên tĩnh; hai vị Tuất Hợi, âm dƣơng bế tắc, khí vật quy căn,
con ngƣời đang ngƣng nghĩ, đều quay trở về.
Tƣờng thuật chỗ này trƣớc sau là 12 vị, Lục thập Giáp Tý có theo thứ tự mà thông.
Giáp Tý Ất Sửu sao lấy thủ tƣợng là Hải Trung kim? Bởi vì khí ở lúc bao tàng, có danh là Vô
hình, giống nhƣ con ngƣời còn ở trong bụng mẹ vậy;
Nhâm Dần Quý Mão tuyệt địa tồn kim, khí còn nhu nhƣợc, mỏng tựa nhƣ tấm lụa, cho nên
viết là Kim Bạc kim;
Canh Thìn Tân Tị lấy kim cƣ ở đất hỏa thổ, khí đã phát sinh, kim còn ở trong quặng mỏ, gửi
hình ở đất sinh dƣỡng, nhận chính sắc ở tây phƣơng, cho nên viết là Bạch Chá kim;
Giáp Ngọ Ất Mùi thì khí đã thành, vật chất tự kiên cố, hỗn ở trong cát mà chia tay ở cát, cƣ ở
hỏa mà luyện ở hỏa, viết là Sa Trung kim vậy;
Nhâm Thân Quý Dậu khí thịnh vật cực, lúc thi công thu lại, nhƣ lƣỡi dao nhọn sắc bén. Bởi
vì Thân Dậu kim là chính vị, gặp can Nhâm Quý, kim thủy tôi luyện, cho nên thủ tƣợng công
dụng Kiếm Phong kim cực vậy;
Đến Tuất Hợi thì khí kim phục tàng, hình thể đã tàn, nung luyện làm đồ trang sức, đã thành
hình trạng, tàng ở khuê các, là không có chỗ hành động, mà đã hoàn tất công dụng của kim,
cho nên viết Canh Tuất Tân Hợi là Thoa Xuyến kim.
Nhâm Tý Quý Sửu sao lấy thủ tƣợng là Tang Chá mộc? Bởi vì khí cƣ ở lƣợn cong, hình dáng
không duỗi ra, cƣ ở thủy địa, mùa dệt tơ tằm, Tang Chá ( cây Dâu tằm) nhận khí, thủ thời kỳ
sinh vậy;
Canh Dần Tân Mão là khí đã đón dƣơng, thế lực đƣợc vun trồng thành hình trạng vậy, làm
sao lại ở dƣới kim, phàm kim cùng sƣơng làm kiên cố, mộc ở đƣợc thời kỳ vƣợng, tuế hàn
12 | Tam mệnh thông hội

lạnh mà sau điêu tàn, thủ tính kiên cố, cho nên viết là Tùng Bách mộc;
Mậu Thìn Kỷ Tị thì khí không đƣợc đo lƣờng, vật đã đúng thời, càng xum xuê tƣơi tốt, rậm
rạp thành rừng, thủ kỳ mộc thịnh vậy, cho nên viết Đại Lâm mộc;
Nhâm Ngọ Quý Mùi, mộc đến Ngọ là tử, đến Mùi là mộ, cho nên Dƣơng Liễu thịnh mùa hạ
là khô héo, cành khô yếu ớt, thủ tính nhu mềm vậy, cho nên viết là Dƣơng Liễu mộc;
Canh Thân Tân Dậu, ngũ hành thuộc kim mà nạp âm lại thuộc mộc, thủ lấy tƣơng khắc. Bởi
vì tính mộc cay, duy chỉ có Thạch Lựu mộc; khí Thân Dậu quy về yên tĩnh, vật dần dần thành
thực, mộc cƣ ở đất kim, mùi vị thành cay, cho nên viết là Thạch Lựu mộc; Mặt khác mộc đến
Ngọ là tử, duy chỉ có mộc này đến Ngọ là vƣợng, thủ tính thiên lệch vậy.
Mậu Tuất Kỷ Hợi, khí quy về phục tàng, âm dƣơng bế tắc, mộc khí quy căn, phục ở trong
thổ, cho nên viết là Bình Địa mộc vậy.
Bính Tý Đinh Sửu sao lấy thủ tƣợng là Giản Hạ thủy? Bởi vì không thông, đoạn cao không
phải chỗ thủy lƣu, chỗ đất thấp thì thủy tựu, đi từ trong đất, cho nên viết là Giản Hạ thủy;
Giáp Dần Ất Mão, khí xuất từ dƣơng minh, thế thủy nhờ nguồn, cuồn cuộn rót về phía đông,
thế thấm lớn, cho nên viết là Đại Khê thủy;
02-04-16, 09:25
lesoi
Nhâm Thìn Quý Tị, thế cực ở đông nam, khí kề cung Ly, hỏa minh thế thịnh, thủy đƣợc quy
khố, tràn đầy mà sau tiến, viết là Trƣờng Lƣu thủy vậy;
Bính Ngọ Đinh Mùi, khí đang thăng giáng, vị trí hoả ở cao minh, có thủy sung tác mà làm
mƣa dầm, lấy thuỷ đƣợc hỏa giúp, duy chỉ có trên trời mới có, cho nên viết là Thiên Hà thủy;
Giáp Thân Ất Dậu, khí tức an tĩnh, Tử Mẫu đồng vị, xuất mà không cùng tận, cấp mà không
khô kiệt, viết là Tỉnh Tuyền thủy;
Nhâm Tuất Quý Hợi, đất Thiên Môn, khí quy về bế tắc, thủy đầy khắp nơi mà không đi
nhanh, thế quy về ở vị trí yên tĩnh, đến không cùng tận, nạp mà không tràn đầy, viết là Đại
Hải thủy vậy.
Mậu Tý Kỷ Sửu sao lấy thủ tƣợng là Phích Lịch hỏa? Bởi vì khí ở Nhất Dƣơng, hình cƣ ở
thủy, hoả ở trong thủy, không phải Thần Long thì không có, cho nên viết là Phích Lịch hỏa;
Bính Dần Đinh Mão, khí dần phát sáng, là do củi mà hiện ra, là gặp âm dƣơng, là lò lửa của
trời đất, viết là Lƣ Trung hỏa vậy;
Giáp Thìn Ất Tị, khí hình đất thịnh, thế định đồi cao, truyền sáng đến mờ, Tử Mẫu nhờ nhau,
viết là Phúc Đăng hỏa vậy;
Mậu Ngọ Kỷ Mùi, khí qua cung dƣơng, tƣơng hội ở cung Ly, nắm ánh sáng giao linh, phát
huy nóng rực, viết là Thiên Thƣợng hỏa vậy;
Bính Thân Đinh Dậu, khí ngƣng hình tàng, thế lực ẩn tàng, quy đầu về cung Đoài, lực bé thể
suy, ánh sáng không xa, viết là Sơn Hạ hỏa vậy;
Giáp Tuất Ất Hợi gọi là Sơn Đầu hỏa, là tàng hình ở núi, Đầu là đầu ánh sáng, trong rõ ngoài
mờ, ẩn mà không hiện, ánh sáng bay gửi về cung Càn, quy về ở trong nghỉ ngơi, cho nên viết
là Sơn Đầu hỏa vậy.
Canh Tý Tân Sửu tại sao thủ tƣợng là Bích Thƣợng thổ? Khí cƣ nơi bế tắc, vật còn bao tàng,
yểm hình che thể, trong ngoài không qua lại, cho nên viết là Bích Thƣợng thổ;
Mậu Dần Kỷ Mão, khí có thể thành vật, lấy công dƣỡng vật, phát ở căn, khoẻ ở đài nhị, viết
là Thành Đầu thổ vậy;
Bính Thìn Đinh Tị, khí đã đón dƣơng, đã qua phát sinh, đủ thành tựu mai sau, viết là Sa
Trung thổ vậy;
Canh Ngọ Tân Mùi, khí lúc nhận hình, vật đã lộ ra rõ ràng, có hình có chất, có vật đã rõ, viết
là Lộ Bàng thổ vậy;
Mậu Thân Kỷ Dậu, khí đã ngừng, lúc vật thu tàng, quy về thoái lui nhàn hạ, đẹp mà vô sự,
viết là Đại Dịch thổ vậy;
Bính Tuất Đinh Hợi, khí thành khố vật, việc lấy mỹ mãn, âm dƣơng thấy đầy, đƣợc thế trong
13 | Tam mệnh thông hội

đó, viết là Ốc Thƣợng thổ vậy.


Tôi thấy Lộ Bàng thổ truyền bá sinh trăm khe cốc, đất Ngọ Mùi, lúc giữa hè trƣờng dƣỡng
chứ? Đại Dịch thổ thông đạt bốn phƣơng, đất Thân Dậu, lý là đƣợc lợi hanh bằng hữu chứ?
Thành Đầu thổ thủ công đê phòng, dựa vào ngũ công, lập quốc mà bảo vệ dân vậy; Bích
Thƣợng thổ dụng sức trang hoàng, giúp cho thứ dân, nơi cƣ viên mà ở vậy; Sa Trung thổ, là
thổ tối nhuận vậy, thổ nhuận là sinh, cho nên đủ thành mà mai sau hữu dụng; Ốc Thƣợng thổ,
là thổ thành công vậy, thành công là tĩnh, cho nên chỉ ở nhất định mà không di dời. Bởi vì ở
trong ngũ hành, hành lệnh phụ tải, chủ quyền dƣỡng dục, ngũ hành Tam Tài đều không thể
mất; xứ cao thấp mà đắc vị, cƣ ở tứ quý mà có công; kim đƣợc sắc bén mà hùng mạnh, hỏa
đƣợc chiếu diệu quang minh, mộc đƣợc anh hoa việt tú, thủy đƣợc sóng tràn mà không trôi
nỗi, thổ đƣợc trồng trọt mà càng phong phú. Tụ mà không tán, tất có thể thành núi, núi, là cao
vậy; Tán mà không tụ, tất có thể thành đất, đất, là khởi đầu vậy. Dụng mà vô tận, sinh mà
không cực, thổ có công dụng lớn quá vậy!
Thủ tƣợng Ngũ hành, đều lấy đối đãi mà phân âm dƣơng, tức là thủy chung mà rõ biến hóa.
Nhƣ Giáp Tý Ất Sửu đối với Giáp Ngọ Ất Mùi, là Hải trung Sa trung, biện rõ thủy thổ, phân
chia âm dƣơng vậy; Nhâm Dần Quý Mão đối với Nhâm Thân Quý Dậu, là Kim bạc Kiếm
phong, biện kim mộc, phân biệt cƣơng nhu vậy; Canh Thìn Tân Tị đối với Canh Tuất Tân
Hợi, là Bạch Chá Thoa Xuyến, Càn Tốn đối phƣơng, hình sắc đều tận vậy; Nhâm Tý Quý
Sửu đối với Nhâm Ngọ Quý Mùi, là Tang chá Dƣơng liễu, một cong một duỗi, hình chất khác
nhiều vậy; Canh Dần Tân Mão đối với Canh Thân Tân Dậu, là Tùng bách Thạch lựu, một
cứng một cay, tính mùi khác xa vậy; Mậu Thìn Kỷ Tị đối với Mậu Tuất Kỷ Hợi, là Đại lâm
Bình địa, một thịnh một suy, Càn Tốn khác phƣơng vậy; Mậu Tý Kỷ Sửu đối với Mậu Ngọ
Kỷ Mùi, là Phích lịch Thiên thƣợng, nhƣ sấm sét múa roi, Nhật Nguyệt cùng chiếu vậy; Bính
Dần Đinh Mão đối với Bính Thân Đinh Dậu, là Lƣ trung Sơn hạ, nhƣ hỏa thịnh mộc phần,
kim vƣợng hỏa diệt vậy; Giáp Thìn Ất Tị đối với Giáp Tuất Ất Hợi, là Phúc Đăng Sơn Đầu,
chứa ánh sáng sợ gió, bò sáng dừng ở Cấn vậy; Canh Tý Tân Sửu đối với Canh Ngọ Tân
Mùi, là Bích thƣợng Lộ bàng, hình chia tụ tán, giống nhƣ sinh tử vậy; Mậu Dần Kỷ Mão đối
với Mậu Thân Kỷ Dậu, là Thành đầu Đại dịch, đông nam tây bắc, là chính vị Khôn Cấn vậy;
Bính Thìn Đinh Tị đối với Bính Tuất Đinh Hợi, Sa trung Ốc thƣợng, can ẩm hỗ dụng, biến
hóa thủy chung vậy. Xem Viên xem Phƣơng, không ngoài ở Vƣợng Tƣớng Tử Hƣu; vì gần
lấy xa, chớ trốn khỏi kim mộc thủy hỏa thổ. Lấy can chi mà phân phối ngũ hành, luận âm
dƣơng mà hiểu rõ Chung Thủy. Thiên thành Nhân lực đều bao gồm, cũng giống nhƣ bao gồm
sinh vƣợng tử tuyệt. Ô hô! Lục thập Giáp Tý chẳng qua Thánh nhân mƣợn Tƣợng để nói rõ
Lý, mà tính tình ngũ hành, tài vật, hình sắc, công dụng không có khúc tận mà tạo hóa hoàn
toàn đầy đủ vậy.
02-04-16, 09:26
lesoi
Trích lục tính chất cát hung Lục Thập Giáp Tý

Giáp Tý Là báu vật, hỷ đất kim mộc vƣợng. Hỷ Tiến thần, phúc tinh, bình đầu, huyền
kim châm, phá tự.
Ất Sửu Là mỏ ngu ngoan, hỷ hỏa và ngày giờ Nam phƣơng. Phúc tinh, Hoa Cái, Chính
kim Ấn.
Bính Dần Là Lò than, hỷ Đông và mộc. Phúc tinh, Lộc Hình, Bình Đầu, Lung Á.
hỏa
Đinh Mão Là Lò thuốc, hỷ đất Tốn và Thu Đông. Bình Đầu, Tiệt Lộ, Huyền Châm.
hỏa
Mậu Thìn Mộc ở núi rừng, vùng núi, là mộc không dùng đƣợc, hỷ thủy. Lộc khố, Hoa Cái,
14 | Tam mệnh thông hội

mộc thủy khố Lộc Mã, Bổng trƣợng, Phục thần, Bình Đầu.
Kỷ Tị mộc Cây cỏ ở đỉnh núi, hỷ xuân và thu. Lộc khố, Bát cát, Khuyết tự, Khúc Cƣớc.
Canh Ngọ Là đất không bên đƣờng, hỷ thủy và xuân. Phúc tinh, Quan quý, Tiệt Lộ, Bổng
thổ trƣợng, Huyền Châm.
Tân Mùi Đất chứa hàng vạn báu vật, đợi thu xong, hỷ thu và hỏa. Hoa Cái, Huyền Châm,
thổ Phá tự.
Nhâm Giáo kích, đại hỷ Tý Ngọ Mão Dậu. Bình Đầu, Đại Bại, Phƣơng hại, Lung Á,
Thân kim Phá tự, Huyền châm.
Quý Dậu Là kim dùi đục, hỷ mộc và Dần Mão. Phục thần, Phá tự, Lung á.
kim
Giáp Tuất Chỗ xứ Hỏa giữ lại, hỷ xuân và hạ. Chính Ấn, Hoa Cái, Bình đầu, Huyền châm,
hỏa Phá tự, Bổng trƣợng.
Ất Hợi Hỏa khí nhiệt, hỷ thổ và hạ. Thiên đức, Khúc cƣớc.
hỏa
Bính Tý Thủy khắp bốn phƣơng, hỷ mộc và thổ. Phúc tinh, Quan quý, Bình đầu, Lung á,
thủy Giao thần, Phi Nhận.
Đinh Sửu Chỗ thủy xanh trong không chảy, hỷ kim và hạ. Hoa Cái, Tiến thần, Bình đầu,
thủy Phi Nhận, Khuyết tự.
Mậu Dần Đất bờ đê tƣờng thành, hỷ mộc và hỏa. Phục thần, Bổng trƣợng. Lung á.
thổ
Kỷ Mão Phá vỡ đê thành lũy, hỷ Thân Dậu và hỏa. Tiến thần, Đoản yểu, Cửu sửu, Khuyết
thổ tự, Khúc cƣớc, Huyền châm.
Canh Bạch lạp kim, hỷ thu và cây nhỏ. Hoa Cái, Đại Bại, Bổng trƣợng, Bình đầu.
Thìn kim
Tân Tị Kim ẩn dấu, pha tạp cát đá, hỷ hỏa và Thu. Thiên Đức, Phúc tinh, Quan quý, Tiệt
kim lộ, Đại bại, Huyền Châm, Khúc Cƣớc.
Nhâm Ngọ Đốt cây Dƣơng Liễu khô, hỷ Xuân Hạ. Quan quý, Cửu sửu, Phi Nhận, Bình Đầu,
mộc Lung á, Huyền Châm.
Quý Mùi Rễ cây Dƣơng Liễu, hỷ Đông và thủy, mùa Xuân cũng thích hợp. Chính Ấn, Hoa
mộc Cái, Đoản yểu, Phục thần, Phi Nhận, Phá tự.
Giáp Nƣớc giếng ngọt, hỷ Xuân và Hạ. Phá Lộc Mã, Tiệt lộ, Bình đầu, Phá tự, Huyền
Thân thủy châm.
Ất Dậu Là vũng nƣớc ngầm, hỷ Đông phƣơng và Nam. Phá lộc, Đoản yểu, Cửu sửu,
thủy Khúc Cƣớc, Phá tự, Lung á.
Bính Tuất Đất đồi nhỏ, hỷ Xuân Hạ và thủy. Thiên Đức, Hoa Cái, Bình đầu, Lung á.
thổ
Đinh Hợi Đất đồng bằng, hỷ hỏa và mộc. Thiên Ất, Phúc tinh, Quan quý, Đức hợp, Bình
thổ đầu.
Mậu Tý Là lửa sấm sét. Hỷ thủy và Xuân Hạ, đƣợc thổ và thần linh. Phục thần, Đoản yểu,
hỏa Cửu sửu, Trƣợng hình, Phi Nhận.
Kỷ Sửu Là điện vậy, hỷ thủy và Xuân Hạ, đắc địa mà mờ tối. Hoa Cái, Đại Bại, Phi
hỏa Nhận, Khúc Cƣớc, Khuyết tự.
Canh Dần Đốt cây Tùng Bách khô, hỷ Thu Đông. Phá Lộc Mã, Tƣơng hình, Trƣợng hình,
mộc Lung á.
Tân Mão Rễ cây Tùng Bách, hỷ thủy thổ và thích hợp mùa Xuân. Phá Lộc, Giao thần, Cửu
15 | Tam mệnh thông hội

mộc sửu, Huyền châm.


Nhâm Là Rồng ở nƣớc sông, hỷ lửa sấm sát và điện cùng mùa Xuân Hạ. Chính Ấn,
Thìn thủy Thiên Đức, thủy khố Lộc Mã, Thoái thần, Bình Đầu, Lung á.
Quý Tị Thủy không dừng chảy vào biển, hỷ Hợi Tý, là biến hóa. Thiên ất, Quan quý,
thủy Đức Hợp, Phục Mã, Phá tự, Khúc cƣớc.
Giáp Ngọ Kim đƣợc luyện thành tinh chất, hỷ thủy mộc thổ. Tiến thần, Đức Hợp, Bình
kim Đầu, Phá Tự, Huyền Châm.
Ất Mùi Là kim còn lại trong lò than, hỷ hỏa mạnh và thổ. Hoa Cái, Tiệt Lộ, Khúc Cƣớc,
kim Phá Tự.
Bính Thân Là lửa đốt cỏ tranh ngoài đồng, hỷ Thu Đông và mộc. Bình Đầu, Lung á, Đại bại,
hỏa Phá tự, Huyền Châm.
Đinh Dậu Là lửa kêu quỷ thần, là hỏa vô hình, hỷ Thìn Tuất Sửu Mùi. Thiên ất, Hỷ thần,
hỏa Bình Đầu, Phá Tự, Lung á, Đại Bại.
Mậu Tuất Là cây có tranh bị khô, hỷ hỏa và Xuân Hạ. Hoa Cái, Đại Bại, Bát Chuyên,
mộc Trƣợng hình, Tiệt Lộ.
Kỷ Hợi Cây cỏ tranh, hỷ thủy và Xuân Hạ. Khuyết Tự, Khúc Cƣớc.
mộc
Canh Tý Là vùng đất trống, là mái hiên nhà vậy, hỷ mộc và kim. Mộc Đức hợp, Trƣợng
thổ Hình.
Tân Sửu Đất phần mộ, hỷ mộc và hỏa cùng mùa Xuân. Hoa Cái, Huyền Châm, Khuyết
thổ Tự.
Nhâm Kim dùng để trang sức rực rỡ, hỷ mộc và lửa nhỏ. Tiệt Lộ, Bình Đầu, Lung á.
Dần kim
Quý Mão Là kim nút áo, khóa, chuông đúc, hỷ hỏa mạnh và mùa Thu. Quý nhân, Phá Tự,
kim Huyền Châm.
Giáp Thìn Là lửa ở đèn vậy, hỷ ban đêm và thủy, không thích ban ngày. Hoa Cái, Đại Bại,
hỏa Bình Đầu, Phá Tự, Huyền Châm.
Ất Tị hỏa Là ánh sáng ngọn đèn vậy, giống ở trên, càng hỷ Thân Dậu và mùa Thu. Chính
Lộc Mã, Đại Bại, Khúc Cƣớc, Khuyết Tự.
Bính Ngọ Là vầng trăng tròn, hỷ ban đêm và mùa Thu, là thủy vƣợng vậy. Hỷ thần, Dƣơng
thủy Nhận, Giao thần, Bình Đầu, Lung á, Huyền Châm.
Đinh Mùi Là ánh lửa vậy, giống nhƣ ở trên thủy vƣợng. Hoa Cái, Dƣơng Nhận, Thoái thần,
thủy Bát Chuyên, Bình Đầu, Phá tự.
Mậu Thân Là đất đai giữa mùa Thu, hỷ Thân Dậu và hỏa. Phúc tinh, Phục Mã, Trƣợng
thổ Hình, Phá Tự, Huyền Châm.
Kỷ Dậu Đất cấy mạ giữa mùa Thu, hỷ Thân Dậu và mùa Đông. Thoái thần, Tiệt Lộ, Cửu
thổ Sửu, Khuyết Tự, Khúc Cƣớc, Phá Tự, Lung á.
Canh Trên lƣỡi kiếm, hỷ hỏa ít và mộc. Hoa Cái, Trƣợng Hình.
Tuất kim
Tân Hợi Vật kim ở đỉnh chuông, hỷ mộc hỏa và thổ. Chính Lộc Mã, Huyền Châm.
kim
Nhâm Tý Là mộc bị hại vì nhiều thủy, hỷ hỏa thổ và mùa Hạ. Dƣơng Nhận, Cửu Sửu, Bình
mộc Đầu, Lung á.
Quý Sửu Mộc bị hại vì thiếu thủy, hỷ kim thủy và mùa Thu. Hoa Cái, Phúc tinh, Bát
mộc Chuyên, Phá Tự, Khuyết Tự, Dƣơng Nhận.
16 | Tam mệnh thông hội

Giáp Dần Là mƣa vậy, hỷ mùa Hạ và hỏa. Chính Lộc Mã, Phúc thần, Bát Chuyên, Bình
thủy Đầu, Phá Tự, Huyền Châm, Lung Á.
Ất Mão Là hơi nƣớc gần mặt đất vậy, hỷ thủy và hỏa. Kiến Lộc, Hỷ thần, Bát chuyên,
thủy Cửu Nhận, Khúc Cƣớc, Huyền Châm.
Bính Thìn Là đất bờ đê, hỷ kim và mộc. Lộc khố, Chính Ấn, Hoa Cái, Tiệt Lộ, Bình Đầu,
thổ Lung á.
Đinh Tị Là đất trũng, hỷ hỏa và Tây Bắc. Lộc khố, Bình Đầu, Khuyết Tự, Khúc Cƣớc.
thổ
Mậu Ngọ Là lửa ánh mặt trời, mùa hạ thì ngƣời sợ, mùa đông thì ngƣời thích, kị Mậu Tý,
hỏa Kỷ Sửu, Giáp Dần, Ất Mão. Phục thần, Dƣơng Nhận, Cửu Sửu, Bổng Trƣợng,
Huyền Châm.
Kỷ Mùi Là ánh sáng mặt trời, kị ban đêm, cũng sợ Tứ giả. Phúc tinh, Hoa Cái, Dƣơng
hỏa Nhận, Khuyết Tự, Khúc Cƣớc, Phá Tự.
Canh Là hoa cây Lựu, hỷ mùa Hạ, không thích mùa Thu Đông. Kiến Lộc Mã, Bát
Thân mộc Chuyên, Trƣợng Hình, Phá Tự, Huyền Châm.
Tân Dậu Là hạt giống cây Lựu, hỷ Thu và Hạ. Kiến Lộc, Giao thần, Cửu Sửu, Bát
mộc Chuyên, Huyền Châm, Lung á.
Nhâm Là biển đại dƣơng vậy, hỷ Xuân Hạ và mộc. Hoa Cái, Thoái thần, Bình Đầu,
Tuất thủy Lung á, Trƣợng Hình.
Quý Hợi Nƣớc ở trăm sông, hỷ kim thổ hỏa. Phục Mã, Đại bại, Phá tự. Tiệt lộ.
thủy
02-04-16, 09:27
lesoi
Bên trên là Lục thập Giáp Tý, lớn thịnh ghét biến thành nhỏ yếu, nhỏ yếu cũng muốn biến
thành lớn thịnh vậy. Trƣớc bần tiện mà sau phú quý thì vinh hoa, trƣớc phú quý mà sau bần
tiện thì thấp hèn; trƣớc tiên không thể lấy bần tiện mà không luận phú quý, cũng không thể
trƣớc lấy phú quý mà không luận bần tiện vậy. Nhƣ năm sinh thuộc mộc, lệnh là Canh Dần,
Tân Mão, thì cũng biết là mộc lớn thịnh; nếu không thấy chỗ khác nhƣ Thai tháng ngày giờ
có mộc, thì lấy Tùng Bách mộc luận, vạn nhất ở trên thấy Dƣơng Liễu mộc hoặc Chá Lƣu
mộc, thì bỏ lớn lấy nhỏ, không lấy Tùng Bách mộc luận vậy. Giả sử ngƣời sinh là Nhâm Ngọ
Quý Mùi, thì cũng biết là mộc nhỏ yếu, nếu chỗ khác nhƣ tháng ngày giờ Thai không thấy
mộc, thì lấy Dƣơng Liễu mộc luận, vạn nhất thấy Tùng Bách mộc hoặc Đại Lâm mộc, thì bỏ
nhỏ luận lớn, không thể lấy Dƣơng Liễu mộc luận vậy. Lấy đến ngƣời sinh là Thiên Thƣợng
hỏa, Kiếm Phong kim, Đại Hải thủy, Đại Dịch thổ, ngoài ra thấy ở vị trí khác nhƣ tháng ngày
giờ Thai, cùng nạp âm mà nhỏ yếu, lại nhƣ ngƣời sinh là Phúc Đăng hỏa, Kim Bạc kim, Tỉnh
Tuyền thủy, Sa Trung thổ, ngoài ra thấy ở chỗ vị trí khác nhƣ thángngày giờ Thai, cùng nạp
âm mà lớn thịnh, hoặc bình thƣờng mà dẫn đến nhập thánh, hoặc trƣớc trọng mà sau khinh,
đều nên theo biến mà luận, không thể ở một điểm mà chấp nhất.
Giáp Tý, tòng kim cách. Là Khí tán, đƣợc Mậu Thân thổ, Quý Tị thủy thì lấy cát, Mậu Thân
chính là đất kim lâm quan, thổ lại vƣợng ở Tý, tất có thể sinh thành; Quý Tị thuộc kim sinh ở
Tị, thủy vƣợng ở Tý, nạp âm đều có chỗ quy về. Lại là hƣớng về gốc lộc, kị Đinh Mão, Đinh
Dậu, Mậu Ngọ hỏa.
Ất Sửu, là kim tự khố. Hỏa không thể khắc. Bởi vì kim đã ẩn tàng tự không có khắc hại xung
phá, không có không hiển vinh, chỉ kị hỏa của Kỷ Sửu, Kỷ Mùi. Diêm Đông Tẩu nói: "Ất
Sửu là Chính Ấn, vốn có đủ phúc đức lớn, Thu Đông phú quý mà còn thọ, Xuân Hạ trong cát
có hung; nhập cách thì lập công hƣởng phúc, mang loại Sát là hội hung." 《 Ngọc Tiêu bảo
giám 》nói: "Giáp Tý Ất Sửu chƣa thành khí, kim thấy hỏa là thành, thấy nhiều là cát."
Bính Dần, là hỏa ánh bình minh. Không có thủy chế thì có họa lửa đốt cháy nóng rực, thủy
17 | Tam mệnh thông hội

không thể qua, chỉ có thích thủy Giáp Dần, chính là Vị Tế. Lại còn có danh là Triều Nguyên
Lộc ( hƣớng về gốc Lộc). 《 Ngũ Hành yếu luận 》nói: "Bính Dần hỏa chứa khí thuần túy
xung thì sáng tỏ, đức sinh ở bốn mùa, nhập quý cách thì phát ứng tài văn chƣơng, chủ địa vị
là khôi giáp."
Đinh Mão, là hỏa lại sáng tỏ. Khí nhƣợc, cần mộc sinh, gặp thủy thì hung, Ất Mão, Ất Dậu
thủy là rất độc.
Mậu Thìn, Hai thổ ở dƣới mộc. Kim nhiều không thể khắc, bởi vì thổ sinh kim, có đạo Mẫu
Tử. Đƣợc thủy sinh là tốt. 《 Ngũ Hành yếu luận 》nói: " Ba ngày Mậu Thìn, Canh Dần,
Quý Sửu, số rất cƣơng, đạo đức trong sáng, sinh ở Xuân Hạ, có thể đặc biệt độc lập tự chắp
cánh mà bay, tùy cơ ứng biến mà thành công; lại gặp vƣợng khí, thì có chí làm rung động bầu
trời. Duy chỉ kị sinh mùa Thu, tuy là bị tiết, khuất phục mà không thân."
Kỷ Tị, là mộc gần mộc. Kim tự sinh chỗ này, hƣớng về ta mà không tổn thƣơng; kim kị thấy
sinh vƣợng. Diêm Đông Tẩu nói: "Kỷ Tị ở Tốn, là gió động mộc, căn có nguy cơ dễ bật, lấy
kim hòa, thổ, vận quy về Đông Nam, mới thành vật dụng, tuy dƣơng ngoài âm trong, không
đƣợc phụ trợ, thì khí hƣ tán, lại là chỗ kim quỷ khắc, là mộc không sử dụng đƣợc vậy".
Canh Ngọ, Tân Mùi, là thổ bắt đầu sinh. Mộc không thể khắc, duy chỉ kị thủy nhiều, khí lại
tổn thƣơng. Mộc nhiều lại có chỗ quy về, bởi vì mộc quy về Mùi vậy. Diêm Đông Tẩu nói:
"Canh Ngọ, Tân Mùi, Mậu Thân, Kỷ Dậu đều là thổ dày đức, là nơi chứa đựng yên tĩnh, khí
nạp hòa hợp, phúc lộc đầy đủ, nhập cách thì nhận nhiều phƣơng núi cao, có công ân huệ bác
ái lớn."
Nhâm Thân, đất kim lâm quan, lợi thấy thủy thổ, nếu gặp hỏa Bính Thân, Bính Dần, Mậu
Ngọ thì thành tai hại. 《 Ngọc Tiêu bảo giám 》nói: "Nhâm Thân, Quý Dậu, là vị trí kim
vƣợng, không thể phục vƣợng, vƣợng thì tổn thƣơng vật; không thể thấy hỏa, thấy hỏa thì tự
thƣơng."
Giáp Tuất, là hỏa tự khố. Không sợ nhiều thủy, chỉ kị Nhâm Tuất. Cho nên bị khắc trong mộ,
họa hại là khó tránh. 《 Ngũ Hành yếu luận 》nói: "Giáp Tuất hỏa là khố Ấn, hàm chứ khí
chí dƣơng tàng phục, gặp quý cách, phú quý to lớn. Duy chỉ kị phục sinh, đề phòng trong cát
có hung."
Ất Hợi, là hỏa lại sáng. Khí chìm mà không phát, mƣợn Kỷ Hợi, Tân Mão, Kỷ Tị, Nhâm Ngọ
mà phát, Mùi mộc sinh thì tinh thần vƣợng tƣớng, có Quý Hợi, Bính Ngọ thủy thì không cát.
Bính Tý, là thủy chảy thừa. Không kị nhiều thổ, duy chỉ sợ Canh Tý, là trong vƣợng gặp quỷ,
chỗ này là điềm xấu rất lớn. 《 Ngũ Hành yếu luận 》nói: "Bính Tý là thủy tự vƣợng, trên
dƣơng dƣới âm, đều đủ tinh thần, bẩm chất tự nhiên khoáng đạt, kiến thức uyên thâm; xuân
hạ là khí giúp vật, có công nhiều lợi trạch."
Đinh Sửu, là thủy tụ phúc. Rất thích kim sinh, kị Tân Mùi, Bính Thìn, Bính Tuất, hình phá
vậy. 《 Ngũ Hành yếu luận 》nói: "Đinh Sửu, Ất Dậu, ở số là thủy hết nhƣợc, là âm thịnh
dƣơng nhƣợc, nhận đủ khí trong sáng, nhiều trí tuệ mà thiếu phúc, lấy túi thủy mộc vƣợng
khí, thì âm dƣơng hòa hợp, là quý khí thông hiển cao."
Mậu Dần, là thổ thụ thƣơng. Rất là không có lực, phải sinh vƣợng hỏa, để sinh khí. Kị Kỷ
Hợi, Canh Dần, Tân Mão nhiều sắc mộc khắc, chủ hung ngã gãy. 《 Ngũ Hành yếu luận 》
nói: "Mậu Dần, Bính Tuất chỗ hai vị này đón khí thổ đức dày, một là hàm chứa sinh hỏa, một
là hàm chứa đựng hỏa, gọi là tập trung dƣơng linh, thần phúc khánh; đƣợc quý cách, thì đạo
đức cái thế, quý cực nhân thần, duy chỉ có thân vƣơng, quý công tử đa số là inh ngày này;
đƣợc thƣờng cách, cũng chủ phúc thọ lâu dài, cuối cùng an dật."
Kỷ Mão, là thổ tự chết. Chỗ này là ức chết quá mức. Quý đƣợc Đinh Mão, Giáp Tuất, Ất Hợi,
Kỷ Mùi hỏa, do hợp mà đến, dẫn đến phúc. 《 Ngũ Hành yếu luận 》nói: "Kỷ Mão, là đất
tự chết, thấy ở cung Chấn, gió thổi sấm động, tán thành hòa khí, đức tự xung hƣ. Bẩm chất là
loại có đạo hành, tùy biến mà hợp, có dƣỡng sinh không ràng buộc phúc thọ, duy chỉ bất lợi
là tử tuyệt, thì là đƣờng không lâu dài."
18 | Tam mệnh thông hội

Canh Thìn, là khí kim tụ. Không dụng hỏa chế, khí tự thành, hỏa thịnh khí lại mất, bệnh
tuyệt hỏa không có hại. Nhƣ Giáp Thìn, Ất Tị hỏa, ác không thể nói; cũng không thể khắc
nhiều mộc, vì lẻ đó mà khí ta cũng tụ vậy. Diêm Đông Tẩu nói: "Canh Thìn kim vốn có đủ
tính cƣơng kiện đức rất dày, bẩm tính thông minh khai thông. Xuân Hạ phúc họa ẩn phục, thu
đông rất thông minh; nhập cách thì kiêm cả văn vũ, mang sát thì thích động binh quyền."
02-04-16, 09:28
lesoi
Tân Tị, là kim tự sinh. Tinh thần đầy đủ, đầy đủ khí thể, rất nóng hóa cháy mà không mất. Kị
hỏa Bính Thìn, Ất Tị, Mậu Ngọ. Bởi vì kim sinh ở Tị, mà không thể sinh bại ở Ngọ, tuyệt ở
Dần mà khí tán, ẩn thấy hỏa sinh vƣợng, có thể đen chăng? 《 Ngũ Hành yếu luận》 nói:
"Tân Tị kim là tự sinh Học Đƣờng, vốn có đủ đức anh minh kỳ khôi, thu đông đƣợc lực đầy
đủ, xuân hạ cát mất hung; nhập quý cách thì chủ học hành tài năng, dẫn đến thân thanh quý,
tâm thƣờng nhớ giúp vật."
Nhâm Ngọ, là mộc nhu hòa. Can chi là nhƣợc, mộc có thể sinh hỏa, lại kị thấy hỏa nhiều,
nhiều thì mất vậy. Tuy là kim sinh vƣợng, cũng không thể tổn thƣơng. Bởi vì kim làm ta bại,
đƣợc kim lại quý. Thủy thổ thịnh cũng quý. Duy chỉ kị Giáp Ngọ kim tổn thƣơng. 《Ngũ
hành yếu luận 》nói: "Nhâm Ngọ, là mộc tự chết. Mộc tử tuyệt thì hồn đi mà thần khí linh
tú, bẩm chất đầy đức yên tĩnh trong sáng, ngƣời ôm dũng khí, kiến lập công hành, có thể là
tĩnh mà có dũng, sống thọ."
Quý Mùi, là mộc tự khố. Sinh vƣợng thì tốt, tuy là Ất Sửu kim không thể xung phá, tất cả
đều quy về căn gốc mà không phạm nhau. Kị Canh Tuất, Ất Mùi kim. 《 Ngọc Tiêu bảo
giám 》nói: "Nhâm Ngọ, Quý Mùi là Dƣơng Liễu mộc, bởi vì mộc đến Ngọ mà tử, đến Mùi
mà mộ, cho nên giữa mùa hạ lá rậm rạp, đƣợc thời thì phú thọ, không đƣợc thời thì bần yểu."
Giáp Thân, là thủy tự sinh. Khí chảy xa, cần có chỗ quy về. Cũng nhờ kim sinh, không kị
nhiều thổ, đặc biệt sợ Mậu Thân, Canh Tý thổ. 《 Ngũ Hành yếu luận 》nói: "Giáp Thân là
thủy tự sinh, hàm chứa thiên về chân Học Đƣờng, đƣợc nhập cục chủ trí thức thông tuệ, diệu
dụng vô cùng."
Ất Dậu, là thủy tự bại. Nếu lấy kim nhiều, bởi do khí ta đã nhƣợc, mƣợn Mẫu để sinh. Kị Kỷ
Dậu, Kỷ Mão, Mậu Thân, Canh Tý, Tân Sửu thổ, thì yểu chiết cùng tiện.
Bính Tuất, là thổ phúc mạnh lộc dày. Mộc không thể khắc. Kị thấy kim sinh vƣợng. Nếu gặp
hỏa thịnh thì quý không thể nói.
Đinh Hợi, thổ lâm quan. Mộc không thể khắc. Sợ kim nhiều, cần đƣợc hỏa sinh cứu, là cát.
Kị Kỷ Hợi, Tân Mão mộc. 《 Ngũ Hành yếu luận 》nói: "Đinh Hợi, Canh Tý hai thổ trong
hàm chứa số kim, trong cƣơng ngoài hòa. Bẩm khí có đƣợc lực định, dƣới thổ lấy khí thủy
hỏa vƣợng để giúp, có thể kiến công lập nghiệp, can đảm quả quyết lấy uy."
Mậu Tý, Kỷ Sửu, hỏa ở trong thủy, lại viết là Hỏa Thần Long. Gặp thủy mới quý, là hỏa vua
của lục khí vậy. 《 Ngũ Hành yếu luận 》nói: "Mậu Tý chứa tinh thần khí huy hoàng đầy
đủ, bốn mùa giữ lấy phúc sinh, nhập quý cách thì là đại nhân quân tử, khí vũ to lớn, phú quý,
rất cát."
Kỷ Sửu, là hỏa thiên tƣớng, lại là gốc Thiên Ất quý. Hàm chứa khí uy phúc rõ dày, càng phát
to lớn, nhận quý cục, là mang đức, là khôi danh mà lập công. 《 Chúc Thần kinh》 nói:
"Sửu, là hỏa ở thai dƣỡng, khí dần hƣng thịnh. Nếu gặp Bính Dần, Mậu Ngọ hỏa trợ giúp, có
thể thành công giúp vật."
Canh Dần, Tân Mão, là mộc lúc hàn lạnh. Tuyết sƣơng giữ không có thay đổi, huống cho có
kim khắc chứ? Trên có Canh Tân, không có chế trị, tự nhiên thành tài. Diêm Đông Tẩu nói:
"Tân Mão là mộc tự vƣợng, xuân hạ thì cố gắng khí tiết, kiến công lập nghiệp; sinh ở Thu thì
ức chế tính quá ngay thẳng, khí lực không làm cho phải lẽ."
Nhâm Thìn, là thủy tự khố. Nếu đất thủy ao hồ, kị kim đến quyết phá. Nếu lại thấy Nhâm
Thìn, thị nói là tự hình, khác biệt Thìn thì không có lỗi; gặp thủy nhiều, thổ đều hỷ. Duy chỉ
19 | Tam mệnh thông hội

sợ Nhâm Tuất, Quý Hợi, Bính Tý thủy, là sinh vƣợng thái quá, là chảy khắp nơi không có
chỗ quy về. 《 Ngũ Hành yếu luận 》nói: "Nhâm Thìn thủy là Chính Ấn, hàm chứa dức rõ
ràng lợi ích phì nhiêu. Chịu chứ đựng rất lớn, tâm nhớ nhƣ gƣơng. Đƣợc Xuân Hạ, là lấy đại
phúc; đƣợc thu đông, là loại gian trá vô đức."
Quý Tị, là thủy tự tuyệt, danh viết là Hạc lưu ( nƣớc khô cạn). Nếu gặp thổ Bính Tuất, Đinh
Hợi, Canh Tý dày nặng, chỉ có đợi mà khô; nếu đƣợc tam hợp kim sinh vƣợng sinh, thì suối
nguồn cuồn cuộn, khoa cử đầy đủ mà tiến vậy. 《 Ngũ Hành yếu luận 》nói: "Quý Tị, Ất
Mão, là thủy tự tuyệt tự tử, là đến âm thoái, tàng chân tinh sắc, dƣỡng ngƣng thành quý khí.
Nhận quý cục, là loại đạo tốt, vốn có đủ đức thƣờng, có công giúp vật."
Giáp Ngọ, là kim tự bại, cũng viết là kim dũng cảm. Gặp hỏa sinh vƣợng, là thành khí. Kị
Đinh Mão, Đinh Dậu, Mậu Tý hỏa là hung. 《 Ngũ Hành yếu luận 》nói: "Giáp Ngọ kim là
Tiến thần Khôi khí, có đủ đức cƣơng trực rõ ràng. Thu Đông thì cát, xuân hạ là hung; nhập
quý cách chủ khoa trƣờng kiến công trị chúng, không có thời lại mang Sát, thì thô bạo tàn
nhẫn, ít ân ít nghĩa."
Ất Mùi, là kim thiên khố. Cần hỏa chế, mà khí tụ thổ sinh thì phúc dày. Kị hỏa của Kỷ Mùi,
Bính Thân, Đinh Dậu. 《 Ngũ Hành yếu luận 》nói: "Ất Mùi kim ở số là mộc khố, lại là
Thiên tƣớng. Có đủ đức thuần nhân hậu nghĩa khí, không có không cát. Đƣợc quý cách, là tài
năng anh kiệt, nỗi tiếng tuyệt luân; đƣợc thƣờng cách, mang Sát xung phạm, cũng lấy quân tử
trong tiểu nhân, ngƣời thọ vậy."
Bính Thân, là hỏa tự bệnh, Đinh Dậu, là hỏa tự tử. là khí cực, có mộc tƣơng trợ, phƣơng
sinh khí. Kị thủy Giáp Thân, Ất Dậu, Giáp Dần, Ất Mão. Diêm Đông Tẩu nói: "Bính Thân,
là hỏa bệnh. Mộc lấy đức là văn minh, lấy tính thủy là rộng lƣợng, lấy gốc thổ là phúc tuệ;
duy chỉ có kim là bạo ngƣợc, dẫu có cát thần, cách là khí bất hòa."
Mậu Tuất, là mộc ở trong thổ. Kị trọng thấy thổ, nếu nạp âm thổ nhiều, cả đời gặp trở ngại.
Kim không thể khắc, bởi vì kim khí đến Tuất mà tán, gặp kim là có thể dẫn đến phúc; lợi thấy
thủy nhiều mộc thịnh mà thành quý cách. Diêm Đông Tẩu nói: "Mậu Tuất mộc, rễ cô đơn
độc lập, và lấy thủy hỏa vƣợng khí thì có đức anh minh đầy đủ, nhập cách thì văn chƣơng
tiến đạt, phúc lộc thủy chung, nhƣng khí nhận thiên tƣớng, chủ bị trải qua gian hiểm, giữ tiết
không dời, mới thấy muộn phúc."
Kỷ Hợi, là mộc tự sinh. Căn nguyên phồn thịnh, không kị nhiều kim, duy chỉ sợ kim của Tân
Hợi, Tân Tị, Quý Dậu; nếu thấy Ất Mão, Đinh Mùi thủy, Quý Mùi mộc, Mùi không có đại
quý. Diêm Đông Tẩu nói: " Kỷ Hợi mộc, đƣợc thời thì thanh quý, không có thời thì gian
khổ." Canh Tý, ngƣời dày đức. Có khả năng khắc thủy nhiều, chỗ khác không kị mộc, bởi vì
mộc đến Tý là vô khí; nếu gặp Nhâm Thân kim, gọi là vị trí minh Lộc, tất quý vậy.
02-04-16, 09:29
lesoi
Tân Sửu, là thổ tụ phúc. Mộc nhiều không thể khắc, bởi vì Sửu là kim khố, trong Sửu có
kim, thấy mộc sao hại? 《 Ngọc Tiêu bảo giám 》nói: "Canh Tý, Tân Sửu thổ thích mộc mà
ghét thủy, thấy mộc là Quan, thấy thủy là không thích hợp."
Nhâm Dần, là kim tự tuyệt, Quý Mão, là khí kim tán. Nếu thấy hỏa nhiều thì mất khí, duy
chỉ có hƣớng về thủy, thổ thì cát. 《 Ngũ Hành yếu luận 》nói: "Nhâm Dần, Quý Mão là
kim hƣ nhƣợc, ngƣời có đủ nhu đức nghĩa cƣơng. Mùa Đông cƣơng kiện không có hung,
hung là dấu hiệu cát; xuân hạ thì trong hung ngoài cát, cát là trƣớc hung. Nhập quý cách thì
tiết tháo anh minh, mang Sát thì hung bạo không thể tốt vậy."
Giáp Thìn, là hỏa thiên khố. Hỏa nhiều trợ giúp, là cát, chỗ gọi là thỉnh cầu đồng khí, lấy
sinh cho cái bất túc. Nếu thấy Mậu Thìn, Mậu Tuất mộc sinh, là quý cách; kị Nhâm Thìn,
Nhâm Tuất, Bính Ngọ, Đinh Mùi thủy là tối độc. 《 Ngũ Hành yếu luận 》nói: "Giáp Thìn
là hỏa thiên tƣớng, hàm chứa khí nhanh nhạy to lớn, nhập quý cách thì là đặc đạt, là văn khôi,
lợi ở thu đông, bất lợi ở mùa hạ."
20 | Tam mệnh thông hội

Ất Tị, là hỏa lâm quan. Thủy không thể khắc, bởi vì thủy tuyệt ở Tị; đƣợc thủy giúp đỡ, thì là
thuần túy. Nếu đƣợc hai ba hỏa trợ giúp, cũng tốt. 《 Ngũ Hành yếu luận 》nói: "Ất Tị hỏa
hàm chứa khí thuần dƣơng tốn phát, ánh sáng rực rỡ, xuân đông hƣớng cát, hạ thu hƣớng
hung."
Bính Ngọ, Đinh Mùi, là thủy Ngân Hà. Thổ không thể khắc, là thủy Thiên Thƣợng, địa kim
không thể sinh vậy. Sinh vƣợng thái quá, lại tổn hại cho vạn vật; tử tuyệt quá nhiều, lại không
thể sinh vạn vật. 《 Ngũ Hành yếu luận 》nói: "Bính Ngọ, là thủy rất cao quý, thể khí Nam
phƣơng ôn hậu. là loại có đạo khí hƣ biến, thông minh hơn ngƣời, là tƣớng cầm đầu mọi
ngƣời; Đinh Mùi vốn có đủ tam tài kim số, đƣợc xung chính khí. Chủ tinh khí thần đầy đủ,
tính căn đạo kỳ diệu hết sức thông biến."
Mậu Thân, là thổ gò đất cao. Mộc tuyệt ở Thân, không thể khắc. Nếu thấy kim thủy nhiều
trợ giúp, thì phú quý cách tôn vinh vậy.
Kỷ Dậu, là thổ tự bại. Khí bất túc, mƣợn hỏa để tƣơng trợ. Thấy hỏa Đinh Mão, Đinh Dậu thì
cát, thiết kị tử tuyệt. Sợ mộc Tân Mão, Tân Dậu, có họa yểu chiết.
Canh Tuất, Tân Hợi, kim dần dần thành. Không thể thấy hỏa, sợ có chỗ tổn thƣơng. Nếu
đƣợc thủy, thổ tƣơng trợ thì quý. Diêm Đông Tẩu nói: "Canh Tuất, là kim mộ hỏa, có tính
cƣơng cứng tự thành hung bạo. Thu động hầu nhƣ dày nặng, sinh xuân hạ động thì hối hận;
quân tử thì nắm quyền binh hình, tiểu nhân thì tính tự ý thô lỗ hung hăng. Tân Hợi là kim
bẩm Càn mà cƣơng kiện, rõ thuần, khí trung chính, ba mùa xuân, thu, đông là cát, mùa hạ
mất cát nhiều hung. Nhận quý cách, tính thể nhân ái thủ nghĩa; nếu mang hình sát, hung bạo
tham công."
Nhâm Tý, là mộc chuyên vị, Quý Sửu, là mộc thiên khố. Gặp tử tuyệt thì phú quý, sinh
vƣợng thì bần tiện; thủy nhiều thì yểu chiết; kim nhiều thổ thịnh đều tốt. 《 Ngũ Hành yếu
luận 》nói: "Nhâm Tý, là mộc u âm rậm rạp, là dƣơng nhƣợc âm thịnh, nhu mà không lập, là
loại thủy nhân đức. Dụng sự duy chỉ có đối với Bính Ngọ thủy, thì thành thủy, mộc xung
thuần đức, loại nhập phong cách thần tiên dị sĩ, phi thƣờng vậy."
Giáp Dần, là thủy tự bệnh, Ất Mão, là thủy tự tử. Tuy nhiên tử bệnh, thổ không thể khắc, bởi
vì can chi có hai mộc có thể lấy chế thổ. Nếu thấy kim Nhâm Dần, Quý Mão, thì là ƣu tú. 《
Ngũ Hành yếu luận 》nói: "Giáp Dần, Nhâm Tuất là hai thủy phục nghịch, âm thắng hơn
dƣơng, chủ gian tà hại vật, duy chỉ có lấy hỏa thổ để tổn ích, mới thành đại khí."
Bính Thìn, là thổ tự khố. Dày mà khỏe, hỷ Giáp Thìn hỏa, ác Mậu Thìn mộc. Thổ này
thƣờng là mộc không thể hại, bởi vì Bính là hỏa vậy, Thìn là thủy thiên khố, thổ lấy thành
khí. Duy chỉ sợ Mậu Tuất, Kỷ Hợi, Tân Mão, Mậu Thìn mộc. 《 Ngũ Hành yếu luận 》 nói:
"Bính Thìn thổ là Chính Ấn, thấy đức hội ngũ phúc là cát. Bẩm loại đều là có đại hanh,
không phú cũng quý, duy chỉ phạm xung nhiều là tăng đạo."
Đinh Tị, là thổ tự tuyệt. Lại không phải là tuyệt, bởi vì một thổ cƣ ở dƣới hai hỏa, ở đất phụ
mẫu, nhận ân từ trời, cho nên không phải là tuyệt. Mộc không thể khắc, hỏa nhiều ích tốt. 《
Ngọc Tiêu bảo giám 》nói: "Đinh Tị hàm chứa hỏa Đông Nam đức vƣợng, số đƣợc hàm
chứa dung nạp phúc thọ."
Mậu Ngọ, là hỏa tự vƣợng, Kỷ Mùi, là hỏa thiên khố. Cƣ ở phƣơng Ly rõ ràng, đất vƣợng
tƣớng, khí cực thịnh, khác thủy không có tổn thƣơng. Kị thủy Bính Ngọ, Đinh Mùi là Thiên
Thƣợng thủy. 《 Ngũ Hành yếu luận 》nói: "Kỷ Mùi, là hỏa suy, hàm chứa khí tàng báu
vật, tháng xuân hạ, vận nhập đất ẩm sâu, thì lòng dạ trong sáng, phúc khánh rất sâu, đƣợc
mùa hạ, không phải hòa khí vậy, đƣợc mùa thu, thì trƣớc cát sau hung."
Canh Thân, Tân Dậu hai mộc, kim ở trên mộc, bởi vì kim đã thành khí, kị thấy kim tiếp tục,
dẫn đến khí hủy hoại. Nếu thấy Giáp Thân, Ất Dậu thủy thì nhập cách. 《 Ngọc Tiêu bảo
giám 》nói: "Canh Thân, mộc tự tuyệt, là hồn đi thần biến, ngày sinh gặp chỗ này, loại khí
phi phàm, thƣờng cách chủ phú tính thông minh khác thƣờng, gia tộc bất kham, nhập quý
cách thì là tài năng anh kiệt, lập công không nối dõi; Tân Dậu, mộc mất vị trí, mộc bị khốn ở
21 | Tam mệnh thông hội

đất kim, thế hệ nhận trải qua nhiều khó khăn, duy chỉ có đối với Quý Mão kim là cƣơng nhu
tƣơng tế, thông minh siêu quần, quyết thủ khoa lớn."
Nhâm Tuất, là thủy thiên khố, Quý Hợi, là thủy lâm quan, danh viết là Đại Hải thủy. Bởi vì
can chi, nạp âm đều là thủy, kị thấy bầy thủy, Tuy Nhâm Thìn là thủy khố cũng không thể
đảm đƣơng. Chỗ khác không kị thổ, tử tuyệt thì cát, sinh vƣợng thì phiếm lạm không có chỗ
quy về vậy. 《 Ngọc Tiêu bảo giám 》 nói: "Hợi Tí, đúng vị trí thủy, Nhâm Tuất khí phục
mà không thuận, duy chỉ có thủy này, có thổ tổn ích, là thành đại khí."
Quý Hợi số vốn là thuần dƣơng, bên trong thể rất nhân ái, bẩm sinh yên lặng mà rộng lớn, chí
khí dân trào, lần lƣợt phát thành công, ngày giờ lợi trạch, kèm theo Sát thì hung bạo giảo
hoạt.
02-04-16, 09:30
lesoi
Lại viết: Bính Tuất thổ là dày phúc hƣng thịnh, cho nên hỏa cuối cùng là ở chỗ này vậy. Kỷ
Mùi, Canh Thìn, Mậu Thìn, Đinh Sửu đồng nghĩa giống chỗ này. Kỷ Mùi, là hỏa vậy, trong
Mùi có mộ mộc; Canh Thìn, là kim vậy, trong Thìn có thổ mộ; Mậu Thìn, là mộc vậy, trong
Thìn có thủy mộ; Đinh Sửu, là thủy vậy, trong Sửu có kim mộ, đều là khí phụ mẫu, đều có
chỗ nuôi dƣỡng. Năm loại kể trên phúc rất dày, có chỗ Quỷ hại, cũng không hại, cho nên
thành khí vậy.
Ất Tị, Mậu Ngọ, là hỏa viêm thịnh. Thu Đông lấy đức là cát, xuân hạ lấy hình là hung. Nếu
giữa mùa hạ một lúc phát viêm dữ dội, toàn quy về táo càng đốt thiêu, hòa mà thành xấu. Ất
Tị, là hỏa lâm quan, trên có một mộc sinh, khí thịnh vậy; Mậu Ngọ, là hỏa tự vƣợng, nếu sinh
thu đông, là khí nóng ấm, là đức giúp vật. Nếu sinh xuân hạ, vƣợng hỏa là tác hung phục
đƣợc dƣơng vị, sinh ở giữa mùa hạ, là hung bạo, khắc nhịn, là đƣờng hung yểu vậy. Ất Mão,
Quý Tị, Đinh Dậu, Ất Hợi, thủy hỏa tuy là tử tuyệt, lại trong sáng mà kỳ diệu; hỏa tử tuyệt
mà trong sáng ngoài tối, phản chiếu lại ánh sáng, thủy tử tuyệt mà đúng trong suốt, có thể
chiếu sáng cho đấng mày râu, cho nên mất trong mà kỳ diệu.
Nhâm Dần kim, việc quân không nghịch, Canh Thân mộc, là thần không cƣờng.
Ngũ hành thuộc ngũ âm, Cung thổ là Quân vậy, Thƣơng kim là Thần vậy, Giác mộc là dân
vậy. Thƣơng quá nhiều thì Thần cƣờng, Giác quá nhiều thì Quân nhƣợc. Cho nên trong ngũ
âm, thƣờng dụng tứ thanh Dĩ Sát Thƣơng Giác. Canh Thân là Giác mộc tự tuyệt vậy, Nhâm
Dần là Thƣơng kim tự tuyệt vậy, tính tình đắc đạo trung thuận, cho nên việc quân không
nghịch, là Thần không cƣờng. Cho nên tự tử nhỏ bé, Loan đài, Phƣợng các để thƣợng quan,
mệnh thiết kị kim mộc sinh vƣợng, nhƣ vậy tất nhiên là không nhỏ bé, bé thì cũng không có
lâu dài, chỉ có thể can gián thì đƣợc. Nếu kim mộc sinh vƣợng mà khắc phá thì không nhƣ
vậy.
Canh Thân mộc, Ất Tị hỏa, thổ kim sinh mà vẫn không sinh; Bính Ngọ thủy, Quý Mão kim,
mộc thủy tử mà vẫn không tử. Thổ sinh Thân mà không sinh ở Canh Thân, thủy sinh ở Thân
mà không sinh ở Mậu Thân, hỏa sinh ở Dần mà không sinh ở Giáp Dần, kim sinh ở Tị mà
không sinh ở Ất Tị, mộc sinh ở Hợi mà không sinh ở Tân Hợi, bởi vì xứ sinh mà lại bị thụ
chế vậy, gặp thì yểu thọ; thủy tử ở Mão mà không tử ở Quý Mão, thổ tử ở Mão mà không tử
ở Đinh Mão, mộc tử ở Ngọ mà không tử ở Bính Ngọ, kim tử ở Tý mà không tử ở Canh Tý,
hỏa tử ở Dậu mà không tử ở Tân Dậu, bởi vì xứ tử đƣợc sinh vậy, nếu gặp thì trƣờng thọ.
Mậu Tý, can chi vƣợng ở Bắc phƣơng, là vị trí thủy, nạp âm thuộc hỏa, là hỏa ở trong thủy,
không phải không thể có Thần Long; Bính Ngọ, can chi vƣợng ở Nam phƣơng, là vị trí hỏa,
nạp âm thuộc thủy, là thủy ở trong hỏa, không phãi không thể có thiên hà. Ngƣời Mậu Tý
đƣợc Bính Ngọ, hoặc ngƣời Bính Ngọ đƣợc Mậu Tý, không có không quý. Bởi vì trong hỏa
sinh thủy, trong thủy tàng hỏa, là Thủy Hỏa ký tế, tinh thần vận động, ngƣời tất linh thiêng
khác thƣờng vậy.
Tân Sửu thổ không sợ ở mộc, Mậu Tuất mộc không sợ ở kim. Là tại sao vậy? Sửu là kim
khố, mộc không thành quỷ; trong Tuất có hỏa, kim lại bị tai ƣơng. Nhƣ Mậu Tuất mộc, ở trên
22 | Tam mệnh thông hội

hai thổ, ở dƣới một mộc, chôn vùi ở trong hai thổ, còn mới nảy mầm, hình dạng không thấy,
là thổ thịnh mộc nhƣợc. Còn lại theo chỗ này mà suy ra.
Canh Dần mộc, Đinh Tị thổ không sợ Quỷ kim mộc. Kim đến cung Dần, tuy là Quỷ mà kim
tuyệt ở Dần, cho nên không là Quỷ; mộc đến cung Tị, mà Tị có sinh kim khắc mộc, cho nên
không thành Quỷ. Nhƣ Canh Dần mộc gặp Nhâm Thân kim, tƣơng xung bị khắc. Còn lại cứ
theo nhƣ vậy mà suy.
Canh Ngọ thổ, đón Nam phƣơng hỏa vƣợng để dƣỡng hình thể, Mậu Thân thổ tự sinh, Canh
Tý thổ tự đầy, là không kị mộc Quỷ. Bởi vì mộc đến Ngọ thì tử, Thân là tuyệt Tý là bại, lại
nói thổ tự cƣờng là sao vậy? Cứ theo vậy mà suy.
02-04-16, 09:31
lesoi
Nhâm Thân, Quý Dậu, Canh Tuất, Tân Hợi là bốn kim khí mạnh mẽ, không sợ ở Quỷ. Mậu
Tý hỏa không sợ Quỷ, trong thủy có Phích Lịch hỏa ( lửa sét đánh không sợ thủy), có thần
Long, bởi vì có thủy thì sấm mới lóe sáng, nếu gặp Bính Ngọ, thủy không ở trên trời, thì có
chỗ kị; có công tƣơng chiến. Thông thƣờng can chi bản mệnh thụ thƣơng, thì chủ lục căn
không đủ, có thủy không có chung, nhƣ Đinh Tị thấy Quý Hợi, Nhâm Tý thấy Mậu Ngọ. Còn
lại theo vậy mà suy.
Mậu Ngọ, Canh Thân, ta và nó đều đƣợc, là siêu việt. Canh Thân, là Thạch Lựu mộc, mùa hạ
vƣợng, cho nên hỷ Mậu Ngọ. Bởi vì hỏa Quan vƣợng, mà tính Thạch Lựu mộc đƣợc thời,
Mậu Ngọ là hỏa vƣợng cực, hỷ ở Thân, thấy Thiên Mã tƣơng tƣ vậy. Thần đầu lộc, tức là
thập can chuyên vị lộc, là âm dƣơng chuyên vị, hội thiên địa thần vậy. Xếp chân nguyên Bát
quái, diễn ngũ hành thành bại, cƣơng nhu tƣơng suy, có không có hợp hóa. Cho nên Nhâm Tý
thủy ứng Khảm ở Bắc phƣơng, Bính Ngọ hỏa ứng cung Ly Nam cung, cho nên Bính Ngọ
đƣợc Nhâm Tý không phải là phá, Đinh Tị đƣợc Quý Hợi không phải là xung, là gốc của
Thủy Hỏa tƣơng tế, lý có phu phụ phối hợp, Khảm Ly là dụng tinh thần nam nữ vậy; Nhâm
Tý đƣợc Bính Ngọ, Quý Hợi đƣợc Đinh Tị, thì hỏa thủy trƣớc sau, chƣa có tƣợng cứu tế,
không bằng Đinh Tị thấy Nhâm Tý, Bính Ngọ đƣợc Quý Hợi vậy.
Canh Thân, Tân Dậu kim ứng với cung Đoài ở Tây phƣơng; Giáp Dần, Ất Mão mộc tƣợng
cung Chấn ở Đông phƣơng, cho nên Giáp Dần đƣợc Canh Thân không phải là hình, Ất Mão
đƣợc Tân Dậu không thành Quỷ, là chính thể mộc nữ kim nam, rõ ràng tả hữu hóa thần vậy.
Mộc chủ hồn, Kim chủ phách, cả hai tả hữu, gián cách không không hợp, nếu kim có thể hợp,
thì hóa thần sinh là không có ngăn cách vậy. Nếu Canh Thân đƣợc Ất Mão, Tân Dậu đƣợc
Giáp Dần thì không phải là nguyên thần, dụng phải biến thông vậy.
Mậu Thìn, Mậu Tuất thổ là Khôi Cƣơng tƣơng hội, Càn Khôn đƣợc dày, phúc lại hàm sinh,
bất đắc dĩ thành phản ngâm. Mậu Thìn, Mậu Tuất không phải là xung, thổ đƣợc chính vị, là
can lấy gốc tụ vậy. Kỷ Sửu, Kỷ Mùi là quý thần thủ trung trinh.
Chỗ này bốn chân thổ có đạo vạn vật thủy chung, không phải đại nhân quân tử, đã có thể có
đủ đức này? Huống chi thần đầu lộc tất cả có thần chủ, trái phải vận động ở trong lục hợp,
biến đủ co rút ở cát hung vậy.
Kỷ Sửu thổ là Thiên Ất quý nhân, Kỷ Mùi thổ là Phúc thần to lớn, giải cả trăm hung sát, nếu
gặp, nên dụng là hỷ tiền của bất chính. Mậu Thìn là Câu Trần, Mậu Tuất là Thiên Không, thổ
thần đa số là di dời thay đổi, che chắn ở bên ngoài chỗ tƣớng soái, xuất ra trấn biên phòng,
không có tầm thƣờng vậy;
Đinh Tị là Xà thần, hung lấy dụng hung, cát lấy đón cát, nhiều mê hoặc hay là lo buồn, có
tính khôi hài;
Bính Ngọ là thần Chu Tƣớc, ứng thể ánh mặt trời, lời văn mỹ lệ;
Giáp Dần là thần Thanh Long, bố thì giúp nhiều ngƣời, đƣợc lợi ở bốn phƣơng;
Ất Mão là thần Lục Hợp, chủ phát sinh vinh hoa, hòa nhƣợc thuận đảng;
Nhâm Tý là thần Thiên Hậu, chủ âm chất thiên đức, dung mỹ đa quyền;
Quý Hợi là thần Huyền Vũ, là âm dƣơng chung cực, có khí tiềm phục, nhƣ chảy theo dƣới,
23 | Tam mệnh thông hội

tuy có trí lớn, không phải là kẻ sĩ hiên ngang siêu việt, thuận thì an bình, nghịch thì xấu xa;
Canh Thân là thần Bạch Hổ, lợi ở vũ mà bất lợi ở văn, có tính ôm đƣờng đơn côi, trong thiện
ngoài nghiêm, ngoài mạnh trong yếu, có nhân nghĩa, thích trầm tĩnh;
Tân Dậu là thần Thái Âm, ôm khí túc sát, có tác phong thanh bạch, là lợi khẩu văn chƣơng,
tài năng không thế, nhƣng mà chớ lấy tính tình lục thân chú giải hƣu vƣợng định gặp họa
phúc.
02-04-16, 09:32
lesoi
Kim

Chú thích: Giáp Tý, Ất Sửu, Nhâm Dần, Quý Mão, Canh Thìn, Tân Tị, Giáp Ngọ, Ất Mùi,
Nhâm Thân, Quý Dậu, Canh Tuất, Tân Hợi nạp âm đều là kim.
Giáp Tý, Ất Sửu: Hải Trung kim
Hải Trung kim, là bảo tàng ở Long cung, châu ngọc mang thai báu vật Giao Long, xuất hiện
mặc dù ở Không trung, thành khí không có dựa vào ở hỏa lực, cho nên Đông Phƣơng Sóc lấy
danh là ngọc trai, rất có lý vậy. Diệu Tuyển có Châu tàng Uyên Hải cách, lấy Giáp Tý thấy
Quý Hợi, là không dụng hỏa; gặp Không thì có Bạng Châu Chiếu Nguyệt cách, lấy Giáp Tý
thấy Kỷ Mùi, là muốn Hợp hóa hỗ quý. Bởi vì lấy kim trong biển là vô hình, không phải
không xung thì không thể xuất hiện, mà Ất Sửu là kim khố, cho nên không phải hỏa vƣợng
thì không thể đúc rèn vậy. Nhƣ Giáp Tý thấy Mậu Dần, Canh Ngọ, là thổ sinh kim, Ất Sửu
thấy Bính Dần, Đinh Mão, là hỏa chế kim. Thiên can lại gặp Tam Kỳ, loại cách cục này, thì
không có không quý.
Nhâm Dần, Quý Mão: Kim Bạc kim
Kim Bạc kim, dùng để trau chuốt trang sức chén mâm, làm rạng rỡ cung thất, đánh mỏng cần
phải mƣợn ở kim khác, tô màu tất là mƣợn ở thủy lực. Chỗ này kim rất nhỏ bé, không có mộc
thì không có chỗ dựa vào. Lấy đất bằng phẳng là vi thƣợng, có chỗ này không nên thấy hỏa,
có hỏa thì yểu. Gặp Thái Dƣơng lộ rõ ở ban ngày, hai hỏa tƣơng phản, không nên cùng thấy.
Sơn Hạ, Sơn Đầu hỏa, có thủy thanh trong trợ giúp cũng cát. Duy chỉ có kị Lô trung hỏa, thì
là tƣơng khắc. Loại kim này thể nhƣợc, không thể phản nguyên định là yểu, luận vận hạn
cũng giống vậy. Tỉnh Tuyền, Giản Hạ, Thiên Hà là thủy thanh, hỷ thấy ở ngày giờ, Nguyệt
lệnh cần có mộc, mới cát; Khê Lƣu, Đại Hải là thủy đục, thấy Khê Lƣu chủ phiêu đãng, thấy
Đại Hải không có mộc làm gốc, là chủ hung tàn. Kim gặp Kiếm Phong, Soa Xuyến, có thể
làm trang sức, lý là có phụ trợ thành tạo hóa, cho nên hỷ thấy; Sa Hải, Bạch Chá kim là vô
ích, có hỏa giúp, cũng cát, không có thì cuối cùng là hung. Thành Đầu, Bích Thƣợng là hai
thổ có chỗ dựa mà an thân, Thành Đầu chủ phần đa là gửi cho ngƣời, Bích Thƣợng thêm mộc
thì quý, lại gặp Đăng Hỏa chiếu sáng rực rỡ, chủ quyền quý. Bính Tuất thổ trong tàng hỏa,
can chi lại không nên quá viêm nóng, cũng là quý cách, tra cứu thêm ở Diệu Tuyển. Mệnh
kim mà gặp Mậu Dần, là Côn Sơn phiến Ngọc cách vậy; Quý Mão mà gặp Kỷ Mão, là Ngọc
Thỏ Đông Thăng cách vậy, cùng giống nhƣ Hải Kim ở trƣớc.
Canh Thìn, Tân Tị: Bạch Chá kim
Bạch Chá kim, là Côn Sơn phiến Ngọc, kim rơi ở sông Lạc, giao lại ánh sáng của Nhật
Nguyệt, khí âm dƣơng ngƣng tụ, hình rõ thể thanh, là màu sắc chính của kim vậy. Chỗ này
kim chỉ có hỷ hỏa luyện, cần Lô Trung viêm hỏa. Nhƣng nếu thấy Canh Thìn, không có thủy
trợ giúp, là chủ bần yểu, Tân Tị thì lại lấy quý luận, bởi vì Tị là đất kim sinh, cho nên thấy
Bính Dần hóa thủy gặp quý vậy; Sơn Hạ hỏa sinh sáng sớm, là chủ vinh quý, cũng cần thủy
trợ giúp mới đƣợc. Tỉnh Tuyền, Đại Khê đều là quý cách. Canh Quan ở Đinh, Tân Quan ở
Bính, cho nên Canh thấy Đinh Sửu, Quan quý đều có đủ; Tân thấy Bính Tý, không bằng Quý
Tị thanh hơn, không quý cũng phú. Luận lúc thấy mộc, gặp nhiều là vô ích, vì kim này không
thể tƣơng khắc. Nếu trụ gặp hỏa vô khí, lại cần mộc sinh, có Lộc Mã Quý nhân mới cát. Thấy
thổ chỉ nên mài xây sát, mới thành đồ dùng, thì cát, thổ khác là vô dụng. Kim kị Hải Sa, là
24 | Tam mệnh thông hội

chìm mất, ngày giờ gặp hỏa thì vinh. Nếu thấy kim thanh, thêm thủy tƣơng trợ, hỏa cũng
không thích, chỉ sợ xung hình. Diệu Tuyển có Tiếu Phong Mãnh Hổ cách, kim này lấy ngày
giờ gặp Tân Tị hoặc Ất Tị là vậy.
Giáp Ngọ, Ất Mùi: Sa Trung kim
Sa Trung kim, đất bố trí hình dạng cứng rắn, tính chất quý báu ẩn ở trong cát, dạy thẳng tẩy
rửa mới quý, tất cần phải có thủy quý. Chỗ này kim không phải Lô Trung hỏa không thể chế
tạo, nhƣng Giáp Ngọ thấy Bính Dần, Dần gặp hỏa sinh, Dần Ngọ hợp cục, trụ không có thổ
trƣờng sinh thì khô táo, chớ gặp mộc trợ, chủ tật yểu; Bính Ngọ nạp âm tuy là thủy, mà can
chi đều thuần hỏa, gặp thêm càng hung. Sơn Đầu, Sơn Hạ, Phúc Đăng là ba hỏa đã có mộc
sinh, khắc chế kim này, lại cần thủy thanh giúp đỡ, quyết chủ thiếu niên vinh quý. Mậu Tý,
Kỷ Sửu long hỏa tƣơng phùng, có Tý Ngọ giao cấu là diệu kỳ, lý là Giáp Kỷ có hợp hóa, chủ
quý, phàm lấy hỏa tạp là không thành. Thủy duy chỉ có Tỉnh Tuyền, Giản Hạ, Thiên Hà,
thanh tĩnh thì cát; Trƣờng Lƣu, Đại Hải thủy, động mà không tĩnh, nếu cùng thấy thì kim
phiếm lạm bất an; Hải thủy thì càng kị, thấy mộc thì có quan hệ gì? Hỏa suy lại hỷ sinh phù,
có thêm Lộc Mã Quý nhân hỗ hoán triều củng là vi thƣợng, nhƣ trụ không có hỏa, gặp 1,2
mộc thì nguy. Nếu Giáp Ngọ thấy Kỷ Tị, là nói hái kim tinh ở Hoàng Thích (nơi vua ngự),
chính là quý cách vậy; kim sinh ở cát, đƣợc tạo hóa thì cát, nếu lại gặp Sa thổ, lại sợ bị chôn
vùi; Lộ Bàng, Đại Dịch thổ cũng có chỗ kị, có hỏa là thứ; hỷ thấy Mậu Dần, Ất Mùi Thành
Đầu thổ, gọi là khai thác tinh kim ở đất cát sạch, chính là quý cách vậy. Duy chỉ có Bính Tuất
thổ trong có tàng hỏa, là kim hỉ thấy, là đồng loại, tối hỷ, thanh khí vi thƣợng. Hải Trung,
Bạch Chá kim có hỏa chế cũng đƣợc.
Nhâm Thân, Quý Dậu: Kiếm Phong kim
Kiếm Phong kim, Bạch Đế nắm quyền, cƣơng nhờ nung luyện, ánh hồng quang bắn ở sao
Đẩu Ngƣu, gƣơm sắc tụ ở sƣơng tuyết. Tạo hóa kim này, không có thủy thì không thể sinh,
Đại Khê, Hải thủy, ngày giờ cùng gặp là thƣợng cách; Tỉnh Tuyền, Giản Hạ, có Phích Lịch
hỏa trợ hoặc đƣợc Ất Mão phong lôi mới tốt, nếu không có sấm sét, cũng là Kim bạch Thủy
thanh cách vậy. Sinh mùa Thu càng cát, ngày giờ gặp Trƣờng Lƣu ở Nhâm Thìn, là nói Bảo
kiếm hóa thành Thanh Long, Quý Tị cũng đƣợc. Kiếm này không thể biến thông. Nhƣng Quý
Sửu là kiếm khí xung đầu, rất cát. Tùng Bách, Dƣơng Liễu cũng cát, nhƣng nhiều tụ tán; Đại
Lâm, Bình Địa sợ có thổ chế, chủ lao khổ. Hỏa thấy Thần Long, là âm dƣơng giao ngộ, nhƣ
Nhâm Thân gặp Kỷ Sửu, Quý Dậu gặp Mậu Tý, mới là thƣợng cách. Gặp hai hỏa Thiên
Thƣợng, Lƣ Trung, không có thủy cứu thì yểu. Các chƣ thổ thấy nhiều đều không cát, vì bị
chôn vùi, chỉ có Bích Thƣợng, Thành Đầu có chỗ dụng để mài kiếm sắc bén, hai thổ này thì
đƣợc. Kim hỷ đồng loại, nhƣ Nhâm Thân thấy Nhâm Thân, Quý Dậu thấy Quý Dậu, có mộc
chế, thì gọi là Bàn căn kém tiết, cho nên khác lợi khí vậy, không có mộc chủ mang bệnh tật.
Nói chung, Kiếm Phong chính là kim sắc bén nhất, chỉ cần thủy, không cần hỏa hình, nhƣ
thấy Dần Tị tam hình, là đại hung.
Canh Tuất, Tân Hợi: Thoa Xuyến kim
Thoa Xuyến kim, dùng trang sức làm đẹp, làm rạng rỡ da nhầy, là báu vật thân cận nữ sắc, là
báu ngọc gối đầu ngũ thơm, chỗ này là kim tàng ở khuê các, duy chỉ cần thủy tĩnh, Tỉnh
Giản, Khê Lƣu thủy, thấy đều cát, thấy nhiều thì phiếm lạm, gặp Hải thủy thì bần yểu; thấy
Tân Hợi Thiên Hà thủy thì không ngại, Bính Ngọ là chân hỏa, chỗ kị của Canh Tuất, vì Ngọ
Tuất thấu thành hỏa cục, cho nên là có hại cho kim này vậy. Thái Dƣơng hỏa sinh ban ngày
là hiển diệu, còn Phúc Đăng hỏa thì sinh ban đêm là hiển diệu, cho nên đều cần thấy, nhƣng
Giáp Thìn Ất Tị cùng Canh Tuất Tân Hợi là tƣơng xung, âm dƣơng giao kiến là tốt, Mậu Tý
Kỷ Sửu cùng Bính Ngọ Đinh Mùi là không nhân nhƣợng nhau, hai hỏa kị trùng điệp, thấy thì
không bần cũng yểu. Lƣ Trung hỏa là tối kị của Canh Tuất, thấy Tân Hợi thì Bính và Tân hợp
hóa thủy, hơi cát. Sơn Hạ, Sơn Đầu hỏa đều không nên thấy, nếu có thủy cứu tế, cũng đƣợc.
Trong trụ có thủy, kim này sẽ nhập vào trong hộp, có phúc quý mới cát. Thấy Sa Trung thổ,
là tƣơng sinh tƣơng dƣỡng, lại có Giản Hạ thủy trợ giúp, thì vinh hoa phú quý.
25 | Tam mệnh thông hội

02-04-16, 09:33
lesoi
Hỏa

Chú thích: Mậu Tý, Kỷ Sửu, Bính Dần, Đinh Mão, Giáp Thìn, Ất Tị, Mậu Ngọ, Kỷ Mùi,
Bính Thân, Đinh Dậu, Giáp Tuất, Ất Hợi nạp âm đều là hỏa.
Mậu Tý, Kỷ Sửu: Phích Lịch hỏa
Phích Lịch hỏa, là một luồng hào quang, hiệu lệnh là Cửu Thiên, thế điện chớp giật Kim Xà,
nói là Kỵ binh đuổi chạy. Hỏa này cần sự giúp đỡ của Phong Thủy Lôi (gió nƣớc sấm sét)
mới thành biến hóa, nếu ngũ hành gặp đƣợc một lúc, đều chủ hanh thông. Nhƣ ngày giờ thấy
Đại Hải thủy, Quý Hợi gọi là Dẫn phàm nhập Thánh, Kỷ Sửu là vi thƣợng, Mậu Tý là thứ;
thấy Ất Mão Đại Khê, là lôi hỏa biến hóa, Kỷ Sửu là cát, Mậu Tý là kị; Thìn Tị là gặp gió
chuyển động, gặp càng tốt; Thiên Thƣợng thủy danh là Ký tế, chủ cát, gặp thì có linh tính,
thông minh khác thƣờng, Trƣờng Lƣu thì vô dụng, Giản Hạ tuy là tụ vị trí tƣơng khắc, chỗ
này là hỏa thần vậy, không kị, có gió cũng hiển. Ngũ hành thấy mộc, Tân Mão có lôi, Đại
Lâm có phong, Bình Địa có Thiên Môn, cùng giúp đỡ hỏa này, còn mộc là vô dụng. Thấy Lộ
Bàng thổ, thêm Tốn thì cát, Đinh Tị Sa Trung có phong, Kỷ Mão có lôi, đƣợc Tỉnh Tuyền trợ
giúp, cũng chủ quý hiển. Kiếm kim thêm thủy, Hải kim gặp phong, Chá kim gặp Giản, đều
cát, kim còn lại vô dụng. Thấy Lô Trung Đinh Mão là cát, Mậu Tý gặp Bính Dần, quá táo thì
tính hung, chủ yểu. Kỷ Sửu thấy Bính Thân lại đƣợc, Mậu Tý là kị; Đăng Hỏa, Đông Nam
Tốn địa, có phong là rất thích hợp; Mậu Ngọ Kỷ Mùi Thiên Thƣợng hỏa, ngày giờ nếu gặp,
đề phòng hình khắc. Lại khảo sát thêm ở Diệu Tuyển, có bày ra Phong Lôi Vũ cách, tức là
Phích Lịch thấy Thiên Hà vậy, có Thiên Địa trung phân cách, tức là Mậu Tý thấy Mậu Ngọ
vậy, có Lôi Đình Đắc Môn cách, tức là Mậu Tý Kỷ Sửu, ngày giờ gặp Mão là đúng.
Bính Dần, Đinh Mão: Lư Trung hỏa
Lƣ trung hỏa, là lò lửa giữa trời đất, là than củi âm dƣơng, ánh sáng bốc lên ở giữa vũ trụ, trở
thành nung đúc ở Càn Khôn. Hỏa này là Viêm thƣợng, hỷ đƣợc mộc sinh, duy chỉ có Bình
Địa mộc là vi thƣợng, lấy Bính Dần thấy Kỷ Hợi, gọi là Thiên Ất quý, thấy Mậu Tuất, gọi là
quy khố, cho nên cát, Đinh Mão là thứ. Nhƣng Bính Dần là hỏa tự sinh, không có mộc để tựa,
Đinh Mão là hỏa tự bại, nếu không có mộc thì hung, mà hỏa này lấy kim làm dụng, đƣợc
thêm kim đến, mới ứng cơ hóa, nhƣng Đinh Mão không có mộc mà lại gặp kim, chủ mệnh
lao khổ. Nói Dần kiến mộc nhiều hỏa, viêm mà không có thủy chế, chủ yểu, thấy 3 Mão, 2
mộc thì không ngại, nhƣ Canh Dần Tân Mão là nói tƣơng sinh, Nhâm Ngọ Quý Mùi là hóa
chân hỏa, thấy Dần nhiều chủ hung bạo hoặc tật yểu. Nếu trời đất vốn có thủy chế, cũng chủ
trung thọ, Đinh Mão không ngại. Hỏa này tuy hỷ đƣợc kim là Tài, ở trong Kiếm kim thấy
Dần hơi đƣợc, Đinh Mão hỏa đã tự bại, lại đến Thân Dậu mà tử tuyệt, làm sao mà khắc!
Không bần cũng yểu. Các loại kim nhƣ Hải Trung, Sa Chá, cần giúp mộc sinh, mới hỷ thấy,
Soa Bạc kim là vô dụng. Thấy thổ trƣớc tiên phải có kim và mộc, nhƣng hỷ có đủ thổ, không
đến nỗi quá khô táo. Nhƣ Thành Đầu, ốc Bích thổ đều thành khí, mới thích thấy thủy, trong
mệnh trƣớc tiên là thích mộc, không bằng hỷ gặp nhiều hỏa. Thiên Thƣợng thanh thủy, mậnh
Dần gặp là cát, trong Mão không có mộc thì lo; Đại Hải, Bính Dần thấy Nhâm Tuất là phúc
khố, thấy Quý Hợi là Quan tinh, mang hợp thì nửa hung nửa cát; Tỉnh Giản, Khê Lƣu thủy
đều hung, có mộc thì không luận ở đây. Hỏa thấy đồng loại, nếu trên tháng ngày suy bại thì
cát; Phích Lịch hỏa bản tự là vô ích, nếu có mộc sinh, ngày giờ lại có Hải thủy thì tốt, không
có mộc gặpp thủy, thì hung; Thiên Thƣợng hỏa cần có Ốc Thổ chận, Đăng hỏa Tốn phong,
lại là khích lệ, Vong Thần phải kiêm tạo hóa, đoán nhƣ Bính Dần, Đinh Dậu, Kỷ Dậu, Bính
Dần là hỏa vô khí, không mất đại quý, nhƣ Bính Dần, Giáp Ngọ, Kỷ Tị, Bính Dần thì phiêu
phiếm bất an.
Giáp Thìn - Ất Tị, Phúc Đăng hỏa
Phúc Đăng hỏa, là kim ngọn đèn chiếu sáng, là đài châu ngọc nhả ra xinh đẹp, theo chỗ Nhật
26 | Tam mệnh thông hội

Nguyệt không theo, sáng khi lúc trời đất không có sáng. Hỏa này chính là hỏa sáng ở ban
đêm trong nhân gian, lấy mộc làm trung tâm, lấy thủy làm dầu, gặp âm thì cát, gặp dƣơng thì
bất lợi. Phàm ngày giờ tối kị lại thấy Thìn Tị, địa chi có xung, e rằng gió thổi tắt đèn, chủ
yểu. Hoặc lấy Tuất Hợi, Tý Sửu là âm, hoặc lấy từ Mùi đến Hợi là âm. Ngũ hành thấy mộc là
bản căn, phàm mộc đều là tốt, gặp thêm Quan tinh, Lộc quý giúp nhau, can đầu hóa thủy,
càng cát; vận hạn gặp tƣơng trợ, là đại quý. Lấy Tỉnh Tuyền thủy, Giản Hạ thủy là chân dầu
nhớt, dầu chảy dài, ở Diệu Tuyển có Ám Đăng thiêm Du cách, tức là lý này vậy; Đại Hải, Hà
thủy thì không thể lấy làm dầu nhớt, gặp là tầm thƣờng. Nói chung hỏa này, thấy thủy phải
giúp mộc, không thích trƣờng sinh vƣợng khí, thủy quá phiếm, lại hung. Mệnh gặp Bạc kim
chiếu diệu, rất là thanh quý, cũng cần thủy mộc giúp nhau, mới có thể hiển đạt; Sa Trung, Soa
Xuyến hai kim này đều cát; Kiếm Phong kim, gọi là Đăng hoa phất Kiếm, càng cát; Chá kim
thì không hợp. Ngũ hành thấy thổ, phải đề phòng khắc phá. Nếu là Bích thổ có thễ an thân,
Ốc thổ thì có thể có phúc ấm, ngày giờ cùng thấy, chủ phúc quý, Sa thổ có mộc, cũng có y
thực, thổ còn lại là vô dụng. Hỏa yêu đồng loại, lại sợ gió thổi. Phích Lịch là hỏa Thần Long
biến hóa, tất là mang gió đến, thì hỏa này khó mà tồn tại; Thiên Thƣợng, Lƣ Trung 2 hỏa này
nếu cùng thấy, là tối hung. Lại tra thêm Diệu Tuyển, có Khôi Tinh cách, Chỉ Nam cách, lấy
ngƣời sinh Giáp Thìn, ngày giờ gặp Ngọ Mùi là đúng; có Hỏa Thổ nhập Đƣờng cách, lấy hỏa
này sợ gió, ngày giờ gặp Bính Tuất Đinh Hợi Ốc Thƣợng thổ, thì dđèn ở trong nhà, lại có
thêm dầu, là càng quý.
Mậu Ngọ - Kỷ Mùi, Thiên Thượng hỏa
Thiên Thƣợng hỏa, làm ấ áp núi sông, chiếu sáng vũ trụ, Nhật (mặt trời) đức chiếu sáng đẹp
đẽ ở trên trời, Nguyệt Tinh (Mặt trăng và các vì sao) cách ly chiếu sáng ở trên biển, Mậu Ngọ
là Thái Dƣơng thì cƣơng, Kỷ Mùi là Thái Âm thì nhu, hoặc lấy lấy Nhật ở mùa hạ thì cƣơng,
Nhật ở mùa đông thì ôn nhu, là vu khống vậy. Đều yêu cầu Tuất Hợi là Thiên Môn, Mão Dậu
là cánh cửa xuất nhập, đông nam là hành lục địa thì cát. Hỏa này thấy mộc gọi là Chấn chiết,
ngày giờ cần có phong cùng thủy mới đƣợc. Đại Lâm mộc có Thìn Tị, Tùng Bách, Thạch
Lựu có Mão Dậu, cho nên duy chỉ có 3 mộc này là quý. Ngọ thấy mộc nhiều vẫn còn đƣợc, 3
Mùi, 4 mộc, là mệnh lao khổ vậy. Thấy kim mà có thể chiếu sáng, không thể khắc cứu. Soa
kim có Tuất Hợi, Bạc kim có Dần Mão, chủ cát; thấy kim là Nhật Nguyệt chiếu sáng, tất chủ
thiếu niên đăng khoa đệ; kim còn lại thì tai ƣơng. Thủy cần Giản Hạ, cần Mậu Ngọ thấy Đinh
Sửu, Kỷ Mùi thấy Bính Tý, âm dƣơng giao hỗ nhau, mới là phúc quý, trong trụ có thêm mộc
giúp sinh, phú quý song kim; Đại Khê có Ất Mão, Tỉnh Tuyền có Kỷ Dậu, có cửa xuất nhập,
đều cát; Thiên Hà Vũ lộ cứu nhau, không lấy vị trí khắc luận, Mậu Ngọ thấy Đinh Mùi, cũng
cát, Bính Ngọ thì không sáng. Hỏa thích Đăng đầu, lại có hỏa khác thì khô táo; Phích Lịch
mang mây mƣa thì Nhật Nguyệt không có ánh sáng, cho nên chủ hôn mê ngu muội; Lƣ Trung
Ngọ kị Bính Dần, Tị Ngọ là cƣơng hỏa, mới thấy Bính Dần, thì là đất hỏa sinh, nếu không có
thanh thủy giải cứu, chủ phạm hình hung tử, Đinh Mão thì hơi đƣợc; thổ thấy Sa Trung, có
Tốn làm phong; Lộ Bàng, Thành Ốc đều cát, trong trụ có thêm kim mộc trợ nhau, càng cát.
Khảo sát Diệu Tuyển, Mậu Ngọ gặp Mão, Kỷ Mùi gặp Dậu, là Nhật Nguyệt phân tú cách, mà
Mão lấy Ất Mão, Tân Mão là chính, Kỷ Mão, Đinh Mão là thứ, Dậu lấy Ất Dậu, Quý Dậu là
chính, Kỷ Dậu, Đinh Dậu là thứ; có Nhật xuất Phù Tang cách, tức là Nhật phân tú cách, ngày
giờ lại thấy Tị Ngọ; có Nhật luân Đƣơng Biểu cách, lấy Mậu Ngọ sinh ở Ngọ, ngày gặp ngày
Tị Ngọ, lại lấy Mậu Ngọ thấy Mậu Tý là chính vị trí Khảm Ly; có Nguyệt sinh Thƣơng Hải
cách, tức là Nguyệt phân tú cách, mà Dậu đƣợc Ất Quý là vậy; có Nguyệt chiếu Hàn Đàm
cách, là thủ Nhâm Quý Hợi Tý, nạp âm thuộc thủy là Đàm, nhƣng tất phải sinh mùa thu mới
quý; có Nguyệt Quế phân phƣơng cách, ngƣời sinh là Kỷ Mùi, trụ có 3, 4 mộc củng tập, cùng
giống Quế Lâm cách, cùng Quế Lâm Tị ít mới quý, Phân Phƣơng Tị nhiều là quý, nghĩa đều
có chỗ dùng vậy. Lại xét trong hung cách, Thái Dƣơng tổn ánh sáng, Mậu Ngọ không chịu
đƣợc ở thủy tràn, là sợ thủy thịnh; Thái Âm bạc thực, Kỷ Mùi sao kham ở thổ nhiều chứ? Là
sợ thổ trọng vậy. Cần phải tham khảo cùng nhƣ thế, mới hiểu hết lý.
27 | Tam mệnh thông hội

Bính Thân - Đinh Dậu, Sơn Hạ hỏa


Sơn Hạ hỏa, ánh sáng rực chiếu cây cỏ, hoa Lý lóa sáng, ánh sáng chiếu rừng cây xen cành
lá, màu sắc ngăn cách màn che điểm trên quần áo, Phƣơng Sóc lấy danh là Huỳnh Hỏa, cho
nên trong Diệu Tuyển có Huỳnh Hỏa chiếu Thủy cách, sinh gặp mùa thu thì quý hàng Khanh
Giám, là vì hỏa này hỷ thủy, địa chi phùng Hợi Tý, hoặc nạp âm thủy gặp thêm tháng Thân
Dậu là vậy. Hoặc vì Sơn Hạ hỏa tối hỷ mộc và sơn, lại gặp gió đến tăng thêm ánh sáng là
quý, thì không lấy Huỳnh Hỏa luận vậy. Đại Lâm mộc có Thìn Tị là phong là gió, Tang Chá
mộc có Quý Sửu là sơn, Tùng Bách Bình Địa là tối cát, lại thêm phong trợ giúp, chủ quý, nếu
gió nhiều thổi tán, là chủ yểu. Thủy thích Tỉnh Tuyền, Giản Hạ, có mộc trợ giúp, chủ tƣớc vị
hiển cao, Đại Hải thủy thì không hợp, nhƣng có sơn (núi) cũng ứng quý cách. Dần Mão là
đông phƣơng đất mộc vƣợng hỏa sinh, chỉ có Giáp Dần mới cát, Ất Mão là Chấn, có phong,
thấy không tốt. Nếu không có hỏa không có sơn, lại thêm Phích hỏa, chủ yểu. Thiên Thƣợng
thủy là mƣa rào, hỏa này không thích thấy, nếu trƣớc có sơn thủy trợ giúp, cũng không đại
hại. Mệnh lý có kim, lấy thanh tú là cát, không có gặp nhiều mộc, lấy cƣớp khí mà luận. Ất
Sửu là sơn, chủ quý; kim còn lại nếu không có khắc phá, gặp Quý nhân Lộc Mã, chỉ lấy Tài
luận. Thổ thấy Sa Trung, Thìn Tị có phong, nếu có mộc có sơn trợ thêm, chủ đại quý, không
có thì hƣ danh. Hỏa kị Thái Dƣơng, Phích Lịch, Đăng Đầu, Tốn là chủ phần đa là quang hiển.
Ngũ hành có hỏa, cần mộc giúp là cát, hạn số hỷ kị, đều theo chỗ này mà đoán.
Giáp Tuất - Ất Hợi, Sơn Đầu hỏa
Sơn Đầu hỏa, cũng là nguyên liệu đốt cháy, cháy lan hết tầm nhìn, là ánh tà dƣơng đi theo
phía chân trời, mặt trời lặn phảng phát trên đỉnh núi, chỗ này chính là tháng 9 khai hoang, cây
cỏ suy hỏa tàn lụi vậy. Đại khái cần sơn mộc và phong mộc, hỷ Đại Lâm, Tùng Bách, lấy
Thìn Tị có phong, Dần Mão là quy lộc, lại thêm Quý Sửu là cây cỏ trên núi, chủ quý. Không
có sơn thì mộc không có nơi nƣơng tựa, thì hỏa không có chỗ thấy, dẫu có gió cũng không
hiển quang, mộc còn lại thì vô dụng, chỉ lấy Lộc Mã mà xem. Thủy hợp với Giản Hạ, đa số là
giao Thái (tốt), chủ cát, Tỉnh Tuyền là thanh thủy, có mộc trợ giúp, cũng cát; Đại Khê, Giáp
Tuất thấy Giáp Dần, Ất Hợi thấy Ất Mão, lại là chân Lộc, đều cát; Thiên Thƣợng cần có mƣa
sƣơng, mà hỏa đến Ngọ Mùi là đắc địa, lại đƣợc thanh thủy cứu giúp, không đến nỗi khô táo,
chủ phúc, nếu không thì yểu; Đại Hải vừa đúng chỗ tƣơng khắc, tối hung, có gặp sơn, hơi
đƣợc. Ngày giờ thấy kim là Tài, phải có sơn mộc trợ giúp thì cát, không có thì hung. Thấy thổ
duy chỉ có Sa Trung là có Tốn, có thể giƣơng cao hỏa này, thổ khác là vô ích. Nói chung, hỏa
này không có mộc thấy hại, đa số là mệnh hạ tiện. Thấy Lƣ Trung hỏa quá viêm, Phích hỏa là
hung hại, Thái Dƣơng là hôn muội, Sơn Hạ thì hình chiến, đều là chỗ không thích hợp, mệnh
mang 2, 3 hỏa, nhƣ hạn số phùng mộc, chủ họa sinh bất trắc, hoặc yểu, phần lớn hỏa này rất
sợ gặp hình xung.
02-04-16, 09:34
lesoi
Nạp âm Mộc

Chú thích: Nhâm Tý, Quý Sửu, Canh Dần, Tân Mão, Mậu Thìn, Kỷ Tị, Nhâm Ngọ, Quý
Mùi, Canh Thân, Tân Dậu, Mậu Tuất, Kỷ Hợi, nạp âm đều là mộc.
Nhâm Tý - Quý Sửu, Tang Chá mộc
Tang Chá mộc, là khởi đầu tơ dệt, cội nguồn tơ lụa, tà áo tung bay của nhân dân, chỗ thánh
hiền mặc, mộc này cung cấp là từ khung dệt tơ tắm, sử dụng rất nhiều. Thích nhất là Sa thổ,
Tị là căn cơ, lại lấy Thìn Tị là đất tằm ăn, không nên hình xung hỗ phá, Lộ Bàng, Đại Dịch
hai thổ này là thứ cát, thổ còn lại là vô ích. Thủy hỷ Thiên Hà, là mƣa sƣơng giúp đỡ, Trƣờng
Lƣu, Khê Giản, Tỉnh Tuyền các loại thủy này đều có thể dựa theo nhau, cũng cần trƣớc có
thổ làm gốc, lại thêm Lộc Quý là kỳ diệu, Thƣơng Hải thủy phiêu phiếm vô định, không có
thổ thì chủ yểu. Thấy Đăng Đầu hỏa là tối cát, cho nên cũng lấy gặp Thìn Tị làm vị trí tằm ăn
vậy; Lƣ Trung vị trí cƣ Dần Mão, đất mộc vƣợng; Thiên Thƣợng, Phích Lịch 2 hỏa cùng mộc
28 | Tam mệnh thông hội

này can chi có tình hợp hóa, có Khảm Ly giao cấu là kỳ diệu, đều cát, nhƣng các hỏa này
không nên thấy nhiều. Lấy kim nói, thì Sa Trung là đệ nhất, Kiếm Phong có thể tu chỉnh mộc
này, là thứ, Soa Bạc 2 kim cần gặp thổ làm căn cơ, nhƣ phùng xung phá, thì hung. Mộc hỷ
Canh Dần Tân Mão, là lấy nhƣợc tựu cƣờng, lấy nhỏ biến lớn, lấy quý cách luận, dẫu không
có Sa thổ, cũng cát; Bình Địa, Thạch Lựu, không có thổ thì hung; Đại Lâm là hƣớng đông
nam vị trí tằm ăn, có thổ giúp sinh, chủ đại quý; gặp Dƣơng Liễu là Tang Liễu thành lâm,
cũng là quý cách, cần sinh mùa xuân hạ mới cát.
Canh Dần - Tân Mão, Tùng Bách mộc
Tùng Bách mộc, là dội tuyết góp sƣơng, chọc trời che đất, gió lay động tấp thành khèn trúc,
bày ra mƣa bên ngoài chuôi cờ. Mộc này tàng ở dƣới kim, bày ở vị trí chính đông, chính là
cực vƣợng, tối hỷ sơn làm căn cơ, thủy để thấm nhuận. Thiên Hà thủy mƣa sƣơng có thể làm
thấm nhuận, Giản Hạ Đinh Sửu thuộc sơn, có thể làm căn cơ, Bính Tý không bằng Đại Khê
có Ất Mão là lôi, có thể phát vinh, lại sợ gió sét, có gãy ngã là hung; Đại Hải thủy có sơn thì
cát, Quý Hợi thanh tĩnh không có sơn, cũng cát. Nếu trụ có Bình Địa, gặp Ốc thổ, thì là lấy
thành đống lƣơng, không dụng sơn thủy. Không có hai sự kiện này, là giữa núi có mộc xanh
tốt vậy, cũng cần có sơn thủy. Trong mệnh có hỏa, tối kị Lƣ Trung, thì nói tƣơng sinh, lại
thêm phong mộc, thì tan thành mây khói, ngũ hành không có thủy, chủ yểu chiết; Sơn Đầu,
Sơn Hạ, Thái Dƣơng, Phúc Đăng đều không thể phạm; ngƣời Dần càng kị Mậu Ngọ, Bính
Dần, vì mộc không bồn hƣớng nam, là do Dần Ngọ tam hợp hỏa cục vậy, Tân Mão thì không
có hại; Phích hỏa tuy có thể giúp sinh, vận gia thêm hỏa, chủ hung. Thổ kiến Lộ Bàng, tự
không đủ quý, nếu không có tử mộc, phúc vẫn còn; Dịch thổ không có sơn thì bần yểu, lại
thêm Hải thủy, càng hung. Kim phùng Ất Sửu, là Ấn là sơn; Bạc kim thì là vị trí tự vƣợng,
chủ cát; Kiếm Phong có thể đẽo có thể đục, lại gặp Bích thổ tƣơng thành, Tùng Bách giúp
nhau, là chủ quý. Đại Lâm có phong, Dƣơng Liễu hội hỏa, 2 mộc này là tối kị; Tang Chá Quý
Sửu là sơn, có thể tƣơng trợ; Thạch Lựu là Tân Dậu kim lại hóa thành Tử mộc, có tạo hóa, lại
là cát. Diệu Tuyển có Thƣơng Tùng đông Tú cách, là lấy ngƣời sinh mộc này có tháng ngày
giờ thuộc tam đông là quý; có 2 cách Nhật hợp Tân Mão, Nhật trị Canh Dần, tuy thủ Mậu
Ngọ Kỷ Mùi, sinh ở mùa hạ thu, vẫn chuyên luận mộc này là quý.
Mậu Thìn - Kỷ Tị, Đại Lâm mộc
Đại Lâm mộc, gió lay cành khô, cành nhánh đội trăng, đức hạnh hiên ngang ngẩng cao nhìn
trời, có công ngó thẳng che ngang mặt trời. Mộc này sinh ở đông nam, giao mùa xuân hạ,
nuôi dƣỡng thành rừng, Cấn thổ là nguồn gốc sinh kim, Quý Sửu là sơn, Tam mệnh không có
phá hãm, là đứng đầu phúc hậu quyền quý, Mậu Thìn là vi thƣợng, Kỷ Tị là thứ. Thổ gặp Lộ
Bàng, là phụ tải, Mậu Thìn kiến Tân Mùi là quý, Kỷ Tị kiến Canh Ngọ là lộc, chủ phú; 2 thổ
Bích, Ốc, lại gặp Kiếm kim, thì thủ Đại Lâm mộc là đống lƣơng, thành cách tối cát, không có
chỗ này chính là mộc xinh tốt ở giữa núi vậy. Mộc này không có luận Tử hay Hoạt mộc, đều
muốn thấy thổ, nhƣ ngƣời Kỷ thấy Giáp, tuy là nói hóa thổ, nhƣng không bằng Thìn Tuất Sửu
Mùi, thổ cục thuần kim là vi diệu. Nếu mộc này lấy tử ở dƣới sơn; thấy Giáp Tuất Ất Hợi đốt,
là chủ hung yểu; Đăng hỏa là vị trí tƣơng sinh, Ất Tị không bằng Giáp Thìn càng cát; Phích
Lịch, Thái Dƣơng 2 hỏa này đều có thể sinh trƣởng trong vận, gặp thì cũng cát, nhƣng 2 hỏa
này sợ cùng thấy, cầm thắng cần có thổ làm căn cơ mới đƣợc. Thấy Thiên Hà thủy, Mậu Thìn
kiến Đinh Mùi mang quý, tuy không có thổ và sơn, cũng là có y thực, tức linh hoạt theo nhập
Thiên Hà cách vậy, sinh ở thu đông là phƣơng tử tuyệt; Khê, Hải 2 thủy này thấy nhiều, chủ
bần yểu, có sơn thì đƣợc. Diệu Tuyển có Thƣơng Long giá Hải cách, là Mậu Thìn thấy Quý
Hợi là quý, Giản Hạ Đinh Sửu là tối cát, Bính Tý thì không bằng. Các chƣ kim khác đều
không nên thấy, Hải Trung có Ất Sửu là sơn, Kiếm Phong có Ốc Bích là bản, còn lại kim
khác là vô dụng, phùng thì chủ yểu tiện. Mộc hỷ Tang Chá, duy chỉ có Quý Sửu là tối diệu;
Bình Địa vẫn cần có Lộ Bàng thổ, gọi là Bình Lâm tại dã; Tùng Bách, đông phƣơng đất sinh
vƣợng, trụ có Quý Sửu mà gặp Tùng Bách là phúc ấm dày, rất tốt.
Nhâm Ngọ - Quý Mùi, Dương Liễu mộc
29 | Tam mệnh thông hội

Dƣơng Liễu mộc, là dáng vẻ mềm mại trên đê, vƣờn uyển mềm mại, không tơ tằm vạn sợi,
nghìn nhánh không đeo kim châm, Ngọ Mùi mộc ở tử mộ, Nhâm Quý mộc đƣợc thấm nhuận.
Mộc này căn cơ duy chỉ có hỷ Sa thổ, thấy Cấn sơn thì dựa theo mà lay động kim, gặp Dần
Mão đông phƣơng đắc địa; Tân Sửu có sơn, Canh Tý không bằng; Mậu Dần tuy cát, Kỷ Mão
thắng hơn; Bính Thìn Đinh Tị lại sợ Tuất Hợi đối xung; nếu thấy Đại Dịch, có Sửu là trạm
dịch bên núi, hơi đƣợc, không có Sửu chỉ thấy thổ này, chủ yểu tiện; Lộ Bàng thì vị trí lại gặp
tử mộ, ngày giờ gặp, chủ ngƣời yếu hèn; Ốc thổ Nhâm Ngọ thấy Đinh Hợi, Đinh Nhâm hợp
hóa thì cát, Bính Tuất không bằng. Thấy Tỉnh Tuyền, Trƣờng Lƣu, Đại Khê, Giản Hạ thủy
đều cát, trung gian lại chia vị trí hợp hóa, càng cát. Bính Ngọ Đinh Mùi, Bính Đinh là chân
hỏa, Ngọ Mùi cũng là hỏa, mộc này đến Ngọ Mùi là tử mộ, thấy Nhâm Ngọ, là đại hung, Quý
thứ Kỷ có phân biệt, thủy cứu là vô hại; mộc này lấy chữ Ngọ Mùi có hỏa, lại thấy hỏa khác,
e rằng dẫn đến thọ thƣơng, Đăng Đầu Ất Tị có phong mộc gãy, chủ yểu; Lƣ Trung Dần Mão
là bản vị, mộc vƣợng lại cát; Phích hỏa nhƣ Nhâm Ngọ kiến Kỷ Sửu, Quý Mùi kiến Mậu Tý,
âm dƣơng giao ngộ, lại có Sa thổ là gốc, chủ quý, nếu Tý Ngọ Sửu Mùi đối xung thì không
cát. Kim thấy mộc là không có tạo hóa, Soa Xuyến, Kim Bạc lại hỷ thành công, Hải, Chá,
Kiếm, Sa tuy là kị thấy, tong đó khinh trọng nên lấy Lộc Quý Đức Sát, tham khảo kỷ nếu
thấy Tùng Bách mộc, cách Thoát Thể hóa Thần vậy, là quý. Tang Chá Quý Sửu là sơn, lấy
dựa vào thành rừng, là cát; Canh Thân Tân Dậu mộc đã tử tuyệt, lại phùng kim khắc, đã
nhƣợc gặp nhỏ, ngƣời tất là tiện. Diệu Tuyển có Hoa Hồng Liễu Lộc cách, là lấy mộc này
gặp Thạch Lựu, sinh ở mùa xuân hạ, thì không lấy tiện luận; có Dƣơng Liễu Tha Kim cách,
là lấy mộc này sinh ở mùa xuân mà giờ đƣợc một kim, Tân Hợi, Giáp Tý, Quý Mão, Tân Tị
là tối diệu, là vì đất Nhâm Quý Lộc Quý vậy.
Canh Thân - Tân Dậu, Thạch Lựu mộc
Thạch Lựu mộc, tính cay nhƣ gừng, hoa hồng nhƣ lửa, đầu có mấy khối tròn, tích lũy nhiều
hạt, bên trong lóng lánh, can chi thuần kim mà nạp âm thuộc mộc, là mộc biến hóa vậy. Có
thể dời bên trong chậu mà trang trí làm núi, cho nên thành khí thổ, lấy làm căn cơ, Thành
Đầu là vi thƣợng, Ốc Thƣợng là thứ, nhƣng mà nhất định thấy âm dƣơng giao kiến, thì Bính
Tân Đinh Canh hỗ Quan, Mậu Tân Tị Dần hỗ Ấn, chủ cát; Lộ, Bích, Dịch, Sa tứ thổ có sơn
trợ giúp, cũng cát, nếu không có thì dụng thế nào? Thấy Sa Trung kim là tối cát, Bạc kim can
chi là thủy mộc mà nạp âm là kim, Lựu mộc can chi kim mà nạp âm mộc, đều thoát đi bản
tính mà hỗ hoán quy vƣợng, lấy mộc vƣợng ở Dần Mão, kim vƣợng ở Thân Dậu, đều là đắc
vị, gọi là Công ngang tạo hóa cách, chủ đại quý; Hải Trung Ất Sửu là sơn, lại gặp thủy trợ thì
cát, hoặc Bích Thƣợng, Thành Đầu, cũng đƣợc, gặp Kiếm Phong, thì là vị trí tƣơng khắc, tối
hung, nếu trƣớc có Sa kim, có thể chế độc, cũng không là hại. Thấy Thiên Hà thủy, sƣơng
mƣa giúp nhau, Tỉnh Tuyền, Khê Giản, là thanh thủy tƣới nƣớc, Đại Hải thì quá phiếm lạm,
không bần thì yểu, có Cấn thổ hơi đƣợc. Thái Dƣơng, Phích Lịch 2 hỏa này tuy là hỷ, nhƣng
không nên cùng thấy; Lƣ Trung vị trí Dần Mão vƣợng, vốn cát, lại thêm có hỏa khác thì
hung. Nếu mộc này sinh ở tháng 5, ngày giờ chỉ mang một hỏa, gọi là Thạch Lựu phún hỏa,
chủ quý. Tang Chá, Đại Lâm, Dƣơng Liễu 3 mộc này đều hỷ thấy, thấy Đại Lâm Mậu Thìn là
thoát thể, thấy Dƣơng Liễu Hoa Hồng Liễu Lục, đều chủ công danh; thấy Tang Chá Quý Sửu
là sơn, thấy Tùng Bách thì cƣờng, thấy Bình Địa thì lớn, nếu không có vật khác bác tạp, thì
Lộc quấn quanh đỏ hồng, cũng chủ phú quý, nhƣ đƣợc Thành thổ là gốc, vận thủy là trợ, ƣu
du hƣởng phúc, rất là lâu dài.
Mậu Tuất - Kỷ Hợi, Bình Địa mộc
Bình Địa mộc, mới nảy sinh chồi, cành lá mới phát, duy chỉ mƣa sƣơng có công giúp cho,
không hỷ tích lũy nhiều tuyết sƣơng, chỗ này chính là vật liệu tốt ở trên mặt đất, nhà của mộc
ở nhân gian. Mậu Tuất là đống, Kỷ Hợi là lƣơng, tối thích cùng thấy lẫn nhau, cần lấy thổ
làm căn, thổ thích Lộ Bàng, là chính cách, gặp thêm Tý Ngọ, càng quý, lấy Tý Ngọ là vì trụ
chính của trời đất vậy; Ốc, Bích, Thành Đầu 3 thổ lấy trợ giúp cho mộc này, bên trong có hóa
thăng, càng cát; Sa, Dịch là vô dụng, ngày giờ thấy, chủ tai họa; Thái Dƣơng, Phích Lịch, rất
30 | Tam mệnh thông hội

là hiển diệu, Lƣ Trung gặp thủy thì phúc, Đăng Đầu không có phong thì kiên cố, hỏa còn lại
không có thủy thì hung; chỗ này mộc đã thành, không nên thấy Kiếm kim, có mộc giúp nhau
thì đƣợc; Bạc kim tăng sức rạng rỡ, thiên can lại hợp, địa chi vƣợng, có thêm Bàng Thổ làm
căn, chủ đại quý. Kim còn lại đều vô dụng. Thấy Thiên Hà thủy, là nhuận trạch, chủ cát; Khê,
Hải không có sơn đều hung; Tỉnh Tuyền, Giản Hạ tuy cát, bên trong có Giáp Thân hợp Kỷ
Sửu là sơn, gặp thì càng cát. Thấy Đại Lâm mộc, có gió lay động, chủ ngắn thọ; Tang Chá
Quý Sửu là tối cát, Nhâm Tý Kỷ Hợi ngƣời thấy là quý, ngƣời Mậu Tuất là bất kham; Tùng
Bách mộc dựa vào phụ giúp Bình Địa thành đống lƣơng, có thêm thổ trợ, chủ quý. Nói
chung, mộc này sợ kim mà thích thủy, thổ, nếu sinh mùa đông, đƣợc Dần Mão là Hàn cốc hồi
Xuân, cũng luận quý vậy.
02-04-16, 09:34
lesoi
Nạp âm Thổ

Chú thích: Canh Tý, Tân Sửu, Mậu Dần, Kỷ Mão, Bính Thìn, Đinh Tị, Canh Ngọ, Tân Mùi,
Mậu Thân, Kỷ Dậu, Bính Tuất, Đinh Hợi nạp âm đều là thổ.
Canh Tý - Tân Sửu, Bích Thượng thổ
Bích Thƣợng thổ, là đống y lƣơng, hƣng môn lập hộ, lại có đức nóng chống hàn, có công
chận sƣơng hộ tuyết. Đây là bức tƣờng đất ở nhân gian, không phải Bình địa làm sao có chỗ
dựa? Tý Ngọ, là trụ chính của trời đất, gặp thì càng là cát khánh. Phàm thấy mộc đề có thể
làm chủ. Canh Dần Tân Mão cũng là đống lƣơng, chỉ có Thân Dậu xung phá, Tý Mão tƣơng
hình; Đại Lâm có phong, nếu không nhận thổ tải, phàm thêm hỏa, chủ làm việc khó thành,
bần tiện mà còn yểu. Thổ thích Lộ Bàng, gọi là Phụ tải, Ốc Thƣợng, Thành Đầu có thể hộ
thân, đều cát. Thấy hỏa thì hoàn toàn không có tạo hóa, Thái Dƣơng, Phích Lịch tuy nói là
chiếu rực rõ, rốt cuộc là không thuận lợi nguy hiểm, nếu trƣớc mệnh đã thấy mộc, gặp hỏa
trợ, quỷ đốt vận khắc, lại tiếp tục gặp, chủ họa hoạn yểu chiết, trụ có thủy cứu tế, hơi đƣợc.
Thủy thấy Giáp Thân là tối cát, Ất Dậu là thứ; Thiên Thƣợng vũ lộ, cũng cát; Đại Hải phù
phiếm, thổ này sao mà yên? Dẫu có căn cơ, cũng hung. Kim duy chỉ có thích Bạc kim, mệnh
lý trƣớc có mộc thần thì quý, lấy thành cung thất mà nguy nga lộng lẫy, không phải triều đình
thì không dám sử dụng vậy; Kiếm kim thƣơng hại, còn lại kim khác đều vô dụng.
Mậu Dần – Kỷ Mão, Thành Đầu thổ
Thành Đầu thổ, là tƣờng ngọc kinh đô, hoàng đế trong đô thành vàng, hình dáng mâm Rồng
nghìn dặm, thế hùng cứ Tứ Duy. Thổ này có thành có không thành, lấy cả hai bàn luận. Phàm
gặp thấy Lộ Bàng, là lấy tƣờng thổ, bất tất phải dụng hỏa, nếu không có Lộ Bàng, thì không
phải tƣờng thổ, tất cần dụng hỏa; phần lớn tƣờng thổ đều cần mộc giúp, Dƣơng Liễu Quý
Mùi là tốt nhất, Nhâm Ngọ thì kị; Tang Thác Quý Sửu là vi thƣợng, Nhâm Tý là thứ; Canh
Dần Tân Mão thì là vị trí tƣơng khắc thì tƣờng sụp không yên, làm sao mà ngƣời yên chứ?
Nhƣ thấy mộc không co kẹp phụ, chỉ lấy Quý nhân Lộc Mã mà luận. Thấy thủy có sơn là
hiển quý, Giáp Thân, Đinh Sửu đều cát, Thiên Hà trợ giúp, cũng cát, duy chỉ kị Phích Lịch,
Đại Hải, Nhâm Tuất không kị, hợp hóa đều là cát. Thổ rất thích Lộ Bàng, phòng thấy các chƣ
hỏa, Đại Dịch phùng sơn, cần lấy quan quý, nếu chỉ thấy mà không có căn bản, bần yểu cô
hàn. Ngũ hành thấy kim, chỉ có Bạch Chá, sợ Tốn, cả hai đều làm trở ngại, kim còn lại đều vô
dụng, cũng cần phải lấy Quý nhân Lộc Mã mà xem.
Bính Thìn - Đinh Tị, Sa Trung thổ
Sa Trung thổ, là chỗ tích lũy sóng bồi, sóng cồn mà thành, là cung Long Xà ẩn nấp, đất khe
đồi biến thiên. Thổ này thanh tú, duy chỉ có hỷ nuôi dƣỡng kim thanh, lại mắc phạm thổ tinh
khiết, chủ sớm quý; Soa, Sa, Kiếm, Bạc 4 kim này thanh tú tƣơng trợ, nhƣ ngƣời Bính thấy
Tân Hợi là Bính Đinh nhập vào cung Càn, hiệu viết là Giá Hải trƣờng Hồng, lại có luận Tinh
củng hƣớng Bắc, đều là quý cách vậy, lại gặp thủy hàm chứa, là càng thƣợng cát, nếu không
có thủy mà ngày giờ có Thiên Thƣợng hỏa chiếu, cũng đƣợc, nhƣ Bính Thìn, Ất Mùi, Quý
31 | Tam mệnh thông hội

Dậu, Mậu Ngọ, mệnh này có 2 kim sinh dƣỡng, lại hoàn toàn không có thủy, đƣợc Thái
Dƣơng hỏa chiếu, cho nên quý; nhƣ Đinh Tị, Quý Mão, Kỷ Mùi, Nhâm Thân, mệnh này có 2
kim tƣ dƣỡng, đƣợc Thiên Thƣợng hỏa chiếu, cũng quý. Nhƣng Mậu Ngọ quá khô táo, Kỷ
Mùi hơi trì hoãn, thọ yểu không giống nhau. Thủy lấy Tỉnh Giản thanh khiết là cát, nếu có
kim để dƣỡng, là quý; nhƣ thổ này lấy đƣợc kim dƣỡng mà ngày giờ có Hải thủy liền phá tạo
hóa, Quý Hợi khinh thanh, ngƣời Bính thấy vận hạn, gặp cũng chủ vinh hiển, thủy còn lại là
vô dụng. Hỏa hỷ Thái Dƣơng, ở hiệu cách là Chu Tƣớc đằng Không, chủ quý; Sơn Đầu, Sơn
Hạ, Lƣ Trung, Phúc Đăng chƣ hỏa nếu không có thủy cứu, chủ yểu thọ. Mộc viên Tang Thác,
Dƣơng Liễu, là do lấy thổ này có thể tải hai mộc vậy, mộc còn lại thì lấy Lộc Mã Quý nhân
tham khảo, nhƣ mộc ở ngày bị hình phá xung khắc, tuy thấy thì có tạo hóa thế nào? Không
bằng không có là cát. Ngũ hành tối kị thổ tƣơng hình, Lộ Bàng là an thân, có kim mộc tƣ
sinh, cũng chủ phúc khánh; Đại Dịch lui tới, rất không nên thấy, dẫu có kim thủy cũng hung,
thổ còn lại đều không phải cát.
Canh Ngọ - Tân Mùi, Lộ Bàng thổ
Lộ Bàng thổ, là đƣờng đi nối liền trên mặt đất, bình điền vạn khoảnh, trồng lúa dựa vào để tƣ
sinh, cây cỏ đƣợc xanh tốt. Chỗ này chính là hỏa ấm thổ ôn, là thổ nuôi dƣỡng vạn vật vậy,
cho nên cần có thủy trƣớc tiên, luận là tƣới nƣớc thấm nhuận, thứ là càng cần thủy hóa là vi
diệu, lại đƣợc kim đến tƣơng trợ, thì trồng lúa thành hạt. Nhƣ Canh Ngọ kiến Giáp Thân, Tân
Mùi kiến Ất Dậu là lộc, nếu không có xung phá, chủ sớm quý; Thiên Thƣợng thủy là vũ lộ
tƣơng tƣ, Canh Ngọ hỷ kiến Đinh Mùi, Tân Mùi hỷ kiến Bính Ngọ, là Quan quý Lộc hợp rất
hay; Giản Hạ Canh Ngọ kiến Đinh Sửu, là Quý Lộc giao trì, Tân Mùi kiến Bính Tý, hóa thủy
phùng sinh; Đại Khê Ất Mão là Lôi, có thể phát sinh, thổ này lại có Ất Canh hợp hóa, cho
nên đều là cát; Trƣờng Lƣu, Đại Hải 2 thủy này không thể lấy tƣới nƣớc, cho nên thổ này là
tối kị, chủ hung yểu. Hỏa phùng Phích Lịch, Canh Ngọ kiến Kỷ Sửu, Quý Lộc giao xuyên,
Tân Mùi kiến Mậu Tý, Ấn Quý triều dƣơng, đều cát, Thiên Thƣợng hỏa thì là ở vị trí tƣơng
sinh, quá khô táo thì thổ lại không thể sinh vạn vật, có thủy nhuận là đƣợc, nếu độc thấy, chủ
yểu; Lƣ Trung hỏa cũng khô táo, cũng chủ tổn thọ; Đăng Đầu có Ốc thổ, mới ứng tạo hóa,
danh là Siêu phàm Nhập Thánh, nếu không cũng hung. Thấy mộc có thể phát sinh, nhƣng có
Quý nhân Lộc Mã thì cát, hình sát xung phá thì hung. Chỉ có Canh Dần mộc, gặp thổ này rất
tốt, Đại Lâm không thể thắng hơn, nhƣ thổ không thấy Bính Thìn, Bính Tuất, Tân Sửu, Tân
Mùi, đều cát; nếu Canh Ngọ thấy Tân Mùi, Tân Mùi thấy Canh Ngọ, gọi là Nhị Nghi quý
Ngẫu, không có không quý. Soa Xuyến, Sa Trung 2 kim này có thể tƣ trợ, cùng thấy thanh
thủy kim thủy, đại cát, nếu mệnh đã thấy thủy, không có vận kim, gặp kim này cũng phúc; Ất
Sửu Hải kim có thế vì sơn luận, nếu thấy Thiên Hà thanh thủy trợ giúp, ngƣời Canh là rất tốt.
Diệu Tuyển có Kim Mã phong tê cách, lấy ngƣời sinh Canh Ngọ, Giáp Ngọ gặp giờ Tân Tị;
có Mã hóa Long Câu cách, lại lấy ngƣời sinh Ngọ thấy giờ Thìn; có Tiếu Phong Mãnh Hổ
cách, lấy ngƣời sinh Canh Tân gặp Tân Tị, Ất Tị. Đều lấy quý luận, còn thủy, hỏa, thổ, kim
dƣờng nhƣ không trói buộc nhau.
Mậu Thân - Kỷ Dậu, Đại Dịch thổ
Đại Dịch thổ, là đƣờng đại đạo, đƣờng đi bằng phẳng, 9 châu không chỗ nào là không thông,
vạn quốc không có chỗ nào không tới, đây chính là vị trí thuộc phƣơng Khôn, đức chính là
dầy tải, xe di chuyển hàng ngày, là thổ dựa vào biển ngồi trên núi vậy. Phát sinh vạn vật, lấy
mộc làm gốc. Mậu Thân, thổ trƣờng sinh, đức dầy vô cƣơng, thấy 3, 4 mộc đều có thể tƣ
sinh, Kỷ Dậu, là thổ tự bại, mộc nhiều thì cƣớp khí; Đại Lâm trong hợp phùng xung, chủ yểu,
mộc khác đều cát, lại lấy Lộc Quý tham khảo. Tỉnh Tuyền, Giản Hạ 2 thủy này thanh quý
không khô táo, nhƣ Mậu Thân kiến Đinh Sửu hoặc Ất Dậu, Kỷ Dậu kiến Bính Tý hoặc Giáp
Thân, gọi là Quan quý, chủ cát; Thiên Hà Bính Ngọ mà đƣợc Kỷ Dậu, Đinh Mùi mà đƣợc
Mậu Thân, cũng là quý lộc, chủ phúc; Trƣờng Lƣu Mậu Thân kiến Quý Tị, Kỷ Dậu kiến
Nhâm Thìn, cũng cát, gặp nhiều thì không yên tĩnh; Đại Khê Ất Mão nghĩa là Đông Chấn
phát sinh, độc thấy cũng cát; Hải thủy đối xuyên, thổ không thể thắng, ngày giờ gặp là chủ
32 | Tam mệnh thông hội

yểu, đƣợc sơn hơi nhẹ, bên trong Mậu Thân kiến Quý Hợi, Mậu Quý hợp Thân Hợi, là Thiên
Địa giao thái, lại cát. Hỏa kiến Thái Dƣơng, Phích Lịch, gọi là Thánh hỏa, rất có thể phát
sinh, thổ này nhƣ gặp thủy trợ, chủ hiển đạt, phàm ở hỏa, lại gặp mộc sinh, càng khô táo, chủ
hung yểu. Ngũ hành kiến thổ, duy chỉ có Lộ Bàng là tối thích, Ốc Thƣợng, Bích Thƣợng, Sa
Trung dẫu trƣớc có gặp mộc, củng là tiêu tan, Thành Đầu có thủy, hơi cát. Mệnh nếu có kim,
thanh tú, là cát; Soa Xuyến gặp Tân Hợi, Kim Bạc gặp Nhâm Dần, gặp Mậu Thân, trong trụ
lại thêm thủy trợ, là Địa Thiên giao thái, thủy nhiễu sơn vẫn là đại cách, chủ quý, Kỷ Dậu
kiến Canh Tuất, Quý Mão là thứ; Sa kim tạo hóa cũng vậy, Kiếm kim cần mộc dầy đắc dụng,
nếu không thì vô ích.
Bính Tuất Đinh Hợi, Ốc Thượng thổ
Ốc Thƣợng thổ, là đất sét thành rừng, Thủy Hỏa ký tế, bởi vì tích lũy che tuyết sƣơng, có
công chắn cao mƣa gió, thổ này là ngói vậy. Không có mộc thì không thể chống đỡ, cho nên
lấy mộc làm căn cơ, Bình Địa là vi thƣợng, Đại Lâm là thứ, còn lại thủ thiên can hóa mộc,
cũng cát, chỉ sợ xung phá. Chỗ này không phải thổ tƣờng thành, không nên thấy hỏa, Lƣ
Trung Bính Dần là tối hung, Đinh Mão hơi đƣợc; Thái Dƣơng, Phích Lịch có thể lấy giúp
nhau; Sơn Hạ, Sơn Đầu, có mộc sinh là họa; Đăng Đầu Bính Tuất kiến Ất Tị là vi thƣợng,
Đinh Hợi kiến Giáp Thìn là thứ, gọi là Hỏa Thổ nhập đƣờng cách, nếu trong trụ có nhiều
mộc, cũng không là cát. Thủy thích Thiên Hà, Tỉnh Tuyền, Giản Hạ đều cát, nhƣ trƣớc gặp
Bình Địa mộc thành cách, đại quý; Khê Lƣu không có thì yểu, nếu Bính Tuất mà có Quý Tị,
Đinh Hợi mà đƣợc Giáp Dần, thì lại luận khá, lại xem chỗ ngày giờ thành tạo hóa nhƣ thế
nào; Đại Hải không có sơn thì không nên thấy thổ. Thổ kiến Lộ Bàng, nhƣ Bính Tuất đƣợc
Tân Mùi, Đinh Hợi đƣợc Canh Ngọ, âm dƣơng hỗ kiến, lại lấy mộc làm gốc, chủ quý; Bích
Thổ cũng hợp; còn lại thì không cần. Nếu khuyết mộc mà trụ có tam hình, dẫu có 2 thổ cũng
hung, Sa Thổ độc Đinh Tị không ngại. Kim duy chỉ có Kiếm Phong, Soa Xuyến là tối cát,
Đinh kiến Nhâm Thân, thiên can hóa mộc, địa chi Càn Khôn thanh sạch, Bính kiến Tân Hợi,
thiên can hóa thủy, địa chi Bính nhập hộ Càn, đều là đại quý cách, nếu Đinh Hợi kiến Canh
Tuất, Bính Tuất kiến Quý Dậu, thì không là cát; Bạc Kim có dụng trang sức, cũng cát; kim
còn lại đều vô dụng, nên lấy Quý Lộc tham khảo.
02-04-16, 09:36
lesoi
Nạp âm Thủy

Chú thích: Bính Tý, Đinh Sửu, Giáp Dần, Ất Mão, Nhâm Thìn, Quý Tị, Bính Ngọ, Đinh
Mùi, Giáp Thân, Ất Dậu, Nhâm Thuất, Quý Hợi nạp âm đều là thủy.
Bính Tý- Đinh Sửu, Giản Hạ thủy
Giản Hạ thủy, là sóng nhỏ vòng quanh núi, đem tuyết phun trào, chảy liền nhau nam bắc,
mạch Khảm Ly đối nhau. Thủy này trong thanh, hỷ kiến kim dƣỡng, Sa Trung, Kiếm Phong
2 kim là tối thích. Soa Xuyến Canh Tuất Đinh Sửu không hợp, lấy Sửu Tuất tƣơng hình, Tân
Hợi kiến Bính Tý thì Bính Tân hóa thủy, càng quý; kim còn lại nên lấy Lộc Quý tham khảo,
thủ kỳ tƣ sinh, ác kỳ xung phá. Kiến mộc một vị không ngại, 2, 3 vị thì chủ lao khổ, cũng lấy
Quý nhân Lộc Mã tham khảo. Trong mệnh thấy thổ, Thiên nguyên ngƣời chủ nhiều đục trọc,
nếu mộc hoặc có hóa thủy, thì chủ thanh cát; Sa Trung, Ốc Thƣợng 2 thổ, khí hơi thanh, Lộ
Bàng, Đại Dịch thì rất đục vậy, chủ tài tán họa sinh, nhƣ Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thổ cục, hung
càng nặng, là vì lấy thổ hỗn thủy đục vậy. Hỏa kiến Thái Dƣơng, tuy viêm, trong đó có luận
Ký tế Vị tế; Phích Lịch thì lại là vị trí tƣơng tranh, rất không hợp. Nếu hai hỏa hợp luận,
không có kim tƣ trợ, chủ hoang dâm, có kim thì chớ luận; Sơn Hạ, Sơn Đầu cũng cát, nếu
cùng lâm ở ngày giờ thì nguy hiềm. Trong mệnh gặp thủy, lại thành phiêu đãng, kiến Thiên
Hà là Dẫn Phàm nhập Thánh, kiến Đại Hải là phúc quý triều tông, đều cát, độc Đinh Sửu kiến
Nhâm Tuất, thì Sửu Tuất tƣơng hình, Đinh Nhâm dâm hợp, chủ phong thanh bất nhã; Đại
Khê tính nóng, Trƣờng Lƣu không yên tĩnh, đều không là cát, đại để thủy này cần lấy nhiều
33 | Tam mệnh thông hội

làm chủ, mà không có hỏa thổ bác tạp, lại gặp Giáp Dần Ất Mão thủy, thì nguồn chảy trong
thanh rất xa, là ngƣời chân quân tử vậy.
Giáp Dần - Ất Mão, Đại Khê thủy
Đại Khê thủy, là sóng đánh bờ nhỏ, thiên nhiên nổi cơn sóng biển, chiều rộng cảnh vật bao
hàm nghìn dặm, ảnh xanh xuyên đảo nghìn núi, tối hỷ có chỗ quay về có chỗ nuôi dƣỡng, gặp
Khảm thì là có chỗ quay về, đƣợc kim thì có nuôi dƣỡng, chỗ sợ là, trong ngày tháng giờ có
Thân Dậu xung động, hoặc Thìn Tị gió thổi, chủ phiêu lƣu; Tỉnh Tuyền thủy tịnh mà dừng,
Giản Hạ có Sửu là núi, Thiên Hà thấm nhuận, Đại Hải triều tông, 4 thủy này đều cát; Trƣờng
Lƣu có gió, độc không nên thấy. Thủy này lấy thanh kim làm trợ dƣỡng, duy chỉ có Soa, Sa
là tối thích, Chá kim cũng thanh, nếu có Soa kim đối xung thì không nên; Hải Trung tuy
không có tạo hóa, Giáp Tý thuộc Khảm, Ất Sửu là Cấn, là đất quy nguyên, cũng cát; Bạc
Kim là rất bé, không thể tƣơng sinh, sao có lý là siêu hiển? Kiếm kim tuy hóa ở Đại Khê,
nhƣng kị Mão lôi Tốn phong, chủ tính bất định. Ngũ hành có thổ, đều là vô ích, Ốc Thƣợng,
Thành Đầu cản trở thủy này, Lộ Bàng hơi đƣợc, cũng không là tốt; Bích Thƣợng độc có Tân
Sửu là sơn, Đại Dịch duy chỉ có Kỷ Dậu có hợp, Mậu Thân thì xung, Canh Tý thì hình, đều
không cát. Hỏa kiến Thái Dƣơng, tuy là chiếu rực rỡ, Phích Lịch càng kị gặp nhau, nếu 2 hỏa
cùng thấy nhau, chủ bần, đơn kiến thì chớ luận. Mộc kiến thủy này, là bị phiêu đãng, duy chỉ
có Tang Thác mộc Nhâm Tý có Khảm, Quý Sửu là Sơn, là Thủy nhiễu quanh núi, trong
ngƣời Giáp Dần kiến Nhâm Tý là cát, ngƣời Ất Mão kiến Quý Sửu là cát; còn lại mộc khá lấy
Lộc Quý tham khảo, càng kị xung phá.
Nhâm Thìn, Quý Tị - Trường Lưu thủy
Trƣờng Lƣu thủy, hỗn hỗn vô cùng, thao thao không kiệt, đã đi xuống tất nạp ở đông nam,
thuận chảy tự quy về ở Thìn Tị. Thủy này hỷ kim sinh dƣỡng, kim cần Bạch Chá, Soa Xuyến,
lấy thiên can có Canh Tân chân kim, địa chi Thìn Tị vừa đúng vị trí tƣơng sinh, Tuất Hợi là
đất quy nguyên; Kiếm Phong thuần là kim thủy, Bạc kim thủy mộc cƣ hƣớng đông, đều lấy
cát luận; Hải Trung, Sa Trung không thủ. Ngại là thổ khô cạn, mà thổ có cọng dụng làm đê
phòng, trong lục thổ, thủ Canh Tân Bính Đinh là cát, Mậu Kỷ là vô dụng. Gặp hỏa thì tƣơng
hình, mà có kỳ diệu ký tế, trong Nhâm Thìn hỷ kiến Đinh Mão, Đinh Dậu, Quý Tị hỷ kiến
Mậu Tý, Mậu Ngọ, là vì lấy thiên can hợp hóa vậy; Đăng Đầu Quý Tị càng hỷ kiến Giáp
Thìn, Sơn Đầu Nhâm Thìn càng hỷ gặp Ất Hợi, là Hóa Long quy Lộc, thủ nghĩa càng tốt.
Phùng mộc tuy là phù phiếm, mà Tang Thác Quý Sửu là Sơn, Dƣơng Liễu Quý Mùi là Viên,
năm giờ cùng đƣợc chỗ này là tốt, là Thủy nhiễu Hoa đê, cách đại quý vậy; Tùng Bách,
Thạch Lựu, thiên can có kim tƣơng sinh; Đại Lâm, Bình Địa, tuy ngại có thổ, mà Quý Tị kiến
Mậu Thìn, Nhâm Thìn kiến Kỷ Hợi, đều cát. Thủy là đồng loại, Giản Hạ thì Đinh Nhâm hợp
hóa, Thiên Thƣợng thì vũ lộ tƣơng tƣ; Tỉnh Tuyền, Đại Khê là vô ích; Hải biển là chỗ chúng
chảy về, mà Nhâm Thìn Long đƣợc Quý Hợi thì Long nhảy Thiên Môn, sinh mùa xuân hạ
thu là cát, hoặc Long tiềm Đại Hải, thì sinh mùa đông là hợp, trong trụ cần trƣớc tiên có kim
là vi diệu. Nhâm Thìn lại là thủy tự Ấn, lại thấy Nhâm Thìn thì hình, hình thì tự hại, thấy
Mậu Tuất thì xung, xung thì phiếm lạm, chủ hung; Quý Tị, là thủy tự tuyệt, danh là Hạc Lƣu,
nếu gặp các thổ Bính Tuất, Đinh Hợi, Canh Tý, Tân Sửu, có thể đợi khô cạn, trong trụ nhƣ có
tam hợp sinh vƣợng kim sinh thì cát.
Bính Ngọ, Đinh Mùi - Thiên Hà thủy
Thiên Hà thủy, là vẩy tung loạn xạ vậy, là mật phái trời giao, chảy cuồn cuộn ở dƣới dãi
Ngân Hà, tinh tế bay đến không trung, chỗ này chính là mƣa sƣơng trên trời, phát sinh vạn
vật, không khỏi nhờ cậy. Thủy Ngân Hà, thổ không thể khắc, cho nên thấy thổ không kị, hơn
nữa còn có ích thấm nhuận vạn vật; thủy trên trời, mà kim khó sinh, cho nên thấy kim khó
ích, mà cũng có hàm chứa tú tình; sinh vƣợng thái quá thì là dâm lạm, lại hại ở vật, tử tuyệt
quá nhiều thì là khô cạn, lại không thể sinh vật, phải sinh mùa thu đắc thời là quý vậy. Thủy
hỷ Trƣờng Lƣu, Đại Hải, bên trong Bính Ngọ cần Quý Tị, Quý Hợi, Đinh Mùi cần Nhâm
Thìn, Nhâm Tuất, âm dƣơng hỗ kiến, càng cát; Đại Khê Ất Mão là Lôi, Tỉnh Tuyền Kỷ Dậu
34 | Tam mệnh thông hội

là quý, đều lấy cát luận. Hỏa hỷ Phích Lịch, là hỏa Thần Long, cùng thủy này là cứu nhau.
Mà bỗng nhiêu thúc giục biến hóa, mây đến làm mƣa, sao không có quý? Lƣ Trung hỏa
vƣợng, Đại Hải thủy vƣợng, nhƣ trong trụ có 2 hỏa 2 thủy, trên dƣới cứu nhau, gọi là Tinh
Thần câu túc, cách đại quý vậy; Đăng Đầu có phong, Sơn Đầu có quý, đều lấy cát luận, lại
phải lấy thủy khác cứu mới cát; Thiên Thƣợng thì vừa đúng vị trí tƣơng khắc, thì kị thấy.
Thạch Lựu mộc, Dƣơng Liễu đều cát, Đại Lâm có Tị Tốn, Bình Địa có Hợi, cũng cát; Tùng
Bách, Thạch Lựu gặp Bính Tân hợp hóa, cũng lấy cát luận. Diệu Tuyển có Linh Tra nhập
Thiên Hà cách, là thủ mộc tử tuyệt vô căn, trụ không có thổ bồi thì phiêu lƣu Thiên Hà là
vậy. Thổ tuy không thể khắc, mà trụ phùng Canh Ngọ Tân Mùi, thì vừa đúng vị trí tƣơng
khắc, thổ ủng thủy trệ, hoặc thủy lại sinh đông, thì thủy kết ao đầm, tất chủ trọc lạm; còn lại
thổ khác nhƣ Sa Trung, Ốc Thƣợng đều cát, Thành Đầu, Đại Dịch là vô dụng, Bích Thƣợng
là đối xung, cũng phá tạo hóa. Thủy, kim tuy không thể sinh, độc chỉ có Tân Hợi Soa kim lại
thuộc cung Càn, thủy ở trên trời, chỉ chỗ này là tối cát; còn lại kim khác cũng thủ thiên can có
Canh Tân, Nhâm Quý là dụng, Giáp Ất là vô ích, lại lấy Lộc Mã Quý nhân tham khảo khi
gặp thủy. Diệu Tuyển lại lấy ngƣời sinh thủy đƣợc Canh Tý, Nhâm Tý là mây đến làm mƣa,
sinh mùa xuân thì hạn, mùa hạ thì mƣa to, mùa đông thì hàn, chỉ có mùa thu là tối cát; gặp
Giáp Thìn Ất Tị, Canh Thìn Tân Tị, trong trụ có Nhâm là mây, có Thìn là Long, là mƣa gió
đều đến; nếu tháng sinh mùa đông, gọi là Sƣơng ngƣng tuyết lộ, ngày giờ hỷ gặp Dần Mão
khí ôn hòa, có thể giải băng hàn, đều là quý cách vậy.
02-04-16, 09:38
lesoi
Giáp Thân - Ất Dậu, Tỉnh Tuyền thủy
Tỉnh Tuyền thủy, là suối trong mát lạnh, nuôi dƣỡng không cùng, mọi nhà đục lấy cùng uống,
vạn dân dùng để sinh hoạt. Thủy này sinh ở kim mà xuất ở mộc, cho nên hỷ thấy kim là phúc,
Sa Trung có thổ, cùng tính là tối thích, Soa Xuyến thanh tú là thứ, Chá kim cùng Soa kim
tƣơng xung, cho nên không nên thấy nhau; Kiếm Phong Thân Dậu thái vƣợng, e rằng có họa
phiếm lạm; Hải kim không lấy, Ất Sửu là Cấn, Sơn Hạ xuất nguồn suối, cũng cát. Chỗ này
không có mộc thì không thể xuất, thí dụ nhƣ cái thùng, cho nên thấy mộc đều cát, nhƣ thấy
Bình Địa, Đại Lâm, cần có Kiếm kim gọt đẽo, mới có thể thủ dụng; Tang Thác, Dƣơng Liễu
là vô dụng; Tùng Bách thì hỗ hoán Quy Lộc, chỗ này là tối cát. Chƣ hỏa âm dƣơng hỗ kiến
thì cát, Phích Lịch danh là Nhập Thánh, Thái Dƣơng hiệu là Hiển Chiếu, thấy 2 hỏa này là tối
cát, nhƣng không nên cùng có thì hung. Chƣ thổ nhƣ Lộ Bàng, Sa Trung là tối cát, Ốc
Thƣợng có Thiên Môn vốn sinh thủy, cũng cát; Thành Đầu, Bích Thƣợng cùng thủy này thì
không có can thiệp; Đại Dịch thì vừa đúng vị trí tƣơng khắc, thủy làm thổ yểm thì giếng
không ăn, phải có mộc khử mới đƣợc. Thủy hỷ Đại Hải, là Dẫn Phàm nhập Thánh; Thiên
Thƣợng, Giản Hạ, Trƣờng Lƣu cũng không là ở tai; Đại Khê Giáp Dần Ất Mão là cát, nhƣ
Giáp Thân kiến Ất Dậu, Ất Dậu kiến Giáp Thân, Quan tinh hỗ hoán, là tối cát; nhƣ 2 thủy
này ở năm và giờ, 2 mộc ở tháng và ngày, gọi là Thủy nhiễu Hoa Đê, là quý cách vậy.
Nhâm Tuất - Quý Hợi, Đại Hải thủy
Đại Hải thủy, là tổng nạp trăm sông, uông dƣơng không có cứu, bao quát lớn cả Càn Khôn,
Nhật Nguyệt chiếu thăng giáng. Thủy này vốn có thanh trọc, lấy cả 2 bàn phân luận: Nhâm
Tuất có thổ khí là trọc, Quý Hợi can chi thuần thủy mà nạp âm lại là thủy, cho nên thanh.
Ngƣời Nhâm Tuất sợ sơn, lấy thổ khí thái thịnh, có kim thanh mới cát, Quý Hợi tối hỷ kiến
sơn, sau đó tính Hải thủy mới an; Giản Hạ Đinh Sửu là sơn, Thiên Hà cùng Hải trên dƣới
tƣơng thông, trong trụ có mộc là bè gỗ thì ngồi bè gỗ mà nhập vào Thiên Hà, cực là thƣợng
cách; Trƣờng Lƣu, Đại Khê các thủy này tất càng cần quy về biển, lấy Hải thủy không chọn
dòng chảy, cho nên có thể thành Đại hải vậy; Nhâm Thìn là Long quy Đại Hải, càng cát,
trong đó có phân âm dƣơng hỗ kiến, can chi hợp hóa mới đƣợc; Tỉnh Tuyền thì có chỗ chế,
cùng hải không thông, cho nên không thích thấy. Chƣ kim độc chỉ có Hải Trung là đệ nhất,
lấy Nhâm Tuất Quý Hợi hỷ kiến Giáp Tý Ất Sửu; Sa Trung cũng đƣợc, còn lại kim khác lại
35 | Tam mệnh thông hội

nên lấy Quý nhân Lộc Mã tham khảo. Hỏa hỷ Thiên Thƣợng, cùng Hải Thủy cùng nhau
chiếu rực rỡ, là tối cát; Phích Lịch Kỷ Sửu là sơn, Mậu Quý hợp hóa, trụ đƣợc mộc hỏa đất
vƣợng, cũng cát; Sơn Hạ, Sơn Đầu, Phúc Đăng các hỏa đều không nên thấy. Mộc duy chỉ có
Nhâm Tý Quý Sửu, Nhâm Ngọ Quý Mùi đều cát; Đại Lâm có phong xung động, tính thủy bất
an; Bình Địa tải dầy, thì vừa đúng vị trí tƣơng đắc; Tùng Bách, Thạch Lựu nếu không có thổ
chế thì phiêu bạc vô định. Thổ thích Lộ Bàng, Đại Dịch, duy hai thổ này đủ lấy chấn không
tiết, huống chi Quý Hợi kiến Mậu Thân là Thiên Quan địa Trục đại cách, ngày giờ gặp chỗ
thổ dầy này, dẫu có phong lôi, cũng không là hại; Thành Đầu Kỷ Mão cần giúp Cấn thì cát,
nhƣ phùng Phích Lịch, thì Lôi Hỏa biến hóa, Hải thủy hung dũng, cũng chủ bần hàn.
Thủ tƣợng nạp kim Lục thập Giáp Tý, thập can có thể lấy là kim, có thể không lấy là kim, tuy
vì chỗ gặp số khác nhau mà ngũ hành loại hóa loại tòng kỳ diệu, lý cũng không thể không
biết. Nhƣ Giáp Ất, Canh Tân, Nhâm Quý, 3 hành này có thể lấy là kim, còn Bính Đinh, Mậu
Kỷ không cùng chỗ này; Canh Tân vốn là kim, cho nên là vật bản gia, Nhâm Quý không phải
là kim vậy, lại là ở kim? Lý này là kim thủy tƣơng sinh, mà thủy cũng có thể là kim, cho nên
thế vật có Thủy bích Kim minh; Giáp Ất mộc, tính chất kiên cƣờng, thế có mộc hóa thành đá,
có thể thấy ví dụ, cho nên cả hai chỗ này đều có thể thủ tƣợng là kim, cùng vật bản gia là
đồng vậy. Bính Đinh thuộc hỏa, táo cƣơng khác nhau, Mậu Kỷ thuộc thổ, nhu cƣơng khác
nhaug, cùng kim là tƣơng phản, tự không thể lấy kim luận. Mậu Kỷ Canh Tân Nhâm Quý 6
can này có thể là mộc, mà Giáp Ất Bính Đinh không giống chỗ này. Lấy Bính Đinh vốn là
hỏa, cho nên đốt mộc, tự không thể lấy; Giáp Ất vốn là mộc, sao không thủ? Ai không biết
trong ngũ hành kim vẫn là kim, thủy vẫn là thủy, hỏa vẫn là hỏa, thổ vẫn là thổ, chỉ có mộc là
biến hóa, lấy mộc sinh hỏa, tính thủy, thổ, hợp mà sinh, mạch tuyệt mà khô thì vẫn còn thủy
vậy, đốt là hỏa thì vẫn còn hỏa vậy, thối rữa là thổ thì vẫn còn thổ vậy. Cho nên không dụng
mộc, cho nên Thoát Thể mà hóa Thần vậy. Lục Giáp luân hoàn, chỗ số gặp, ngũ hành đan
chéo nhau, chỗ lý lẽ đƣợc, tự có thể nhận thức vậy. Phàm mộc đều từ chỗ thủy sinh, nƣớc
miếng cũng là thủy vậy, cho nên Nhâm Quý có thể là mộc, chất Canh Tân, cứng cùng Giáp
Ất giống nhau, cho nên Giáp Ất có thể là kim, còn Canh Tân có thể là mộc, hỗ hoán giao
thông, lý cũng không là hai vậy. Bính Đinh, Giáp Ất, Nhâm Quý thủ tƣợng là thủy, lấy Nhâm
Quý nguyên là thủy vậy, Bính Đinh hóa vậy, nƣớc miếng Giáp Ất tức là thủy vậy; cho nên
Mậu Kỷ thổ khắc thủy, cho nên Canh Tân kim làm khô táo thủy, khí có khác vậy, tự không
thể lấy thủy luận. Giáp Ất, Bính Đinh, Mậu Kỷ thủ tƣợng là hỏa, lấy Bính Đinh nguyên là
hỏa vậy, Mậu Kỷ hóa vậy, châm lửa Giáp Ất tức là hỏa vậy, cho nên Nhâm Quý thủy khắc
hỏa, cho nên Canh Tân kim làm táo hỏa, loại khác nhau vậy, tự không thể lấy hỏa luận. Bính
Đinh, Mậu Kỷ, Canh Tân nạp âm thuộc thổ, Mậu Kỷ nguyên là thổ vậy, Bính Đinh hỏa hóa
mà thành tro bụi, tro bụi tức là thổ vậy, Canh Tân kim hỗn ở trong thổ, là chỗ kết của tinh khí
thổ, cho nên đều có thể lấy là thổ. Nếu Nhâm Quý thủy nhuận hạ không ngƣng tụ, Giáp Ất
mộc tản ra ở trên không dừng, tự không thể lấy thổ luận. Nghiên cứu thủ tƣợng, có khinh
trọng, có lớn nhỏ, có cƣơng nhu, có mùi vị, có thể chất, có công dụng, từng cái khác nhau,
chỗ này lại kiêm địa chi phƣơng vị góc, vƣợng tƣớng hƣu tù khác nhau, mà chỗ gặp thiên can
hoặc là tòng theo bản tƣợng, hoặc là tòng hóa tƣợng, hoặc là tòng theo tƣợng khác, thiên
nhân giao tận, lý lẽ sinh khắc, hỗ thành nghĩa, cho nên kim này có phân biệt Hải Trung, Sa
Trung, Kim Bạc, Bạch Chá, Kiếm Phong, Soa Xuyến, mà tƣợng kim không có bao hàm khác
vậy, còn lại mộc, hỏa, thủy, thổ có thể ví dụ thấy. Cho nên chỗ nạp âm thủ tƣợng này là tạo
hóa cũng rất vi diệu vậy!

(Hết quyển 1)

lesoi
Quyển 2
36 | Tam mệnh thông hội

Quyển 2:

Luận Thiên can âm dương sinh tử

Có hỏi: Thập can phân ra âm dƣơng, có cƣơng nhu, có sinh tử, thuyết này đúng hay không?
Trả lời: Thập can có ngũ dƣơng và ngũ âm, dƣơng là cƣơng, âm là nhu, phân ra sinh tử nhƣ
mẹ sinh ra con, con trƣởng thành mà mẹ già chết, lý là tự nhiên. Phú viết: Dƣơng sinh Âm tử,
Dƣơng tử Âm sinh, tuần hoàn thuận nghịch, mà thấy biến hóa vậy.
Giáp mộc là đứng đầu thập can, chủ tể bốn mùa, sinh dƣỡng vạn vật; ở trên trời là sấm là
Rồng, ở đất là xà nhà, là đòn dông, gọi là Dương mộc. Lộc đến Dần. Dần là mộc ở trên cao,
rễ đã đứt, cành đã tuyệt, gọi là Tử mộc. Tử mộc, là Cƣơng mộc vậy, cần phải cầm búa rìu để
đẽo gọt mới thành khí. Trƣờng sinh ở Hợi, Hợi là thủy ở sông, đầm, ao hồ, danh viết là Tử
Thủy ( nƣớc tù đọng), Cho nên Tử mộc bỏ vào trong Tử thủy, mặc dù ngâm trong nƣớc lâu
năm, cũng không thể mục nát, ví nhƣ ngọn cây Dầu, ở trong nƣớc thì rất kiên cố. Nếu xa rời
nƣớc mà đến bờ mà gặp Quý thủy, Quý thủy là Hoạt thủy vậy, là mƣa sƣơng ở giữa trời đất,
dạn dày nắng gió, khô ẩm không điều hòa, liền thành khô mục, thì có thể sinh hỏa, hỏa vƣợng
mà mộc tất phải đốt cháy vậy, cho nên có họa tan thành mây khói vậy. Còn Ngọ thuộc Ly
hỏa, hỏa dựa vào mộc sinh, mộc là mẹ của hỏa, hỏa là con của mộc, là Tử vƣợng Mẫu suy, lý
chỗ này cuối cùng không hết? Cho nên Giáp mộc tử ở Ngọ. Kinh nói: Mộc không chạy
hƣớng Nam. Chính là chỗ này vậy.
Ất mộc kế sau Giáp, phát dục vạn vật, sinh sinh không dứt; ở trên trời là gió, ở dƣới đất là
cây, gọi là Âm mộc. Lộc đến Mão, Mão là cây cối, rễ sâu là tốt, gọi là Hoạt mộc. Hoạt mộc,
là Nhu mộc vậy, sợ dƣơng kim chặt bổ là tai họa, sợ đến mùa Thu cây suy yếu rơi ngã, muốn
Nhuận thổ mà bồi căn, lợi ở Hoạt thủy mà cành là sinh sôi. Hoạt thủy, là Quý thủy vậy, tức là
mƣa sƣơng ở trên trời, suối nguồn trong đất; Nhuận thổ, là Kỷ thổ vậy, nhƣ thổ làm ruộng,
công thành Giá Sắc. Kỷ lộc ở Ngọ, Ngọ là Lục Dƣơng tiêu mất, lại sinh Nhất Âm, cho nên
câu lúa nở hoa ở giờ Ngọ, Ất mộc sinh ở đất Ngọ. Tháng 10 thấy Hợi, Hợi chính là thuần âm
nắm lệnh, Nhâm Lộc đến Hợi nắm quyền, Tử thủy phiếm lạm, thổ suy căn hƣ, mất có bồi
dƣỡng. Cho nên Ất mộc tử ở Hợi. Kinh nói: Thủy phiếm Mộc phù. Chính là chỗ này vậy.
Bính hỏa dựa vào ở giữa trời, chiếu khắp trên dƣới và bốn phƣơng; ở trên trời là ánh Thái
Dƣơng là tia chớp điện, ở dƣới đất là bếp là nấu, gọi là Dƣơng hỏa. Lộc ở Tị, Tị là hỏa bếp
nấu, gọi là Tử hỏa. Tử hỏa, là Cƣơng hỏa vậy, hỷ Tử mộc để phát ra ánh sáng, ghét kim, thổ
vì che mất ánh sáng. Tử mộc, là Giáp mộc vậy, Giáp Lộc ở Dần, Dần là thành dƣơng mộc,
mộc thịnh hỏa sinh, ẩn ở giữa thạch mộc, ngƣời không thể sử dụng, không thể phát sinh, cho
nên Ngũ Dƣơng đều xuất ra ở tự nhiên mà thành Tiên thiên, Ngũ Âm đều thuộc ở nhân sự mà
thành Hậu Thiên, Bính hỏa sinh ở Dần, lý là rất rõ ràng. Nhƣ hỏa Thái Dƣơng từ phƣơng
Đông mà lên cao, đến phƣơng Tây mà lặn, còn Dậu thuộc cung Đoài, Đoài là Trạch; Kỷ thổ
sinh kim, kim khí thịnh, tức che mất ánh sáng Bính hỏa, không thể chiếu rõ, sao không mờ
chứ? Cho nên Bính hỏa sinh ở Dần mà tử ở Dậu. Kinh nói: Hỏa không hƣớng Tây. Chính là
chỗ này vậy.
Đinh hỏa kế sau Bính hỏa, là Tinh sao của vạn vật, tƣợng văn minh; ở trên trời là dội ngủ
ngôi sao, ở dƣới đất là ngọn đèn dầu, gọi là Âm hỏa. Lộc đến Ngọ, là lấy Lục Âm, bên trong
có Ất mộc, có thể sinh Đinh hỏa. Ất là Hoạt mộc, Đinh là Hoạt hỏa. Hoạt hỏa, là Nhu hỏa
vậy, Đinh hỷ Ất mộc mà sinh, là âm sinh âm vậy, ý nghĩa giống thế gian sử dụng dầu cải, dầu
mè để làm nến, nói dầu là dầu của Ất mộc vậy. Về phần giờ Dậu, là Tứ âm nắm quyền, thì
ngọn đèn dầu có thể sáng rực, đội ngũ ngôi sao thì có thể rực rỡ, cho nên Đinh sinh ở Dậu;
Về phần đất Dần, hợp làm Tam Dƣơng, mà sinh Dƣơng hỏa, mà lui Âm hỏa, nhƣ mặt trời từ
hƣớng Đông lên cao, hàng ngũ ngôi sao ẩn sáng, đèn dù có ánh lửa, ánh sáng không hiện.
Cho nên Đinh sinh ở Dậu mà tử ở Dần vậy. Kinh nói: Hỏa minh tắc diệt. Chính là chỗ này
vậy.
37 | Tam mệnh thông hội

Mậu thổ trời đất chƣa phân, trong giữ lấy một, trời đất đã phân, chở dày vạn vật, tụ ở trung
ƣơng, tán ở bốn góc. Ở trời là bụi, ở đất là núi, gọi là dƣơng thổ. Lộc ở Tị, Tị là lửa ở trong lò
vậy, nung luyện thành khí, khó có âm thanh, tính thì cƣơng mãnh, khó mà xúc phạm. Hỷ có
dƣơng hỏa tƣơng sinh, sợ âm kim cƣớp khí. Dƣơng hỏa, là Bính hỏa vậy, Bính sinh ở Dần,
Dần thuộc cung Cấn, Cấn là núi, núi là Cƣơng thổ, tức là Mậu thổ vậy, dựa vào Bính hỏa mà
sinh ra chỗ này. Về phần đất Dậu, Dậu thuộc cung Đoài, kim cƣớp hao tổn khí Mậu thổ,
chính là kim thịnh thổ hƣ, là Mẫu suy Tử vƣợng, thêm kim đánh đá vỡ, sao có thể thọ dài
chứ? Cho nên Mậu thổ sinh ở Dần mà tử ở Dậu. Kinh nói: Thổ hư thì băng. Chính là chỗ này
vậy.
03-04-16, 08:19
lesoi
Kỷ thổ kế sau Mậu thổ, là nguyên khí của trời, là chân thổ của đất. Thanh khí thăng lên cao,
xung hòa trời đất, trọc khí giáng xuống, tụ sinh vạn vật, gọi là Âm thổ. Thiên địa nhân là tam
tài đều không thể thiếu khuyết ở thổ, nhƣ trong Càn Khôn ở giữa có ngƣời làm mai mối, chỗ
này mất âm dƣơng, sao có thể mà phối ngẫu? Cho nên không có ở bốn hành thì không tồn tại,
ở bốn mùa thì gửi vƣợng ở chỗ này, chính là chân thổ vậy. Hỷ Đinh hỏa mà sinh, sợ dƣơng
hỏa mà táo. Lộc đến Ngọ, trong Ngọ có Đinh hỏa có thể sinh Kỷ thổ, bị Ất mộc cƣớp khí bồi
gốc. Về phần đất Dậu, mà Đinh hỏa sinh, ký sinh ở Đinh hỏa, Kỷ thổ cũng có thể sinh vậy;
đến Dần dụng sự, mộc hỏa nắm quyền, nung luyện Kỷ thổ, liền thành gốm sứ, khí lại mất
trung hòa, lý là sao không có tổn hại chứ? Cho nên Kỷ thổ sinh ở Dậu mà tử ở Dần. Kinh
nói: Hỏa táo thổ liệt. Chính là chỗ này vậy.
Canh kim nắm quyền cung kính trời đất, chủ thay đổi quyền bính ở nhân gian. Ở trời là gió
sƣơng, ở đất là kim loại, gọi là Dƣơng kim. Lộc đến Thân, Thân chính là Cƣơng kim, hỷ Mậu
thổ mà sinh, sợ Quý thủy mà chìm; trƣờng sinh ở Tị, trong Tị có Mậu thổ có thể sinh Canh
kim, là dƣơng sinh dƣơng vậy; Tị là lửa trong lò bếp, nung luyện Canh kim, khí liền thành
chung đỉnh, khỏ mà có âm thanh, nếu gặp thủy thổ vùi chôn thì không có âm thanh vậy, chỗ
gọi là Kim thực vô thanh. Về phần Tý địa, là đất thủy vƣợng, là kim hàn thủy lạnh, là Tử
vƣợng Mẫu suy, cũng gặp họa chìm sâu, sao có thể mà hồi sinh? Cho nên Canh kim sinh ở Tị
mà tử ở Tý. Kinh nói: Kim thẩm thủy để. Chính là chỗ này vậy.
Tân kim kế sau Canh kim, là lấy Ngũ kim, là nguồn gốc đá thạch. Ở trên trời là mặt trăng,
mặt tời, là sao Thái Âm, ở đất là kim loại, kim là quặng mỏ đá, gọi là Âm kim. Lộc đến Dậu,
trong Dậu có Kỷ thổ có thể sinh Tân kim, là âm sinh âm vậy, gọi là Nhu Kim, là sao Thái
Âm. Trƣờng sinh ở Tý, Tý là thành của quẻ Khảm thủy, trong Khảm kim thuộc Nhất Dƣơng,
lại có Nhị Âm thuộc thổ, thổ có thể sinh kim, là Tử ẩn trong bào thai của Mẫu, chƣa hiển lộ
hình thể, đƣợc Tý thủy mênh mông, tránh khỏi phù sa, mới có thể xuất sắc, chỗ này là Thủy
giúp Kim sáng, ánh sáng óng ánh. Về phần Tị địa, Tị là lửa trong bếp lò, đem Tân kim luyện
thành tử khí, cũng bị ở trong Tị có Mậu thổ chôn vùi, hình thể không thể biến hóa, sao có thể
mà hồi sinh? Cho nên Tân kim sinh ở Tý mà tử ở Tị vậy. Kinh nói: Thổ trọng kim mai. Chính
là chỗ này vậy.
Nhâm thủy hỷ dƣơng thổ trợ giúp mà thành bờ đê, lo sợ âm mộc cƣớp khí. Ở trên trời là
mây, ở dƣới đất là đầm hồ, gọi là Dƣơng Thủy. Lộc ở Hợi, Hợi là thủy ao hồ tồn đọng lƣu
tồn, gọi là Tử thủy. Tử thủy, là cƣơng thủy vậy, dựa vào Canh kim mà sinh, Canh Lộc đến
Thân, có thể sinh Nhâm thủy, là khí ngũ hành chuyển dƣỡng. về phần Mão địa, Mão là hoa lá
của cây cối, mộc vƣợng ở Mão thì có thể khắc thổ, thổ hƣ thì sụp đổ, cho nên bờ đê sụp lở,
mà đi tiết Nhâm thủy, tán mạn bốn phƣơng vậy, lƣu mà không phản, lại bị âm mộc cƣớp khí,
sao hoạt động đƣợc tồn tại chứ? Cho nên Nhâm thủy sinh ở Thân mà tử ở Mão vậy. Kinh
nói: Tử thủy hoành lưu. Chính là chỗ này vậy.
Quý thủy kế sau Nhâm thủy, chính là khí âm dƣơng tạo thành một vòng thiên can, dần dần
hoàn thành mà cuối cùng là qua về ban đầu, cho nên là bắt đầu phân lấy thanh trọc, tán ra bốn
phƣơng, có công nhuận hạ trợ thổ, là đức sinh sôi vạn vật. Ở trên trời là vũ lộ ( mƣa sƣơng), ở
38 | Tam mệnh thông hội

dƣới đất là suối khe đá, gọi là Âm Thủy. Lộc ở Tý, Tý là đất âm cực dƣơng sinh, Tân sinh
thành thì Canh tử; Quý là Hoạt thủy, Hoạt thủy, là Nhu Thủy vậy, hỷ âm kim mà sinh, sợ
dƣơng kim mà trì trệ, muốn hành âm mộc thì căn có thể khai thông âm thổ, âm thổ đã thông ở
mạch đất thì có thể lƣu thông. Tháng 2 thấy Mão, là hoa quả cây cối, là mộc vƣợng nhà thổ,
Quý thủy mới đƣợc thông đạt. Về phần Thân địa, là Tam Âm dụng sự, quẻ Bĩ nắm quyền,
trời đất không giao hòa, vạn vật không thông, trong Thân có Khôn thổ, Canh kim liền trở
thành đê ngằn sông, khiến cho Quý thủy không thể lƣu thông, khốn đốn ở hồ nƣớc, không có
chỗ thi hành, sao lại sinh vật? Cho nên Quý thủy sinh ở Mão mà tử ở Thân. Kinh nói: Thủy
không chảy về Tây. Chính là chỗ này vậy.
Luận viết: Lý Ngũ hành trƣờng sinh mà cũng giống nhƣ vạn vật. Ví nhƣ giờ ở đầu ngày,
quang cảnh trong sáng, đến Ngọ Ly cung, trời sáng càng đậm, ở đầu tháng, giả nhƣ đàn bà,
rất hi vọng ánh sáng thanh khiết; nhƣ sinh ra con ngƣời, tự thiếu chí mạnh mẽ, từ già đến
chết, là lẽ thƣờng tình vậy. Vậy con ngƣời sinh ra, trẻ em chỉ biết khóc cƣời mà thôi, đến thời
kỳ thanh niên thấy rõ hiền ngu, vạn vật đều giống nhƣ vậy.
Giáp mộc sinh ở Hợi, Hợi thuộc thủy, Giáp mộc ở chỗ này; mộc vƣợng ở mùa xuân, đến Dần
là Lâm quan quy Lộc, Giáp mộc đắc thành, đến Ngọ thì tử; Bính hỏa sinh ở Dần, Dần thuộc
mộc, Bính hỏa ở chỗ này, hỏa vƣợng ở mùa Hạ, đến Tị là Lâm quan quy Lộc, Bính hỏa đắc
thành, đến Dậu thì tử; Canh kim sinh ở Tị, Tị có Mậu thổ, Canh kim ở chỗ này, kim vƣợng ở
Thu, đến Thân là Lâm quan quy Lộc, canh kim đắc thành, đến Tý thì tử; Nhâm thủy sinh ở
Thân, Thân thuộc lệnh kim, Nhâm thủy ở chỗ này, thủy vƣợng ở Mùa đông, đến Hợi là Lâm
Quan quy Lộc, Nhâm thủy đắc thành, đến Mão thì tử; Mậu thổ sinh ở Dần, trong Dần có
Bính hỏa, Mậu thổ sinh chỗ này, là mùa Tam Dƣơng, thổ cao lấy động, vạn vật phát sinh, là
Mậu sinh ở Dần vậy. Thổ vƣợng ở các tháng tứ quý, hỏa thổ có giống nhƣ Mẫu Tử tƣơng
sinh, cho nên Mậu theo Bính Lâm quan quy Lộc ở Tị.
03-04-16, 08:21
lesoi
Luận Địa chi

Dụng Địa chi không thể so với thiên can, động tĩnh là khác nhau, vuông tròn là khác xa.
Nhƣng chỗ thuộc ngũ hành là một, còn vị trí đất là khác nhau. Lại nhƣ ở năm thì có luận ở
năm, ở tháng thì có luận ở tháng, ở ngày giờ thì có luận ở ngày giờ, âm dƣơng, khinh trọng,
cƣơng nhu sao có thể hợp thành một khối? Hiện này lấy nguyệt đề làm chủ, chỗ tàng chỗ
dụng, muốn gặp thần nào, chỗ hao chỗ ghét, vật gì cần hệ thống. Phàm thần tứ trụ, tính toán
nông sâu mà dùng.
Tý là đứng đầu thập nhị chi, là nƣớc khe suối sông lớn, chính là đất Mậu thổ vƣợng, nhƣng
chắc chắn qua kỳ Đại Tuyết, sau khi Nhất Dƣơng phục hồi, mới có thể thành vƣợng. Chỗ
sinh của Tân kim, tất cũng ở hồi dƣơng ấm thủy mà sau có thể sinh vậy. Cùng với Ngọ tƣơng
xung, cùng với Mão tƣơng hình, cùng với Thân Thìn tam hợp. Nếu đầy đủ Thân, Tý, Thìn,
hợp khởi thủy cục, tức thành sông biển, sóng cả phát âm thanh vậy.
Sửu dù là rét đậm, có thể sợ có băng sƣơng, nhƣng thời tiết đã chuyển thành Nhị Dƣơng, là
lấy làm ấm Kỷ thổ trong Sửu để sinh vạn vật, đất dƣỡng Tân kim, sao chỉ ẩn sâu? Thấy Tuất
thì hình, thấy Mùi thì xung, rất cần khố địa, hình xung không là vô dụng. Thấy Tị, Dậu tam
hợp, hợp khởi kim cục. Nếu sinh mệnh sinh ở tháng Sửu, mà ngày giờ thấy nhiều thủy mộc,
chắc chắn là hành nghiêng về đất Tốn Ly, mà phƣơng thổ không suy vậy.
Dần thấy ở đầu mùa Xuân, khí dƣơng tụ, có Bính hỏa sinh chỗ này. Dần hình Tị, Tị hợp Thân
cùng vƣợng mà thành khách quý; vƣợng ở Mão, khố ở Mùi, đồng loại thì thành một nhà. Đến
Ngọ thì hỏa chiếu sáng rực rỡ, mà có tƣợng siêu phàm nhập thánh. Thấy Thân thì Dần vị
xung, mà lo ngại có dẫn đến phá thƣơng Lộc. Nếu tứ trụ hỏa nhiều, thì lại không thể nhập đất
Nam phƣơng hỏa. Kinh nói: Mộc không chạy hƣớng Nam.
Mão mộc là giữa mùa Xuân, chịu khí phồn thịnh, xƣớng dụng kim thủy, không thể thái quá.
39 | Tam mệnh thông hội

Nếu can đầu thấy nhiều Canh Tân, địa chi không thể thấy Thân Dậu, e rằng có đốn chặt phá
hại; địa chi thấy nhiều Hợi Tý, can đầu không thể thấy Quý Nhâm, chủ có hại phiêu lƣu.
Thấy Dậu thì xung, lá mộc tất rơi, thấy Hợi Mùi thì hợp, mộc tất thành rừng. Nếu ngày giờ
quy về kim năng, đại vận lại hƣớng về hành phía Tây, không khỏi họa vậy.
Thìn ở cuối mùa Xuân, là thủy thấp nê (ẩm thấp), mà rễ vạn vật đều dựa vào chỗ này mà bồi
dƣỡng. Giáp đến chỗ này tuy là suy, còn có Ất dƣ khí; Nhâm đến chỗ này tuy là mộ, mà có
Quý hoàn hồn; thấy Tuất là chìa khóa, có thể mở vật ở trong khố, nếu ba Tuất trùng xung phá
cửa, thì không tốt. Ngày giờ thấy nhiều thủy mộc, vận lại hƣớng về Tây Bắc, thì Thìn thổ
không thể tồn tại vậy.
Tị ở đầu mùa Hạ, hỏa tăng thêm ánh sáng, là điểm cực của Lục Dƣơng vậy. Canh kim gửi
sinh, khốn đốn mẫu Mậu. Mậu thổ quy lộc, chính là theo mẹ hỏa. Thấy Thân thì hình, trong
hợp có hình, trở thành vô hại; thấy Hợi thì xung, xung mà tất phá liền thành bị thƣơng. Nếu
vận lại hành đất Đông Nam sinh phát, liền thành thế lửa cháy đốt trời vậy.
Tháng Ngọ đúng viêm hỏa, thăng nhập vào thì Nhất Âm sinh vậy. Canh đến chỗ này là vô
dụng, Kỷ đến chỗ này là quy viên; thấy Thân Tý thì chắc chắn khắc chiến, thấy Dần Tuất thì
quá sáng tỏ. Vận hành Đông Nam, chính là đất thân cƣờng, nếu nhập vào Tây Bắc, thì hƣu tù
tang hình vậy.
Mùi là cuối Hạ, thì âm sâu mà hỏa suy dần. Trong Mùi có Ất mộc, có Đinh hỏa, là tàng
Quan, tàng Ấn, không tàng Tài vậy. Không có Hợi Mão để hội tụ, thì hình thể khó biến, chỉ
lấy hỏa thổ luận; không có Sửu Tuất để hình xung, thì khố (kho) không mở, khó đƣợc kim
Ấn. Lực trong trụ không có hỏa, sợ hành vận kim thủy, ngày giờ nhiều hàn lạnh, thích
nghiêng về đất Bính Đinh. Bởi vì hỷ kị dụng thần là rất cần hiểu rõ, không thể phát sinh một
chút sai lầm vậy.
Thân cung là đất thủy thổ trƣờng sinh, nhập vào Tị, Ngọ thì gặp hỏa nung luyện, hoàn thành
kiếm kích, thấy Tý, Thìn thì gặp thủy ngâm, thì đao kiếm càng tăng thêm sắc bén; nếu nhƣ
mộc nhiều không có hỏa, kim hết có thể tốt đẹp, nếu thổ nặng thì chôn vùi chồng chất, kim
lại gặp hung. Bởi vì Thân chính là kim ngoan độn, bởi vì cùng với châu ngọc ôn nhu là khác
nhau vậy.
Dậu tháng 8 thấy kim sắc bén, là thủy bạch lƣu thanh. Nếu ngày giờ gặp hỏa nhiều, vận chớ
lo đi mất mùa Đông; nếu ngày giờ gặp thủy vƣợng, vận cũng sợ hành phía Nam. Trụ gặp thủy
nê, ứng thành hữu dụng, vận hành Tây Bắc, sao là vô tình? Nhƣng gặp Tị Sửu tam hợp, cũng
có cứng bén, sao có thể âm kim là châu ngọc ôn nhu mà cố chấp luận chứ?
Tuất chính là khố chứa lò lửa, kim ngu sắt cùn, dựa vào để luyện thành. Thấy Thìn thì xung
xuất Nhâm thủy, mà sinh Vũ lộ chỗ này; thấy Dần thì sẽ khởi Bính hỏa, mà văn chƣơng xuất
ra chỗ này. Nhƣng mà mệnh hỏa gặp thì thành nhập mộ, sao có thể bình yên mà không gặp
hạo chứ?
Hợi là đất Lục Âm, lại là đƣờng mƣa tuyết, thổ đến chỗ này mà không có sƣởi ấm, kim đến
chỗ này mà sinh hàn lạnh. Nếu tƣợng quy tụ ở ngũ hồ, có dụng tâm ở tam hợp. Cho nên là
muốn biết Càn Khôn và xứ ấm áp, tức là phải theo tìm ở đất Cấn, Chấn, Tốn, Ly vậy.
Đại để phép dùng ngũ hành, nói chung là không có chân thực, sinh tử suy vƣợng, cũng là giả
danh mà thôi. Thẳng hƣớng ngọn nguồn, rõ nơi xuất xứ, nhƣ Ngũ Dƣơng là cƣơng, Ngũ Âm
là nhu. Nếu thất lệnh thân suy, không gặp sinh phù mà nhiều lần tiết khí, thì cƣơng sẽ là mất
cƣơng; nếu đắc lệnh thân cƣờng, có trợ giúp dụng sự, thì nhu sẽ không mất nhu. Trong đó
còn phân ra mộc hỏa là dƣơng, kim thủy là âm, đều thích sinh phù tƣ trợ, nên lấy trung hòa là
quý.
03-04-16, 08:21
lesoi
Thập Can phân phối thiên văn

Giáp mộc là Lôi. Lôi là khí dƣơng hà hơi ra vậy, Giáp mộc thuộc dƣơng, cho nên chỗ này thủ
40 | Tam mệnh thông hội

tƣợng ở Lôi. Tra cứu nhiều nguyệt lệnh, tháng giữa xuân, Lôi chính là phát ra âm thanh, Giáp
mộc vƣợng, tức càng nghiệm vậy, so với Lôi chấn động ở đất, mộc sinh ở đất, lý cũng không
có khác nhau. Giáp mộc đến Thân mà thành tuyệt, lấy âmm thanh của Lôi (sấm) đến Thân mà
thu vào vậy. Phàm mệnh thuộc ngày Giáp, thích gặp mùa xuân, hoặc là loại tƣợng, hoặc là
Xu Can, hoặc là Diêu Tị, hoặc là Củng Quý, đều là đại cát; vận không thích hành Tây
phƣơng. Kinh nói: Mộc sinh ở Xuân, xử thế an nhiên, tất thọ.
Ất mộc là Phong. Ất mộc trƣờng sinh ở Ngọ, bại ở Tị. Ở Ngọ mà sinh, bởi vì Ất là cây sống
ở núi rừng, đƣợc đến mùa Hạ mà thỏa thích rậm rạp, chỗ nhiều chƣơng thơ ca gọi là Hạ Mộc
là thanh vậy; Sao lại nói ở Tị là bại? Tị chính là đất của Tốn, Tốn là Phong (gió), mộc thịnh
sinh phong vậy, phong sinh ở mộc mà lại phá mộc, là do hỏa sinh ở mộc mà trái lại là đốt
mộc, cho nên chắc chắn là thủ bại vậy, chỗ nói Ất mộc là phong, là nói chỗ mộc tự sinh mà
thôi. Nhƣ thấy ngƣời sinh ngày Ất, ở mùa Thu là đại cát, mùa thu kim vƣợng, Ất mộc có thể
hóa có thể tòng mà đoạn rễ lá đan xen lộn xộn, không có vũ khí sắc bén thì không có chỗ cắt
thành; gặp Hợi hẳn phải chết, là lúc lá rơi về cội vậy?
Bính là Nhật (Mặt trời). 《 Thuyết Quái truyện 》viết: Ly là hỏa là mặt trời, Mặt trời và hỏa
đều có tƣợng văn minh, chỗ này là lấy Bính hỏa danh là Nhật không đổi. Thái Dƣơng xuất
buổi sáng mà nhập vào buổi chiều, dƣơng hỏa Dần sinh mà Dậu tử, mà lại có gì khác nhau
chăng? Phàm Lục Bính sinh mùa Đông mùa Hạ, không bằng sinh ở mùa Xuân mùa Thu, mùa
xuân có công làm ấm vạn vật, mùa Thu mặt trời có dùng làm khô vạn vật, mùa Đông thì âm u
mờ tối, mùa Hạ thì rất nóng, nên suy xét tinh tế.
Đinh hỏa là Tinh (ngôi sao). Bính hỏa tử mà Đinh hỏa thành sinh từ chỗ này, ở trên trời mặt
trời mờ nhạt mà sao chiếu sáng vậy. Nhƣ vậy loại tinh tƣợng (các vì sao) chỉ có vào ban đêm
mới xán lạn, cho nên âm hỏa chỉ có gần tối mới xán lạn, mà vì sao Đinh không phải là tinh
sao? Phàm ngƣời sinh ngày Đinh thích gặp ban đêm, thích gặp mùa Thu, nhƣ lúc ngôi sao
đƣợc chiếu sáng vậy; lại thích hành đất thân nhƣợc, nhƣ ở bên trong tàng ẩn đá chỗ thuộc
Đinh hỏa, đá tuy ở trong nƣớc, lập tức lấy gõ, cũng tự có hỏa; ngày cùng Đinh Tị, đa số là
khắc cha anh vợ con, bởi vì Tài kị Tỉ Kiếp, anh trai khuất phục dƣới em trai, vì trong Tị có
Mậu thổ, là Thƣơng quan vậy.
Mậu thổ là Hà (ráng mây màu). Thổ không có khí chuyên, dựa vào hỏa mà sinh, ráng mây
màu hình thể là vô định, mƣợn mặt trời mà hiện theo, biết Bính hỏa là mặt trời, thì biết Mậu
thổ là ráng mây màu vậy. Vậy ráng mây màu là hơn mặt trời, mặt trời lặn nhƣng ráng mây thì
không có hết, hỏa tắt thì thổ không có sức sống, cho nên gọi là ráng mây màu vậy. Nhƣ nhật
chủ Mậu thổ thích tứ trụ có kèm theo thủy thì thành thƣợng cách, ráng mây màu dựa vào thủy
mà rực sáng thành văn chƣơng giỏi vậy; lại càng thích can năm thấy thấy Quý, Quý thì thành
mƣa, sau cơn mƣa ráng mây màu hiện rõ mà nhìn thấy tƣợng văn minh vậy.
Kỷ thổ là Vân (mây). Kỷ thổ sinh ở Dậu, Dậu, là phƣơng Đoài vậy, tƣợng là ao đầm. Tiên
chính viết: "Thiên giáng thời vũ, sơn xuyên xuất vân." Nhƣng mà mây là khí núi sông vậy,
Kỷ tuy thuộc thổ, lấy luận chỗ này, thì cũng nên gọi là mây vậy. Cho nên Giáp Kỷ hợp mà
hóa thổ, khí thăng lên mà thành mây; mây sấm cùng giao nhau mà làm mƣa, rơi xuống thành
sông nƣớc mà thổ nhuận. Chỗ này tạo hóa cũng rất là kỳ diệu! Phàm thân chủ thuộc Kỷ thổ,
quý là tọa ở Dậu, quý là sinh ở mùa xuân, quý là thấy Ấn, tọa Hợi thì không thể thấy Ất mộc,
mây bay trên trời, gặp gió thì không khỏi mà thành loại lang sói vậy.
Canh kim là Nguyệt (Mặt trăng). Canh chính là dƣơng kim phƣơng Dậu, tại sao biết kỳ phối
nguyệt chứ? Viết: Ngũ hành có Canh, giống nhƣ bốn mùa có trăng vậy; Canh không đợi mùa
Thu mà trƣờng sinh, nhƣng nhất định mùa Thu mà thủy thịnh; trăng không đợi mùa Thu mà
trăng muộn, nhƣng nhất định mùa thu mà tăng thêm ánh sáng. Lấy màu sắc mà nói, mặt trăng
chắc chắn là màu trắng vậy, giống nhƣ không khí vậy; lấy khí mà nói, là kim sinh thủy vậy,
mặt trăng ứng với thủy triều vậy, giống nhƣ không khí mà thôi. Kinh nói: Kim chìm ở Tý.
Cùng thấy mặt trăng chìm trong sóng nƣớc vậy, thấy nhiều Nhật Nguyệt là thấy phƣơng
Canh, sinh đầu tháng cùng vị trí là Canh vậy, cho nên viết Canh kim là Nguyệt. Nhƣ ngƣời
41 | Tam mệnh thông hội

sinh ngày Canh, tứ trụ có thấy đến chữ Ất Tị, gọi là Nguyệt bạch Phong thanh, mùa Thu là
trên hết, mùa Đông là thứ, không thủ ở mùa Xuân mùa Hạ.
Tân kim là Sƣơng. Tháng 8, Tân kim đất kiến lộc, là tháng khí trời xác xơ tiêu điều, Bạch Lộ
là sƣơng, cây cỏ vàng úa suy mà rơi rụng, cho nên ngũ hành âm mộc tuyệt ở đất này, nếu
mộc đƣợc búa rìu chặt phạt, chỗ này không có chỗ sinh vậy. Lúc lấy búa rìu vào rừng núi, lúc
lấy sƣơng dày chặt cây cối, suy xét lẽ trời, tham khảo nhân sự, xác thực ở Tân kim gọi là
Sƣơng vậy. Nhƣ ngƣời Tân tọa Mão, không thấu Ất, là đại phú, tọa Hợi thấu Bính thì quý.
Thích sinh ở mùa Đông.
Nhâm thủy là Thu lộ ( hơi nƣớc mùa Thu). Xuân cũng có hơi nƣớc, sao chỉ nghĩ là lấy ở mùa
Thu? Bởi vì hơi nƣớc mùa Xuân, hơi nƣớc vừa thấm mƣa, còn hơi nƣớc ở mùa Thu, là hơi
nƣớc thành sƣơng đã rơi, là đầy hơi nƣớc vậy. Xuân chủ sinh, Thu chủ sát, nhƣ vậy là có
công dụng khác nhau, cho nên chúng ta lấy Nhâm là Thu lộ vậy, bởi vì hơi nƣớc là thuộc
thủy, mà Nhâm thủy sinh ở Thân, bản năng của thủy là sinh mộc, thủy đã sinh ở đây, tại sao
mộc lại tuyệt ở chỗ này? Cho nên biết Nhâm là hơi nƣớc, là Thu lộ vậy. Nhƣ ngày Nhâm sinh
ở mùa Thu, thấy lộ rõ Đinh hỏa, Đinh là Tinh sao trên dãy ngân hà, Nhâm là Thu lộ, một lúc
rửa hơi nóng bốc lên, tƣợng hàng ngang thấy rất rõ ràng vậy.
Quý thủy là Xuân lâm ( mƣa dầm ở mùa Xuân). Quý thủy sinh tháng Mão, hiệu viết là Xuân
lâm. Bởi vì âm mộc đƣợc mƣa mà phát sinh vậy, nhƣng đến Thân thì tử, tháng 7, 8 thì nhiều
khô hạn vậy. Mà trƣớc Mão một vị là Thìn, Thìn, là long cung vậy, Mão gần Long cung mà
thủy sinh, Long (Rồng) một khi hƣng phấn thì chỗ này liền hóa thành mƣa; Mão là Lôi môn,
Lôi một khi chấn động mà Long chỗ này tất phải phát động, xem đến đây thì Quý thủy là
Xuân lâm rồi. Nhƣ ngày Quý Mão thấu ra chữ kỷ, có tƣợng mây đƣợc làm mƣa, ngƣời tất có
tài trị nƣớc vậy. Xuân Hạ là cát, Thu Đông là không cát.
03-04-16, 08:22
lesoi
Thập nhị Chi phân phối địa lý

Tý là Mặc trì (đầm đen). Tý ở chính Bắc phƣơng, thuộc thủy, tƣợng màu sắc đen, cho nên có
tƣợng Mặc trì. Phàm mệnh gặp sinh năm Tý, thích thấy giờ Quý Hợi, gọi là thủy quy về biển
lớn, lại gọi là Song Ngư du mặc, tất thành ngƣời văn chƣơng vậy.
Ngọ là Phong hậu (vọng gác chiến tranh). Ngọ chính vị ở phƣơng Nam, thuộc hỏa, thổ, màu
đỏ vàng, danh viết chỗ này là Phong hậu vậy; lại Ngọ là Mã, Phong hậu chính là xứ sở ngựa
chiến vậy; ngƣời sinh lúc lợi thấy Thìn, đến chân Long thì phàm ngựa trống rỗng vậy, gọi là
Mã hóa Long câu.
Mão là Quỳnh lâm (Rừng đẹp). Mão thuộc Ất mộc, cƣ vị trí chính Đông, là ở lúc giữa mùa
Xuân, vạn vật sinh ra chỗ này, màu sắc xanh hơi trắng (màu cẩm thạch), cho nên viết là
Quỳnh lâm. Năm Mão gặp giờ Tị Mùi, thì tƣợng gọi là Thỏ nhập Nguyệt cung, chủ đại quý.
Dậu là Tự chung (Chuông chùa). Dậu thuộc kim, vị trí gần Tuất Hợi, Tuất Hợi, là Thiên Môn
vậy, chuông, thuộc kim vậy, chuông chùa gõ thì vang vọng đến Thiên Môn; Dậu lại cƣ chính
phƣơng Tây, chùa thì ở Tây phƣơng Phật giới vậy. Dậu thấy Dần là cát, gọi là Chung minh
cốc ứng (nghĩa là chuông vang thì hang núi vọng lại).
Dần là Quảng cốc (Hang rộng). Dần là Cấn phƣơng, Cấn là núi, Mậu thổ trƣờng sinh vì vậy
mà có nghĩa Quảng cốc vậy. Nhƣng cung Dần có Hổ, ngƣời sinh Dần mà có giờ Mậu thìn,
gọi là Hổ khiếu nhi cốc phong sinh (Hổ gầm mà hang núi phát gió), uy chấn vạn lý.
Thân là Danh đô . Khôn là đất, hình thể không có giới hạn, không phải nói lấy Danh đô là
không đủ. Thân, là Khôn vậy, là Kinh Đô; là chỗ ở của đế vƣơng; cung Thân có Nhâm thủy
sinh, lại đối với cung Cấn núi, là thủy quấn vòng quanh núi vậy. Phàm mệnh thích năm Thân
giờ Hợi, chính là Trời đất giao thái.
Tị là Đại dịch (Trạm lớn). Đại dịch là chỗ nhiều ngƣời tụ hội, là nơi đạo lộ thông suốt. Trong
Tị có Bính hỏa Mậu thổ, là tƣợng vậy, trƣớc Tị lại có Ngọ mã, cho nên viết là Đại dịch. Sinh
42 | Tam mệnh thông hội

năm Tị thích có đƣợc giờ Thìn, là Rắn hóa Rồng bay, ở cách gọi là Thiên lý Long Câu (Rồng
bay nghìn dặm).
Hợi là Huyền hà. Là Thiên hà thủy, chảy xiết không trở về, cho nên viết là Huyền Hà, Hợi
tức là Thiên Môn, lại thuộc thủy, không phải tƣợng Huyền hà sao? Ngƣời sinh năm Hợi, ngày
giờ thấy hai chữ Dần, Thìn, chính là Thủy củng Lôi môn.
Thìn là Thảo trạch (Đầm cỏ). Nói đến đầm, rốt cuộc là chỗ thủy vậy, sau là Thìn ở Đông
phƣơng, là thủy khố, cho nên là cỏ là đầm; Thìn gặp Nhâm Tuất, Quý Hợi tức là cách Long
quy đại hải.
Tuất là Thiêu nguyên (gốc đốt nóng). Tháng Tuất ở cuối mùa Thu, cây cỏ hết suy, nông dân
đốt cây cỏ mà cày bừa, Tuất lại thuộc thổ, cho nên xƣng danh Thiêu Nguyên, cho nên Tuất
cùng chỗ Thìn đếu là chỗ quý nhân không đến vậy. Ngƣời sinh Tuất gặp Mão, hiệu viết là
Xuân nhập thiêu ngân.
Sửu là Liễu Ngạn (Bờ cây Dƣơng Liễu). Trong Sửu có thủy có kim, Ngạn là thổ vậy, cho nên
ngăn thủy vậy, do đó gọi là Liễu Ngạn. Ngƣời sinh Sửu thấy giờ Kỷ Mùi, chính là cách
Nguyệt chiếu Liễu sao ( Mặt trăng chiếu đỉnh nhọn cây Liễu), là cực điểm thƣợng cách.
Mùi là Viên. Mùi thuộc Hoa viên, Mão thì không thuộc, tại sao vậy? Mão là mộc vƣợng, tự
thành rừng núi; Mùi là mộc khố, giống nhƣ con ngƣời xây bức tƣờng để bảo vệ các loài hoa
vậy, lấy trăm hoa là nói trong Mùi có chứa tạp khí mà thôi; Ngƣời sinh năm Mùi là Song Phi
cách, rất tốt, nhƣ Tân Mùi thấy Mậu Tuất, là các Lưỡng Can bất tạp vậy.
03-04-16, 08:23
lesoi
Luận thuộc tướng Địa Chi

Có hỏi: Địa chi có thuộc tƣớng, còn thiên can thì không có, tại sao vậy?
Trả lời: Là Thiên Can động là không có Tƣớng, địa chi tĩnh là có Tƣớng. Bởi vì trời nhẹ mà
trong vậy, còn đất thì nặng mà đục vậy, ở trong nặng và đục, chỗ này là có vật. Cho nên Tý
Chuột, Sửu thuộc Trâu, Dần thuộc Hổ, Mão thuộc Thỏ, Thìn thuộc Rồng, Tị thuộc Rắn, Ngọ
thuộc Mã, Mùi thuộc Dê, Thân thuộc Khỉ, Dậu thuộc Gà, Tuất thuộc Chó, Hợi thuộc Heo. 12
thuộc tƣớng này cũng có phân ra dùng chẵn và lẻ, thịnh và suy. Số lẽ là Chuột, Hổ, Rồng,
Mã, Khỉ, Chó, một là thuộc dƣơng, chân lục thú này đều là đơn; Số chẵn là Trâu, Thỏ, Rắn,
Dê, Gà, Heo, hai là thuộc âm, chân lục thú này đều là đôi. Duy chỉ có Rắn là không có chân
thì làm sao thủ nghĩa? Bởi vì ở tháng Tị chính là tháng thuần dƣơng, ở mùa chính là mùa
xuân dƣơng, số thì chẵn mà mùa là dƣơng, cho nên dụng lấy tƣợng là Rắn, Rắn chính là vật
âm, không dùng chân mà rõ ràng là thắc mắc tƣợng Tị, ý cũng không dám nói ra ở âm mà
thôi, cũng ví nhƣ là có hai đầu. Có thể nghĩ nghiệm ra 12 tƣớng ( trạng thái) tức là lấy trong
36 loài chim, tự có phân biệt âm dƣơng, phân ra đơn và đôi, chỗ này cũng là chỗ kỳ diệu của
tạo hóa vậy.
Dần, là mộc vậy, cầm tinh là Hổ; Tuất, là thổ vậy, cầm tinh là Chó; Sửu, Mùi cũng là thổ vậy,
Sửu cầm tinh là Trâu, Mùi cầm tinh là Dê, mộc thắng thổ, cho nên Chó cùng Trâu Dê là chỗ
dùng của Hổ; Hợi, là thủy vậy, cầm tinh là Heo, Tị, là hỏa vậy, cầm tinh là Rắn; Tý cũng là
thủy, cầm tinh là Chuột; Ngọ là hỏa cầm tinh là Ngựa, mà thủy thắng hỏa, cho nên Heo ăn
Rắn, hỏa là chỗ thủy hại, cho nên Ngựa ăn phân Chuột mà trƣớng bụng. Nhƣng cũng không
hề có thắng nhau. Ngọ, là Ngựa, Tý là chuột, Dậu là Gà, Mão là Thỏ, thủy thắng hỏa, Chuột
sao không đuổi Ngựa? Kim thắng mộc, Sao Gà không mổ Thỏ? Hợi là Heo, Mùi là Dê, Sửu
là Trâu, thổ thắng thủy, sao Trâu và Dê không giết Heo? Tị là Rắn, Thân là Khỉ, hỏa thắng
kim, sao Rắn không ăn Khỉ? Khỉ sợ Chuột, Chuột là thủy, Thân là kim, thủy không thắng
kim, cớ sao Khỉ sợ Chuột? Tuất là thổ, Thân là Khỉ, thổ không thắng kim, sao Khỉ lại sợ
Chó? Cầm tinh 12 thần nếu lấy khí tƣơng khắc thì càng không tƣơng ứng. Đại để là dùng
chứa máu huyết lẫn nhau, về phần ăn nhau, nếu dùng răng không bén, thì dùng sức cơ bắp tốt
xấu tự thắng nhau vậy.
43 | Tam mệnh thông hội

03-04-16, 08:24
lesoi
Luận Nhân Nguyên ti sự

Nói Nhất Khí hỗn độn, hình chất chưa tách ra, sao biết âm dương?
Bắt đầu Thái thuỷ, một tách thành ba, phút chốc liền phân chia, trời đƣợc mà thanh nhẹ là
dƣơng, đất đƣợc mà nặng đục là âm, con ngƣời ở giữa trời đất, chịu khí âm dƣơng xung hòa.
Cho nên ở đây thanh nhẹ là thập can, chủ Lộc, gọi là Thiên nguyên, nặng đục là thập nhị chi,
chủ bản thân, gọi là Địa nguyên, trời đất nhiều mà chính vị, mới hình thành ở giữa trời đất,
chính là chỗ gọi con ngƣời vậy. Cho nên Chi Lữ chỗ tàng là chủ mệnh, gọi là Nhân nguyên,
danh là Thần chủ sự, lấy Mệnh thuật mà nói là Nguyệt lệnh.
+ Tháng giêng kiến Dần, trong Dần có Mậu thổ dụng sự 5 ngày, Bính hỏa trƣờng sinh 5
ngày, Giáp mộc 20 ngày;
+ Tháng 2 kiến Mão, trong Mão có Giáp mộc dụng sự 7 ngày, Ất mộc 23 ngày;
+ Tháng 3 kiến Thìn, trong Thìn có Ất mộc dụng sự 7 ngày, Quý thủy mộ khố 5 ngày, Mậu
thổ 18 ngày;
+ Tháng 4 kiến Tị, trong Tị có Mậu thổ 7 ngày, Canh kim trƣờng sinh 5 ngày, Bính hỏa 18
ngày;
+ Tháng 5 kiến Ngọ, trong Ngọ có Kỷ thổ dụng sự 7 ngày, Đinh hỏa 23 ngày;
+ Tháng 6 kiến Mùi, trong Mùi có Đinh hỏa dụng sự 7 ngày, Ất mộc mộ khố 5 ngày, Kỷ thổ
18 ngày;
+ Tháng 7 kiến Thân, trong Thân có Mậu thổ dụng sự 5 ngày, Nhâm thủy trƣờng sinh 5 ngày,
Canh kim 20 ngày;
+ Tháng 8 kiến Dậu, trong Dậu có Canh kim dụng sự 7 ngày, Tân kim 23 ngày;
+ Tháng 9 kiến Tuất, trong Tuất có Tân kim dụng sự 7 ngày, Đinh hỏa mộ khố 5 ngày, Mậu
thổ 18 ngày;
+ Tháng 10 kiến Hợi, trong Hợi có Mậu thổ 5 ngày, Giáp mộc trƣờng sinh 5 ngày, Nhâm
thủy dụng sự 20 ngày;
+ Tháng 11 kiến Tý, trong Tý có Nhâm thủy dụng sự 7 ngày, Quý thủy 23 ngày;
+ Tháng 12 kiến Sửu, trong Sửu có Quý thủy dụng sự 7 ngày, Tân kim mộ khố 5 ngày, Kỷ
thổ 18 ngày.
Chỗ này thập nhị chi tra 12 tháng đều tàng ngũ hành là Nhân nguyên, phối lấy bốn mùa thì
xuân ấm, thu mát, Đông lạnh, Hạ nóng, xoay tròn một vòng, cuối cùng trở lại ban đầu, Tuế
công hoàn tất mà thành một năm.
03-04-16, 08:25
lesoi
Luận Tiết Khí bốn mùa.

Khí tháng giêng là Quẻ Thái, khí trời giáng xuống, nên là Vũ thủy; tháng 2 là quẻ Đại Tráng,
là lôi trên trời, nên là Kinh Trập, trƣớc Vũ thủy mà sau Kinh Trập, cũng phù hợp vậy. Kinh
Trập, vạn vật xuất ra ở cung Chấn, Chấn là Lôi (Sấm) vậy; Thanh Minh, vạn vật đủ ở Tốn,
Tốn vi Phong vậy, Tốn đủ thanh khiết viết là Thanh Minh, Thanh Minh nghĩa là thanh khiết
đầy đủ; Cốc Vũ trong tháng 3, từ Vũ Thủy thổ cao dày mạch động, đến đây lại mƣa, thì mạch
thổ sinh vật, cho nên sinh loại ngũ cốc vậy; Tiểu Mãn trong tháng 4, xƣa nói: sau Tiểu Tuyết
một ngày dƣơng sinh một phân, tích tụ 13 ngày, sinh 30 phân mà thành một ngày, là Đông
Chí, sau Tiểu Mãn âm sinh cũng vậy. Cốc Vũ nếu đến trong tháng 3, Mang Chủng trong
tháng 5, hai khí này duy chỉ nói cốc mạch. Cốc tất khởi đầu mới sinh, loại cốc ở mùa xuân,
đƣợc khí mộc, tàn ở mùa thu, vì kim khắc mộc vậy; Mạch cuối cùng tất phải thành, loại lúa
44 | Tam mệnh thông hội

mạch ở mùa thu, đƣợc khí kim, thành ở mùa hạ, vì hỏa khắc kim vậy; tháng 6 là tiết Tiểu
Thử, Đại Thử ở trong tháng 6, trong tháng 6 cực nóng, cho nên nói là Đại, nhƣng chƣa đến ở
Đại thì là từ Tiểu vậy; Xử Thử trong tháng 7, tháng 7 hết nóng, bắt đầu hàn lạnh, đại hỏa lƣu
về hƣớng tây, khí Xử Thử là cuối cùng vậy, Xử, là ẩn vậy, nghĩa là tàng phục vậy; tiết tháng
8 là Bạch Lộ, tiết tháng 9 là Hàn Lộ, thu mộc thuộc kim, kim màu trắng, khí kim trắng lạnh,
lộ ra màu sắc, Hàn, là khí lộ, trắng trƣớc rồi khí mới lạnh, cho nên dần dần tràn vào vậy,
Sương Giáng trong tháng 9 lộ ra hàn lạnh, thủy kết thành sƣơng vậy; sau Lập Đông viết là
Tiểu Tuyết, Đại Tuyết, khí hàn lạnh bắt đầu lộ ra ở trong sƣơng, cuối cùng là tuyết, trƣớc
sƣơng là lộ, sƣơng từ trắng là mới lạnh, sau sƣơng là tuyết, tuyết từ tiểu mà đến đại, đều có
dần dần vậy; đến Tiểu Hàn Đại Hàn, 《 U Phong 》 nói: "Một ngày dương phát, hai ngày
lật liệt", dƣơng phát phong hàn, cho nên tới tháng 11 là Tiểu Hàn, khí hàn lạnh run rảy, cho
nên cuối tháng 12 là Đại Hàn vậy.
Đại để hợp lại mà nói, nửa năm đầu là chủ trƣờng sinh, viết Vũ viết Lôi viết Phong, đều là
khí Sinh, nửa năm cuối chủ sinh thành, viết Lộ viết Sƣơng viết Tuyết, đều là khí Thành. Nói
thời tiết ở nửa năm cuối, mà không nói thời vụ, thời vụ không dùng ở Xuân Hạ vậy.
03-04-16, 08:25
lesoi
Luận Ngũ hành Vượng Tướng Hưu Tù Tử cùng ký sinh thập nhị cung

Đức thịnh đúng thời viết là Vượng. Nhƣ xuân mộc vƣợng, vƣợng thì sinh hỏa, hỏa là con
mộc, con nhận nghiệp cha, cho nên hỏa là Tướng; mộc dụng thủy sinh, sinh ta là cha mẹ,
trƣớc mắt con nối dõi đƣợc thời, mà đăng cao hiển hách, sinh ra ta là nên hiểu thoái lui vậy,
cho nên thủy là Hƣu. Hưu, là chỗ đẹp vô cực, nhƣng nghĩa của Hƣu là vô sự. Hỏa có thể
khắc kim, kim chính là quỷ của mộc, bị hỏa khắc chế, không thể thực thi, cho nên kim là Tù;
hỏa có thể sinh thổ, thổ là Tài của mộc, Tài là vật ẩn tàng, cây cỏ phát sinh, thổ tán khí nhơ,
cho nên xuân mộc khắc thổ là Tử. Hạ hỏa Vƣợng, sinh thổ thì thổ là Tƣớng, mộc sinh hỏa thì
mộc là Hƣu, thủy khắc hỏa thì thủy là Tù, hỏa khắc kim thì kim là Tử. Tháng 6 thổ vƣợng,
thổ sinh kim thì kim tƣớng, hỏa sinh thổ thi hỏa hƣu, mộc khắc thổ thì mộc tù, Thổ khắc thủy
thì thủy tử. Thu kim vƣợng, kim sinh thủy thì thủy tƣớng, thổ sinh kim thì thổ hƣu, hỏa khắc
kim thì hỏa tù, kim khắc mộc thì mộc tử. Đông thủy vƣợng, thủy sinh mộc thì mộc tƣớng,
kim sinh thủy thì kim hƣu, thổ khắc thủy thì thổ tù, thủy khắc hỏa thì hỏa tử.
Nhìn mùa Hạ đại hạn, kim đá đều tan chảy, thủy thổ khô cháy. Tháng 6 khí nóng tăng, khí
hàn diệt; mùa Thu thì kim thắng, cây cỏ vàng rụng; mùa Đông khí đại hàn quá lạnh, thủy
đóng băng, khí hỏa giảm mạnh, hết thịnh vƣợng, nói chung là có thể thấy đƣợc vậy. Cho nên
xếp thứ tự bốn mùa, tiết đầy thì tất lui, tính cách ngũ hành, công thành tất sẽ trở lại ban đầu,
cho nên dƣơng cực là đi xuống, âm cực là đi lên, quá trƣa thì mặt trời ngã về Tây, trăng tròn
rồi khuyết. Chỗ này là đạo thƣờng của trời vậy. Trời đất và con ngƣời, thế tích tất tổn, tài tụ
tất tán, trẻ lại già, vui lại buồn. Chỗ này là lẽ thƣờng tình của con ngƣời vậy. Cho nên một
thịnh một suy, hoặc đƣợc hoặc mất, vinh khô tiến thoái, khó mà thoát khỏi lý lẽ này. Kinh
nói: Người dù linh hơn vạn vật, mệnh chớ thoát ở ngũ hành. Vì thế lời nói này là vô tận vậy.
Ngũ hành ký sinh thập nhị cung: Trƣờng sinh, Mộc dục, Quan đới, Lâm quan, Đế vƣợng,
Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dƣỡng, tuần hoàn không ngừng, xoay vòng mà trở lại ban
đầu, tạo vật nói chung cùng với con ngƣời là giống nhau, tuần hoàn 12 cung cũng giống nhƣ
nhân gian luân hồi vậy. 《 Tam Mệnh đề yếu 》 nói: "Ngũ hành ký sinh thập nhị cung: 1,
viết Thụ Khí, lại viết Tuyệt, viết Thúy, lấy vạn vật ở trong đất lúc chƣa thành tƣợng, giống
nhƣ bụng mẹ còn trống rỗng, vật chƣa có vậy; 2, viết Thụ Thai, khí trời đất giao nhau tạo ra
vật, vật ở trong đất nảy sinh, bắt đầu có khí, giống nhƣ con ngƣời thụ khí cha mẹ vậy; 3, viết
Thành Hình, vạn vật ở trong đất đã thành hình, nhƣ con ngƣời thành hình ở trong bụng mẹ
vậy; 4, viết Trường sinh, vạn vật phát sinh hƣớng vinh, giống nhƣ con ngƣời bắt đầu sinh ra
45 | Tam mệnh thông hội

mà hƣởng thọ vậy; 5, viết Mộc dục, lại viết là Bại, lấy vạn vật bắt đầu sinh ra, hình thể giòn
mềm, dễ bị hại, lấy mộc dục giống nhƣ con ngƣời sau khi sinh ra 3 ngày, hết ngũ vậy; 6, viết
Quan đới, vạn vật dần tƣơi tốt xinh đẹp, giống nhƣ con ngƣời có đủ áo mũ vậy; 7, viết Lâm
quan, vạn vật đã nở hoa kết quả, giống nhƣ con ngƣời lúc làm quan vậy; 8, viết Đế vượng,
vạn vật đã thành thục, giống nhƣ con ngƣời lúc hƣng vƣợng vậy; 9, viết Suy, lúc hình thể vạn
vật suy yếu, giống nhƣ khí con ngƣời suy nhƣợc vậy; 10, viết Bệnh, lúc vạn vật bệnh, giống
nhƣ con ngƣời bị bệnh vậy; 11, viết Tử, vạn vật chết, giống nhƣ con ngƣời chết vậy; 12, viết
Mộ, còn viết là Khố, khố là lấy lúc vạn vật thành công mà ẩn tàng, giống nhƣ cuối cùng là trở
về mộ vậy. Trở về Mộ thì lại thụ khí, bào thai mà sinh ra".
Phàm suy tạo hóa, thấy sinh vƣợng vị tất liền lấy cát luận, thấy hƣu tù tử tuyệt vị tất liền lấy
hung luận. Nhƣ sinh vƣợng thái quá, cần ở chế phục, tử tuyệt bất cập, cần ở sinh phù, kỳ diệu
là ở nhận thức biến thông. Xƣa lấy Thai Sinh Vƣợng Khố gọi là Tứ Quý, Tử Tuyệt Bệnh Bại
là Tứ Kị, còn lại là Tứ Bình, cũng chỉ nói lƣợc qua.
03-04-16, 08:27
lesoi
Luận độn Nguyệt Thời

Nói đến mệnh, thủ năm làm gốc, là cha, tháng là anh em là thân hữu, ngày là chủ là vợ là bản
thân, giờ là con cháu là quả là vinh nhục cả đời.
Lại viết: Năm là gốc, tháng là mầm giống, ngày là hoa, giờ là quả. Cho nên mầm không có
gốc không sinh trƣởng, quả không có hoa thì không kết trái. Cho nên độn tháng theo năm,
độn giờ theo ngày.
Độn tháng: Tức là năm Giáp Kỷ, tháng giêng khởi Bính Dần, tháng 2 khởi Đinh Mão, thuận
hành 12 tháng.
Cổ ca viết:
Giáp Kỷ chi niên Bính tác thủ,
Ất Canh chi tuế Mậu vi đầu,
Bính Tân chi tuế tầm Canh thượng,
Đinh Nhâm Nhâm vị thuận hành lưu,
Cánh hữu Mậu Quý hà xứ khởi?
Giáp Dần chi thượng hảo truy cầu.
Độn thời: Nhƣ ngƣời sinh ngày Giáp Tý giờ Tý tức Giáp Kỷ, lại thêm Giáp, liền hiểu giờ Tý
là Giáp Tý, giờ Sửu là Ất Sửu, thuận hành theo 12 giờ.
Cổ ca viết:
Giáp Kỷ hoàn gia Giáp,
Ất Canh Bính tác sơ,
Bính Tân tòng Mậu khởi,
Đinh Nhâm Canh Tý cư,
Mậu Quý hà phương phát?
Nhâm Tý thị trực đồ.
Phép Nguyệt Thời ( lấy tháng, lấy giờ) , là lấy thiên can hợp số, phối hợp âm dƣơng vậy. Đã
lấy hợp số, tự sinh hóa số, tháng thì thủ Sinh, giờ thì thủ Khắc. Ví dụ nhƣ Giáp Kỷ hóa thổ,
cho nên hỏa sinh thổ, tháng khởi Bính Dần; cho nên thổ khắc thủy, giờ khởi Giáp Tý. Tháng
độn khởi ở Dần, nghĩa là ngƣời sinh ra ở Dần, mùa lấy phƣơng Đông lƣu hành vậy; giờ độn
khởi ở Tý, nghĩa là trời mở ra ở Tý, sau khi phƣơng Nhất Dƣơng sinh vậy. Cuối cùng mà nói,
thì tất cả đều tƣơng sinh rồi chuyển, chỗ này là tuần hoàn không ngừng. Bởi thế năm đầu tiên
của âm lịch là Giáp Tý, tháng Giáp Tý, ngày Giáp Tý, giờ Giáp Tý, bắt đầu là Giáp Kỷ, tổ
tông Giáp Tý ở chỗ này vậy. Có Giáp Tý thì Ất Sửu, Bính Dần thuận theo phân bố ở thập nhị
46 | Tam mệnh thông hội

cung, dƣơng sinh dƣơng, âm sinh âm, cách nhau một vị, đồng loại là vợ chồng. Là phép khởi
nguyệt, bên trong không ngoài khởi ở giờ vậy.
03-04-16, 08:33
lesoi
Luận Năm tháng ngày giờ

Phàm luận sinh mệnh con ngƣời, năm tháng ngày giờ xếp thành tứ trụ, tháng độn theo năm,
thì lấy Năm là Bản (gốc), giờ độn theo ngày, thì lấy Ngày là Chủ. Phép xƣa lấy năm xem, Tử
Bình lấy ngày xem, vốn là chỗ này. Nhƣ ngƣời Bản mộc mà đƣợc tháng Mão để cƣỡi, Chủ là
kim mà đƣợc giờ Dậu để cƣỡi, gọi là Bản Chủ nhận vượng khí; nhƣ Bản là thủy mà đƣợc
tháng Giáp Thân, Bính Tý, Nhâm Tuất, Quý Hợi; chủ hỏa mà đƣợc giờ Bính Dần, Mậu Ngọ,
Giáp Thìn, Ất Tị; Bản là mộc mà đƣợc tháng Kỷ Hợi, Tân Mão, Giáp Dần, Canh Dần; Chủ là
kim mà đƣợc giờ Tân Tị, Quý Dậu, Canh Thân, Nhâm Thân, gọi là Bản Chủ trở về Nhà; Bản
là mộc mà đƣợc tháng Quý Mùi, Chủ là kim mà đƣợc giờ Ất Sửu; Bản là thủy mà đƣợc tháng
Nhâm Thìn, Chủ là hỏa mà đƣợc giờ Giáp Tuất, gọi là Bản Chủ trì Ấn. Bốn vị trí nhƣ vậy,
thêm có Cát thần qua lại, Hung sát né tránh, gọi là Bản Chủ đắc vị, Bản thắng hơn Chủ phần
đa là đƣợc tổ ấm, Chủ thắng hơn Bản là tự thân đứng vững, Bản và Chủ đều cƣờng, là phú
quý song toàn. Trong tứ trụ lại quy về trong Ức Dƣơng (Ức là Trầm, Dƣơng là Bỗng), không
có thái quá bất cập, mới là mệnh tốt, có một vị bất cập, tất chủ trì trệ, nhƣng nhiều nhà thuật
mệnh đều nói năm tốt không bằng tháng tốt, tháng tốt không bằng ngày tốt, ngày tốt không
bằng giờ tốt. Nói chung lấy năm là cai quản từ một tuổi, tháng thì bao gồm đến tuổi 30, mà là
đƣợc ngày giờ. Là không biết đƣợc ngày giờ tốt mà tháng không ƣng thuận, trái lại là vô
dụng, huống chi dụng thần phần đa thủ ở tháng là chủ yếu, tháng lại có thể xem nhẹ sao?
Thời nhà Đƣờng có Lý Hƣ Trung chuyên lấy Nhật can làm chủ, lại lấy năm tháng và giờ hợp
lại xem sinh khắc chế hóa, vƣợng tƣớng hƣu tù, để thủ lập cách cục. Chỗ này lời ngƣời xƣa là
tổ tông của thuật gia ngày nay.
Lại viết: Năm là Thái Tuế, chủ họa phúc cả đời con ngƣời, nhƣ Thái Tuế lúc sinh là kim là
mộc, ngày tháng phải tƣơng sinh tƣơng ứng, tạo hóa hòa thuận, thì căn cơ vững chắc, cả đời
chắc chắn là thành tựu. Loại can chi ngũ hành không thuận lại khắc, xung phá là tổn thƣơng,
Bản Chủ là không thọ, gặp phải hình dáng mang Sát. Cập sinh, tháng ngày giờ chủ tổn
thƣơng mộc khí, là phá thƣơng tổ nghiệp, lục thân lãnh đạm là mệnh trì trệ vậy. Tháng là
Nguyên Vận, hành vận khởi đến từ tháng, ngày giờ là phúc của Bản năm sinh, cần quy về
chỗ nguyên vận sinh vƣợng để đƣợc phù trợ, cho nên Quan Ấn quý nhân, Lộc Mã Tài tinh
cần chỗ nguyên vận sinh vƣợng là tốt; nếu ngày giờ là hoạ của Bản năm sinh, nên quy về chỗ
nguyên vận khắc cƣớp để cứu giúp. Cho nên thổ nhiều thì tắc nghẻn, nên quy về chỗ nguyên
vận khai thông; thủy nhiều thì phiếm lạm, nên quy về chỗ nguyên vận quy tụ; hỏa nhiều thì
hung bạo, nên quy về chỗ nguyên vận xứ ẩn trốn; kim mộc thái cƣờng, nên quy về chỗ
nguyên vận chìm ẩn. Hoặc nguyên vận tụ phúc ở giờ sinh, hoặc nguyên vận phát phúc ở giờ
sinh, ngày hội tụ Tam Dƣơng, tƣợng Hoàng Đế, là gần thời thần, thân lấy Đế Tọa, mà ngày
giờ có Quân Thần khánh hội, Thiên Địa hợp Đức. Hoặc bốn vị năm tháng ngày giờ khí nạp
âm sinh vƣợng, hoặc bốn vị Lộc cùng Phúc quý khí tụ ở trụ giờ, gọi là bốn vị tụ phúc ở Đế
tọa; hoặc giờ đảo nghịch, vƣợng khí tú khí tán ở nhiều nơi, mà các nơi nận khí tụ cát, gọi là
Đế Tọa phát phúc ở bốn vị. Nói về Tụ phúc ở Đế tọa là lấy thuần hậu trung tín làm tâm, phát
phúc ở bốn vị thì lấy thông minh đoan trực tự tiến. Nếu cận thần hầu hạ thiết kị thổ hỏa kim
khí thái vƣợng, không thể trụ lâu dài, thủy mộc thanh kỳ đa số là Hàn Lâm. Chỗ phát phúc là
năm tháng, giờ sinh không nên phá hoại, giải thích xứ phá bại vẫn cần giờ sinh.
Luận bởi vì do đều xem trọng năm tháng ngày giờ, mà giờ thì càng trọng hơn. Nhân mệnh
quý tiện, thọ yểu, cùng thông, đƣợc mất chỉ biện ở giờ sinh. Giờ có 8 khắc, khí có đầu giữa
và cuối khác nhau, cần phải xem xét kĩ càng.
47 | Tam mệnh thông hội

《 Định Chân luận 》 viết: Tổn thƣơng năm bất lợi cha, tổn thƣơng tháng bất lợi huynh đệ,
cũng chủ lúc trẻ là cơ hàn khổ cực. Tổn thƣơng ngày bất lợi bản thân, danh là Chiết Yêu Sát;
tổn thƣơng giờ thì bất lợi cho con cháu, cũng không có kết quả. Nếu năm sinh ba vị tháng
ngày giờ gọi là Trên sinh Dƣới, chủ hao tổn bản khí, kiêm phá tổ nghiệp; trụ giờ sinh ngày
tháng năm gọi là Dƣới sinh Trên, chủ tăng phúc đức. Nếu Trên sinh Dƣới gặp lúc hành xấu,
là sinh nhận phúc khí, cũng xem là mệnh tốt. Nếu cùng nhau đón sinh họa, thì không tốt. Tứ
trụ thuần túy, không có hình xung phá hại, Không Vong tử tuyệt, lại có phúc thần hỗ trợ mới
là mệnh tốt, trái lại chỗ này thì hung.
03-04-16, 08:37
lesoi
Luận Thai Nguyên

Nói về Thai, là bắt đầu thụ hình, cho nên Dịch Càn biết Thái Thủy, lấy hình nói vậy; Tháng,
lúc thành khí, cho nên truyền nói tích lấy ngày thành tháng, lấy khí nói vậy. Nay đàm mệnh
hoặc không lấy Thai nguyệt làm trọng, đặc biệt không nhớ Thai nguyệt là mầm căn tứ trụ,
ngày giờ tuy là yếu khẩn, nếu không phạm phá Thai nguyệt, hoặc nhận Lộc Mã xứ vƣợng khí
thì là phúc càng nhiều, hoặc ngày giờ cát mà là phạm chỗ Thai nguyệt (tháng mang thai), thì
cát cũng quy về vô dụng. Vì Thai nguyệt rất là then chốt.
Thủ Thai nguyên, duy chỉ có một phép, lấy khí trƣớc lúc sinh 300 ngày là 10 tháng, chính là
lúc thụ thai, thí dụ nhƣ sinh ngày Giáp Tý liền lấy ngày Giáp Tý là ngày thụ thai, bởi vì 5 lần
6 tính là 300 ngày, xem ngày sinh có ở trong tháng nào, thì nhuận ở trong đó vậy. Còn nhƣ
ngƣời sinh ngày Ất Sửu tháng Giáp Dần năm Mậu Tý, phải ở trong nừa tháng trƣớc của tháng
10 hoặc tháng 11, tìm lúc sinh ngày Ất Sửu, đúng thai chính là 300 ngày.

Luận tọa Mệnh cung

Thần không có miếu không có chỗ trở về, ngƣời không có nhà không có chỗ ở, mệnh không
có cung không có chỗ làm chủ, cho nên co1` thuyết Mệnh cung, nếu không Lƣu niên Tinh
thần, là hung là cát, lấy gì làm bằng chứng?
Phép này là xem ngƣời sinh tháng nào tọa ở giờ nào, sau đó mới định Mệnh tọa ở cung nào.
Trƣớc tiên đem chỗ tháng sinh khởi từ trên Tý là tháng giêng, tháng 2 trên Hợi, tháng 3 trên
Tuất, tháng 4 trên Dậu, tháng 5 trên Thân, 6 là Mùi, 7 là Ngọ, 8 là Tị, 9 là Thìn, 10 là Mão,
11 là Dần, 12 là Sửu, nghịch hành 12 vị, thứ đem chỗ giờ sinh gia vào chỗ tháng sinh, thuận
hành 12 vị, phùng Mão tức là an Mệnh cung. Giả sử ngƣời sinh tháng 3 năm Giáp Tý đƣợc
giờ Tuất, lại đem tháng giêng gia trên Tý, tháng 2 ở Hợi, tháng 3 ở Tuất là dừng, lại đem giờ
Tuất gia ở trên Tuất, Tuất ở trên Hợi, Hợi ở trên Tý, Tý ở trên Sửu, Sửu ở trên Dần, Dần ở
trên Mão, Mão phùng Mão là đúng, tức là Mệnh tọa ở cung Mão là đáng vậy. Vẫn khởi theo
năm Giáp Tý, cũng nhƣ phép khởi tháng. Giáp Kỷ chi niên Bính tác thủ, là cung Đinh Mão
vậy. Thứ xem tam phƣơng cùng bản mệnh lƣu can phạm tinh nào hung cát mà suy.
03-04-16, 08:37
lesoi
Luận Đại Vận

Nói đến vận, là diễn đạt cả đời ngƣời. Thuyết xem mệnh trƣớc tiên lấy tam nguyên, tứ trụ,
ngũ hành, sinh tử, cách cục hợp lại để định căn cơ, sau đó nghiên cứu khí vận, cùng hợp lại
mà định cát hung cả đời ngƣời vậy. Ngƣời xƣa lấy đại vận thì một thần là 10 tuổi, tại sao lại
chiết trừ 3 ngày là một năm? Bởi vì trọn một tháng, một vòng Hối Sóc ( từ đầu tháng đến
48 | Tam mệnh thông hội

cuối tháng) là có 30 ngày, trọn một ngày, một vòng ngày đêm là có 12 giờ; tổng cộng vận khí
10 năm, phàm 3 ngày có 36 giờ, một năm chính là con số 360 ngày; Ở trong một tháng có
360 giờ, chiết trừ tiết khí, 10 tuổi coi nhƣ 3.600 ngày là một thần vậy. Phép luận chiết trừ
nhất định sử dụng ngày sinh theo dƣơng lịch. Đếm qua ngày giờ, là số tiết khí. Dƣơng nam
âm nữ, đại vận lấy theo sau ngày giờ sinh, đếm tới ngày giờ gần nhất của tiết sắp tới, mà
thuận hành; âm nam dƣơng nữ, đại vận lấy trƣớc ngày giờ sinh đếm tới ngày giờ gần nhất của
Tiết đã qua, mà nghịch hành. Giả dụ nhƣ dƣơng nam sinh giờ Tị, ngày 24, tháng 12 năm Giáp
Tý, giờ Thân ngày 29 tháng này mới đúng Lập Xuân, dƣơng nam đếm đến ngày sắp tới, từ
giờ Tị ngày 24 đến giờ Tị ngày 25 mới là số thực một ngày, đến giờ Thân ngày 29 đúng tiết
khí là đƣợc 5 ngày 3 giờ, lịch thực chiết trừ qua 63 ngày, chiết trừ qua 63 giờ, tính là 630
ngày, đại vận là 1 tuổi 9 tháng; bắt đầu ở Đinh Sửu, nhất định từ sau ngày sinh tháng 12, thực
tế trải qua là 21 ngày, phƣơng vận di chuyển cung tháng, là vƣợt qua bên trong 3 tuổi 9 tháng,
mới là sinh tháng 12 năm Giáp Tý, hành đại vận 1 tuổi 9 tháng vậy.
Phàm hành vận, tại can thần kiêm dụng địa chi, vật ở chi thì bỏ thiên can. Bởi vì đại vận
trọng địa chi, cho nên có tổn biện hành đông phƣơng, nam phƣơng, tây phƣơng, bắc phƣơng.
Dụng thần là có muốn vận chế ích, dụng thần là có muốn vận sinh thân. Nhƣợc thì muốn vận
dẫn vào đất vƣợng; Quan thì muốn vận sinh, không muốn vận Thƣơng; Sát thì muốn vận chế,
không muốn vận trợ. Tài thì muốn vận phù, không muốn vận Kiếp; Ấn thì muốn vận vƣợng,
không muốn vận suy; Thực thì muốn sinh, không muốn vận Kiêu tuyệt. Lại xem tứ trụ cƣờng
nhƣợc nhƣ thế nào, vốn có vốn không có, vốn khinh vốn trọng. Nhƣ ngƣời mộc dụng kim là
Quan, dƣơng nam vận xuất Mùi nhập Thân, âm nam vận xuất Hợi nhập Tuất; ngƣời kim
dụng mộc là Tài, dƣơng nam xuất Sửu nhập Dần, âm nam xuất Tị nhập Thìn, đều là hƣớng
Lộc lâm Mã. Vốn có Quan, hành Quan vận là phát quan; vốn có Tài, hành Tài vận là phát tài;
vốn có tai, hành tai vận là phát tai. Lại xem năm giờ sinh đƣợc khí cạn đục, tứ trụ đƣợc khí
sâu, đón vận liền phát, đƣợc khí cạn, cần giao qua vận mới phát, đƣợc khí trung hòa, vận đến
trung hòa thì phát.
Phàm hành vận, đất Trƣờng sinh chủ có chuyện sáng kiến làm mới; đến đất Lâm quan, Đế
vƣợng, chủ hƣng thịnh vui sƣớng, phát phúc tiến tài, sinh con cốt nhục hỉ khánh; đến đất Suy
Bệnh, phần đa là có các chuyện thoái bại, phá tài, tật bệnh; đến đất Tử Tuyệt, chủ con cái cốt
nhục tang tử, tự thân suy họa phiền muộn cùng cực, bách sự bế tắc; đến Bại vận, chủ lƣời
nhác nghèo túng, hôn mê tửu sắc; đến đất Thai Khố thành hình, Quan đái, đƣợc bách sự, an
khang bình dị. Phàm hành vận đến trên giáp Quý, Hoa Cái, Quý nhân, Lục hợp, cùng nhận
khí sinh vƣợng, đều chủ hỉ khánh, nhƣng vẫn phải khảo sát căn cơ lúc sinh, 10 phần thì ứng 5
phần, giờ sinh thì ứng 10 phần, phúc cùng tai họa giống nhau; phàm hành vận đến trên lâm
quan, đế vƣợng, Thái tuế chủ quản, làm quan chủ có tiến sự sửa xấu thành hỉ.
03-04-16, 08:38
lesoi
Luận Tiểu vận

Nói đến đại vận là nắm tốt xấu 10 năm, còn tiểu vận thì năm 1 năm tai họa cát tƣờng, tiểu vận
là bổ túc đại vận không đủ mà lập danh vậy. Cổ nhân lấy nam khởi từ Bính Dần thuận hành,
còn nữ thì khởi từ Nhâm Thân nghịch hành, nhất định mà không thể dịch dời vậy. Nói giải
thích nam là dƣơng hỏa, nguyên khí khởi từ Mậu Tý, 30 là Đinh Tị, tháng 10 đến Bính Dần,
chỗ này là mộc sinh hỏa; nữ là âm thủy, nguyên khí khởi từ Canh Tý, 20 là Tân Tị, tháng 10
đến Nhâm Thân, chỗ này là kim sinh thủy, kể ra chỗ này vậy.

Túy Tỉnh Tử là lấy nam nữ tiểu vận đều từ giờ sinh mà khởi, thuận nghịch đều lấy năm mà
định. Nhƣ dƣơng mệnh sinh giờ Giáp Tý năm dƣơng đọa địa, tức là hành Ất Sửu, 2 tuổi Bính
Dần, một vị là một năm, giáp vòng mà trở lại ban đầu; âm mệnh năm dƣơng thì nghịch hành
49 | Tam mệnh thông hội

cũng nhƣ vậy. Thử dùng, nhiều lần tra xét, cũng phải cùng đại vận cùng trong trụ dụng thần
nhật chủ để tính toán cát hung. Hạn trẻ con chƣa giao đại vận, chuyên dụng phép này; hành
cung tử tuyệt Sát vƣợng, tất có nguy nan. Trƣớc tiên xem kĩ bát tự suy vƣợng hỉ kỵ, sau đó
mới lấy phép này mà tham khảo, không có không đúng vậy. Ngày nay đàm mệnh chỉ có lấy
đại vận sử dụng, không biết tiểu vận cũng có quan khẩn (cửa quan trọng). Đại vận tuy cát, mà
tiểu vận không thông, không thể liền nói cát lợi; đại vận tuy hung, mà tiểu vận lại cát, cũng
không thể vội lấy hung suy. Chỗ tiểu vận còn có tên là Hành niên, không thể không nghiên
cứu.
03-04-16, 08:39
lesoi
Luận Thái Tuế

Nói về Thái tuế, là chủ tể một năm, lĩnh tụ các chƣ thần. Là nói có 2 chỗ: Nhƣ năm sinh trong
tứ trụ viết là Thái Tuế lúc sinh, nhƣ từng năm luân chuyển thì viết là Thái Tuế du hành. Thái
Tuế lúc sinh chính là chủ cả đời, lý này đã luận ở trƣớc rồi; từng năm Thái Tuế du hành 12
cung, định họa phúc một năm, là cát hung bốn mùa. Bởi vì Thái Tuế giống nhƣ Vua vậy, còn
đại vận giống nhƣ Thần vậy. Nhƣ vua cùng thần hòa nhau, là một năm cát; nếu gặp hình
chiến, là năm hung. Kinh nói: Tuế tổn thƣơng nhật can, có họa tất nhẹ; nhật phạm Tuế Quân,
tai ƣơng tất nặng. Chỗ này lại chia ra mà nói: Tuế Quân tổn thƣơng nhật can, nhƣ năm Canh
khắc ngày Giáp là Thiên Quan, tỉ nhƣ vua quản lý thần, cha quản lý con, tuy có tai hối, nhƣng
không đại hại, là sao vậy? Trên cai quản dƣới, là thuận vậy, tình cảm không hết tuyệt; còn
Nhật phạm Tuế Quân, nhƣ ngày Giáp khắc năm Mậu là Thiên Tài, tỉ nhƣ thần với vua, con
với cha, rất là bất lợi, sao vậy? Dƣới lăng nhục trên, là nghịch vậy, hung quyết không thể
miễn. Nếu ngũ hành có cứu, tứ trụ có tình, nhƣ ngày Giáp khắc năm Mậu, tứ trụ vốn có Canh
Thân kim, hoặc gặp đại vận, cũng có đem Giáp mộc chế phục thuần túy. Không thể khắc
Mậu thổ là có cứu; nếu nhƣ đại vận cùng tứ trụ có một chữ Quý cùng Mậu tƣơng hợp là có
tình. Kinh nói: Nhâm lấy Quý muội phối Mậu, là điềm hung thành cát.
Lại có thuyết Chân Thái Tuế, Chinh Thái Tuế. Kinh nói: Giờ sinh tƣơng phùng Chân Thái
Tuế. Giả sử nhƣ ngƣời sinh Giáp Tý lại thấy năm Giáp Tý, gọi là Chân Thái Tuế, còn có
danh là Chuyển Chỉ Sát, cần đại vận, nhật chủ cùng Thái Tuế tƣơng hòa tƣơng thuận, là năm
cát; nếu gặp hình xung phá hại, cùng Thái Tuế hỗ tƣơng khắc chiến là hung. Nhƣ ngày Quý
Tị gặp lƣu niên Đinh Hợi; can chi ngày xung khắc Thái Tuế viết là Chinh, can chi vận thƣơng
xung Thái tuế cũng viết là Chinh, can chi Thái Tuế xung can chi ngày cũng viết là Chinh, là
gặp năm hung, tai họa khó tránh. Lại nhƣ lƣu niên Giáp Tý lại gặp vận Giáp Tý, gọi là Tuế
Vận cùng lâm, chỉ độc Dƣơng Nhận, Thất Sát là hung, Tài, Quan, Ấn thụ cũng cát. Lại nhƣ
ngày Giáp Tý thấy Thái tuế Giáp Tý, gọi là Nhật Niên tương tịnh, nhƣ quân tử gặp, gọi là
Xứ hội Quân Thần, là năm lợi tấu vua, có hỉ thấy mặt vua, nếu lúc đƣợc kẻ sĩ thăm viếng, có
tƣợng đăng tiến sĩ tiến, lại phải cùng Tuế quân Đế tọa hòa hợp, mới là đặc sắc; nếu là thƣờng
tục tiểu nhân gặp, rất là bất thiện, nếu giờ sinh hòa nhau, thì họa hơi nhẹ. Cho nên kinh nói:
Thái Tuế lúc lập đến đầu, chƣ thần không dám đƣơng, nếu không có quan sự quấy nhiễu,
định chủ thấy trọng tang. Chỗ này nói cùng nhau! Lại thêm Nguyên Vong, Hàm Trì, Cô Khổ,
Trạch Mộ, Bệnh Tử, Quan Phù, Tang Điếu, Bạch Hổ, Dƣơng Nhận, Bạo Bại, Thiên Ách các
loại hung sát cùng đến, họa hoạn bách xuất, nặng là chết.
Giả nhƣ ngày Giáp thấy Thái tuế là năm Mậu, Giáp lại sinh Dần Mão Hợi Mùi, năm tháng
ngày giờ lại trọng kiến chữ Giáp Ất cùng khắc, năm Mậu trong trụ không có Canh Tân Tị
Dậu Sửu kim cục chế mộc, Bính Đinh hỏa cục đốt mộc, rất hung. Nhƣ một mệnh: Mậu Thìn,
Mậu Ngọ, Mậu Tuất, Giáp Dần, là Dƣơng Nhận Đảo Qua, gặp tháng 4 năm Nhâm Thân,
sinh bệnh ung thƣ cổ họng mà chết; Lại nhƣ mệnh: Ất Sửu, Ất Hợi, Nhâm Thân, Ất Tị, vận
hành Tân Mùi, năm Bính Dần, can chi ngày Nhâm khắc Thái tuế Bính, chi ngày Canh Thân
50 | Tam mệnh thông hội

khắc Thái tuế Dần Giáp, Dần lại hình Tị, Tị hình Thân, hình Dần, hành vận Tân Mùi, hợp
Thái Tuế thành mộc cục Thƣơng quan, đều là không cát, năm Giáp Ngọ hỏa vƣợng khắc
chiến, cho nên chết đột ngột.
Đại để, ngày phạm Tuế quân, ở 5 can dƣơng thì nặng, ở 5 can âm thì nhẹ, nếu nhật can là
Thiên Nguyệt Đức. Thái tuế là dụng thần thì không xấu, mà còn có thu hoạch; thiên xung địa
kích, vốn có ở trong trụ, lƣu niên lại gặp, cũng không có đại xấu; nếu Thái tuế khắc giờ sinh,
hoặc giờ khắc Thái tuế, cũng là có tai họa, nhƣng lấy vị trí con cái mà đoán.
03-04-16, 08:39
lesoi
Tổng luận Tuế Vận

Nói đến Thái Tuế, là vua của một năm, lãnh đạo các chƣ thần sát trong năm; thống lĩnh tất cả
phƣơng vị, lục khí bốn mùa, dịch chuyển bốn mùa để thành Tuế công, là đấng chí tôn vô
thƣợng, nếu ngƣời gặp khắc xung áp phục, đều là điềm không cát lành. Vận là hòa hợp 24 tiết
khí, là vận bản cả đời tốt xấu, phù trì tứ trụ, phụ bật tam nguyên, cả hai vận cùng lƣu niên làm
thành ngọn nguồn, chính là chỗ hệ thống họa phúc tử sinh nhân mệnh, Tuế sử dụng Thiên
nguyên, vận sử dụng Địa chi, phàm hành vận tốt mà nhật can gây tổn thƣơng Thiên nguyên
lƣu niên, là phúc nhẹ; nếu hành vận không tốt cùng thoát vận Tài Quan mà nhật can gây tổn
thƣơng can tuế, là họa nặng, nếu là mệnh đã phát, họa hoạn lập tức đến, phàm hành vận
không tốt, không thể liền nói suy tuyệt, cần phải biết là đã phát hay chƣa phát, khí số đã qua
hay chƣa qua mà nói. Hành vận lấy tháng sinh gọi là Vận nguyên, rất sợ hành vận cùng Thái
tuế xung khắc, nếu tuế vận xung Nguyệt lệnh (chi tháng) tất có họa; nếu tuế vận cùng ngày
đối xung nhau, gọi là Phản ngâm, tuế vận áp lên ngày, gọi là Phục ngâm, cả hai đều bất lợi
cho lục thân, hết sức phá tài, không là điềm cát. Phàm tuế vận cát hung, Thiên nguyên lúc
sinh, hoặc trong chi vốn không có Quan tinh, Thiên nguyên có Chính Quan hoặc vốn là Thiên
Quan chế phục thái quá, vận gặp Thiên nguyên Quan tinh, cũng có thể phát phúc; chi không
có Tài mà can vận là Tài, cũng có thể phát tài; chi không có Sát mà can vận là Sát, cũng đủ
thành tai họa.
Hối khí, chính là tƣợng không sáng, nói là hôn muội vậy, tức là Giáp lấy Ất Canh, để hợp gọi
là Hối vậy, nhật can cùng can giờ không nên cùng Thiên nguyên Thái tuế hợp, hợp thì có
danh là Hối khí. Lại cần phân chia nhật can hợp Thái tuế, ví dụ nhƣ ngày Giáp năm Kỷ, Thái
tuế hợp nhật can, nhƣ ngày Kỷ năm Giáp vậy. Giáp hợp Kỷ họa nặng, Kỷ hợp Giáp họa nhẹ,
vị trí Tuế gần là họa nặng, xa là họa nhẹ, nhƣ Tuế ở trƣớc ngày 5 thần mà gặp hợp, gọi là
Thái Tuế nhập trạch, hối khí lâm môn, chủ tai ách.
Đại vận không nên cùng Thái tuế tƣơng khắc tƣơng xung, càng kỵ vận khắc tuế, cùng ngày
phạm là nhƣ nhau, chủ phá hao tang sự, có Quý nhân Lộc Mã giải thì hơi cát, bát tự có cứu
thì không ngại.
03-04-16, 08:40
lesoi
Luận Thập Can hợp

Nói về Hợp chính là ý nghĩa hài hòa, nhƣ dƣơng thấy dƣơng, hai dƣơng cạnh tranh lẫn nhau
thì thành khắc, âm thấy âm, hai âm không thể gặp thì thành khắc, duy chỉ có âm thấy dƣơng,
dƣơng thấy âm là hợp, cũng nhƣ nam nữ tƣơng hợp mà thành đạo vợ chồng vậy.
Đông phƣơng Giáp Ất mộc sợ Tây phƣơng Canh Tân kim khắc. Giáp thuộc dƣơng là huynh,
Ất thuộc âm là muội, Giáp huynh toại nguyện đem Ất muội gả cho gia đình kim, dành cho
Canh làm vợ, cho nên Ất cùng Canh hợp.
51 | Tam mệnh thông hội

Nam phƣơng Bính Đinh hỏa sợ Bắc phƣơng Nhâm Quý thủy khắc. Bính thuộc dƣơng làm
huynh, Đinh thuộc âm làm muội, Bính huynh toại nguyện gả Đinh muội cho gia đình thủy,
dành cho Nhâm làm vợ, cho nên Đinh cùng Nhâm hợp.
Trung ƣơng Mậu Kỷ thổ sợ Đông phƣơng Giáp Ất mộc khắc. Mậu thuộc dƣơng làm huynh,
Kỷ thuộc âm làm muội, Mậu huynh toại nguyện gả Kỷ muội cho gia đình mộc, dành cho
Giáp làm vợ, cho nên lấy Giáp cùng Kỷ hợp.
Tây phƣơng Canh Tân kim sợ Nam phƣơng Bính Đinh hỏa khắc. Canh thuộc dƣơng làm
huynh, Tân thuộc âm làm muội, Canh huynh chính thức gả Tân muội cho gia đình hỏa, dành
cho Bính làm vợ, cho nên lấy Bính cùng Tân hợp.
Bắc phƣơng Nhâm Quý thủy sợ trung ƣơng Mậu Kỷ thổ khắc. Nhâm thuộc dƣơng làm
huynh, Quý thuộc âm làm muội, Nhâm huynh chính thức gả Quý muội cho gia đình thổ, dành
cho Mậu làm vợ, cho nên Mậu cùng Quý hợp.

Giáp cùng Kỷ sao gọi là hợp trung chính? Giáp, là dƣơng mộc, tính chất là Nhân ái, địa vị
là nơi đứng đầu thập can, Kỷ là âm thổ vậy, tính là điềm tĩnh mà thật thà trung thực, có phát
sinh đức hạnh, cho nên Giáp Kỷ là hợp trung chính. Mang hợp chỗ này thì chủ là ngƣời đƣợc
kính trọng to lớn, tính tình khoan hậu, bình trực. Nhƣ mang Sát mà ngũ hành không có khí thì
tính nóng hay phẫn nộ, tính tình ƣơng ngạnh không thể khuất phục.

Ất cùng Canh sao gọi là hợp nhân nghĩa? Ất là âm mộc vậy, tính tình nhân ái mà quá nhu
nhƣợc, Canh là dƣơng kim vậy, kiên cƣờng bất khuất thì cƣơng và nhu cùng giúp nhau, nhân
nghĩa có đủ. Cho nên chủ là ngƣời lấy có quả cảm, không có nhu nịnh, đầy đủ lòng nhân ái,
tiến thóai chỉ có chính nghĩa. Ngũ hành sinh vƣợng thì cốt tú hình thanh, nếu tử tuyệt mang
Sát thì khiến cho khí dũng mãnh, thể mạo không đẹp, bản thân làm chuyên phi pháp. Giáp
Kỷ, Ất Canh mà hợp, phụ nữ không kỵ.

Bính cùng Tân sao gọi là hợp uy nghiêm? Bính là dƣơng hỏa vậy, bản thân chứa đựng hiển
hách sáng tỏ, Tân là âm kim vậy, khắc Nhận mà hỉ Sát. Cho nên Bính Tân là hợp uy nghiêm.
Chủ là ngƣời bề ngoài tỏ ra uy nghiêm, tôn kính, nhiều ngƣời sợ sệt, tàn độc, thích tiền của,
mừng dâm dục, nếu mang Sát hoặc ngũ hành tử tuyệt thì ít ân thiếu nghĩa, ngƣời vô tình. Phụ
nữ gặp, cùng Thiên trung, Đại hao, Hàm trì cùng thấy thì diện mạo đẹp mà thanh tú, yểu
mệnh, đẹp mà dâm.
03-04-16, 08:40
lesoi
Đinh cùng Nhâm sao gọi là hợp dâm loạn, gian ác? Nhâm là thủy thuần âm, tam quang
(mặt trời, mặt trăng và các vì sao) không chiếu sáng, Đinh là hỏa ẩn tàng âm, bản thân mờ
mịt không rõ. Cho nên Đinh Nhâm là hợp dâm loạn, gian ác. Chủ là ngƣời mắt sáng thần đẹp
đẽ, đa tình dễ dàng lay động, việc không trong sạch, thanh khiết, quen nhân nhƣợng, không
rời bỏ, gối lên vui mừng mà đam mê nhan sắc, keo kiệt, biển lận, hƣớng về đối phƣơng mà
ham muốn, nếu ngũ hành tử tuyệt hoặc mang Sát, thấy Hàm Trì, Đại hao, Thiên trung tự bại,
có dâm ô mà gia phong mang tiếng xấu; bản thân là kẻ tiểu nhân, coi thƣờng quân tử, tham
lam gây ra ngông cuồng, nhất định thắng mà lấy hậu. Phụ nữ thì dâm tà gian ác, dễ dàng kén
chọn cũng dễ dàng dụ dỗ, truyền nhiễm nhiều điều sĩ nhục, hỗ thẹn, có thể tuổi nhỏ mà kết
duyên với ông già, hoặc tuổi cao mà lấy niên thiếu, hoặc trƣớc là bần tiện mà về sau lƣơng
thiện, hoặc trƣớc lƣơng thiện mà về sau thì hạ tiện.

Mậu và Quý sao lại gọi là hợp vô tình? Mậu là dƣơng thổ vậy, là lão già xấu xí, Quý là âm
thủy vậy, là bà già đong đƣa, Lão Dƣơng và Thiếu Âm, tuy là hợp mà không có tình, chủ là
ngƣời hoặc tốt hoặc xấu, nhƣ Mậu đƣợc Quý thì nũng nịu, dung nhan đƣợc chỗ xinh đẹp, đàn
52 | Tam mệnh thông hội

ông lấy phụ nữ có chồng, đàn bà lấy đàn ông có vợ; nếu Quý đƣợc Mậu thì hình dung cổ xƣa,
chất phác, tƣớng cụ già trần tục, đàn ông lấy phụ nữ già, đàn bà lấy đàn ông già.
03-04-16, 08:41
lesoi
Luận Tiến giao Thoái phục

Diêm Đông Tẩu nói: Lấy thập can phân làm 4 Hầu ( Hầu: nghĩa là Thời gian), mỗi Hầu là 15
ngày, 12 ngày là thời gian Tiến thần, còn lại 3 ngày là thời gian Giao Thoái Phục thần. Cho
nên Giáp Tý là đệ nhất Tiến thần, thì Bính Tý, Đinh Sửu, Mậu Dần là Giao Thoái phục thần;
Kỷ Mão là đệ nhị Tiến thần, thì Tân Mão, Nhâm Thần, Quý Tị là Giao Thoái phục thần; Giáp
Ngọ là đệ tam Tiến thần, thì Bính Ngọ, Đinh Mùi, Mậu Thân là Giao Thoái phục thần; Kỷ
Dậu là đệ tứ Tiến thần, thì Tân Dậu, Nhâm Tuất, Quý Hợi là Giao Thoái phục thần. Gặp Tiến
thần thì hanh thông phát tài; gặp Giao thần thì mọi việc không thông; gặp Thoái thần thì phá
hủy tiền tài danh vọng; gặp Phục thần thì làm ngƣng lại.

Luận Thập Can hóa khí

Phục Dƣơng Tử nói: "Thập can hợp nhi hóa giả, âm dương chi phối, phu phụ chi đạo dã." (
có nghĩa là, thập can hợp mà hóa, âm dƣơng phối hợp giống nhƣ đạo vợ chồng vậy). Gặp lục
hợp, hợp độn ba thì hóa. Lấy số dƣ Ngũ Tý lấy đến ở trên đƣợc hợp; Đã hợp, Hổ độn thống
Long, Long chủ dƣơng, đƣợc điều khiển trời mà biến thành hóa vậy. Tý vị trí ở Khảm, tƣợng
Thiên 1 sinh thủy, trong Thai thần dƣơng. Cho nên đàn ông theo Tý từ bên trái đi 30 số đến
Tị, là dƣơng vậy, cho nên 30 tuổi mà lấy vợ, đàn bà theo Tý từ bên phải đi 20 số đến Tị, là
âm vậy, cho nên nói 20 tuổi thì xuất giá. Chỗ này con ngƣời hợp với tạo hóa ngũ hành, sao có
thể qua đƣợc ở chỗ này chăng?
+ Phía Đông, Nhâm Tý đếm đến Đinh Tị là 6 số. Cho nên Đinh cùng Nhâm hợp, Đinh Nhâm
hóa mộc. Giáp Đức thống Long.
+ Phía Nam, Mậu Tý đến Quý Tị là 6 số. Cho nên Mậu cùng Quý hợp, Mậu Quý hóa hỏa.
Bính Đức thống Long.
+ Phía Tây, Canh Tý đến Ất Tị là 6 số. Cho nên Ất cùng Canh hợp, Ất Canh hóa kim. Canh
Đức thống Long.
+ Trung cung, Giáp Tý đến Kỷ Tị là 6 số. Cho nên Giáp cùng Kỷ hợp. Giáp Kỷ hóa thổ. Mậu
Đức thống Long.
+ Phía Bắc, Bính Tý đến Tân Tị là 6 số. Cho nên Bính cùng Tân hợp, Bính Tân hóa thủy.
Nhâm Đức thống Long.
03-04-16, 08:42
lesoi
Năm Giáp Kỷ, Mậu Đức thống (quản lý) Long dùng thổ, Quân Thiên điều khiển hóa thổ khí;
năm Ất Canh, Canh Đức thống Long dùng kim, Hạo Thiên điều khiển hóa kim khí; Năm
Bính Tân, Nhâm Đức thống Long dùng thủy, Huyền Thiên điều khiển hóa thủy khí; Năm
Đinh Nhâm, Giáp Đức thống Long dùng mộc, Thƣơng Thiên điều khiển hóa mộc khí; Năm
Mậu Quý, Bính Đức thống Long dùng hỏa, Viêm Thiên điều khiển hóa hỏa khí. Thiên Đức
thống Long, lâm ngự trên dƣới để thành biến hóa, loại tụ hợp đều hanh thông. Cho nên Bính
gặp Tân, đƣợc Thân Tý Thìn mà phấn phát; Ất gặp Canh, đƣợc Tị Dậu Sửu mà nổ tung; Đinh
gặp Nhâm, đƣợc Hợi Mão Mùi mà thanh quý; Mậu gặp Quý, đƣợc Dần Ngọ Tuất mà vinh
hiển; Giáp gặp Kỷ, đƣợc Thìn Tuất Sửu Mùi mà vƣợng tƣớng. Là lấy ngũ vận dùng ngũ cung
là Chính Miếu, ta vào Mẫu cung là phúc đức, ta vào Tử cung là thoát ra, ta vào Quỷ cung là
53 | Tam mệnh thông hội

hình thƣơng, ta vào Thê cung là tài bạch; Tử lại có thể khắc chế ở nơi hung sát, cuối cùng vẫn
chế Sát khí. Cho nên tạo hóa ngũ vận là vô tận, chỉ có sinh khắc chế hóa.

Tam Xa, lấy năm Giáp Kỷ khởi độn, Bính Dần đến Mậu Thìn là 3 số, đếm đến 3 thì biến hóa,
Thìn là Long, cũng có thể biến hóa, cho nên Giáp Kỷ, Ất Canh, Bính Tân, Đinh Nhâm, Mậu
Quý tùy thuộc chỗ thiên can mà đƣợc khí.

Lại nói: Giáp Kỷ Bính tác thủ, Bính thuộc hỏa, hỏa sinh thổ, cho nên hóa thổ. Còn lại theo ví
dụ trên mà suy ra. Giải thích không ngoài lý lẽ ở trên vậy.

Nói chung, Hóa khí chỉ lấy Nhật can mà nói thần phối hợp. Hoặc năm tháng cùng giờ đều có
thể dụng, nhƣng Nhật thần phải đƣợc vƣợng khí ở mùa; nếu nhƣ ở trong tháng không đƣợc
vƣợng khí, chỉ vƣợng khí ở trụ giờ, cũng đƣợc; còn đƣợc vƣợng khí ở trong tháng mà trụ giờ
không đón vƣợng khí thì không đƣợc; nếu tháng cùng ngày giờ đều đƣợc vƣợng khí, mới là
hoàn toàn cát.
03-04-16, 08:43
lesoi
+ Giáp Kỷ hóa thổ, không phải tháng Thìn Tuất Sửu Mùi thì không hóa, thứ đến tháng Ngọ
cũng hóa, giữa có chữ Mậu thì không hóa, gọi là Đố hợp. Phàm ngƣời sinh Thìn Tuất Sửu
Mùi, trụ có Kỷ Hợi là thụ khí lâm quan, đến lúc tuổi già thì không tốt, có Quan thì đoạt Quan,
có Tài thì đoạt Tài. Nói thụ khí lâm quan, là vị trí thứ tƣ vòng trƣờng sinh vậy, lấy can làm
chủ, phạm cả hai thì ứng, tháng còn lại thì không ứng. Lại nói: Giáp Kỷ hóa thổ, cần có mộc
là Quan, đƣợc Hợi Mão, Hợi Mùi là Quan, khí Mậu Quý là phúc, kỵ thấy ngày giờ Đinh
Nhâm.
+ Ất Canh hóa kim, không phải tháng Tị Dậu Sửu thì không hóa, sau đến tháng 7 cũng hóa,
giữa có chữ Giáp thì không hóa, gọi là Đố hợp. Phàm ngƣời sinh Tị Dậu Sửu, trụ có Canh
Thân là thụ khí lâm quan, về già không tốt. Lại nói: Ất Canh hóa kim, cần gặp hỏa là Quan,
cho nên hỉ Bính Đinh Kỷ Ngọ, Giáp Kỷ là phúc, kỵ thấy ngày giờ Mậu Quý.
+ Bính Tân hóa thủy. Không phải tháng Thân Tý Thìn thì không hóa, sau là đến tháng Hợi
cũng hóa, trụ có chữ Đinh thì không hóa, gọi là Đố hợp. Phàm ngƣời sinh tháng Thân Tý
Thìn, thấy Quý Hợi, gọi là thụ khí lâm quan, cũng chủ về già không tốt. Lại nói: Bính Tân
hóa thủy, cần thiết có thổ là Quan, đƣợc Thìn Tuất Sửu Mùi là Quan, Ất Canh là phúc, kỵ
thấy ngày giờ có Giáp Kỷ.
+ Đinh Nhâm hóa mộc, không phải tháng Hợi Mão Mùi thì không hóa, sau đến tháng Dần
cũng hóa, trụ có chữ Bính thì không hóa, gọi là Đố hợp. Ngƣời sinh Hợi Mão Mùi thấy Giáp
Dần, gọi là thụ khí lâm quan, về già cũng không tốt. Lại nói: Đinh Nhâm hóa mộc, cần thiết
thấy Canh Tân Thân Dậu là Quan, Bính Tân là phúc, kỵ thấy ngày giờ Ất Canh.
+ Mậu Quý hóa hỏa, không phải tháng Dần Ngọ Tuất thì không hóa, sau là đến tháng Tị cũng
hóa, trụ có chữ Kỷ thì không hóa, gọi là Đố hợp. Phàm ngƣời sinh Dần Ngọ Tuất thấy Đinh
Tị là thụ khí lâm quan, về già cũng không tốt. Lại nói: Mậu Quý hóa hỏa, cần thiết có Nhâm
Quý Hợi Tý là Quan, Đinh Nhâm là phúc, kỵ thấy ngày giờ Bính Tân.
+ Giáp Kỷ hóa thổ, hỉ giờ sinh Mậu Thìn, tháng tứ quý là thành tƣợng thổ, trong trụ sinh
vƣợng, có khí là thƣợng cách. Không thể thấy hỏa, thấy hỏa thì hƣ, thấy khí mộc là khắc phá.
Ngày là Giáp Kỷ sợ giờ Bính Đinh, tháng lẻ thì hỉ Bính.
+ Ất Canh hóa kim, hỉ giờ sinh Canh Thìn, tháng Thân Dậu là thành tƣợng kim. Hỉ Mậu thổ
tƣơng sinh, Giáp Kỷ là phúc. Không thích gặp Tử Bại, cho nên tháng này có ngày Ất Canh sợ
giờ Tý Dần.
+ Bính Tân hóa thủy, hỉ giờ sinh Nhâm Thìn, tháng Hợi Tý là thành tƣợng thủy. Thích chữ
Canh khí tƣơng sinh, gặp Ất Canh là phúc. Cho nên tháng này có ngày Bính Tân sợ giờ Mão
Tị.
54 | Tam mệnh thông hội

+ Đinh Nhâm hóa mộc, hỉ giờ sinh Giáp Thìn, tháng Dần Mão là thành tƣợng mộc. Hỉ Bính
Tân là phúc. Cho nên tháng này có ngày Đinh Nhâm sợ giờ Ngọ Thân.
+ Mậu Quý hóa hỏa, hỉ giờ sinh gặp Bính Thìn, tháng Tị Ngọ là thành tƣợng hỏa. Thích chữ
Giáp tƣơng sinh, Đinh Nhâm là phúc. Sợ giờ Mão Dậu, nếu phạm Mậu Kỷ, là do hỏa thấy thổ
tất có ám phục mà không sáng tỏ.
Bính Dần Tân Mão, Bính Thìn Tân Mão, Canh Thân Ất Dậu, Canh Tuất Ất Dậu, Kỷ Hợi
Giáp Tý, Kỷ Sửu Giáp Tý, Quý Tị Mậu Ngọ, Quý Mùi Mậu Ngọ, Mậu Tý Quý Sửu, Mậu
Dần Quý Sửu, Kỷ Dậu Giáp Tuất, Kỷ Hợi Giáp Tuất, Ất Tị Canh Thìn, Ất Mão Canh Thìn,
Nhâm Ngọ Đinh Mùi, Nhâm Thân Đinh Mùi, ở trên lấy địa chi tƣơng liên, là đồng khí vậy,
cho nên là chính hóa.
Có Chuyển góc tiến hóa. Can hợp thích hợp thấy chi Thìn, bốn góc thuận liền nhau, nhƣ loại
Giáp Thìn thấy Kỷ Tị. Ngày giờ gặp là nắm vững công danh không khó.
Có Chuyển góc thoái hóa. Can hợp thích hợp thấy chi Ngọ, bốn góc xoay ngƣợc không
thuận, nhƣ loại Giáp Ngọ thấy Kỷ Tị. Ngày giờ gặp thì công danh hơi muộn, đến xứ tốt thì bị
giảm nhiều, tuế vận gặp cũng ngƣng mất.
Có tọa dƣới tự hóa, nhƣ Nhâm Ngọ, Đinh Hợi, Mậu Tý, Giáp Ngọ, Tân Tị, Quý Tị, Đinh lộc
ở Ngọ, Nhâm cùng Đinh hợp, Nhâm lộc ở Hợi, Đinh cùng Nhâm hợp. Nhâm Ngọ, Đinh Hợi
là phúc rất dày, Mậu Tý là thông minh, Tân Tị là quyền mƣu, Giáp Ngọ cũng lấy một ít hanh
thông, Quý Tị trong quý hiển thì có bệnh ham mê tửu sắc.
05-04-16, 08:57
lesoi
Luận Chi nguyên lục hợp

Nói về Hợp, là hòa thuận vậy, chính là âm dƣơng hòa hợp nhau, khí tự hợp lại. Tý Dần Thìn
Ngọ Thân Tuất gọi là Lục Dƣơng, Sửu Mão Tị Mùi Dậu Hợi gọi là Lục Âm, là lấy Nhất Âm
hòa với Nhất Dƣơng mà thành hợp. Tý hợp Sửu, Dần hợp Hợi, Tý lại không hợp Hợi, Dần
hợp Sửu, là sao chứ? Trong tạo vật tuy là âm dƣơng là hợp, trong khí số phải xem dƣơng khí
làm trọng, Tý là Nhất Dƣơng, Sửu là Nhị Âm, 1+2 thành số 3; Dần là Tam Dƣơng, Hợi là
Lục Âm, 3+6 thành số 9; Mão là Tứ Dƣơng, Tuất là Ngũ Âm, 4+5 thành số 9; Thìn là Ngũ
Dƣơng, Dậu là Tứ Âm, 5 + 4 thành số 9; Tị là Lục Dƣơng, Thân là Tam Âm, 6+3 thành số 9;
Ngọ là Nhất Dƣơng, Mùi là Nhị Âm, 1+2 thành số 3. Tý Sửu Ngọ Mùi mỗi cái là 3, 3 là sinh
vạn vật, còn lại đều là 9, là số cực dƣơng vậy.
Nói về Hợp thì có hợp Lộc, hợp Mã, hợp Quý. Lạc Lục Tử nói: Là theo không mà lập có, gọi
là Kiến bất kiến chi hình vậy. Theo không mà lập có, thí dụ nhƣ ngƣời sinh Giáp lấy Dần là
Lộc, không thấy Dần mà thấy Hợi, gọi là Hợp Lộc; ngƣời sinh Dần lấy Thân là Mã, không
thấy Thân mà thấy Tị, gọi là Hợp Mã; Ngƣời Giáp Tuất Canh lấy Sửu Mùi là quý, không thấy
Sửu Mùi mà thấy Tý Ngọ, gọi là Hợp Quý. Kinh nói: Minh hợp không bằng ám hợp, Củng
thực không Củng hƣ. Là nói nhƣ vậy. 《 Thiên Nguyên biến hóa thư 》nói: Tý hợp Sửu
phúc nhẹ, Sửu hợp Tý phúc thịnh; Dần hợp Hợi phúc thanh, Hợi hợp Dần phúc chậm; Tuất
hợp Mão phúc hƣ, Mão hợp Tuất phúc dày; Thìn hợp Dậu phúc yếu, Dậu hợp Thìn đại lợi;
Ngọ hợp Mùi phúc chậm, Mùi hợp Ngọ đại lợi; Tị hợp Thân phúc chậm, Thân hợp Tị khí
Quan thịnh. Nhƣ Giáp ngọ Tân Mùi chỉ là thân vƣợng, nhƣng mệnh lộc yếu, nhƣ Ất Mùi
Nhâm Ngọ tuy là Lộc nhƣợc có thô.
Lại viết: Nam nhân kị hợp tuyệt, Nữ nhân kị hợp quý.
05-04-16, 08:57
lesoi
Luận Chi nguyên lục hợp
55 | Tam mệnh thông hội

Nói về Hợp, là hòa thuận vậy, chính là âm dƣơng hòa hợp nhau, khí tự hợp lại. Tý Dần Thìn
Ngọ Thân Tuất gọi là Lục Dƣơng, Sửu Mão Tị Mùi Dậu Hợi gọi là Lục Âm, là lấy Nhất Âm
hòa với Nhất Dƣơng mà thành hợp. Tý hợp Sửu, Dần hợp Hợi, Tý lại không hợp Hợi, Dần
hợp Sửu, là sao chứ? Trong tạo vật tuy là âm dƣơng là hợp, trong khí số phải xem dƣơng khí
làm trọng, Tý là Nhất Dƣơng, Sửu là Nhị Âm, 1+2 thành số 3; Dần là Tam Dƣơng, Hợi là
Lục Âm, 3+6 thành số 9; Mão là Tứ Dƣơng, Tuất là Ngũ Âm, 4+5 thành số 9; Thìn là Ngũ
Dƣơng, Dậu là Tứ Âm, 5 + 4 thành số 9; Tị là Lục Dƣơng, Thân là Tam Âm, 6+3 thành số 9;
Ngọ là Nhất Dƣơng, Mùi là Nhị Âm, 1+2 thành số 3. Tý Sửu Ngọ Mùi mỗi cái là 3, 3 là sinh
vạn vật, còn lại đều là 9, là số cực dƣơng vậy.
Nói về Hợp thì có hợp Lộc, hợp Mã, hợp Quý. Lạc Lục Tử nói: Là theo không mà lập có, gọi
là Kiến bất kiến chi hình vậy. Theo không mà lập có, thí dụ nhƣ ngƣời sinh Giáp lấy Dần là
Lộc, không thấy Dần mà thấy Hợi, gọi là Hợp Lộc; ngƣời sinh Dần lấy Thân là Mã, không
thấy Thân mà thấy Tị, gọi là Hợp Mã; Ngƣời Giáp Tuất Canh lấy Sửu Mùi là quý, không thấy
Sửu Mùi mà thấy Tý Ngọ, gọi là Hợp Quý. Kinh nói: Minh hợp không bằng ám hợp, Củng
thực không Củng hƣ. Là nói nhƣ vậy. 《 Thiên Nguyên biến hóa thư 》nói: Tý hợp Sửu
phúc nhẹ, Sửu hợp Tý phúc thịnh; Dần hợp Hợi phúc thanh, Hợi hợp Dần phúc chậm; Tuất
hợp Mão phúc hƣ, Mão hợp Tuất phúc dày; Thìn hợp Dậu phúc yếu, Dậu hợp Thìn đại lợi;
Ngọ hợp Mùi phúc chậm, Mùi hợp Ngọ đại lợi; Tị hợp Thân phúc chậm, Thân hợp Tị khí
Quan thịnh. Nhƣ Giáp ngọ Tân Mùi chỉ là thân vƣợng, nhƣng mệnh lộc yếu, nhƣ Ất Mùi
Nhâm Ngọ tuy là Lộc nhƣợc có thô.
Lại viết: Nam nhân kị hợp tuyệt, Nữ nhân kị hợp quý.
05-04-16, 08:57
lesoi
Luận Chi nguyên tam hợp

Có thể lấy tam hợp, giống nhƣ con ngƣời vận dụng một thân vậy. Tinh chính là Thiên
nguyên, Khí chính là nguyên Thần, là lấy Tinh là mẹ Khí, Thần là con Khí, mẹ con tƣơng
sinh, gọi là hợp đầy đủ Tinh Khí Thần mà không tán. Bởi vì chi thuộc Nhân nguyên, cho nên
lấy luận nhƣ vậy. Nhƣ Thân Tý Thìn, Thân chính là mẹ của Tý, Thìn chính là con của Tý,
Thân là thủy sinh, Tý là thủy vƣợng. Thìn là thủy khố, sinh tức là sinh sản, vƣợng tức là hoàn
thành, khố tức là thu vào, có sinh có thành có thu, vạn vật có thủy có chung, là lý tự nhiên,
cho nên Thân Tý Thìn là thủy cục. Nếu 3 chữ khuyết một thì không hóa thành cục, không thể
lấy tam hợp hóa cục luận. Bởi vì đạo lý ở giữa trời đất, hai thì hóa, nói là một âm một dƣơng
vậy, ba thì hóa, ba nói là sinh vạn vật vậy. Tị Dậu Sửu, Dần Ngọ Tuất, Hợi Mão Mùi cũng
vậy. Ngũ hành không có nói thổ, bốn hành đều dựa vào thổ thành cục, cho nên vạn vật đều
quy tàng ở thổ vậy; nếu đầy đủ Thìn Tuất Sửu Mùi tự thành thổ cục luận. Phàm mệnh có hợp,
phải đƣợc cục là tốt. Giả nhƣ lệnh ngƣời sinh Bính Đinh thấy Hợi Mão Mùi là Ấn, đƣợc cục
Tị Dậu Sửu là Tài, thấy Dần Ngọ Tuất hỏa là bản cục, Thân Tý Thìn thủy là Quan cục, Thìn
Tuất Sửu Mùi thổ là Thƣơng cục. Lại nhƣ ngƣời Bính thấy Tị Dậu Sửu, ngƣời Đinh thấy Dần
Ngọ Tuất là ba vị trí Lộc cách, cho nên nói Bính lấy Tị là Lộc, Đinh lấy Ngọ là Lộc, Dậu Sửu
hợp Tị, Dần Tuất hợp Ngọ vậy. 《 Lạc Lục Tử 》nói: "Lộc có tam hội". 《Hồ Trung Tử 》
nói: "Đƣợc một phân ba, bẻ Quế Nguyệt gặp Tiên". Còn lại theo cách này mà suy.
Phàm Lục hợp Tam hợp nhập mệnh, chủ ngƣời có dung mạo xinh đẹp, thần khí an định, thích
sinh ghét tử, tâm địa chính trực, chu toàn mọi mặt, thông minh trí tuệ khai thông. Nhƣ hợp
tƣơng sinh, gặp nhiều việc thành, lại có Phúc thần lui tới, thì phúc càng dày, cả đời bình dị,
nhiều nghệ nhiều tài, lời nói dễ nghe, không thích thị phi, phù trợ phúc họa, nhiều ngƣời thích
thấy; nhƣ hợp tƣơng khắc, khó thành sự việc, là nhiều tính toán, động nhiều mà chỉ thấy tổn,
56 | Tam mệnh thông hội

lại gồm có cả hung sát, thì gặp chuyện không may, tai họa bạo hành, không biết bao giờ dứt;
hợp với tử tuyệt, chủ ngƣời luôn có không toại ý, uy vũ không trọng, tinh thần xấu tục, khiến
ngƣời xem thƣờng, chí thấp khí hẹp, thích tiểu nhân mà ghét quân tử, cả đời ti tiện; hợp cùng
với kiến lộc, nhiều tiền của phi nghĩa, phúc danh vọng bên ngoài; hợp với chính Ấn Quý
nhân, đƣợc phúc Thiên ân Quý nhân nâng đỡ; hợp với Thực thần, y lộc dồi dào, đầy bàn ẩm
thực; hợp với Đại Hao, ngƣời vô lễ, lời nói dơ đục, thích kẻ tiện nhân, khinh ngƣời quân tử;
hợp với Hàm Trì, tƣ thông gian ác, là kẻ bất lƣơng tham ô; hợp với Quan Phù, gây nhiều hình
ngục, kiện tụng cả ngày, ám muội thị phi; hợp với Thiên Không, hành động không thành
thực, là kẻ tiện nhân. Phụ nữ đại kị trong hợp mang Sát, Hàm Trì làm điếm dâm dục, Đại Hao
tất dẫn đến dâm bôn, trong có quý lộc, là tiện mà quý vậy. Đại để hợp cát thần thì cát, hợp
hung thần thì hung.
05-04-16, 09:03
lesoi
Luận Tướng tinh, Hoa Cái

Tướng tinh, là giống nhƣ cái ấn tƣớng chủ soái vậy, cho nên lấy ở giữa tam hợp gọi là Tƣớng
tinh; Hoa Cái, là ví von giống nhƣ cái dù che đậy báu vật, trời có sao này, hình dáng giống
nhƣ cái dù ( cái lọng ngày xƣa), luôn che phủ ở ngôi Đại Đế ( Ngọc hoàng), cho nên lấy tam
hợp đạt đến chỗ đƣợc Khố gọi là Hoa Cái. Phàm Tƣớng tinh thƣờng muốn đƣợc cát tinh
tƣơng phù, Quý Sát gia lâm đều là cát khánh.
《 Lý Ngu ca 》nói: Tƣớng tinh nếu hợp dụng Vong Thần, là lƣơng thần của Quốc gia. Nói
cát trợ là quý, lại kẹp quý Khố Mộ thuần túy mà không tạp, là cách xuất tƣớng nhập tƣớng
vậy, mang Hoa Cái, Chính ấn mà không kẹp khố, là cách lƣỡng phủ vậy; chỉ mang khố mộ
mà mang Chính Ấn, làm Viên Lang trở lên, không mang mộ lại không mang Chính Ấn, chỉ
có Hoa Cái, lộc bình thƣờng vậy; mang Hoa Ấn mà thấy đúng Dịch Mã, danh là Tiết Ấn, chủ
địa vị cao quý nơi tiết lễ; nếu can tuế khố cùng khố là gặp hai lần phúc, chủ đại quý.
Phàm nhân mệnh đƣợc Hoa Cái, phần đa chủ cô quả, tóm lại quý cũng không miễn cô độc,
lấy tăng đạo hay nghệ thuật luận.
《 Lý Ngu ca 》nói:
Hoa Cái dù cát cũng có xấu,
Hoặc là nghiệt tử hoặc cô sương,
Vợ kế, gửi rễ, nhiều khẩu thiệt,
Lò sắt hút bụi màu đen vàng.
Lại nói:
Hoa Cái tinh sao ít huynh đệ,
Là sao cô cao ở trên trời,
Sinh ra nếu ở giờ cùng Thai,
Chính là con nuôi hoặc làm thiếp.
05-04-16, 09:04
lesoi
Luận Hàm Trì

《 Hoài Nam Tử 》 viết: "Nhật xuất Phù Tang, nhập ở Hàm Trì." Cho nên đất ngũ hành
mộc dục, danh là Hàm Trì. Là lấy nghĩa nhật nhân, lúc vạn vật ám muội. Dần Ngọ Tuất ở
Mão, Tị Dậu Sửu ở Ngọ, Thân Tý Thìn ở Dậu, Hợi Mão Mùi ở Tý, tức là mộc dục vị trí thứ
hai của cung Trƣờng sinh vậy. Một danh là Bại thần, một danh là Đào Hoa Sát, là thần gian tà
dâm dục, nhƣ sinh vƣợng thì dáng vẻ thẩm mỹ, đam mê tửu sắc, khai tài ham vui, phá tán gia
57 | Tam mệnh thông hội

nghiệp, chỉ có việc tham dâm; nhƣ tử tuyệt, lạc phách không kiềm chế, lời nói giảo trá, du
đãng đánh bạc, thất tín vong ân, vụng trộm gian dâm, không chỗ nào là không làm; hợp cùng
Nguyên Thần, lại lâm sinh vƣợng, phần đa là vợ kẻ cƣớp; hợp cùng Quý nhân kiến Lộc, đa
nhân du diêm tửu hóa đắc sinh, hoặc vì tiền phụ nữ ám muội mà lập nghiệp, cả đời có họa
thủy ách, bệnh lao, bị liên lụy gặp họa lƣu lạc ám muội. Ngƣời này nhập mệnh, có phá không
có thành, không phải là điềm cát, phụ nữ càng kỵ.
Hàm Trì không phải là cát sát, ngày giờ cùng mệnh thủy gặp thì càng hung.
05-04-16, 09:05
lesoi
Luận Lục Hại

Bởi vì cảm khí âm dƣơng ngày đêm mà Lục Hợp. Vì Lục Hợp mà sinh Lục Hại, vì Lục Hại
mà kỵ khí âm dƣơng ngày đêm. Lục Hại Thập nhị Chi là thần xâm chiếm vậy.
+ Tý Mùi tƣơng hại, nói Mùi là vƣợng thổ, Hợi Tý là vƣợng thủy, gọi là gia đình có thế lực
hại nhau. Cho nên Tý thấy Mùi thì thành hại.
+ Sửu Ngọ tƣơng hại, nói Ngọ lấy vƣợng hỏa xâm phạm Sửu kim chết, danh là Quan quỷ
tƣơng hại. Cho nên Sửu thấy Ngọ, mà Ngọ lại mang chân Quỷ xâm phạm Sửu thì làm hại
càng nặng.
+ Dần Tị tƣơng hại, gọi là dựa vào Lâm quan tài năng mà vào hại nhau, nếu can thần qua lại
có Quỷ thì hại càng nặng, huống chi ở trong đó hình phạt, càng không thể không nói gia giảm
họa phúc.
+ Mão Thìn tƣơng hại, nói Mão lấy vƣợng mộc mà xâm phạm Thìn thổ chết, chỗ này lấy
tƣơng hại xâm phạm tƣớng mạo lúc trẻ. Cho nên Thìn thấy Mão, mà Mão lại mang chân Quỷ
xâm phạm Thìn thì tổn hại càng nặng.
+ Thân Hợi tƣơng hại, nói dựa vào lâm quan, cạnh tranh đố kỵ tài năng, vào tranh giành mà
hại lẫn nhau. Cho nên Thân thấy Hợi, Hợi thấy Thân đều là hại, lại nạp âm tƣơng khắc càng
nặng.
+ Dậu Tuất tƣơng hại, nói lấy Tuất hỏa tử hại Dậu vƣợng kim, chỗ này là ghen tị mà hại
nhau, cho nên ngƣời Dậu thấy Tuất thì hung, ngƣời Tuất thấy Dậu thì không có họa; nếu
ngƣời Ất Dậu đƣợc Mậu Tuất, Ất là chân kim, Mậu là chân hỏa, là hại càng nặng.
Đối với lục thân; Hại, là tổn hại vậy. Chủ phạm đến Lục Thân là có tổn khắc, cho nên gọi là
Lục Hại.
+ Tý Mùi đến thẳng xuyên qua tim, cùng xung hợp kết ân Mùi mà lại sinh ra thù hận, chính
là nói Hại. Nhƣ ngƣời sinh Tý sợ xung Ngọ, còn Mùi lại đi hợp Ngọ; Sửu sợ Mùi xung, còn
Ngọ lại đi hợp Mùi; Dần sợ Thân xung mà Tị đi hợp Thân; Mão sợ Dậu xung mà Thìn đi hợp
Dậu; Thân sợ Dần xung mà Hợi lại đi hợp Dần. Dậu sợ Mão xung mà Tuất đi hợp Mão, cho
nên đều là Hại vậy.
Phàm ngƣời mang cách này, lại thấy tiếp Dƣơng Nhận, Kiếp Sát, Quan Phủ, thì tai nạn càng
nặng.
+ Dần Tị, Hợi Thân gặp sinh vƣợng thì chủ thần thuần khiết mà tƣớng mạo thanh tú, thích
tranh đoạt, thích kích động; gặp tử tuyệt thì phần đa mƣu sự ít thành, xu hƣớng không dứt
khoát, ngại tiến lên. Nhập quý cách thì có phẩm đức, giỏi quyền mƣu; nhập tiện cách thì đa
trá, nghèo nàn, bỉ lận.
+ MãoThìn, Ngọ Sửu nhƣ sinh vƣợng, chủ háo thắng hay phẩn nộ, nghiêm nghị không nhẫn
nhịn; gặp tử tuyệt thì chủ độc hại, tổn thƣơng bi thảm, sự việc đổ xuống. Nhập quý cách thì
chủ đại quyền, làm chức ti hình, cai ngục; nhập tiện cách thì liếm sống ở đất bất nghĩa.
+ Tý Mùi sinh vƣợng, tử tuyệt đều không lợi cho lục thân cốt nhục. Nhập quý cách đa số là
liên lụy đến vợ, nhập tiện cách thì cô độc, không có chỗ dựa.
+ Tuất Dậu nhƣ sinh vƣợng, không khoan dung, nhiều tàn bạo; tử tuyệt thì tàn nhẫn, ghét
lƣơng thiện, ghét tài năng. Nhập quý cách thì nhát gan, vô tội, cấu kết kiện tụng, rất gian
58 | Tam mệnh thông hội

nịnh, nhập tiện cách thì sát hại, gian xảo, nịnh hót, bất lƣơng.
Phàm Lục Hại nhập mệnh, nói chung là chủ có hại, cô độc, cốt nhục không hòa hợp, tài bạch
đạm bạc, nữ mệnh càng kỵ; kiêm khởi Mệnh Cung, xem rơi vào cung nào, phân ra từng cung
mà quyết đoán.
《Lạc Lộc Tử 》nói: Kẻ lục hại, mệnh có chuyện thất thƣơng.
Ca quyết nói:
Người lục hại kỵ nhất ngày giờ,
Già tàn tật khổ dựa vào đâu;
Lại gặp Dương Nhận thần đục khoét,
Không trúng đao kiếm Hổ cũng ăn.
Có thể thấy mệnh phạm lục hại, đại kỵ can chi cùng gây tổn thƣơng nhau, ở trên ngày giờ là
quan trọng nhất, Thân Mệnh cung là thứ, nếu là quý cách, quý thì tự quý, hại thì tự hại, cả hai
không kẹp nhau.
05-04-16, 14:05
lesoi
Luận Tam Hình

《 Âm phù kinh 》nói: Ân sinh ra ở hại, hại sinh ra ở ân; tam hình sinh ra từ nhị hợp, ý
nghĩa cũng nhƣ Lục Hại sinh ở Lục Hợp. Nhƣ Thân Tý Thìn tam hợp cộng Dần Mão Thìn ba
vị, thì Thân hình Dần, Tý hình Mão, Thìn gặp Thìn là tự hình; Dần Ngọ Tuất cộng Tị Ngọ
Mùi, thì Dần hình Tị, Ngọ gặp Ngọ là tự hình, Tuất hình Mùi; Tị Dậu Sửu cộng Thân Dậu
Tuất, thì Tị hình Thân, Dậu gặp Dậu là tự hình, Sửu hình Tuất; Hợi Mão Mùi cộng Hợi Tý
Sửu, thì Hợi gặp Hợi là tự hình, Mão hình Tý, Mùi hình Sửu. Trong hợp sinh ra hình, giống
nhƣ ở con ngƣời thì vợ chồng là tƣơng hợp mà trái lại là gây nên hình thƣơng. Việc đời tạo
ra, cùng là một lý mà thôi.
Hoặc nói: Phép tam Hình, lấy con số là khởi đầu. Hoàng Cực trung thiên,lấy số 10 là số kết
thúc, tích góp số đến 10 thì nhất định là bằng con số 0, đạo trời cái xấu tràn đầy thì lại thành
phúc. Cho nên kể ra từ Mão thuận đến Tý, Tý nghịch đến Mão, cuối cùng là con số 10 mà
thành hình ( phạt) vô lễ ; Dần nghịch đến Tị, Tị nghịch đến Thân, cuối cùng là con số 10 mà
thành hình vô ân; Sửu thuận đến Tuất, Tuất thuận đến Mùi, cuối cùng là con số 10 mà thành
hình cậy nhờ thế lực. Thất (số 7) thì Xung, Thập (số 10) thì Hình, Lục (số 6) thì Hợp, lý lẽ
giống nhau là đƣơng nhiên vậy.

Dần Tị Thân tại sao gọi là hình vô ân? Chữ Dần trong có Giáp mộc hình Tị trong có Mậu
thổ, Mậu thấy Quý thủy là muốn tƣơng hợp, mà Quý thủy đối với Giáp mộc là Mẹ vậy; Mậu
thổ đã thành chồng của Quý thủy, mà cũng là cha của Giáp, ngƣời cha và ta cùng hình nhau
mà ân nghĩa vì thế mà mất vậy. Tị trong có Bính hình Thân trong có Canh, Thân trong có
Canh hình Dần trong có Giáp, quy tắc này thì ý nghĩa đều giống nhau.
Lại nói: Dần có sinh hỏa hình Tị đến sinh kim, Tị ở trên sống nhờ thổ, hình Thân là nơi thủy
trƣờng sinh, Thân trong sinh thủy hình Dần trong lại sinh hỏa. Bất chấp thƣơng hại chỗ sinh,
ở xa vẫn khắc chế lẫn nhau, cho nên nói là Vô ân. Sinh vƣợng chủ cầm lại một thời, ít ham
muốn vô tình, gây ra nhiều việc mất nghĩa mà quấy rối thành vong ân; gặp tử tuyệt thì đối
diện với danh dự quay lƣng mà làm phá hủy thành vong ân bỏ nghĩa. Nhập quý cách thì vô
cùng độc ác, háo sát, lập công tốt để xây dựng sản nghiệp; nhập tiện cách thì lời nói và việc
làm quá thông minh, tham lam gian lận không có chỗ dừng. Phụ nữ mà gặp thì thƣờng tổn hại
về máu huyết thai sản mà nguy tai.

Sửu Tuất tại sao gọi là hình nhờ cậy thế? Cái Sửu trong có thủy vƣợng, Sửu chính là thủy ở
trong thổ, Tuất trong là mộ của hỏa, Sửu vốn là vƣợng thủy mà hình Tuất trong là mộ của
59 | Tam mệnh thông hội

hỏa; Tuất là địa vị cao của Lục Giáp, Mùi là Lục Quý, Tuất vốn là địa vị cao của Lục Giáp lại
hình Mùi là địa vị thấp hèn của Lục Quý; Mùi có thế thổ vƣợng, nhờ cậy thế lực để báo thù
mà hình Sửu trong có thủy vƣợng.
Lại nói: Mùi nhờ thế lực của Đinh hỏa để hình Sửu trong có Tân kim, Sửu nhờ cậy thế lực
thủy vƣợng để hình Tuất trong có Đinh hỏa, Tuất nhờ cậy thế lực của Tân kim để hình Mùi
trong có Ất mộc, cho nên nói là nhờ cậy thế. Sinh vƣợng chủ có tinh thần ý khí hào hùng,
lông mày thô mặt to, để đối diện trực tiếp với ngƣời; gặp tử tuyệt thì hình lộ ra nhỏ gầy, tinh
thần nhanh nhẹn mà xảo quyệt, không phải là kẻ nịnh hót, vui với họa mà mừng với tai. Nhập
quý cách thì công minh, rõ ràng, ngƣời hay sợ sệt; nhập tiện cách thì phạm nhiều hình tai nạn
về thƣa kiện. Phụ nữ mắc phải thì phƣơng hại cô độc.
05-04-16, 14:06
lesoi
Tý Mão sao gọi là hình vô lễ? Tý thuộc thủy, Mão thuộc mộc, thủy có thể sinh mộc, vì Tý
thủy là mẹ, Mão mộc là con, mẹ con tự tƣơng hình; Mão lại là Nhật môn, Tý là chỗ sinh ra
dƣơng, Nhật xuất ra từ Mão, Tý Mão cùng đấu tranh để tồn tại, phƣơng hƣớng không có tôn
trọng thấp hèn, bất chấp thƣơng hại mà tƣơng sinh, tiến vào hình hại lẫn nhau, cho nên nói là
Vô lễ.
Lại nói: Tý trong chỉ đơn độc dụng Quý thủy, Quý dụng Mậu thổ là phu tinh mà bại ở Mão,
cho nên lấy Tý hình Mão; Mão trong cũng đơn độc dụng Ất mộc, Ất dụng Canh kim là phu
tinh mà tử ở Tý, cho nên để Mão hình Tý. Chỗ này cả hai gia đình dựa vào chồng mà gặp
hình phạt, Nữ mệnh thấy thì càng trở nên bất lƣơng, cho nên nói là Vô lễ.
Sinh vƣợng chủ dáng vẽ uy nghiêm đáng sợ, nét mặt không có hòa khí, khí mạnh mẽ, tính thô
bạo, xét rất kỹ không dung tha; gặp tử tuyệt thì ngạo mạn xem thƣờng, hay lơ là, keo kiệt,
nghiệt ngã; thiếu hiếu thuận, kính nể; hại vợ con, hình khắc lục thân. Nhập quý cách thì đa số
là chấp chƣởng binh quyền, không có lợi khi gần kề, hầu hạ; chỗ ở không lâu; nếu nhập tiện
cách thì làm bậy, hung bạo, gặp nhiều hình họa.

Thìn Ngọ Dậu Hợi sao gọi là tự hình? Nói Dần Thân Tị Hợi có Dần Tị Thân là tƣơng hình
lẫn nhau, bên trong có Hợi là không có hình; Thìn Tuất Sửu Mùi có Tuất Sửu Mùi là tƣơng
hình lẫn nhau, bên trong có Thìn là không có hình; Tý Ngọ Mão Dậu có Tý Mão là tƣơng
hình lẫn nhau, bên trong có Ngọ Dậu là không có hình. Chỗ này đúng là có bốn vị gọi là tự
hình. Không có vật gì khác thêm vào lẫn nhau, chính là nói tự bản thân mình vậy.
Lại nói: Thìn là mộ của thủy, tràn ngập thì sinh ra thừa; Ngọ là nơi hỏa vƣợng, dữ dội thì bị
thiêu rụi; Dậu là nơi của kim, cứng quá thì bị khuyết; Hợi là nơi thủy sinh, vƣợng thịnh thì
mục nát, lão hóa. Tất cả đều lấy khí hƣng thịnh quá mức mà tự gây nên tai họa, cho nên nói là
tự mình vậy.
Sinh vƣợng thì đơn độc mà bên trong trầm tĩnh, hình dáng yếu đuối, mệt nhọc; gặp tử tuyệt
thì thâm độc, khinh thƣờng, không để ý, thấy thì xét kỹ, mƣu lợi thâm sâu, tai nạn về tứ chi
chân tay hay bị đau từng đốt khớp. Nhập quý cách thì mƣu mô, quyền biến; nhập tiện cách thì
nhiều lo buồn, ngu dốt, không tình cảm, tự hại mình. Mang nhiều hung sát, cuối cùng làm
cho sai lầm vậy. Phụ nữ thì dâm đãng, hung ác, tổn thất.
Phàm gặp phải hình (phạt) không thể liền lấy hung mà luận, cần xem ngũ hành trong có hay
không có cát thần, vƣợng tƣớng, Quan tinh, Ấn thụ, ác thần, phúc đức … các loại. Chỗ này
mà có nhiều cát thần tƣơng phù tƣơng trợ, hình không thành hại, mà trái lại là thành dụng;
nhƣ không có nhiều cát thần tƣơng trợ, lại mang theo Không Vong, Kiếp Sát, Thiên trung sát,
Dƣơng Nhận loại Sát, là lấy ác giúp ác, thì họa không thể nói.
Lại nói: Tam hình sợ kim.

《 Quỷ Cốc di văn 》nói: "Quân tử bất hình định bất phát, nhược cư sĩ lộ đa đằng đạt; tiểu
nhân đáo thử tất vi tai, bất nhiên dã bị quan tiên thát." ( Tức là, Quân tử không có Hình thì
60 | Tam mệnh thông hội

định là không phát, nếu ở lộ trình làm quan thì đa số là thăng quan, tiến chức; kẻ tiểu nhân
gặp chỗ này thì là nguy tai, nếu không thì cũng bị hình phạt roi đòn).
05-04-16, 14:06
lesoi
Thẩm Chi nói: "Tự hình mang Sát không thành ngƣời hiền, năm tháng hình thân định lấy tổn
thƣơng. Không phải họa lao ngục tiều tụy mà chết thì cũng bị lƣỡi đao kiếm mà mất đầu".
Lại nói: "Mang Thìn Ngọ Dậu Hợi đủ thì trung niên gặp tang ma là rõ ràng";
Lại nói: "Tự hình sợ hỏa, nếu bên trong có chế, thì không thể luận theo cách này";
Lại nói: Phàm mệnh có Tam Hình, cần phải phân ra hình đƣợc nhập, hình không đƣợc nhập.
Lấy năm làm chủ, ngày tháng giờ làm khách, nhƣ chủ hình khách là hình đƣợc nhập thành
quý, hình không nhập thì là tiện; nếu khách đến hình chủ, vốn là cần hình không nhập
phƣơng là quý cách, hình đƣợc nhập thì lại là tiện, giả nhƣ lệnh Sửu hình Tuất, vốn cần phải
xem Sửu ở đâu, Tuất ở đâu, nhƣ Ất Sửu hình Canh Tuất vốn là đồng loại tƣơng hình, thì
không tốt; Bính Tuất hình Nhâm Tuất thì là tƣơng sinh tƣơng hình, không lấy hình để luận;
Mậu Tuất, Giáp Tuất tƣơng khắc tƣơng hình. Mậu Tuất hình đƣợc nhập, Giáp Tuất không
đƣợc nhập; lại xem họa phúc chỗ đất phát sinh ở đâu. Nhƣ Mậu Tuất, là đất tụ phúc, lại có Ất
Sửu đến hình thì là đại cát. Hình không nhập đất tụ phúc, không là quý mệnh. Còn lại theo
phép này mà suy ra.
Kinh nói: Phàm mệnh định là không có Hình, trƣớc tiên luận Thái Tuế. Nói ngƣời ác mà gặp
tam hình, nếu tháng ngày giờ mang theo Sát mà Thái Tuế không có thì không luận, cho nên
nói Tiên luận Thái tuế.
Lại nói: Lấy Sát ngăn cản Sát, đa số là đảm nhận chấp chƣởng binh hình. Nói Thái tuế thụ
hình mà không đƣợc hình nếu là hạn chế hình Thái tuế. Giả nhƣ ngƣời sinh Quý Tị đƣợc
ngày Mậu Dần, lại đƣợc giờ Canh Thân thì cái Quý Tị chỗ chế là Mậu Dần, đƣợc Canh Thân
thì mộc lại chế thổ của Mậu Dần. Vốn là có hình mà lại không có hình, cho nên nói là lấy Sát
chế Sát.
Cổ ca nói:
"Tam Hình vị trí mang Tam Kỳ,
Ngày, giờ lại có Thiên Ất ngụ.
Hình nếu chờ phân can gặp Đức,
Quan nơi cực phẩm định không suy"
Có thể thấy Tam Hình cần đƣợc cân bằng, lại mang theo Tam Kỳ, Quý nhân, Thiên Đức là
cát.
05-04-16, 14:08
lesoi
Luận Xung kích

Địa chi lấy đến vị trí thứ 7 là xung, nghĩa giống nhƣ thiên can lấy 7 vị là Sát. Nhƣ Tý Ngọ đối
xung, Tý đến Ngọ là 7 số, Giáp gặp Canh là Sát, Giáp đến Canh là 7 số. Số 6 thì hợp, qua tiếp
là số 7, cho nên cùng nhau xung kích là Sát vậy. Tƣơng xung, là thập nhị chi thần tấn công
chiến đấu, đại khái là hung. Nhƣng có lúc rất phúc, chính là xung xứ tƣơng sinh. Nhƣ loại
Tân Tị kim thấy Quý Hợi thủy …, chủ lƣu truyền danh vọng, thông minh hơn ngƣời, khoa
Giáp cao ngất; nếu xứ xung tƣơng khắc, nhƣ các loại Nhâm Thân kim thấy Canh Dần mộc…,
chủ ngƣời có tƣớng mạo thanh tú, tiếng nói êm dịu dễ nghe, thoát tục, hiên ngang, thoải mái,
ngửa mặt nhìn xa mà đi; nếu sinh vƣợng thì chủ là ngƣời tƣớng mạo kiên cƣờng, dũng khí
nghiêm trang, hào phóng, can đảm là nhiều thành công; gặp tử tuyệt thì keo kiệt, bạc bẽo,
hình dáng kém lanh lợi, gây ra nhiều hành động hung ác, hay lăng nhục, phần đa là chết yểu.
Nếu Tuất Sửu Thìn Mùi tứ khố chỗ tàng là các loại thập can Tài Quan, Ấn thụ thì càng hỉ
xung kích; nếu Dần Thân Tị Hợi kim, Tý Ngọ Mão Dậu kim trái lại thành đại cách, không lấy
61 | Tam mệnh thông hội

xung kích luận. Nếu đồng loại tƣơng xung, nhƣ loại Giáp Tý thấy Giáp Ngọ, Kỷ Mão thấy
Kỷ Dậu …, đa số là chủ phá tổ nghiệp, cả đời tâm không nhàn hạ, sáng rõ có lúc, nếu nhƣ lộc
cao danh trọng, cuối cùng cũng mất.
Phàm gặp một Thất Sát, mệnh cát thì xung phát, mệnh hung thì thành họa. Nhƣ đất tụ hoạ có
vị khác đến xung, gọi là phá họa thành phúc; nhƣ đất tụ phúc mà có vị khác đến xung, thì phá
phúc thành họa; nhƣ phạm Không Vong, có vị khác đến xung cũng là phá họa thành phúc,
năm tháng ngày giờ gặp chỗ này, thì nhất định là ngƣời ăn lộc. Nếu tháng xung ngày giờ, giờ
xung năm, danh là thù địch, chủ cùng ngƣời là vô ân, đa số bị căm ghét, hoặc bệnh kéo dài,
chết bất đắc kỳ tử; mang theo Kiếp Sát, Vong Thần tƣơng xung, chủ phạm ngục hình. Nếu ở
xứ tử tuyệt, chủ nhiều bệnh tật. Mang theo Quý Sát nhập cục, có tú khí khoa danh, đa số là
làm quan, nhƣng cuối cùng cũng mang ác tật mà chết; mang Nguyên thần, Không Vong
tƣơng xung, không hạ tiện thì cũng bần hàn.
05-04-16, 14:08
lesoi
Họ Thẩm nói: "Phá Ấn phá Tài cùng phá Lộc, phá Mã ít từng phúc cho ta; lại thêm phá hợp
xung ngày giờ, không tật tay chân cũng đầu mắt. Phá Ấn, nhƣ loại ngƣời là mộc mà mang
Quý Mùi, bên trong có Ất Sửu kim …; Phá Tài, nhƣ loại ngƣời là kim lấy Dần Mão là Tài,
thấy Thân Dậu; Phá Lộc, nhƣ loại Giáp lộc ở Dần thấy chữ Thân; Phá Mã, nhƣ loại Mã ở Tị
thấy chữ Hợi; Phá hợp, nhƣ loại can hợp mà bị chi phá, nhƣ ngƣời Giáp Ngọ thấy Kỷ Hợi,
hoặc thấy chữ Tị, tức là phá Kỷ Hợi, gặp Tý phá Giáp Ngọ hợp.

Thơ cổ nói:
Tương xung vẫn còn tự tương sinh,
Tụ đến Đế tọa nơi vô hình;
Lại được Hoa Cái kiêm Quyền Sát,
Là quan thanh hiển quản hùng binh."
Cho nên thấy xung phá có cát có hung, không thể đại khái mà luận.

(Hết quyển 2)

lesoi
Quyển 3
Quyển 3:

Luận Thập can Lộc

Lộc, là tƣớc lộc vậy, lúc đƣợc thế mà hƣởng thụ, chính gọi là Lộc. Bắt đầu từ lúc phân ra
Thập Can, Thập nhị Chi, liền lấy Giáp Ất phối cùng Dần Mão, ở hƣớng Đông; Bính Đinh
phối cùng Tị Ngọ, ở hƣớng Nam; Canh Tân phối cùng Thân Dậu, ở hƣớng Tây; Nhâm Quý
phối cùng Hợi Tý, ở hƣớng Bắc. Thập Can thì Chi thần là Lộc, nói Lộc là theo hành vƣợng,
cho nên Giáp Lộc ở Dần, Ất Lộc ở Mão, Canh Lộc ở Thân, Tân Lộc ở Dậu, Nhâm Lộc ở Hợi,
Quý Lộc ở Tý, Bính Lộc ở Tị, Đinh Lộc ở Ngọ, Mậu ký gửi lộc ở Tị, Kỷ ký gửi lộc ở Ngọ,
nói Tị Ngọ chính là đất hỏa vƣợng, nghĩa là Tử theo Mẫu mà đƣợc lộc. Bên trong có Thìn
Tuất Sửu Mùi, Thìn Tuất là Khôi Cƣơng, là vùng đất xa xôi hiểm ác, Lộc nguyên không
nƣơng nhờ. Sửu Mùi là cánh cửa Thiên Ất Quý nhân ra vào, Lộc nguyên né tránh, cho nên
bốn cung này không có Lộc. Lại nói tứ quý có tạp khí, là lộc không chuyên, cho nên không
lấy.
+ Giáp Lộc ở Dần. Nhƣ Giáp thấy Bính Dần, Giáp thổ khắc Bính thuỷ là Tài, gọi là Phúc tinh
62 | Tam mệnh thông hội

Lộc; Mậu Dần hỏa thổ tƣơng sinh, gọi là Phục Mã Lộc, đều cát. Canh Dần gọi là Phá Lộc,
nửa cát nửa hung. Nhâm Dần gọi là Chính Lộc, mang Tiệt lộ Không Vong, tất làm Tăng đạo.
Giáp Dần gọi là Trƣờng sinh Lộc, đại cát.
+ Ất Lộc ở Mão. Thấy Ất Mão gọi là Hỷ thần vƣợng Lộc, chủ cát. Đinh Mão gọi là Tiệt lộ
Không vong, chủ hung. Kỷ Mão, gọi là Tiến thần Lộc; Tân Mão, gọi là Phá Lộc, còn gọi là
Giao Thần, nửa cát nửa hung. Quý Mão mang Thái Ất, gọi là Tử Lộc, tuy quý nhƣng nghèo.
+ Bính Lộc ở Tị. Thấy Kỷ Tị, gọi là Cửu Thiên Khố Lộc, chủ cát. Tân Tị, gọi là Tiệt lộ
Không Vong. Quý Tị, gọi là Phục Quý thần Lộc, nửa cát nửa hung. Ất Tị, gọi là Vƣợng Mã
Lộc. Đinh Tị, gọi là Khố Lộc, đều cát.
+ Đinh Lộc ở Ngọ. Thấy Canh Ngọ, gọi là Tiệt lộ Không Vong, hung. Nhâm Ngọ gọi là Đức
Hợp Lộc, thấy Giáp Ngọ gọi là Tiến thần Lộc, đều hung. Bính Ngọ gọi là Hỷ thần Lộc, hay
Giao Dƣơng Nhận, nửa cát. Mậu Ngọ, gọi là Phục Dƣơng Nhận Lộc, nhiều hung.
+ Mậu Lộc ở Tị. Thấy Kỷ Tị, gọi là Cửu Thiên Khố Lộc, là cát. Thấy Tân Tị gọi là Tiệt lộ
Không vong. Quý Tị, là Quý thần Lộc, Mậu Quý hóa hợp, có chức quan cao. Ất Tị, gọi là
Dịch Mã đồng hƣơng Lộc. Đinh Tị, gọi là Vƣợng Khố Lộc, đều cát.
+ Kỷ Lộc ở Ngọ. Thấy Canh Ngọ, gọi là Tiệt lộ Không vong. Nhâm Ngọ, gọi là Tử quỷ Lộc,
đều hung. Giáp Ngọ, là Tiến thần hợp Lộc, tƣợng hiển đạt. Bính Ngọ, gọi là Hỷ thần Lộc.
Mậu Ngọ, là Phục thần Dƣơng nhận Lộc, hung.
+ Canh Lộc ở Thân. Thấy Nhâm Thân, gọi là Đại Bại lộc. Tiệt lộ Không vong lộc, đều hung.
Bính Thân, là Đại bại Lộc, nhiều thành bại. Mậu Thân, là Phục Mã lộc, nhiều cản trở, nếu
gặp Phúc tinh, quý cát. Canh Thân, là Trƣờng sinh Lộc, đại cát.
+ Tân Lộc ở Dậu, thấy Quý Dậu, là Phục thần Lộc, thủy hỏa phạm nhau, hung. Ất Dậu, là
Phá Lộc, thành bại. Đinh Dậu, là Không vong Quý thần Lộc, Đinh mộc thụ khí, Tân thủy
mộc dục, chủ việc gian dâm; gặp Hỷ thần, cát. Kỷ Dậu, là Tiến thần Lộc. Tân Dậu, là Chính
Lộc, đều cát.
+ Nhâm Lộc ở Hợi, thấy Đinh Hợi, là Quý thần hợp Lộc. Ất Hợi, là Thiên Đức Lộc. Kỷ Hợi,
là Vƣợng Lộc; Tân Hợi, là Đồng Mã hƣơng Lộc, đều đại cát. Chỏ có Quý Hợi, là Đại Bại lộc,
nghèo khổ.
+ Quý Lộc ở Tý, thấy Giáp Tý, là Tiến thần Lộc, chủ đăng khoa tiến đạt. Bính Tý, là Giao
Dƣơng nhận Lộc, kèm theo Phúc tinh, có quyền quý. Mậu Tý, là Phục Dƣơng Nhận hợp quý
Lộc, nửa cát. Canh Tý, là Ấn lộc, cát. Nhâm Tý, là Chính Dƣơng Nhận lộc, hung.
Có Sinh thành Lộc, ngƣời Giáp Ất đƣợc loại Giáp Dần, Ất Mão.
Có Danh vị Lộc, ngƣời Giáp thấy loại Bính Dần.
Có Chân Lộc, nhƣ ngƣời Giáp thấy Bính hoặc Kỷ, ngƣời Ất thấy Kỷ hoặc Ngọ, đều là quý
cách.
06-04-16, 13:07
lesoi
Có Tiến Thoái chân Lộc, Mậu Thìn thấy Đinh Tị, Mậu Ngọ thấy Đinh Tị, Bính Thìn thấy
Quý Tị, Bính Ngọ thấy Quý Tị, Quý Hợi thấy Giáp Tý, Quý Sửu thấy Giáp Tý, Nhâm Tuất
thấy Quý Hợi, Nhâm Tý thấy Quý Hợi, Tiến thì bình dị, Thoái thì gian nan, lại mang Phúc
thần, có thể là quý mệnh, sợ thấy nhiều.
Có Lộc gặp hội hợp, nhƣ Giáp Lộc ở Dần mà gặp Canh Tuất.
Có Thực thần đới Lộc, Nhâm Thực Giáp mà gặp Giáp Dần, Quý Thực Ất mà gặp Ất Mão,
Mậu Thực Canh mà gặp Canh Thân, Kỷ Thực Tân mà gặp Tân Dậu, chủ cát.
Có Thực thần hợp lộc, nhƣ Giáp Thực Bính gặp Bính Thân, Bính Dần; Ất Thực Đinh gặp
Đinh Mùi, Đinh Mão; Canh Thực Nhâm gặp Nhâm Thìn, Nhâm Tý, Tân Thực Quý gặp Quý
Tị, Quý Sửu tất cả có 8 vị trí, đều chủ cát.
Có Lộc đầu Tài, gọi là Nhục Sát, nhƣ Giáp thấy Mậu Dần, Ất thấy Ất Mão, chủ ngƣời phú có
danh vọng.
Có Lộc Đầu Quỷ, gọi là Xích Khẩu Sát, nhƣ Giáp thấy Canh Dần, Ất thấy Tân Mão, chủ
63 | Tam mệnh thông hội

khẩu thiệt hình phạt.


Có Tuần trung Lộc, nhƣ Giáp thấy Canh Dần, Mậu Ngọ thấy Đinh Tị, chủ có chức vị quan
trọng.
Có Thiên Lộc Quý thần, nhƣ Đinh Lộc ở Ngọ, độn đền Ngọ đƣợc chữ Bính, mà Bính quý ở
Dậu Hợi, đƣợc Tân Dậu, Tân Hợi thì là Tân quý, lại thấy ở Ngọ, nhập cách cực phẩm.
Có Can chi hợp Lộc, nhƣ Giáp Lộc ở Dần, đƣợc Giáp Dần, Kỷ Hợi; Ất Lộc ở Mão, đƣợc Ất
Mão, Canh Tuất, chủ quan chức ở vị trí cao.
Có Hỗ hoán Quý Lộc, nhƣ Canh Dần thấy ngày giờ có Giáp Thân.
Có Triều nguyên Lộc, nhƣ Dần thấy Giáp ở ngày giờ, hoặc hƣớng về trong Thai, càng quý.
Có Triều nguyên kẹp hợp, nhƣ Quý Tị thấy Mậu Thìn, Mậu Ngọ, hai Mậu và Quý hợp kẹp
xen chữ Tị, giống nhƣ Mậu Lộc ở Tị, chủ phong tƣớc.
Có Lộc nhập Lộc đƣờng, 《 Lý Ngu ca 》nói: "Lộc nhập lộc đường tu đại bái", Lý Hƣ Trung
lấy Giáp đƣợc Giáp Tuất, lấy Giáp là Tuế can, thì bản vị Giáp độn đến Tuất, gọi là Lộc
Đƣờng. Tân Nhâm có hai vị trí, Tân có Tân Mão, Tân Sửu, Nhâm có Nhâm Dần, Nhâm Tý,
ngũ hành không có khắc, các vị trí tƣơng trợ nhau, phát phúc tất lớn.
Cổ nhân nói: Trƣớc Lộc hai thần gọi là Bối, sau Lộc hai thần gọi là Hƣớng. Họ Thẩm lấy 4
chữ Kiến, Hƣớng, Cận, Hợp là quý, Kiến không bằng Hƣớng, Cận không bằng Hợp, trong 4
chữ nếu đƣợc 2 chữ, là quý. Nhƣ Giáp Lộc ở Dần, thấy Dần là Kiến, Sửu là Hƣớng, Mão là
Cận, Hợi là Hợp, còn lại dựa theo chỗ này mà suy. Ngoài ra tất cả đều kị ở trên tam hợp lục
hợp, kiến hình kiến quỷ. Lấy Giáp Tuất mà nói, thì Quỷ ở trên Sửu, thì có lo sợ, vì Sửu hình
Tuất; ở Mùi thì không kị, vì Tuất hình Mùi. Lấy Ất Dậu nói, Quỷ ở trên Tị là hại, vì tam hợp
hội nhau ở Thìn thì giảm phúc, vì lục hợp thì gần hơn.
Nói về Kiến Lộc, chủ ngƣời thịt dầy khí đủ, thể cách mơ hồ, cả đời an dật đủ tài, lợi sinh
vƣợng; tất nhiên tử tuyệt thì khí trọc thần khô, cần cù mà sống, keo kiệt bỉ ổi. Hợp cùng
Nguyên Thần, vì chơi trò xúc sắc mà đƣợc tài, rồi lại thất bại. Hợp cùng Quan Phù, vì cửa
quan đƣợc tài, hoặc gặp nhiều tranh tụng. Hợp cùng Kiếp Sát, có một chút bản lĩnh, lấy tài
bất nghĩa. Hợp cùng Thiên Trung ( Không vong), phần đa mất của phá tài. Hợp cùng Lộc
Quỷ Đảo Thực, đa số vì vay nợ ngƣời mai mối mà đƣợc tài, đến chết cũng không thông, là
ngƣời chỉ nhớ đến tiền.

Lại viết: Khố là tụ lộc, nhƣ Giáp Ất ở Mùi, Bính Đinh ở Tuất, Mậu Kỷ Nhâm Quý ở Thìn,
Canh Tân ở Sửu. Nhƣ Giáp Ất có Hợi nhiều còn đƣợc Mùi, chính là ngƣời có lộc dày sung
túc. Hợp chính là Hoành Lộc, nhƣ Giáp Lộc ở Dần mà đƣợc Hợi, gọi là Minh Hợp; không có
Dần mà đƣợc Hợi, gọi là Ám Hợp, tuy không phải là Kiến Lộc, cũng nói là Kiến Lộc, phần
đa phúc bỗng nhiên đến. Củng là Lộc tôn quý, nhƣ Giáp Lộc ở Dần, không thấy Dần mà thấy
Sửu, Mão ở hai bên, gọi là Hư Củng; nhƣ ngƣời Thân thấy Dần lại thấy Sửu, Mão củng ở hai
bên cạnh, gọi là Thực Củng, nhƣng Thực Củng không bằng Hƣ Củng, chủ đại phú quý.
Phàm sinh mệnh mang Lộc, hoặc cát hoặc hung, hoặc quý hoặc tiện, không thể hoàn toàn liền
dựa vào lấy cát mà luận. 《 Thiên Ất Diệu Chỉ 》nói: "Không thấy vua, Lộc Mã quý nhân
không chuẩn xác, khảo cứu ngũ hành hung ác, Thiên nguyên suy nhƣợc không là họa, chỗ khí
kiên cố đủ vui mừng."《 Nguyên Tủy ca 》nói: " Lộc Mã lại có nhiều thuyết, tự Suy tự Tử
kiêm Bại Tuyệt, nếu lúc không có cát sát trợ giúp thêm, cũng biết là phá tổ và gặp nhiều việc
xấu". Có thể thấy rõ trƣớc luận ngũ hành, sau mới xem Lộc Mã, ngũ hành phải sinh vƣợng,
Lộc Mã sợ suy tuyệt. Tƣ Mã quý chủ nói: Lộc nhiều Mã ít, khiến chủ thần khổ; Lộc ít Mã
nhiều, có cậy cầm thiện.
06-04-16, 13:08
lesoi
Luận Kim Dư
64 | Tam mệnh thông hội

Dư, nghĩa là xe vậy. Kim, là quý vậy. Thí dụ nhƣ quân tử cƣ quan đắc lộc, cần ngồi trên xe
để đi. Cho nên Kim Dƣ thƣờng cƣ ở trƣớc Lộc hai thần, nhƣ ngƣời Giáp Tý lộc ở Dần, Thìn
là Kim Dƣ vậy. Sát này chính là cây cờ của Lộc mệnh, tam tài tiết việt, chủ tƣớng mạo nhân
tính nhu hoà thật thà, cử chỉ ôn hoà, phụ nữ gặp, không phú cũng quý; nam nhân gặp, nhiều
thê thiếp, âm phúc phù trì nhau, ngày sinh, giờ sinh gặp đều tốt, cốt nhục cả đời an vui, đƣợc
thê thiếp hiền tài, con cháu phong thịnh. Nhƣ hoàng tộc mang nhiều Sát này, gặp thƣờng
cách, thân sinh ở trong vô khí, chủ ở rễ. Tử Hư cục nói: " Trƣớc Lộc hai thần hiệu Kim Dƣ,
ở ngƣời gặp đây thì rất phúc. Bẩm tính thông minh nhiều phú quý, cả đời thanh thái cũng
không lo."

Luận Dịch Mã

Dịch Mã là số Tiên Thiên tam hợp vậy, Tiên Thiên Dần 7, Ngọ 9, Tuất 5, hợp số là 20 dƣ 1,
cho nên từ Tý thuận đến Thân, phàm 21 mà thành hỏa cục có Dịch Mã. Con số Hợi Mão Mùi,
4, 6 cùng 8 hợp lại thành 18, cho nên từ Tý thuận đến Tị, phàm 18 mà thành mộc cục có Dịch
Mã. Mộc, Hỏa, là dƣơng cục vậy, theo Tý là Nhất dƣơng mà thuận hành. Kim, thủy, là âm
cục vậy, theo Ngọ là Nhất âm mà nghịch hành. Con số Thân Tý Thìn là 7, 9 cùng 5 hợp, là 20
dƣ 1, cho nên từ Ngọ nghịch đến Dần, phàm 20 dƣ 1mà thành thủy cục có Dịch Mã. Con số
Tị Dậu Sửu là 4,6 cùng 8 hợp thành 18, cho nên từ Ngọ đến Hợi, phàm 18 mà thành kim cục
có Dịch Mã. Chỗ phép này thuận theo mà thành lập vậy.
Ngƣời sinh Dần Ngọ Tuất, Mã ở Thân mà can cƣỡi Ngũ dƣơng. Thấy Giáp Thân, là tiệt lộ
không có Nhật Mã; Bính Thân, là Đại bại Mã. Mậu Thân, là Phúc tinh phục Mã. Canh Thân,
gặp Thiên quan Mã; Nhâm Thân, là Đại bại Mã. Lấy trên Tị Dậu Sửu Thân năm tháng ngày
giờ là phát ứng.
Ngƣời sinh Thân Tý Thìn, Mã ở Dần mà can cƣỡi Ngũ Dƣơng. Thấy Giáp Dần, chính lộc là
Văn tinh Mã. Bính Dần, là Phúc tinh Mã. Mậu Dần, là Phục Mã. Canh Dần, Phá lộc Mã.
Nhâm Dần, tiệt lộ Mã. Lấy ở trên Hợi Mão Mùi Dần năm tháng ngày giờ thì phát ứng.
Ngƣời sinh Tị Dậu Sửu, Mã ở Hợi mà can cƣỡi Ngũ Ấm. Thấy Ất Hợi, là Thiên Đức Mã, lấy
can sinh bên trong có Mã, chìm không có thành, bản thân là ngƣời thông minh. Đinh Hợi, là
Thiên Ất Mã. Kỷ Hợi, Vƣợng Lộc Mã. Tân Hợi, là Chính Lộc Mã. Quý Hợi, là Đại bại Mã.
Lấy ở trên Thân Tý Thìn Hợi năm tháng ngày giờ thì phát ứng.
Ngƣời sinh Hợi Mão Mùi, Mã ở Tị mà can cƣỡi Ngũ Ấm. Thấy Ất Tị, chính lộc Mã. Đinh Tị,
Vƣợng khí Mã. Kỷ Tị, Cửu thiên Lộc Khố Mã. Tân Tị, Tiệt lộ Mã. Quý Tị, Thiên ất phục
Mã. Lấy ở trên Dần Ngọ Tuất Tị năm tháng ngày giờ thì phát ứng.
06-04-16, 13:09
lesoi
Phàm trong trụ có Mã, nếu không gặp Không Vong, Phá bại, giao thóai, Phục thần, phải vinh
quý. Hỗ Lộc cộng với Thiên ất Quý thần, Đồng vị trí Mã, lại đƣợc nhiều Sát cùng với nhau,
thì quan nắm đại quyền, quý ở Lang Miếu, giờ là thƣợng quý, ngày là trung quý, tháng là
thƣờng thứ. Khố Mã chủ hỉ ở lúc thiếu niên, Vƣợng Mã sinh vinh lúc thanh niên, Sinh Mã thì
về già đƣợc toại nguyện mà đảm nhận quan thấp hèn ở xa, nhƣ mộc sinh ở Hợi vƣợng ở Mão
khố ở Mùi. Còn lại cứ theo cách này mà suy ra. Lạc Tử nói: Sinh Mã chƣa chắc có Mã, Bối
Lộc chƣa chắc là không có Lộc. Xem kỳ vƣợng khố, không hỏi gánh sinh. Diệu kỳ là ở Tiêu
Tức đầy hay rỗng mà thôi.
Lại nói: Dịch Mã là trong Tam Mệnh phát dụng, là thần khánh hỉ. Nếu ngƣời gặp, quân tử thì
thƣờng ở địa vị vinh hiển, tiểu nhân thì chủ phong phú, đầy đủ. Đại Tiểu vận hành niên đến
chỗ này, chủ đƣợcc quan cùng hỉ di chuyển, thay đổi; Tiểu vận cùng hành niên hợp với Dịch
Mã, cùng chủ có Thiên quan đƣợc lộc, nhƣ Giáp Tý thì Dịch Mã ở Dần, Tiểu vận cùng Thái
tuế đến Hợi, Hợi cùng Dần hợp … các loại khác cũng vậy.
65 | Tam mệnh thông hội

Mã lại có 12 loại:
(1) Khoản đoạn (Hoãn lại một đoạn), nói là Tị Dậu Sửu đƣợc Nhâm Hợi, Hợi Mão Mùi đƣợc
Bính Tị, Thân Tý Thìn đƣợc Giáp Dần, Dần Ngọ Tuất đƣợc Mậu Thân.
(2) Quyết Đề ( Chân bị ngã), nói là tứ trụ tuy có mang Dịch Mã mà ngày sinh gặp thần Không
Vong.
(3) Chiết Túc ( Chân gãy), nói là Tháng mang thai mang theo Dịch Mã mà ngày giờ mang là
Mộc Dục, Thân Tý Thìn thấy đủ chữ Dần là Mã, gọi là Ba ngƣời mà cƣỡi chỉ một con ngựa,
nói là Chiết túc. Nếu Hợi Mão Mùi có đủ thấy Mã, tóm lại là có quan quý hiển, cuối cùng
thành kẻ hạ tiện. Nếu tọa một Thìn, thiếu niên tuy có tốt, về sau thì nghèo.
(4) Vô lương ( là không có lƣơng thực), nói là ngày sinh gặp Mã, Mã thực Thái tuế, nhƣ Giáp
Tý đƣợc ngày Nhâm Dần mà giờ thì lại lạc ở Không Vong vậy.
(5) Bất xuất sảnh cứu ( không ra khỏi chuồng ngựa), nói là tháng mang thai mang Mã, không
thấy quý cùng không thấy lộc cùng nhập Không Vong là vậy.
(6) Tê phong ( Cảnh ngựa hí).
(7) Xu đồ ( đƣờng đi nhanh), nói là Dịch Mã tuy có lộc, ở Không Vong.
(8) Đà thi ( Ngựa cõng xác chết).
Trong 12 loại Dịch Mã duy chỉ có Đà thi là hung nhất, Kiến Lộc thì thành xác chết. Nhƣ
trong tuần Giáp Tý, ngƣời sinh Tị Dậu Sửu thì Mã ở Hợi, ngƣời Ất Sửu, Đinh Hợi, ngƣời Kỷ
Tị, Ất Hợi, ngƣời Quý Dậu, Quý Hợi. Ngƣời Ất Sửu đƣợc Hợi là Mã, kỵ tháng ngày giờ có
chữ Dần; ngƣời Kỷ Tị đƣợc Hợi là Mã, kỵ tháng ngày giờ có chữ Thân; ngƣời Quý Dậu đƣợc
Hợi là Mã, cũng kỵ tháng ngày giờ có chữ Dần, có một trong cách này thì gọi là Đà thi. Cũng
nhƣ Hợi Mão Mùi là trong tuần Giáp Ngọ. Ngƣời Ất Mùi, Tân Tị, ngƣời Kỷ Hợi, Kỷ Tị,
ngƣời Quý Mão , Đinh Tị. Ngƣời Ất Mùi đƣợc lấy Mã, kỵ tháng ngày giờ có chữ Dần; ngƣời
Kỷ Hợi đƣợcc Tị là Mã, kỵ tháng ngày giờ có chữ Thân; ngƣời Quý Mão đƣợc Tị là Mã,
cũng kỵ tháng ngày giờ có chữ Dần, đều là Đà thi vậy. Còn lại các tuần khác cũng theo quy
chuẩn này.
(9) Thực sô ( Ăn cỏ), nói là Dịch Mã khắc giờ, giả nhƣ lệnh Dịch Mã thuộc kim, sinh giờ
đƣợc mộc, loại này gọi là Thực sô.
(10) Thừa hiên ( Cƣỡi xe lớn), nói là tháng thụ thai mà ngày sinh mang Lộc Mã, giả nhƣ lệnh
là ngƣời Giáp Thân đƣợc giờ Canh Dần, Giáp Dần cùng tháng thụ thai là Canh Dần vậy.
(11) Thừa diêu ( Cƣỡi xe ngựa), nói là có thiên địa đƣợc hợp thấy Thái tuế, sinh tháng ngày
giờ thấy Quý nhân Dịch mã, giả nhƣ lệnh ngƣời sinh là Đinh Hợi, tháng tƣ, ngày Nhâm Dần,
giờ Kỷ Dậu, nguyệt tọa Mã, Dậu là Quý nhân.
(12) Vô bí ( Không có dây cƣơng ngựa), nói là Quý thần Không Vong, Lộc ở đất tuyệt vậy.
06-04-16, 13:09
lesoi
Lấy ở trên 12 loại Dịch Mã, cần để ý Tiêu tức, họa phúc tự thấy, Khoản đoạn thì cả đời gập
ghềnh, lận đận, chỉ có làm ngƣời chọn lựa, Vô lương thì không có bổng lộc trời ban, Bất xuất
cứu thì không có đảm nhiệm đƣợc chức vụ, Chiết túc thì vĩnh viễn mất, Quyết đề thì lại bắt
đầu, Vô bí thì cả đời cô hàn, Thực sô thì quan đƣợc Lục phẩm, Tê phong đƣờng có mà hƣ
thanh, Xu đồ lao lực khắp nơi mà cầu lộc, Thừa diêu thì mang chức, Thừa hiên thì làm đến
Tam công, Đà thi thì đƣợc quan thì chết.
Can chi có hợp với Mã, nhƣ Thân Tý Thìn thấy Mã ở Dần, Giáp Dần thấy Kỷ Hợi, hợp; Bính
Dần thấy Tân Hợi, hợp, chủ là quan chức đƣợc trọng.
Có Mã đầu đái kiếm, gọi là Dịch Mã ở trên thấy Canh Tân hoặc nạp âm, thấy kim, chủ danh
chấn biên cƣơng.
Có Mã sậu thiên đình, gọi là ngƣời Mộc đƣợc Hợi mà thấy Tân hợi, vừa lại có Mã ở trên can
gặp đắc lộc, nhƣ ngƣời sinh Lục Nhâm, ở vị trí Dần Ngọ Tuất, ở trên Giáp độn đƣợc Mậu
Ngọ, Mậu có lộc ở Tị, Tị thuộc Thiên Đình, phục thấy Tị, đƣợc Dậu hợp là vậy, chủ là quan
nơi cực phẩm.
66 | Tam mệnh thông hội

Có Mã hậu Nhị Thìn là Cửu địa Mã, chủ chức vị kề cận vƣơng đình.
Có Thiên Mã quý thần, chính là trong năm không thấy Trạm ngựa, ngũ hổ độn đến trên Mã,
xem đƣợc can ở đâu, can thấy Thiên Ất, mà Thiên Ất chỗ tọa ở can lại phục thấy quý ở trên
Mã là vậy, quý không dƣới tam phẩm.
Có Nhất Mộc hệ song Mã, Dần Ngọ Tuất nhiều thấy Bính Thân, Thân Tý Thìn nhiều thấy
Canh Dần, Tị Dậu Sửu nhiều thấy Kỷ Hợi, Hợi Mão Mùi nhiều thấy Quý Tị. Mã ở trên can
khắc chi, chủ nhiều kinh sợ nguy hiểm. Nếu gặp tứ mã tụ ở giờ hoặc can năm, chủ phong
tƣớc. Lại có ngƣời sinh ở dƣới có Dịch Mã, tháng ngày giờ can chi đƣợc quản toàn bộ roi
ngựa, cùng khắc thân định là quý. Trƣớc Mã có một Thìn cai quản, sau một Thìn là roi ngựa.
Giả nhƣ lệnh Giáp Tý là kim mệnh, chính nguyệt, ngày Tân Sửu, giờ Mão, lấy ngƣời là Tý
thì Mã ở Dần gặp Lộc, lại có bản mệnh là Tý cùng sinh ngày Sửu ở sau Mã là roi ngựa, giờ
Mão ở trƣớc Mã là cai quản, lại nhƣ Mã là Bính Dần, hỏa có thể khắc Giáp Tý kim, cho nên
chủ quý.
Có Dịch có Mã, thì chủ địa vị đến Vƣơng hầu. Can là Mã, chi là Dịch, nhƣ ngƣời sinh Mậu
Tuất, Mã ở Thân mà đƣợc Canh Thân, can chi đều thuộc kim, đến Thân là Lâm quan, Mậu
Tuất can chi đều thuộc thổ, đến Thân là trƣờng sinh, bản mệnh cùng Dịch Mã can chi là Bối
Mã có khí, là có Dịch có Mã. Lại nhƣ ngƣời sinh Nhâm Ngọ thì Dịch Mã ở Mậu Thân, Mậu
thổ lâm Thân là trƣờng sinh, bản mệnh Nhâm thủy đến Thân cũng trƣờng sinh, ngọ hỏa đến
Thân là đất suy, bản mệnh can suy vƣợng, là có Mã mà không có Dịch. Lại nhƣ ngƣời sinh
Đinh Sửu thì Dịch Mã ở Tân Hợi, kim lâm Hợi là đất bệnh, bản mệnh Đinh hỏa đến Hợi là
tuyệt, lấy Sửu thổ đến Hợi là lâm quan, bản mệnh can vƣợng suy, Dịch Mã can cũng suy, là
có Dịch mà không có Mã. Hoặc lấy Dần Ngọ Tuất thấy Canh không có Thân, thấy Thân
không có Canh các loại …, là có Mã mà không có Dịch, có Dịch mà không có Mã cũng làm
thông.
Có Mã khắc thân nhƣ lấy thần Dịch Mã có thể chế tháng sinh, nhƣ ngƣời sinh Dần Ngọ Tuất
thì Mã ở Thân, Thân thuộc kim, có thể chế tháng Dần Mão mộc, giả nhƣ lệnh ngƣời sinh
Giáp Tý sinh tháng ở Thìn Tuất Sửu Mùi vậy, chủ là quan lộc dễ cầu, đƣờng quan lộ không
có trì trệ, thiếu niên hanh thông nhanh, là quan thanh hiển. Ngƣời thƣờng gặp là tiểu phú.
Có Mã là Tài khố, lấy Dịch Mã chỗ thần khắc bị nhập mộ, nhƣ Mã ở Thân, Thân thuộc kim,
kim khắc mộc, mộc đến Mùi là khố, ví dụ vậy. Chủ cả đời du lịch tứ phƣơng, đa số là đƣợc
sinh tài.
Có Anh linh quán Mã, chính là ngũ hành chân khí trƣờng sinh, gặp ở dƣới có Dịch Mã, chủ
trì sai khiến bộ lễ.
Có Nam phương ly minh mã, gọi là Mã dừng lại, Sửu Mã ở Hợi, Thìn Mã ở Dần, Tuất Mã ở
Thân, Thìn Tuất Sửu Mùi vị trí thuộc thổ, lấy xứ sinh là Mã, cho nên ngƣời sinh Thìn Tuất
Sửu Mùi không phải là ở Ngọ, là Mã ở Nam phƣơng cửa Ly, gặp cách này thích ở Ngọ tƣơng
xung. Là Ngựa phi, thấy nhập cách Tiên Sách, là chủ quý.
Lại nhƣ Dịch Mã thanh trọc, Giáp Tý đƣợc Bính Dần, là Lộc Mã đồng hƣơng, lại có Bính là
Thực thần, Mã cƣỡi trƣờng sinh. Đinh Sửu đƣợc Đinh Hợi, là Thiên Ất Thiên Quan, mã cƣỡi
Lâm quan. Nếu Mã cƣỡi trƣờng sinh, lâm quan, hoặc mang Thực Lộc quý khí, thì gặp một
mà cầm đƣợc cả trăm. Nếu Mã cƣỡi bệnh ,tuyệt, Không Vong, lại gặp phá bại, giao thóai,
phục thần, thì gặp mà không gặp, dù là quan, cũng thô trọc, ti tiện, không phải là chức vụ đạt
đến thanh.
06-04-16, 13:10
lesoi
Lại nói: Phàm xem Dịch Mã có Tứ Chuyên, danh vị, sinh vƣợng, bệnh tuyệt, Trì bảo, Hàm
hoa cùng Đảo Thực hỗ hoán không giống nhau, trung gian có tốt xấu, vinh nhục, cần ở tuế
vận, Tiên Sách mà thuật kỹ càng.
+ Tứ chuyên: Nhƣ Thân Tý Thìn thì Mã ở Dần, Dần gặp Giáp Dần, Thân gặp Canh Thân, Tị
gặp Đinh Tị, Hợi gặp Quý Hợi vậy.
67 | Tam mệnh thông hội

+ Danh vị, chính là trong Mã gặp Thực Thần, nhƣ Giáp thấy Bính, Ất thấy Đinh các loại, trên
Mã đƣợc Thực vậy.
+ Tứ Sinh là Tân Tị, Giáp Thân, Kỷ Hợi, Bính Dần bởi nạp âm mà sinh vậy.
+ Tứ Bệnh chính là chữ Tử chữ Tuyệt, nhƣ năm nạp âm thuộc kim, kim tuyệt ở Dần vậy.
+ Trì Bảo ( nắm báu vật truyền đi) chính là Giáp Tý thấy Mậu Dần, đầu Mã mang Thiên Tài;
hoặc nạp âm khắc Mã là Tài, giống nhƣ Thực thần, nhƣ ngƣời sinh Giáp Dần thấy ngày giờ là
Bính Thân, Giáp Thân thấy Bính Dần vậy.
+ Hàm Hoa ( Ngậm hoa), chính là nạp âm lâm quan gặp Mã, nhƣ Canh Thân, Nhâm Tý, Mậu
Thìn nạp âm đều là mộc, gặp Dần, là đất Mã lâm quan vậy. Lại thêm Mã sinh thành, danh
nghĩa Mã luận giống nhƣ Lộc trƣớc đầy vậy, chủ quý.
Phàm ngƣời gặp Mã, hỷ chuyên vƣợng mà sợ Không Vong, là hỗn tạp không đạt; sợ Tử
Tuyệt mà thích gặp Thực, thấy Tài là có ích. Thƣơng nhân phần đa rất thích giữ Trì Bảo, phụ
nữ thì rất sợ Hàm Hoa; Trì Bảo thì phú, Hàm Hoa thì dâm, Hàm Hoa càng kị mộc gặp Canh
Dần, Ất Hợi thấy Ất Tị, Đinh Mão thấy Đinh Tị, Kỷ Mùi thấy Kỷ Tị, càng nặng, nam đa
dâm, nữ đa tình, torng vận gặp thì cùng đoán giống nhƣ trên.
Lại viết: Dịch Mã rất sợ can thần Đảo Thực, nhƣ Ất Dậu thấy Quý Hợi, là Dịch Mã, lại bị
phản Thực ở ta, gọi là Ất Quý khác khoa là vậy.
+ Tiên Sách là xem lúc phát sinh hỗ hoán, nhƣ Thìn Mã ở Dần, hoặc Thái Tuế ở Thân xung
động Dần, tức Thái Tuế gọi là Tiên Sách, tiểu vận ở Thân, tức Tiểu vận là Tiên Sách, đa số là
chủ động. Lại xem Thân và Dần hỗ hoán nhƣ thế nào, nhƣ Canh Thân gặp Giáp Dần, Canh
Thân thuộc mộc, ở Dần là lâm quan; Giáp Dần thuộc thủy, Thân là trƣờng sinh, hòa thuận thì
cát, khắc nhau là trở ngại. Nhƣ hỗ hoán cả hai, không có khí thì không động; hoặc không có
khí, tức là chủ tài.
+ Tứ Mã Triều nguyên, tốt thì vinh quý, xấu thì phá gia thất nghiệp, nhƣ làm tăng đạo, thích
đi chơi. Trẻ em và ngƣời già bất lợi nếu gặp thấy Mã, trẻ em trƣớc 12 tuổi, 3 tuổi trở lên,
hoặc Mã gặp ở Tiểu vận, Thái Tuế xung hoặc Mã lâm quan, gặp nhiều, chủ có bệnh giựt kinh
phong. Ngƣời già 50 tuổi trở lên, hoặc vận cƣỡi cùng Thái Tuế, chủ có bệnh khí hƣ hay đau
lƣng, đau chân, cũng giống nhƣ ngƣời già gặp Lộc, bệnh khi ăn hay bị nôn ra. Thấy ít, cũng
phát nhiều bệnh, bởi vì già hay trẻ đều không thể cƣỡi ngựa, nguyên nhân là do Mã ở trong
ngũ hành là thần chuyển động bay nhảy vậy.
06-04-16, 13:10
lesoi
Tổng luận Lộc Mã

Lộc là nguồn dƣỡng mệnh, Mã là gốc phù thân, cả hai tốt nhất là cùng gặp. Mà nhƣ Dần Ngọ
Tuất thì Mã ở Thân, Giáp lộc ở Dần, can Giáp ở trên Dần độn thấy Bính, ở trên Thân độn
thấy Nhâm, thì lấy Bính là Thiên Lộc, Nhâm là Thiên Mã, ở trên ngày giờ giao nhau đều thấy
gọi là Thiên Lộc, Thiên Mã. Lại nhƣ ngƣời sinh Giáp độn đến tuất, thấy Giáp Tuất, gọi là
Hoạt Lộc. Ngƣời Giáp Tý độn thấy Bính Dần, gọi là Hoạt Mã. Lại nhƣ Dần Ngọ Tuất ở
Thân, mà can giờ đƣợc Canh; Hợi Mão Mùi ở Tị, mà can giờ đƣợc Bính; Thân Tý Thìn ở
Dần mà can giờ đƣợc Giáp; Tị Dậu Sửu ở Hợi, mà can giờ đƣợc Nhâm, lấy chi ngày thỉnh
cầu can giờ, lấy can giờ thỉnh cầu chi ngày, đƣợc đổi chỗ nhau, gọi là Lộc Mã giao trì. Lại
nhƣ Giáp lộc ở Dần, Thân Tý Thìn Mã cũng ở Dần, lại nhƣ sinh Giáp Tý, Giáp Thân, Giáp
Thìn, mà giờ đƣợc Bính Dần, ở trên Đế Tọa hội Lộc Mã, gọi là Lộc Mã đồng hương. Lại nhƣ
Lộc trƣớc Mã sau, nhƣ Tân Tị ngƣời đƣợc ngày giờ Tuất, ngƣời đƣợc Ất Hợi ngày giờ là
Thìn, Tân lộc ở Dậu, Mã ở Hợi; Ất lộc ở Mão, Mã ở Tị, không thấy Lộc Mã mà Lộc Mã tàng
ở trong kỳ, gọi là Giáp lộc Giáp mã. Quỷ cốc di văn nói: "Thì cư nhật lộc, đương đắc lộ vu
thanh vân; ngũ mã giao trì, khả trí thân vu hoàng các" ( Nhật lộc ở giờ, nắm đƣợc đƣờng lên
mây xanh; Ngũ mã giao trì, có thể thân đạt nơi lầu ông Hoàng). “ Lạc Lục tử” nói: "Bối lộc
trục mã, thủ cùng đồ nhi thê hoàng; lộc mã đồng hương, bất tam thai nhi bát tọa." ( Bối lộc
68 | Tam mệnh thông hội

trục Mã, lấy nghèo mà thê lƣơng; Lộc Mã đồng hƣơng, không là Tam Thai thì cũng là Bát
tọa). Tạo ra mệnh thƣ có thuyết cô nhi góa phụ, nhƣ Giáp Tý thấy Bính Dần, Canh Ngọ thấy
Nhâm Thân, chỗ này tuy có Lộc Mã đồng hƣơng, thật không biết Giáp Tý là nhất dƣơng, Ất
Sửu là nhị dƣơng, Bính Dần là tam dƣơng, thuần dƣơng không có âm vậy; Canh Ngọ là nhất
âm, Tân Mùi là nhị âm, Nhâm Thân là tam âm, thuần âm không có dƣơng vậy. Chỗ này cả
hai đều gọi là cô nhi góa phụ, Lộc Mã tuy là đồng hƣơng, cũng không cát. 《 Lý ngu ca 》
nói: "Lộc Mã phi thiên không có hình khắc, trong có sinh vƣợng tƣớng đạt đến quý" .
07-04-16, 10:47
lesoi
Luận Thiên Ất Quý nhân

Thiên Ất chính là thần trên trời, ở trong thành Tử Vi, ở ngoài cửa cổng trời đóng lại, cùng
ngang hàng với Thái Ất, làm việc cho Thƣợng đế, địa vị kém hơn ba thần (tên gọi chung của
Nhật, Nguyệt và Tinh tú), nơi ở Kỷ Sửu, chỗ trọ là sao Đẩu Ngƣu, xuất ra ở Kỷ Mùi chỗ ở là
sao Tỉnh Quỷ, nắm cái cân ngọc để tính toán thời gian sự việc, danh gọi là ở Ất vậy. Là thần
tôn quý nhất, chỗ đến thi hành, tất cả Hung Sát đều phải ẩn tránh.
《 Hồ Trung Tử 》nói: Sắp đặt Quý nhân cần phân biệt ngày hay đêm, đều tự chuyên quyền,
lấy sinh ban ngày gặp quý ban ngày, sinh ban đêm gặp quý ban đêm, là đắc lực. Hoặc lấy sau
Tý là ban ngày, sau Ngọ là ban đêm; hoặc lấy mặt trời mọc lên là ban ngày, mặt trời lặn là
ban đêm, đều là nói chủ quan. Không bằng chỉ lấy Dần Thân phân ra âm dƣơng, sau Đông
Chí dùng dƣơng quý, sau Hạ Chí là âm quý. Mệnh con ngƣời sinh sau Nhất Dƣơng ( sau
tháng Tý) gặp dƣơng quý là đắc lực, sinh sau Nhất Âm ( sau tháng Ngọ) gặp âm quý là đắc
lực.
《 Tam Xa Nhất Lãm 》thì lấy Giáp là dƣơng mộc đón khí Thiếu Dƣơng sinh ở Đông
phƣơng, tới Tị mà nhất định dụng sự vậy, cho nên thoái tàng ở Mùi mà thành quý. Canh
dƣơng kim đón khí Thiếu Âm mà sinh ở Tây phƣơng, tới Hợi mà nhất định dụng sự vậy, cho
nên thoái tàng ở Sửu mà thành quý. Trung ƣơng Mậu dƣơng thổ xung hòa lan truyền ở bốn
mùa, theo Giáp mà vạn vật sinh; theo Canh mà vạn vật thành, thì lý lẽ tất nhiên sinh thành
vậy. Ất là âm mộc, Kỷ là âm thổ, giống nhƣ cả hai vị mất không có khí mà không có chỗ ở,
nhất định dừng lại ở Thân Tý nơi thủy thổ sinh vƣợng mà sinh dƣỡng đầy đủ để bổ trợ cái
chƣa đủ, hai vị này hỉ thấy Thân Tý mà thành quý. Hạ Chí hỏa của Bính đinh đang thịnh
mãnh liệt mà hại vạn vật, tính chất bị tắt ở Dậu, tàng ở Hợi, lấy Tây Bắc khí thành đầy đủ mà
hòa, hai vị này lấy Dậu Hợi âm khí hòa mà thành quý. Thủy Nhâm quý tới cuối mùa Đông thì
tính chất nghiêm khắc mà giết vạn vật, chỉ có dè sẻn ở Mão, ẩn ở Tị, lấy Đông Nam khí nóng
ấm mà hòa, hai vị này lấy Tị Mão dƣơng khí hòa mà thành quý. Tân là âm kim, nắm phƣơng
không thể tự hóa, cần có Dần Ngọ hỏa sinh vƣợng phong tỏa cách cứng rắn mà thành hình là
quý.
《 Quảng Lục 》nói: Giáp dƣơng mộc, Mậu dƣơng thổ, Canh dƣơng kim, đều hỉ ngôi thổ.
Mùi là chính vị thổ; Sửu là đất thổ an tĩnh, do đó Sửu Mùi là quý. Tỉ mĩ phân ra, Giáp lại hỉ
Mùi, Canh lại hỉ Sửu, tất cả đều quy về khố vậy, Mậu Tý, Mậu Dần, Mậu Ngọ hỉ Sửu, Sửu
thì hỏa ở đất thai, dƣỡng; Mậu Thìn, Mậu Thân, Mậu Tuất hỉ Mùi, Mùi là mộc khố, thổ là nơi
sinh vƣợng vậy. Ất là âm mộc; Kỷ là âm thổ, âm thổ hỉ sinh vƣợng, âm mộc thích dƣơng
thủy, do đó chỗ này Thân là quý. Nhƣng Ất lại hỉ Tý, Tý là đất vƣợng của thủy; Kỷ lại hỉ
Thân, Thân là chính vị của Khôn. Bính Đinh thuộc hỏa, hỏa mộ ở Tuất; Nhâm Quý thuộc
thủy, thủy mộ ở Thìn. Thìn Tuất, là đất của Khôi Cƣơng, quý nhân khônng đến, cho nên tìm
gửi hỏa quý ở Dậu Hợi, gửi thủy quý ở Mão Tị, đều quy về quê hƣơng căn gốc mà phục
mệnh. Tọa lạc 6 âm kim, hỉ dƣơng hỏa đất sinh vƣợng, cho nên lấy Ngọ Dần là quý. Lại cần
lấy nạp âm để trao đổi lẫn nhau. Suy ra tìm kiếm cần ở Tỉ hòa, thì quý là phúc, nếu Bính hỏa
đƣợc Dậu, hỏa tới chỗ này là tử, sao đủ quý ƣ!
69 | Tam mệnh thông hội

Diêm Đông Tẩu nói: Luận Thiên ất quý, cần xác định ngũ hành hỉ kỵ, nhƣ ngƣời Giáp có
Mậu có Canh, đƣợc Quý Mùi, Ất Sửu, gặp cả hai tốt mà mang Ấn là ở trên, ẩn thấy thứ tự
Đinh Sửu, Tân Mùi, là Tam âm hỉ ở Ấn khố. Ngƣời Ất đƣợc Mậu Thân, Canh Tý là thổ sinh
vƣợng, ngƣời Kỷ đƣợc Giáp Thân, Bính Tý là thủy sinh vƣợng, chỗ này âm mộc, âm thổ hỉ ở
Tài vƣợng. Bính Đinh đƣợc Đinh Dậu, Ất Hợi, Nhâm Quý đƣợc Ất Mão, Quý Tị. Chỗ này
thủy hỏa không sợ tử tuyệt. Lục Tân đƣợc Bính Dần, Bính Ngọ, chỗ này âm kim không sợ
quỷ thắng, đƣợc cả hai là đứng đầu, đƣợc một là đứng sau.
07-04-16, 10:48
lesoi
《 Tử Hư cục 》lấy chỗ này là quý nhân nhập miếu, gặp thì chủ kim quý.
《 Bát Tự kim thư 》 luận quý thần, lại phân ra ƣu khuyết, tức là trƣớc Lục Thập Giáp Tý
cát hung, quy về muốn cùng với Lộc, Mã cùng nhóm, không phạm giao thoái, Phục thần, can
chi tƣơng hợp là quý, quan trọng là ở can tháng ngày giờ tƣơng hợp.
Họ Lâm mở rộng luận Thiên Ất tƣơng hợp, nhƣ Giáp Tý thấy Kỷ Mùi, không có tử tuyệt,
xung phá, không vong, lại có phúc thần trợ giúp là quý. Nhƣ phạm kỵ ở trên thì giảm lực, lại
gặp nhiều khó khăn không có phúc. Mậu Tý thấy Kỷ Sửu, không phạm kỵ ở trên, lại có phúc
trợ giúp, chỗ này là thứ cách. Có tử tuyệt thì giảm lực, có xung phá, không vong, là quan lại
phong trần vậy. Tân Mùi thấy Canh Dần, không phạm kỵ ở trên, có phúc trợ giúp là đẳng cấp
thứ ba; tử tuyệt thì giảm lực, xung phá, không vong, cả đời gặp nhiều khó khăn, là loại quan
lại vô dụng mà thôi.
Diêm Đông Tẩu luận Quý hợp Quý thực, nhƣ Giáp đƣợc Kỷ Sửu, Kỷ Mùi, Mậu đƣợc Quý
Sửu, Quý Mùi, Canh đƣợc Ất Sửu, Ất Mùi, Ất đƣợc Canh Tý, Canh Thân, Kỷ đƣợc Giáp Tý,
Giáp Thân, Bính đƣợc Tân Dậu, Tân Hợi, Đinh đƣợc Nhâm Dần, Nhâm Thìn, nhƣ các loại
này gọi là Quý hợp. Giáp thực Bính, Ất thực Đinh, Bính Đinh quý ở Dậu Hợi, Giáp đƣợc
Bính Dần, Bính Thìn, Ất đƣợc Đinh Dậu, Đinh Hợi; Canh thực Nhâm, Tân thực Quý, Nhâm
Quý quý ở Mão Tị, Canh đƣợc Nhâm Thân, Nhâm Tuất, Tân đƣợc Quý Mão, Quý Tị, nhƣ
các loại này gọi là Quý thực. Có Quý hợp thì quan nhiều vinh hiển, có Quý thực thì lộc nhiều
toại ý, kiêm cả ba thì quan cao lộc trọng.
《 Tam Mệnh đề yếu 》lấy Thiên Ất ở trên lục hợp Quý thần, nhƣ Giáp Mậu Canh ở Tý
Ngọ, thì Tý hợp Sửu, Ngọ hợp Mùi. Ất Kỷ ở Sửu Tị, Bính Đinh ở Dần Thìn, Nhâm Quý ở
Thân Tuất, Tân ở Mùi Hợi, đều chủ đại phúc, lấy ở trên gặp cả hai hợp lại càng quý.
《 Bảo Giám 》có Thiên Ất phù thân, lấy Quý nhân Giáp Củng ( vây quanh xen lẫn nhau)
Thái tuế, nhƣ ngƣời Nhâm Dần đƣợc ngày giờ Giáp Dần, Nhâm Quý ở Mão, Giáp Quý ở Sửu
giáp củng ở Dần, ngƣời Bính Thân đƣợc Mậu Thân chỗ này là chắc chắn. Nhập quý cách, đặc
biệt không có hình xung, chủ cả đời ít bệnh tật, thời niên thiếu hƣởng phúc; đƣợc thƣờng
cách cuối cùng cả đời không có tai nạn hình ngục.
Có can giáp ( kẹp) quý thần, nhƣ ngƣời Giáp Mậu Canh đƣợc Sửu Mùi, ở trên ngày giờ lại
mang một chữ Giáp Mậu Canh, chủ đặc biệt hiển danh khác thƣờng.
《 Chỉ Nam 》có kẹp quý phùng Lục hợp, nhƣ ngƣời Nhâm Quý thấy Thìn mà đƣợc Quý
Dậu hợp, ngƣời Bính Đinh thấy Tuất mà đƣợc Đinh Mão hợp, tất cả lấy trƣớc sau có Thiên ất
quý, thêm Lộc Mã đến thân, chủ đại phú quý.
Có Phúc tinh quý nhân, nhƣ một mệnh: Nhâm Tý, Quý Mão, Canh Tuất, Canh Thìn, là Nhâm
kỵ long bối; lại có quý ở Mão Tị, đƣợc Thìn là Phúc tinh phù Quý nhân vậy.
07-04-16, 10:48
lesoi
Luận Tam Kỳ

《 Lạc Lục tử 》nói: "Kỳ vi quý dã; kỳ giả, dị dã." Nói vật lấy quý là kỳ vậy. Ất Bính Đinh
70 | Tam mệnh thông hội

xuất ra ở can Đức quý nhân phối hợp với chi là tốt, âm quý Giáp Đức khởi ở Tý, thì Ất Đức ở
Sửu, Bính Đức ở Dần, Đinh Đức ở Mão, ba can nối liền mà không có ngăn cách. Âm quý
Giáp Đức khởi ở Thân, Ất ở Mùi, Bính ở Ngọ, Đinh ở Tị, cả ba vị nối liền mà không có ngăn
cách, lấy theo Quý nhân ở thiên can, cho nên nói: "Thiên thượng Tam Kỳ", thập can đặc biệt
chỉ có ở chỗ này, còn lại thì hoặc là tách ra ở La Võng, hoặc tách ra bởi Thiên Không, hoặc là
không đến, hoặc là không nối liền, thì không có thể lấy làm kỳ. 《 Ngọc Tiêu Bảo Giám》
nói: Cổ nhân lấy tháng giêng là bắt đầu một năm, Nhật xuất ra ở Ất, cho nên lấy Ất là Nhật
kỳ; Thọ Tinh thấy là may mắn, thấy ở ngôi Đinh, cho nên lấy Đinh là Tinh kỳ; mặt trăng
chiếu vào ban đêm, đến ngôi Bính mà sáng cả thiên hạ, cho nên lấy Bính là Nguyệt kỳ. Nếu
Giáp Mậu Canh cũng lấy Thiên thượng là Tam Kỳ, lấy Giáp Mậu Canh đều đến Sửu Mùi, hai
sao Đẩu và Ngƣu chính là nhà Quý nhân ở, xuất ra ở nơi sao Tỉnh và Quỷ, trƣớc sau Thiên
can khởi lấy quý mà ba can thích đến, cùng với can khác là khác nhau, lý cũng hiểu. 《 Tam
Xa Nhất Lãm》Lấy Giáp dƣơng mộc là ngƣời đứng đầu, Mậu là dƣơng thổ là vua, Canh là
tinh hoa của dƣơng kim, dƣới Địa có ba vật này là kỳ, Địa gọi là kỳ, thuyết này rất rõ ràng,
《 Thái Ất kinh 》lấy Tân Nhâm Quý là thủy , nhân gian gọi là Tam Kỳ, thuyết này là không
có căn cứ, nhƣng mà thiên can Tân Nhâm Quý nối liền, gọi là Tam Thai, cũng khó có đƣợc.
《Tử Hư cục 》lại nói thuyết Tứ kỳ. Nói đến Kỳ, Kỳ là số vậy, 4 pháp tính ( cộng, trừ, nhân,
chia) là số ngẫu nhiên vậy, gọi là Kỳ, đƣợc chăng? Tam Kỳ cần bố trí thuận, không nên đảo
nghịch, nhƣ Ất Bính Đinh, Giáp Mậu Canh, thiên can năm tháng ngày giờ bố trí thuận thì cát.
《 Quảng Lục》lại lấy ngày Ất tháng Bính giờ Đinh, là Ất sinh Bính Đinh, là hạ thấp tú khí,
chủ bình thƣờng. Nếu giờ Ất ngày Bính năm Đinh, là ở trên đạt tú khí, trái lại là Quý, hầu
nhƣ không luận thuận nghịch. Giáp Mậu Canh lại lấy thuận là quý, nghịch là phúc đến chậm,
hỗn loạn thì không thọ, khí thanh thì quý, khí trọc thì phú. Kinh nói: Ngũ hành đều có phép
tắc, cần phân ra thuận nghịch. Nếu tháng ngày đảo loạn, đƣợc thuận Tam Kỳ, cũng không gọi
là nghịch mệnh. Có Tam Kỳ, cần đắc thể, đắc địa, không thất thời. Nhƣ Ất Bính Đinh sinh
ban đêm, Giáp Mậu Canh sinh ban ngày, là đắc thể; Ất Bính Đinh trụ có Hợi, thì ba ánh sáng
có chỗ dựa vào, Giáp Mậu Canh trụ có Thân, thì ba vật có quê quán để nƣơng tựa; hoặc Ất
Bính Đinh đƣợc Sửu Dần Mão Mùi Ngọ Tị, Giáp Mậu Canh đƣợc Sửu Mùi kim, đều là đắc
địa. Tam Kỳ lại gặp tam hợp, nhƣ Ất Bính Đinh đƣợc kim thủy cục, Giáp Mậu Canh đƣợc
thủy hỏa cục. Lại gặp Lục Nghi, Giáp Tý tuần Mậu, Giáp Tuất tuần Kỷ, Giáp Thân tuần
Canh, Giáp Ngọ tuần Tân, Giáp Thìn tuần Nhâm, Giáp Dần tuần Quý, đều cát. 《Lạc Lục Tử
》nói: "Trọng phạm kỳ nghi, uẩn tạ bão xuất quần chi khí." ( Phạm nặng Kỳ Nghi, hàm chứa
khí hỗn loạn hợp lại sinh ra từng đàn)《 Độn Giáp 》nói: "Thuận bố Tam Kỳ, nghịch Lục
Nghi." ( Tam Kỳ sắp xếp thuận, còn Lục Nghi thì xếp nghịch). Nhƣ mệnh xuất ra ở hai tuần
Giáp Tý, Giáp Thân gặp Giáp Mậu Canh, là phạm nặng Kỳ Nghi vậy.
07-04-16, 10:49
lesoi
Phàm mệnh gặp Tam Kỳ, chủ là ngƣời có tinh thần khác thƣờng, tâm hồn lỗi lạc, ham thích
việc lớn, là nhà bác học, nhiều tài năng. Kèm theo Thiên Ất Quý thì sự nghiệp công lao hơn
ngƣời; mang Thiên Nguyệt nhị Đức thì không phạm hung tai. Kèm theo Lục Nghi thì tài trí
hơn ngƣời. Kèm theo tam hợp nhập cục thì là trụ cột của đất nƣớc, kèm theo Quan Phù Kiếp
Sát thì rất tài năng. Kèm theo Không Vong, sinh vƣợng thì thoát ra khỏi chốn phàm tục, phú
quý không nhiều; uy vũ bất khuất, gặp Nguyên Thần, Hàm trì, xung phá, Thiên La Địa Võng
thì thành vô dụng. Luận Tam Kỳ, không kèm theo Thái Tuế mà kèm theo tháng ngày giờ thì
cô độc.

Thơ nói:
"Thuận thần Thập can Ất Bính Đinh,
Thần đồng đỗ đạt thanh danh khắp;
71 | Tam mệnh thông hội

Nhật thời Lộc Mã công khanh sát,


Hoán vũ trừ văn tá thánh minh."
Lại nói:
"Thuận thần thập can Giáp Mậu Canh,
Kiêm đắc trường sinh bính phủ danh;
Nếu như không Lộc kiêm không Mã,
Chỉ là người tích góp giữ tài."
Lại nói:
"Tam Kỳ cần phải gặp nhiều quý,
Phương thị vinh hoa phúc thọ nhân;
Chích có đất Không Kỳ không quý,
Bần cùng hạ tiện bị khinh khi."
Lại nói:
"Ất Bính Đinh cùng Giáp Mậu Canh,
Trên cục tương sinh sinh lại sinh,
Không là bồng lai tam đảo khách,
Cũng ứng Kim điện ngọc giai hành."

Hợp nhiều bài thơ xem Tam Kỳ thì biết kỳ hỉ kỵ vậy.


07-04-16, 10:50
lesoi
Luận Thiên Nguyệt Đức

Nói về Đức, là nói cứu ngƣời lợi vật, dẹp hung lấy thiện vậy. Thiên Đức, nói vòng trời có 365
độ 25 phút rƣỡi, trừ 12 cung phân dã, mỗi cung đều chiếm 30 độ, tổng cộng 360 độ, còn lại 5
độ 25 phút rƣỡi, tản ra nhờ ở 12 cung Giáp, Canh, Bính, Nhâm, Ất, Tân, Đinh, Quý, Càn,
Khôn, Cấn, Tốn, gọi là Thần tàng Sát một. Mỗi cung đều đƣợc 44 phút, cho nên ở trong Tý
Ngọ Mão Dậu có Giáp Canh Bính Nhâm, ở trong Thìn Tuất Sửu Mùi có Ất Tân Đinh Quý,
trong Dần Thân Tị Hợi có Càn Khôn Cấn Tốn, 12 cung vị này, có thể hồi hung lấy thiện, viết
là Thiên Đức vậy. Nguyệt Đức, là chỗ phƣơng tam hợp chiếu, thần Nhật Nguyệt hội hợp,
Thân Tý Thìn hội còn Dậu xuất, Canh vào thành với Nhâm; Hợi Mão Mùi hội còn Càn xuất,
Bính vào thành với Giáp; Dần Ngọ Tuất hội Mão xuất, Giáp vào thành với Bính; Tị Dậu Sửu
hội Tý xuất, Nhâm vào thành với Canh, cho nên Nhâm Giáp Bính Quý gọi là Nguyệt Đức,
còn 4 tháng Thìn Tuất Sửu Mùi, Thiên Đức cũng giống nhƣ chỗ này. Bởi vì cung Nhật
Nguyệt lâm chiếu, phàm Thiên diệu Địa sát, hết có thể chế phục, cho nên có thể hồi hung lấy
cát.
Diêm Đông Tẩu nói:
Quý thần tại vị, chư sát phục tàng;
Nhị Đức phù trì, chúng hung giải tán.
Phàm trong mệnh mang hung sát, đƣợc chỗ Nhị Đức này phù hóa, hung không nhiều; cần
phải thấy ở trên ngày, trên giờ không phạm khắc xung hình phá, mới cát. Phàm ngƣời gặp, cả
đời an dật, không phạm hình, không gặp cƣớp, dẫu gặp hung họa, tự nhiên tiêu tán. Cùng
Tam Kỳ, Thiên Ất quý đồng hợp, rất là cát khánh. Hoặc có Tài Quan, Ấn thụ, Thực thần,
Biến Đức, đều tùy theo chỗ biến, phúc càng gấp đôi. Nhập quý cách, chủ đăng khoa giáp,
đƣợc nhận vua ân sủng; hoặc nhận tổ ấm, cũng có hiển đạt. Nhập tiện cách, cả đời no ấm,
phúc thọ lƣỡng toàn; dẫu có trì trệ, cũng có kiên cố thủ phận, không mất làm quân tử. Nữ
mệnh gặp, đa số làm vợ quý nhân. 《 Tam Mệnh Linh 》 nói: Thiên Đức, là thần ngũ hành
phúc đức, nếu ngƣời gặp, chủ đăng địa vị chứ cao, lại có cùng Nguyệt Đức, càng tốt; dẫu có
72 | Tam mệnh thông hội

hung sát, cũng chủ thanh hiển. 《 Tử Bình phú 》 nói: "Ấn thụ đƣợc cùng Thiên Đức, Quan
hình không phạm, đến già không tài" . Là Thiên Đức hơn Nguyệt Đức vậy.
07-04-16, 10:51
lesoi
Khảo sát lịch Đại Thống, có Thiên Nguyệt Đức Hợp, là thần ngũ hành hợp nhau. Nguyệt bị
hợp, nhƣ tháng giêng Bính và Tân hợp, tháng 2 Giáp và Kỷ hợp, tháng 3 Nhâm và Đinh hợp,
tháng 4 Canh và Ất hợp, còn lại chiếu theo chỗ này. Thiên Đức Hợp, nhƣ tháng giêng Đinh
và Nhâm hợp, tháng 2 Khôn và Tốn hợp, tháng 3 Nhâm và Đinh hợp, tháng 4 Tân và Bính
hợp, còn lại chiếu theo chỗ này.
Có Nguyệt Không, nhƣ tháng Dần Ngọ Tuất gặp Nhâm, tháng Hợi Mão Mùi gặp Canh, tháng
Thân Tý Thìn gặp Bính, tháng Tị Dậu Sửu gặp Giáp.
Có Nguyệt Yếm, tháng giêng Tuất, tháng 2 Dậu, tháng 3 Thân, tháng 4 Mùi, tháng 5 Ngọ,
tháng 6 Tị, tháng 7 Thìn, tháng 8 Mão, tháng 9 Dần, tháng 10 Sửu, tháng 11 Tý, tháng 12
Hợi.
Có Nguyệt Sát, tháng Dần Ngọ Tuất kiến Sửu, tháng Hợi Mão Mùi kiến Tuất, tháng Thân Tý
Thìn kiến Mùi, tháng Tị Dậu Sửu kiến Thìn.
Có Thiên Xá nhật, xuân Mậu Dần, hạ Giáp Ngọ, thu Mậu Thân, đông Giáp Tý, là chuyên khí
bốn mùa, sinh dƣỡng vạn vật, tha tội đặc xá bỏ qua. Nhƣ nhân mệnh tụ một tháng Đức Tú
hợp Không cùng giờ sinh tứ đại cát, lại gặp ngày Thiên Xá, càng tốt.
Ngoài chỗ này còn có Thiên Hỉ thần, xuân kiến Tuất, hạ kiến Sửu, thu kiến Thìn, đông kiến
Mùi, gặp là chủ hân hoan vui vẻ.
Có Tinh Đức Sát, nhƣ Dần Ngọ Tuất, ngày giờ kiến Bính; Hợi Mão Mùi, ngày giờ kiến Giáp;
Thân Tý Thìn, ngày giờ kiến Nhâm; Tị Dậu Sửu, ngày giờ kiến Canh.
Có Tinh Việt Sát, nhƣ Dần Ngọ Tuất, kiến giờ Dần; Hợi Mão Mùi, kiến giờ Hợi; Thân Tý
Thìn, kiến giờ Thân; Tị Dậu Sửu, giờ Tị. Lại nói, Dần Ngọ Tuất kiến Tân, Hợi Mão Mùi kiến
Kỷ, Thân Tý Thìn kiến Đinh, Tị Dậu Sửu kiến Ất, cũng gọi là Tinh Đức. Kinh nói: "Một thần
chủ Tinh Đức, 5 đời không bần cùng; bên trong có Tinh Việt Sát, cập tƣớng cùng Tam
Công." Đức Việt tƣơng hội, không quý cũng phú.
Lại có một loại Tinh Việt Sát, ngƣời Dần Mão Thìn kiến Quý Dậu, ngƣời Tị Ngọ Mùi kiến
Quý Mão, ngƣời Thân Dậu Tuất kiến Mậu Tý, ngƣời Hợi Tý Sửu kiến Mậu Ngọ, là thần bốn
mùa chuyên chủ sát hại, ngƣời thƣờng chủ đồ phối; khắc bản mệnh, chủ ác tử.
Lại có một loại Tam Công Sát, ngƣời Dần Ngọ Tuất kiến Nhâm Tý, ngƣời Tị Dậu Sửu kiến
Bính Ngọ, ngƣời Thân Tý Thìn kiến Ất Mão, ngƣời Hợi Mão Mùi kiến Tân Dậu, là tọa bốn
phƣơng chuyên khí đến khắc năm sinh, là ngũ hành độc khí, ngƣời thƣờng phạm, chủ chết ác
tử. Nếu Tinh Việt lại cùng Tam Công sát hội đồng một vị, chủ rất quý. Nay đàm mệnh chỉ
luận Nguyệt Đức còn nhiều Sát khác không luận, đủ biết là thiên kiến, là không đủ.
07-04-16, 10:52
lesoi
Luận Thái Cực quý

Thái Cực, là Thái Sơ vậy, là bắt đầu vậy, vật tạo ở ban đầu gọi là Thái Cực, là thành, là thu
vậy, vật có chỗ quy về viết là Cực. Tạo hóa giữ gìn thủy chung cho nhau, chính là viết Thái
Cực quý vậy. Giáp Ất mộc trƣớc tiên tạo ở hạt giống, Khảm thủy trợ giúp mà Sinh, sau cuối
cùng ở Ngọ, Ly hỏa đốt mà Tử. Bính Đinh hỏa trƣớc tiên hỉ xuất ở Chấn, là Mão vậy, sau đó
hỉ tàng ở Đoài, là Dậu vậy. Canh Tân kim đƣợc Dần, là kim sinh ở Cấn, thấy Hợi là miếu của
kim ở Càn. Nhâm Quý thủy trƣớc tiên đƣợc thì sinh, sau đƣợc Tị mà nạp. Kinh viết: "Địa
hãm đông nam, tứ độc đều lưu ở vị trí Tốn, ý là đều có thủy có chung." Mậu Kỷ, là thổ vậy,
hỉ sinh ở Thân, đƣợc Thìn Tuất Sửu Mùi là chính khố. 《 Lý Ngu ca 》 nói: "Tứ khố đủ thời
73 | Tam mệnh thông hội

là rất quý, vị ban thượng liệt cư quyền hành." Nhân mệnh nhập cách, thêm có phúc khí quý
thần phù trợ, sao không có đẹp?
Có Văn Xƣơng quý, Giáp Ất Xà khẩu Ất Trƣ đầu, Bính Cẩu Đinh Long Mậu hƣớng Hầu; Kỷ
Ngọ Canh Dần Tân Mùi quý, Lục Nhâm nơi Mão Quý phùng Ngƣu.
Có Văn Dự quý, nhƣ ngƣời Giáp Tý thấy Nhâm Tuất, Bính Dần, trƣớc lộc sau lộc một thần,
tất làm công khanh quan thế nhân; lập tính thiên thông danh dự bá, phú quý vinh hoa sự
nghiệp tân.
Có Văn Tinh quý, Giáp Mã Ất Xà Bính Mậu Hầu, Dậu thai Đinh Kỷ Hợi Tân cầu; Canh
phùng Tuất Cẩu phùng Hổ, thập vị Văn Tinh Quý Thỏ du.
Có Thiên Ấn quý, Giáp Tý ở trong Dần, Ất phùng Hợi cũng vậy; Đinh Dậu chỗ Mậu Thân,
Bính Tuất Kỷ dƣơng cung; Canh Tân Mã Xà túc, Quý Mão cùng Nhâm Long; chỗ này hiệu
Thiên Ấn quý, vinh đạt nhận Hoàng phong.
07-04-16, 10:52
lesoi
Luận Học Đường Từ Quán

Nói Học Đƣờng, nhƣ ngƣời đi học ở học đƣờng; Từ Quán, nhƣ kim quan hàn lâm, gọi là Từ
Quán, thủ tinh chuyên học nghiệp, văn chƣơng xuất sắc. Trƣờng sinh chính là chính vị Học
Đường, nhƣ mệnh kim thấy Tân Tị, kim trƣờng sinh ở Tị; Tân Tị, nạp âm lại thuộc là kim
vậy. Lâm quan chính là chính vị Từ Quán, nhƣ mệnh kim thấy Nhâm Thân, Kim lâm quan ở
Thân; Nhâm Thân, nạp âm lại là thuộc kim vậy. Còn lại cứ theo chỗ này mà suy.
Có nhiều thuyết: Có Học Đƣờng hội Lộc, nhƣ kim trƣờng sinh ở Tị, lâm quan ở Thân, ngƣời
Giáp Ất là đƣợc; thủy thổ trƣờng sinh ở Thân, lâm quan ở Hợi, ngƣời Bính Đinh Nhâm Quý
đƣợc; mộc trƣờng sinh Hợi, lâm quan Dần, ngƣời Mậu Kỷ là đƣợc; hỏa trƣờng sinh Dần, lâm
quan Tị, ngƣời Canh Tân là đƣợc. Có có tên Quan quý Học Đƣờng, lấy Quan quý ở vị trí
trƣờng sinh là Học Đƣờng, Quan quý ở vị trí lâm quan là Từ Quán vậy.
Có Học Đƣờng hội Thực, nhƣ Giáp Thực Bính, đƣợc Bính Dần; Ất Thực Đinh, đƣợc Đinh
Tị; Bính Thực Mậu, đƣợc Mậu Thân. Kiêm Quan Ấn, Dịch Mã, thì phúc dầy; gặp Lộc, Quý,
Kỳ, Đức, là khí thanh; gặp hình khắc xung phá, là khí trọc. Thanh thì khoa danh uy chấn, dầy
thì quan tôn vinh hiển, trọc thì phúc lộc là bạc, quan chức ti tiện.
Có xứ sinh thấy khắc, nhƣ ngƣời Giáp Ất thấy Tân Hợi, ngƣời Đinh Bính thấy Nhâm Dần,
ngƣời Mậu Kỷ thấy Giáp Thân, ngƣời Canh Tân thấy Đinh Tị, gọi là Quan tinh Học Đƣờng.
Chủ đăng khoa giáp, nhập là theo.
Có nạp âm thấy vị trí đế vƣợng mà gặp trên xứ Thiên Ất quý, nhƣ ngƣời Kỷ Dậu đƣợc ngày
giờ Bính Tý, Canh Tý; ngƣời Nhâm Ngọ đƣợc ngày giờ Tân Mão, gọi là Học Đƣờng hội
Quý, chủ thanh quý.
Phàm Học Đƣờng Từ Quán, không nên phạm Không Vong cùng xung phá, can chi nạp âm
không nên thấy khắc, mới là đắc dụng. 《 Chúc Thần kinh 》 nói: "Giáp Thìn Bính Dần, Học
Đƣờng không chân; hoặc chỉ là phú ấm, quan chức thấp bần; đọc sách cứ đọc, có Không là
hƣ danh." Lời này nói Học Đƣờng sợ lạc Không vong vậy. 《 Tam Xa 》 nói: "Học Đƣờng
vô khí, chỉ lợi thầy nho." Lời này nói Học Đƣờng phải cƣỡi khí vƣợng vậy. 《 Lý Ngu ca 》
nói: "Học Đƣờng giống nhƣ thêm hƣớng Dịch Mã, địa vị cực cao áp đảo thiên hạ." Lời này
nói Học Đƣờng phải có Mã vậy. Lại nói: "Sinh ra Lộc Mã chân Học Đƣờng, nếu cùng Từ
Quán chủ văn chƣơng; gặp đƣợc không gặp ngƣời nào hội, không gặp xung khắc phúc lộc
xƣơng." Lại nói: "Văn tinh tụ xứ ngƣời gặp may, hoa thanh đội mũ là anh hùng; giáng sinh
không gặp chân Học Đƣờng, tài học sao có là xuất chúng." Lời này nói Học Đƣờng sợ xung
phá thụ khắc vậy. Huống chi nhân mệnh nhập cách, hợp với tạo hóa, lại không ở mà đƣợc
Học Đƣờng Từ Quán.
07-04-16, 10:53
74 | Tam mệnh thông hội

lesoi
Luận Chính Ấn

Chính Ấn, là chính khố của ngũ hành, mệnh kim kiến Ất Sửu, mộc Quý Mùi, hoả Giáp Tuất,
thủy thổ Nhâm Thìn, Bính Thìn là vậy. 《 Ngôn Đàm 》 nói: "Sinh phùng Chính Ấn, tất bái
Ngọc đường." 《 Diệu Tuyển 》 nói: "Ngũ hành nhập Viên, quan cư ngũ phủ." Có thể thấy
Bản mệnh đƣợc Chính Ấn là quý. Bản Chủ cùng đức là Thƣợng, Đế Tọa là Trung, Thai
nguyệt là Hạ. Chủ ngƣời trọng hậu khôi ngô, có đƣợc công danh. Ấn Bản gia lại gặp quý
cách phù trợ, càng hay. Nếu mộc đƣợc nhiều thủy Ấn, hỏa đƣợc mộc Ấn, phần đa là kiêm
nhiều quyền lợi khác. Nếu thân khắc Ấn, hoặc Ấn khắc thân, phế mà phục hƣng. Nếu ngƣời
thủy đƣợc hỏa Ấn, ngƣời hỏa mang nhiều thủy Ấn, kém hơn Ấn Bản gia, nhƣng Bản Chủ cần
phải có vƣợng khí, mới cát. Nếu khắc phá không còn phúc cứu, hoặc là Không Vong, chỉ làm
tăng đạo thanh nhàn, không thành cử nhân. Nếu ngũ hành có thanh khí, là tuyệt thế cao nhân;
có Sát thì bần tiện.
Có Quý nhân kẹp Ấn, nhƣ mệnh Bính Đinh hỏa lấy Giáp Tuất là Chính Ấn, nhƣng đƣợc Dậu
Hợi kẹp lẫn hai bên, Dậu Hợi chính là Quý nhân Bính Đinh; mệnh Nhâm Quý thủy lấy Nhâm
Thìn là Chính Ấn, lại đƣợc Mão Tị kẹp giữa, Mão Tị chính là Quý nhân Nhâm Quý.
Có Hoa Cái Ấn, nhƣ Hợi Mão Mùi đƣợc loại Quý Mùi.
Có Văn chương Ấn, nhƣ Mậu Dần kiến Quý Mùi, Tân Tị kiến Giáp Tuất, Canh Thân kiến Ất
Sửu, Quý Hợi kiến Bính Thìn, Ất Hợi kiến Nhâm Thìn, chính là nạp âm khắc thân, can thần
phục chế. Mậu Ngọ đƣợc Quý Mùi, Canh Tý đƣợc Ất Sửu, Đinh Dậu đƣợc Nhâm Thìn, Kỷ
Mão đƣợc Giáp Tuất, Tân Dậu đƣợc Bính Thìn, can thần chế thần hợp.
Chƣ Ấn phải gặp mộ khố, nếu hỗ hoán sinh vƣợng phù trợ, Lộc Mã Quý nhân cùng tƣơng
hợp, là mệnh rất quý. Tối kỵ hình xung phá hại, trên tam hợp lục hợp thấy Quỷ, nhƣ ngày
Giáp Thìn gặp giờ Quý Dậu, thì giảm lực. Ngƣời mệnh thủy đƣợc Ấn Bản gia là vô ích; đƣợc
mộc Ấn tổn khí; đƣợc thổ Ấn, can chi có quan hệ, danh là Quan Ấn; không có quan hệ, danh
là Quỷ Ấn.
Lại có Phúc tụ Ấn, nhƣ năm, tháng, ngày, giờ, Thai 5 vị đều suy bại vô khí, đƣợc Chính Ấn
Thiên Ấn đều ở chỗ này, trên Ấn hoặc là khố hoặc là vƣợng, tuy có Sát thần, đến là bị chế,
chỗ này gọi là Phúc tụ Ấn.
Có Họa tụ Ấn, nhƣ ngƣời Quý Tị mang Nhâm Thìn là Ấn, trụ gặp nhiều thủy, đều mộ ở
Thìn, thì Quý Tị bị Sát; lấy Tị là mệnh, Tị hỏa gặp nhiều thì bản mệnh bệnh, chỗ này gọi là
Họa tụ Ấn.
Có Phá phúc thành Họa Ấn, nhƣ ngƣời thủy đƣợc nhiều Thủy Ấn, hoặc tháng ngày giờ lại
mang nhiều thổ, Ấn bản gia thấy Quỷ thịnh, thì gọi là Phá phúc thành họa.
Có Mang Sát Ấn, trong Ấn thấy quý Sát, nhƣ Nhâm Tý thấy Nhâm Thìn, Bính Thìn, Tý đến
vị trí Thìn là Hoa Cái, ngƣời Nhâm thấy Thìn là quý. Nếu trong Ấn lại khắc Bản mệnh,
không có Phúc thần qua lại, danh là Đái Sát, chủ hung.
Có Lâm Không Ấn, chính là Ấn lạc Không Vong, chi không có lục hợp, kiến Quan quý, là
rất bần tiện vậy.
Có Ấn tự Hình, nhƣ ngƣời Canh Tuất mang Ất Sửu, ngƣời kim thấy Kim Ấn cho nên tốt,
Sửu Tuất tƣơng hình, lấy kim hình kim, loại này thà là không có. Tuy có ít phúc, cuối cùng
cũng tiện. Còn lại cái khác cứ loại suy mà biết.
Phàm luận Ấn, có thêm chân ngũ hành cùng nạp âm đồng khí, càng vi diệu. Nhƣng chủ ít an
ổn, bất lợi lục thân, làm khó con cháu.
07-04-16, 10:54
lesoi
Luận Đức Tú
75 | Tam mệnh thông hội

Nói Đức, Đức vốn ở tháng sinh vƣợng; Tú, là hợp khí thiên địa trung hòa, ngũ hành biến hóa
mà thành vậy. Lại viết: Đức, là thần âm dƣơng giải hung; Tú, là khí thiên địa thanh tú, bốn
mùa thần nắm vƣợng. Cho nên tháng Dần Ngọ Tuất, Bính Đinh là Đức, Mậu Quý là Tú.
Tháng Thân Tý Thìn, Nhâm Quý Mậu Kỷ là Đức, Bính Tân Giáp Kỷ là Tú. Tháng Tị Dậu
Sửu, Canh Tân là Đức, Ất Canh là Tú. Tháng Hợi Mão Mùi, Giáp Ất là Đức, Đinh Nhâm là
Tú. Phàm nhân mệnh gặp chỗ Đức Tú này, không có phá xung áp khắc, bẩm tính thông minh,
ôn hậu hòa khí. Nếu gặp Học Đƣờng, lại mang Tài Quan, chủ quý. Xung khắc thì giảm lực.

Luận Kiếp Sát Vong Thần

Kiếp, là cƣớp đoạt vậy, cƣớp đoạt từ bên ngoài gọi là Đoạt; Vong, là mất vậy, là mất từ bên
trog gọi là Vong. Kiếp ở xứ ngũ hành tuyệt, Vong ở xứ ngũ hành lâm quan, đều thuộc Dần
Thân Tị Hợi.
+ Thủy tuyệt ở Tị, Thân Tý Thìn lấy Tị là Kiếp Sát, Mậu thổ ở trong Tị, đoạt thủy vậy.
+ Hỏa tuyệt ở Hợi, Dần Ngọ Tuất lấy Hợi là Kiếp Sát, Nhâm thủy ở trong Hợi, đoạt hỏa vậy.
+ Kim tuyệt ở Dần, Tị Dậu Sửu lấy Dần là Kiếp Sát, Bính hỏa ở trong Dần, đoạt kim vậy.
+ Mộc tuyệt ở Thân, Hợi Mão Mùi lấy Thân là Kiếp Sát, Canh kim ở trong Thân, đoạt mộc
vậy.
07-04-16, 10:55
lesoi
Cổ ca nói:
"Kiếp Sát là họa không thể đương,
Uổng công bôn tẩu đường danh lợi;
Đề phòng tổ nghiệp tiêu vong hết,
Làm sao vợ con được lâu dài."
Lại nói:
"Tứ vị phùng sinh lại đến Kiếp,
Đương triều chấn nghiệp khoe nho khôi;
Nếu kiêm Quan quý ở thời thượng,
Chính trực danh ghi đài Ngự Sử."
Lại nói:
"Kiếp thần bao vây gặp Quan tinh,
Chấp chủ binh quyền trợ thánh minh;
Không giận mà uy người ngưỡng mộ,
Đợi lệnh phồn hoa tất an vinh."
Lại nói:
"Kiếp Sát nguyên lai là Sát Khôi,
Thân cung mệnh chủ không cần tới;
Nếu là Khôi cục là ứng tử,
Sát diệu lâm tới không cần đoán.
Nếu tinh này không ở đây,
Lại ở tam hợp tử tế suy;
Thiên bàn được đến cộng hung tinh,
Mệnh tự phong đăng không lâu tồi."

+ Thủy sinh mộc, Thân Tý Thìn lấy Hợi là Vong Thần, Giáp mộc ở trong Hợi, là tiết thủy
vậy.
76 | Tam mệnh thông hội

+ Hỏa sinh thổ, Dần Ngọ Tuất lấy Tị là Vong thần, Mậu thổ ở trong Tị, là tiết hỏa vậy.
+ Kim sinh thủy, Tị Dậu Sửu lấy Thân là Vong thần, Nhâm thủy ở trong Thân, tiết kim vậy.
+ Mộc sinh hỏa, Hợi Mão Mùi lấy Dần là Vong Thần, Bính hỏa ở trong Dần, tiết mộc vậy.
Cổ ca nói:
"Vong thần Thất Sát họa không khinh,
Dụng hết mưu cơ một không bất thành;
Khắc tử hình thê không tổ nghiệp,
Kẻ sĩ vẫn sợ có hư danh."
Lại nói:
"Mệnh cung nếu cũng gặp Vong thần,
Cần là trường sinh gặp Quý nhân;
Ngày giờ lại thêm Thiên Địa hợp,
Cung không trục trặc làm vương thần."
Lại nói:
"Đều nói Thất Sát là Vong Thần,
Chớ nói Vong thần họa không nhẹ;
Thân Mệnh nếu còn cư đất này,
Bần cùng trì trệ qua cả đời.
Hung tinh ác diệu như lâm đến,
Đại hạn hồn như bước trên băng;
Tam hợp lại cần khảo sát kĩ,
Sát đến giáp củng tất khó đi."
07-04-16, 10:56
lesoi
Luận Dương Nhận

《 Tam Xa 》nói: "Dương nói là Cương vậy, Nhận nghĩa là lấy xe xác vậy." Vƣợt qua Lộc
thì sinh Nhận; thành công thì cần phải lui, không lui thì sẽ phải vƣợt qua, phần vƣợt qua nhƣ
dƣơng ở Nhận, nói là bị tổn thƣơng vậy. Cho nên Dƣơng Nhận thƣờng ở trƣớc Lộc một thần.
Hi Di nói: "Lý Âm Dương vạn vật, đều nắm quyền thịnh.". Giống nhƣ vật ở cực điểm, chỗ
hỏa thì cháy khét, thủy ngập thì vọt ra, kim kiệt thì gãy, thổ thiếu thì đổ sập, mộc bị rách thì
bị gãy đổ, cho nên chỗ thành thì chƣa cực, thì là phúc, lấy cực thì trái lại là thành hung. Đất
cực thịnh, ở thập can chính là nơi này vậy. Mão, Giáp là chính vị, là cực điểm của dƣơng
mộc; Thìn, Ất là chính vị, là cực điểm của âm mộc; Ngọ, Bính là chính vị, là cực điểm của
dƣơng hỏa; Mùi, Đinh là chính vị, là cực điểm của âm hỏa; Dậu, Canh là chính vị, là cực
điểm dƣơng kim; Tuất, Tân là chính vị, là cực điểm của âm kim; Tý, Nhâm là chính vị, là
cực điểm của dƣơng thủy; Sửu, Quý là chính vị, là cực điểm của âm thủy. Lấy nơi cực điểm,
là kỳ khí cƣơng kiện tàn nhẫn khôn cùng, cho nên trƣớc Lộc một thần là Tân Nhận, Đối xung
là Phi Nhận. Đã thịnh mà không cực, thì ôn nhu hòa sƣớng, cho nên sau Nhận một thần là
Lộc vậy. Hồ Trung Tử nói: "Phàm người có Lộc, tất có Nhận để bảo vệ, nghĩa là như
vậy."《 Nhất Hành Mệnh thư 》 nói: "Dương Nhận trùng trùng lại Kiến Lộc, phú quý đầy
vàng ngọc."《 Động Huyền kinh 》 nói: "Quan, Ấn tương trợ phúc tương tư.". Nói Dƣơng
Nhận mang Lộc, lại có Quan, Ấn sinh cho nhau, càng lấy cát luận. Nhƣ chuyên Dƣơng Nhận,
chủ mắt lộ mà tính tình nóng nảy, hung bạo hại vật, thân gần với bè đảng hung ác, sinh
vƣợng thì có thể đƣợc, còn tử tuyệt lại càng nặng. Ở ngũ hành gặp bại địa, nhiều tai họa bệnh
về mụn nhọt hoặc mụn nhọt ác tính, tai nạn về đao kiếm, không luận quý tiện, nhiều chuyện
rắc rối hỗn tạp làm phiền bức bách, ít đƣợc yên ổn. 《 Thái Ất kinh 》nói: "Người sinh Lục
Giáp gặp Ất Mão, Đinh Mão, là chân Dương Nhận. Nếu phạm nặng thì chủ tàn tật, giảm
mất Quan lộc thì rơi rụng lúc về già. Ngoài ra Mão là Thiên Nhận, thì nhẹ"
77 | Tam mệnh thông hội

《 Quảng Tín tập 》nói có Nhận đầu Tài, nhƣ ngƣời Giáp thấy Kỷ Mão các loại, gọi là Tiêu
sát. Chủ tài bạch mất hết, thƣờng nhân lấy con đƣờng giết mỗ, bán dao, cƣa làm sự nghiệp,
hoặc làm kẻ cƣớp giật giết ngƣời.
Có Nhận đầu Quỷ, nhƣ ngƣời Giáp thấy Tân Mão các loại, gọi là Trì Nhận Sát, chủ nhân
cuối cùng là không tốt, tuy là nhập quý cách, cũng không thể lƣờng. ngƣời sinh Giáp Ất thấy
càng khẩn. Chủ gặp đầu não nhiều mụn nhọt phát ra mà cuối cùng là mất.
07-04-16, 10:57
lesoi
《 Kim Thư mệnh quyết 》có viết Dƣơng Nhận cùng Thực, nhƣ các loại Giáp Dần hổ, thỏ,
Giáp Mậu cẩu thỏ, chỗ thấy Thực ở năm tháng thì hơi thành, ngày giờ gặp là nguy. Nếu thấy
cả hai đều nặng, lại gặp Không Vong, giả nhƣ không tƣơng thực, cũng phạm kết hôn lƣu đến
già, cuối cùng là không tốt.
Lại có Liên Châu Nhận, nhƣ Canh Tuất, Tân Dậu, Mậu Ngọ, Kỷ Mùi, Bính Ngọ, Đinh Mùi,
Giáp Thìn, Ất Mão, Nhâm Tý, Quý Sửu, đều là hung tƣợng vậy. Kim khẩn mộc chậm chạp,
nữ mệnh phạm định là khắc phu hại tử, không trinh khiết. 《 Lý Ngu ca 》nói: "Đảo Huyền
Dương Nhận lại đồng hành, hình hài khó miễn lấp khe rãnh.". Lại nói: "Phi Nhận Đảo Qua
là thông minh, tiểu nhân gặp đây liền có tai; Tiệt lộ Không vong cùng tương kiến, thân này
an đắc xuất trần ai." Lại nói: "Dương nhận lại kiêm Đảo Qua, tất làm quỷ không đầu." Nói là
Dƣơng Nhận mang nhiều Ác sát càng hung.
Phàm hành vận ngƣời, rất sợ Dƣơng Nhận, chủ lấy sự việc trì trệ, đều không có Sĩ Nông
Thƣơng chỗ này.
Kinh nói: Vận hành Dƣơng Nhận, tài vật hao tán. Là chỗ này vậy.
《 Ngọc Tiêu bảo lãm 》 Có Lãm bí rừng thanh (kéo dây cƣơng ngựa) làm sáng tỏ cách, gọi
là Quý nhân cƣỡi Mã mà trƣớc là Dƣơng Nhận, ý nghĩa nhƣ Mã Đầu Đái Kiếm. Nhƣ lệnh
ngƣời Canh Ngọ đƣợc Ất Dậu hoặc ngày giờ Kỷ Dậu mang Giáp Thân là nhập cách. Ngọ Mã
ở Thân, Canh lộc ở Thân, Ất Tị quý ở Thân, Canh Dƣơng Nhận ở Dậu, lại Ất Tị quý nhân lấy
Giáp Thân là Dịch Mã mà trƣớc là Dƣơng Nhận, cho nên nói Lãm bí rừng thanh. Cách này
phần đa là quan thanh liêm nghiêm túc. Nếu lại có Cát loại, phần đa là quan ác, có thể chế kẻ
gian tà, hiểm ác. Tử Bình lấy Giáp Bính Mậu Canh Nhâm ngũ dương can có Nhận, Ất
Đinh Kỷ Tân Quý ngũ âm can không có Nhận, duy chỉ thấy Thƣơng Quan cùng Dƣơng
Nhận tai họa giống nhau, dƣơng là chỉ âm dƣơng, không phải dƣơng là trâu, dê. Nghĩa thấy ở
trong luận Dƣơng Nhận cách.
07-04-16, 10:58
lesoi
Luận Không Vong

Không đối xứng với Thực ( Đầy), Vong (mất) đối xứng với Hữu ( có).

《Thần Bạch Kinh 》nói:


"Không vong Không Vong bao nhiêu loại,
Thập can không đến lấy Không xem"
《 Động Huyền kinh 》nói:
" Độn cùng mà sinh Vong"
Cho nên lấy hết chỗ một Tuần Giáp viết là Không Vong, bởi vì là có vị trí không có lộc, viết
là Không; có chi mà không có can, viết là Vong. Nhƣ độn Giáp Tý đến Dậu là đủ Thập Can,
do đó không có Tuất Hợi, trƣờng hợp thấy 5 can còn lại, đúng là Không Vong. Nhƣng Không
mà có Thực, Vong (mất) mà có Tồn (còn), cho nên không thể liền lấy hung mà luận.
《Lạc Lục Tử 》 luận Không Vong nói: Lệnh Ngũ dƣơng dụng Nhất Dƣơng, lệnh Ngũ Âm
78 | Tam mệnh thông hội

dụng Nhất Âm. Ví dụ nhƣ Giáp Tý, Bính Dần, Mậu Thìn, Canh Ngọ, Nhâm Thân thì dụng
Tuất mà không dụng Hợi; Ất Sửu, Đinh Mão, Kỷ Tị, Tân Mùi, Quý Dậu thì dụng Hợi mà
không dụng Tuất. Dƣơng phân ra 5 dƣơng, âm phân ra 5 âm.
Lại nói: Giáp Tí đến Mậu Thìn, lấy Tuất là Không Vong; Kỷ Tị đến Quý Dậu, lấy Hợi là
Không Vong, phân ra trên dƣới 5 năm. Trong đó lại phân ra Giáp Tý đến Mậu Thìn, thấy
Nhâm Tuất là nặng, thấy Mậu Tuất là nhẹ; Kỷ Tị đến Quý Dậu, thấy Quý Hợi là nặng, thấy
Ất Hợi là nhẹ. Nhƣ Giáp Tý sinh giờ Giáp Tuất, thấy đúng giờ này, là hơi nhẹ; nhƣ sinh Kỷ
Tị giờ Quý Hợi, phạm trong giờ này, rất nặng.
《 Chỉ Mê phú 》nói:
"Lộc nhập không vong, tất phân tiền hậu chi thần, sở dĩ biểu âm dương chi phân, minh khinh
trọng chi đẳng dã."
Tạm dịch: "Lộc nhập Không Vong, tất phân ra thần trƣớc sau, cho nên biểu phân chia âm
dƣơng, thấy rõ các loại khinh trọng vậy" .
《 Bát tự Kim thư 》nói: "Tuần Giáp Dần, Nhâm Quý lạc Không Vong; tuần Giáp Thìn,
Giáp Ất lạc Không Vong; tuần Giáp Thân, Bính Đinh lạc Không Vong; tuần Giáp Tuất, Canh
Tân lạc Không Vong." Lấy hai vị trí địa chi mà luận thiên can, hoặc gọi là Thập Ác Đại Bại.
Ngày sinh phạm chỗ này chủ bần tiện.
Phàm mang Sát này, sinh vƣợng thì khí độ khoan dung, động gây ra hƣ danh, lớn lên mập
béo, đa số phúc là vô tình bất ngờ; gặp tử tuyệt thì cả đời thành bại phiêu bạt, nếu ở đất của ta
có khí, thì không thể là họa. Đại kỵ can chi cùng Thiên Trung tƣơng hợp, gọi là Tiểu nhân
đắc vị, thì gian trá quỷ quyệt, không có chỗ nào là không làm. Nếu là chỗ ta khắc, gọi là
Thiên Trung phì ương, trái lại là phúc rất đặc biệt ( Nguyên chú: nhƣ ngƣời Mậu Ngọ hỏa
thấy loại Giáp Tý kim). Thần tính luôn thay đổi, cùng hợp với Quan Phù thì là ngƣời nhiều
lời nịnh hót; hợp cùng với Kiếp Sát thì giảo hoạt, gan dạ; hợp cùng với Vong Thần thì phiêu
bồng; hợp cùng với Đại Hao (Nguyên Thần) thì đột nhiên điên đảo; hợp cùng với Kiến Lộc
thì cả đời phá tán; hợp cùng với Hàm Trì, Lục Hại thì gặp nhiều hung bạo; duy chỉ có hợp
cùng với Giáp (kẹp) Quý, Hoa Cái, Tam Kỳ, Học Đƣờng thì là ngƣời rất thông minh, thoát
tục.
Nói đến Không Vong không nói Thái Tuế (năm), thấy bốn ngày sinh trong tuần Không Vong,
là rất cấp thiết. Nếu Thái tuế cùng ngày Hỗ hoán Không Vong, càng không tốt. Lấy Thực
(đầy) là Không, thì Thực có thể chiếu Không; lấy Không là Không, không có chỗ chiếu Thực,
cho nên mang Hỗ hoán Không Vong thì họa rất nặng. Ví dụ nhƣ năm Giáp Tý, tháng Nhâm
Tuất, thì Giáp Tý đúng Không Vong ở Nhâm Tuất, mà Nhâm Tuất là trong tuần Giáp Dần,
trong tuần Giáp Dần có Không vong phục ở Tý, chủ cả đời tài vật hao tán, đại phá gia trạch.
Còn lại theo cách này mà suy ra.
Nếu ngày giờ hỗ hoán, giờ thì gấp mà ngày thì chậm. Nếu ngày phạm mà giờ lại có hình
xung phá hại; giờ phạm mà ngày lại có hình xung phá hại, cũng chủ có phúc, không khỏi gặp
cảnh lận đận.
07-04-16, 11:00
lesoi
Lại nói: Thiên Trung nhất Sát, không thể hoàn toàn lấy hung mà nói, nhƣ trong trụ có ác thần,
đất ác Sát tụ họa, đều cần Không Vong giải cứu; có Không Vong không nên thấy hợp, hợp thì
không thể là Không vậy. Nếu Lộc Mã Tài Quan khí tụ phúc, hoàn toàn sợ Không Vong loại
trừ; có Không Vong lại hỉ thấy hợp, hợp thì không thể là Không. Nếu không có xung, không
có hợp, không có hình, gọi là chân Không Vong. Tứ Mạnh rất độc, chỉ dùng tiểu kỹ xảo mà
cầu ngƣời.
Lại nhƣ, tuần Giáp Tý thủy thổ, tuần Giáp Tuất kim, tuần Giáp Thân hỏa thổ, tuần Giáp Ngọ
hỏa thổ, tuần Giáp Thìn mộc, tuần Giáp Dần thủy thổ, là chân Không Vong.
Lại nói: “Hưởng chi hữu thanh, mạc phi hư trung dã.” ( Có tiếng âm thanh vang, hẳn là hƣ
79 | Tam mệnh thông hội

trung vậy). Là lấy mệnh đại nhân, phải có đức hƣ trung. Không Vong tự vƣợng là hữu dụng,
chính là khí lớn ứng lớn. Tháng, ngày, giờ ba vị đều có Không Vong, không có hại là đại quý
nhân. Nếu gặp hai vị, tuy có Quan, nhƣng không lớn.
Lại nói: Phàm mệnh gặp Không Vong, thấy ở trụ giờ, đa số có tính ngoan cố, sự việc cao mà
trống không, lại gặp Hoa Cái, quyết chủ thiếu con. Thấy ở trụ ngày, phần đa là nhiều thiếp,
hoặc là giữa thê thiếp tách ra gặp ngẫu nhiên thì nhiều dâm đãng.
Cổ ca nói:
"Thai lý sinh phùng phạ ngộ không,
Ngộ không thì tiết tự hôn mông;
Nhiêu quân thập bộ hữu cửu kế,
Bất miễn phiêu phiêu tây phục đông."
(Tạm dịch: Trong thai sinh sợ gặp phùng Không, thời tiết gặp Không tự mê muội, dù vua 10
bƣớc có 9 kế, khó tránh lung lay Tây sang Đông).
Lại nói:
"Kiến lộc lâm không hư hữu danh,
Bình sinh hướng học lão vô thành;
Nhược phùng mã quý lai tương cứu,
Túng đắc quan thì hựu phục đình."
( Tạm dịch: Kiến Lộc lâm Không có hƣ danh, cả đời hƣớng học già không thành; nếu gặp
Quý Mã đến giải cứu, dẫu có làm quan cũng lại dừng).
Lại nói:
"Giáp Dần Mậu Ngọ cập Canh Thân,
Sửu thượng Thiên Trung tối bất nhân;
Bản phân sinh lai đương thụ lộc,
Nhân phùng ngũ quỷ toại suy bần."
( Tạm dịch: Giáp Dần, Mậu Ngọ cùng Canh Thân, trên Sửu Thiên Trung rất bất nhân; bổn
phận sinh ra lúc nhận Lộc, vì gặp Ngũ Quỷ liền suy bần.)
Lấy Giáp Dần thủy thấy Tân Sửu thổ, là quỷ đến khắc mệnh. Mậu Ngọ thấy Đinh Sửu, Canh
Thân thấy Ất Sửu, đều là Không Vong, kỵ khắc mệnh vậy.
Lại nói:
"Lục tuần hậu lưỡng hào thiên trung,
Kiến hợp trường sinh vượng bất hung;
Gia lâm trùng khắc kiêm hình lộc,
Quan chức thăng đằng vị canh long."
Tạm dịch:
" Sau Lục tuần gọi hai Thiên Trung,
Thấy hợp, trường sinh, vượng không hung;
Thêm lâm xung khắc kiêm hình lộc,
Quan chức thăng cao vị càng hưng"
Nhƣ ngƣời Tị Dậu Sửu, tháng Đinh Sửu, ngày Quý Mùi, giờ Mậu Ngọ. Ngọ Mùi là Không
Vong mà Mậu Quý hỏa vƣợng ở Ngọ, trái lại là quý cách, là Hỏa hư hữu diễm vậy.
Lại nói:
"Ấn thụ chi tinh trung kiến không,
Thuận lâm mộ khố phúc trọng trọng;
Nhược hoàn giáp quý quy nguyên vị,
Đái Sát tu vi cấp sự trung"
Tạm dịch:
" Ngôi sao Ấn thụ được thấy Không,
Thuận đến mộ khố phúc trùng trùng;
Nếu còn Giáp (kẹp) quý quy nguyên vị,
80 | Tam mệnh thông hội

Mang Sát phải là Cấp Sự trung (chức quan)"


Nhƣ Giáp Ngọ, Quý Dậu, Bính Tý, giờ Nhâm Thìn. Tuy là Không, nhƣng cùng Quý Dậu làm
lục hợp, lại Giáp (kẹp) Quý mộ khố. (Quý ở đây là quý nhân, Nhâm là Sát tọa Thìn là mộ
khố), cho nên nhập cách, chính là Thủy Không thì lƣu vậy.
07-04-16, 11:02
lesoi
Kinh nói:
"Kim Không tắc hƣởng,
Hỏa Không tắc minh,
Thủy Không tắc thanh,
Mộc Không tắc chiết,
Thổ không tắc băng."
Tạm dịch:
"Kim Không thì vang,
Hỏa Không thì sáng,
Thủy Không thì sạch,
Mộc Không thì gãy,
Thổ Không thì sụp"
Là chỗ này vậy.
Lại nói: Sinh mệnh có Không Vong vốn không tốt, nếu gặp vận hình xung, lại thành Hƣ Sát;
kẻ sĩ mà gặp thì danh tiếng bay xa. Nhƣ Giáp Thân, Đinh Sửu, Ất Hợi, Giáp Thân, hành vận
Nhâm Ngọ, lấy quyền hành; Ất Mùi, Ất Dậu, Ất Sửu, Đinh Hợi, hành vận Tân Tị, làm quan
phủ, có danh vọng lớn. Nếu Nhâm Dần là Không Vong, Nhâm Thân xung cùng loại thì bất
động, đây là độc nhất.
Có Tiệt lộ không vong, giống nhƣ con ngƣời ở trên đƣờng gặp nƣớc, không thể đi tới, không
thể qua sông, cho nên viết là Tiệt lộ, chỉ lấy ngày thấy ở giờ. Nhƣ ngày Giáp Kỷ độn ở trong
12 giờ, đến Thân Dậu thấy Nhâm Quý, cho nên Giáp Kỷ thấy Thân Dậu, Ất Canh thấy Ngọ
Mùi, Bính Tân thấy Thìn Tị, Đinh Nhâm thấy Dần Mão, Mậu Quý thấy Tuất Hợi, cho nên
trên hai giờ này đều gặp Nhâm Quý là thủy vậy. Chỗ này Không Vong không những mệnh
thấy là không cát, phàm xuất nhập, cầu tài, giao dịch, thƣợng quan, giá thú, trăm việc đều kỵ.
Có Tứ đại Không Vong, trong Lục Giáp, hai tuần Giáp Thìn, Giáp Tuất, đầy đủ kim mộc
thủy hỏa thổ. Ngƣời sinh trong tuần Giáp Tý, Giáp Ngọ thấy thủy. Tuần Giáp Dần, Giáp
Thân duy nhất không có kim, bốn tuần này đều không đủ ngũ hành. Nhƣ tuần Giáp Tý, Giáp
Ngọ duy nhất không có thủy. Ngƣời sinh tuần Giáp Dần, Giáp Thân thấy kim, gọi là chính
phạm. Nhƣ trong năm lúc sinh không phạm, hành vận đến xứ thủy kim cũng nói phạm. Nếu
có mang, chủ cả đời trì trệ, không thuận lợi, không nói đến bần tiện phú quý, cũng chết yểu.
Gặp trùng ba chỗ, hành động ngay lập tức. Hồ Trung Tử nói: "Nhan Hồi yêu chiết, chỉ nhân
tứ đại không vong." ( tức là, Nhan Hồi chết yểu, chỉ vì Tứ Đại Không vong). Chính là chỗ
này vậy.
《 Vi Kinh 》nói: có Ngũ Quỷ Không Vong, ngƣời Giáp Kỷ thấy Tị Ngọ, Ất Canh thấy Dần
Mão, Bính Tân thấy Tý Sửu, Đinh Nhâm thấy Tuất Hợi, Mậu Quý thấy Thân Dậu, hạn đến
đất này, chủ bần.
Có Khắc hại Không Vong, nhƣ ngƣời Giáp Ất thấy Ngọ, Bính Đinh thấy Thân, Mậu Kỷ thấy
Tị, Canh Tân thấy Dần, Nhâm Quý thấy Dậu Sửu, chủ khắc hại thê tử.
Có Phá tổ Không Vong, Giáp Ất Bính Đinh giống nhƣ trên, ngƣời Mậu Kỷ thấy Tuất, Canh
Tân thấy Tý, Nhâm Quý thấy Dần, gặp thì chủ phá tổ nghiệp, cũng cần luận.
07-04-16, 11:03
lesoi
81 | Tam mệnh thông hội

Luận Nguyên thần

Nguyên Thần, không có tên khác. Dƣơng trƣớc âm sau, thì có chỗ khuất, khuất thì ở sự việc
không rõ; âm trƣớc dƣơng sau, thì thẳng một mạch mà không thành, ở việc thì nóng nảy mà
không sửa trị, đồng sự khó giúp đỡ, cho nên gọi là Nguyên thần. Lấy dƣơng nam âm nữ, ở
trƣớc xung thần một vị trí; âm nam dƣơng nữ, ở sau xung thần một vị trí.
Ví dụ nhƣ nam sinh Giáp Tý, cùng đối xung với Giáp Ngọ, tức là Ất Mùi; nam sinh Ất Sửu,
cùng đối xung với Ất Mùi, tức là Giáp Ngọ. Can còn lại ở giữa Ngọ Mùi. Sở dĩ là hung, lúc
khí đất xung, bên trái gõ thì gió Sát ở bên phải, bên phải gõ thì gió Sát ở bên trái, cho nên
nam nữ âm dƣơng, lấy trƣớc xung sau xung là khác nhau. Nếu Tuế Vận đến, nhƣ vật đón gió,
làm lung lay điên đảo, không đƣợc yên tĩnh ngƣng nghĩ. Không có bệnh tật bên trong, nhất
định cũng có khó khăn ở bên ngoài. Dù có quyền cao phú quý, vị thế hƣng thịnh, đại vận gặp,
10 năm đáng sợ. Lập triều định lúc xua đuổi, chỗ ở tất phải gặp điều bất hạnh, nếu có cát thần
phù trì, cũng không thể miễn họa phúc ẩn phục, rất kỵ trƣớc cát sau hung, sau khi đến vƣợng,
ranh giới giữa ra khỏi và không ra khỏi, càng hung họa. Sinh mệnh gặp thì chủ hình hài xấu
xí, trên mặt có quyền cốt, mũi thấp miệng rộng, mắt có góc cạnh đáng sợ, não lồi mông to,
chân tay cứng rắn, thanh âm đục nặng. Sinh vƣợng thì tinh thần chán nản, không phân biệt thị
phi, không phân biệt lƣơng thiện, điên đảo hung ác; tử tuyệt thì keo kiệt lạnh nhạt, hình mạo
thấp hèn, lời nói mơ hồ, không thấy nhục nhã, phá bại lận đận gập ghềnh, ham rƣợu, mê sắc,
cam chịu cảnh thấp hèn. Hợp cùng với Quan phù, thì cản trở hay gây ra nhiều việc không
đâu; mang Kiếp Sát, thì không tuân theo hành động, gây ra hành động nguy hiểm, bần tiện vô
liêm sỉ; phụ nữ gặp thì giọng nói đục trầm nhƣ đàn ông, gian dâm tƣ thông với tôi tớ hạ tiện,
tính quỷ quái, không tuân theo lễ pháp, cả đời gặp nhiều tai họa, dù sống chết, cũng là kẻ bất
hiếu.
Thƣờng kỹ thuật 《 Thử kỵ Dương đầu ca 》nói không phân ra nam nữ, là không đủ bằng
chứng vậy.
《 Lạc Lục tử 》 nói: Ngƣời già sợ nhất Nguyên thần, khai rừng theo Nguyên Thần Ác Sát
là gặp tai nạn rất nặng, gặp có hỗ hoán thì càng không cát, bỗng nhiên gặp hợp, thì lại lấy cát
luận.
《 Động Huyền kinh 》nói: "Nguyên thần gặp hợp, mà thành địa vị bề trên vậy."
《 Quảng Tín tập 》ví dụ ở mệnh Kỹ Tham Chính: Kỷ Mão, Giáp Thân, Kỷ Tị, Giáp Tuất,
Đằng Canh Xu Mật: Ất Sửu, Nhâm Ngọ, Ất Sửu, Nhâm Ngọ, hai mệnh chẳng phải là phạm
Nguyên thần sao? Lý Cát phủ nói: "Đại phàm quý mệnh, cần gặp Sát tức đƣợc vua đề bạt
thăng chức, khai rừng thì rõ là phiến diện vậy."
Từ Tử Bình nói: "Nguyên thần là gốc chỗ thần gây hại ở trong mệnh, nhƣ các loại Giáp thấy
Canh Thân, Ất thấy Tân Dậu, ngƣời sinh năm tháng ngày giờ có Thất Sát, là lấy chỗ thần gây
hại, tuế vận lại gặp, gọi là phạm Nguyên Thần, thì hại càng nặng, vốn không có thì nhẹ. Nhƣ
vậy, một sát Nguyên Thần, cùng với Vong Kiếp, Dƣơng Nhận, Không Vong xem là cùng
loại).
《 Lạc Lục Tử • Tiêu Tức phú • trích từ Tuyết Tâm phú 》nói: "Nguyên thần khử thủy cũng
là danh Thần sát ). Vốn là thuyết của ngƣời xƣa vậy.
07-04-16, 11:10
lesoi
Luận Ám kim đích Sát

Chỗ này Tam Sát chính là Tứ Xung số Tiên Thiên vậy. Về con số, Tý, Ngọ mỗi chữ có 9 số,
Mão, Dậu mỗi chữ có 6 số, tổng cộng là 30 số. Từ Tý thuận hành, đếm đến số 30 là thấy Tị,
đúng Sát là thành Tứ trọng. Dần Thân mỗi chữ có 7 số, Tị Hợi mỗi chữ có 4 số, tổng cộng là
22 số, từ Tý thuận hành, đến số 22 thì thấy Dậu, đúng Sát là Tứ Mạnh; Thìn Tuất mỗi chữ có
82 | Tam mệnh thông hội

5 số, Sửu Mùi mỗi chữ có 8 số, tổng cộng là 26 số, từ Tý thuận hành, đến hết số 26 thì thấy
Sửu, đúng Sát ở Tứ Quý. Nhƣ vậy là bắt đầu từ con số mà ra, phàm Thần Sát, đều bắt đầu từ
con số trời, cũng giống nhƣ loại Lộc Mã vậy.
Chỗ này một Sát mà có ba tên: Một viết Thân ngâm, hai viết là Phá Toái, ba viết Bạch Y. Tý
Ngọ Mão Dậu ở Tị, Dần Thân Tị Hợi ở Dậu, Thìn Tuất Sửu Mùi ở Sửu. Tị là đất Kim sinh,
trong Tị có hỏa ở Lâm quan, đến khắc khí kim, chủ gặp chỗ họa hình phạt trong nhà tù bị
dùng gậy đánh mà đau đớn rên rĩ, cho nên viết là Thân ngâm. Dậu là đất kim vƣợng, lúc này
là Sát vật, lại có Tân kim tƣơng trợ, vạn vật phải gánh chịu, không thể không bị nghiền nát,
chủ có họa máu chảy phân chia, cho nên viết là Phá Toái. Sửu chính là mộ khố của kim, cƣ ở
Tứ Quý mà đến Quỷ môn, chủ sự việc thiệt hại có tang phục khóc lóc, cho nên viết là Bạch
Y.
Trong ngũ hành duy chỉ có kim là có thể sát hại vạn vật, cho nên tên chung viết là Ám Kim
Sát vậy.
Gặp thần sinh vƣợng, chủ ngƣời khoan dung, đức độ đại lƣợng, có tính quyết đoán, dung mạo
thanh tuấn, nếu không thì chết yểu hoặc bị hình thƣơng, lại có bệnh cùi, tê liệt.
Gặp tử tuyệt thì thảm hại khắc độc, dung mạo trắng hồng, lời nói khôn khéo sắc xảo, miệng
nam mô bụng bồ dao găm.
Hợp cùng Quan phù, thì ngang tàng dẫn đến họa về quan;
Hợp cùng Kiếp Sát, thì dẫn đến tang ma;
Hợp với Bạch Hổ, Dƣơng Nhận, thì tƣ tƣởng tàn ác;
Hợp cùng Quý nhân, Kiến Lộc, thì hơi chậm. Ngũ hành vƣợng tƣớng, cát thần tƣơng cứu,
nhập quý cách thì không có hại; nhập tiện cách, các hung thần đều gặp, thì càng hung.
Lại viết: xứ Kim sinh, chủ tật bệnh đại phong tê liệt; xứ kim vƣợng, chủ bệnh do dùng ma túy
độc dƣợc; xứ kim mộ, chủ lo lắng khắc con chết. Nếu mang Tam Hình Đức Quý, chủ làm
quan lớn nắm binh quyền. Đại để chỗ này sát là không tốt, nếu nhân mệnh mà gặp thì là chỗ
không nên; tuế gặp thì chủ có tang chế khóc lóc, đạo tặc xâm nhiễm, khẩu thiệt phá hƣ. Trẻ
em phạm chỗ này, thì bệnh ban sởi; nếu không thì, có tƣợng thân thể bị vỡ nứt vết sẹo. Kinh
nói: "Sai lầm tội lỗi không qua hình hại. Có thời mà cát; làm trái chớ qua ở xung phá, tất cả
đều hung." Là chỗ này vậy.
09-04-16, 08:17
lesoi
Luận Tai Sát

Tai Sát tính nó dũng mãnh, thƣờng ở trƣớc Kiếp Sát, xung phá Tƣớng tinh, gọi là Tai Sát.
Nhƣ Thân Tý Thìn thì Tƣớng tinh ở Tý, Ngọ lại khử xung Tý; Dần Ngọ Tuất ở Ngọ, Tý lại
khử xung; Tị Dậu Sửu ở Dậu, Mão lại khử xung; Hợi Mão Mùi ở Mão, Dậu lại khử xung.
Gọi là Tai Sát vậy. Sát này chủ gặp cảnh máu me chết đột ngột. Ở thủy hỏa, đề phòng chết
thiêu, chết đuối, kim mộc gặp gậy đao, thổ thì trụy lạc, ôn dịch khắc thân, là đại hung. Nếu có
Phúc thần tƣơng trợ, phần lớn là vũ quyền. Cũng nhƣ loại Kiếp Sát, cần thấy xứ Quan tinh,
Ấn thụ sinh vƣợng là tốt. 《 Thần Bạch kinh 》nói: "Tai Sát sợ ở xứ sinh khắc, nhƣng lại tốt
lành". Chính là chỗ này vậy.

Luận Lục Ách

Ách, là gặp gian nan vậy, thƣờng ở trƣớc Mã một thần, sau Kiếp hai thần, tử mà không sinh
gọi là Ách. Thân Tý Thìn thủy cục, thủy tử ở Mão; Dần Ngọ Tuất hỏa cục, hỏa tử ở Dậu; Hợi
Mão Mùi mộc cục, mộc tử ở Ngọ; Tị Dậu Sửu kim cục, kim tử ở Tý, do đó gọi là Ách. Nếu
có cứu hộ, có phù trì, phùng sinh vƣợng kiêm quý khí tƣơng trợ, thì cát, cuối cùng cả đời
cũng trì trệ.
83 | Tam mệnh thông hội

《 Hồ Trung Tử 》 nói: "Lục Ách là sát bác quan, Lý Quảng không đƣợc phong hầu là vậy."

Luận Câu Giảo

Câu, nghĩa là có liên luỵ; Giảo, có tên là trói buộc vậy. Hai sát này thƣờng đối xung nhau,
cũng nhƣ Vong Kiếp. Dƣơng nam âm nữ, trƣớc mệnh ba thần là Câu; sau mệnh ba thần là
Giảo; Âm nam dƣơng nữ, trƣớc mệnh ba thần là Giảo, sau mệnh ba thần là Câu. Ví dụ nhƣ
Giáp Tý là dƣơng mệnh, thì Mão là Câu, Dậu là Giảo; Ất Sửu là âm mệnh, Thìn là Giảo, Tuất
là Câu.
Cổ ca nói:
"Nanh vuốt sát ba thần khử mệnh,
Đại kị đến Kim thần, Dương Nhận;
Kẹp Sát khắc thân phúc không cứu,
Tất gặp Xà Hổ tổn thương thân."
Sát này đại kị Kim thần cùng Bạch Hổ, là hung. Cũng là 3 loại vật nuôi nhƣ trâu, ngựa, chó,
không chỉ có hổ sói vậy. Không khắc thân cùng không dụng phúc đồng cung. Đại để đối với
sát này, phàm mệnh gặp phải, thân nếu khắc sát, nhiều mƣu kế tính toán khéo léo, đảm nhận
nắm chức hình pháp; hoặc là tƣớng soái, chuyên sát hại. Sát nếu khắc thân, chủ bỏ mạng mà
chết; tiểu nhân gặp phải, khó khỏi tai họa; hành niên tới chỗ này, cũng chủ các chuyện khẩu
thiệt, hình ngục.
Lại nói: Gặp đủ hai loại này, tai họa nặng, một vị thì nhẹ.
Lại nói: Có quỷ thì họa nặng, không có quỷ thì họa nhẹ.
09-04-16, 08:19
lesoi
Luận Cô thần, Quả tú

Ngƣời xƣa có nói: Về già mà không có chồng gọi là Quả, Trẻ mà không có cha gọi là Cô,
nghĩa là nhƣ vậy. Thần là tinh thần, Tú là Tinh tú, ý là chỉ Tinh Thần vậy. Sinh mệnh phạm
chỗ tinh sao này, nhƣ vậy là Cô Quả. Nhƣ lần lƣợt ba phƣơng vị Hợi Tý Sửu, tiến trƣớc một
thần thấy Dần gọi là Cô, lùi sau một thần thấy chữ Tuất gọi là Quả. Lại chuyển qua Giác
(góc) là Cô, lui Giác Quả. Ba phƣơng còn lại đều dựa theo chỗ này mà suy ra. Nghĩa là âm
dƣơng trù trƣớng (thất vọng). Vả lại Dần là đầu Xuân, Thìn là cuối Xuân, Tị là đầu Hạ, Mùi
là cuối Hạ, Thân là đầu Thu, Tuất là cuối Thu, Hợi là đầu Đông, Sửu là cuối Đông, đều là
thần âm dƣơng tách biệt, là phƣơng đại diện bốn mùa.
《 Tam Xa 》nói: Trong tạo vật lấy chỗ sinh ta là Mẹ, khắc ta là Chồng, chỗ ta khắc là vợ.
Hợi Tý Sửu thuộc vị trí Bắc phƣơng là thủy, thủy dụng kim là mẹ, kim tuyệt ở Dần, là mẹ
tuyệt vậy; dụng hỏa là vợ, hỏa mộ là Tuất, là mộ vợ vậy. Tị Ngọ Mùi, là vị trí hỏa Nam
phƣơng, hỏa dụng mộc là mẹ, mộc tuyệt ở Thân; dụng thủy là chồng, thủy mộ ở Thìn. Dần
Mão Thìn thuộc vị trí Đông phƣơng mộc, mộc dụng thủy là mẹ, thủy tuyệt ở Tị; dụng kim là
chồng, kim mộ ở Sửu. Là lấy mẫu tuyệt là Cô thần, mộ chồng, mộ vợ là Quả tú, ý nghĩa là rất
phù hợp.
《 Lạc Lục Tử 》nói: "Cốt nhục giữa đường phân ly, Cô Quả vẫn sợ ở Cách Giác".
《Ngọc Môn tập 》nói: "Dần Thân Tị Hợi là Giác (góc), Thìn Tuất Sửu Mùi là Cách (ngăn
cách). Tiến là dƣơng, bất lợi cho cha; thoái là âm, bất lợi cho mẹ". Lại nói: " Ở cung dƣơng
hại cha, ở cung âm hại mẹ. Nhƣ ngƣời Dần Mão Thìn, Tị là Cô, Sửu là Quả, Dần Thìn là vị
trí dƣơng, Sửu Tị là vị trí âm. Sinh mệnh nam nữ gặp, dù có sinh con, đa số đều bất hoà."
Vương thị nói: "Nam mệnh, sinh gặp lúc Thê tuyệt mà gặp Cô thần, cả đời khó ở phối hôn;
Nữ mệnh sinh gặp lúc Phu tuyệt mà gặp Quả tú, nhiều lần lấy chồng không thể sống chung
84 | Tam mệnh thông hội

đến già". Nhƣ ngƣời Tân Sửu gặp Canh Dần, Dần là Sửu Cô thần, Sửu là Dần Quả Tú, Dần
Sửu là Quả Tú lẫn nhau. Cách Giác, là nói trong Sửu Dần có quẻ Cấn Cách, Giác là từ 4
cung Càn Khôn Cấn Tốn vậy.
《 Chúc Thần kinh 》nói: "Phàm nhân mệnh phạm Cô Quả, chủ hình cô lộ cốt, mặt không
có hòa khí, bất lợi lục thân. Sinh vƣợng hơi đƣợc, tử tuyệt càng nặng. Cùng Dịch Mã, thì
phóng đãng tha hƣơng; cùng Không Vong, lúc trẻ không có chỗ nƣơng tựa; cùng với Tang
môn Điếu khách, cha mẹ lần lƣợt mà chết. Cả đời phần đa là gặp trùng điệp tang họa, cốt
nhục không nơi nƣơng tựa, hàn vi bất lợi. Nhập quý cách, làm rễ nhà vợ; nhập tiện cách, khó
tránh lƣu đày ".
《 Quỷ Cốc di văn 》nói: "Liên kết không nói Cô Quả, nhƣ Hợi gặp Dần Tuất, Dần gặp Sửu
Tị; hoặc can chi triều hội quay quanh Quý nhân, tuy phạm Cô Quả, cũng không lấy Cô Quả
mà luận".
《 Quảng Lục 》nói: "Tỉnh Lan tà xung, là Cô thần Quả tú". Thêm thiên Can mang Đảo
Thực, gọi là Tỉnh Lan Đảo Thực. Nếu ngƣời Tị Ngọ Mùi lại sinh ở ba tháng mùa Hạ, là mang
hai thần Cô Quả, chủ khắc thê hại tử, thiếu lục thân, không tụ tài, đa số sinh nữ; lại mang
nhiều Hung Sát, chủ không có hồi kết.
《 Lạc Lục tử 》nói: " Dựa vào âm xét dƣơng họa, Tuế tinh (sao mộc) chớ phạm ở Cô thần;
Dựa vào dƣơng xét lấy âm tai, tuổi thọ kị gặp ở Quả tú". Bởi vì nói Tiểu vận, Thái Tuế không
thể phạm, dƣơng lấy Cô thần làm trọng, âm lấy Quả tú làm trọng.
09-04-16, 08:20
lesoi
Luận Thiên la Địa võng

Thuyết về La võng, ý nghĩa rất rõ ràng. Nhƣng tại sao lấy Tuất Hợi là Thiên La, Thìn Tị là
Địa võng? Bỡi vì xu hƣớng trời nghiêng về hƣớng Tây Bắc, là Tuất Hợi, là hết Lục Âm vậy;
đất hãm ở hƣớng Đông Nam, Thìn Tị là hết Lục Dƣơng vậy. Âm dƣơng chung cực, thì ám
muội không rõ ràng, nhƣ ngƣời ở La Võng, chỗ này nghĩa là sống còn vậy. 《 Hồ Trung Tử
》nói: "Long Xà hỗn tạp, thiên bất lợi ở sinh ở Thìn; Trư, Khuyển xâm lăng, nhưng chỉ sợ ở
chữ Hợi". Long là Thìn, Xà là Tị; ngƣời có chữ Thìn gặp Tị, ngƣời có chữ Tị gặp Thìn, đều
gọi là Long Xà hỗn tạp. Nam mệnh thì không sao, duy chỉ có nữ mệnh là phá hôn hại tử, bạc
mệnh ôm tật. Ngƣời có chữ Thìn gặp Tị, là nặng; ngƣời có chữ Tị gặp Thìn, là nhẹ. Nói Long
sinh Xà huyệt, là thoái; Xà sinh Long huyệt, là tiến. Trƣ là Hợi, Khuyển là Tuất; ngƣời có
chữ Tuất gặp chữ Hợi, ngƣời có chữ Hợi gặp Tuất, đều gọi là Trƣ Khuyển xâm lăng. Nữ
mệnh thì không sao, duy chỉ có nam mệnh gặp thì trắc trở đủ điều, hại tổ khắc vợ. Ngƣời có
chữ Tuất gặp Hợi, là nhẹ; ngƣời có chữ Hợi gặp Tuất, là nặng. Nói Khuyển nhập bầy Trƣ, thì
tiến; Trƣ nhập bầy Khuyển, thì hại.
《 Nhiều thƣ 》cũng nói: "Long Xà hỗn tạp, phụ nữ thường đề phòng nhiều mối nguy lo; Trư
Khuyển xâm lăng, thường lo chồng gặp nạn". Là nam sợ Thiên La, nữ sợ Địa Võng. Ở trong
lại phân ra ngƣời hỏa mệnh có Thiên la, ngƣời mệnh thủy, thổ có Địa võng, còn lại hai mệnh
kim mộc là không có. Nhân mệnh mang chỗ này, phần đa chủ gặp cản trở, lại thêm ác sát hợp
nhau, ngũ hành vô khí, tất chủ ác tử. Hành vận đến chỗ này, cũng vậy.
Giả nhƣ ngƣời sinh ngày mùng một tháng giêng năm Tuất, phạm một năm Thiên la; sinh
ngày 15, phạm 15 năm Thiên la; nếu lại sinh giờ Tuất, tăng thành 30 năm Thiên la. Hoặc
tháng Hợi năm Tuất, hoặc giờ Hợi ngày Tuất, cùng thấy giao nhau qua lại, nói là phạm nặng.
Thì họa không thể nói hết. Địa võng cũng nói nhƣ trên. Nếu Thiên la Địa võng cùng hợp lại,
thì hại càng nặng.
《 Lý Ngu ca 》nói: "Giờ sinh mà kết cùng thiên bàn, tranh giành khiến thân phải không an".
Nhƣ mệnh Giáp Thìn thấy Giáp Tuất, mệnh Giáp Tuất thấy Giáp Thìn, chỉ ngƣời sinh hai
thần này, chính là nói La Võng vậy.
85 | Tam mệnh thông hội

Luận Thập Ác Đại Bại

Thập Ác, là ví nhƣ ngƣời ở trong pháp luật phạm trọng tội thập ác, là ở chỗ không tha. Đại
Bại, ví nhƣ trong binh pháp cùng địch giao chiến, đại bại không có ai sống sót, rõ là cực hung
vậy. Trong tuần Lục Giáp có 10 ngày gặp lộc ngƣời Không Vong, nhƣ Giáp Thìn, Ất Tị,
Giáp lấy Dần là lộc, Ất lấy Mão là lộc, tuần Giáp Thìn lấy Dần Mão là Không vong. Nhâm
Thân, Nhâm lấy Hợi là lộc, tuần Giáp Tý lấy Hợi là Không Vong. Còn lại các ngày nhƣ Bính
Thân, Đinh Hợi, Canh Thìn, Mậu Tuất, Quý Hợi, Tân Tị, Ất Sửu đều theo nhƣ vậy. Trong
mệnh phạm, lúc lấy trên ngày là đúng, còn lại là không phải. Huống chi phạm chƣa hẳn là đã
hung, nếu bên trong có cát thần tƣơng phù, quý khí phụ trợ, tất lấy cát luận.
《 Nguyên Bạch kinh 》nói: "Thập Ác đều đến 10 thần, từng năm có Sát dụng phân chia".
Nhƣ năm Canh Tuất thấy ngày Giáp Thìn, năm Tân Hợi thấy ngày Ất Tị, năm Nhâm Dần
thấy ngày Bính Thân, năm Quý Tị thấy ngày Đinh Hợi, năm Giáp Thìn thấy ngày Mậu Tuất,
năm Ất Mùi thấy ngày Ất Sửu, năm Giáp Tuất thấy ngày Canh Thìn, năm Ất Hợi thấy ngày
Tân Tị, năm Bính Dần thấy ngày Nhâm Thân, năm Đinh Tị thấy ngày Quý Hợi, bởi vì lấy
can chi năm xung can chi ngày, không có lộc là kị, còn lại đều không ngại.
09-04-16, 08:21
lesoi
Tổng luận chư thần sát

Thần Sát, xƣa có cả 120 tên gọi, gặp thuyết xuyên tạc, không sợ tạo hóa nhƣ vậy. Trừ các
loại nhƣ Dƣơng Nhận, Không Vong, Kiếp Sát, Tai Sát, Đại Sát, Nguyên Thần, Câu Giảo,
Hàm Trì, Phá Toái, La Võng, Xung kích, Thiên không Huyền châm, Bình đầu Đảo Qua trong
khi xem mệnh là cần thiết, đã đƣợc luận ở phần trƣớc rồi, hiện nay theo nhiều Tinh gia khảo
nghiệm có lý, lại có ghi chép ở chỗ sai trái.
Tự ải sát. Chỗ này lấy hung thần, lấy nơi hệ thống ngũ hành, nhƣ Tuất gặp Tị, Tị gặp Tuất,
Thìn gặp Hợi, Hợi gặp Thìn, Dần gặp Mùi, Mùi gặp Dần, Mão gặp Thân, Thân gặp Mão,
Ngọ gặp Sửu, Sửu gặp Ngọ, Tý gặp Dậu, Dậu gặp Tý là vậy. Đại kỵ tƣơng khắc, thiên
nguyên là Mộ, lại có Thiên Trung (Không vong), Quan Phù, Đại Háo, thì định là hung.
Thủy nịch sát. Chỗ này là hung thần, lấy Bính Tý, Quý Mùi, Quý Sửu ở trên mang Hàm Trì,
Kim Nhận, Dƣơng Nhận. Do Bính Tý nạp âm là thủy, thêm Tý là đất thủy vƣợng, Mùi là chỗ
sao Tỉnh, Sửu là ranh giới Tam Hà, lại nạp âm càng khắc thân, quyết không thể tránh khỏi.
Cổ ca vân:
"Động sát khắc thân danh Điên Trụy,
Kim thần Dương Nhận phòng đồng vị.
Phải biết Tự Ải tối hung thần,
Tuất Tị Thìn Hợi cùng Dần Mùi.
Tý Dậu một lệ là hung sát,
Mão Thân Sửu Mùi y như trước.
Đại kỵ Không Vong kiêm Mộ Quỷ,
Quan Phù Đại Hao vẫn cần Tị.
Bính Tý Quý Mùi cùng Quý Sửu,
Hàm Trì kim Sát Dương Nhận sợ.
Ngũ hành nếu lại đến khắc thân,
Một chết treo cổ, một chết nước."
Quải Kiếm sát. Chỗ này hung thần lấy Tị Dậu Sửu Thân tứ trụ thuần toàn vậy, hoặc lại mang
Tị Dậu Sửu cũng vậy, lại phạm Quan Phù, Nguyên Thần, Bạch Hổ, Kim Thần các loại, ngũ
hành hình khắc bản mệnh, chủ là kẻ hung bạo sát, nếu không cũng bị ngƣời sát hại.
Thơ viết:
86 | Tam mệnh thông hội

"Tị Dậu Sửu Thân kim khí toàn,


Tòng cách cục đa danh quải kiếm.
Nguyên Vong Kim Hổ hợp khắc thân,
Dù không giết người thân khó tránh."
Thiên hỏa sát. Hung thần này lấy Dần Ngọ Tuất đủ, mà thiên can có Bính Đinh, trong có đủ
5 vị mà không thấy thủy vậy, có thủy thì không phải. Nếu tuế vận tới xứ hỏa khí sinh vƣợng,
nên đề phòng hỏa tai.
Thơ viết:
"Dần Ngọ Tuất toàn hiệu Thiên Hỏa,
Không thấy Bính Đinh vẫn không thể;
Ngũ vị đều không một thủy thần,
Sinh vượng lâm năm tai ách hỏa."
Ngoài mệnh đủ Dần Ngọ Tuất, can tháng có Quý hành Mậu Ngọ vận, Mậu Quý hóa hỏa, năm
Giáp Tuất, tháng Giáp Tuất liền gặp hỏa tai.
Thiên Đồ sát. Hung thần này ngoại trừ ngày Tý giờ Ngọ, ngày Ngọ giờ Tý, do thừa Sửu viết
ngày giờ Hợi, ngày Hợi giờ Sửu, ngày Dần giờ Tuất, ngày Tuất giờ Dần, ngày Mão giờ Dậu,
ngày Dậu giờ Mão, ngày Thìn giờ Thân, ngày Thân giờ Thìn, ngày Tị giờ Mùi, ngày Mùi giờ
Tị, theo thứ tự lần lƣợt kể ra hai vị. Quân tử phạm thì chủ dị tật, bệnh đƣờng ruột phù thủng;
tiểu nhân thì thân thể tổn hại gãy ngã. Tái phạm thì chủ tù tội.
09-04-16, 08:22
lesoi
Thiên Hình sát. Hung thần này lấy Tý Sửu gặp giờ Ất, Dần gặp giờ Canh, Mão Thìn gặp giờ
Tân, Tị gặp giờ Nhâm, Ngọ Mùi gặp giờ Quý, Thân gặp giờ Bính, Dậu Tuất gặp giờ Đinh,
Hợi gặp giờ Mậu, lấy giờ hình khắc bản mệnh. Phạm là gặp hình phạt có bệnh tật.
Lôi Đình sát. Tháng giêng, tháng 7, tháng 2, tháng 8 Tý Dần phƣơng, tháng 3, tháng 9, tháng
4, tháng 10, lấy Thìn Ngọ; tháng 5, tháng 11, Thân tháng 6 tháng 2 Tuất, nhất định chủ gặp
sấm sét đánh hoặc Hổ giết chết.
Lại nói:
Tháng giêng, tháng 7 dƣới thêm Tý,
Tháng 2, tháng 8, ở Dần phƣơng,
Tháng 3, tháng 9 nơi chỗ Thìn,
Tháng 4, tháng 10 Ngọ Mùi thƣơng,
Tháng 5, tháng 11 nơi vị Thân,
Tháng 6, tháng 12 ở phƣơng Tuất.
Khởi từ tháng giêng, Tý thuận hành sáu vị dƣơng. Chỗ này mệnh gặp hung thần, giống nhƣ
gặp lộc, quý; cát tinh đến áp, thì cát, hành tốt xếp đặt âm đức, là ngƣời quan tòa nắm giữ chức
vụ pháp đình trông coi việc sông nƣớc, hoặc đẳng cấp thành tổ sƣ phật pháp. Nhƣ gặp các
loại Dƣơng nhận, Đích Sát, Phi Liêm hội, mệnh hạn tất hung, chủ đọa ở nơi bị sấm sét đả
thƣơng, Hổ ăn, trời phạt, bệnh truyền nhiễm hoặc chết sông, chết trong ngục thất.
Hãm Sát.
Hợi Tuất Mùi gặp Dần tất thương,
Thân Tị cùng hội chịu mất đầu.
Tuất gặp Dậu Tý thêm tù tội,
Mão gặp Tị nói chạy phương xa.
Chỗ này thấy Tuất đến gặp Dần hung, Ngọ Sửu gặp Dần định cùng nhau bị hại. Mão Thân
gặp Tuất khó né tránh, Thìn đến Thìn thủy trung ƣơng. Phàm ngƣời nếu gặp ở ngày giờ, tam
hợp là nói cẩn thận gặp tai họa. ( Nguyên chú: Lấy chi năm làm chủ )
Quan Phù sát. Lấy trƣớc Thái Tuế một thần, là ngày giờ gặp. Cả đời gặp nhiều tai họa đƣờng
quan, lại cùng Dƣơng Nhận, chính là mệnh gặp hình phạt tù tội. Nếu Quan Phù rơi Thiên
trung ( Không Vong), phát sinh nhiều chuyện hoang đƣờng kì lạ không thật, tên là Vọng Ngữ
87 | Tam mệnh thông hội

sát.
Bệnh Phù sát. Lấy sau Thái Tuế một thần, là phạm nhiều tật bệnh. Hành niên gặp, cũng vậy.
Tử Phù sát. Lấy đối xung Bệnh phù, là tháng ngày giờ phạm, không có quý thần giải cứu, bất
hạnh chết non.
Tang Điếu sát. Một tên là Hoành Quan Sát. Thủ trƣớc mệnh 2 thần là Tang Môn, sau mệnh 2
thần là Điếu Khách, hoặc thái tuế hung sát cùng đến đại tiểu vận hạn, tất chủ họa.
Cổ thơ nói:
"5 Quan 6 Tử 12 Bệnh,
3 Tang 11 Điếu lai lâm."
Có thể thấy 12 cung này ở Thái Tuế Ca, không chỉ có mệnh phạm không tốt, mà lƣu niên lại
càng hung. Nếu tháng có Dƣơng Nhận đến trợ giúp, lúc hung sát đến, thì hung vậy.
Cổ ca nói:
"Hoành Quan ác sát ít người biết,
Nguyệt lộc hung thần lại cập thời;
Dẫu có cát tinh đến trùng điệp,
Không bị hình thân cũng gặp nguy."
Trạch Mộ sát. Trƣớc Mệnh 5 thần là tai, sau mệnh 5 thần là mộ, sợ Trạch Mộ ( mồ mã, nhà
ở) chịu năm tai họa đợi hung thần đến phá bản mệnh. Chủ rên rĩ.
Nhật Hình sát. Lấy bản ngày sinh trên số Giáp Tý, bản trụ nhật can. Dƣơng can đếm thuận,
âm can đếm nghịch. Nếu ở Mệnh cung, chủ cực hình; Tam hợp, chủ ngục tù; đối cung, chủ
chết ở bên ngoài.
Lưu Huyết sát. Lấy gốc tháng sinh mà khởi, Tý đếm thuận tới bản trụ năm. Nếu ở mệnh
cung, tam hợp, đối cung, chủ ung thƣ, thứ đến là ngục tù, phụ nữ sinh đẻ gặp nguy.
Kiếm Phong sát. Tuần Giáp Tý Kiếm Thìn phong Tuất, tuần Giáp Ngọ Kiếm Tuất phong
Thìn, tuần Giáp Dần kiếm Ngọ phong Thân, tuần Giáp Thân kiếm Tý phong Dần, tuần Giáp
Thìn kiếm Thân phong Ngọ, tuần Giáp Tuất kiếm Dần phong Tý. Theo đoán ở các cung, nhƣ
lộ ở cung thứ 5, tổn tử; lộ ở cung thứ 6, tổn điền trạch.
Kích Phong sát. Tháng giêng khởi Giáp, tháng hai khởi Ất, tháng 3 là Mậu, tháng 4 là Bính,
tháng 5 là Đinh, tháng 6 là Kỷ, tháng 7 là Canh, tháng 8 là Tân, tháng 9 là Mậu, tháng 10 là
Nhâm, tháng 11 là Quý, tháng 12 là Kỷ, gai lâm can vƣợng từng tháng, ngày giờ mang cả hai
thì nặng, hung; lại cùng thấy đến Huyền Châm, chủ quyết gặp thƣơng tàn.
Phù Trầm sát. Khời từ trên Tuất, đếm nghịch hành đến bản vị năm sinh, lại từ cung năm
đếm, xem ở cung nào. Chỉ có ở cung Tài Bạch, danh là Xuyến tiền, chủ giàu có. Còn lại đều
hung. Ngƣời Giáp Ất Kỷ Canh Nhâm phạm, hơi nhẹ; ngƣời Bính Đinh Mậu Tân Quý phạm,
là nặng. Ở trong năm Dần Ngọ Thân Mùi, gặp sát này phần đa là chủ thủy ách (chết nƣớc).
Vẫn theo các cung phân luận, nhƣ ở cung Điền Trạch, thì chủ phá tổ. Các cung còn lại loại
suy theo chỗ này.
Phá Sát. Sát này, Mão cùng Ngọ, Sửu cùng Thìn, Tý cùng Dậu, Mùi cùng Tuất, đều là tƣơng
Phá. Duy chỉ có Dần Thân Tị Hợi là nguyên phá, nhƣng là tam hợp, cho nên không lấy phạm
là thiếu niên họa trì trệ, tài sản hao tán, kiêm có họa chết yểu.

(Hết quyển 3)

lesoi
Quyển 4
Quyển 4:

Luận Thập Can tọa Chi kiêm luận gặp tháng giờ và hành vận cát hung
88 | Tam mệnh thông hội

Giáp, Ất

Giáp mộc thuộc dƣơng, chính là tài năng trụ cột. Hỷ sinh Thu Đông, gặp tháng Thân Tý là
cát. Trụ thấy Canh Tân, luận ví nhƣ búa rìu gọt đẽo, chủ có danh lợi. Vận hành đất Thân Dậu
Thìn Tuất Sửu Mùi, tài năng lớn phát ra ƣu việt, thấy Tân Quan càng tốt. Kị Dần Ngọ tuất
hợp cục cùng thấu Đinh hỏa Thƣơng quan, là gian tân khổ lao lực, mệnh làm việc không
thành, vận gặp cũng không thuận. Nếu hợp cục thấu Đinh, có Thìn Tuất Sửu Mùi, trên can lộ
ra Mậu Kỷ, lại hành Tài vận, là Thƣơng quan sinh Tài, lại phát phúc lớn.
Ất mộc thuộc âm, là mộc sinh khí, gặp sức sống mạnh mẽ mà hoa là xinh tốt, cũng hỷ sinh ở
mùa tháng 10 ( tháng Hợi). Gặp hai cục Hợi Mão Mùi và Thân Tý Thìn lại hành Bắc vận, dẫu
có thấu Bính Đinh Canh Tân, cũng không ngại. Chỗ kị là nhiều Dần Ngọ Tuất hỏa cục, Tị
Dậu Sửu, đa số là thƣơng tàn, lại hành Nam vận, chủ yểu là không nghi ngờ.

Giáp Ất quý hồ mộc đắc nghi,


Yếu tri kim thủy vượng vi kỳ.
Xuân tòng Nam vãng Thu quy Bắc,
Đông Hạ Tây hành phát phúc cơ.
(Tạm dịch: Giáp Ất quý ở mộc hòa hợp, phải hiểu kim thủy vƣợng thành kỳ, xuân theo Nam
đến Thu về Bắc, Đông Hạ hành Tây phát phúc đầy).
Ngƣời sinh ngày Giáp Ất, thân tọa Tị Dậu Sửu Thân Tuất đất kim, vận hành phù hợp ở phân
dã ( ranh giới, ý nói trụ giờ) đất thổ kim. Nếu sinh Dần Mão Thìn mà không kết thành mộc
cục, phù hợp có giờ dẫn về ranh giới đất thổ kim, là mệnh đại quý. Hành vận cũng vậy. Thì
đƣờng quan trƣờng rộng lớn. Nếu sinh tháng Tị Dậu Sửu Thân, giờ dẫn quy về Hợi Mão Mùi
Dần, thủ quý không phải lúc này, là vƣợt quá và không đủ, lại yêu cầu vận hành đất thủy mộc
cục, nếu không thì là bần nho. Trong trụ gốc có Tài tinh, sợ Tỉ Kiếp cƣớp đoạt; gốc không có
Tài tinh, không sợ. Nhƣ mộc đƣợc kim mà thành đức độ, có lòng nhân ái mạnh mẽ; kim đƣợc
mộc mà thành tài năng, tất là ngƣời giàu lòng nhân ái, chính là cƣơng nhu cùng giúp nhau,
âm dƣơng tƣơng trợ. Vận hành lại hỷ Tài Quan, nếu có mộc không có kim, thì Canh Tân suy
mà ít nghĩa; có kim không có hỏa, tức dũng mãnh mà vô lễ, thì kim loạn quá thịnh. Còn
không có thủy thì mộc khô quá nhiều, còn không có kim thì dày đặc, thì kim và mộc không
đồng đều vậy. Thiên về âm hoặc thiên về dƣơng, thì mệnh khó có thanh danh, dẫu có gặp Tài
Quan, cũng không phát đạt.
Ngày Lục Giáp dụng Tân là Chính Quan, Canh là Thiên Quan, Mậu Kỷ là Tài. Nhƣ trong
năm tháng và giờ thấu ra chữ Mậu Kỷ Tân, sinh ba tháng mùa Thu ( Thân Dậu Tuất), tháng
tứ quý cùng kim thổ cục, là Tài Quan hữu dụng. Nhƣ không thấu ra ba chữ, chỉ sinh ba tháng
mùa Thu, tứ quý và kim thổ cục, cũng lấy Tài Quan luận. Thấy Giáp Ất là đoạt Tài, thấy
Bính Đinh Thƣơng quan, là danh lợi gian nan. Nếu sinh Xuân Hạ và hỏa mộc cục, thì Tài
Quan vô khí, dù có đƣợc sinh trợ, danh lợi cũng nhẹ. Hỷ hành vận Tây phƣơng, Tứ Quý, ranh
giới của kim thổ hƣớng Quan gần Tài, không thích hƣớng Đông Nam là đất mộc hỏa Thƣơng
quan Bại Tài. Nếu tứ trụ đều thấy Canh Tân, gọi là Quan Sát hỗn tạp, không có khử lƣu chế
phục, trái lại là chủ bần tiện. Nhƣ chủ bần tiện. Nhƣ chỉ có Canh, không thấy chế phục, nên
lấy Quỷ luận, phân ra thân và Quỷ cƣờng nhƣợc mà định cát hung thọ yểu. Nếu chế phục
đƣợc thành, thì lấy Thiên Quan luận; thái quá thì trái lại là không có phúc. Lại xem chỗ Nhật
can ở trong tháng sinh có lực hay không có lực hoặc có trợ hay không có trợ, phân ra tiết khí
nông sâu, nặng nhẹ mà nói. Hỷ hành vận Thân vƣợng Quỷ suy, kị hành vận Thân suy Quỷ
vƣợng.
Ngày Lục Ất dụng Mậu là Chính Tài, Kỷ là Thiên Tài, Canh là Chính Quan, Tân là Thiên
Quan, nếu trên năm tháng và giờ thấu ra chữ Mậu Kỷ Canh, sinh ở ba tháng mùa Thu; hoặc
tháng Tứ Quý cùng kim thổ cục, là Tài Quan hữu dụng. Nhƣ không thấu ra ba chữ này, sinh ở
ba tháng mùa Thu, Tứ Quý cùng kim thổ cục, cũng lấy Tài Quan luận. Thấy Giáp Ất là đoạt
89 | Tam mệnh thông hội

Tài, thấy Bính là Thƣơng quan, danh lợi đều gian nan, nếu sinh Xuân Hạ cùng hỏa mộc cục,
dẫu có Tài Quan, cũng vô khí; dù đƣợc sinh trợ, cũng khinh. Hỷ hành Tây phƣơng, tứ quý,
ranh giới đất kim thổ là hƣớng Quan gần Tài, kị hành đất hỏa mộc, là đất Thƣơng quan Bại
tài. Sợ Quan Sát hỗn tạp, có Sát mà không có chế, lấy Quỷ luận; chế thái quá hoặc bất cập,
đều không phải phúc. Xem kỹ Nhật can ở chỗ bên trong tháng sinh có hay không có lực trợ,
phân ra khinh trọng mà luận. Vận hỷ kị cũng giống nhƣ trên.
09-04-16, 08:26
lesoi
Bính Đinh

Bính hỏa thuộc âm, là chính khí Thái Dƣơng, có thể sinh sôi vạn vật. Hỷ sinh ở giữa tháng
Xuân Hạ, tinh thần tự nhiên thành tựu gấp bội. Gặp thêm Thiên Nguyệt nhị Đức, hành Đông
phƣơng vận, là quá tốt. Dù có thấy Nhâm Quý thủy, cũng không ngại. Duy chỉ kị Mậu thổ
thấu lộ, giảm đi nửa tốt. Đại vận, Tuế quân cùng phạm, hình ngục quan phủ, phá tài, tang
phục. Sinh ở Thu Đông, lại gặp lúc ban đêm, địa chi lại hợp thủy cục, không ngã cũng theo,
cả đời ly biệt cô độc, bần yểu tàn tật.
Đinh hỏa thuộc âm, đã là hỏa, thì có thể chế đƣợc vạn vật. Vàng thau đồng thiết, không có
Đinh chế, thì không thể thành khí, hỷ sinh ban đêm, nguyệt lệnh Tị Dậu Sửu là tốt. Tháng
giêng gặp Dần, chính là Thiên Đức gốc Ấn, lại đƣợc chữ Mão là quá tốt. Kị Nhâm Quý thủy.
Nhƣ sinh ban ngày, thì đa số là khắc vợ con. Gặp Nam phƣơng vận, thì bãi quan từ chức;
hành Tây Bắc phƣơng vận, là quý.

Bính Đinh Nhật chủ hỏa vi căn,


Kim thủy Nhị Tinh thị phúc nguyên,
Hành vận nhược lâm Tây dữ Bắc,
Túng nhiên phú quý bất chu toàn.
( Tạm dịch: Nhật chủ là Bính Đinh hỏa là gốc, hai sao kim thủy là gốc phúc, hành vận nếu
đến Tây và Bắc, dẫu có phú quý cũng không bền).
Ngày Bính Đinh, tự tọa vị trí Thân Tý Thìn Hợi thủy, lại dẫn quy về giờ kim. Nhƣ sinh tháng
Dần Ngọ Tị, gọi là Thủy Hỏa ký tế, mệnh đại quý. Tháng 5 mùa Hạ, kị tam hợp hỏa cục, là
Hỏa viêm Thủy khô. Tháng Tý mùa Đông, bỏ qua tam hợp thủy cục, vì thủy thịnh thì hỏa
diệt. Thủy Hỏa nagng nhau, sinh thành Ký Tế. Đại vận phù hợp ở ranh giới đất kim thủy, lại
kị thái quá và bất cập, hoặc là thiên âm hay thiên dƣơng, mầm sẽ không nở. Nếu sinh tháng
Thân Tý Thìn Hợi, phải cần có giờ Dần Ngọ Tuất Tị là thủ quý. Không phải giờ này, thì hành
vận mộc mới tốt, nếu không, thì hƣ danh không quý.
Ngày Lục Bính dụng Canh Tân là Tài, Quý là Chính Quan, Nhâm là Thiên Quan. Nếu trong
trụ năm tháng và giờ thấu ra chữ Canh Tân Quý, sinh gặp Thu Đông kim thủy cục, là Tài
Quan hữu dụng. Nhƣ không thấu ra ba chữ này, sinh ở trong mùa Thu Đông kim thủy cục,
cũng lấy Tài Quan luận. Thấy Bính Đinh là đoạt Tài, Kỷ là Thƣơng quan, thì danh lợi gian
nan. Nếu sinh ở trong ba tháng mùa Hạ, tháng tứ quý là hỏa thổ cục, dẫu có Tài Quan, cũng
vô khí; dù có đƣợc sinh trợ, cũng khinh. Hỷ hành Tây Bắc ranh giới đất kim thủy, hƣớng vận
Quan đến với Tài. Nếu trong trụ đều thấy Nhâm Quý, là Quan Sát hỗn tạp, không có chế là
tiện. Nhƣ có Nhâm không có Quý, không thấy chế, thì lấy Quỷ luận. Nên phân ra Thân và
Quỷ cƣờng nhƣợc, để định cát hung thọ yểu. Chế phục đƣợc thành, thì lấy Thiên Quan luận;
Thái quá, trái lại là không có phúc. Cần xem kỹ Nhật can ở chỗ bên trong tháng sinh, có lực
hay vô lực, có cứu hay không có cứu, phân ra tiết khí khinh trọng mà luận. Hỷ hành vận Thân
vƣợng Quỷ suy, kị hành vận đất Thân suy Quỷ vƣợng.
Ngày Lục Đinh dụng Canh Tân là Tài, Nhâm là Chính Quan, Quý là Thiên quan. Nếu trong
trụ năm tháng và giờ thấu ra chữ Canh Tân Nhâm, sinh ở Thu Đông mùa kim thủy cục, là Tài
Quan hữu dụng. Nhƣ không thấu ba chữ này, sinh ở Thu Đông kim thủy cục, cũng lấy Tài
90 | Tam mệnh thông hội

Quan luận. Thấy Bính Đinh là đoạt Tài, Mậu là Thƣơng quan, danh lợi khó khổ. Nếu sinh ở
ba tháng mùa Hạ, tháng tứ quý là gặp hỏa thổ cục, dẫu có Tài Quan, cũng vô khí; dẫu có
đƣợc sinh trợ, cũng khinh, hỷ hành Tây Bắc cùng ranh giới đất kim thủy, kị vận Thƣơng quan
Bại tài. Sợ Quan Sát hỗn tạp, có Sát mà không chế, lấy Quỷ luận; Chế thái quá, là bần. Cần
xem kỹ chỗ Nhật can sinh ở bên trong tháng nào có hay không có lực trợ, phân ra tiết khí
khinh trọng mà luận. Vận hỷ kị cũng giống nhƣ ở trên.
09-04-16, 08:27
lesoi
Mậu Kỷ

Mậu thổ thuộc dƣơng, là thổ bờ đê tƣờng thành, chỉ có thể chống cự thủy, không thể nuôi
dƣỡng vạn vật. Phàm thành đê không có hình xung phá hại, nhân dân đƣợc bình an, hỷ có
Giáp Ất mộc, là đất Dĩ Sát hóa Ấn. Kị hành Tây phƣơng vận, dẫu có phát rồi cũng phá cũng
ƣu phiền. Cần có hỏa sinh phù, sợ thủy khắc chế. Trùng phạm Mậu Kỷ, danh lợi đều mất;
Tân Canh trùng điệp, việc làm thì tiến thoái.
Kỷ thổ thuộc âm, là thổ ruộng vƣờn đất núi, có thể lấy để nuôi dƣỡng vạn vật, cần hình xung
phá hại, tức là nói cày bừa canh tác. Hỷ sinh Xuân Hạ đất Thìn Tị, là đất Quan Ấn. Lại không
nên gặp Thƣơng quan làm tổn hại Ấn. Phát phúc, chủ là ngƣời biết tạo đất ruộng vƣờn canh
tác mà làm giàu. Hành phƣơng vận Đông Bắc, càng tốt. Kiêm thêm Hợi Mão Mùi mộc, quyết
chủ là phú quý, ngƣời và vật ổn định phong hậu, tấm lòng rộng lƣợng khoan dung. Gặp Thìn
Tuất Sửu Mùi, chính là Bối Lộc trục Mã cùng với Kiếp tài hình thƣơng, không thì cũng gặp
phá hao kiện tụng tang phục.
Mậu Kỷ Nhật can tầm thủy mộc,
Trụ trung nguyên hữu hoàn vi phúc.
Vận lâm Bắc dã cập Đông phương,
Đức nhuận thân hề phú nhuận ốc.
( Tạm dịch: Nhật can Mậu Kỷ nên tìm thủy mộc, trong trụ vốn có vẫn là phúc, vận đến
phƣơng Bắc và phƣơng Đông, ngƣời đầy đạo đức cùng thân giàu có đầy đủ).
Ngày sinh là Mậu Kỷ, tọa ở dƣới vị trí Hợi Mão Dần, gọi là Câu Trần đắc vị. Vận hành thích
hợp ở ranh giới đất thủy mộc. Sinh tháng Hợi Tý, cần quy dẫn về giờ Thìn Tuất Sửu Mùi Tị
Ngọ, nếu sinh tháng là Thìn Tuất Sửu Mùi Tị Ngọ, phải dẫn về giờ Hợi Tý là mới quý. Bởi vì
thổ đƣợc mộc mà khai thông, mộc dựa vào thổ mà bồi dƣỡng. Nếu mộc nhiều mà thổ thiếu,
thì sụp đổ; thổ nhiều mà không có mộc khai thông, là thổ ngu muội vô dụng. Ngày Tị tháng
năm là Sửu, Tây phƣơng là không cát, Nam phƣơng thì đại hiển.
Ngày Lục Mậu, ngoại trừ Mậu Tuất là Khôi Cƣơng, Tài Quan hỷ kị, luận ở dƣới ngày. Còn
lại 5 ngày là Mậu Tý, Mậu Ngọ, Mậu Thân, Mậu Dần, Mậu Thìn, dụng Nhâm Quý là Tài, Ất
là Chính Quan, Giáp là Thiên Quan. Nếu trong trụ năm tháng và giờ thấu ra chữ Nhâm Quý
Ất, sinh gặp mùa Xuân Đông là thủy mộc cục, thì Tài Quan là hữu dụng, không thấu ra ba
chữ này, sinh gặp mùa Xuân Đông và thủy mộc cục, cũng lấy Tài Quan luận. Thấy Mậu Kỷ
là đoạt Tài, Tân là Thƣơng quan, danh lợi đều gian nan. Nếu sinh ở ba tháng mùa Thu, tứ quý
và kim thổ cục, thì Tài Quan đều vô khí, dẫu có đƣợc sinh trợ, cũng khinh. Hỷ hành Đông
Bắc phƣơng ranh giới đất thủy mộc, là vận hƣớng Quan gần Tài, kị hành đất tứ quý, Tây
phƣơng là đất Bại tài Thƣơng quan. Nếu trụ thấu ra Giáp Ất, là Quan Sát hỗn tạp, không có
chế trái lại là tiện. Nhƣ không có Ất mà có Giáp, không có chế, thì nên lấy Quỷ luận. Cần
phải phân ra Thân và Quỷ cƣờng nhƣợc, để định cát hung thọ yểu. Chế phục trung hòa, thì
lấy Thiên Quan mà luận; Thái quá, trái lại là không có phúc. Nên xem kỹ chỗ Nhật can ở bên
trong tháng sinh có hay không có lực trợ, có hay không có cứu, phân ra tiết khí nông sâu cùng
khinh trọng mà luận. Hỷ hành vận thân vƣợng Quỷ suy, kị vận Thân suy Quỷ vƣợng.
Ngày Lục Kỷ dụng Nhâm Quý là Tài, Giáp là Chính Quan, Ất là Thiên Quan. Nếu trong trụ
năm tháng và giờ thấu ra chữ Nhâm Quý Giáp, sinh ở mùa Xuân Đông là thủy mộc cục, thì
91 | Tam mệnh thông hội

Tài Quan có khí. Nhƣ không thấu ra ba chữ này, sinh mùa Xuân Đông thủy mộc cục, cũng
lấy Tài Quan luận. Thấy Mậu Kỷ là đoạt Tài, thấy Canh là Thƣơng quan, thì danh lợi gian
nan. Nếu sinh ở ba tháng mùa Thu, tứ quý và kim thổ cục, dẫu có Tài Quan, cũng vô khí; dẫu
có đƣợc sinh trợ, cũng khinh. Hỷ hành Đông Bắc ranh giới đất thủy mộc, kị vận Thƣơng quan
Bại tài. Sợ Quan Sát hỗn tạp, có Sát không có chế, lấy Quỷ luận; chế thái quá, thì bần. lại cần
nên xem kỹ Nhật can chỗ ở bên trong tháng sinh có hay không có lực trợ, phân ra khinh trọng
mà luận. Vận hỷ kị cũng giống nhƣ trên.
09-04-16, 08:34
lesoi
Canh, Tân

Canh kim thuộc dƣơng, là loại kim ngân đồng thiết, bẩm Thái Dƣơng mà thành. Nếu thấy
Đinh hỏa chế, mới có thể thành khí. Nhƣ thấy Bính hỏa, thì gặp cũng nhƣ không. Hỷ hành
vận Đông Nam hỏa mộc, thì sáng ngời, kim đƣợc chế. Nhƣ gặp Dần Mão lâm ở Giáp Ất,
cùng Tị Ngọ Mùi Quan tinh Ấn nguyên đất đắc khí, đều là phát tính ƣu việt. Duy chỉ có ở
phƣơng Tây Bắc, gọi là Kim trầm thủy để, là không thể thành khí.
Tân kim thuộc âm, là loại trân châu thủy ngân, chu sa, xích bích, nắm giữ Nhật tinh Nguyệt
hoa mà kết thành tú khí. Rất cần Kim thanh Thủy tú, phƣơng đất thổ khí phong phú, cùng vận
phƣơng Tây Bắc. Nhƣ hành vận Thìn Tuất Tị Đông Nam, tứ trụ ngũ hành không thấy Đinh
hỏa là tốt, thấy thì không thể thành khí. Giống nhƣ châu báu rớt trong lò, nở mà không đầy.
Càng sợ Dần Ngọ Tuất thành cục Sát vƣợng, cần thân cƣờng là nắm vƣợng khí, trụ có Hợi
Mão Mùi, lại thấy Bính Đinh thấu ra, hành vận Ngọ Mùi, là phát phúc. Tị Dậu sửu thành kim
cục, là tạo hóa ôn hòa hiền hậu, hành vận Đông phƣơng, là đại cát; không thích hợp phƣơng
Nam.

Canh Tân nhật chủ hiệu can Kim,


Mộc hỏa tương sinh phúc tự chuyên.
Niên nguyệt thời trung như hội hợp,
Đông Tây vận bộ định cư quan.
(Tạm dịch: Nhật chủ là Canh Tân hiệu là Can kim, có mộc hỏa tƣơng sinh thì tự có phúc,
trong trụ năm tháng và giờ nếu hội đủ, bƣớc vận Đông Tây định làm quan).
Ngày sinh là Canh Tân, tọa ở dƣới Dần Ngọ Tuất Tị hỏa, lại sinh tháng Dần Ngọ Tuất, giờ
cần dẫn về kim thổ, mới quý. Ba tháng mùa Thu cùng với tháng 12 hoặc tháng 11, giờ dẫn về
mộc hỏa vƣợng, là đại quý. Vận hành ranh giới đất mộc hỏa, kị thái quá và bất cập, hoặc
thiên dƣơng hoặc thiên âm, thì mầm không nở. Nếu khí tháng thông hỏa, giờ không phải là Tị
Dậu Sửu Thân thì không quý. Vận kim thổ thì cát. Tỉ kiên tam hợp thành kim cục, thì kim
thịnh hỏa suy. Hỷ hành vận mộc hỏa. Cho nên kim không có hỏa thì không thể thành khí, hỏa
không có kim thì không thể hiển dụng. Kim Hỏa ngang nhau, mới nhận đƣợc áo mũ mà cƣỡi
lên thềm quan. Nếu hỏa quá viêm mà không có thổ, thì kim tất bại; có thổ thì là có tƣợng đúc
thành Ấn, nung đúc mà hóa đổi thành khí, là mệnh đại nhân vậy, hỏa nhiều kim ít, kim thịnh
hỏa ít, đều là gặp cảnh hung bạo.
Ngày Lục Canh, ngoại trừ Canh Tuất Canh Thìn là Khôi cƣơng, Tài Quan hỷ kị, luận ở dƣới
ngày, còn lại 4 ngày Canh Thân, Canh Dần, Canh Ngọ, Canh Tý, dụng Giáp Ất là Tài, Đinh
là Chính Quan, Bính là Thiên Quan. Nếu trong các trụ năm tháng và giờ thấu ra chữ Giáp Ất
Đinh, sinh ở mùa Xuân Hạ gặp hỏa mộc cục, thì Tài Quan hữu dụng; nhƣ không thấu ra ba
chữ này, sinh ở Xuân Hạ gặp hỏa mộc cục, cũng lấy Tài Quan luận. Thấy Canh Tân là đoạt
Tài, thấy Nhâm Quý là Thƣơng quan, danh lợi đều gian nan. Nhƣ sinh mùa Thu Đông gặp
kim thủy cục, thì Tài Quan đều vô khí, dù có đƣợc sinh trợ, cũng khinh. Hỷ hành vận Đông
Nam ranh giới đất mộc hỏa, là vận hƣớng Quan đến Tài, không thích hành vận Tây Bắc ranh
giới đất kim thủy, là vận Thƣơng quan Bại tài. Nếu trụ có Bính Đinh, là Quan Sát hỗn tạp,
92 | Tam mệnh thông hội

Sát không có chế là tiện. Nhƣ không có Đinh có Bính, không có chế, thì lấy Quỷ luận. Cần
phân ra thân quỷ cƣờng nhƣợc, để định cát hung thọ yểu. Chế phục nếu thành, lấy Thiên
Quan luận; Chế thái quá, lại không thành phúc. Cần xem kỹ Nhật can chỗ ở bên trong tháng
sinh có hay không có lực trợ, phân ra tiết khí nông sâu khinh trọng mà luận. Hỷ hành vận
thân vƣợng quỷ suy, kị vận thân suy quỷ vƣợng.
Ngày Lục Tân dụng Giáp Ất là Tài, Bính là Chính Quan, Đinh là Thiên Quan. Trong trụ năm
tháng và giờ thấu ra chữ Giáp Ất Bính, sinh mùa Xuân Hạ cùng gặp hỏa mộc cục, là Tài
Quan hữu dụng; nhƣ không thấu ra ba chữ này, sinh Xuân Hạ cùng hỏa mộc cục, cũng lấy
Tài Quan mà luận. Thấy Canh Tân là đoạt Tài, thấy Nhâm Quý là Thƣơng quan, thì danh lợi
gian nan. Nếu sinh Thu Đông cùng kim thủy cục, thì Tài Quan đều vô khí, dù đƣợc sinh trợ,
cũng khinh. Vận hỷ Đông Nam ranh giới đấ hỏa mộc, là vận hƣớng Quan đến Tài, không
thích phƣơng Tây Bắc ranh giới của đất kim thủy, là vận Thƣơng quan Bại tài. Sợ Quan Sát
hỗn tạp, có Sát không có chế, lấy Quỷ luận; chế thái quá, thì không có phúc. Nên xem kỹ
Nhật can chổ ở trong tháng sinh có hay không có lực trợ, phân ra khinh trọng mà luận. Vận
hỷ kị cũng giống nhƣ trên.
09-04-16, 08:35
lesoi
Nhâm Quý

Nhâm thủy thuộc dƣơng, là thủy biển lớn không có bờ bến, không thể sinh trƣởng vạn vật.
Chỉ hỷ ngƣời sinh mùa Xuân Hạ, gặp mùa Thu Đông, thì không có sức sống. Nếu thấy Dần
Ngọ Tuất là Quan tinh, đắc khí sinh trợ, danh dự tự rõ ràng. Kim cục sinh tháng 8, danh lợi
đều thành, thủy cục sinh tháng 3, là Thiên Đức chủ quý. Địa chi Hợi Mão Mùi, hành vận
Nam phƣơng thì phát tài.
Quý thủy thuộc âm, là thủy dòng sông chảy dài, có thể sinh sôi thảo mộc, nuôi dƣỡng vạn vật
lâu dài. Cũng nói là thủy vũ lộ nhuận trạch, sinh trợ vạn vật. Hỷ giữa mùa Xuân Thu, vận
hành đất Tị Ngọ Tuất, phát phúc phi thƣờng. Đại kị vận Thìn Tuất Sửu Mùi, nhiều thành bại.
Địa chi hợp Hợi Mão Mùi, là tổn vƣợng ích tài. Không có Dần Giáp, cũng phát danh lợi, nhƣ
thấy tháng Kỷ thổ Sửu Mùi, lại mang theo tam hình, chỉ là y lộc bình thƣờng, vận đầu và
trung không phát, cuối vận vinh phát. Nếu ngũ hành có cứu, thân vƣợng, vận hỷ Tài Quan,
cũng chủ quý hiển.

Nhâm Quý nhật sinh thủy vi chủ,


Căn cơ duy tại hỏa dữ thổ.
Xuân Thu lai vãng phát Tài Quan,
Đông Hạ Đông hành vi đắc sở.
(Tạm dịch: Ngày sinh là Nhâm Quý thì thủy làm chủ, căn cơ chỉ có ở hỏa và thổ, lui tới mùa
Xuân và mùa Thu thì Tài Quan phát, mùa Đông mùa Hạ đi về phƣơng Đông là chốn đƣợc).
Ngày sinh Nhâm Quý, tọa ở dƣới Thìn Tuất Sửu Mùi Tị Ngọ, gọi là Huyền Vũ đƣơng quyền.
Vận hành phù hợp ở ranh giới đất hỏa mộc, thái quá và bất cập, hoặc là thiên âm hay thiên
dƣơng, thì quý mà không thực. Nếu sinh tháng tứ quý và Tị Ngọ, giờ dẫn Hợi Tý; hoặc sinh ở
mùa Đông, giờ dẫn về Thìn Tuất Sửu Mùi Tị Ngọ, đều quý. Không phải giờ này, là hƣ danh
hƣ lợi. Vận hỷ ở ranh giới đất kim thủy, sinh trợ là vinh. Không có kim thì thủy tuyệt. Kị Tỉ
kiên Kiếp tài. Mùa Đông tháng 11 ( tháng Tý) kết cục tam hợp, thì thủy bành trƣớng chảy
tràn lan mà thổ sụp đổ. Cho nên thủy không có thổ thì phiếm lạm, thổ không có thủy thì khô
cạn. Thổ đƣợc thủy mà nhận khí thông mà tƣơi nhuận, thủy đƣợc thổ mà thành đê ngạn ngăn
sông, cả hai đều không thể thiên lệch một bên. Nếu lại thêm vận khí đƣợc thích hợp, không
có không quý hiển. Các cách Hình hợp, Củng hợp không luận ở chỗ này.
Ngày Lục Nhâm ngoại trừ Nhâm Thìn là Khôi Cƣơng, Tài Quan hỷ kị, luận ở dƣới ngày. Còn
lại 5 ngày là Nhâm Dần, Nhâm Tý, Nhâm Thân, Nhâm Ngọ, Nhâm Tuất thì dụng Bính Đinh
93 | Tam mệnh thông hội

là Tài, Kỷ là Chính Quan, Mậu là Thiên Quan. Tứ trụ thấu ra chữ Bính Đinh Kỷ, sinh ở ba
tháng mùa Hạ, tháng tứ quý gặp hỏa thổ cục, là Tài Quan hữu dụng; nhƣ không thấu ra ba
chữ này, sinh ba tháng mùa Hạ hỏa thổ cục, cũng lấy Tài Quan luận. Thấy Nhâm Quý là đoạt
tài, thấy Ất là Thƣơng quan, thì danh lợi đều gian nan. Nếu sinh Xuân Đông cùng gặp thủy
mộc cục, thì Tài Quan đều vô khí; dù đƣợc sinh trợ, cũng khinh. Hỷ hành vận Nam phƣơng
Tứ quý đất ranh giới của hỏa thổ, là vận hƣớng Quan đến Tài. Trụ thấy Mậu Kỷ, là Sát Quan
hỗn tạp, không có chế thì tiện. Nhƣ không có Kỷ có Mậu, không thấy chế phục, lấy Quỷ luận.
Cần phân ra thân quỷ cƣờng nhƣợc, để định cát hung quý tiện. Chế phục đƣợc thành, lấy
Thiên Quan luận, chế thái quá, thì mất phúc. Lại nên xem kỹ Nhật can chỗ ở bên trong tháng
sinh có hay không có lực trợ, phân ra tiết khí nông sâu khinh trọng mà luận. Hỷ hành vận
thân vƣợng quỷ suy, kị hành vận thân suy quỷ vƣợng.
Ngày Lục Quý dụng Bính Đinh là Tài, Mậu là Chính Quan, Kỷ là Thiên Quan. Nếu tứ trụ
thấu ra chữ Bính Đinh Mậu, sinh ở ba tháng mùa Hạ, tháng tứ quý là hỏa thổ cục, thì Tài
Quan hữu dụng, nếu không thấu ra ba chữ này, sinh ở ba tháng mùa Hạ, tứ quý gặp hỏa thổ
cục, cũng lấy Tài Quan luận. Thấy Nhâm Quý thủy là đoạt tài, thấy Giáp là Thƣơng quan,
đều bất lợi. Nếu sinh Xuân Đông gặp thủy mộc cục, thì Tài Quan đều vô khí. Hỷ hành Nam
phƣơng tháng tứ quý là vận Tài Quan. Sợ Quan Sát hỗn tạp, có Sát không có chế, lấy Quỷ
luận; có chế thái quá, là hung. Lại nên xem kỹ Nhật can ở bên trong nguyệt lệnh có hay
không có lực trợ, khinh trọng mà luận. Vận hỷ kị giống nhƣ ở trên.
10-04-16, 10:27
lesoi
Luận Nhật Can được 12 Chi tháng cát hung

Tháng Tý:

+ Ngày Giáp Ất gặp tháng Tý là Ấn thụ, hỉ thấy Quan lộ Ấn, kỵ tọa Thiên Tài, tổn thƣơng
Ấn. Tuế vận hỉ kỵ cũng giống vậy.
+ Ngày Bính Đinh là Quan, quý, âm dƣơng hòa hợp. Hỉ lộ Tài, Quan, thấy tam hợp, lục hợp,
Quan Ấn hợp, cần khảo sát khí trong Nguyệt lệnh. Thân vƣợng hỉ Tài, Quan, thân nhƣợc hỉ
Ấn vƣợng. Kỵ Thất Sát Thƣơng quan, tuế vận tổn thƣơng là đất phúc, Đinh gặp Thiên Quan,
là lƣỡng âm tấn công nhau, hỉ thân vƣợng có hợp chế, kỵ thân nhƣợc không có hợp lộ, Chính
Quan cùng tứ trụ mang nhiều không có chế phục, vận hỉ thân vƣợng hợp Thiên Quan, kỵ thân
nhƣợc.
+ Ngày Mậu Kỷ là Tài, hỉ lộ Tài thân vƣợng, kỵ tọa Nhận thấu Tỉ. Ngày sinh không gặp Hợi
Tý, khó là Tài vận. Hỉ thân vƣợng cùng Tài, thân nhƣợc hỉ vƣợng, kỵ Kiếp.
+ Ngày Canh Tân là Tài sinh trƣởng, hỉ tọa lộ Tài thân vƣợng, kỵ không có Tài thân nhƣợc.
Nhƣ tứ trụ hoàn toàn không có Tài tinh, thì không phải là Tài sinh trƣởng, mà là Thƣơng
quan bối Lộc, cần Nguyệt lệnh mang giờ Thiên quan, ngày Canh giờ Bính giờ Tị, ngày Tân
giờ Đinh giờ Ngọ thì là có chế, mới cát. Thứ là cần ngày giờ mang các loại Bất kiến chi Hình,
là quý. Nhƣ 3 cửa năm ngày giờ đều không gặp, là đƣợc. Hành vận thân vƣợng hỉ Tài, thân
nhƣợc hỉ vƣợng. Toàn bộ đều kỵ Tỉ, Kiếp.
+ Ngày Nhâm Quý, Nhâm là vƣợng, Quý là Kiến Lộc, chỉ vì thân cƣờng, ngại gì hai chữ
danh lợi lại bị nguyệt lệnh đốt hết, rất hợp giờ mang Thiên Quan, quý, nhƣ ngày Nhâm giờ
Mậu giờ Tị, ngày Quý giờ Kỷ giờ Ngọ vậy. Thứ là hợp với ngày giờ mang loại Bất kiến chi
Hình, là quý. Nhƣ 3 cung năm tháng giờ đều không gặp, là đƣợc, vận hỉ hành Thiên Quan, kỵ
Chính Quan.

Tháng Sửu:

+ Ngày Giáp Ất gặp tháng Sửu là tạp khí Quan, quý. Hỉ Quan tinh thấu can; không thấu thì
94 | Tam mệnh thông hội

phải xung, đã thấu thì sợ xung. Vận hỉ hành Tài, kỵ Quan tàng không có xung, Quan Sát hỗn
cùng Thƣơng quan. Quan thích nhiều hợp. Thân vƣợng hỉ vận Tài, Quan, thân nhƣợc hỉ hành
đất vƣợng. Kỵ Sát Thƣơng, tuế cũng giống nhƣ vậy.
+ Ngày Bính Đinh là tạp khí Tài, hỉ Tài thấu can, kỵ Dƣơng Nhận, Tỉ kiên. Vận thân vƣợng
hỉ Tài, thân nhƣợc hỉ đất vƣợng. Kỵ Kiếp, Tài. Nếu ngày sinh không gặp Thân Dậu Sửu, làm
khó Tài.
+ Ngày Mậu Kỷ là dƣ khí Tài, sinh đầu tháng sau tiết Tiểu Hàn 7 ngày 1/2, có Quý thủy dƣ
khí, không có Tỉ kiên Bại tài, Dƣơng Nhận cũng có thể phát tài, quý. Nhƣ sinh qua thời kỳ
này, trong Sửu không có lợi không có hại, bình thƣờng. Hai cung ngày giờ có thể mang loại
quý cách, cũng có thể phát. Có dƣ khí Tài quý, hỉ Tài lộ thân vƣợng, kỵ Tài suy thân nhƣợc.
Vận hỉ kỵ cũng giống vậy.
+ Ngày Canh Tân là tháng tự khố, chỉ gặp thân cƣờng, ít bệnh, an ổn, thọ dài, trong nguyệt
lệnh lại không có vật có thể chọn. Khá hợp với giờ Thiên Quan, quý; cùng mang ngày giờ
loại Bất kiến chi Hình, vẫn phát phúc, giờ bần quan, nhƣ ngày Canh giờ Bính giờ Tị, ngày
Tân giờ Đinh giờ Ngọ. Vận hỉ hành hợp Thiên Quan, kỵ Chính Quan.
+ Ngày Nhâm Quý là tạp khí Tài, quý. Hỉ thấu Ấn kiến Quan cùng hình xung, kỵ Ấn phục.
Vận cần hành đất Quan Ấn, kỵ hành Tài tổn thƣơng Ấn. Còn lại luận nhƣ trên.
10-04-16, 10:27
lesoi
Tháng Dần:

+ Ngày Giáp gặp Dần là Kiến Lộc, ngày Ất là vƣợng tƣớng. Trong Nguyệt lệnh không có
cách để thủ, chỉ đƣợc lợi năm thân vƣợng. Khá hợp giờ mang Thiên Quan cùng ngày giờ
mang loại Bất kiến chi Hình, quý. Giờ Thiên Quan, là ngày Giáp giờ Canh giờ Thân, ngày Ất
giờ Tân giờ Dậu. Nhƣ 3 cung năm ngày giờ không có cách để thủ, có thể biết cả đời, có
Thiên Quan, hỉ hành vận hợp Thiên Quan, kỵ Chính Quan.
+ Ngày Bính Đinh là Ấn, quý. Hỉ tọa Quan lộ Quan, lại lộ Ấn tinh. Kỵ lộ Tài. Hợp với hành
vận Quan, Ấn, kỵ Tài, tổn thƣơng Ấn.
+ Ngày Mậu là Thiên Quan, quý. Hai dƣơng tấn công nhau, hỉ thân vƣợng, kỵ thân nhƣợc.
Thiên Quan có hợp chớ chế, không có hợp mới cần chế. Vận hỉ thân vƣợng hợp chế, kỵ thân
nhƣợc Chính Quan cùng tiếp tục hành đất Sát. Ngày Kỷ là Chính Quan, quý. Âm dƣơng hòa
hợp, hỉ tọa lộ Tài, lại lộ Quan tinh, tam hợp lục hợp, thân vƣợng. Kỵ Thất Sát Thƣơng quan.
Quan thích minh hợp. Thân vƣợng hỉ hành Tài, Quan, thân nhƣợc hỉ vƣợng. Kỵ Thất Sát
Thiên Quan.
+ Ngày Canh Tân là Tài, hỉ Tài nhiều lộ thân vƣợng, kỵ tọa Nhận thấu Tỉ. Thân nhƣợc không
gặp ngày Dần Mão, khó là Tài vận, thân vƣợng hỉ Tài, thân nhƣợc hỉ vƣợng, kỵ Kiếp.
+ Ngày Nhâm Quý là Tài trƣờng sinh, hỉ Tài thấu can, kỵ phục tàng. Nhƣ trụ không có Tài
thấu. Thì không phải là Tài sinh trƣởng, chỉ là Thƣơng quan bối Lộc. Nguyệt lệnh khá hợp
với trụ giờ Thiên Quan, ngày Nhâm giờ Mậu giờ Tị, ngày Quý là giờ Kỷ giờ Ngọ, cùng cần
năm ngày giờ có loại Bất kiến chi Hình, quý. Nhƣ 3 cung này đều không có cách, khó nói là
mệnh tốt. Vận thân vƣợng hỉ Tài, thân nhƣợc hỉ vƣợng. Kỵ thân nhƣợc cùng Chính Quan.

Tháng Mão:

+ Ngày Giáp gặp tháng Mão, là vƣợng tƣớng. Ngày Ất gặp Mão, là Kiến Lộc, Giáp Ất sinh
tháng Mão loại không có thủ cách, chỉ lợi đƣợc thân cƣờng mệnh thọ. Khá hợp với giờ mang
Thiên Quan cùng loại Bất kiến chi Hình, quý. Thiên Quan, nhƣ ngày Giáp giờ Canh giờ
Thân, ngày Ất giờ Tân giờ Dậu. Nếu 3 cung năm ngày giờ đều không có cách này, là mệnh
bình thƣờng, nếu mang Thiên Quan, hỉ hợp, kỵ vận Chính Quan.
+ Ngày Bính Đinh là Ấn, hỉ lộ hai sao Quan Ấn, kỵ Thiên Tài, vận cũng nhƣ vậy.
95 | Tam mệnh thông hội

+ Ngày Mậu là Chính Quan, hỉ tọa Tài lộ Quan, tam hợp lục hợp, thân vƣợng. Kỵ Sát
Thƣơng. Quan thích nhiều hợp. Vận thân vƣợng hỉ Tài, Quan, thân nhƣợc hỉ vƣợng. Kỵ Thất
Sát Thƣơng Quan. Ngày Kỷ là Thiên Quan, hỉ thân vƣợng có hợp, không có thì phải chế. Kỵ
thân nhƣợc không có hợp cùng lộ Chính Quan. Vận hỉ kỵ cũng nhƣ vậy.
+ Ngày Canh Tân là Tài, hỉ thấu tự vƣợng. Ngày không tọa Dần Mão, là làm khó tài, kỵ tọa
Kiếp lộ Tỉ. Vận thân vƣợng hỉ Tài. Thân nhƣợc hỉ vƣợng. Kỵ Kiếp, cùng Tỉ.
+ Ngày Nhâm Quý là Tài sinh trƣởng, hỉ tọa lộ Tài; nhƣ trụ không có Tài, thì không phải là
Tài sinh trƣởng, chỉ là Thƣơng quan bối Lộc, nguyệt lệnh khá hợp với trụ giờ mang Thiên
Quan, nhƣ ngày Nhâm giờ Mậu giờ Tị, ngày Quý giờ Kỷ giờ Ngọ, là cần mang loại Bất kiến
chi Hình, quý. Vận thân vƣợng hỉ Tài, thân nhƣợc hỉ vƣợng. Mang Thiên Quan, hỉ hợp Thiên
Quan. Kỵ Kiếp Tài, Chính Quan.
10-04-16, 10:28
lesoi
Tháng Thìn:

+ Ngày Giáp Ất sinh tháng Thìn là tạp khí Ấn, hỉ kiến Quan tinh cùng Ấn lộ, không lộ thì cần
xung, đã lộ thì sợ xung. Kỵ thấy Tài nhiều tổn thƣơng Ấn. Vận hỉ kỵ cũng nhƣ vậy.
+ Ngày Bính Đinh là tạp khí Quan, hỉ Quan thấu, không thấu thì phải xung. Kiến Tài thân
cƣờng phát phúc. Kỵ Quan phục không có xung cùng Sát Thƣơng. Vận thân cƣờng hỉ Tài,
Quan, nhƣợc thì hỉ vƣợng. Kỵ Sát cùng Thƣơng.
+ Ngày Mậu Kỷ là tạp khí Tài, hỉ Tài lộ vƣợng, không lộ phải xung. Kỵ Tài phục không có
xung, tọa Nhận Tỉ kiên. Ngày không tọa Hợi Tý Thìn, là làm khó tài. Vận thân vƣợng hỉ Tài.
Nhƣợc thì hỉ vƣợng. Kỵ cùng Kiếp.
+ Ngày Canh Tân là dƣ khí Tài, quý. Sau tiết Thanh Minh 7 ngày ½ có Ất mộc dƣ khí, mới
có thể phát. Nhƣ sinh đầu tháng, không có Tỉ Nhận đoạt Tài đều có thể phát. Qua thời kỳ này
thì giữa Thìn không có lợi cũng không có hại, bình thƣờng. Nhƣ ngày giờ mang loại quý
cách, cũng phát. Vận có dƣ khí Tài, thân vƣợng hỉ Tài địa, kỵ thân nhƣợc Kiếp địa Tài suy.
+ Ngày Nhâm Quý là tự khố, chỉ là thân cƣờng ít bệnh tật, nguyệt lệnh không có quý để thủ.
Khá hợp với trụ giờ Thiên Quan cùng ngày giờ có loại Bất kiến chi Hình, quý, vẫn phát phúc.
Chớ trói buộc ở nguyệt lệnh. Vận giống nhƣ giờ có Thiên Quan, hỉ hành hợp chế, kỵ hành
Chính Quan, Thƣơng Quan.

Tháng Tị:

+ Ngày Giáp Ất gặp tháng Tị là Tài, quý. Không sinh ở ngày Tị Ngọ, là làm khó Tài. Danh
cũng là Tài sinh trƣởng, quý. Mậu thổ lộ thì Tài tinh càng sáng, Bính hỏa lộ thì tổn thƣơng
tinh thần. Hỉ thân vƣợng Tài lộ, kỵ tọa Sửu lộ Tỉ. Vận thân vƣợng hỉ Tài, thân nhƣợc hỉ
vƣợng.
+ Ngày Bính là Kiến Lộc, ngày Đinh là vƣợng tƣớng. Bính Đinh sinh tháng Tị không thể thủ
dụng làm phúc, chỉ là thân vƣợng sống thọ. Khá hợp với giờ mang Thiên Quan cùng ngày giờ
quý cách. Bính Đinh tháng Tị cũng lại là Tài sinh trƣởng, quý, Tài phải lộ, nhƣ không lộ, chỉ
là Thƣơng quan bối Lộc. Nguyệt lệnh là Tài sinh trƣởng, hỉ hành Tài vận. Mang Thiên Quan,
hỉ vận hợp, kỵ động Tài, Chính Quan.
+ Ngày Mậu Kỷ cũng là Kiến Lộc, lấy gì phân biệt? Chỉ có năm tháng giờ lộ Bính hỏa là Ấn;
Bính không lộ, lại có chữ Nhâm Quý, chỉ là Kiến Lộc, Ấn thụ, quý. Hỉ lộ Quan tinh cùng
hành đất Quan Ấn, kỵ tổn thƣơng Quan Ấn. Nhƣ Kiến Lộc, giờ cần mang Thiên Quan. Hỉ tự
thân cƣờng vƣợng, vận cần hợp Thiên Quan, kỵ Chính Quan.
+ Ngày Canh là Thiên Quan, quý. Ấn cùng Quan, hỉ thân vƣợng hợp chế, có hợp chớ chế; kỵ
thân nhƣợc không có hợp, vận Chính Quan cũng đồng luận, kỵ thấy tiếp Thiên Quan, hoàn
toàn không có chế, đa số là yểu. Độc ngày Canh Thân thì không phải vậy, tại sao? Trong Tị
96 | Tam mệnh thông hội

có thổ, có thể sinh kim, kim vừa trƣờng sinh, lại vừa tự tọa lộc, làm sao có yểu. Lại linh hoạt
xem Nhâm lộ không có Bính, Quý lộ không có Đinh, Giáp lộ Mậu suy, Ất lộ Kỷ bệnh nhƣ
thế nào. Ngày Tân là Chính Quan, Tân là Thiên Đức, hỉ Quan lại thấu cùng Tài lộ. Quan
thích nhiều hợp cùng đất tam hợp lục hợp, kỵ tọa Thất Sát Thƣơng quan. Vận thân cƣờng hỉ
Tài, Quan, thân nhƣợc hỉ vƣợng, kỵ Thất Sát Thƣơng quan.
+ Ngày Nhâm là Thiên Quan, hỉ thân cƣờng, Thiên Quan có hợp chớ chế. Kỵ thân nhƣợc lộ
Quan. Vận hỉ thân vƣợng hợp Thiên Quan, kỵ thân nhƣợc vƣợng Quan hoàn toàn không có
chế phục, đa số là yểu. Ngày Quý là Chính Quan, hỉ lộ Tài Quan, tam hợp lục hợp, thân
vƣợng, kỵ Thất Sát Thƣơng quan, Quan thích nhiều hợp. Vận hỉ thân vƣợng cùng đất Quan
Ấn, nhƣợc thì hỉ Ấn, kỵ Sát.
10-04-16, 10:29
lesoi
Tháng Ngọ:

+ Ngày Giáp Ất gặp tháng Ngọ là Tài, quý. Cũng là Tài sinh trƣởng, Kỷ thổ lộ thì Tài càng
hiển, Đinh hỏa lộ thì tổn thƣơng tinh thần. Hỉ thân vƣợng, kỵ Nhận Tỉ. Vận thân vƣợng hỉ
Tài, thân nhƣợc hỉ vƣợng. Kỵ Tỉ, Kiếp.
+ Ngày Bính tháng Ngọ là vƣợng tƣớng, ngày Đinh là Kiến Lộc. Ngày Bính Đinh sinh tháng
5 không có thủ lấy phúc, chỉ là thân vƣợng sống thọ. Khá hợp với giờ mang Thiên Quan cùng
ngày giờ có loại Bất kiến chi Hình, quý. Bính Đinh lại sinh tháng Ngọ là Tài sinh trƣởng,
quý, cần Tài lộ, nhƣ Tài không lộ, chỉ là Thƣơng quan bối Lộc. Nguyệt lệnh mang giờ Thiên
Quan, hỉ hành vận hợp chế. Có Tài sinh trƣởng, hỉ hành Tài vận.
+ Ngày Mậu Kỷ là Ấn, cũng là Kiến Lộc, làm sao phân biệt? Năm tháng giờ có can lộ Đinh
là Ấn; hỉ thấu Quan Ấn, kỵ Tài không có Ấn, lấy Kiến Lộc luận.
+ Ngày Canh là Chính Quan tinh, thân nhƣợc hỉ vƣợng, kỵ Thất Sát Thƣơng quan, tuế vận
tổn thƣơng là đất phúc. Ngày Tân là Thiên Quan, hỉ thân vƣợng hợp chế, có hợp chớ chế,
cũng lợi thổ lộ hỏa tàng, kỵ thân nhƣợc không có hợp cùng Chính Quan. Vận hỉ thân vƣợng
hợp Thiên Quan, kỵ Chính Quan, lại thầy tiếp Thiên Quan.
+ Ngày Nhâm là Chính Quan Chính Tài, hỉ thân vƣợng, tam hợp lục hợp, kỵ Thất Sát
Thƣơng quan, Quan thích nhiều hợp. Vận thân vƣợng hỉ Tài, Quan, thân nhƣợc hỉ vƣợng. Kỵ
Thất Sát Thƣơng quan, tuế vận tổn thƣơng là đất phúc. Ngày Quý là Thiên Quan, hỉ thân
vƣợng, Thiên Quan có hợp chớ chế, kỵ thân nhƣợc không có hợp, cùng Chính Quan. Vận hỉ
kỵ giống vậy.

Tháng Mùi:

+ Ngày Giáp Ất kiến Mùi là tháng tự khố, chủ thân cƣờng ít bệnh, nhƣng không có một vật
để dụng lấy phúc. Khá hợp với trụ giờ Thiên Quan cùng ngày giờ mang loại quý cách, bất tất
câu nệ ở nguyệt lệnh. Vận hỉ hợp Thiên Quan, kỵ Chính Quan, lại thấy tiếp Thiên Quan.
+ Ngày Bính Đinh là tạp khí Ấn, hỉ Quan cùng Ấn lộ, không lộ phải xung. Kỵ Ấn phục
không có xung cùng Tài vận. Hỉ Quan, Ấn, kỵ Thƣơng quan, tuế vận tổn thƣơng là đất phúc.
+ Ngày Mậu Kỷ là tạp khí Quan, quý. Hỉ thân vƣợng và Tài cùng Quan thấu, không thấu phải
xung. Quan thích nhiều hợp. Kỵ Quan phục không có xung kiêm Sát hỗn Thƣơng quan. Vận
thân vƣợng hỉ Tài, thân nhƣợc hỉ vƣợng, kỵ Thất Sát Thƣơng Quan, vận tuế tổn thƣơng là đất
phúc.
+ Ngày Canh Tân là Tạp khí Tài, hỉ thân cƣờng Tài thấu vƣợng, không thấu phải xung. Kỵ
Tài phục không có xung, Dƣơng Nhận Tỉ kiên. Vận thân vƣợng hỉ Tài, thân nhƣợc hỉ vƣợng.
Kỵ Tỉ, Kiếp, tuế vận tổn thƣơng là đất phúc.
+ Ngày Nhâm Quý là dƣ khí Tài, nhƣ sinh gặp tiết Tiểu Thử sau 7 ngày, thì không phải là tạp
khí, là Tài sinh trƣởng, quý. Sinh sau Tiểu Thử 7 ngày ½, có Đinh dƣ khí, gọi là Lộc Mã
97 | Tam mệnh thông hội

đồng hƣơng, không có Thƣơng quan, không có đoạt Tài, khá là phát phúc. Nhƣ sinh qua thời
kỳ này, trong Mùi không có vật để thủ, chủ bình thƣờng. Hỉ Quan thấu Tài lộ, thân vƣợng, kỵ
Thất Sát Thƣơng quan. Vận thân vƣợng hỉ Tài, Quan, nhƣợc thì hỉ vƣợng. Kỵ Thất Sát cùng
Thƣơng quan.
10-04-16, 10:29
lesoi
Tháng Thân:

+ Ngày Giáp tháng Thân là Thiên Quan, hỉ thân vƣợng hợp chế, kỵ thân nhƣợc Chính Quan,
vận cũng nhƣ vậy. Kỵ nhất là thấy tiếp Thất Sát. Ngày Ất tháng Thân là Chính Quan, hỉ thân
vƣợng, lộ Quan thấu Tài, tam hợp lục hợp, kỵ Thất Sát Thƣơng quan. Quan thích nhiều hợp.
Vận thân vƣợng hỉ Tài, nhƣợc thì hỉ vƣợng. Kỵ Kiếp tài.
+ Ngày Bính Đinh là Tài Quan. Bính thấy Nhâm là Thất Sát; Đinh thấy Nhâm là Chính
Quan. Hỉ thân vƣợng lộ Tài Quan, kỵ Thƣơng Thất Sát. Vận thân vƣợng hỉ Tài, nhƣợc thì hỉ
vƣợng. Kỵ Kiếp tài.
+ Ngày Mậu Kỷ là Tài sinh trƣởng, hỉ Tài lộ, nhƣ trong trụ không có Tài, thì không phải, chỉ
là Thƣơng quan. Nguyệt lệnh hợp với giờ mang Thiên Quan cùng loại quý cách. Trong
Nguyệt lệnh tuy có thuỷ trƣờng sinh là Tài, trong có Mậu thổ, là hại. Vận hỉ hành Tài trƣờng
sinh là tốt. Thân cƣờng hỉ Tài, nhƣợc thì hỉ vƣợng. Giờ Thiên Quan, hỉ có hợp chế, vận kỵ
Chính Quan cùng thân nhƣợc.
+ Ngày Canh là Kiến Lộc, Tân là vƣợng tƣớng. Trong Nguyệt lệnh không có vật để thủ làm
phúc, chỉ là thân cƣờng sống thọ. Khá hợp với giờ mang Thiên Quan, có hợp chớ chế, có chế
chớ hợp. Vận kỵ Chính Quan.
+ Ngày Nhâm Quý là Ấn, hỉ lộ Quan thấu Ấn, kỵ Tài. Vận cũng nhƣ vậy.

Tháng Dậu:

+ Ngày Giáp tháng Dậu là Chính Quan, hỉ thân vƣợng, lộ Quan kiến Tài, tam hợp lục hợp.
Kỵ Thất Sát Thƣơng quan. Quan thích nhiều hợp. Vận thân vƣợng hỉ Tài, Quan, thân nhƣợc
hỉ vƣợng, kỵ Thất Sát Thƣơng quan. Ngày Ất gặp tháng Dậu là Thiên Quan, hỉ thân vƣợng,
có hợp chớ chế, có chế chớ hợp. Kỵ thân nhƣợc cùng Chính Quan, vận cũng vậy. Kỵ thấy
tiếp vận Thất Sát.
+ Ngày Bính Đinh là Tài, hỉ thân vƣợng lộ Tài Quan, tam hợp lục hợp, kỵ hình xung phá hại,
Tỉ kiên, Kiếp tài. Vận thân vƣợng hỉ Tài, thân nhƣợc hỉ vƣợng. Kỵ Kiếp đoạt.
+ Ngày Mậu Kỷ là Tài trƣờng sinh, nhƣ trong trụ không mang Tài lộ, thì không phải, chỉ là
Thƣơng quan. Nguyệt lệnh khá phù hợp với giờ có mang Thiên Quan cùng loại quý cách,
Thiên Quan cách hỉ hợp chế. Vận thân vƣợng hỉ Tài, thân nhƣợc hỉ vƣợng, kỵ Kiếp tài.
+ Ngày Canh là vƣợng tƣớng, ngày Tân là Kiến Lộc, trong tháng không có vật để thủ, chỉ là
thân vƣợng sống thọ. Khá phù hợp với trụ giờ mang Thiên Quan cùng ngày giờ loại quý
cách. Có Thiên Quan hỉ hợp hoặc chế, kỵ Chính Quan. Vận cũng vậy.
+ Ngày Nhâm Quý là Ấn, hỉ lộ Quan thấu Ấn, kỵ Tài, vận cũng vậy.
10-04-16, 10:30
lesoi
Tháng Tuất:

+ Ngày Giáp Ất tháng Tuất là Tạp khí Tài, hỉ sinh vƣợng Tài thấu, không thấu phải xung. Kỵ
Tài phục không có xung, Tỉ kiên, Dƣơng Nhận. Vận cũng giống nhƣ vậy.
+ Ngày Bính Đinh tháng Tuất là tháng tự khố, cũng chủ thân vƣợng sống thọ. Trong Tuất
không có vật để lấy làm phúc, chỉ phù hợp giờ có mang loại quý cách là tốt. Vận cũng vậy.
98 | Tam mệnh thông hội

+ Ngày Mậu Kỷ là Tạp khí Ấn, hỉ Chính Quan Ấn thấu, không thấu phải xung. Kỵ Ấn phục
không có xung, có Tài hại Ấn. Vận kỵ Thƣơng quan, hại Ấn.
+ Ngày Canh Tân là Tạp khí Quan, quý, cần thân vƣợng có Ấn. Nhƣ Quan thấu, xung thì
dụng Quan, quý; Ấn thấu, xung thì dụng Ấn, quý. Không thấu phải xung, kỵ Quan phục
không có xung. Quan thích nhiều hợp. Vận thân vƣợng hỉ Tài, Quan, thân nhƣợc hỉ vƣợng,
kỵ Thất Sát Thƣơng quan.
+ Ngày Nhâm Quý là Tạp khí Tài, cần thân vƣợng, Tài Quan song toàn là quý. Tài thấu, xung
thì dụng Tài; Quan thấu, xung thì dụng Quan, không thấu phải xung, kỵ Tài phục không có
xung. Vận thân vƣợng hỉ Tài, thân nhƣợc hỉ vƣợng. Kỵ Kiếp tài.

Tháng Hợi:

+ Ngày Giáp Ất gặp tháng Hợi là Ấn, hỉ lộ Quan thấu Ấn là phúc, kỵ Tài. Vận cũng vậy.
+ Ngày Bính là Thiên Quan, có hợp chớ chế, có chế chớ hợp. Hỉ thân vƣợng, kỵ thân nhƣợc
cùng Chính Quan. Tuế vận cũng vậy. Ngày Đinh là Chính Quan, hỉ thấu Tài, lộ Quan, thân
vƣợng, kỵ Thất Sát Thƣơng quan, nhiều hợp. Vận cũng giống vậy.
+ Ngày Canh Tân là Tài trƣờng sinh, nhƣ trong trụ không có Tài lộ, chỉ là Thƣơng quan bối
Lộc. Nguyệt lệnh khá hợp với trụ giờ mang Thiên Quan, ngày giờ loại quý cách. Hỉ Tài lộ tự
vƣợng, kỵ không có Tài thân nhƣợc. Vận cũng giống nhƣ vậy.
+ Ngày Nhâm Quý, Nhâm là Kiến Lộc, Quý là vƣợng tƣớng, phúc không có thủ, chỉ là thân
vƣợng sống lâu. Khá thích hợp có trụ giờ mang Thiên Quan cùng ngày giờ loại quý cách.
Nhƣ đƣợc giờ Thiên Quan, vận hỉ hành hợp Thiên Quan, kỵ Chính Quan.
11-04-16, 11:52
lesoi
Luận ngũ hành thời địa phân dã cát hung

Theo họ Vƣơng chỗ gọi là Nhị Khí, là âm dƣơng vậy; Ngũ Hành là kim, mộc, thủy, hỏa, thổ
vậy; Thời là xuân, hạ, thu, đông vậy; Địa là Ký, Thanh, Duyện, Từ, Dƣơng, Kinh, Lƣơng,
Ung, Dự ( 9 địa điểm này ngày xƣa Trung Quốc phân ra thành 9 Châu để cai trị) vậy. Bởi do
trời có âm dƣơng, hành ở bốn mùa; Đất có ngũ hành, vốn có ở 9 Châu, chính chỗ Chu Tử gọi
là chất ngũ hành vốn có ở đất, khí hành ở trên trời, cho nên trời có Xuân Hạ Thu Đông, đất có
kim mộc thủy hỏa, đều lấy trời đất đem làm dụng vậy. Ngày nay đàm mệnh, chỉ biết luận âm
dƣơng ngũ hành mà không biết kiêm luận góc phƣơng cùng ban ngày và ban đêm, cho nên có
năm tháng ngày giờ giống nhau mà quý tiện thọ yểu là khác nhau, liền nói không có căn cứ
ngũ hành, thế nhân bắt đầu nghi ngờ không tin vào số mệnh, cũng là điểm vu khống. Than ôi,
trời đất và con ngƣời, không thể tránh khỏi ngũ hành; phân biên giới 9 Châu, nên phong khí
có khác, trời có nóng lạnh, lý khó giống nhau. Lúc con ngƣời nhận linh khí của trời đất mà ra
đời, từng ngƣời nhận khí khác nhau, cho nên bát tự quý tiện thọ yểu khó có thể trói buộc vậy.
Lại lấy Giáp Ất Dần Mão thuộc mộc, sinh ở Duyện (Châu Duyện, thuộc tỉnh Sơn Đông và
Trực Lệ bên Tầu), châu Thanh là đắc địa, mùa Xuân là đắc thời. Bính Đinh Tị Ngọ thuộc
hỏa, sinh ở Từ, Dƣơng là đắc địa, mùa Hạ là đắc thời. Mậu Kỷ Thìn Tuất Sửu Mùi thuộc thổ,
sinh ở châu Dự (tên gọi khác của tỉnh Hà Nam, Trung Quốc) là đắc địa, tháng tứ quý là đắc
thời. Canh Tân Thân dậu thuộc kim, sinh ở Kinh, Lƣơng (nƣớc Nguỵ thời chiến quốc ở
Trung Quốc, sau dời đô về Đại Lƣơng đổi tên là Lƣơng) là đắc địa, mùa Thu Đông là đắc
thời. Nhâm Quý Hợi Tý thuộc thủy, sinh ở Ký (tên khác của tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc), Ung
(Úng châu: một châu trong 9 Châu nƣớc Tàu ngày xƣa, tức là vùng Thiểm Tây, Cam Túc,
Thanh Hải bây giờ) là đắc địa, mùa Đông là đắc thời. Huống chi giữa trời đất ban ngày và
ban đêm đều có lạnh có ấm, trong tạo hóa âm dƣơng có hỷ có kị, có sinh khắc chế hóa, ức
dƣơng khinh trọng, kỳ diệu là ở tâm thức biết biến thông, không thể chấp nhất mà luận vậy.
99 | Tam mệnh thông hội

11-04-16, 11:53
lesoi
Luận Mộc

+ Môc sinh tháng giêng, là lệnh mộc vậy, trời trong thì hoa lá tƣơi tốt, mƣa thì lạnh nảy sinh
chồi. Sinh ở tháng giêng, tuy là Tam Dƣơng giao thái, hàn khí chƣa hết, thấy hỏa thì sinh sôi
nảy nở tƣơi tốt, là phú quý vô địch. Hỏa nhiều là tiết nguyên khí, sinh ở Từ ( Nam phƣơng),
ngƣời sinh ban ngày khí bốc lên là bệnh tật. Chỗ hỏa thổ đến thăm, thì phú mà còn quý; có
thổ không có hỏa, thì bản thân chỉ đủ cơm áo mà thôi. Gặp kim thì có họa gãy tổn, đƣợc hỏa
chế thì phúc. Thấy thủy không phải là Mẫu Tử tƣơng sinh, bởi vì mộc ở đầu mùa Xuân, mới
bắt đầu sinh sôi nảy nở, thấy thủy thì hàn, trái lại là không cát. Sinh ở Ký, Ung ( đất Bắc
phƣơng), là bần hàn, nam lạm mà nữ dâm vậy.
+ Mộc sinh tháng 2, sức sống thông suốt tƣơi tốt, gặp thổ bồi cây là tốt. Hỏa thổ đồng hành,
phú quý mà còn thọ. Hỏa thịnh cũng bị tiết khí, bởi thế cho nên hoa cây cỏ bắt đầu ngậm mà
đúng phát dƣơng. Sinh ở châu Duyện ở phƣơng Đông, ngƣời thanh mà phú quý, sinh ở châu
Từ ( Nam phƣơng), ngƣời bốc lên chƣa đủ đƣợc tốt đẹp. Can chi có Nhâm, Quý, Hợi, Tý, là
xấu vậy, gặp thủy sinh, là thái quá, tính tình lƣu động phóng đãng, xa tổ dời nhà. Thổ kim
thủy hội tụ, yểu chiết là không nghi ngờ, bần tiện mà thọ. Gặp kim phạt, xứ vƣợng thì bị tổn
thƣơng, sức sống, sao trời đất sinh vật để mà nhân ái chứ? Ngƣời xƣa nói, xuân mộc dù có
vƣợng, nhƣng không nên gặp kim, là chỗ này vậy.
+ Mộc ở tháng 3, chính là lúc cành lá vƣơn dài tƣơi tốt, ấm áp đầy sức sống, trăm hoa đua nở.
Vũ thủy ngâm dầm, lay động gốc rễ. Thấy thổ thì căn thâm đế cố, phúc thọ lâu dài. Thấy hỏa
thì là mộc thông hỏa minh, văn chƣơng tú phát. Gặp kim phạt mộc, sinh ở đất Kinh đất
Lƣơng ( phƣơng Tây), thì hung, sinh ở đất Từ, Dƣơng ( phƣơng Nam) là ngƣời phú quý. Hỷ
hỏa thổ, kị kim thủy, vận hỷ Đông Nam, còn Tây Bắc thì bất lợi. Mùa Hạ mộc bệnh, Tị Ngọ
là tử Mùi là mộ, bởi vì Nam phƣơng hỏa thịnh, cho nên tiết kỳ chân khí vậy. Âm mƣa thì cát,
kháng dƣơng thì kị.
+ Mộc ở tháng 4 chƣa phải là quá suy, hỏa chƣa phải quá vƣợng, thấy hỏa thì cành lá tƣơi tối,
ấm tí phát phúc. Gặp thủy thịnh thì thủy thần phiêu đãng, nam nữ thì dâm bôn. Thấy thổ thì
lợi thì danh thành. Hỏa thổ cùng đến, can chi có Nhâm, Quý, Hợi, Tý là phú quý. Gặp phải
kim khắc, khó tránh họa kiện tụng, sinh ở Từ, Dƣơng ( phƣơng Nam) lại cát.
+ Mộc ở tháng 5, 6, hỷ có Vũ thủy, sinh ban đêm, gặp chỗ này phú quý mà thọ. Hỏa thịnh
không có thủy là bần yểu. Mùa Hạ hỏa thịnh viêm uy, đá sáng ngời lƣu kim, mộc có họa khô
cạn, ngƣời sinh ở châu Từ, Dƣơng phƣơng Nam can hỏa nhiều, thì có họa cháy phong lao lòa
mắt, hoặc có thủy chế, hoặc sinh về ban đêm, hoặc lúc có trời mƣa dầm, thì hóa hung thành
cát vậy. Đƣợc thổ để bồi căn gốc, đƣợc thủy để thành đạt, nếu thủy thổ cùng đồng hành,
không chỉ có phú quý, mà còn sống thọ vậy. Thấy kim thì không thể khắc mộc, vì hỏa vƣợng
kim nhu, cho nên có ngƣời phục thù vậy. Nếu lấy sau Tiểu Thử thì thổ nhiều, cũng kị, là do
mộc suy không thể khắc thổ vƣợng vậy. Sinh ở châu Duyện, Thanh phƣơng Đông, là thành
tài. Đại để Hạ Mộc thì hỷ thủy, cùng với mùa khác thì không hỷ.
+ Mộc ở 3 tháng mùa Thu, duy chỉ muốn trời quang mây tạnh thì phù hợp, đại hạn thì vạn vật
đều khô héo, mƣa dầm thì vạn vật đều không thu thành. Lúc đầu mùa Thu, viêm uy chƣa
thoái lui, không nên cùng hỏa đồng hành, phát sinh mƣa là tốt nhất. Thấy kim dù có sợ khắc
cƣớp, nhƣng mà hỏa khí viêm thƣợng, kim khí chƣa thịnh, không là hại vậy, sau Xử Thử nếu
sinh ra ở châu Kinh, Lƣơng phƣơng Tây là kị. Kim thủy đồng hành, thì hóa hung thành cát;
gặp thổ bồi dƣỡng cây, thì thành lợi danh. Thủy thịnh không có thổ, sinh ở châu Ký, Ung
phƣơng Bắc là phiêu đãng không nhà cửa, ngƣời sinh ở châu Từ, Dƣơng phƣơng Nam thì
phản hung thành cát.
+ Mộc sinh tháng 8, 9, là chính mùa điêu linh, sinh ở ban ngày là hỏa ở cùng chỗ, là bần yểu,
bởi vì đúng lúc táo khô mãnh liệt, cho nên mộc đều khô rơi vậy. Hoặc là sinh ban đêm, hoặc
100 | Tam mệnh thông hội

mƣa dầm, hoặc có thủy giải cứu, mới cát. Ngƣời sinh ở châu Duyện, châu Thanh phƣơng
Đông thì văn chƣơng phú quý, thấy thủy thì có họa phiêu lƣu, bởi vì mùa Thu là thời kỳ thủy
không sinh mộc vậy, ngƣời sinh ở châu Ký, châu Ung phƣơng Bắc càng kị. Đƣợc thổ bồi căn,
thì gốc rễ dày ổn định. Thấy kim lại cát, bởi vì kim nắm lệnh, thì vạn vật gãy xuống, đã
không sinh trƣởng để thành sức sống, lại không quy căn để phục mệnh, là chỗ có thể nƣơng
nhờ ở một kim mà thôi, tùy tiện không có kim chế để thành khí, ở giữa trời đất thì trở thành
là một cây mục nát, cho nên chỗ này dùng lực của búa rìu để khắc tạc mà thành khí và trở
thành trụ cột mà sử dụng, chính là chỗ lúc gọi là lấy búa rìu để nhập sơn lâm, mộc không thể
thắng dụng vậy. Khí vận phù hợp đến Đông phƣơng, Nam phƣơng.
Mùa Đông, mộc xác xơ tiêu điều, là lúc phục mệnh quy căn, tháng 10 ( tháng Hợi) là có sức
sống, lý lẽ là thấy ở tạo hóa không có tận cùng, 《 Dịch 》 viết: " Thạc quả bất thực" ( không
ăn quả lớn) là chỗ này vậy. Sinh vào lúc trời sáng quang đãng là rất tốt, gặp mƣa dầm thì
ngƣng băng tích tuyết vậy ( ý nói sinh ban đêm là không tốt).
+ Mộc sinh tháng 10, gặp hỏa thì quý mà có thọ, là do băng hàn thổ đống, dựa vào hỏa để
sƣởi ấm cho căn gốc kiên cố vậy. Hỏa thổ vận phụ trợ, là phú quý song toàn. Thấy kim dù là
căn gốc không có tổn hại, nhƣng không thể tránh khỏi cốt nhục tham thƣơng. Đƣợc thủy thì
có ý sinh trợ, ngƣời sinh ở châu Từ, châu Dƣơng phƣơng Nam thì lợi thành danh, sinh ở châu
Ký, châu Ung phƣơng Bắc thì bần hàn cô khắc.
+ Nếu mộc sinh ở tháng Tý Sửu, hỷ có hỏa điều hòa, cùng với thổ đến, vị trí bƣớc lên đỉnh
đài. Thấy thủy thì hung khắc, bởi vì mùa Đông thủy nắm lệnh vậy, Mộc hàn, mùa đông mộc
gặp thủy mà hàn, không có hỏa sƣởi ấm, thì đóng băng ngƣng tụ thành đống, mà mất hết sức
sống vậy, bần tiện mà thọ, phú quý mà yểu. Thấy kim tuy tổn thƣơng không hàn, bởi vì mộc
nhận khí mùa Đông mà quy căn, không có chỗ cho búa rìu thi hành; Điêu linh, thì khắc tạc
mà có thể thành khí, cho nên thấy kim mà không có hung là vậy, ngƣời sinh ở các châu Từ,
Dƣơng, Duyện, Thanh phƣơng Đông Nam vẫn tự yểu, ngƣời sinh ở các châu Kinh, Lƣơng,
Dự phƣơng Tây và trung ƣơng thổ kim tuy là kị, cũng bất quá cành lá tổn thƣơng mà thôi,
căn gốc thì tự nhƣợc vậy. Can chi đƣợc Bính Đinh tƣơng chế thì lại có thể thành phú quý, sao
chỉ có miễn họa mà thôi. Khí vận phù hợp đến Nam phƣơng, mùa Đông mộc hỷ chạy hƣớng
Nam vậy, sau mới là hỷ Đông phƣơng.
11-04-16, 11:54
lesoi
Luận Hỏa

+ Hỏa ở ba tháng mùa Xuân, khí nóng nhƣng mà mới tích trữ vậy; trời sáng thì dựa vào mộc
mà chiếu sáng, mƣa thì mộc ẩm mà mờ tối.
+ Hỏa ở tháng giêng là mới nhô lên, ẩn ở trong mộc, ý là mặc dù thân có thể khả ái, nhƣng
khí băng sƣơng chƣa hết, gặp mộc sinh, thì dƣơng khí phát huy vậy. Gặp kim là Tài, ngƣời ở
Từ, Dƣơng phƣơng Đông thì phú mà thích lễ nghi. Kim mộc đồng hành, chính là Quan ở
đỉnh cao. Gặp kim gặp thủy, yểu chiết là không sai, ngƣời ở Kinh, Lƣơng, Ký, Ung phƣơng
Tây Bắc càng nặng. Thấy thổ là cƣớp tiết khí dƣơng, là nông nổi ti tiện.
+ Tháng 2 thấy mộc, là xứ bại phùng sinh, là mộc tú hỏa minh, là ngƣời văn chƣơng phú quý
vậy, nhƣng không nên có thủy, bởi vì mộc ẩm không sinh không hãm hỏa vậy. Sinh sau Cốc
Vũ, thủy bé không có hung, bởi vì thổ nắm mùa, mộc chủ lệnh, là hóa hung thành cát vậy.
Ngƣời sinh ở Duyện, Thanh, Từ, Dƣơng phƣơng Đông nam thì phú quý không nghi ngờ. Thổ
cùng kim, luận giống tháng giêng, nhƣng tháng Thìn thổ ít vƣợng vậy.
+ Hỏa mùa Hạ, dƣơng khí cực điểm, cây cỏ cành lá khô héo, sông nƣớc thì khô cạn. Trời
quang thì đá sáng lƣu kim, tiết hết chân dƣơng; mƣa thì thủy giúp uy lực, mới đƣợc trung
hòa, trái lại là ứng ấm tí phát phúc. Tháng 4 thế hỏa dần dần thịnh, gặp mặt trời tranh ánh
sáng, không thể hoàn toàn yêu thích, dù có phú quý cũng chủ là yểu vong, bần hàn mà thọ mà
nhiều con, cô độc gian khổ. Thấy kim danh thành lợi tựu, gặp thổ có quyền có mƣu, gặp mộc
101 | Tam mệnh thông hội

phú mà thích lễ nghi; là thủy giúp mộc, quý không thể nói vậy.
+ Sinh ở tháng 5, 6, hỏa cực viêm, đƣợc thủy chế thì đều cùng đạt đến, duy chỉ có ngƣời sinh
ở Ký, Ung phƣơng Bắc thì thủy không nên thịnh, bởi vì vƣợng hỏa đầu ở thủy thịnh, cho nên
không thể không có tổn thƣơng vậy, đƣợc thổ chế mộc giải cứu, thì phú quý hơn ngƣời vậy.
Thấy thổ tiết sơ hỏa thịnh mà có quý quyền hành, lại thích bố thí thi ân cho ngƣời, nhƣng thi
ân lại gặp báo oán mà thôi. Bởi vì hỏa có thể sinh thổ, cũng có thể làm táo thổ vậy. Thấy mộc
sinh, thái quá lại tổn thƣơng; ngƣời ở Thanh, Duyện, Từ, Dƣơng căn cơ ở phƣơng Đông
Nam, dù có phú quý cũng khó tránh yểu vong, ngƣời ở Ký, Ung, Kinh, Lƣơng phƣơng Tây
Bắc thì phú mà càng thêm phú. Gặp kim là Tài, là hỏa sáng kim lƣu, lại có họa phá tài sạch
của. Thủy thổ đồng hành, danh thành lợi tựu. Nhật chiến Nguyệt hình, có suy trung hiếu,
hung họa cô khắc, sinh ban đêm thì giảm nhẹ. Khí vận cần đến Tây Bắc Nam, Đông là đại kị.
+ Hỏa đầu mùa Thu, chƣa hết viêm uy, thổ truyền sinh khí, thủy không thể khắc, lại là chủ
quý vinh. Thấy mộc trợ, ngƣời sinh ở Từ, Dƣơng, Duyện, Thanh phƣơng Đông Nam hỏa
nhiều, dù có phú quý mà thọ không dài. Thấy kim là Tài, phú quý nhƣng hay lãng phí. Gặp
thổ thì dừng, là hiển đạt phi thƣờng.
+ Tháng 8, 9 thì hỏa thất thời, thấy mộc sinh, ý là sinh vô cùng, tự dƣng phú quý. Kim mộc
cùng đến, làm quan Tể phụ. Có kim không có mộc, là Chủ nhƣợc Địch cƣờng, không tránh
khỏi có việc tranh tụng. Ngƣời sinh Ký, Ung, Kinh, Lƣơng phƣơng Tây bắc là vì tài mà mang
họa. Cùng thổ đi đến, là tiết kỳ chân nguyên, cô hình lãnh thoái, đƣợc mộc sinh trợ thì đẹp
vậy. Thấy thủy thì hung yểu. Vận hỷ Đông Nam, kị Tây Bắc.
+ Hỏa ở mùa Đông, nhiều ngƣời thân, trời quang thì sáng, mƣa dầm thì diệt. Cho nên thấy
thủy là hung, mộc sinh là quý. Có thủy không có mộc, nhẹ thì bệnh tật, nặng thì yểu, dù sinh
ở gia đình giàu có, không tránh khỏi lạnh nhạt, ngƣời sinh ra ở Từ, Dƣơng, Duyện, Thanh
phƣơng Đông Nam có thủy chế, thì không sao. Gặp thổ tiết, nhƣợc thì lại càng nhƣợc, cả đời
gặp trở ngại, sau tiết Tiểu Hàn thì thổ vƣợng, làm mờ ánh sáng, định chủ hôn mê ngu muội,
mắt mù lòa. Thấy kim là Tài, ngƣời sinh ở Thanh, Duyện, Từ, Dƣơng phƣơng Đông Nam thì
tốt, ngƣời sinh ở Kinh, Lƣơng, Ký, Ung phƣơng Tây Bắc khó trợ là hung nói là ngƣời kim
gặp thủy vậy, là khắc Mẫu, Tử thì thừa thế báo cừu, không có mộc giải cứu, có họa đao binh,
ngục tù, kiện tụng, không phù thũng kiết lỵ thì cũng chết chìm, can chi mộc thịnh, thì giảm
nhẹ. Đại để mùa Đông, hỏa hỷ mộc kị thủy. Vận thích hợp ở Đông Nam, Tây Bắc là đại kị.
11-04-16, 11:55
lesoi
Luận Thổ

+ Thổ gặp mùa Xuân, thì thổ cao mạch khởi, vạn vật chứa sức sống, mộc khí phát tiết, chỗ
ngƣời xƣa trí tuệ gọi là bệnh ở Dần tử ở Mão mộ ở Thìn, có lấy lƣơng thiện vậy. Mƣa thì âm
ngƣng thổ thấp mà che Giáp không giãn ra, trời quang thì băng tan dƣơng hòa mà sức sống
phát việt. Cho nên thổ ở mùa Xuân một khi tiếp dƣơng khí, thì có thể phát dục vạn vật.
+ Thổ ở tháng giêng, trên có sƣơng hàn, gặp mƣa thì đóng băng, gặp thủy thì đóng băng, gặp
mộc thì bệnh, duy chỉ có hỏa để sƣởi ấm, thì hoa đẹp ít gì sánh bằng. Gặp kim chế mộc, cũng
danh lợi đều thành.
+ Thổ ở tháng 2, mùa chính mộc thịnh thì thổ sụp, gặp mộc cùng đến, có bệnh tỳ vị tràng
phong trĩ lậu, nhẹ thì tật, nặng thì yểu, ngƣời sinh ở Từ, Dƣơng phƣơng Nam can chi có hỏa
mà gặp ban ngày trời quang, không có thấy hỏa cùng đến, thì ngôi đăng đỉnh đài. Thấy thủy
thì hung, ngƣời sinh ở Ký, Ung, Thanh, Duyện phƣơng Đông Bắc thì thổ hỗn thủy trọc, cuối
cùng là có nguy cơ thủy lớn thổ vỡ, bởi vì thủy sinh vƣợng mộc mà tổn thƣơng thổ vậy, gặp
chỗ này là bần hàn tật yểu, ngƣời sinh ở Từ, Dƣơng, Dự phƣơng Nam hỏa thổ có can chi hỏa
lại là cát. Thấy kim để tiết thổ khí, khó tránh hung tai.
+ Thổ ở tháng 3, dần dần có sức sống, bởi vì thổ vƣợng ở cuối mùa vậy, có hỏa nóng ấm thì
dƣơng khí phát ra mà sinh vạn vật tƣơi tốt vậy. Thấy mộc thì không bệnh tật cũng yểu, sinh ở
102 | Tam mệnh thông hội

Từ, Dƣơng, Dự phƣơng hỏa thổ thì không có hại. Thủy mộc nhƣ nhau, là bần bạc buồn chán,
sinh ở Ký, Ung, Duyện, Thanh phƣơng Đông Bắc thì càng nặng. Thấy kim chế mộc, thì phản
hung thành cát. Vận hỷ Nam phƣơng, sau là Tây phƣơng.
+ Thổ vƣợng mùa Hạ, là do hỏa thịnh thổ sinh vậy, trời mây mƣa âm u thì ẩm thấp nuôi
dƣỡng vạn vật, cho nên thấy thủy thì cát; đại hạn thì ruộng nƣơng phá dỡ, cho nên gặp hỏa là
hung.
+ Thổ ở đầu mùa Hạ, viêm khí chƣa thịnh, cuối cùng là hỷ hỏa để trợ giúp. Gặp mộc thì tật
yểu không sai. Thấy thủy là Tài, sinh ở Từ, Dƣơng phƣơng Nam là phú túc, thấy kim gặp
mộc thì quý, gặp thủy thì bần.
+ Thổ ở tháng 5, 6, thấy hỏa thì táo, mà vạn vật khô héo, ngƣời sinh ở Từ, Dƣơng phƣơng
Nam can chi hỏa thịnh, có họa hỏa đốt phong huyết, nhẹ thì nguy, nặng thì chết, hoặc mƣa
dầm, hoặc sinh ban đêm, tuy có họa nhƣng không nặng. ngƣời ở Ký, Ung phƣơng Bắc can
chi có Nhâm, Quý, Hợi, Tý, thì phú quý phi phàm, thấy thủy nuôi dƣỡng vạn vật, chủ phú
quý văn chƣơng. Thấy mộc tính khai thông, nhiều thông minh đặc biệt. Gặp kim là vô dụng,
bởi vì hỏa thịnh kim suy không thể chế mộc, cho nên kim vô dụng vậy. Khí vận nên hành
Tây Bắc, tối kị Nam phƣơng, bởi vì thổ mùa Hạ lại gặp hỏa, cho nên quá táo khô vậy. Thổ
gặp mùa Thu, kim khí thịnh vƣợng, tiết thổ mà khí suy vậy. Ngày và đêm cần phải phù hợp
vậy.
+ Thổ ở tháng 7, hỏa khí chƣa hết, tính thổ ở trên nóng khô, hỷ thủy tƣơi nhuận, thì vạn vật
mới đấy vậy. Nếu hỏa quá thịnh, cũng có sợ táo thổ, đƣợc thủy cứu trợ mới tốt. gặp mộc là
họa, ngƣời sinh ở Từ, Dƣơng, Kinh, Lƣơng phƣơng Tây Nam không có kị.
+ Thổ ở tháng 8, 9, thấy mộc thì không thể khắc, chỗ này là lúc vạn vật điêu linh, kim khí
sinh vƣợng, là Tử phục Mẫu cừu, sinh ở Kinh, Lƣơng, Từ, Dƣơng phƣơng Tây nam phú quý
mà thọ. Thấy kim tiết khí quá nặng, ngƣời ở Tây Bắc không tránh khỏi có họa khiếp nhƣợc
lãnh đạm. Thấy hỏa trợ, thì văn vũ danh cao, quân tử hay tiểu nhân đều cát. Thấy thủy là Tài,
sinh ở Từ, Dƣơng, Dự phƣơng hỏa thổ thì phú mà không có cân bằng, sinh ở Ký, Ung,
Duyện, Lƣơng phƣơng Đông Bắc, thủy quá thịnh thì lại chủ bần bạc, chỉ có thể là tháng Tuất.
Vận hỷ đất hỏa thổ, thủy mộc kim phƣơng là kị.
+ Thổ ở mùa đông, chính lúc trời đất xác xơ tiêu điều, hàn lạnh cũng đến vậy, dù có hạ sinh
Nhất Dƣơng, mạch thổ chƣa ấm, gặp nƣớc tuyết, thì thành băng hàn thổ đống. Thấy hỏa thì
hàn cốc hồi xuân.
+ Thổ ở tháng 10, duy chỉ có hỷ hỏa để sƣởi ấm, thì mạch thổ dƣơng hòa mà vạn vật quy căn
vậy. Thấy mộc thì hung, gặp kim thì trì trệ, gặp thủy thì chủ cô hàn, ngƣời sinh ở Từ, Dƣơng
phƣơng Nam can chi hỏa nhiều thì có thể phú.
+ Tháng Tý Sửu, khí cực hàn, có hỏa mặt trời dung hòa, thì công danh thành tựu. Thấy mộc
là tối kị. Thấy hỏa giải thì cát. Thấy thủy thì âm khí càng nặng, thủy hàn địa đống, nhẹ thì
bệnh tật, nặng thì yểu. Thấy kim cũng chủ bần bạc. Tuế vận Nam phƣơng là tốt nhất, Bắc
phƣơng là đại kị.
11-04-16, 11:55
lesoi
Luận Kim

+ Kim ở mùa Xuân, mộc vƣợng hỏa tƣớng. Không phải mùa kim đắc khí vậy, tuyệt ở Dần
thai dƣỡng ở Mão Thìn, lý là bởi do tạo hóa không có chung cực vậy. Là lấy kim ở mùa
Xuân, trời quang thì cát. Trời mƣa dầm thì trì trệ không thông. Chính là cần gặp thổ để sinh,
ý là nói hết tuyệt mà có sinh vậy.
+ Kim ở tháng giêng, thấy mộc là Tài, mộc thần thái vƣợng, chỉ đủ áo cơm. Thổ khí trên gặp
hàn, chƣa có thể sinh trợ, lấy nghệ thuật hiển danh mà thôi. Hỏa lại nếu nói đến, nam nữ là
trùng hôn nặng vậy. Thấy hỏa gặp thổ, thì phú quý phi thƣờng, gặp thủy tiết khí, là cô hàn
suy nhƣợc.
103 | Tam mệnh thông hội

+ Kim ở tháng 2, 3, thấy thổ thì sinh, ý là sinh vô cùng, chủ ngƣời phú quý mà thọ. Gặp thủy
tiết kỳ nguyên khí, cũng chủ là bần bạc vô tình. Thấy hỏa thì tù, là kim gặp Quỷ, là bần yểu
không nghi ngờ. Thổ sinh thủy chế là cát. Thấy mộc mà có họa khốn đốn trì trệ, bởi vì xuân
mộc thịnh vƣợng, lấy kim là nhƣợc mà muốn chế, thì cũng giống nhƣ lấy trẻ em mà điều
khiển cƣờng địch, là không có cách cũng rõ vậy, phạm chỗ này tất có ngu mà cầu vinh phản
nhục, gặp việc quan tụng tranh giành, cho nên nói là nhân nghĩa hình nhau vậy, ngƣời sinh ở
Kinh, Lƣơng, Dự gặp đất thổ kim là chủ phú. Ngƣời sinh ở Từ, Dƣơng phƣơng Nam hỏa mà
can chi nhiều thổ, là quý hiển, khí vận ở đất thổ là tốt nhất, sau là đất kim.
+ Mùa Hạ hỏa thịnh, kim quá nhu vậy, trời quang thì ngày sáng kim lƣu, trời mây mƣa âm u
thì thủy sinh kim nhuận, cho nên kim ở mùa Hạ, đều cần thấy thổ, chủ ngƣời có quyền xuất
tƣớng nhập tƣớng, quý ở Kim mã Ngọc đƣờng. Thấy hỏa thì hỏa viêm kim sáng, phần đa là
bần yểu, dù có phú mà yểu dâm tiện. Thấy mộc là Tài, ngƣời sinh ở Kinh, Lƣơng, đất hỏa thổ
thì gặp nhiều phú quý. Gặp thủy thì cô hàn, bởi vì kim nhƣợc không thể sinh thủy vậy, nếu
cùng với hỏa thổ đồng hành, thì phú quý khang ninh. Vận hỷ thổ kim mộc hỏa, tối kị Thu kim
tiêu điều, vạn vật điêu linh, dẫu có tùy tiện mà không ức chế, thì ý sinh sinh bất tuyệt vậy,
cho nên trời quang thì hỏa luyện kim cứng, trời mƣa dầm thì thủy nhuận kim sáng vậy.
+ Kim ở tháng 7, 8 là mùa đắc lệnh, tính cách cƣơng cƣờng, dựa vào hỏa để chế kỳ uy, thì có
quý Ngọc đới kim ngƣ, bởi kim ngoan không có hỏa thì không thể thành khí vậy. Thấy thủy
tiết kỳ vƣợng khí, là Kim bạch Thủy thanh, đa số là ở Từ Lâm thanh quý. Thủy hỏa đều
không có , thì chủ yểu chiết. Thấy mộc là Tài, sinh ở Từ, Dƣơng phƣơng Nam thì phú mà còn
quý. Gặp thổ thì ẩn núp mà chôn vùi ánh sáng, dù có Tài mà không phát, đa số là cô đơn,
Kinh nói: Thu Kim vùi Thổ mà phản vượng vậy. Gặp mộc là quý, thấy sinh ở Từ, Dƣơng,
Duyện, Thanh phƣơng Đông Nam thì càng tốt.
+ Sinh ở tháng 9, kim khí hơi thoái, sinh ban đêm gặp hỏa là tốt, sinh ban ngày là ít có lợi.
Gặp mộc thì khắc, trái lại là ứng với cốt nhục tham thƣơng. Thấy thủy cứu giúp, sinh ở Ký,
Ung phƣơng Bắc không tránh khỏi lãnh đạm, sinh ở Từ, Dƣơng phƣơng Nam lại chỗ này sao
là kị? Vì khi gặp thổ cũng bị mờ, ngƣời sinh ở Duyện, Thanh phƣơng Đông Nam đa số là phú
quý, ngƣời sinh ở Dự phƣơng thổ thì khốn trệ. Vận hỷ Đông Nam, Tây Bắc là kị.
+ Mùa Đông khí trời lạnh lẽo, là mùa kim phục tàng vậy, bởi kim sinh vậy, Thai ở Xuân sinh
ở Hạ vƣợng ở Thu đến Đông mà chết, ý nói là sợ hàn không có sinh vậy. Trời quang sáng thì
kim thanh thủy tú, trời mƣa tuyết thì thủy lãnh kim hàn, cho nên kim ở tháng mùa Đông,
đƣợc hỏa dung hòa, nhƣng sau đó có thể đoạt lấy hàn khí, thì phú quý là phi thƣờng vậy.
+ Kim ở đầu mùa Đông, thấy hỏa thì là thƣơng tàn, ngƣời sinh ở Từ, Dƣơng can chi không có
hỏa thổ sinh thì bần yểu. Sinh ban đêm là cô hàn. Gặp thổ thì y lộc phong túc. Thấy thủy
mộc, đều bất lợi vậy. Tháng Tý, Sửu là kim sinh, cũng hỷ hỏa để sƣởi ấm, sinh ra ở Từ,
Dƣơng nếu không có hỏa cũng hỷ gặp hỏa thổ là quý, sinh ở Ký, Ung có thổ không có hỏa thì
cô bần, bởi vì thổ hàn không sinh trợ kim vậy. Thấy thủy thì hàn lạnh, ngƣời ở Tây Bắc thì
bần tiện tật yểu. Ngƣời sinh ở Từ, Dƣơng phƣơng Nam can chi có hỏa thổ, thì phúc thọ khang
ninh vậy. Gặp mộc là Tài, chủ phú, trong hƣởng nhàn gặp phúc, ngƣời sinh ở Duyện, Thanh
phƣơng Đông thì có phạm việc lấy nô tỳ làm vợ, bởi vì kim suy không thể chế mộc vậy, sinh
ở Kinh, Lƣơng, Dự đất thổ kim thì cát. Vận hỷ ở phƣơng Đông Nam, Tây Bắc là tối kị.
11-04-16, 11:56
lesoi
Luận Thủy

+ Thủy ở mùa Xuân, ai không biết là bệnh ở Dần tử ở Mão mộ ở Thìn là rất nhƣợc vậy, thất
tình không biết thủy là âm khí, sinh ở Thân vƣợng ở Tý. Mùa Thu Đông, khí thu lại chƣa tán,
cho nên thủy thƣờng khô cạn, đến mùa Xuân, dƣơng khí bốc lên trên, âm khí giáng xuống
dƣới, cho nên Vũ lộ vừa tƣới mà thủy phát sinh, đến đây thế thủy là bình thƣờng vậy. Tinh
gia lấy Hoạt thủy sinh ở Mão, lấy có sâu sắc vậy. Trời quang đãng thì mùa Xuân thủy mênh
104 | Tam mệnh thông hội

mông, mƣa thì chảy tràn lan phiếm lạm.


+ Sinh ở tháng giêng, thủy có hàn khí, thấy hỏa thì băng hòa tan, là ung dung phú quý. Đƣợc
kim tƣơng trợ, sinh ở Từ, Dƣơng là rất tốt. Gặp mộc không có hỏa, thì thủy lạnh mộc hàn,
chƣa có sức sống. Gặp thổ khắc thủy, cũng chủ bần hàn. Thổ chế kim sinh, áo tiền phong
phú.
+ Thủy ở tháng 2, 3, rộng lớn không có giới hạn, thấy thổ thì có đê phòng, sinh ban ngày thì
phú quý, sinh ban đêm thì di dời, sinh ở sau Cốc vũ, chắc là chủ bệnh dâm tà bại liệt, bởi vì
thổ đầy thủy trọc vậy. Thấy hỏa thì thủy hỏa tƣơng hình, khó tránh họa kiện tụng. Gặp kim
sinh thủy, thì phiếm lạm vô tình, sinh ở Từ, Dƣơng phƣơng Nam can chi đƣợc thổ, không có
sai lầm. Thấy mộc tiết khí, có thể thi ân bố thí cho ngƣời. Sinh ở châu Duyện, Thanh vào
trung tuần tháng 2, mộc khí chính vƣợng, là cƣớp mất nguyên thần, thì sinh bệnh kinh sợ.
Đƣợc kim trợ giúp, không có họa.
+ Mùa Hạ, thủy thất lệnh, gặp hỏa thì khô cạn, cho nên kị trời quang sáng mà hỷ mƣa vậy.
Đầu mùa Hạ, thủy do phiếm lạm, đƣợc thổ ngăn mà không chảy, thì phúc khí sâu dày, nhƣng
không cần cùng với hỏa đồng hành, bởi vì hỏa thịnh thì thổ táo mà thủy hạc, ngƣời sinh ở Từ,
Dƣơng phƣơng Nam can chi không có kim thủy thì bệnh yểu vậy, gặp thủy thì thành lợi danh.
Kim nhƣợc mà sinh, trái lại là chủ cô khắc, bởi vì mùa Hạ kim suy, Mẫu nhƣợc không thể
sinh Tử mà trái lại tổn thƣơng cho Mẫu vậy, ngƣời sinh gặp ở Kinh, Lƣơng, Dự phƣơng thổ
kim thì cát.
+ Thủy ở tháng 5, 6, chính có thể sinh trợ vạn vật, hỷ thổ đồng hành, giờ sinh lại gặp mƣa
dầm thì chủ phú quý văn chƣơng, thấy hỏa thì có sợ thủy khô cạn, nhẹ thì bệnh tật, nặng thì
chết yểu, đƣợc thủy cứu tế, trong hung gặp cát. Thấy mộc cũng chủ phú quý hào hùng, ngƣời
sinh ở Duyện, Thanh phƣơng Đông là tiết kỳ chân khí, không tốt. Gặp kim khí nhƣợc, không
có lực sinh thủy, không thể lấy ví dụ Mẫu sáng mà luận, trái lại là chủ cô khắc; can chi nếu có
kim thủy, là cát. Vận hỷ kim thủy, đất hỏa là tối kị. Thủy sinh mùa Thu, chính là mùa thủy
thanh tú vậy, trời sáng thì trong suốt không có vết tỳ, nếu mƣa âm u thì thủy lớn mà nƣớc đục
ngầu.
+ Thủy ở tháng 7, chính là có thể nuôi dƣỡng vạn vật, không nên cùng với hỏa đồng hành,
ngƣời sinh ở Từ, Dƣơng phƣơng Nam hỏa nhiều, là bần yểu không có chỗ nƣơng tựa. Kim là
Mẫu sáng, thích hợp lúc đó, là Tử Mẫu tƣơng sinh, văn chƣơng thanh quý. Thổ đến đồng xứ,
hóa họa thành cát, mộc nếu liên hành, hành cũng quý hiển.
+ Thủy ở tháng 8, 9, gặp lệnh tinh thì phúc thọ khó lƣợng. Kim hỏa đồng hành, thì công danh
cự phách. Thấy mộc thì cuối cùng bị tiết khí, khó tránh trƣớc thành sau bại. Hỏa nếu cùng
thành, ơn kim sẽ mất lực, dù có gặp đức nhiều dân phục, khó tránh nói bệnh tật hình thƣơng.
Thấy thổ tuy hung nhƣng không hung, bởi vì mùa Thu kim rất có thể khó hóa thành phúc,
ngƣời sinh ở Từ, Dƣơng, Dự phƣơng hỏa thổ mà can chi nhiều thổ, cuối cùng cũng khốn đốn
trì trệ. Vận lợi ở phƣơng Tây Bắc, Đông Nam không thích hợp.
+ Mùa Đông thủy nắm lệnh, là mùa hàn khí quá nặng vậy, mƣa thì băng ngƣng tụ, trời quang
thì băng tan, cho nên ba tháng mùa Đông đều hỷ có hỏa để sƣởi ấm, thì phú quý không nghi
ngờ vậy. Thấy kim là Tử Mẫu tƣơng sinh, ngƣời sinh ở Từ, Dƣơng Nam phƣơng là quý ở
kim tử ngọc đƣờng, ngƣời sinh ở Ký, Ung phƣơng Bắc thì thủy lạnh kim hàn, dù có tƣơng
sinh mà trái lại vẫn bần bạc, đƣợc hỏa đồng hành là cát. Gặp thổ kim, thì cốt nhục tham
thƣơng, ngƣời sinh ở Ký, Ung phƣơng Bắc dựa lấy để làm đê phòng mà không có họa phiếm
lạm vậy. gặp mộc, thì thủy hàn mộc đóng băng, đều không có sức sống, bần yểu là không
nghi ngờ, ngƣời sinh ở Từ, Dƣơng phƣơng Nam mà can chi hỏa nhiều, là phú thọ. Mộc thổ
cùng thành, là chế Sát lại cát. Sinh ở tháng 9, là quý hiển, vận hỷ Nam phƣơng, sau là Đông
phƣơng.

(Hết quyển 4)
105 | Tam mệnh thông hội

lesoi
Quyển 5
Quyển 5:

Luận Cổ nhân lập danh nghĩa Ấn Thực Quan Tài

Từ Tử Bình luận Cách Cục, chỉ lấy 4 vị Ấn, Thực, Quan, Tài làm đầu mối. Nói lập danh
nghĩa là sao? Bởi vì tạo hóa lƣu hành giữa trời đất, chẳng qua cũng là âm dƣơng ngũ hành mà
thôi. Âm dƣơng ngũ hành, giao nhau qua lại làm dụng, chẳng qua cũng chỉ là sinh khắc chế
hóa mà thôi. Nay chỉ lấy ví dụ Giáp Ất, lấy Nhật can luận Giáp Ất, ở ngũ hành thuộc mộc,
Giáp dƣơng còn Ất âm vậy. Nhƣ nhân mệnh đƣợc Giáp Ất, ngày sinh nói là thuộc bản thân,
sinh ta là Nhâm Quý thủy, ta sinh là Bính Đinh hỏa, khắc ta là Canh Tân kim, ta khắc là Mậu
Kỷ thổ, là hết thập can vậy.
+ Sinh ta, nghĩa là phụ mẫu, cho nên lập danh Ấn thụ. Ấn, là che chỡ phù hộ vậy. Thụ, là
nhận đƣợc vậy. Thí dụ cha mẹ có ân đức che chở phù hộ cho con cháu, con cháu đƣợc nhận
phúc. Triều đình thiết lập quan phân chức, ban cho Ấn thụ (con dấu và áo mũ), để dùng quản
lý. Quan mà không có Ấn, chỗ nào làm bằng chứng chứ? Ngƣời không có cha mẹ, dựa vào
chỗ nào? Lý hiểu là một mà không có hai, cho nên viết Ấn thụ.
+ Ta sinh, nghĩa có con cháu, cho nên lập danh Thực Thần. Thực, giống nhƣ sâu bọ ăn vật,
bởi vì tổn thƣơng vậy. Sâu bọ đƣợc vật ăn thì no, ngƣời đƣợc ăn thì có ích, đƣợc ăn thì làm
tổn tạo hóa. Con đã thành mà dẫn đến nuôi dƣỡng, tức là ngƣời con dẫn đến đạo nuôi cha mẹ
vậy. Cho nên viết Thực Thần.
+ Khắc ta, nghĩa là ta bị chế bởi con ngƣời, cho nên lập danh là Quan Sát. Quan, là quan chức
vậy. Sát, là hại vậy. Triều đình lấy quan và ngƣời, lấy thân là nhà nƣớc, ép buộc đảm nhiệm,
bất chấp gian nguy, không dám trái lệnh, đến nỗi vì quan mà sau đó lại bị quan hại vậy. Phàm
ngƣời mộng làm quan mà đƣợc quan, cũng là nghĩa này, cho nên viết Quan Sát.
+ Ta khắc, nghĩa là ngƣời bị chế bởi ta, cho nên lập danh là Thê Tài, nhƣ ngƣời thành gia lập
sản, phải đƣợc vợ trợ giúp, cho nên viết Thê Tài.
Thuật gia lập danh đại nghĩa là 4. Nhƣng mà sinh ở cận thân, khắc ở cách vị trí, tạo hóa thích
Sinh mà ghét Sát, lý là tự nhiên vậy. Trong đó âm dƣơng theo loài, âm dƣơng phối hợp đều
có chí lý tồn tại chỗ này. Sinh ta, ta sinh, nhƣ Nhâm sinh Giáp, Quý sinh Ất, Giáp Thực Bính,
Ất Thực Đinh, là âm sinh âm, dƣơng sinh dƣơng, âm Thực âm, dƣơng Thực dƣơng, là âm
dƣơng đều theo loài, cho nên Giáp hỉ Nhâm sinh tử, mộc sinh tử trong nƣớc thì nhiều năm
vẫn không hƣ; không hỉ Quý sinh tử, mộc bị mƣa dầm nhễ nhại không vƣợt qua đƣợc thì mục
nát. Giáp hỉ Thực Bính, lấy Bính có thể chế Canh Sát, thì Giáp mới đƣợc an thân; không hỉ
Thực Đinh, vì Đinh có thể làm tổn thƣơng Quan, thì Giáp không đƣợc thành vật liệu. Nghĩa
là nhƣ vậy. Khắc ta, ta khắc, nhƣ Tân khắc Giáp, Canh khắc Ất, Giáp khắc Kỷ, Ất khắc Mậu,
là âm khắc dƣơng, dƣơng khắc âm, âm sánh với dƣơng, dƣơng sánh với âm, lý chính là âm
dƣơng phối hợp. Cho nên Giáp kiến Tân là Chính Quan, kiến Canh là Thiên Quan. Quan hỉ
Chính mà không hỉ Thiên, một là ngƣời nắm quyền, còn một là làm phò tá, chức có khác
nhau. Giáp kiến Kỷ là Chính Thê, kiến Mậu là Thiên Thê. Thê quý Chính mà không quý
Thiên, một là làm hầu còn một là vợ chính, phân chia khác biệt, lý là chỗ này vậy. Về phần
Quan sợ Thƣơng, gặp Thƣơng là họa, Tài sợ Kiếp, bị Kiếp thì phân chia; Ấn sợ Tài, tham tài
thì phá hƣ; Thực sợ Kiêu, phùng Kiêu là bị đoạt. Lý cùng với nhân sự là không có hai, học
giả hiểu rõ ở nhân sự, thì có thể giúp nói tạo hóa vậy. Nói ngũ hành thi triển sinh khắc, đều là
nghĩa con phục thù cha mẹ. Cho nên Giáp Ất sinh Bính Đinh là con, Giáp Ất sợ Canh Tân,
dựa vào Bính Đinh để khắc chế. Bính Đinh sinh Mậu Kỷ là con, Bính Đinh sợ Nhâm Quý,
dựa vào Mậu Kỷ khắc chế. Mậu Kỷ sinh Canh Tân là con, Mậu Kỷ sợ Giáp Ất, dựa vào Canh
Tân khắc chế. Canh Tân sinh Nhâm Quý là con cái, Canh Tân sợ Bính Đinh, dựa vào Nhâm
106 | Tam mệnh thông hội

Quý khắc chế. Nhâm Quý sinh Giáp Ất là con, Nhâm Quý sợ Mậu Kỷ, dựa vào Giáp Ất để
khắc chế.
12 Địa Chi, lý cũng giống nhƣ vậy, tuy là động tĩnh khác nhau, phạm vi có khác, mà sinh
khắc cũng là một vậy. Thí dụ nói: Bắc phƣơng Hợi Tý thủy, sinh Đông phƣơng Dần Mão
mộc, Đông phƣơng Dần Mão mộc, sinh Nam phƣơng Tị Ngọ hỏa, thổ gửi vƣợng ở hỏa, sinh
Tây phƣơng Thân Dậu kim, Tây phƣơng Thân Dậu kim, sinh Bắc phƣơng Hợi Tý thủy.
Nhƣng Hợi Tý ở giữa có một vị trí Sửu rồi sau đó mới nối tiếp Dần Mão, Dần Mão ở giữa
một vị Thìn rồi sau đó nối tiếp Tị Ngọ, Tị Ngọ ở giữa một vị Mùi rồi sau đó nối tiếp Thân
Dậu, Thân Dậu ở giữa một vị Tuất rồi sau đó nối tiếp Hợi Tý. Thổ lập Tứ Duy, ngũ hành đều
dựa vào đó. Cho nên Tị Dậu hợp Sửu thành kim cục, Thân Tý hợp Thìn thành thủy cục, Hợi
Mão hợp Mùi thành mộc cục, Dần Ngọ hợp Tuất thành hỏa cục. Kim sinh thủy, thủy sinh
mộc, mộc sinh hỏa, hỏa sinh thổ, thổ sinh kim, mà liên tục tƣơng sinh vậy. Sửu là kim khố,
sinh Hợi Tý mà khắc Dần Mão; Thìn là thủy khố, sinh Dần Mão mà khắc Tị Ngọ; Mùi là mộc
khố, sinh Tị Ngọ mà bị kim khắc; Tuất là hỏa khố, khắc Thân Dậu mà bị thủy chế. Đông
Nam chủ Sinh, Tây Bắc chủ Sát, chỗ này là mấu chốt to lớn của trời đất vậy. Còn Thìn Tuất
Sửu Mùi, đóng cố định ở tứ duy, kim mộc thủy hỏa, đều dựa vào để sinh tàng. 《 Dịch 》
viết: "Nói Thành ở Cấn, nói Chung ở Khôn." Thổ này có công dụng ở ngũ hành là rất to lớn
vậy. Bỏ can chi mà nói chung, Giáp sinh ở Hợi tử ở Ngọ, Ất sinh ở Ngọ tử ở Hợi, thì lộc ở
Dần Mão, Giáp Ất là giống Dần Mão vậy. Bính sinh ở Dần tử ở Dậu, Đinh sinh ở Dậu tử ở
Dần, thì Lộc ở Tị Ngọ, Bính Đinh là giống Tị Ngọ vậy. Canh sinh ở Tị tử ở Tý, Tân sinh ở
Tý tử ở Tị, thì lộc ở Thân Dậu, Canh Tân là giống Thân Dậu vậy. Nhâm sinh ở Thân tử ở
Mão, Quý sinh ở Mão tử ở Thân, thì lộc ở Hợi Tý, Nhâm Quý là giống Hợi Tý vậy. Mậu sinh
ở Dần tử ở Dậu, Kỷ sinh ở Dậu tử ở Dần, thì lộc ở Tị Ngọ, cùng hỏa là đồng vị trí, nghĩa là
Tử theo Mẫu vƣợng, còn Thìn Tuất Sửu Mùi, chính là chính vị vậy. Là do thiên can địa chi,
phối ngẫu lẫn nhau, sinh khắc chế hóa, vƣợng tƣớng hƣu tù, danh là Ấn, là Kiêu, là Thực, là
Thƣơng, là Quan, là Sát, là Tài, là Kiếp, hình trùng phá hại, hƣ yêu ám hợp, mà biến hóa vô
cùng vậy. Từ Tử Bình thấu hiểu lý này, cho nên chỉ có luận Tài, Quan, Ấn, Thực, phân ra
làm 6 cách, mà đƣa ra nhân mệnh phú quý, bần tiện, thọ yểu, cùng thông là không ngoài cách
cục của chúng nó, chẳng qua suy ra từ chỗ này mà thôi.
11-04-16, 18:27
lesoi
Luận Chính Quan

Chính Quan, ví dụ nhƣ Giáp kiến Tân, Ất kiến Canh. Âm dƣơng phối hợp, tƣơng chế hữu
dụng, thành đạo vậy. Cho nên Chính Quan là lấy 6 cách, chỉ chấp nhận một vị, nhiều thì
không nên. Chính Quan trƣớc tiên xem Nguyệt lệnh, sau đó mới xem những chỗ còn lại. Lấy
khí ngũ hành, duy chỉ có Nguyệt lệnh đƣơng thời (thời tiết lúc đó) là đứng đầu, huống chi tứ
trụ đều quản thời hạn, năm quản 15, thời hạn sớm nhất, giờ quản sau 50, thời hạn trễ nhất.
Cho nên chỉ có chỗ nguyệt lệnh này là chính, cách còn lại theo chỗ ví dụ này. Sinh ngày Giáp
tháng Dậu, Ất sinh Thân Tị, Bính sinh Tý, Đinh sinh Hợi, Mậu sinh Mão, Kỷ sinh Dần, Canh
sinh Ngọ, Tân sinh Dần Tị, Nhâm sinh Ngọ Mùi Sửu, Quý sinh tháng Thìn Tị Tuất, đều là
chính khí. Quan tinh lại thêm thiên can thấu ra, ví dụ nhƣ Giáp kiến Tân Dậu, Ất kiến Canh
Thân, gọi là Chi tàng Can thấu, còn lại ở vị trí khác không nên thấy tiếp, lại cần nhật chủ
kiện vƣợng, có Tài Ấn lƣỡng phù, trong trụ không thấy Thƣơng Sát, hành vận dẫn đến đất
Quan, là mệnh đại phú đại quý vậy.
Đại kỵ hình xung phá hại, Thƣơng quan Thất Sát, tham hợp vong Quan, Kiếp Tài phân phúc,
là phá cách. Nhƣ Giáp sinh tháng Dậu, kiến Mão là xung, Dậu là hình, Ngọ là phá, Tuất là
hại, Bính là hợp, Ất là Kiếp, Đinh là Thƣơng khắc, Canh là hỗn tạp, là cần Quan tinh thuần
nhất, ngũ hành thuần hòa, mới lấy Chính Quan luận. Nếu trong trụ thấy kỵ nhƣ nói ở trƣớc,
107 | Tam mệnh thông hội

tuy có vật khử, cũng không thuần túy, nếu kết cục Quan tinh, lại có Tài sinh phù, không hành
đất thân vƣợng là không phát. Quan chỉ có 1,2, không có Tài có Ấn, thân nhƣợc là không
ngại, nếu tứ trụ đều quy bối lộc, cần suy tuế vận Tài Quan hƣớng bối đất vƣợng nhƣ thế nào?
Nếu Tài Quan đầy mắt, nhật chủ suy nhƣợc, không thể đảm nhận, vô dụng phí công, vận đến
đất Tài Sát vƣợng, đa số nhiễm bệnh lao, nếu lại có gặp hành vận Thất Sát, chính là mệnh tù
tội.
Lại viết: Giáp sinh tháng Dậu, Tân kim chính lộc, nếu thấy Đinh Thƣơng, trong chi không có
cục, giờ dẫn quy về đất suy bại tử tuyệt, hoặc có hoả chế hợp khử suy tuyệt, sao có thể tổn
thƣơng lộc vƣợng. Nếu giờ dẫn Quan tinh lâm vị trí suy bại tử tuyệt, lại dẫn Đinh hỏa quy về
đất sinh vƣợng hoặc lâm Sát địa, là giáng quan mất chức, họa sinh là không nghi ngờ. Giờ là
đất dừng lại, cát hung hoàn toàn tiêu tức ở trụ giờ. Nhật chủ dụng thần quá thịnh, cần có giờ
để tiết chế; dụng thần Nhật chủ suy dần dần, cần có giờ để bổ trợ. Trong trụ tuy có hung thần,
giờ có thể tiết chế, cũng không thể gây họa. Chỗ này là yếu pháp xem mệnh vậy.
Lại viết: Giáp sinh tháng Sửu, bên trong có Tân kim, lại gặp giờ Dậu, Kỷ là trọng phạm, nếu
thiên can lại thấu nhiều Tân, lại thêm hành Tây phƣơng, lực không thể đảm nhận, biến Quan
thành Quỷ, xứ vƣợng tất sụp, phần đa dẫn đến yểu tai, cần có hợp chế mới cát. Nếu bản thân
thừa vƣợng, nhƣ các ngày Giáp Dần, Ất Mão, lại có Ấn sinh trợ, Quan tinh tuy nhiều cũng
không phải là hại. Giáp sinh tháng Tuất, tuy tọa khố hỏa, nếu không thành cục, không có
đảng không thể là hại.
Lại viết: Thủ Quan tinh bất tất chấp nê thần Nguyệt lệnh, hoặc là can tháng, hoặc là can chi
năm ngày giờ, chỉ có một chỗ, chƣa hề tổn thƣơng, đều có thể thủ dụng. Cho nên Kinh nói:
Can lộ ra có khí thì thủ can lộ, can lộ ra vô khí thì thủ ở trong ám tàng. Nếu can lộ ra vô khí,
dẫn quy về địa chi, hoặc có nắm trợ giúp, vận hành đắc địa, cũng không giảm phúc khí Quan
tinh ở trong nguyệt lệnh.
Lại viết: Phàm luận Quan tinh, đơn giản thấy một vị Thực thần tọa chân thực, liền có thể làm
tổn cục, duy chỉ có nguyệt lệnh ẩn Lộc, thấy Thực lại là Tam Kỳ quý. Chủ yếu xem Quan
Thực là hƣ thực nhƣ thế nào, nếu Quan tinh tọa thực, hợp thần hơi hƣ, theo Quan trợ quý;
hợp thần tọa thực, Quan tinh hơi nhƣợc, Quan theo hợp thần, gọi là Tham hợp vong Quan.
Lại viết: Chính Quan cách, cần hành đất Ấn, tức là Phùng Quan xem Ấn, trong trụ vốn có
theo Ấn, căn cứ Quan khinh trọng, nhật can cƣờng nhƣợc, cho nên lấy vận xem, thân nhƣợc
Ấn khinh, phải bổ cứu Ấn, thân vƣợng Quan khinh, phải bổ cứu Quan. Hành vận Thƣơng
quan tức là Bối Lộc, hành vận thân vƣợng tức là Trục Mã. 《 Tam Mệnh linh 》 nói: Phàm
3 loại cửa Lộc Mệnh Thân, đều vâng chịu ngũ hành, lấy tỉ số suy tính, nhƣ lấy kim là Quan,
chức vị thanh tuấn, đa số đảm nhận nắm gạo tiền hình ngục, minh mẫn quyết đoán, gặp Thái
Tuế hành niên ở Sửu là Quan khố. Nếu lấy mộc là chủ Quan, phẩm chất thanh cao, hòa thuận
cẩn thận, gặp Thái Tuế hành niên ở Mùi là Quan khố. Lấy hỏa là chủ Quan, quan xếp hàng
hiển hách, tính khí mãnh liệt, dụng hình thảm khốc, cũng chủ phất lên bất thƣờng, gặp Thái
Tuế hành niên ở Tuất là Quan khố. Lấy thủy làm chủ Quan, chức vị hạ thấp, thăng cấp không
tiến, khiêm tốn nhã nhặn, thƣơng hại cô quả, cũng có tính đạo, gặp Thái Tuế hành niên ở
Thìn là Quan khố. Lấy thổ làm Quan, quan xếp thoả đáng, khó xâm phạm, tính thẳng đôn hậu
thận trọng, pháp lệnh phân minh, gặp Thái Tuế hành niên ở Thìn là Quan khố.
11-04-16, 18:28
lesoi
Phàm Quan ngũ hành, đều theo tính thì cát, nếu mất tính, thì chủ làm quan không bền. Tây
Thục tri mệnh nói: Phàm năm tháng ngày giờ con ngƣời, 4 can trùng điệp nhau, Quan Ấn có
đủ, chủ quý. Trải qua xem đại mệnh, gặp 2 Ấn rất nhiều, nhƣ Lữ Cát Phủ học sĩ: Nhâm
Thân, Kỷ Dậu, Đinh Tị, Canh Tý, Nhâm và Kỷ, Canh và Đinh là Quan, Nhâm và Canh, Kỷ
và Đinh là Ấn. Lại nói: Xem Quan tinh, có đất Thiên Quan, thủ can tháng chế can năm, nhƣ
năm Lục Giáp tháng giêng kiến Bính Dần, tháng 5 Canh Ngọ, tháng 6 Tân Mùi, Canh Tân
kim có thể chế Giáp mộc, Mậu Quý tức đến theo nhau mà hành, ngƣời Giáp Quý ở Ngọ Mùi,
108 | Tam mệnh thông hội

ngƣời Ất Bính ở Thìn Tị, ngƣời Đinh Mậu ở Dần Mão, ngƣời Kỷ Canh ở Tuất Hợi, ngƣời
Tân Nhâm ở Thân Dậu, nếu ngƣời gặp, nên ăn lộc trời, chỗ quý triều luân. Có đất địa Quan,
thủ nguyệt kiến chế can năm, nhƣ can năm là Giáp Ất, thuộc mộc, tháng 7,8 kiến Thân, thuộc
kim, kim có thể chế mộc, ngƣời Giáp Ất ở Thân Dậu, ngƣời Bính Đinh ở Hợi Tý, ngƣời Mậu
Kỷ ở Dần Mão, ngƣời Canh Tân ở Tị Ngọ, ngƣời Nhâm Quý ở Thìn Tuất Sửu Mùi, nếu
ngƣời gặp, chủ sớm nhận phúc ấm, quan xếp dễ thăng. Có đất chân Quan, thủ mệnh trƣớc 3
thần can tháng cùng can mệnh hợp, nhƣ ngƣời Bính Tý sinh tháng 2, trƣớc mệnh 3 thần là
Tân Mão, Bính và Tân hợp, cho nên ngƣời Bính Tý sinh tháng 2 là chân Quan, sinh đúng
loại, quân tử gặp, chức cƣ cận hầu, tiểu nhân gặp, cũng chủ phú hào. Nhƣ Lưu Hành Tố Ngự
sử: Bính Tý, Tân Mão, Bính Tý, Tân Mão, là hợp cách này.
Lại nói: Thuật giả lấy Giáp kiến Tân là Quan, không biết chân ngũ hành khắc nạp âm là Chân
Quan, chỗ này là đứng đầu phúc Khôn. Can đầu tự thấy Quan mà gặp hợp là thƣợng cách, có
chƣ thần hƣớng đến là rất tốt. Nhƣ sinh Giáp Dần, nạp âm là thủy, đƣợc Kỷ Hợi, Giáp Kỷ là
chân thổ, là nạp âm thấy chân ngũ hành khắc vậy. Nếu không thấy Thái Tuế bản can khắc,
nhƣng ở trên tháng ngày giờ thấy Ất Canh cũng đƣợc. Nếu chỉ thấy Canh, gọi là Thiên Quan,
là giảm lực so với toàn bộ, lại không thấy Ất Canh, chỉ thấy Ất Tị, Ất Sửu, Ất Dậu, còn lại
trong vị trí khác thấy nhiều Thân, không thấy Thân chỉ đƣợc lực 3/5, còn lại theo chỗ này mà
suy. Lại nhƣ Kỷ Dậu, Kỷ Mão thấy Đinh Nhâm, Nhâm Tý, Nhâm Ngọ thấy Ất Canh, tuy nạp
âm thấy chân ngũ hành khắc là Quan, làm sao bản can cùng chịu khắc, cho nên không lấy
chân Quan, mà lấy chân Quỷ đoán, đại tiểu vận lƣu niên gặp, hoạ càng nặng. Chỗ này cũng là
chỗ nên biết khi xem Quan tinh.
《 Hỉ Kỵ thiên 》 nói: "Ngũ hành Chính Quan, Quan kỵ xung hình khắc phá."
《 Ngũ ngôn 》 nói: "Có Quan phải xem Ấn, không có hình cũng có đủ khoe, không làm
khách kim điện, cũng làm phú hào gia."
《 Bí Quyết 》 nói: "Quan tinh trọng kiến, chỉ lấy Sát suy, lại đến đất Quan, tai hoạ khó
miễn, nếu như quá nhiều, chế mới là phúc."
Cổ ca nói: "Chính khí Quan tinh dụng chi tháng, hỉ phùng Tài Ấn đến năm giờ, phá hại xung
Không đều không phạm, phú quý song toàn báo bạn hay." Lại nói: "Quan tinh không thể bị
hình xung, Quan Sát cùng đến cát biến hung, hóa Sát thành Quan mới là Cát, hóa Quan
thành Sát họa trùng trùng." Lại nói: "Quan tinh đại để cần thân cường, thân nhược phải cầu
phương khí vượng, Ấn thụ kiêm hành đất Tài vượng, không xung thương phá là hưng vinh."
Lại nói: "Tháng sinh Quan tinh tọa đất lộc, nhật thần sinh vượng phúc vô cương, có Tài có
Ấn không thương phá, thiếu niên thành danh tọa Ngọc đường." Lại nói: "Tháng gặp Chính
Lộc hào Chân Quan, không phạm hình thương lộc rất rộng, nhật chủ hưng long danh lợi
hiển, vận phùng Tài Ấn bước Kim Loan." Lại nói: "Ấn nhiều Quan nhiều là quý mệnh, Quan
vượng thân suy lại thành bệnh, Quan nhiều thân vượng hóa thành Tài, Tài vượng thân suy
bần cùng bệnh." Lại nói: "Chính Quan đại để phải thuần hòa, tứ trụ không thương nhặt hiển
khoa, thời thượng hỉ phùng Tài kiện vượng, trong trụ vui thấy Ấn sinh nhiều. Đề cương chỉ
gặp là chân quý, chỗ năm lại thấy là quá nhiều, xứ khác nếu có Sát đến hỗn, lại thành lao
khổ chịu bôn ba." Hợp lại các thuyết, xem thấy Chính Quan hỉ kỵ vậy.
11-04-16, 18:30
lesoi
Thiên Phúc quý nhân

Nói xứ Quan tinh tọa, nhƣ ngƣời thấy lộc, có quan có lộc, hẳn là Thiên phúc. Ngƣời sinh
Giáp lấy Tân làm Quan, Tân lộc ở Dậu, là lấy ngƣời Giáp thấy Dậu, ngƣời Ất thấy Thân.
Giáp dụng Tân Quan, trụ có Tân Dậu, lại thêm Phúc thần trợ giúp, sinh vƣợng hữu khí là tốt.
Một danh là Can lộc Phúc thần, gặp là chủ khoa danh cao ngất, Quan chức vị cao, bàn thay
nắm nhiều sợi tơ văn chƣơng đẹp đẽ.
109 | Tam mệnh thông hội

Thiên Nguyên tác Lộc

Kinh nói: Kim nếu gặp hỏa, có trọng quyền, thần phòng ngự Thứ Sử (nhƣ các ngày Canh
Ngọ, Canh Dần, Canh Tuất, Tân Tị, Tân Mùi). Thủy nếu gặp thổ, nhập Quan cục, có thể
hƣởng lộc Thị Lang (nhƣ các ngày Nhâm Ngọ, Nhâm Tuất, Quý Tị, Quý Sửu, Quý Mùi).
Mộc nếu gặp kim, chủ tổn suy hóa Sát, quyền thế là nhƣ sấm (nhƣ các ngày Giáp Thân, Giáp
Tuất, Ất Tị, Ất Dậu, Ất Sửu). Hỏa nều gặp thủy, chủ binh quyền, là tƣớng trấn biên cƣơng
(nhƣ các ngày Bính Thân, Bính Tý, Bính Thìn, Đinh Hợi, Đinh Sửu). Thổ nếu gặp mộc, là
chính lộc, phúc là Bát tọa Tam Thai (nhƣ các ngày Mậu Dần, Mậu Thìn, Kỷ Mão, Kỷ Mùi,
Kỷ Hợi). Chỗ này yêu cầu phải là loại Bạch Hổ trì thế cách, nhật chủ cùng Quan quý đều
nhau, thiên khô thì không thành tạo hóa, đại kỵ hình xung phá hại, thƣơng tổn quý khí, là
không thành cách vậy. Nhƣ ngày Canh Ngọ, tọa Đinh Quan, hỉ kiến Giáp Ất Tài sinh Quan,
Mậu Kỷ Ấn sinh thân; kỵ Bính Sát tạp Quan, Quý thủy Thƣơng quan, Tý xung phá Ngọ. Còn
lại theo ví dụ này mà suy. Lại viết: Nhật chủ tự lấy Quan tinh, không đại kỵ xung, thí dụ nhƣ
cầm vật trên tay, lý là không thể đoạt, là ngƣời lanh lợi háo sắc, cơ mƣu thông biến, nếu chỉ ở
dƣới ngày một vị, hành vận Tài Quan mới phát, nếu tháng sinh mang lộc, chi tọa Tài Quan,
giờ sinh đắc địa, mới là chân quý. Này Nhâm Ngọ là Lộc Mã đồng hƣơng, lại phùng giờ
Canh Tuất là vi diệu. Nhâm tự tọa lộc, có Canh Tân chế Giáp Ất, khiến Nhâm đƣợc Kỷ thổ,
là Quan quý. Nhƣ ngày Mậu Thìn, trong Thìn có Ất mộc là Quan của Mậu, sinh mùa xuân là
quý giá, sinh mùa thu hƣ dự, không có lộc. Cổ ca viết: Tọa dƣới Quan tinh là tối kỳ, ngƣời
nhiều căn cơ thấy tổ ấm, nếu nhƣ vẫn còn qua đất Ấn, cởi bỏ thanh y thành tử y. (Thanh y: là
áo xanh, chỉ thƣờng dân; Tử y: là áo tía, chỉ ngƣời làm quan)
11-04-16, 18:31
lesoi
Tuế Đức Chính Quan

Thủ can chi Quan trụ năm là Tuế Đức, hỉ kỵ cùng Nguyệt lệnh Chính Quan là nhƣ nhau. Gặp
chỗ này tất sinh nhà quan tộc, hoặc nhận phúc ấm chức của tổ phụ, nếu tháng cƣ ranh giới Tài
Quan, vận hƣớng đất Tài Quan vƣợng, nhật chủ kiện vƣợng, quý là không nghi ngờ vậy.
Phàm can năm gặp Quan, phúc khí rất trọng, tất sớm phát đạt. Nhƣ Quý Dậu, Canh Thân,
Bính Tý, Bính Thân, can năm là Quan tinh, trong trụ hội Quan cục, quy lộc ở dƣới ngày,
Bính khắc Thân Dậu kim là Tài Quan song mỹ, 2 Bính thân vƣợng, 17,18 tuổi vận hành Mậu
Ngọ, tuy Ngọ xung Tý, Thân Tý hội cục, xung không thể động, nhật chủ cũng vƣợng, sớm
phát khoa đệ. Cổ ca viết: Trong năm chính lộc là căn nha, tất chủ thân sinh nhà phú quý, vận
khí hỉ phùng thân vượng địa, Tài sinh Ấn trợ phúc không sai. Lại nói: Trụ năm Quan tinh là
Tuế Đức, hỉ phùng Tài Ấn vượng thân cung, không phùng Thất Sát Thiên Quan vị, phú quý
vinh hoa chớ nói khinh.

Thời thượng Chính Quan

Nhƣ ngày Giáp giờ Dậu Tân, ngày Ất giờ Thân Canh. Thời thƣợng Quan tinh cùng tháng là
giống nhau, nhƣ lực nhỏ hơn, phát phúc đa số ở lúc về già, hoặc sinh có hiền tài, phải có Ấn
trợ. Cổ ca nói: Chính Quan có dụng không nên nhiều, nhiều thì thương thân ít thì hòa, nhật
vượng lại phùng sinh Ấn thụ, định là thường xuyên lấy khoa cao.

Quan Ấn Lộc khố

Kinh nói: Quan gặp Kiến Lộc Khố phùng Tài, kim ngọc từ trời đến. Nhƣ Giáp Ất phùng Ất
Sửu, Bính Đinh phùng Canh Ngọ, Mậu Kỷ phùng Nhâm Thìn, Canh Tân kiến Ất Mùi, Nhâm
110 | Tam mệnh thông hội

Quý phùng Bính Tuất là vậy. Nhƣ mệnh Đinh Sửu, Tân Hợi, Quý Dậu, Nhâm Tuất, Quý
dụng Bính là Tài, Tuất là Tài khố, dụng Mậu là Quan, trong Tuất có Mậu thổ chính vƣợng,
Tài khố sinh trợ, Dậu là Quý Ấn, Sửu là Ấn khố, Tài Quan Ấn đều phùng khố vƣợng, không
có xung phá, là quý.

Tương Hình ngộ Quý

Kinh nói: Ngày giờ tƣơng hình đƣợc gặp quý, có quyền thế chấp pháp. Lại nói: Dần hình Tị,
Tị hình Thân, Canh Tân phùng Dần là Quý nhân; Mão hình Tý, Tý hình Mão, Quý Ất song
song phú lại thanh; Mùi hình Tuất, Tuất hình Mùi, Giáp Mậu phùng Mùi quý tự vinh, quyền
quan võ bất lợi quan văn. Nhƣ Lưu Ứng Tiết Thượng thư: Quý Mùi, Ất Mão, Bính Tuất,
Mậu Tý, Tý Mão hình mà gặp Ất Quý, Mùi Tuất hình mà đƣợc Mậu, cho nên làm quan binh
hình, dù có văn danh, không cƣ học hàn.

Tam Hợp ngộ quý

Kinh nói: Tam hợp nếu nhƣ gặp lộc quý, cả đời nhiều kho tài. Nhƣ Ất Tị, Ất Sửu, Ất Tị, Tân
Tị, Ất là nhật chủ, dụng Canh là quý, thiên can không có Canh, nhƣng có Tị Dậu Sửu tam
hợp Quan cục, cho nên là Tam hợp ngộ quý, còn có tên gọi là Ám Quan cách.
11-04-16, 18:32
lesoi
Kim Mộc gian cách

Kinh nói: Mộc nếu gặp Kim gián cách, là quan coi hai phủ. Mộc không có kim, rốt cuộc
không thành khí. Nhƣ Thượng thư Dương Bác: Kỷ Tị, Canh Ngọ, Ất Mão, Canh Thìn, Ất
tọa Mão là tự vƣợng, sinh ở Ngọ, gặp hai Canh xa cách (gián cách) , thành khí, cho nên quý
cực phẩm.

Thủy Hỏa ký tế

Kinh nói: Hỏa nếu gặp thủy là thành Ký Tế, nắm binh quyền vạn lý. Nhƣ Tân Tị, Tân Sửu,
Bính Tý, Mậu Tý, ngày Bính lâm Tý, tọa dƣới Chính Quan, tháng và giờ dẫn vƣợng, thấy
nhiều là thích hợp. Bính lấy Quý là Quan, Quý lấy Mậu là Quan, hỗ hoán thấy Quan, Bính
hợp Tân là Tài sinh Quan, hóa thành chân thủy. Giờ Mậu Tý, Mậu hợp Quý trong Tý, hóa
thành chân hỏa, nhập cách Thủy Hỏa Ký Tế, là đại quý.

Kim Hỏa tương thành

Kinh nói: Kim không có hỏa chế khó thành khí. Nhƣ Ất Tị, Tân Tị, Canh Ngọ, Tân Tị. Canh
tọa Ngọ, nhập đất hỏa hƣơng Quan quý, hỷ sinh tháng tƣ, so với thiên can có hai Tân gặp
sinh, địa chi Tị Ngọ thuần hỏa, kim sinh hỏa vƣợng, cả hai đều có khí, cho nên quý.
Lại nói: Kim quỷ không lệch, lấy kim cần phải có hỏa, mà ngang nhau với kim, nhƣ hai hỏa
hai kim, tất cả đều ở sinh vƣợng, càng tốt.
11-04-16, 18:34
lesoi
Luận Thiên Quan

Thiên Quan, chính là Giáp thấy Canh, Ất thấy Tân, là vì hai nam không thể ở chung, hai nữ
111 | Tam mệnh thông hội

không thể sống chung, không thành phối ngẫu, cho nên gọi là Thiên Quan. Lấy cách nhau 7
vị mà khắc chiến nhau, cho nên gọi là Thất Sát. Thí dụ nhƣ tiểu nhân nhiều hung bạo, không
sợ kị, nếu vô lễ khống chế pháp luật, không trừng trị không cảnh cáo, tất chủ tổn thƣơng, cho
nên có chế gọi là Thiên Quan, không có chế gọi là Thất Sát. Nhƣ nhật chủ kiện vƣợng, có Ấn
thụ trợ hóa, kinh nói rằng gặp Sát xem Tài, nhƣ thân cƣờng Sát nhƣợc, có Tài tinh thì cát,
thân nhƣợc Sát cƣờng, có Tài dẫn quỷ cƣớp khí, thì không bần cũng yểu; có Thực thần thấu
chế, kinh nói nhất thấy chế phục, lại là gốc quý; có Dƣơng Nhận phối hợp, kinh nói rằng Sát
không có Nhận không hiển, gặp Sát xem Nhận là vậy. Ở trên nói nhiều về chế hợp sinh hóa,
cần phải không có thái quá hay bất cập, là mƣợn thế lực tiểu nhân hộ vệ quân tử để thành uy
quyền, chính là mệnh đại quyền đại quý. Tính cách lại thông minh, kị nhật chủ suy nhƣợc,
tiếp tục gặp Thất Sát, tam hình, lục hại, Kiếp, Vong, Khôi Cƣơng tƣơng xung, là hung không
thể nói hết. Nều chỉ có một Thất Sát, mà chỗ chế phục có 2-3, hỷ hành Sát vƣợng địa, nhƣng
vận lại tiếp tục gặp chế phục, thì gọi là Tận pháp vô dân, tuy dũng mãnh nhƣ Hổ Lang, cũng
không thể trổ tài vậy. Lại vừa không thể chuyên nói chế phục, cần gặp chỗ khinh hay trọng.

Cho nên Kinh nói: Vốn có chế phục, Sát xuất ra là phúc, vốn không có chế phục, Sát xuất ra
là họa, là chỗ này vậy. Giả nhƣ Giáp thấy Canh cùng Thân, Ất thấy Tân ccùng Dậu, trong trụ
Sát vƣợng có khí, phải hành vận Đông Nam phƣơng chế Canh Tân, không có khí mới phát,
nếu không sinh tháng Dần Mão, hoặc tự tọa trƣờng sinh, lâm quan, đế vƣợng, lại mang nhiều
Tỉ kiên đồng loại tƣơng phù, thì có thể hóa Quỷ thành Quan, hóa Sát thành quyền, hành vận
dẫn đến đất Ấn, tất phát phú quý, nhƣng tuế vận lại gặp tiếp Sát địa, họa không nói hết. Giả
nhƣ ngƣời sinh Giáp Dần là thân vƣợng, năm tháng thấy Canh Thân là Sát vƣợng, trong trụ
không thấu ra hỏa chế, địa chi Tý Thìn hội thành Ấn cục, thì Sát sinh Ấn, Ấn sinh thân, lấy
quyền quý mà xem. Can năm lộ ra Sát cùng nguyệt lệnh có chi khác nhau, Thái Tuế chính là
chủ cả đời, là rất nặng. Nhƣ Giáp thấy năm là Canh, Ất thấy năm Tân, lại sinh tháng Thân
Dậu Sửu, trong trụ có nhiều kim, đại vận lại tiếp tục hành đất kim, lƣu niên tuế quân cùng
thấy, là hung rất nặng; nếu sinh tháng Dần Ngọ Tuất cùng mộc vƣợng, hỏa chế thân cƣờng,
kim tuyệt không thể thành hại, thì cát.
11-04-16, 18:34
lesoi
Kinh nói: Giáp gặp Canh, là thất bại điêu linh, là cành là gốc khô; Ất gặp Tân, làm tổn
thƣơng mất hết, mầm và gốc cùng tổn hại; Bính hỏa viêm nóng gặp Nhâm, thành màu đen
không có ánh sáng; Đinh hỏa chiếu ánh sáng đỏ hồng thấy Quý, mà ánh sáng sẽ tự diệt; Mậu
đến vị trí Giáp, phải đề phòng chuyển phúc thành họa; Kỷ tọa đất Ất, tự là gốc lộc có tổn hại;
Canh gặp Bính giao chiến, thế tự ngả đổ; Tân bị Đinh gây hại, khắc phạt là hại; Nhâm gặp
Mậu thổ, khó mà lƣu thông; Quý đến đất Kỷ, bôn ba khó dừng. Can lộc sinh vƣợng, có thể
phù trì, duy chỉ có hỷ đến Nhận, tự có thể hợp chế.
Lại nói: Ngũ hành gặp chi tháng Thiên Quan, chỉ hứa một vị ở địa chi thì không tốt, tứ trụ
thuần Sát có chế, định cƣ tôn hàng nhất phẩm. Đại khái thấy một vị Chính Quan, là Quan Sát
hỗn tạp, trái lại là tiện. Tứ trụ Sát vƣợng, vận thuần thân vƣợng, là quan thanh quý.
Lại nói: Thân Sát đều vƣợng, không có chế phục, lại hành vận Sát vƣợng, tuy quý cũng
không dài.
《 Kế Thiện thiên 》nói:
Thân cường Sát thiển,
Giả Sát vi quyền,
Sát trọng thân khinh,
Chung thân hữu tổn.
《 Định Chân 》nói: Thất Sát nhƣ gặp Tài trợ, Sát càng hung.
Lại nói:
112 | Tam mệnh thông hội

Nhận là binh khí,


Không Sát khó tồn,
Sát là quân lệnh,
Không Nhận không vinh,
Nhận Sát lưỡng hiển,
Uy trấn Càn Khôn.
11-04-16, 18:35
lesoi
《 Tứ Ngôn 》nói:
Sát bất ly Ấn,
Ấn bất ly Sát,
Sát Ấn tương sinh,
Công danh hiển đạt.
《 Diệu Tuyển phú 》nói:
Sát là vũ nghệ,
Ấn là văn hoa,
Có Sát vô Ấn,
Khiếm khuyết văn thái,
Có Ấn vô Sát,
Khiếm khuyết uy phong.
Tuyệt diệu! Sát Ấn song toàn, nên văn vũ đều đầy đủ.

《 U Huyền phú 》nói: Thất Sát gặp vị trí trƣờng sinh, nữ gặp chồng quý.
《 Lạc Dịch phú 》nói: Sát đến vị trí tử, tất phải gặp bội nghịch.
《 Thiên Lý Mã 》nói: Thất Sát có chế cũng nhiều con.
《 Tương Tâm phú 》nói:
Thiên Quan, Thất Sát, thế áp Tam Công, thích tửu sắc mà nghiêng về thích tranh đấu, có khí
hiên ngang là giúp yếu khinh mạnh, tính tình nhƣ Hổ, nóng tính nhƣ gió.
Cổ ca nói:
Thiên Quan không thể nói là hung,
Có chế nó có y lộc dày,
Can thượng Thực thần còn mang hợp,
Trước mắt con cháu được phong tước.
Lại nói:
Thân phùng Thất Sát là đề cương,
Chỉ vì can suy thụ thương lớn,
Chính lộc giao sai hình Sát nhập,
Cuối cùng không miễn bị tai ương.
Lại nói:
Thất Sát đề cương vốn lo sầu,
Chỉ vì thuần phục hỷ không lo,
Cả đời chính trực không tà khúc,
Chức vị đương phong vạn hộ hầu.
Lại nói:
Tháng là thiên Quan gốc sát thần,
Có chế vẫn ở vị nhất phẩm .
Nghiễm nhiên tự thân muộn vinh quý,
Cũng cần là phúc cùng con cháu.
Lại nói:
113 | Tam mệnh thông hội

Chi tháng Thiên Quan tối kị xung,


Thương quan Dương Nhận hỷ tương phùng,
Nhật can vượng tướng đều là quý,
Chế phục không quá bách sự thông.
Lại nói:
Thân nhược Sát cường không chế thần,
Sinh nhiều tai họa không nói hết,
Sao chịu lại đến đất Quan vượng,
Gặp bệnh gặp hình tang đến thân.
11-04-16, 18:37
lesoi
Lại nói:
Giáp Ất chi Sát lộ Canh Tân,
Trong tháng thủy mộc hỷ gia lâm,
Vận hành mộc hỏa hưng danh lợi,
Thủy vận hành đến sợ hỏa kim.
Lại nói:
Bính Đinh tháng năm trọng gặp Sát,
Mộc hỏa đến lâm có công lớn,
Kim thủy vận hành Thân có họa,
Tý đến xung phá là hung nhất.
Lại nói:
Lục Ất sinh gặp Tị Dậu Sửu,
Trong cục lại kị Tài tinh thủ,
Hốt nhiên hành vận đếu đất kim,
Cả đời nắm lấy thọ không dài.
Lại nói:
Ngày Canh gặp đủ Dần Ngọ Tuất,
Thiên can thấu thổ thủy là tường,
Trọng gặp hỏa vượng thanh danh hiển,
Mệnh lý hưu tù kị thủy hương.
Lại nói:
Người sinh Lục Bính nhiều Hợi Tý,
Sát tinh quy Ấn lại trung hòa,
Đông phương hành vận công danh hiển,
Vận tới Tây phương việc chuyển khổ.
Lại nói:
Ấm thủy gặp nhiều chữ Tị thương,
Sát tinh cần phải thủy giáng xuống,
Dẫu có danh lợi khó cao hiển,
Chỉ sợ cả đời thọ khó dài.
Lại nói:
Thổ gặp Mão vị đủ tam hợp,
Không kị lúc sinh kim thủy cuộn,
Hỏa mộc đất vượng danh lợi hiển,
Lại hành Khôn Khảm họa triền miên.
Lại nói:
Giáp Ất nếu gặp Thân, hỷ Ấn ám tƣơng sinh, thủy vƣợng kim cũng vƣợng, quan bào tất kề
thân.
114 | Tam mệnh thông hội

Lại nói: Giáp Ất sinh tháng Dần, kim nhiều lại thành cát xƣơng, không nên trọng thấy thủy,
hỏa thổ là lƣơng y. Hợp nhiều thuyết, phải xem Thiên Quan hỷ hay kị vậy.
11-04-16, 18:38
lesoi
Thiên Nguyên tọa Sát

Là ngày Giáp Thân, Ất Dậu. Nhƣ ngày Ất Sửu, trong Sửu tự tọa có Tân kim là Sát, hỷ sinh
xuân hạ, Ất mộc kiện vƣợng, Sát tự có chế, không hỷ thấy rõ Bính Đinh, sinh tháng mùa Thu
là điêu tàn, tọa dƣới tàng quỷ, sao không thành hại? Phàm gặp các ngày này, cần nhật can dựa
vƣợng, lại không có Quan Sát phục khắc, hỷ Ấn hóa Sát, Tài vƣợng thân vƣợng, là phúc. Nhƣ
Sát vƣợng, có Thƣơng quan hợp chế, cũng quý, nhƣ không có trợ hóa, lại hành vận Sát
vƣợng, hoặc lại thấy Sát khắc, tất là ngƣời diện mục có vết sẹo, là nhà nho què quặt, có ngón
tay thừaq, gian tham mạnh bạo, là kiên cƣờng không sợ sệt, nhiều lần phạm pháp luật. Khắc
nặng thì phần đa là yểu, hợp cách là vũ quý. Nhƣng là ngƣời có tính nóng nảy, nham hiểm ác
độc, hay mƣu hại ngƣời khác, không có nhân tình.

Thời thượng nhất vị quý

《 Hỷ kị thiên 》nói: Nếu là giờ gặp Thất Sát, thấy bất tất là hung, chế tháng can cƣờng, trái
lại Sát thành quyền ấn.
Kinh nói:
Thời thượng Thiên Quan thân phải cường,
Dương Nhận xung hình Sát cảm đương,
Chế nhiều phải hành Sát vượng vận,
Sát nhiều thiếu chế tất thành họa.
Bởi vậy thời thƣợng có Thiên Quan, trên can phải thấu xuất, chỉ một vị mới tốt, thấy tiếp ở
trụ năm tháng ngày, trái lại chủ lao khổ, nếu thân vƣợng, Sát chế thái quá, hỷ hành vận Sát
vƣợng, hoặc tam hợp Sát vận, nhƣ không có chế phục, phải hành vận chế phục mới phát.
Nhƣng kị thân nhƣợc, dù đƣợc vận phù trì phát phúc, qua vận sẽ không còn cứu giúp.
Lại nói: Thời thƣợng Thiên Quan, không sợ xung Nhận, là ngƣời có tính trọng cƣơng trực
bất khuất, Sát không có căn phải tọa cung vƣợng, không cần có căn ( có Tài là gốc của Sát),
nếu một vị Thất Sát, lại có 2-3 là trọng chế phục, dù văn hay cũng cuối cùng là khó hiển đạt.
11-04-16, 18:40
lesoi
《 Độc Bộ 》 nói:
Thời Sát vô căn,
Sát vượng tối quý,
Thời Sát đa căn,
Sát vượng bất hòa.
《 Kinh Thần phú 》nói: Thời thƣợng Thiên Quan, có chế, con muộn nhƣng tài hoa.
Cổ ca nói:
Thời thượng Thiên Quan hỷ Nhận xung,
Thân cường chế phục Lộc phong long,
Chính Quan nếu cùng đến hỗn tạp,
Thân nhược Tài đa chủ khốn cùng.
Lại nói:
Thời thượng Thiên Quan một vị cường,
Nhật thần tự vượng hỷ phi thường,
Có Tài có Ấn nhiều tài lộc,
115 | Tam mệnh thông hội

Định là trời sinh làm trụ cột.


Lại nói:
Thời phùng Thất Sát là Thiên Quan,
Có chế thân cường mệnh này tốt,
Chế quá hỷ hành Sát vượng vận,
Tam hợp đắc địa phát khách khí.
Lại nói:
Thời phùng Thất Sát vốn không con,
Lý này nhân gian tử tế suy,
Như trong căn tháng giờ có chế,
Định biết con quý có mà giữ.
11-04-16, 18:41
lesoi
Niên thượng Thất Sát

Kinh nói: Năm gặp quý khí, không dụng chế phục, hỷ nhật chủ kiện vƣợng, Dƣơng Nhận
tƣơng hợp, trong trụ mang Tài, lại hành Tài vận, phát phúc thanh tú. Tối kị thân suy, vì thất
Sát chính là tƣợng tiểu nhân, đã ở vị trí tổ tông, giống nhƣ lão thần Triều đình, lão phó( ngƣời
hầu già) tổ phụ, nhật chủ kiện vƣợng, thì lão phó tận lực để giúp ấu chủ, nhật chủ suy nhƣợc,
không thể làm chủ đƣợc tiểu nhân, sao mà chịu giúp tận lực chứ? Trái lại thành vật lấy hại.
Can năm thấy chỗ này, tất chủ xuất thân hàn vi, tứ trụ hành vận có tình, chủ hàn môn sinh
quý tử, nếu Sát vƣợng thân suy, xung hình thái quá, tất chủ bần cùng, nếu nặng hơn thì phải
mang gặp hình phạt.
Lại nói: Tuế Sát một vị không nên chế, tứ trụ thấy nhiều lại cần chế, nhật chủ sinh vƣợng,
chế phục hơi nhiều, hỷ hành Sát vƣợng địa, chế phục thái quá, hoặc Sát vƣợng thân suy,
Quan Sát hỗn tạp, tuế vận nhƣ vậy, hậu bối là kẻ tầm thƣờng. Nếu chế phục bất cập, tới vận
thân suy gặp đất Sát vƣợng, tất sinh họa hoạn. Một mệnh: Mậu Tuất, Canh Thân, Nhâm Ngọ,
Quý Mão, Mậu cùng Quý hợp, Mão cùng Tuất hợp, Nhâm tọa dƣới Ngọ, Tài Quan đều đủ, là
quý.
Cổ ca nói:
Tuế Đức Nhâm đến thấy năm Tuất,
Tài vượng thân cường lộc tự nhiên,
Lại được vận hành Tài vượng địa,
Là người thông minh lại trung hiền.
Lại nói:
Can năm Thất Sát chớ nói hung,
Chế hợp thành quyền có công nhất,
Nếu được thân cường không kị phá,
Thân này còn hơn đến cấm đình.
Lại nói:
Tuế thương nhật can không giống nhau,
Can chi cần phải nặng chế phục,
Sát vượng hỷ hành thân vượng địa,
Thiếu niên khó miễn một hồi hung.
11-04-16, 18:42
lesoi
Quan Sát hỗn tạp

Nhân mệnh Quan Sát đều có gọi là hỗn tạp, chỉ lấy Tài Ấn là dụng, gốc trụ có Tài, vận hành
116 | Tam mệnh thông hội

Tài phát, đại để phải có thân cƣờng đảm nhận thắng Tài mới đƣợc, thân nhƣợc gặp Quan Sát
hỗn tạp, phần đa yểu bần. Thân vƣợng có chế cũng tốt, không có chế, thành Ấn cục hóa Sát
cũng đƣợc.
Thơ viết:
Quan Sát giao gia dụng mệnh suy,
Vì trong tiêu tức cần phải tỏ,
Đắc thời thân vượng phân khinh trọng,
Quý Tài phân rõ hiểu tách biệt.
Nhƣ Nhâm Thìn, Bính Ngọ, Bính Thìn, Quý Tị, Thân Sát đều vƣợng, Quan theo Mậu hóa,
đức tú đều đủ. Đinh Hợi, Nhâm Tý, Đinh Mùi, Quý Mão, Đinh theo Nhâm hóa, Hợi Mão
Mùi hội cục, thủy mộc thanh kỳ. Giáp Ngọ, Kỷ Tị, Tân Dậu, Giáp Ngọ, ngày Tân Tị Bính là
Quan, hai Ngọ Đinh là Sát, hỷ vƣợng chuyên lộc, Tị Dậu hội cục, thắng Sát, tuy không có
chế phục, hành vận đầu Tây phƣơng, thân ích vƣợng, cho nên quý. Xem tam mệnh không thể
lấy hỗn tạp là luận tiện.

Chuyên Lộc phải chế

Cách này lấy ngày Lục Canh thấy giờ Tị, đất Canh kim trƣờng sinh, bên trong có Bính Mậu
hai lộc, Mậu sinh Canh, Bính là Sát của Canh, trụ cần Nhâm Quý chế Bính, trở thành vũ soái
nắm quyền. Nếu gặp Sát vận, là không cát.
Thơ viết:
Canh chuyên Lộc đến tựu ngôi Tị,
Cũng phải chế phục mới thành kỳ,
Nắm quyền vũ chức là tướng soái,
Bỗng gặp Thất Sát thời đến họa.
11-04-16, 18:43
lesoi
Khí mệnh Tòng Sát

《 Độc Bộ 》nói: Khí mệnh tòng Sát, cần phải theo Tài hội Sát, kị Sát theo Sát. Bởi vậy nói
Tòng Sát cách, lấy Sát thần quá trọng, thân không có chỗ quay về, bất đắc dĩ phải tòng theo,
phải hành Sát vƣợng cùng Tài hƣơng, tứ trụ không có một điểm Tỉ kiên Ấn thụ mới luận, nhƣ
gặp vận phù thân vƣợng, cùng với Sát là đối địch, là không chuyên Tòng Sát, cho nên là họa
hoạn.

Kinh nói: Khí mệnh Tòng Sát luận cƣơng nhu. Nói khí thiên can theo địa chi, tùy theo tính
tình ngũ hành, can âm theo tòng địa chi, Sát thuần là nhiều quý, lấy âm nhu có thể tòng theo
vật vậy. Can dƣơng tòng theo địa chi, Sát thuần là cũng quý, nhƣng đứng sau can âm, vì
dƣơng không bị chế vậy. Thủy hỏa kim thổ đều tòng, duy dƣơng mộc không thể tòng, tử mộc
bì búa rìu chặt, trái lại gặp tổn thƣơng là vậy.《 Nguyên Lý phú 》nói: Cả đời là phú còn
quý, tất cả đều do Sát trọng thân nhu. Quỷ nhiều không có quỷ, trái lại thành không có hung.

Cổ ca viết:
Ngũ dương tọa nhật gặp đủ Sát,
Khí mệnh tòng theo thọ không bền,
Nếu là ngũ âm gặp đất này,
Thân suy Sát vượng lấy được cát.
11-04-16, 18:44
lesoi
117 | Tam mệnh thông hội

Quan Sát khử lưu tạp luận

《 Hỷ Kị thiên 》nói: Loại Sát Quan hỗn tạp, có khử Quan lƣu Sát, cũng có khử Sát lƣu
Quan. Bởi vậy nói trong trụ có Quan tinh Thất Sát giao sai, trụ tháng thấy Quan trụ giờ thấy
Sát, hoặc trụ tháng thấy Sát trụ giờ thấy Quan, hoặc tứ trụ thấy nhiều lần, có vật khử Quan
lƣu Sát là lấy Thiên Quan luận, có vật khử Sát lƣu Quan là lấy Chính Quan luận. Phàm xem
khử lƣu, phải rõ trong trụ Quan Sát ai trọng ai khinh, thiên can thấu thì khử dễ, chỗ tàng trong
chi tháng là khó khử, cần vật Thƣơng quan Thực thần khử Quan Sát nhiều mà có lực, mới
khử đƣợc. Ngày ngũ dƣơng Thực thần, có thể khử Sát, lại có thể lƣu Quan; ngày ngũ dƣơng
Thƣơng quan, vẫn có thể khử Quan, nhƣng không thể lƣu Sát, tất pahỉ đƣợc Dƣơng Nhận
hợp, mới thành khử Quan lƣu Sát. Giả nhƣ ngƣời sinh ngày Giáp, Giáp lấy Tân là Quan,
Canh là Sát, nếu Quan trọng Sát khinh, đƣợc một vị Bính Thực, khắc khử Canh kim, cùng
Tân tƣơng hợp, chỗ này gọi là Khử Sát lưu Quan, có tình mà quý; nếu Sát trọng Quan khinh,
đƣợc Đinh hỏa Thƣơng quan, khắc khử Tân kim, lại đƣợc Ất mộc Dƣơng Nhận, cùng với
Canh tƣơng hợp, chỗ này gọi là Khử Quan lưu Sát, có tình màquý. Ngày ngũ âm Thực thần,
có thể khử Sát lại không thể lƣu Quan, nhật chủ tự có thể lƣu, ngày ngũ âm Thƣơng quan, có
thể khử Quan lại không thể lƣu Sát. Giả nhƣ ngƣời sinh ngày Ất, lấy Canh là Quan, Tân là
Sát, nếu Quan trọng Sát khinh, đƣợc một vị Đinh Thực, khắc khử Tân Sát, thì Ất cùng Canh
hợp, chỗ này gọi là Khử Sát lưu Quan, có tình mà quý; nếu Sát trọng Quan khinh, đƣợc Bính
hỏa Thƣơng quan, khắc khử Canh kim, đến hợp Tân kim, chỗ này gọi là Khử Quan lưu Sát,
có tình mà quý.

《 Nguyên Lý phú 》nói:


Khử Sát lưu Quan nên luận quý,
Khử Quan lưu Sát chủ uy quyền.

Lại nói:
Quan tinh Thất Sát giao sai, lại có hợp Sát là quý, là chỗ này vậy. Hợp Sát có hai nghĩa, có
hợp khử và hợp lai, hợp lai là Khử Quan lƣu Sát, hợp khử là khử Sát lƣu Quan.
Giả nhƣ ngƣời sinh Lục Giáp, thấu Tân là Chính Quan, lại thấu ra Canh Thất Sát, là Quan Sát
giao sai, trong trụ lại có Ất mộc hợp Canh Thất Sát, có Đinh hỏa khắc Tân Quan tinh, chỗ
này đúng là Khử Quan lưu Sát.
Giả nhƣ ngƣời sinh Lục Kỷ, thấu ra Giáp là Chính quan, lại thấu ra Ất Thất Sát, đúng là Quan
Sát giao sai, trong trụ lại có Canh khắc Giáp Chính Quan, đến hợp Ất Thất Sát, đúng là Khử
Quan lƣu Sát. Ở trên là Dƣơng Nhận hợp Sát, chỗ này là Thƣơng quan hợp Sát.
11-04-16, 18:44
lesoi
Lại nhƣ Giáp lấy Tân Dậu là Quan, Canh Thân là Sát, nếu ngày Giáp Thân lấy Thân là Sát,
lại có Dậu là Quan, do Thân là đất thủy trƣờng sinh, Sát hóa Ấn sinh trợ giúp Giáp mộc,
trong trụ tuy có Dậu kim, lại có chữ Ngọ Đinh thƣơng khắc, là Khử Quan lƣu Sát, gặp chỗ
này chủ cả đời ý chí nhanh nhạy, không nhận phúc đức, không tín nhiệm ngƣời khác, thƣờng
là bản thân phục dịch làm việc.
Lại nhƣ ngƣời sinh Lục Canh, trụ thấu Bính Sát, lại thấu Đinh Quan, là Quan Sát giao sai,
nếu trụ có Nhâm khắc Bính, lại đến hợp Đinh, đúng là Khử Sát lƣu Quan. Phú nói: Hợp Quan
tinh không là quý, hợp Thất Sát không là hung. Bởi vậy nói hợp quan là trong trụ có Nhàn
thần hợp khử Quan tinh, cho nên không thành quý, hợp Sát là trong trụ có Nhàn thần cùng
Thất Sát hợp, cho nên Hợp Quan vong quý, hợp Sát vong tiện là vậy. Nếu can chi nhật chủ
cùng với Quan Sát hợp, thì gọi là Hợp Quan là quý, hợp Sát là tiện.
Kinh nói: Quan Sát lƣỡng đình ( cả hai quân bình nhau), hỷ là tồn tại, tăng là khử mất. Bởi
118 | Tam mệnh thông hội

vậy nói trong trụ có Chính Quan, Thất Sát, cà hai lực lƣợng ngang nhau, có vật sinh phù hội
tụ hài hòa thì lực chuyên, cần tồn mà lƣu, có vật phá tổn thƣơng hại thì lực tán,nên bỏ mà khử
đi, Quan tinh có sinh phù, Sát tinh có phá hại, thì khử Sát lƣu Quan, trái lại thì khử Quan lƣu
Sát. Nếu cả hai cân bằng không có phù hợp, mà có phá hại, đang châm chƣớc trong trụ có
một chữ có lực là dụng thần, nếu là cát thần, thì lấy cát luận. Nếu cả hai cân bằng có phù hợp,
mà không có phá hại, tức là Quan Sát hỗn tạp, trái lại là bần tiện.
Lại nói: Năm tháng ngày giờ, hoặc là có bốn vị Quan bốn vị là Sát, phải lấy rõ dụng, tàng ẩn
là bỏ, thấy rõ Quan thì giữ lại Quan, thấy rõ Sát thì giữ lại Sát, nên cẩn thận phân biệt, nếu
cân bằng không có khinh trọng, hƣớng thời sinh trợ Sát làm dụng, khí trái thời thì không trợ
giúp, khử lƣu không thanh, chính là hỗn tạp. Nhƣ Giáp sinh thƣợng tuần tháng bảy, là Sát đắc
lệnh, dù có Bính hỏa, cũng không thể khử đƣợc.
Lại nói: Hai cách khử lƣu, rất cần thân vƣợng, nếu thân đúng vƣợng, dù không có vật khử
Sát, cũng có thể hóa Sát thành Quan. Nhƣ Giáp thấy Canh là Sát, Giáp tọa Dần lộc, vƣợng,
Giáp mộc tự ôm khí hỏa chế Sát, không cần phải thấy tiếp Bính Đinh, nhƣ Giáp sinh mùa
Thu , lại cần có Bính Đinh chế, gốc trụ không có chế, đến vận chế địa mới phát.
Lại nói: Địa chi thiên can có nhiều hợp, cũng nói là Tham hợp vong Quan. Bởi vậy nói thiên
nguyên là nhật chủ, địa chi là nhân nguyên, cùng can chi đang trong sinh thời năm tháng,
minh ám tƣơng hợp quá trọng, có tình tham luyến, hợp thần tuy có Quan tinh, thì tài đến
cƣớp khí, Quan đến khắc thân, trái lại thành bất lợi, Quan bất tƣơng thành, Tài bất tƣơng toại,
cho nên gọi là Tham hợp vong Quan. Đại để hung thần có vật hợp khử, thì phản hung thành
cát, cát thần có vật hợp khử, thì phản cát thành hung, thần sát cát hung, xem trong cục hỷ kị
là thần nào, không thể chấp nhất mà luận.
11-04-16, 18:45
lesoi
《 Áo Chỉ phú 》nói: Ngày dƣơng có Thực thần ám hợp Quan tinh, ngày âm có Thực thần
lén gần Ấn thụ. Nhìn chỗ này thì biết tứ trụ không có Quan Ấn thì hỷ Thực thần, có Quan Ấn
thì kị Thực thần.
Lại nói : Tham hợp vong Sát hoặc vong Quan. Nhƣ ngƣời sinh Lục Quý, can đầu thấu ra chữ
Kỷ là Sát, lại thấu ra chữ Giáp là Kỷ tăng thêm hợp thần, hợp khử chữ Kỷ, không thành Sát
vậy, chỗ này gọi là Tham hợp vong Sát. Nhƣ Canh Thân, Giáp Thân, Giáp Tý, Ất Hợi, trụ
năm có chữ Canh hại chữ Giáp, gặp ở trên Hợi có chữ Ất hợp chữ Canh khử Sát, vì sao
nguyệt lệnh lại có chữ Thân, hai Thân là không thanh, Sát trọng không thể hợp hết, cho nên
chỉ là mệnh quan nhỏ.
Lại nhƣ ngƣời sinh Lục Nhâm, can đầu thấu chữ Kỷ là Quan, lại thấy Thân thấu, là bản thân
lại thêm hợp thần hợp khử chữ Kỷ, không thành Quan tinh, chỗ này gọi là Tham hợp vong
Quan. Nhƣ Tân Sửu, Bính Thân, Giáp Tuất, Kỷ Tị, ngày Giáp thấu ra chữ Tân, chính là
Quan tinh, sao vì Bính hỏa hợp khử, cho nên phát quý không thanh.
Quyết nói:
Nhâm thủy tương phùng dương thổ thời,
Tâm hoài phẫn nộ khởi tranh phi,
Hốt nhiên Quý thủy lai tương trợ,
Hợp trụ hung ngoan bất kiến uy.
Chỗ này là ví dụ Tham hợp vong Sát.
Lại nói: Nhâm gặp Kỷ thổ gọi là Quan, bỗng nhiên bị thanh dƣơng khởi đầu tranh tụng, dẫn
dụ làm hợp mất chân quý, dẫn đến bị nhục hàng nghìn vạn. Chỗ này là ví dụ Tham hợp vong
Quan.

(Hết quyển 5)
119 | Tam mệnh thông hội

lesoi
Quyển 6
Quyển 6:

Nhâm kỵ Long bối

《 Hỉ Kỵ thiên 》nói:
"Dương thủy trùng điệp gặp Thìn vị,
Là đất Nhâm Kỵ long Bối hương."
Cách này lấy ngày Nhâm tọa Thìn, Nhâm lấy Đinh là Tài, lấy Kỷ là Quan, Nhâm dụng Thìn
ám xung Tuất trong có Đinh, Mậu, ngày Nhâm đƣợc Tài Quan là quý, trong trụ cần có nhiều
chữ Thìn thì mới có thể xung khởi, lại tiếp tục đƣợc một chữ Dần hợp trụ Tài Quan là tốt,
không nên có Tài Quan hiển lộ, hỉ hành thân vƣợng cùng Thƣơng Quan, Thực thần vận, kỵ
Nam phƣơng đất Tài Quan. Trụ có Đinh Tị Ngọ Tuất, chỉ lấy Tài Quan luận. Nếu ngày Nhâm
tọa Dần, trong trụ có nhiều chữ Thìn, cũng lấy cách này, lấy Nhâm thì Giáp là Thực, Giáp
hợp Kỷ là Quan của Nhâm, Giáp sinh Đinh là tài của Nhâm, Thìn có thể xung Tuất, Dần lấy
hợp là quý. Nếu ngày Nhâm Thìn, năm tháng giờ đều có Dần Ngọ là hỏa cục, Tài sinh vƣợng
đắc địa, Tài nhiều thì không thanh, chỉ là phú mệnh.
Lại nói: Ngày Nhâm Thìn lấy nhiều chữ Thìn, ám xung khởi Tuất trong có hỏa thổ kim là Tài
Quan Ấn là Tam Kỳ, nếu có ba Thìn mà một Dần là xung hợp quý khí, có lực, nếu ngày
Nhâm Thìn mà năm tháng giờ đều có chữ Dần, thì lực nhẹ, mà lại dụng Dần trong có Giáp
mộc là Thực sinh Tài, cho nên chủ là giàu có. Trong trụ cần thấy Sửu Mùi là quý hiển, rất sợ
gặp Kỷ là Quan, Mậu là Sát, Ất là Thƣơng, gặp Đinh hợp thì không nhập cách, mà nhƣ Thìn
nhiều cũng giảm bớt điểm số, kỵ Bắc phƣơng Hợi Tý vận.
Lại nói: Nhâm Thìn là ngày Khôi Cƣơng, cần thân vƣợng, sợ thấy Tài Quan, không tốt để
vận tham gia, nếu trong trụ hoàn toàn thấy đủ Thân Tý, đƣơng nhiên lấy Nhuận Hạ cách luận,
vận Mậu Kỷ, Thìn Tuất lại xung, tuế vận cùng đến, trong cát lại có họa, chỗ này thì lại kỵ
Thìn đến xung, không thành cách vậy.
Một mệnh: Kỷ Sửu, Mậu Thìn, Nhâm Thìn, Canh Tý, Giáp Tý là cử nhân, năm Mậu Thìn
tháng Ất Mão chết, chính là do Kỷ Quan Sát thái vƣợng, khắc Nhâm là hung.
Thơ nói:
Ngày Nhâm Thìn tên là Kỵ Long,
Không lộ Quan tinh nơi đối xung,
Tứ trụ Thìn nhiều Quan tước hiển,
Dần nhiều lại lấy nhà phú ông.
Lại nói:
Dương thủy gặp nhiều nơi chữ Thìn,
Nhâm kỵ Long bối quý phi thường,
Trong trụ đều có chữ Thìn Dần,
Phú quý song toàn nơi miếu đường.
Lại nói:
Nhâm kỵ Long bối hỉ phi thường,
Thìn nhiều chữ Dần chuyển phát dương,
Kỵ nhất Quan tinh đến phá cách,
Tai hình lại thấy tổn Thọ nguyên.
13-04-16, 10:48
lesoi
Tý diêu Tị lộc
120 | Tam mệnh thông hội

《 Hỉ Kỵ thiên 》 nói: Ngày Giáp Tý lại gặp giờ Tý, sợ Canh Tân Thân Dậu Sửu Ngọ, cách
ngày lấy ngày Giáp Tý giờ Giáp Tý, Giáp lấy Tân làm Quan, Quý thủy ở trong 2 Tý có thể
hợp xa Mậu thổ ở trong Tị, Mậu đến hợp Quý, sợ Tý ở trên có Giáp mộc khắc chế, không
dám đến hợp, Mậu và Bính đồng cƣ ở cung Tị, Bính Mậu là cha con, Mậu động Bính cũng
động, Bính lại cùng Tân ở trong Dậu tƣơng hợp đến khắc Giáp mộc, ngày Giáp đƣợc Quan
tinh, đƣợc phƣơng Mậu hợp Quý, là nói Tị Dậu Sửu tam hợp hội khởi cục Quan tinh, năm
tháng rất sợ có Ngọ xung Tý, Sửu trói hợp Tý, không thể diêu hợp vậy.
Lại viết: Cách này lấy Quý thuỷ ở trong 2 Tý hợp xa Mậu thổ ở trong Tị là Tài của Giáp,
Bính Mậu lộc đồng cung ở Tị, Bính là Tƣớc tinh của Giáp, Mậu là Tƣớc tinh của Bính, Mậu
động thì Bính cũng động, Bính thấy con Mậu tham hợp Quý là vợ của Ấn thụ, Bính lại hợp
khởi Tân kim là Quan của Giáp, nhƣ ngƣời có con kế sau đó, truyền gia để thành đạo cha tôn
quý. Hỉ sinh tháng Nhâm Quý Hợi Tý Ấn vƣợng, tháng Mão Dần thân vƣợng, hành đất Quan
vƣợng, tất chủ đăng khoa có ăn lộc, quyền quý giàu sang. Kỵ thấy chữ Canh Tân Bính lộ ra,
chữ Thân Dậu Tị phá cách, nhƣ có chế hóa, cũng không có hại. Trụ có Sửu Ngọ xung trói, thì
giảm phân nửa. Tuế vận cũng vậy. Nếu sinh tháng Dậu Sửu, chỉ lấy Chính Quan cách, thủ hƣ
lộ chữ Canh, cũng chủ phú quý, hoàn toàn xem nguyệt lệnh nhƣ thế nào, hoặc có Sát sinh Ấn
trợ, nếu thành cách này, phải kỵ càng sợ vận ở phƣơng nam. Nhƣ Phiền Kế Tổ Thượng thư:
Canh Tý, Kỷ Mão, Giáp Tý, Giáp Tý, là đúng cách này vậy.
Kinh nói: Giáp Tý phùng hợp lộc, cả đời là giàu có.
Thơ viết:
Ngày Giáp Tý gặp giờ Giáp Tý,
Diêu hợp Quan lộc quý không sai,
Sửu trói Tý xung Quan Sát lộ,
Phúc không là cát cũng có lộc.
Lại nói:
Tý đến diêu Tị cân nhắc kĩ,
Giáp Tý vẫn phải tìm Giáp Tý,
Quý hướng trong Tị mời Mậu thổ,
Bính đến trên Dậu hợp Tân kim;
Ám vui Thân Dậu tam lục hợp,
Sợ lộ Canh Tân 2 Quý xâm,
Không gặp Sửu Ngọ luận cao cách,
Đăng khoa cập đệ yến Quỳnh Lâm.
13-04-16, 10:49
lesoi
Sửu diêu Tị lộc

《 Hỷ Kị thiên 》 nói: Ngày Tân, Quý gặp nhiều đất Sửu, không hỷ Quan tinh, năm giờ gặp
2 cung Tý Tị, là hƣ danh hƣ lợi. Cách này chỉ có 2 ngày Tân Sửu, Quý Sửu, Tân lấy Bính là
Quan, Quý lấy Mậu là Quan, Bính Mậu lộc ở Tị, duy chỉ có Sửu có thể phá Tị, trong trụ gặp
nhiều chữ Sửu, thì Bính Mậu xuất lộc, Tân Quý hợp xa đƣợc Quan tinh, kị thấy Tý trói Mùi
xung, chữ Tị là điền thực, chẳng qua hƣ danh hƣ lợi mà thôi, tuế vận luận cũng vậy. Ngày
Tân Sửu nên sinh mùa thu, ngày Quý Sửu nên sinh mùa đông, trong trụ kim thủy nhiều mới
hợp cách này, lại thấy Thân Dậu, đƣợc một chữ hợp trụ Tị, không dẫn đến tẩu xuất quý khí là
vi diệu. Không có Bính Đinh Tị Ngọ, ngày Tân là thuần túy, không có Mậu Kỷ Tị Ngọ, ngày
Quý là thuần túy, lại không có trói xung, là ngƣời thuần hậu, phú quý song toàn, hơi thấy tổn
thƣơng, cũng chủ giàu có. Nếu sinh tháng Thìn Tuất Sửu Mùi, nên lấy Tạp khí thủ dụng, gặp
giờ Mão Thìn Thân Dậu Hợi, cũng không lấy cách này xem. Nhƣ ngày Tân sinh tháng Bính
Dần, Bính Ngọ, Bính Tuất, chỉ lấy Quan tinh luận, nhƣ sinh Giáp Dần, lấy mộc thủ hỏa, có
121 | Tam mệnh thông hội

thể dụng Tài Quan. Ngày Quý nhiều thổ, lấy Quan Sát luận, thấy giờ Quý Hợi, lấy Củng Lộc
luận, sinh tháng kim vƣợng, lấy Ấn thụ luận, sinh tháng hỏa vƣợng, lấy Tài tinh luận, nhƣ
sinh tháng Giáp Dần, Thƣơng quan không ngại, nên hành vận Quan tinh đắc địa cùng thân
vƣợng, đa số là quý. Cách này cùng Tân Hợi, Quý Hợi Phi Thiên Lộc Mã là nhƣ nhau. Kinh
nói: Ngày Tân Quý hợp Lộc, cả đời có dƣ của cải.
Thơ viết:
Ngày Tân ngày Quý gặp nhiều Sửu,
Danh là Diêu Tị hợp Quan tinh,
Chớ nói không hỷ Quan tinh vượng,
Ai ngờ Quan đến lại có thành.
Lại nói:
Can 2 ngày Tân Sửu Quý Sửu,
Sửu có phá Tị Tị tàng Quan,
Thấy nhiều chữ Sửu mới vi diệu,
Chữ Tý không nên ở giữa trụ.
Lại nói:
Tân Quý không Quan nhiều xa Sửu,
Bính Mậu trong Tị lộc đến triều,
Chi nguyên hỷ kiến Dậu Thân hợp,
Nhập cách là ứng quý lộc nhiêu;
Tân kị Bính Đinh kiêm Tị Ngọ,
Quý hiềm Mậu Kỷ Mã Xà Kiêu,
Tý đến trói Sửu tâm thật lười,
Cách cục như khinh phúc cũng tiêu.
13-04-16, 10:49
lesoi
Xung hợp Lộc Mã

+ Nhƣ ngƣời sinh ngày Giáp, trụ không có Dậu Tân Sửu, có Mão nhiều xung Dậu, Tị Dậu
hợp Sửu là Chính Quan của ngày Giáp, hỷ Nhâm Quý sinh trợ, kị Dậu Tân điền thực, nếu chỉ
có một chữ Mão, lại có hình hợp khởi cũng là mệnh tốt.
+ Ngƣời sinh ngày Ất trụ không có Thân Canh, lại có Dần xung Thân, Tý Thìn hợp củng
hoặc Tị hình xuất, là Chính Quan của Ất, hỷ Nhâm Quý sinh trợ, kị Thân Canh điền thực.
+ Ngƣời sinh ngày Mậu trong trụ không có Mão Ất, lại có Dậu xung Mão, Hợi Mùi hợp Mão,
Mậu đƣợc Quan tinh, hỷ Nhâm Quý Tài, Bính Đinh Ấn, kị thấy Mão Ất.
+ Ngƣời sinh ngày Kỷ trong trụ không có Dần Giáp, lại có Thân xung Dần, Ngọ Tuất hợp
Dần tức là ám có Quan tinh, hỷ Tài, Ấn, kị thấy Dần Giáp.
Hai ngày Bính Đinh tức là Đảo Xung Lộc Mã cách, bốn ngày Canh Tân Nhâm Quý tức là Phi
Thiên Lộc Mã cách, lấy vì dụ mà suy ra.
Lấy ở trên có bốn can xung hợp, đều kị Quan tinh lộ ra cùng thụ thƣơng, nguyệt lệnh đƣợc
Quan thừa vƣợng là tốt, xung thần gặp hợp, không gặp hợp bán, tất đăng thanh quý tƣớng
công hầu, khuyết một thì giảm phân nửa, phá thì chỉ quý đủ ăn, nặng hơn thì bần, tuế vận hỷ
kị giống nhau.
《 Vu Bảo kinh 》nói:
Ất dụng Canh cùng Thân là chồng, trụ không có, lại có hai chữ Tý Thìn, thì có thể hợp khởi
Canh trong Thân là Quan tinh của Ất, có chỗ này bất tất lại phải chữ Dần khử xung, có Dần
càng tốt, trụ không có Tý Thìn, là lấy xung xuất ra. Giáp Dần, Ất Mão, Bính Ngọ, Đinh Mùi,
Mậu Ngọ, Kỷ Mùi, Canh Thân, Tân Dậu, Nhâm Tý, Quý Hợi, lấy 10 ngày kể trên là bản thân
kiện vƣợng, xung gốc lộc là khẩn cấp nhất, Nhâm Thìn, Nhâm Tuất, Mậu Thìn, Kỷ Sửu,
xung lộc thì vô lễ, can còn lại không dùng ( nhƣ Minh Thần Tông: Quý Hợi, Tân Dậu, Quý
122 | Tam mệnh thông hội

Hợi, Tân Dậu, chủ bản đều là Quý Hợi kiện vƣợng, xung ra Bính Mậu Lộc Mã ở trong Tị là
quý dụng, lại đƣợc hai Dậu hợp trụ là tốt ).
15-04-16, 19:03
lesoi
Phá Quan

Tứ trụ vốn không có gốc Tài Quan Ấn thụ, lại có thần phá Quan, nhƣ ngày Quý Mão phá
xuất Kỷ thổ là Quan ở trong Ngọ, ngày Quý Dậu phá xuất Mậu thổ là Quan ở trong Thìn,
ngày Giáp Ngọ phá xuất Tân kim là Quan ở trong Dậu, trong trụ cần gặp một chữ tam hợp
hợp trụ quý khí là tốt.
《 Nguyên Lý phú 》nói: Mão phá Ngọ, Ngọ phá Dậu, là Tài Quan song mỹ. Lại nói : Chi
trụ năm và ngày không có thần phá Quan, chi trụ tháng và giờ có thần phá Quan, là chủ quý.
Nhƣ ngày Giáp Dần không có phá, tháng gặp Bính Ngọ, giờ đến Kỷ Tị, chỗ này lấy Ngọ phá
Dậu trong có Tân Quan, có Tị hợp, lại dụng trong Tị có Bính Mậu hợp Tân, là quý.
Thơ viết:
Mão phá Ngọ Mùi có đại quan,
Ngọ Mùi phá Dậu xem như thường,
Sửu phá Tị Ngọ không thành lệ,
Tý phá Mão Thìn dụng không khó.

Phi Tài

Can ngày giống can tháng, chi ngày giống chi giờ, xung ra Tài đối cung là vậy. Đƣợc cách
này nên phát tài lộc, kị tiết khí, là hung. Nhƣ ngày sinh Nhâm Thân, chi giờ cũng là Thân, hai
Thân xung trong Dần ra Giáp Bính là Tài thành dụng, tuế vận gặp Tý thì hóa thành thủy cục.
Nhƣ can ngày là Canh đƣợc cục, tiết khí Thƣơng quan, khôg thể sinh Tài, Tuế quân, trong trụ
lại gặp Thất Sát khắc thân, tất chết. Bởi vậy Phi Tài cách, cho nên chi Thìn không thể biến
hóa cục khác vậy. Nhƣ Mậu Dần, Kỷ Mùi, Mậu Dần, Giáp Dần, có ba Dần một Giáp Thất
Sát, tháng sáu hoàn toàn không có Tài khí, Tỉ kiên rất vƣợng, lại đƣợc ba Dần xung trong
Thân là ra Tài thủy trƣờng sinh, vận hành Tây Bắc, phát tài cự vạn.

Phá Tài

Cách này nhƣ sinh ngày Ất Mão, bát tự không thấy Tài Quan, dụng chữ Mão phá Ngọ Mùi
trong có Kỷ thổ là ra Tài sử dụng, cần có một chữ Dần, Tuất ám hợp khí Tài là tốt, kị Kiếp
Tài điền thực, nhƣng có vị trí Tài cùng điền thực, vị trí xung liền phá không đến vậy. Nhƣ
ngày Canh Thân, Tân Dậu phá Dần Mão Thìn mộc là Tài, ngày Bính Ngọ, Đinh Mùi phá Dậu
Tuất kim là Tài, ngày Nhâm Tý, Quý Sửu phá Tị Ngọ trong có hỏa là Tài, mấy ngày này bản
thể là ngày Nhật Nhận và Nhật Lộc nên bản thân tự cƣờng, cho nên có thể xung phá lấy Tài
làm dụng, ngoài ra nhật chủ nhu nhƣợc, có thể khởi ở phá đoạt cắt ngang tới Tài. Hợp cách
này, phần đa có thể cắt ngang lấy Tài bất ngờ.
Thơ viết:
Mệnh lý không Tài xem phá Tài,
Phá đến tài lộc như chồng núi,
Vận hành Quan Ấn thất nhiều phúc,
Lại sợ hình xung cùng điền thực.
Lại nói:
Mão phá Ngọ Mùi lấy Tài xem,
Ngọ Mùi phá Dậu cứ giống nhau,
123 | Tam mệnh thông hội

Sửu phá Tị Ngọ Tài đến nhiều,


Dậu phá Thìn Mão phúc không khó.
15-04-16, 19:04
lesoi
Hổ Ngọ bôn Tị

Cách này chính là ngày Tân Quý thấy Sửu Dần, lấy Dần hình, Sửu hợp, hình hợp trong Tị ra
Bính Mậu là Quan tinh của Tân Quý, lại gặp một chữ Dậu hợp quý là tốt, có hình không hợp,
lộc không thể đảm nhận đƣợc, trụ thấy Thân Tị, tức là không nhập cách. Nhƣ mệnh: Nhâm
Tuất, Tân Hợi, Tân Sửu, Canh Dần và mệnh: Giáp Tuất, Tân Mùi, Quý Sửu, Giáp Dần, hai
mệnh này hợp cách là quý.
Thơ viết:
Ngày sinh Tân Quý năm tháng giờ,
Nếu gặp Dần Sửu liền thành cách,
Dần hình Sửu hợp lộc trong Tị,
Đây là công danh cơ phúc quý.

Dương kích Trư Xà

Cách này chính là hai ngày Tân Mùi, Quý Mùi, lấy 2,3 chữ Mùi hợp khởi chữ Hợi, xung Tị
trong có Bính Mậu cuất ra là Quan tinh của Tân Quý, trụ có một chữ Dậu Sửu hợp trụ quý
khí là tốt, sợ điền thực và xung hình. Nhƣ mệnh: Giáp Tuất, Tân Mùi, Quý Mùi, Quý Sửu, và
mệnh: Canh Thân, Quý Mùi, Tân Mùi, Ất Mùi, hai mệnh này là hợp cách, đều quý.
Thơ viết:
Dương kích mạnh nhất Trư Xà cách,
Ngày gặp Tân Quý Mùi tương đương,
Trong trụ lại gặp chữ Dậu Thân,
Hợp Lộc không thương nhập miếu đường.
Lấy nhiều cách ở trên, trong trụ cần phải không có Tài Quan mới dụng, có thề không lấy.
Ghi chú: Dƣơng là Dê là Mùi, Tru là Heo là Hợi, Xà là Rắn là Tị.

Lục Âm triều Dương

《 Hỷ Kị thiên 》nói: Ngày Lục Tân, gặp giờ Mậu Tý, sợ ngôi Ngọ, vận hỷ Tây phƣơng.
Cách này ngày Lục Tân là chủ, Tân lấy Bính là Quan tinh, lấy Quý là Thọ tinh, hỷ giờ Mậu
Tý, lấy Mậu hợp Quý, Tý là đất Tân ở sinh địa, Mậu lộc ở Tị, Mậu là Ấn của Tân, Mậu là
con của Bính, Bính thấy Mậu là Ấn của Tân, Bính lại sinh Mậu mà hợp Tân, là quý, ngày
Tân đƣợc Quan tinh vậy. Trong trụ chỉ nên có một chữ Tý, nhiều thì không đƣợc, sợ Ngọ
xung Sửu hợp trói, thì âm không thể hƣớng về dƣơng (Triều dƣơng), Bính Tị là điền thực,
vận hành Tây phƣơng đất kim vƣợng cho nên hỷ, Đông Bắc Tài tổn thƣơng là bình thƣờng,
Nam phƣơng thì tử tuyệt là kị. Cách này chỉ cần sinh tháng Thân Thìn Hợi Mão Mùi Dậu,
nếu sinh tháng tứ quý, thì lấy Ấn thụ mà luận, tháng Bính Ngọ, Bính Dần, Bính Tuất thì lấy
Tài Quan mà luận, tháng Giáp Dần, Ất Mão chỉ lấy Tài luận. Nguyệt lệnh là chủ, hành vận
không tính toán là nam bắc, thân vƣợng là tốt, nếu thành cách này, phần đa danh thắng ở Tài,
là ngƣời kiêu ngạo, thƣơng thê hại tử, nhƣ phạm kị ở trên, là bần bạc.
Bí quyết nói: Ngày Tân giờ Tý, kị hành hỏa địa, hành đến Tây Bắc thì cát, vừa đến Đông
Nam liền hung.
Cổ ca nói:
Tân gặp Mậu Tý hiệu Triều Dương,
Vận hỷ Tây phương lộc vị xương,
124 | Tam mệnh thông hội

Sửu Ngọ Bính Đinh không xuất hiện,


Lưng vàng áo tía vào triều đường.
Lại nói:
Ngày Tân sinh gặp giờ Mậu Tý,
Mậu đến động Bính lấy Tân Quan,
Lục âm kim hợp Triều Dương cách,
Nền tảng phú quý là không khó;
Tý cung chỉ nên gặp một vị,
Nếu liền ngôi Sửu phúc vẫn khan,
Bính Đinh Tị Ngọ đều không vết,
Vận hướng Tây phương lợi bất phàm.
Lại nói:
Triều Dương hành vận hỷ Tây phương,
Lâm đến Đông phương cũng cát xương,
Sợ nhất Bắc phương không nhiều cát,
Nam Ly xung phá chủ tai ương.
15-04-16, 19:06
lesoi
Lục Ất Thử quý

《 Hỷ Kị thiên 》nói: Đơn độc Âm mộc gặp giờ Tý, gọi là đất Lục Ất Thử quý. Ất lấy Tý
Thân là quý thần, đơn độc gặp Tý là dụng Thử (Chuột, là Tý) mà không sử dụng Thân ( Hầu
là Khỉ) vậy. Ất dụng Canh kim là Quan tinh, gặp giờ Bính Tý, lấy Bính hỏa ở trên Tý ở xa
quy về Tị trong có gốc lộc, Tị đến hợp Thân, Thân đến động Tý, gọi là Thân Tý Thìn tam
hợp hội quý, gọi là trong Thân có mang theo Canh, ngày Ất gặp Quan tinh, dụng giờ Thân thì
Quan tinh hiển lộ, cho nên không lấy. Nếu chữ Tý nhiều, gọi là tụ quý, càng tốt. Trong năm
tháng có Ngọ xung, Sửu hợp trói, thì Tý không thể xa lộc, Thân Canh là Quan lộ, Dậu Tân là
Sát lộ, gặp Bính hại, Tý trái lại là bất trung vậy. Tuế vận cũng vậy. Cách này cần tháng thông
ở mộc cục, chi thần dƣới ngày đều là đất mộc vƣợng, thủy Ấn cũng đƣợc, kị thấy kim hỏa,
nếu gặp Tuế Vận là Thân Dậu, là hối hận bất hạnh, Đông phƣơng dần dần thoái lui, Ngọ vận
thì vong. Nhƣ một mệnh: Nhâm Dần, Tân Hợi, Ất Mùi, Bính Tý, là hợp cách, nếu ngày Ất
Sửu là hợp bán Tý, ngày Ất Dậu là Sát thƣơng, thì giảm phân nửa, một chữ Tý sợ thấy Mão
hình, Sửu hợp bán, nhiều thì không sao, thấu chữ Tân không vƣợng, lại có Bính Đinh hợp
khắc, Bính hợp Tân hóa thủy, vận thuận hành không tổn thƣơng quý. Nhƣ Kỷ Sửu, Bính Tý,
Ất Mão, Bính Tý, hai Tý kẹp một Mão; Đinh Tị, Nhâm Tý, Ất Sửu, Bính Tý, hai Tý kẹp một
Sửu, tuy phạm kị ở trên, nhƣng là kẹp giao trong sinh quý, cho nên đều là đại quý. Nếu sinh
mùa Hạ, chỉ lấy Thƣơng quan luận. Sinh tháng 7, 8, là bần hạ. Nhƣ gặp tháng Canh Thân,
vận Bắc địa, lại lấy Quan luận. Sinh tháng tứ quý, có Tài khố, hỷ thủy cục, Thƣơng quan,
Thực thần, Nam vận, cũng cát. Phàm nguyệt lệnh thấy Tài Quan Ấn vƣợng, tức lấy Tài quan
thủ dụng, không lấy Ngọ xung Tý là họa. Nhƣ hợp Thử Quý, trụ có Mùi hợp Ngọ, sơ lƣợc có
tổn hại, phú mà hƣ danh. 《 Tâm Tƣớng phú 》nói: Lục Ất Thử quý, gặp Ngọ xung mà bần
hàn trắng tay.
Thơ viết:
Ất mộc sinh lâm giờ Bính Tý,
Phải không có Ngọ phá Mão hình,
Tứ trụ không gặp Thân Dậu Sửu,
Quản giáo thiếu niên bái thềm son.
Lại nói:
Người sinh ngày Ất gặp giờ Tý,
125 | Tam mệnh thông hội

Tên là Thử quý tốt vô cùng,


Không nên thấy Ngọ đến xung phá,
Tân Dậu Canh Thân không phù hợp.
Lại nói:
Người sinh Lục Ất gặp giờ Tý,
Đã mang Quan tinh phục dụng Thử,
Canh Thân Tân Dậu lấn Ngưu Mã,
Chỉ gặp một vị thành ăn mày.
15-04-16, 19:07
lesoi
Nhật Lộc quy Thời

《 Hỉ Kỵ thiên 》 nói: Nhật Lộc quy thời một Quan tinh, hào thanh vân đắc lộ. Cách này có
7 ngày: Giáp Dần, Đinh Ngọ, Mậu Tị, Kỷ Ngọ, Canh Thân, Nhâm Hợi, Quý tử, lộc của nhật
chủ quy về ở vị trí giờ, hỉ nhật can tọa vƣợng, Ấn thụ sinh, tháng thấu Tài nguyên, Thƣơng
Thực, Thiên Nguyệt nhị Đức, là đại phú quý. Kỵ hình xung phá hại, Không vong Tử Tuyệt,
cùng Kiếp tài phân chia Lộc, Đảo Thực tác hợp, Quan Sát khắc chế, tuy có thể thủ dụng,
cũng không thuần túy. Tuế vận cụng vậy. Nhƣ ngày Ất thấy giờ Kỷ Mão, là Thời thƣợng
Thiên Tài; ngày Bính thấy giờ Quý Tị, là Quan tinh hiển lộ; ngày Tân thấy giờ Đinh Dậu, là
Thời thƣợng Thiên Quan, không lấy Quy Lộc cách xem. Tứ trụ nhƣ thế nào? Nếu tháng có
Quan tinh hoặc thiên can thấu Tài Quan, chỉ lấy Tài Quan luận; nếu quy lộc ở giờ, chi năm
tháng giờ cũng có lộc, gọi là Phúc tụ quy Lộc, lại gọi là Ngũ hành quy Lộc; nếu Nhật Lộc
quy thời, Thời Lộc quy nhật, gọi là Hỗ hoán Lộc; nếu năm lộc quy về giờ, giờ lộc quy về
năm, nhƣ các loại Giáp Thân kiến Canh Dần, Ất Dậu kiến Tân Mão, Nhâm Ngọ kiến Đinh
Hợi, Quý Hợi kiến Nhâm Tý, đều chủ đại quý hƣởng phúc; nếu thấy nhiều Lộc vị, nhƣ ngày
Giáp giờ Dần, lại sinh tháng giêng Dần, Tài Quan đều nhƣợc, chỉ lấy Kiến Lộc xem; nếu
Thiên nguyên ngày tháng giống nhau mà chỉ có giờ là lộc, gọi là Phân Lộc, thì là vô dụng,
nếu từng chữ quy lộc, nhƣng lại không có sao.
Cách này có 7 phép:
+ Một là: viết Thanh vân đắc lộ, nhƣ: Mậu Tý, Giáp Dần, Ất Hợi, Kỷ Mão, trong trụ không
có một chút Quan tinh, thân vƣợng đắc cục, có Ấn sinh trợ, tuy là Tý hình Mão lộc, không
thể phá cục, cho nên quý. Lại nhƣ: Nhâm Ngọ, Canh Tuất, Nhâm Tý, Tân Hợi, thân vƣợng
Ấn trợ, Mậu Thìn đăng Tiến sĩ, là Lang Trung Hình Bộ, lấy Tạp Khí cách luận thì là, là do
vận Đinh Sửu khoa Mậu Thìn, Sửu hình Thìn xung vậy.
+ Hai là viết: Quan tinh tọa Lộc, nhƣ Bính Thân, Bính Thân, Bính Thân, Quý Tị, Bính lấy
Quý là Chính Quan, sinh tháng 7 có đất kim vƣợng dựa, vận hành Tây Bắc đất Quan sinh
vƣợng, Bính lâm Thân là vô khí, 3 Bính nƣơng tựa nhau, xung Dần trƣờng sinh, Quý Quan
lâm ở Tị, dụng thần tọa Quý, đƣợc Tài Quan song mỹ, cho nên thiếu niên cập đệ khoa Giáp,
trung niên bái tƣớng.
+ Ba là viết: Quy Lộc phùng Nhị Đức, nhƣ Tân Hợi, Tân Mão, Giáp Dần, Bính Dần, Giáp
là chuyên lộc ở Dần, mà đƣợc Bính Dần là Hội thực Lộc, Giáp là Nguyệt Đức, nguyệt lệnh
Tân Mão là Chính Quan của Giáp, Tân gặp tháng 2 là vô khí, Bính ở trong 2 Dần hợp khử 2
Tân, chỉcó 2 Dần là lộc của Giáp, Nguyệt Đức phùng Quy Lộc, chính là mệnh của anh hùng
Bình Chƣơng phụ quốc.
+ Bốn là viết: Quy Lộc phùng Ấn Thụ, nhƣ Bính Tuất, Quý Tị, Mậu Ngọ, Đinh Tị, trụ
không có một chút Quan tinh, Bính Đinh là Ấn Mậu, ngày giờ hỗ hoán lộc, Ngọ Mậu đều lấy
là hỏa đất Ấn thụ, sinh thân thái vƣợng, vận hành Tây phƣơng đất Thực thần Thƣơng quan
sinh Tài, Quý cùng Mậu hợp hóa thành hỏa tƣợng, cho nên thiếu niên đăng khoa, làm quan
đến tam phẩm.
+ Năm là viết: Quy Lộc phùng Thương quan, đại kỵ kiến Quan, nhƣ Nhâm Thìn, Ất Tị, Kỷ
126 | Tam mệnh thông hội

Hợi, Canh Ngọ, Kỷ tọa Hợi có Giáp là Quan, gặp Tị xung khử, có Ất là Sát, gặp Canh hợp
hóa là chân kim Thƣơng quan, dụng Nhâm là Tài, tọa khố, Quy Lộc ở dƣới ngày, vận hành
nam phƣơng thân vƣợng, tây phƣơng kim vƣợng, Thƣơng quan khử Sát, sinh ra Tài khí, hữu
dụng, anh linh tú thực, quý vậy.
+ Sáu là viết: Quy Lộc phùng Sát, nhƣ Giáp Thân, Bính Dần, Mậu Thân, Đinh Tị, Mậu tọa
Thân tự sinh, can năm thấu Giáp là Sát, Quy Lộc ở Dần, có 2 Thân chế, Mậu quy lộc ở đất
giờ, không có Quan hỗn tạp, cho nên nắm lấy binh quyền, uy trấn biên cƣơng.
+ Bảy là viết: Quy Lộc phùng Tài, nhƣ Kỷ Hợi, Bính Dần, Đinh Sửu, Bính Ngọ, tự tọa Tài
khố, Bính đoạt Tài, có Nhâm trong Hợi chế, Dần cùng Hợi hợp, vận phùng Quan Sát, Tỉ kiên
cƣờng vƣợng, có thể đãm nhận, Kỷ thổ Thực thần, quy lộc ở giờ, chế Quan Sát, vận hành
Tuất Dậu Thân, đều là đất Tài vƣợng, cho nên quý.
《 Nguyên Lý phú 》 nói: Quy Lộc đƣợc Tài mà nhận phúc, không có Tài quy lộc cũng là
bần. Lại nói: Nhật Lộc quy thời, tứ trụ tuế vận đều không hỉ Quan tinh, có hình hại, phúc
giảm nửa.
Thơ viết:
Nhật chủ sinh giờ phùng Quy Lộc,
Không xung không hình không lạc Không,
Quan Sát không lâm Tài Ấn vượng,
Thương Thực thân kiện lộc nghìn chung.
Lại nói:
Người sinh Lục Giáp lộc ở Dần,
Nếu phùng Quan diệu thân khó quý,
Thân không kiện vượng vui Ấn sinh,
Lộc có dư nhiều thích Thực thần;
Nếu gặp tương xung tai tất đến,
Bỗng gặp khắc phá phúc không theo,
Lưu niên đại vận đều đồng luận,
Quý tôn cao áp đảo chúng nhân.
15-04-16, 19:09
lesoi
Củng Lộc Củng Quý

《 Hỉ Kỵ thiên 》 nói: Củng Lộc Củng Quý, điền thực thì hung. Củng, là hƣớng vậy, là kẹp
vậy. Lộc, là Lộc lâm quan, Quý, là Quý Quan Tinh, hoặc là chỉ Thiên Ất quý nhân. Củng Lộc
có 5 ngày 5 giờ: Quý Hợi, Quý Sửu, Quý Sửu, Quý Hợi củng Tý lộc; Đinh Tị, Đinh Mùi, Kỷ
Mùi, Kỷ Tị củng Ngọ lộc; Mậu Thìn, Mậu Ngọ củng Tị lộc. Củng Quý có 5 ngày 5 giờ: Giáp
Thân, Giáp Tuất củng Dậu, Ất Mùi, Ất Dậu củng Thân, là Quan quý; Giáp Dần, Giáp Tý
củng Sửu, Mậu Thân, Mậu Ngọ củng Mùi, Tân Sửu, Tân Mão củng Dần, Quan quý kiêm
Thiên Ất quý. Phàm Củng cách, cần ngày giờ cùng thấy, Quý Lộc cùng nguyệt lệnh thông
khí, vận hành thân vƣợng cùng Quý Lộc vƣợng địa, mới đại tốt, vận Ấn thụ, Thƣơng quan,
Thực thần, Tài, cũng cát. Kỵ hình xung phá hại, Dƣơng Nhận Thất Sát, tổn thƣơng ngày giờ,
củng không chắc quý khí. Đại kỵ Điền thực, Không Vong, thí dụ nhƣ dụng cụ không thì có
thể chứa, đầy thì vô dụng, cho nên chỉ cần hƣ củng; hết thì có thể đựng, phá thì vô dụng, cho
nên sợ kiến Không Vong. Tuế vận cũng vậy. Phú nói: Lộc trọng vị hiển, định biết đất kẹp
Lộc, giả nhƣ Quý Sửu kiến Quý Hợi, củng chỗ Tý, Quý Lộc sinh mùa thu đông, lộc trọng có
khí, nhƣ Mậu Tý kiến Giáp Dần, cũng là củng Sửu quý, nhƣng Mậu bị Giáp khắc, sao có thể
củng chứ? Còn lại theo ví dụ này mà suy. 《 Tam Mệnh 》 nói Kẹp Lộc kẹp Quý, tất tôn cư
Bát tọa. 《 Cảnh Giám 》 nói: Củng lộc Củng quý, thuần túy là sánh vai Vƣơng hầu, điền
thực là hƣ danh hƣ lợi, không có Tài Ấn không hỉ Thƣơng hại, kỵ Quan Sát, lại sợ Không
127 | Tam mệnh thông hội

Vong.
Thơ viết:
Hai ngày giờ Củng Lộc trong Đình,
Hòm vàng dấu ngọc cách tối thanh,
Rất quý rất cao quân tử mệnh,
Không sầu không lo đến Công khanh.
Lại nói:
Hư Củng Quý thần kiêm Lộc vị,
Không gặp Điền thực cùng Không vong,
Xung hình Dương Nhận cùng Thất Sát,
Phá bại Quan tinh không thể đương.
Lại nói:
Củng Lộc củng Quý trong cách hiếm,
Cũng cần Nguyệt lệnh xem chi đề,
Đề cương hữu dụng đề cương trọng,
Nguyệt lệnh vô thần dụng chỗ này.
15-04-16, 19:10
lesoi
Xung Lộc

Cách này nhƣ Canh lộc ở Thân, trong trụ không có Thân, đƣợc ngày Canh Dần, năm tháng
giờ lại có chữ Dần, cùng xung Thân là lộc của Canh. Giáp lộc ở Dần, trong trụ không có Dần,
lại đƣợc ngày Giáp Thân, năm tháng giờ lại có chữ Thân, cùng xung Dần là lộc của Giápc.
Đại kỵ Bính tổn thƣơng Canh, Canh tổn thƣơng Giáp, vị trí lộc điền thực là không quý. Còn
lại theo ví dụ này mà suy. Nhƣ Kỷ Tị, Đinh Sửu, Canh Dần, Mậu Dần; Tân Tị, Ất Mùi,
Giáp Thân, Nhâm Thân; Ất Mão, Giáp Thân, Tân Mão, Tân Mão, cả 3 mệnh đều hợp cách,
nên quý.

Lục Nhâm xu Cấn

Cách này chính là ngày Lục Nhâm thấy giờ Giáp Dần, hợp xuất Nhâm lộc ở trong Hợi, tức là
Ám Lộc cách. Kinh nói: Lộ ra lộc không bằng Ám Lộc là vậy. Kỵ chữ Hợi điền thực, sợ
hình xung khắc phá. Hai ngày Nhâm Dần, Nhâm Thìn là chính, kiến chữ Dần nhiều là đại
phú, lấy Giáp mộc Thực thần sinh Bính hỏa ở trong Dần là Tài trƣờng sinh, Tài vƣợng sinh
Quan, cho nên hoàn mỹ. Kỵ Quan Sát tổn thân, Thân Canh hại Giáp, không thể sinh Tài, là
hung. Lại viết: Ngày Nhâm thấy nhiều chữ Dần, dụng Giáp mộc ở trong Dần ám mời Kỷ thổ
là Quan tinh của Nhâm, Bính hỏa ở trong Dần ám mời Tân kim là Ấn thụ của Nhâm, sợ Ngọ
hợp Thân xung, kỵ Tài Quan điền thực, hỉ đất thân vƣợng, tuế vận cũng vậy. Khẩu quyết nói:
Lục Nhâm xu Cấn, phùng tháng Hợi tất bần. 《 Tâm tướng phú 》 nói: Lục Nhâm xu Cấn,
trí túc đa mưu. 《 Chân Bảo phú 》 nói: Lục Nhâm xu Cấn, thấu Tài Ấn là diệu kỳ, Quan
Sát đến phạm, lại là bần cùng hạ tiện.

Lục Giáp xu Càn

Cách này chính là ngày Lục Giáp thấy Hợi. Hợi, là vị trí Thiên Môn, viên ở Bắc cực, Giáp
mộc dựa vào trƣờng sinh. Hợi lại có thể hợp xuất bản lộc ở trong Dần, cùng giống với cách
Xu Cấn. Kỵ chữ Dần điền thực, chữ Tị hình xung. Lại viết: Giáp kiến giờ Hợi, Hợi có Nhâm
lộc là Ấn, hỉ kiến Tân kim sinh Ấn, không hỉ kiến Tài, trụ có Mão hợp Hợi, tức là không thể
hợp lộc trong Dần vậy, nếu thân nhƣợc gặp Tị Dậu Sửu cục, Kim thần quá nhiều, tuế vận lại
128 | Tam mệnh thông hội

thấy, sinh tai họa. 《 Tâm Tướng phú 》 nói: Lục Giáp xu Càn, chủ ngƣời nhân từ, tâm ngay
thẳng chính trực. 《 Chân Bảo phú 》 nói: Lục Giáp xu Càn, thấu Ấn thụ là tốt, lại thấy Tài
tinh, vị liệt danh Khanh. 《 Thiên Lý Mã 》 nói: Nhâm xu Cấn, Giáp xu Càn, danh sĩ thanh
triều.
Thơ viết:
Lục Giáp xu Càn tối vi kỳ,
Người sinh ngày Giáp được giờ Hợi,
Tuế vận nếu phùng Tài vượng xứ,
Quan tai hoạn nạn lại đến tìm.
Xem thơ và phú, có kỵ Tài hỉ Tài là khác nhau, tôi thấy thấu Ấn là kỵ Tài, thân vƣợng thì hỉ
Tài.
15-04-16, 19:11
lesoi
Tài Quan song mỹ

《 Kế Thiện thiên 》 nói: Lục Nhâm sinh lâm Ngọ Mùi, hiệu viết là Lộc Mã đồng hương,
ngày Quý tọa hƣớng Tị cung, chính là Tài Quan song mỹ. Lộc tức là Quan, Tài tức là Mã, hai
câu nghĩa đồng nhất vậy. Nhâm lấy Đinh hỏa là Tài Mã, Kỷ thổ là Quan Lộc, lộc đều ở Ngọ;
Quý lấy Bính hỏa là Chính Tài, Mậu thổ là Chính Quan, lộc đều ở Tị. Nhân mệnh Lộc Mã
Tài Quan, khó đƣợc kiêm toàn, huống chi tự tọa ở dƣới, cho nên là quý. Hỉ sinh mùa thu kim
vƣợng vĩnh viễn sinh còn mộc thì tử, không thể khắc thổ, cho nên là không hại. Nếu thấy Dần
Mão vƣợng thì tú mà không thực, sinh mùa đông Huyền Vũ đƣơng quyền, quý là Vƣơng
Hầu. Nhƣ trụ có Tài Quan, lại đƣợc sinh 2 ngày này, càng kỳ diệu. Nhƣ Kỷ Sửu, Đinh Mão,
Nhâm Ngọ, Quý Mão, năm tháng thấu ra Đinh Kỷ, quy lộc dƣới ngày, hợp cách này, là đại
quý. 《 Lạc Lục Tử 》 nói: Lộc Mã đồng hƣơng, không Tam Thai cũng Bát Tọa. Lại nói:
Mỗi khi thấy Quý nhân ăn Lộc, không ngoài Lộc Mã đồng hƣơng là vậy. Giáp Tuất, Ất Sửu,
Ất Tị, Bính Thân, Đinh Sửu, Mậu Thìn, Kỷ Hợi, Canh Dần, Tân Mùi, Nhâm Tuất, Quý Mùi,
trong số ngày này tự tàng Tài Quan, cũng là Lộc Mã đồng hƣơng, trải qua chỉ lấy 2 ngày
Nhâm Ngọ, Quý Tị, lấy chỗ Nhâm Quý tọa Chính Tài Chính Quan, còn lại thì hoặc Thiên
hoặc Chính, cho nên không thuần nhất vậy. Loại suy, 2 ngày Giáp Tuất, Ất Sửu, hỉ tháng kim
thổ phân phú quý, nhƣng kim khí không thể quá nhiều, e rằng thƣơng thân cƣớp khí, nếu
không có Quan quý, tất phát tài phú. 2 ngày Bính Thân, Đinh Sửu, tháng sinh kim mộc là
quý, duy chỉ kỵ thổ trọng, nếu hội khởi thổ khắc Quan, chủ phú. Ngày Kỷ Hợi nên sinh tháng
tứ quý, hoặc có chỗ dựa tƣơng sinh là cát. Ngày Canh Dần hỉ kiến hỏa, cần sinh mùa đông
đến sau lúc Nhất Dƣơng sinh hỏa vƣợng, chủ quý, nếu đƣợc kim cƣơng hỏa cƣờng luyện
thành kiếm khí sắc nhọn, sinh thu phùng hỏa càng tốt, nhƣ mệnh Đường Thái Tông: Bính
Ngọ, Canh Tý, Nhâm Ngọ, Bính Ngọ, ngày Nhâm sinh tháng Tý là thân vƣợng, xung khởi
can năm chữ Bính, 2 Bính đồng khoa, lại xung khử Canh Kiêu thực, Canh đã bị xung khắc,
thì Tị Bính tựu bản nhật trên Ngọ, can giờ Bính tựu chi tháng Tý, Nhâm là con của Canh, tựu
can giờ Ngọ, biến thành Bính Ngọ, Bính Tý, Canh Ngọ, Nhâm Ngọ, đều là Lộc Mã đồng
hƣơng, lại là Thủy Hỏa ký tế, còn có danh là Lục Nhâm di hoán, cho nên là đại quý. Đại
phàm mệnh đại quý hợp thủ 2,3 cách cục, trái phải phùng nguyên, không có thể lấy cách
nhiều là tạp, nhƣ thuyết Uyên Nguyên.

Cổ ca viết:
Lộc Mã đồng hương không khắc đoạt,
Tài Quan đồng xứ rất là vinh,
Tam Thai Bát Tọa chân kỳ quý,
Khắc đoạt nếu cường khuyết lợi danh.
129 | Tam mệnh thông hội

15-04-16, 19:11
lesoi
Nhật Quý

Nhật Quý, là Nhật nguyên tự tọa Thiên Ất vậy. Cách này chỉ có 4 ngày: Đinh Dậu, Đinh Hợi,
Quý Tị, Quý Mão, là ngƣời thuần túy, có nhân đức, có phong cách, không kêu ngạo. Quý khí
tụ ở ngày, lại có Tài Thực Ấn tƣơng trợ, quý khí là phúc. Hỉ tam lục hợp, trạch mộ hợp, hành
vận Quý nhân Tài vƣợng, là phát phúc. Đại kỵ hình xung phá hại, Không Vong, vận hành lại
gặp kỵ ở trƣớc, Thái tuế gia hội, lại thấy Khôi Cƣơng, định chủ bần yểu. Nếu thành cách
khác, không luận. Nhật Quý cần phân ra ngày đêm, sinh ban ngày cần Quý Mão, Đinh Hợi,
sinh ban đêm cần Quý Tị, Đinh Dậu, ngày đêm cũng không thoả đáng.
Kinh nói: Danh hiệu Quý nhân là hiền lành vui vẻ, xem trọng đức tính, gặp Tài Quan Ấn
Thực là cát, gặp Sát Nhận xung hình là hung, vận gặp Khôi Cƣơng, là hại không nhỏ.

Cổ ca viết:
Thiên can ngày sinh tọa chi quý,
Nếu thấy Khôi Cương phúc không thành,
Năm gặp tháng lộc không phải hỉ,
Nhật quý trọng phùng lại là kỳ.
Lại nói:
Nhật Đức Nhật Quý chủ nhân từ,
Tài Quan Ấn gặp phúc vinh xương,
Hình xung Sát Nhận như thấy đến,
Phản cát thành hung không thể đương.
Lại nói:
Quý lâm Xà Thỏ là anh kỳ,
Đinh hướng Trư Kê một lệ suy,
Thiết kỵ Khôi Cương phân đêm ngày,
Lại phòng hình hại mất tôn ti;
Vận hành gia hội danh phải trọng,
Mệnh mang Không Vong tất họa theo,
Quý trọng tôn nghiêm giữ dầy đức,
Hoặc phùng giới trước hung không sai.
15-04-16, 19:12
lesoi
Nhật Đức

Cách này chỉ có 5 ngày: Giáp Dần, Bính Thìn, Mậu Thìn, Canh Thìn, Nhâm Tuất, lấy 5 can
dƣơng Giáp Bính Mậu Canh Nhâm, Giáp tọa Dần đƣợc lộc, Bính tọa Thìn Quan khố, Canh
lấy Thìn Tài Ấn lƣỡng toàn, Nhâm tọa Tuất có đủ Tam Kỳ. Dần là thủ Tam Dƣơng, Thìn
Tuất là đất Khôi Cƣơng, can chi khác ở vị trí khác, cho nên danh là Nhật Đức vậy. Nếu hợp
Nhật Đức, chủ ngƣời có tính cách từ thiện, dáng mạo khôi ngô, có tâm kính lão thƣơng ngƣời
nghèo, không có ý độc hại khắc bác, phùng hung có cứu, gặp khó có giải, không gặp tai hoạ
phát sinh, phúc tất phong hậu. Phú nói: Nhật Đức tâm thiện đa ổn hậu, mà làm việc nhần từ
là vậy. Vận lâm thân vƣợng, thật là tuyệt vời, nếu vƣợng khí đã suy, hành vận gặp Khôi
Cƣơng tất chết, hoặc không phát phúc, cách cục đã tốt, đến vận Khôi Cƣơng, tất sinh họa
hoạn, một khi thoát khỏi chỗ này, cũng có thể tái phát, cuối cùng lực nhỏ. Cách ngày chỉ có
một vị, hỉ Tài Quan, Nhật Đức trùng điệp, không nên kiến Tài Quan, cùng hình xung phá hại,
Không Vong, Khôi Cƣơng gia lâm hội hợp, đều là đại kỵ.
Thơ viết:
130 | Tam mệnh thông hội

Nhâm Tuất Canh Thìn Nhật Đức quan,


Giáp Dần Mậu Bính phải cưỡi Long,
Vận phùng thân vượng tâm từ thiện,
Nhật Đức cư nhiều phúc tự phong.
Lại nói:
Nhật Đức không thích thấy Khôi Cương,
Hóa thành sát diệu rất khó đương,
Trong cục trọng kiến phải còn cát,
Đến vận Khôi Cương phúc không xương.
Lại nói:
Nhật Ngọ Đức trọng miễn họa ương,
Quan tinh lại kỵ kiến Tài hương,
Lại không xung phá Không Vong xứ,
Kham lấy trong triều một đống lương.
Lại nói:
Nhật Đức có Sát hỉ thân cường,
Không hỉ Tài tinh Quan vượng hương,
Là tính ôn nhu mà từ thiện,
Cả đời phúc thọ hỉ phi thường.
Nhƣ mệnh Trƣơng Chúc Vận Đồng: Giáp Thân, Mậu Thìn, Mậu Thìn, Nhâm Tuất, do học
quan mà lƣng mang kim y tử, đƣợc quan ngũ phẩm, là cách này vậy. Một mệnh: Canh Thìn,
Kỷ Mão, Mậu Thìn, Giáp Dần, có 3 vị Nhật Đức, lấy cách này luận, nhƣng Giáp Dần kỵ
thấy Canh Thìn, vận hành Nhâm Ngọ đất Tài hƣơng, trong Ngọ Dƣơng Nhận giữ quyền, đều
phạm Nhật Đức, chỗ kỵ năm Đinh Tị, Dần Tị tƣơng hình, tháng 4 chết, thọ đến 38 tuổi, cả
đời nặng tính, cũng không từ thiện, dây dƣa ác tật.
15-04-16, 19:13
lesoi
Khôi Cương

Cách này có 4 ngày: Canh Thìn, Nhâm Thìn, Mậu Tuất, Canh Tuất. Thìn là Thiên Cƣơng,
Tuất là Hà Khôi, là đất âm dƣơng tuyệt diệt, cho nên có danh. Độc trừ can Giáp, thủ lấy ở
can, ở Thìn là Thanh long, ở Mậu là Lộc đƣờng, cho nên có cát mà không có hung vậy. Cách
này cần điệp hóa trọng phùng vị trí ngày, gia lâm nhiều, lấy phục là quý.
Kinh nói: Khôi Cƣơng tụ chúng, phát phúc phi thƣờng, chủ là vì tính cách thông minh, văn
chƣơng chấn phát, lâm sự quả đoán, nắm quyền háo sát.
Phú nói: Khôi Cƣơng tính nghiêm có kế hoạch, mà là ngƣời thông mẫn là vậy. Vận hành
thân vƣợng, phát phúc bách đoan, một khi thấy Tài Quan, họa hoạn lập tức đến, hoặc mang
hình sát rất nặng, nhƣng một chỗ vị trí ngày, hình xung khắc chế lâm đến, tất là tiểu nhân,
không khỏi hình trách, nghèo tận xƣơng cốt, vận lâm xứ Tài Quan vƣợng, chủ phòng họa.
Nếu Nguyệt lệnh kiến Tài Quan ấn thụ, nhật chủ một vị, tức là lấy Tài Quan ấn Thực thủ
dụng, tuy là có phá bại, Tài Quan Ấn Thực đắc vị, cũng không có hại lớn, phải cân nhắc ở đề
cƣơng, lúc thủ dụng, không thể câu nệ tiểu tiết.
Lại viết: 2 ngày Canh Tuất, Canh Thìn, không có Quan tinh, nếu Khôi Cƣơng trùng điệp hữu
tình, chủ phú cao hơn danh, nhƣng thấy Tài thì không thành cục, tuế vận lại thất đất Tài
vƣợng, họa không thể lƣờng.
+ Ngày Canh Thìn sinh tháng 9, tuy là Thìn Tuất tƣơng xung, vận hành nam phƣơng, trong
trụ có hỏa, cũng có thể nói quý.
+ Ngày Canh Tuất sinh tháng 3, dẫu có Quan tinh Ấn thụ ũng không dụng, bởi vì Canh dụng
hỏa ở trong Tuất là Quan khố, Mậu thổ là Ấn, Quý thủy Thƣơng quan ở trong Thìn, lại tiết
khí Canh, không thành cách vậy.
131 | Tam mệnh thông hội

+ Ngày Mậu Tuất không có Tài không quý, không nên kiến Quan, nếu Khôi Cƣơng trùng
điệp hữu tình, phú quý lƣỡng toàn.
+ Ngày Nhâm Thìn sợ thấy Tài Quan, đại hỉ Ấn thụ, bỏ Tài và Sát, tuế vận cũng vậy. Lại
viết: Thìn là thủy khố thuộc Thiên Cƣơng, Tuất là hỏa khố thuộc Địa Khôi, Thìn Tuất thấy
nhaun, là thiên xung địa kích.
《 Tử Bình tổng luận 》 nói: Thân gặp Thiên Cƣơng Địa Khôi, suy thì bần hàn thấu xƣơng,
cƣờng thì quý hiển tuyệt luân.
Thơ viết:
Nhâm Thìn Canh Tuất và Canh Thìn,
Mậu Tuất khôi cương tứ tọa Thìn,
Không thấy Tài Quan cùng hình sát,
Thân hành vượng địa quý phu luân.
Lại nói:
Khôi Cương 4 ngày tối đứng đầu,
Điệp điệp tương phùng nắm đại quyền,
Canh Tuất Canh Thìn sợ Quan hiển,
Mậu Tuất Nhâm Thìn sợ liền Tài.
Lại nói:
Khôi Cương tứ trụ cùng nhiều ngày,
Quý khí triều đến ở trong đó,
Nhật chủ độc phùng xung khắc trọng,
Tài Quan hiển lộ họa vô cùng.
Theo cách này, đều dụng Thìn Tuất, chỉ có thiên can là ít khác, bên trong 2 ngày Canh Thìn
Canh Tuất, đã viết là Nhật Đức, lại viết Khôi Cƣơng, luận cách cục, khác hẳn không giống,
bất tất phải luận. Nhƣ mệnh Trương Thời ký sự: Canh Ngọ, Đinh Hợi, Mậu Tuất, Bính
Thìn; Lưu Đại thụ Thiếu Khanh: Đinh Hợi, Quý Sửu, Canh Tuất, Mậu Dần, cả hai mệnh là
ngày Khôi Cƣơng, chỉ thủ Tài Quan ấn là vậy.
16-04-16, 07:12
lesoi
Phúc Đức tú khí

Cách này chuyên lấy Tị Dậu Sửu kim cục mà xem chỗ đƣợc thiên can, nhƣ 3 ngày Ất Tị, Ất
Dậu, Ất Sửu, là Ất dụng kim là Sát, hỉ Ấn thụ, hỉ chế phục, không nên sinh tháng 6 gặp Mùi,
lấy trên mộ mang vƣợng. Kim có thể khắc mộc, không nên sinh tháng 8 lại lộ ra Sát, vận
hành đất Ấn thụ Quan vƣợng, liền có thể phát phúc. 3 ngày Đinh Tị, Đinh Dậu, Đinh Sửu, là
Đinh dụng Nhâm là Quan, hỉ kim vƣợng sinh thủy, cũng không hỉ sinh tháng 8, lấy tháng 8
hỏa tử, công danh thặng đặng, lại không thích sinh tháng 11, vì tháng 11 Quý thủy là Sát là
thọ không dài, trong trụ hỉ thấy Tài Quan, vị trí vƣợng là quý, vận hành Quan vƣợng, liền có
thể phát phúc. 3 ngày Kỷ Tị, Kỷ Dậu, Kỷ Sửu, là Kỷ dụng Giáp mộc là Quan, Tị Dậu Sửu
kim cục đều là hại Quan, cũng là danh Cƣớp khí, sao mà cát chứ? Ai cũng biết kim có thể
sinh thủy Tài, hỉ hành Tài vận liền phát, trong trụ không nên thấy Bính Đinh Dần Ngọ Tuất,
vì tổn thƣơng kim cục cùng hình xung phá hại, lại không hỉ sinh tháng 4 hỏa vƣợng, tú khí
mỏng, lập thân lúc già, nhiều thành bại cô khắc. 3 ngày Quý Tị, Quý Dậu, Quý Sửu, là dụng
Kim Thần là Ấn, thấy Tị Dậu Sửu kim cục có thể sinh Quý thủy, hỉ thu đông, cũng không
thích sinh tháng 4, vì thủy tuyệt ở Tị, mặc dù kim sinh ở Tị, lấy kim sinh thủy cũng không thể
tuyệt, đƣợc vận Quan Ấn liền có thể phát phúc, chỉ sợ hỏa Tài tổn thƣơng kim. 3 ngày Tân
Tị, Tân Dậu, Tân Sửu, trụ toàn kim cục là vi diệu, nếu thấy Ngọ Tuất hỏa vƣợng có phá, lại
sinh tai ƣơng, nếu thông Bính hỏa vƣợng là Chính khí Quan tinh, hoặc gặp Dần Mùi là Thiên
Ất quý nhân, đều cát. Tuế vận giống vậy.
Cổ ca viết:
132 | Tam mệnh thông hội

Âm mộc gia lâm Dậu Tị Sửu,


Sinh ở tháng 6 ám oán than,
Lại Quan đắc lộc khó trường cửu,
Dẫu có văn chương không đủ khoe.
Lại nói:
Ất Tị Ất Dậu cùng Ất Sửu,
Người sinh tháng 8 là đoản thọ,
Tứ trụ nếu thấy hỏa Thương quan,
Giáng quan mất chức chắc chắn có.
Lại nói:
Âm hỏa tương lâm Tị Dậu Sửu,
Sinh cư tháng 9 thọ khó dài,
Lại thêm danh lợi nhiều thành bại,
Phá bại hoang dâm không thể đương.
Lại nói:
Đinh Tị Đinh Dậu cùng Đinh Sửu,
Người sinh tháng 8 thọ không lâu,
Tiền trình danh lợi phân hai khu,
Lại kỵ ẩm tửu cùng giao hữu.
Lại nói:
Âm thổ phùng Xà Kê và Ngưu,
Danh là Phúc Đức hiệu Tỳ Hưu,
Tú khí hỏa đến xâm khắc phá,
Phải dạy danh lợi nhất thời ngưng.
Lại nói:
Kỷ Tị Kỷ Dậu cùng Kỷ Sửu,
Phúc Đức tú khí tạo hóa có,
Rất sợ tứ trụ hỏa tương xâm,
Dẫu có công danh không lâu dài.
Lại nói:
Âm kim hợp cục chủ tiền trình,
Tạo hóa thanh kỳ đại hữu tình,
Tứ trụ hỏa đến xâm khắc phá,
Phải biết danh lợi đều không thành.
Lại nói:
Tây phương kim khí tọa âm nhu,
Không sợ hưu thời không sợ tù,
Quỷ sát sinh thời mới phát phúc,
Công danh theo bước đến Doanh châu.
Lại nói:
Quý Tị Quý Dậu tháng đón Tị,
Trăm chuyện trì trệ làm việc không,
Danh lợi sinh thành khó hi vọng,
Mới biết người ở trong ngũ hành.
Lại nói:
Quý Tị Quý Dậu cùng Quý Sửu,
Người sinh tháng 4 không thọ dài,
Công danh thành bại ở vãn niên,
Tối kỵ tham hoa cùng ẩm tửu.
16-04-16, 07:14
133 | Tam mệnh thông hội

lesoi
Lộc Nguyên hỗ hoán

Cách này chỉ có 4 ngày: Mậu Thân, Đinh Dậu, Bính Tý, Canh Tý. Ngày Mậu Thân thấy giờ
Ất Mão, Mậu thủ Ất mộc ở trong Mão là Quan, Ất thủ Canh kim trong Thân là Quan, hỗ
hoán thành kỳ Quý lộc, trong trụ hỉ Nhâm Quý là Tài, sinh trợ Ất mộc Quan tinh, vận lâm đất
Quan vƣợng, liền thành quý mệnh, kỵ thấy Giáp Sát, Tân Thƣơng, Dần Dậu xung. Đinh Dậu
thấy Nhâm Dần, Bính Tý thấy Quý Tị, Canh Tý thấy Đinh Hợi, hỉ kỵ suy giống nhƣ trƣớc.
Như mệnh: Quý Hợi, Nhâm Tuất, Bính Tý, Quý Tị, hỗ hoán lộc vƣợng, đều lâm Quan quý,
không có hình xung phá hại, cho nên quý. Lại nhƣ: Kỷ Mùi, Tân Mùi, Bính Tý, Quý Tị, là
hợp cách, đại quý. Cổ pháp luận Lộc Nguyên hỗ hoán, nhƣ Mậu Ngọ kiến Đinh Tị, là thủ lâm
quan Lộc.

Tý Ngọ song bao

Tý là Đế Tọa, Ngọ là Đoan Môn, chỗ vị trí của đế vƣơng ở, nhân mệnh hoặc có 2 Tý 2 Ngọ,
hoặc có 2 Ngọ bao 1 Tý, hoặc có 2 Tý bao 1 Ngọ, có đạo Thủy Hỏa ký tế, dƣơng sinh âm
sinh chi ky, gặp là chủ quý. Nhƣ Nhâm Ngọ, Nhâm Tý, Mậu Ngọ, Nhâm Tý, có 2 Ngọ 2 Tý;
Nhâm Tý, Quý Sửu, Mậu Ngọ, Nhâm Tý; Giáp Tý, Canh Ngọ, Bính Thân, Mậu Tý; Mậu
Tý, Mậu Ngọ, Đinh Mùi, Canh Tý, đều là 2 Tý bao Ngọ; Mậu Ngọ, Giáp Tý, Giáp Thân,
Canh Ngọ; Giáp Ngọ, Nhâm Thân, Giáp Tý, Canh Ngọ, đều là 2 Ngọ bao 1 Tý. Đều là quý
mệnh.

Thanh Long phục hình

Giáp Ất mộc thộc Đông phƣơng, gọi là Thanh Long phục hình, là nói phục ở kim vậy. Nhƣ
sinh ra 5 ngày là Giáp Thân, Giáp Tuất, Ất Tị, Ất Dậu, Ất Sửu, tọa dƣới Tài Quan, đều cần
dựa vào Nguyệt lệnh, Quan tinh đắc địa, không thấy thần Thƣơng quan, kim mộc ngang nhau
là hợp tƣợng. Có lấy ngày giờ Ất Tị, danh là Thanh Long phục tàng, chủ có mất ẩm tửu, ám
tổn phúc thọ, không ẩm tửu thì đƣợc.

Thơ viết:
Giáp Ất như cư đất Thân Dậu,
Mộc phùng xuân vượng tối vi lương,
Tứ trụ nếu phùng khố tương trợ,
Tài Quan song mỹ không tầm thường.
16-04-16, 07:15
lesoi
Bạch Hổ trì thế

Canh Tân kim thuộc Tây phƣơng, gọi là Bạch Hổ trì thế, là đắc thế vậy. Nhƣ các ngày Canh
Ngọ, Canh Dần, Canh Tuất, Tân Tị, Tân Mão, Tân Mùi, 6 ngày này, tọa dƣới Tài Quan Ấn
quý, nhật chủ cần có đón nhận sinh khí, hoặc Quan vƣợng đắc thời có trợ, không thấy Tài
Quan, dụng Quan tất quý, dụng Tài tất phú, tuế vận cũng vậy. Có lấy ngày giờ Tân Mão
phạm Bạch Hổ, bất lợi chiến đấu dũng mãnh, khiến ngƣời phần đa có bệnh mắt, trọng phạm
càng kỵ.

Thơ viết:
Bạch Hổ trì thế Dần Mão cường,
Như lâm Tị Ngọ Mùi Tuất hương,
134 | Tam mệnh thông hội

Tứ nhiều cũng gặp là phú quý,


Tất hướng hoàng đô làm cột trụ.

Chu Tước thừa phong

Bính Đinh hỏa thuộc Nam phƣơng, gọi là Chu Tƣớc thừa phong, cũng giống nhƣ nghĩa trì thế
vậy. Bính Đinh hỉ cƣ đất kim thủy, thân vƣợng có chỗ dựa là phú quý. Nhƣ Bính Tý, Đinh
Hợi, là Thủy Hỏa ký tế, lại hợp Thai nguyên thụ quý khí, Quan vƣợng Tài vƣợng là thƣợng
đẳng. Bính Đinh có Thân Tý Thìn hội thủy cục, cũng là Ký tế. Phú nói: Hỏa vượng gặp thủy,
lấy thành công ký tế, thủy hỏa cần phải ngang nhau, không dẫn đến thiên khô mới đúng. Nhƣ
Bính Thân, Bính Thìn, Đinh Dậu, Đinh Sửu, thân có đƣợc chỗ dựac, sinh khí tƣơng phù, Tài
Quan vƣợng tƣớng, đều cát. Có lấy ngày giờ Đinh Mùi danh là Chu Tƣớc gãy chân, đại bất
lợi cho lục súc, vong tán tử thƣơng, hoặc mắc bệnh lở loét, có Giáp Ất thì có tử tôn.

Thơ viết:
Chu Tước thừa phong là Bính Đinh,
Như phùng kim thủy liền tranh vanh,
Thân Tý Thìn hương nhiều quý đạt,
Giờ phùng đa điện ngọc giai hành.

Huyền Vũ đương quyền

Nhâm Quý thủy thuộc Bắc phƣơng, gọi là Huyền Vũ đƣơng quyền, nghĩa giống nhƣ trì thế.
Nhƣ Nhâm Dần, Nhâm Ngọ, Nhâm Tuất, Nhâm Thìn, Quý Tị, Quý Sửu, Quý Mùi, đều tọa
dƣới Tài Quan Ấn, nếu thân vƣợng có chỗ dựa, Quan tinh thông sinh khí nguyệt lệnh, là quý,
đại kỵ thủy cục Thƣơng quan, trọng cùng hung ác, chết bất tử, nhƣ gặp thổ cục hỏa trọng, cần
thấy khí kim tiết, sinh trợ bản thân, là cát, xung phá thân nhƣợc thì hung, tuế vận cũng vậy.
Có lấy ngày giờ Nhâm Thìn danh là Huyền Vũ thụ xuyên, chủ chức quan bị gièm pha, có mất
tiểu nhân, thị phi không yên.

Thơ viết:
Huyền Vũ sinh thu vượng bắc phương,
Như lâm Tị Ngọ thổ thần hương,
Nếu thấy Cấn Dần tài phúc hậu,
Cả đời danh lợi lưỡng cát xương.
Lại nói:
Huyền Vũ đương quyền phải đắc chân,
Nhật can Nhâm Quý tọa Tài tinh,
Quan tinh nếu cũng cư môn hộ,
Không phá nên làm người đại dụng.
16-04-16, 07:16
lesoi
Câu Trần đắc vị

Mậu Kỷ thổ thuộc Trung Ƣơng, gọi là Câu Trần đắc vị, nghĩa tức là đƣơng quyền. Nhƣ Mậu
Dần, Mậu Thìn, Mậu Tý, Mậu Thân, Ất Mão, Kỷ Hợi, Kỷ Mùi, đều tọa dƣới Tài Quan Ấn,
nếu thân vƣợng, quan đắc thời là quý, Tài đắc thời là phú, không thấy Thƣơng Quan Kiếp Tài
là tốt, kỵ xung hình, Sát vƣợng sinh tai hoạ, tuế vận cũng vậy.

Thơ viết:
135 | Tam mệnh thông hội

Mậu Kỷ Câu Trần ở vượng hương,


Trong cung Dần Mão nói tối cường,
Nếu là còn lâm Thìn Mão Mùi,
Hợi Tý tương phùng đại cát xương.
Lại nói:
Nhật can Mậu Kỷ tọa Tài Quan,
Viết danh Câu Trần là đắc vị,
Biết có tài lớn chia thuận lợi,
Trong mệnh gặp đây liệt triều ban.

Mượn khí hoàn Hồn

Ngũ hành tự tử tuyệt mà có cứu mà vẫn còn lƣu lại. Nhƣ mộc tuyệt ở Thân, mà gặp Giáp
Thân; kim tuyệt ở Dần, mà gặp Mậu Dần là tối cát, thứ là có phúc thần, không có thì hạ đẳng.

Bát chuyên Lộc Vượng

Trƣớc có nói ngày Bát Chuyên, lại có thêm Bính Ngọ, Đinh Tị, Mậu Thìn, Mậu Ngọ, Kỷ Tị,
Ất Sửu, Nhâm Tý, mà không có Đinh Mùi, Lục thập Giáp Tý, độc nhất chỗ này là can chi
đồng loại, trong đó 4 ngày Giáp Dần, Ất Mão, Canh Thân, Tân Dậu tự chuyên lộc vƣợng là
chính, Giáp Ất phải có tháng Hợi Mão Mùi Dần thành mộc cục, Canh Thân cần tháng Tị Dậu
Sửu Thân thành kim cục, là thuần tú khí mà không tạp, là ngƣời thông minh có thọ, cả đời ít
bệnh, đa số thích tửu sắc, trụ có Quan Sát, nhƣng thân cƣờng không sợ, nếu hỗn tạp thì lộc
không có chuyên, cuối cùng là có họa, bát tự mang Tài Ấn Thực là phúc, vận hành đất
chuyên lộc vƣợng, đất Tài Ấn Thực vƣợng, đều phát phú quý, sợ Tỉ kiên, Kiếp tài, trụ không
có Tài Thực Quan Ấn, đa phần là cô đơn, hoặc làm tăng đạo.
Kinh nói: "Can cùng chi giống nhau, tổn Tài thương Thê."
Lại nói: "Thân vượng vô ỷ, định là tăng đạo" đúng vậy.
Nếu chỉ có một vị lộc, vận hành đất thân vƣợng Tài Thực Ấn vƣợng, cũng chủ phát quý. Nếu
trùng điệp 3,4 vị lộc mà không có Tài Quan, lại thủ xung khởi đối cung tài phúc là dụng, hoặc
tháng giờ mang Quan có khí, lấy thân vƣợng phùng Quan, càng là quý cách. Kỵ xung hình
tán khí vƣợng của ta, dù quý cũng sinh nhiều bệnh.
Nhƣ Chu Văn Công: Canh Tuất, Bính Tuất, Giáp Dần, Canh Ngọ, ngày chuyên lộc đƣợc
hỏa cục là Thực, 2 Canh là Sát, cƣ khố hỏa vƣợng, mộc tú đắc địa, hóa Sát thành quyền, nên
thành nhà đại nho. Đổng Thừa tướng: Kỷ Tị, Tân Mùi, Ất Mão, Đinh Hợi, là ngày chuyên
lộc mà đƣợc mộc cục, nhật can hoàn toàn tụ sinh vƣợng tú khí, vận hành đông phƣơng cục
thân vƣợng, hoàn toàn xung khởi đối cung lộc là quyền, cho nên đại quý.
16-04-16, 08:08
lesoi
Khúc Trực

Ngày Giáp Ất đƣợc Hợi Mão Mùi mộc cục, trong trụ cần có chữ Hợi mang Ấn là nhập cách,
nếu không có Hợi mà có Mão, chỉ là bản khí của mộc, lại cần thấy kim thổ là quý, đã không
có chữ Hợi, lại không có kim thổ, thì mộc không tú không thực, khó mà nói quý. Nhƣ ngày
Giáp Dần có Hợi, giờ gặp Đinh Mão Kiếp tài, Dƣơng Nhận, Thƣơng quan, tuy quý nhƣng
không hoàn toàn hợp cách.
Thơ viết:
Ngày Giáp Ất sinh Hợi Mão Mùi,
Cục toàn Khúc Trực nên vinh quý,
Trong trụ không có Hợi cần thổ kim,
136 | Tam mệnh thông hội

Sinh ra tất nhiên hưởng phúc địa.


Lại viết:
Người sinh Giáp Ất Dần Mão Thìn,
Có danh Nhân Thọ có lưỡng bình,
Hợi Mão Mùi đủ sợ Bạch Đế,
Nếu phùng Khảm vị tất thân vinh.

Viêm Thượng

Ngày Bính Đinh gặp cục Dần Ngọ Tuất, trong trụ nếu có chữ Dần mang Ấn là nhập cách,
không có Dần chỉ là mệnh Cửu Lƣu cận quý, nếu hỏa tự vƣợng, không có Hợi thủy cứu giúp,
không quý. Hỉ vận đông bắc phƣơng, kỵ thấy Thìn Sửu Mậu Kỷ, làm mờ ánh sáng hỏa, phần
đa chủ tật mắt, hoặc mắc bệnh phong khí, trụ có mộc chế thành quý, kỵ đất thủy kim, sợ
xung.
Thơ viết:
Ngày Bính Đinh tọa Dần Ngọ Tuất,
Hỏa Viêm Thượng cách xuất từ đây,
Không Dần không Hợi không thành danh,
Kỵ phùng thổ hối chủ tàn tật.

Tòng Cách

Ngày Tân thấy cục Tị Dậu Sửu, cần mang 1,2 vị Bính Đinh Tị Ngọ mới thành khí, nhƣng hoả
không thể nhiều. Nhƣ 3 ngày Tân Tị, Tân Dậu, Tân Sửu không thích sinh tháng 5, bị chỗ hỏa
làm tổn thƣơng, thích hợp tháng 8 hoặc thủy thổ nuôi dƣỡng Thực thần Ấn thụ là cát.
Thơ viết:
Bạch Hổ nếu phùng Tị Dậu Sửu,
Cách là Tòng Cách danh Thiên Hậu,
Bính Đinh Tị Ngọ có gặp ít,
Quý khí luyện thành đứng đầu quan.
Lại nói:
Kim cư Tòng Cách nhận quý nhân,
Tạo hóa thanh cao phúc tối thâm,
Tứ trụ hỏa đến cùng hỗn tạp,
Luận trải qua Nghệ thuật Không môn (Tu đạo, học thuật).
16-04-16, 08:10
lesoi
Nhuận Hạ

Ngày Nhâm Quý thấy đủ Thân Tý Thìn, kỵ dẫn đến đất Mão Tị tử tuyệt, đất tam hình tứ
xung, tử tuyệt thì không chảy, xung hình thì chảy tràn lan, tuế vận cũng vậy. Hoặc viết Thủy
quá phiếm lạm trụ cần có thổ thần 1,2 vị để chế, để đắp thành đê ngạn, đã có thổ vẫn sợ hội
mộc là hung, nhƣ có mộc hại thổ cần có kim Ấn cứu giải, cuối cùng là thành bại cả đời. Vận
hỉ tây phƣơng, không hỉ đông nam.
Thơ viết:
Ngày Nhâm Quý phùng Thân Tý Thìn,
Tên cục Nhuận Hạ rất là chân,
Tất cần Tị Ngọ cùng Thìn Tuất,
Chữ Thân nắm quyền quý tuyệt luân.
Lại nói:
137 | Tam mệnh thông hội

Thiên can Nhâm Quý hỉ sinh đông,


Lại gặp Thân Thìn hội cục thành,
Hoặc là quy đụ Hợi Tý Sửu,
Thanh nhàn bước thẳng lên mây xanh.

Giá Sắc

Phú nói: Mậu Kỷ mừng gặp tứ quý, chính là danh Giá Sắc. Là Mậu Kỷ sinh phùng tháng tứ
quý, hỉ thấy mộc là Quan, chỉ đƣợc một mộc là vi diệu, mộc nhiều thì thổ hƣ, chủ hƣ trá là
ngƣời phá gia bất nhân. Đất Thìn Mùi thổ tụ, kiến Tị Ngọ hỏa là quý, cũng không nên có
nhiều, nhiều thì thổ táo, không thể giúp sinh vạn vật. Sửu Tuất thổ, bên trong thích kim khí,
không nên thấy, sợ tồn Sát khí, không sinh vạn vật, lại không nên thấy kim tiết khí, không
quý. Thu thổ không thành khí là thổ tử, vì trong thổ chứa kim, đông thổ không thành khí vì
thổ nê, vì trong thổ chứa thủy, cho nên thổ chỉ có thích tứ quý vậy.
Thơ viết:
Ngày sinh Mậu Kỷ cần tứ quý,
Đa phòng Sửu Tuất phá khí kim,
Sinh ra thấy mộc hoặc phùng hoả,
Trong đó tiêu tức chân quý vinh.
Lại nói:
Mậu Kỷ sinh phùng trong bốn tháng,
Thìn Tuất Sửu Mùi phải có đủ,
Hỉ hành Tài địa sợ Quan Sát,
Đến vận đông phương định có hung.
16-04-16, 08:12
lesoi
Thổ cục Nhuận Hạ

Phú nói: Mậu Kỷ cư ở ngũ Nhuận, là cánh bèo tha hương. Tƣợng này chính là 3 ngày Mậu
Thân, Mậu Tý, Mậu Thìn, sinh ở đất Thân Tý Thìn Nhâm Quý thủy vƣợng, không những bần
tiện bôn ba, hợp chủ bệnh tật tứ chi, đôi mắt, hoặc bệnh lở loét máu mủ mà chết. Ứng vận
Thìn Tuất Sửu Mùi, còn lại là thổ hƣ, phùng thủy cục, đều là mệnh phiêu lƣu, nếu thổ vƣợng,
ở thủy cục là phú quý, hành hỏa hƣơng phát đạt. Nhƣ Mậu Thìn, Giáp Tý, Mậu Thân, Ất
Mão, là Thổ hƣ phùng Nhuận Hạ, cho nên chủ bệnh mắt. Tân Mùi, Canh Tý, Mậu Thìn,
Nhâm Tý, thổ theo bầy thủy, đƣợc thổ đê phòng, hành vận Bính Thân, Đinh Dậu sinh tài đại
phát, giao vận Ất Mùi năm Mậu Ngọ phá tài, đƣợc phục chức Bình Chƣơng, không thể ví dụ
Mậu Kỷ cƣ Nhuận Hạ là hung.

Kim bạch Thủy thanh

Phú nói: Kim bạch Thủy thanh, chỗ này là thế hệ đăng khoa đệ. Tƣợng này chính là ngày
Canh Thân, Tân Dậu sinh ở mùa thu, dẫn đến thời thƣợng gặp đất Hợi Tý thủy, lấy kim thì
bạch, lấy thủy thì thanh, không có hình xung phá hại, chủ giàu có. Thiết kỵ sinh mùa hạ, thì
không nhập cách, xuân kim tháng 2,3, vận hành tây bắc cũng đƣợc. Nhƣ các ngày Canh Thìn,
Canh Tý, Quý Tị, Quý Dậu, Quý Sửu, sinh mùa thu đông, không có hỏa thƣơng, không có
thổ chế, thấy kim thủy tƣơng đình là thành cục.
Thơ viết:
Kim thanh thủy bạch chủ vinh quý,
Văn chương tú lệ định xuất quần,
Lại không hỏa thổ đến hình chế,
138 | Tam mệnh thông hội

Danh dự hiên đằng Hàn Uyển nhân.

Mộc Hỏa giao huy

Phú nói: Hỏa minh mộc tú, sinh mùa xuân là lấy vinh. Tƣợng này là các ngày Giáp Tuất,
Giáp Ngọ, Giáp Dần, Bính Ngọ, Bính Dần, Bính Tuất, sinh mùa xuân hoặc mùa hạ, trụ không
có kim thủy thƣơng phá, trụ giờ có mộc hỏa. Hành vận mộc hỏa, mộc gặp hỏa tú, hành vận
nam phƣơng, hỏa gặp mộc tú, hành vận đông phƣơng, chủ thanh quý phúc hậu, hỏa gặp hỏa
tú, hành đông cũng quý. Nhƣ ngày Bính Thìn sinh tháng hỏa vƣợng, hành vận mộc hỏa cũng
đƣợc, nhƣng phú mà không quý, mộc tú không có hỏa, thì không thành cục, là vì lấy mộc hỏa
có tƣợng thông minh vậy.
Như:
Đinh Tị, Giáp Thìn, Giáp Dần, Đinh Mão;
Giáp Ngọ, Bính Dần, Đinh Mão, Bính Ngọ;
Đinh Tị, Giáp Thìn, Ất Tị, Đinh Hợi.
Ba mệnh này đều là Mộc Hỏa quang huy, tạo thanh quý.
16-04-16, 08:20
lesoi
Hỏa Kim đúc Ấn

Phú nói: Kim không có hỏa không thể thành khí, hỏa không có kim thì dụng nhiều không
hiển, kim hỏa tƣơng đình, có tƣợng đúc Ấn, kỵ chữ Sửu là tổn khuông đúc. Phú nói: Ngồi
cao áo gấm, vì kim hỏa nhiều. Lại nói: Kim quỷ không thiên, là chỗ này vậy.

Hỏa Thổ giáp tạp

Hỏa thấy thổ thì mờ, thổ đủ thì hỏa mờ, cho nên hỏa là hỏa, thổ là thổ, cả hai không nên yểm
nhau là vi diệu, nếu hỏa thổ giáp tạp, chủ ngu trọc. Kinh nói: "Hỏa hư thổ tụ thành dụng gì,
định là trần ai người lao lục" là vậy. Nhƣ: Mậu Thân, Kỷ Mùi, Bính Ngọ, Ất Mùi; Canh
Tuất, Ất Sửu, Bính Thìn, Mậu Tuất; Mậu Tuất, Đinh Tị, Kỷ Mùi, Bính Dần. Ba mệnh này
đều là Hỏa Thổ giáp tạp, bình thƣờng.

Mộ Sát

Cổ ca viết:
Trong Mộ gặp Quỷ cần phải biết,
Kẹp Sát cầm Khâu cốt nhục ly,
Phạm hung tinh này không cứu trợ,
Sinh ra phúc thọ thiếu niên kém.
Như: Ngày Giáp thấy Canh Tuất, Canh Thìn; ngày Ất thấy Tân Sửu, Tân Mùi; ngày Bính
thấy Nhâm Thìn, Nhâm Tuất; ngày Đinh thấy Quý Sửu, Quý Mùi; ngày Mậu thấy Giáp Thìn,
Giáp Tuất; ngày Kỷ thấy Ất Sửu, Ất Mùi; ngày Canh thấy Bính Thìn, Bính Tuất; ngày Tân
thấy Đinh Sửu, Đinh Mùi; ngày Nhâm thấy Mậu Thìn, Mậu Tuất; ngày Quý thấy Kỷ Sửu, Kỷ
Mùi. Chỗ này gọi là Thất Sát nhập Mộ.
《 Lạc Lục Tử 》 nói: Kẹp Sát cầm Khâu, thân nhân khóc tiễn. Nhƣ Kỷ Tị, Mậu Thìn, Quý
Sửu, Bính Thìn. Ngày Quý thấy Mậu là Quan, Kỷ là Sát, Mậu Kỷ cùng ở trên Thìn, lại là khố
Quý thủy đa số là sớm phát sớm yểu. Hoặc viết: Sát không phải chỉ có Thất Sát, là Dƣơng
Nhận, Vong, Kiếp, cùng ngày giờ hoặc là tháng ngày có kẹp tàng trong mộ, đều hung.
16-04-16, 08:21
139 | Tam mệnh thông hội

lesoi
Tứ vị thuần toàn

Dần Thân Tị Hợi có ngũ hành sinh khí Dịch Mã Học Đƣờng, gọi là Tứ Sinh; Tý Ngọ Mão
Dậu có ngũ hành vƣợng khí, Ất Tân Đinh Quý lâm, gọi là Tứ Chính; Thìn Tuất Sửu Mùi,
ngũ hành tạp khí, Hoa Cái, Chính Ấn lâm, gọi là Tứ Mộ.
Kinh nói: Tài Quan Ấn thụ, trấn ở Dần Thân Tị Hợi. 《 Chân Bảo phú 》 nói: Tý Ngọ Mão
Dậu, là tƣợng Bát Chuyên, văn là nhất phẩm bang Để Trụ, võ là phân mao treo Ấn thành
công. Lại nói: Dần Thân Tị Hợi, địa vị hàng Tam Công. 《 Nguyên Lý phú 》 nói: Tý Ngọ
Mão Dậu đầy đủ, hôn mê tửu sắc. 《 Thiên Lý Mã 》 nói: Tứ khố toàn bị, Long biến hóa
thành đại hải, là đấng chí tôn cửu ngũ. 《 Bảo Giám phú 》 nói: Thìn Tuất Sửu Mùi thuận
hành, quân mệnh đế vƣơng là không sai. 《 Lý Ngu ca 》 nói: Tứ khố toàn thời là tứ quý, vị
ban cƣ thƣợng liệt quyền hành. 《 Độc Bộ 》 nói: Dần Thân Tị Hợi cục Tứ Sinh, vật dụng
thân cƣờng, gặp là phát phúc. Tý Ngọ Mão Dậu cục Tứ Bại, nam phạm hƣng suy, nữ phạm
cô độc, hợp cách này, đa số chủ đại phú quý, thì khó tránh hình hại lục thân, nối liền tiến
thoái, cho nên đều lấy tƣơng xung không có hợp vậy. 《 Tinh Kỷ 》 nói: Tý Ngọ Mão Dậu,
nhập cách là đầy đủ tứ cực, mất cục là Biến Dã Đào Hoa, nam nữ phạm, tuy là quý có tài,
nhƣng khó tránh hoang dâm tửu sắc, là ngƣời bạc đức.
Thơ viết:
Dần Thân Tị Hợi liền bốn chữ,
Thìn Tuất Sửu Mùi cũng như vậy,
Không ở đại thế nắm khôi quyền,
Trong triều tất định là Thị vệ.
Lại nói:
Nhật Đức Nhật Quý cùng Khôi Cương,
Tứ trụ thuần toàn đại cát xương,
Lục cách trong cục vẫn nhập cách,
Tạo hóa như vậy sao tầm thường.
Chỗ này lấy tứ vị Nhật Đức, tứ vị Khôi Cƣơng, tứ vị Nhật Quý, không có phân biệt can chi,
cùng Tứ Vị thuần toàn cách đồng luận.
16-04-16, 08:28
lesoi
Nhất khí sinh thành

Thiên Nguyên nhất khí, chính là 4 Nhâm Dần, 4 Tân Mão, 4 Canh Thìn, 4 Kỷ Tị, 4 Mậu
Ngọ, 4 Đinh Mùi, 4 Bính Thân, 4 Ất Dậu, 4 Giáp Tuất, 4 Quý Hợi vậy. Tứ trụ có can chi nhất
khí, trong đó cũng có khinh trọng quý tiện, cần suy xét kĩ. Nhâm Dần, Tân Mão, Giáp Tuất
phú quý song toàn; Kỷ Tị cũng quý; Mậu Ngọ, Đinh Mùi Nhận vƣợng tính cƣờng, tuy quý
cũng nhiều hung hiểm, khắc thê, cuối cùng không thiện; Canh Thìn quý mà phong lƣu, danh
trọng lợi khinh; Ất Dậu đa số thƣơng tàn; Quý Hợi nhiều bần bạc; Bính Thân sinh bắc
phƣơng cũng có thể thủ quý, tuế vận nhƣ gặp hình xung phá đoạt, tất sinh tai họa. Đại để suy
tính bên trong có hay không có Tài Quan Ấn Thực, nhập cách có hay không có thƣơng tổn,
thiên can có hay không có đắc lệnh, can chi trên dƣới Tài Quan Ấn Thực có hóa hay không
có hóa, có tòng hay không thể tòng, định kỳ khinh trọng quý tiện.
Lại viết: 4 can thuần nhất không tạp, gọi là Thiên Nguyên nhất khí, không thể lấy Tỉ kiên
luận, cần xem kĩ địa chi có hay không có sinh hóa, có hay không có hình khắc, mang Tài
Quan Ấn hợp cách, tuế vận không nghịch, tất lấy đại quý, xung hình khắc chế cũng hung,
không thể chấp định nhất khí đều lấy quý nói. Nhƣ Giáp Tý, Giáp Tuất, Giáp Dần, Giáp Tý,
còn có danh là Phượng Hoàng can cách. Quả Chính Lang: Nhâm Thìn, Nhâm Tý, Nhâm
140 | Tam mệnh thông hội

Dần, Nhâm Dần, Nhâm tự tuyệt ở Dần, gọi là bác tạp, cho nên chỉ là Chính Lang.
Lại viết: Tứ chi thuần nhất không tạp, địa vật cùng là một, danh là Chi Lan cùng Tú cách, cần
xem nguyên can là tụ phúc hay tụ họa, nếu nhƣ hợp cách tụ phúc, đa số là quý cƣ lƣỡng phủ.
Nhƣ Giáp Dần, Bính Dần, Canh Dần, Mậu Dần, còn có danh là Phượng Hoàng cách.

Thơ viết:
Thiên Nguyên nhất khí định tôn vinh,
Thiên can không tạp một chữ thanh,
Không so Tỉ kiên tranh cạnh luận,
Sinh ra phú quý hàng Công Khanh.
Lại nói:
Thiên Nguyên một chữ mới là nguyên,
Sinh ở thu đông hay chớ nói,
Đại cát thổ thần phùng một vị,
Thiếu niên quan lộ tất cao thiên.
Lại nói:
Thiên Nguyên một chữ thổ là cơ,
Sinh thời tứ quý càng là kỳ,
Thân Dậu hai chi thên nhập cục,
Thông minh tuấn tú mà dị thường.
Lại nói:
Thiên nguyên một chữ mộc là căn,
Phát truyền đăng minh hiển phúc nguyên,
Tứ trụ Quan tinh như đắc địa,
Công danh lợi lộc được giành trước.
Lại nói:
Thiên Nguyên một chữ nếu phùng kim,
Ngày giờ Khôi Cương dày phúc khí,
Dương Nhận phùng xung cùng mang quý,
Cả đời được gặp kính quý nhân.
16-04-16, 08:29
lesoi
Lại nói:
Thiên Nguyên một chữ hỏa dung dung,
Đại cát Công Tào ngày giờ gặp,
Xung khởi Tài Quan làm phát dụng,
Cả đời phú quý phúc hưng long.
Thiết nghĩ hai cách, Thiên Nguyên đồng nhiều quý, địa chi đồng thì phải phân ra ở trong có
hay không có quý, khinh tinh trọng trọc vậy.
Lại nói:
Tứ trọng dương Nhâm thủy 4 chữ Dần,
Ly Khảm giao tranh vượng khí sinh,
Vận đến đất thêm quý hiển,
Qua lại nên kỵ đối xung đề.
Lại nói:
Nhân mệnh như phùng tứ Mão đủ,
Can đầu chữ Tân lại nối liền,
Thân khinh phúc thiển như gian sự,
Chỉ lo lúc sinh thọ không kiên.
Lại nói:
141 | Tam mệnh thông hội

Bính Thân 4 vị trong mệnh đủ,


Thân Sát tương đình hiển phúc nguyên,
Không sánh tầm thường danh lợi khách,
Quản giáo thế lực trấn khôi quyền.
Lại nói:
Thiên can tứ Giáp đều phùng Tuất,
Phân đoạt Tài Quan chỗ vô ích,
Như còn hành vận đến Nam phương,
Hợp Thương quan này chút tiểu cát.
Lại nói:
Thiên can tứ quý lập cung Càn,
Mộc thủy tương sinh lấy Đảo xung,
Danh lợi doanh doanh cần có vượng,
Vận hành Nam phương số vẫn hung.
16-04-16, 08:30
lesoi
Bối Lộc Trục Mã

Bối Lộc, Giáp lấy Tân là Quan là Lộc, Giáp sinh xuân hạ, kim tuyệt thì không có quan vậy,
cho nên gọi là Bối Lộc. Trục Mã, Giáp lấy Kỷ thổ là Tài là Mã, bị Ất cùng Hợi Mão Mùi
cƣớp đoạt, Giáp không có Tài vậy, cho nên gọi là Trục Mã. Còn lại theo ví dụ này mà suy.
Nhƣ Nhâm Tý, Nhâm Tý, Đinh Mùi, Ất Tị. Đinh lấy Nhâm là Quan Lộc, Nhâm, tháng Hợi
là Kiến Lộc, Đinh sinh tháng Tý, Quý vƣợng là Sát, đã vƣợt qua Nhâm Lộc gọi là Bối,
Hƣớng là có Lộc, Bối là không có lộc; Đinh lấy Canh là Tài là Mã, tháng Tý Canh tử, chỗ
này gọi là Bối Lộc Trục Mã, gặp Sát vận, hành Kiếp địa, cũng không phát phúc, là do không
có căn nguyên vậy. 《 Lạc Lục Tử 》nói: "Bối Lộc Trục Mã, thủ đường cùng mà hoảng sợ",
cùng chỗ này là khác nhau, có thể thấy trong bài phú.

Ví dụ Thập can 12 năm sinh đại quý nhân


+ Năm Lục Giáp, tháng Đinh Mão, ngày Ất Mùi, giờ Mậu Dần;
+ Năm Lục Ất, tháng Kỷ Mão, ngày Giáp Tuất, giờ Ất Hợi;
+ Năm Lục Bính, tháng Canh Dần, ngày Đinh Tị, giờ Bính Ngọ;
+ Năm Lục Đinh, tháng Bính Ngọ, ngày Nhâm Thìn, giờ Đinh Mùi;
+ Năm Lục Mậu, tháng Nhâm Tuất, ngày Kỷ Sửu, giờ Mậu Dần;
+ Năm Lục Kỷ, tháng Tân Mùi, ngày Kỷ Mùi, giờ Bính Dần;
+ Năm Lục Canh, tháng Giáp Thân, ngày Canh Thân, giờ Tân Tị;
+ Năm Lục Tân, tháng Bính Thân, ngày Canh Ngọ, giờ Tân Tị;
+ Năm Lục Nhâm, tháng Tân Hợi, ngày Nhâm Thìn, giờ Đinh Mùi;
+ Năm Lục Quý, tháng Bính Thìn, ngày Bính Thìn, giờ Mậu Tý.
Từng năm kể trên, chỉ có một ngày một giờ chủ có mệnh ngƣời đại quý ứng thế kiến công lập
nghiệp, nếu không thì, thần tiên xuất trần, nói thƣờng không thể hiểu vậy. Ngƣời đại quý
không qua đế vƣơng, khảo sát các triều đại vua lập nghiệp, chính là triều Minh có nhiều đế
vƣơng, không có hợp nhất. Tôi thƣờng gọi là thiên hạ rộng lớn, hàng triệu ngƣời dân, sinh
cùng năm tháng ngày giờ nhƣ vậy, sao không phải kỳ nhân? Nhƣ vậy vị tất đều là đại quý
nhân. Nếu, trời sinh ra đại quý nhân, tất có lấy số mệnh sâu xa, dựa vào năm tháng ngày giờ
đa số là chƣa đủ. Tôi thấy quan thì thắt lƣng cùng với dân thƣờng, mệnh giống nhau không
thể kể hết. Tạm thời là luận quan chức, nhƣ Hoàng Mậu Quan Thị Lang, cùng mệnh Thân
Giới phó sứ giống nhau, họ Hoàng thì chết do chiến tranh, họ Thân chết ở cửa hạ, Thân trƣớc
là hoàng tử, quan lớn nhỏ thì không kể vậy. Chu Hoành cùng mệnh Lý Đình Long giống
nhau, Chu phát khoa ở Nhâm Thìn, Lý phát khoa ở Quý Sửu, Chu làm quan đến Thƣợng
142 | Tam mệnh thông hội

Thƣ, Lý chỉ là làm quan trƣởng giám sát, thọ lại không lâu, con cháu nhiều ít hiền đức hay
không lại không luận vậy. Vạn Cử cùng Nhiêu Tài mệnh giống nhau, Vạn Cử là tiến sĩ, làm
quan đến hàng nhị phẩm, họ Nhiêu chỉ là Cử Nhân, làm quan chức Thái Thú, nhƣng họ
Nhiêu nhiều con còn họ Vạn thì ít, họ Vạn lại bị giáng chức uất ức mà chết còn họ Nhiêu thì
không, thọ yểu có tang lại khó nói vậy. Khắp nơi vua chúa trai giới anh em cùng sinh, mà
công danh trƣớc sau cũng đều khác nhau, huống chi thiên hạ rộng lớn, 9 châu bao la, hàng
triệu dân chúng, cùng bát tự hạn ở đâu, cần phải lấy ví dụ để luận sao! Tôi nhớ lại, kể một
lính hầu cùng mệnh Lỗ Công giống nhau, Lỗ Công gặp triều đình có ân sủng lớn, còn ngƣời
hầu thì bị nhiều trách phạt, Lỗ Công có ít hỉ khánh, còn ngƣời hầu thì có ít khiển trách, có trái
nghịch nhƣ vậy. Lại có một ngƣời hầu cũng giống mệnh của Lỗ Công, trƣớc sau kém 60 tuổi,
thuật giả lấy mệnh Lỗ Công làm chứng, nhà này rất vui, nói ngày đó tất quý, là do cƣng chìu
hắn từ lúc còn nhỏ, sau vì nát rƣợu, lêu lõng say rƣợu rơi nƣớc chết, năm đó mới 19 tuổi. Kể
ra rất nhiều vô số mệnh là nhƣ vậy.
Hợp lại mà xem, chỗ sinh ra gia đình khác nhau, mà chỗ từng ngƣời thì lập nghiệp lại khác,
sữa đổi giữ mình cẩn thận, nhiều năm tiết kiệm, ở chúng ta tự cầu phúc nhiều mà thôi, nếu
nói mệnh của ta phải phú quý trƣờng thọ, mà không tu đức để học, buông thả không có phép
tắc, cho nên khởi mệnh là mệnh vậy!
16-04-16, 08:31
lesoi
Luận Chính Tài

Chính Tài, ví dụ nhƣ Giáp kiến Kỷ, Ất kiến Mậu. Bị ta khắc chế, là vợ của ta, giống nhƣ
ngƣời cƣới vợ, vợ đƣa tài lấy ta, ta tất là tinh thần khoẻ mạnh, sau đó có thể hƣởng dùng, nếu
suy bại không phấn chấn, tuy thê tài phong hậu, nhƣng có thể mắt thấy, cuối cùng không
dùng đƣợc. Cho nên Tài phải đắc thời cƣỡi vƣợng, Thiên Chính không hỗn loạn, không thấy
nhiều trùng điệp, bản thân nhật chủ có lực, đều có thể phát phúc. Nếu Tài đa thân nhƣợc, trụ
không có Ấn trợ, Tài ít thân cƣờng, trụ có Tỉ Kiếp, thái quá hay bất cập, đều không là phúc.
《 Lạc Lục Tử 》 nói: Nếu nguyệt lệnh đƣợc Tài cục, thân suy phùng Ấn trợ giúp, nến lấy
phú luận, nhƣ trƣớc thấy Ấn, lại sợ thấy Tài.
《 Độc Bộ 》 nói: Trƣớc Tài sau Ấn, lại thành phúc, trƣớc Ấn sau Tài, lại thành nhục là vậy.
Dụng Tài không nên lộ rõ, trụ thấy Tỉ Kiếp, thì nên thấu ra, khiến ngƣời cùng thấy thì không
thể đoạt.
Phú nói: Tài nên tàng, tàng thì phong hậu, lộ thì phù vân là vậy. Phàm Tài cách, hỉ kiến Quan
tinh hiển lộ, không có thƣơng tổn, hoặc thêm Thực sinh Ấn trợ nhật chủ kiện vƣợng, phú quý
song toàn. Nhƣ can chi thấy Sát, cũng có thể hƣởng dụng, nghĩa tức là Phùng Tài xem Sát
vậy. Rất sợ Kiêu đoạt thì không thể sinh, Nhận Kiếp thì không thể hƣởng, khố phùng Không
thì không thể tụ. Vì dụ nhƣ Giáp sinh tháng Ngọ, kiến Nhâm thƣơng, Bính Mão phá, Ất đoạt;
Ất sinh tháng Tị, kiến Quý thƣơng, Đinh Hợi phá, Giáp đoạt; Nhâm sinh tháng Tuất, tuần
Giáp Tý Tuất lạc Không Vong. Còn lại theo ví dụ này mà suy.
Lại viết: Tài là nguồn dƣỡng mệnh, phàm bát tự con ngƣời không thể không có Tài, nhƣng
không nên quá nhiều, nhiều thì không thanh, nếu trụ vốn không có Tài mà hành Tài vận,
chính là Hữu danh vô thực, nhƣ Tài đa thân nhƣợc, lại hành Quan hƣơng đất Tài vƣợng,
thấy Tài cƣớp khí, Quan khắc thân, không chỉ không phát lộc, mà còn họa hoạn bách xuất.
Lại viết: Tài là Mã, Quan là Lộc, cả hai không thể khuyết một, thực khó mà lƣỡng toàn, vốn
có Tài tinh cần hành Quan vận, vốn có Quan tinh nên hành Tài vận, hành Tài vận sinh Quan,
hành Quan vận phát tài, nếu trong trụ vốn không có Quan tinh, chỉ là Tài nhiều, lại hành Tài
vận, cũng có thể thành tựu danh lợi, trong đó có cả đăng khoa. Bởi vì Tài không sợ nhiều,
nhiều thì ám sinh Quan vậy, cẩn có thân vƣợng mới có thể đảm nhận đƣợc, nếu không có Tài,
Quan nhiều thì thân bị chế, lại không là cát, trong trụ không có Quan, chỉ có thủ Tài là phúc.
143 | Tam mệnh thông hội

Lại viết: Tài Quan và Sát, dụng ở chi tháng, cho nên lấy chi là Mệnh, nhật can, chỗ nói lấy
can làm Lộc, nếu chi tháng có Tài Quan, đầu can không lộ, tự đủ là phúc, nếu địa chi không
có Tài Quan, đầu can lộ rõ, là mệnh hƣ trá không thực, dẫu coo12 hành vận vƣợng, cũng
không làm nên chuyện. Nếu nhƣ chi tháng không có mà chi năm ngày giờ có, cũng có thể thủ
dụng, địa chi tháng tọa Tài Quan, gọi là Đắc thời, địa chi ngày tọa Tài Quan gọi là Đắc vị,
địa chi giờ tọa Tài Quan, gọi là Hữu thành. Đắc thời là thƣợng cách, đắc vị là thứ, hữu thành
lại sau nữa, kiêm đƣợc cả hai càng tốt. Năm chủ tổ phụ phú quý, sau trung niên là vô dụng.
Lại nói: Ngày Canh Tân sinh ở tháng giêng, vị trí khác có hỏa là Sát, khắc lấy Canh Tân, tuy
năm tháng thấy Dần Mão, cũng không có tài sản của ông bà, chịu khổ cả đời, gặp chỗ phát tài
tất thành tai họa, lấy mộc vƣợng sinh hỏa, hại can chi ngày kim, thiên nguyên suy nhƣợc, Tài
đảng sinh Sát, không thể thành phúc.
Lại nói: Chính Tài cách, chủ ngƣời thành thực, hành sự tiết kiệm, phú tính thông minh, duy
chỉ có khan lận, nếu Tài vƣợng thân suy, chủ vợ nắm quyền nam, làm con sâu độc nắm quyền
giữa nhà, lại chủ có con giỏi thế lực, trái lại đƣợc vui vẻ thanh nhàn, vận hành Tỉ Kiếp, thê
thiếp nhiều nguy hiểm.
《 Độc Bộ 》 nói: Tài vƣợng sinh Quan, phú mà còn quý, lộ Quan tàng Tài, không khỏi chƣc
cao, tàng thì phong hậu, lộ thì hƣ phí, xung thì nên thấu, thực thì sinh lợi.
《 Trung thư Áo chỉ 》 nói: Ta đi khắc nói là Thê Tài, can cƣờng thì phú. Lại nói: Tài đa
Thân nhƣợc, hỉ huynh đệ Dƣơng Nhận có trợ. Lại nói: Tài vƣợng gặp Tỉ là không ngại. Lại
nói: Thê Tài lộ rõ, muốn nhờ cây to, Tài tinh nhập mộ, tất định hình thê, dƣới chi phục tài,
thiên phòng yêu thiếp. Khẩu quyết nói: Tài tinh thái quá ngu. Lại nói: Đại vận, lƣu niên, tam
hợp Tài hƣơng, tất chủ hồng loan cát triệu.
《 Thiên Lý Mã 》 nói: Tài nguyên bị Kiếp, mệnh cha đổ trƣớc. Lại nói: Nam phùng Tài đa
thân nhƣợc, cứ nghe vợ nói, Tài tinh đắc vị, nhờ vợ thành gia làm giàu, Tài gặp trƣờng sinh,
điền viên vạn khoảnh, Tài vƣợng sinh Quan, sáng thân vinh hiển.
《 Nguyên Lý phú 》 nói: Đại quý là dụng Tài mà không dụng quan. Lại nói: Tài lâm đất
vƣợng ngƣời nhiều phúc. Lại nói: Cô Quả là chỉ vì Tài thần bị Kiếp. Bí quyết nói: Tài sinh
thân vƣợng lƣỡng tƣơng đình, không hỉ tái kiến Tỉ kiên.
《 Vạn Kỳ 》 nói: Chính Tài phùng sinh vƣợng mà ƣu du hƣởng phúc, gặp Kiếp tài thì hối
trệ thân ngâm, nếu thấy Quan tinh, cả đời gây ra thị phi, nếu gặp Thất Sát, xử sự ít thành
nhiều bại. Tài vƣợng thân suy, họa thâm phúc thiển, Tài đa thân nhƣợc, cần Ấn phù thân,
thân vƣợng Tài suy, sợ Kiếp phân đoạt, Tài Thực nhập khố là phúc hậu, nếu Thực cầu Tài là
bần yểu.
16-04-16, 08:32
lesoi
Thơ viết:
Chính Tài hỉ Thực vượng phong doanh,
Nhật chủ cương cường lực có thắng,
Nếu là Tài đa thân tự nhược,
Cả đời phá bại việc không thành.
Lại nói:
Tháng Chính Tài và Quan vẫn đồng,
Rất sợ can chi gặp xung phá,
Tuế vận nếu lâm xứ Tài vượng,
Phải dạy giàu có thắng Đào Công.
Lại nói:
Chính Tài thiết kỵ Kiếp tài thần,
Hình xung phá hại không thể luận,
Tuế vận sao chịu gặp đất Nhận,
144 | Tam mệnh thông hội

Duyên mệnh không chết cũng gặp nguy.


Tài tinh đắc vị chính đương quyền,
Nhật chủ cao cường danh lợi đủ,
Ấn thụ nếu phùng cùng cứu giúp,
Vàng ngọc đầy rương phúc triền miên.
Lại nói:
Thân vượng không Quan chỉ thủ Tài,
Tài thần xung phá lại là tai,
Thân suy Tài vượng vẫn biết yểu,
Quan thịnh thân cường phúc lộc môi.
Lại nói:
Tài đa làm sao không phát tài?
Chỉ vì thân nhược thiếu bồi tài,
Vận đến Tỉ kiên thân vượng địa,
Phú quý vinh hoa lần lượt đến.
Lại nói:
Tài đa thân nhược Nhận cương cường,
Ở đất Thân vượng rất không cát,
Phượng Quả loan Cô đêm lạnh oán,
Trong phòng vợ khóc hai ba tràng.
Lại nói:
Tài thần kỵ thấu chỉ nên tàng,
Thân vượng nếu gặp đại cát xương,
Thiết kỵ Tỉ Kiếp tương hội ngộ,
Cả đời danh lợi bị phân trương.
Lại nói:
Tài đa thân vượng đủ vinh vui,
Thân vượng Tài đa hóa làm quan,
Thân suy Tài đa Tài mệnh mệt,
Thị phi không giành khởi tranh chấp.
Hợp lại các thuyết, xem Chính Tài hỉ kỵ liền thấy vậy.
16-04-16, 08:33
lesoi
Tuế mang Chính Mã

Nhƣ ngày Giáp năm Ngọ Kỷ, ngày Ất năm Tị Mậu, hỉ kỵ cùng giống nhƣ can tháng Chính
Tài. Nếu năm mang Chính Mã, sinh tháng Thìn Tuất Sửu Mùi hoặc ở trong tháng mùa hè, Kỷ
thổ vƣợng tƣớng, không phạm hình xung phân đoạt, nhật can thừa vƣợng, chủ nhận tổ nghiệp
phong hậu. Nếu sinh tháng Dần Mão, trong trụ lại mang Tỉ kiên, hoặc gặp vận hành đất
Thƣơng Kiếp, tất chủ bần khốn.

Giờ mang Chính Mã

Ví dụ nhƣ ngày Giáp mang giờ Tị Ngọ, không có hình xung phá kiếp, chủ đƣợc vợ đẹp, đƣợc
tài vật đến từ bên ngoài, sinh con vinh quý, tài sản phong hậu, chỗ này không phải là tài của
cha mẹ, chính là tài ngoài bản thân, gây dựng sản nghiệp, nên tiết kiệm không nên xa xỉ.

Tài vượng sinh Quan

《 Kế Thiện thiên 》 nói: Phú mà còn quý, định vì Tài vƣợng sinh Quan. Bởi vì lý là Tài có
145 | Tam mệnh thông hội

sinh Quan, đã thủ Tài là dụng, không nên thấy Quan, nếu thấy Quan thì là Tài Quan cách vậy.
Trụ có Thƣơng Thực, tuy Tài phong hậu cũng không thể sinh Quan. Nhƣ Mậu Kỷ lấy Hợi
Tý, Nhâm Quý là Tài, lấy Dần Mão Giáp Ất là Quan, nếu sinh tháng Nhâm Tý, Quý Hợi, tứ
trụ không thấy Dần Mão Giáp Ất, thì là Tài vƣợng sinh Quan, ngƣời có nguyên mệnh nhƣ
vậy giàu mà còn quý, hoặc nhƣ nạp tiền làm quan, nếu nguyệt lệnh Tài không có tổn khắc,
cũng chủ đăng khoa, thấu Canh Tân thì không thể sinh, không lấy cách này luận.

Thiên Nguyên tọa Tài

Nhƣ ngày Canh Thìn, Tân Mão, sinh mùa xuân, Giáp Ất mộc là Tài, hỉ Mậu Kỷ Ấn sinh thân,
Nhâm Quý Thực sinh Tài, kỵ Canh Tân kim Kiếp đoạt, nhất thiết không thể gặp năm Quan
Sát, tức là mùa xuân kim nhƣợc, không thể đảm nhận, lại không thành phúc. Ngày Giáp Ngọ,
Ất Mùi sinh mùa hạ, Kỷ thổ là Tài; ngày Giáp Thìn sinh mùa hạ, Mậu thổ là Tài; ngày Bính
Tuất, Đinh Sửu sinh mùa thu, Tân kim là Tài, hỉ kỵ đều giống nhƣ ở trƣớc. Duy chỉ có 2 ngày
Nhâm Ngọ, Quý Tị, là Lộc Mã đồng hƣơng, không chuyên lấy Tài luận.
16-04-16, 08:34
lesoi
Luận Thiên Tài

Sao gọi là Thiên Tài? Ví dụ nhƣ Giáp kiến Mậu, Ất kiến Kỷ. Không phải chỗ mang Thê,
chính là Tài của mọi ngƣời vậy. Thiết kỵ có tỷ muội huynh đệ phân đoạt, trụ không có Quan
tinh, họa hoạn bách xuất.
Kinh viết: Thiên Tài hỉ lộ, cũng không sợ tàng, duy chỉ sợ phân đoạt, cùng lạc Không Vong,
ở đây một, đem quan không thành, đem tài không vững. Nhƣ Tài nhƣợc tất đợi trải qua đất
vƣợng là vinh, Tài thịnh mọi việc đều thuận, nhƣng sợ thân thế không có lực, không thể đảm
nhận. Thiên Tài cách, chủ ngƣời khảng khái, không có lận tài, cùng ngƣời có tình mà đa trá,
nếu nhƣ đắc địa, không chỉ tài phong, mà còn có thể vƣợng quan, lấy Tài thịnh tự sinh Quan,
vận hành vƣợng tƣớng, phúc lộc đều có, một khi gặp đất Quan, liền có thể phát phúc. Trong
trụ vốn óc mang Quan tinh, liền lấy mệnh tốt xem, nếu huynh đệ nghịch xuất ra, dẫu có nhập
đất Quan, phát phúc tất mù mịt. Thiên Tài chỗ nguyệt lệnh mang là tối trọng, trong trụ không
nên thấy nhiều. Trụ năm có Thiên Tài sinh vƣợng, trong trụ nguyệt lệnh thông khí, chủ nhận
sản nghiệp ông bà chú bác phong thịnh, hoặc là sản nghiệp ngoại tổ nuôi dƣỡng. Đại để cần
nhật chủ hƣng vƣợng, Tài tinh sinh vƣợng, vận hƣớng đất Tài vƣợng là phát phúc. Nếu thấy
hình xung phá hại, Tỉ Kiếp phân đoạt, hoặc Tài tinh thái suy, nhật chủ thái nhƣợc, hoặc Tài
đa sinh Sát, đều là mệnh phá tổ lao đao. Phàm nguyệt lệnh có Tài, chủ thiếu niên phú quý,
nếu giờ sinh không đắc địa, hoặc có Kiếp Bại, vận lại đến hung địa, về giá phá hết tổ tài, cuối
cùng thân khốn cùng, trƣớc phú sau bần. Nếu năm tháng vốn không có, ngày giờ mang Tài,
chỗ khác không có Kiếp Bại xung khắc, thì chủ tự thành lập gia đình, trung niên đến già đại
phát. Nếu trong trụ Tài đa thân nhƣợc, thiếu niên lại qua đất hƣu bại, lần lƣợp gặp nhiều
chuyện không toại ý, trung niên đến về già bỗng lâm đất phụ mẫu, hoặc tam hợp có thể trợ
giúp bản thân, thì bỗng nhiên phát hƣng. Nếu thiếu niên thừa vƣợng, đến già thoát cục, không
chỉ thủ đƣờng cùng bệnh tật, mà còn khởi lấy thị phi, lấy tài tƣ lợi cho bản thân, cũng gây ra
phỉ báng vậy. Nếu tứ trụ tƣơng sinh, không mang quý cách, không gặp Không Vong, hựu lại
vận vƣợng, tam hợp Tài tinh, đều là quý mệnh, còn phúc lộc ít hay nhiều, tùy theo cách khinh
hay trọng mà nói.
Lại viết: Phàm nhân mệnh có 2 vị Tài, thân nhƣợc không ngại, vốn là dụng Chính Tài, thân
vƣợng phát tài, vốn dụng Thiên Tài, thân vƣợng thoát tài.
Lại nói: Thiên Chính nhị Tài, hỉ kỵ giống nhau, duy chỉ có hỉ Quan tinh hay không hỉ Quan
tinh có khác một chút, Có Chính Tài nếu không có Thiên Tài, thực trọng Thiên Tài, thì phúc
dầy, rất sợ Kiếp bại Tỉ kiên, ở năm là tối trọng, ở tháng là hơi thứ, còn một danh là Cô Thần,
146 | Tam mệnh thông hội

một danh là Trục Mã, chủ khắc thê hại tử, phá tài bần bạc, lại đề phòng âm tặc tiểu nhân
đồng loại hại nhau, trong trụ vốn phạm kỵ này, vận hành đất Tài vƣợng, cũng có thể phát
phúc, lại hành Tỉ Kiếp, thoái bại mà phải bỏ mạng, gặp quan có phá bại.
《 Thông Minh phú 》 nói: Trụ tháng Thiên Tài, không Kiếp không Bại, phú giáp nhân
gian.
《 Tâm tướng phú 》 nói: Thiên Tài thấu lộ, khinh tài hiếu nghĩa, thích ngƣời cung phụng,
thích nói thị phi, là tham tửu sắc, đều thuộc nhƣ vậy.
《 Kinh Thần phú 》 nói: Thiên Tài thân vƣợng, Con buôn tìm ngƣời giàu có.
《 Áo Chỉ 》 nói: Thiên Tài có ích thọ duyên niên.
《 Thiên Lý Mã 》 nói: Xuất hiện Thiên Tài, ít yểu vợ chính, phần đa yêu thiếp.
Cổ ca viết:
Thiên Tài vốn là Tài mọi người,
Can chi tối kỵ huynh đệ đến,
Thân cường Tài vượng đều là phúc,
Nếu mang Quan tinh canh diệu thay!
Lại nói:
Thiên Tài thân vượng cần Quan tinh,
Vận nhập đất Quan phát lợi danh,
Tỷ muội đệ huynh phân đoạt khử,
Công danh không toại họa sinh theo.
Lại nói:
Thiên Tài Tài vị phát tha hương,
Khảng khái phong lưu tính phải cường,
Biệt lập gia viên hai ba xứ,
Nhân danh nhân lợi nhà mình mang.
16-04-16, 08:35
lesoi
Thời thượng Thiên Tài

《 Hỉ Kỵ Thiên 》 nói: Thời thƣợng Thiên Tài, sợ phùng huynh đệ, nhƣ ngày Giáp kiến giờ
Mậu Thìn hoặc Giáp Tuất. Hỉ kiến Tân Quan, Nhâm Quý sinh trợ, kỵ Canh Sát, Ất Kiếp,
trong trụ không nên thấy tiếp chữ Mậu Kỷ, nếu thân thái vƣợng, vận đông phƣơng Dần Mão
thì mất tài, còn lại theo ví dụ này suy. Chỗ này cùng thời thƣợng Thiên Quan cách giống
nhau, chỉ cần một vị, không nên gặp nhiều, Thiên nguyên thấu ra là tốt, chỗ tàng trong chi là
thứ, trụ có Quan Ấn tƣơng trợ, nhật chủ kiện vƣợng, liền lấy mệnh tốt xem. Rất sợ năm tháng
xung phá, huynh đệ bối xuất, thì không đủ phúc khí.
Cổ thơ nói:
Thời thượng Thiên Tài xung tối kỵ,
Huynh đệ bối nghịch đều không nên,
Hỉ hành thân vượng đất Quan Lộc,
Chỗ khác không thấu mới là quý.

Khí mệnh Tòng Tài

《 Độc Bộ 》 nói: Khí (Khí là bỏ) mệnh Tòng Tài, cần phải hội Tài, nếu gặp căn khí, mệnh
tổn là không sai. Giả nhƣ Đinh sinh tháng Dậu, trụ có nhiều Canh Tân, nhật can vô khí, chỉ
đƣợc Khí mệnh mà Tòng, vận nhập Bắc phƣơng đất Tài Quan vƣợng, chính là nhập cách,
hành nam là gặpp tai.
Cổ ca nói:
147 | Tam mệnh thông hội

Nhật can vô khí Tài đầy bàn,


Khí mệnh tòng theo là phúc thai,
Vận vượng Tài Quan đều phúc quý,
Như phùng căn trợ lại thành tai.

Nhật tọa Thiên Tài

Nhƣ Mậu Kỷ thổ khắc thủy là Tài, Thìn là thủy mộ vậy.


Cổ ca nói:
Can năm khắc dưới là Thiên Tài,
Nơi gặp khắc mộ chính khố khai,
Tài nhập giờ khố nhiều lụa thóc,
Hiệu là kim vật tích thành đôi.
Nhƣ mệnh Tất Trạng nguyên: Kỷ Tị, Quý Dậu, Canh Thìn, Giáp Thân là vậy.
16-04-16, 08:36
lesoi
Hợp luận Thiên Chính Tài

《Tinh Kỷ 》:
Có Sinh thành Tài, nhƣ Giáp Ất kiến Mậu Kỷ thổ là Tài, toạ trên Thân Tý Thìn sinh vƣợng
khố, Mậu Thân, Mậu Thìn, Mậu Tý can chi hợp thành là vậy. Phàm mệnh nhập quý cách,
ngoại trừ quý, cần phải là đại phú, vẫn trải qua nhiều lần đảm nhiệm lúa tiền; nếu không nhập
quý cách, lại không có Phúc thần trợ, cũng là phú ông trăm họ. Nếu tự sinh tự vƣợng, nhƣ
ngƣời Giáp thấy Mậu Ngọ, Kỷ Hợi, chủ phú. Còn lại loại suy theo chỗ này.
Có Sinh Hợp Tài, nhƣ các loại ngƣời Giáp thấy Mậu Quý, ngƣời Kỷ thấy Quý Mậu, ngƣời
Canh thấy Giáp Kỷ, chủ thành lập phú quý.
Có Tử Mẫu Tài, nhƣ ngƣời mệnh mộc thấy tháng hỏa, ngày giờ là thổ, chủ cả đợi gặp nhiều
chuyện hỉ sự.
Có loại Tài Sát, nhƣ ngƣời Dần Ngọ tuất thấy Ất Canh, ngƣời Tị Dậu Sửu thấy Đinh Nhâm,
ngƣời Thân Tý Thìn thấy Mậu Quý, ngƣời Hợi Mão Mùi thấy Giáp Kỷ, có một danh nữa là U
Vi Sát, chủ danh lợi đều có.
Có Tài hội Sát, ngƣời Dần Ngọ Tuất thấy Tân Sửu, ngƣời Tị Dậu Sửu thấy Ất Mùi, ngƣời
Thân Tý Thìn thấy Bính Tuất, ngƣời Hợi Mão Mùi thấy Mậu Thìn, chỗ này là thần thê tài tụ
hội, gặp là giàu có cùng có vợ đẹp có nhiều của cải, lại đề phòng vợ lấy độc dƣợc hại mệnh.
Có Danh vị Tài, chính là Thực thần thấy trong khố, nhƣ ngƣời Mậu Tý hỏa thấy Canh Tuất,
Mậu Thực Canh, hỏa khố ở Tuất, hoả khắc kim là Tài, phùng chỗ này thì cả đời nhận lộc.
Có Trường sinh Tài, nhƣ Giáp dụng Mậu Kỷ là Tài kiến Mậu Thân, Quý dụng Bính Đinh là
Tài kiến Bính Dần, loại này phần đa là đƣợc tài từ bên ngoài.
Lại viết: Thuật giả đa số lấy các loại nhƣ Giáp kiến Mậu, Ất kiến Kỷ là Tài, không biết Giáp
Kỷ kiến Bính Tân, Bính Tân kiến Mậu Quý là Chân Tài, sinh chỗ hữu khí vƣợng tƣớng, chủ
phú thịnh. Nạp âm từ bản can lại thấy chân ngũ hành, nhƣ ngƣời Ất Hợi trong tháng ngày giờ
thấy Canh, Ất Hợi nạp âm là hỏa, Ất Canh là chân kim, can đầu tất nhiên là Tài vậy, chỗ này
danh là Thiên Tài, chủ giàu có dƣ dã. Nếu nạp âm lại khắc chế can đầu, nhƣ Đinh Mão hỏa
lại có thể chế Ất Canh kim, chỗ này danh là Quỷ Tài, chủ cả đời đƣợc thế tài, hoặc là hào kiệt
dựa vào quan tƣ mà khởi gia. Mậu Dần, Mậu Thân gặp Bính Tân, Ất Dậu, Ất Mão đƣợc Mậu
Quý, đúng nhƣ vậy. Thêm lại mang Thìn Tuất Sửu Mùi, là chủ nghệ thuật, nhận thế tài lớn.
16-04-16, 08:37
lesoi
148 | Tam mệnh thông hội

Luận Ấn thụ

Ấn thụ, danh chính là ngũ hành sinh ra ta. Nhƣ Giáp Ất ở tháng Hợi Tý, Bính Đinh ở tháng
Dần Mão, chính là nguyên khí của ta, là Sinh khí, là Phụ Mẫu, có thể hộ Quan tinh của ta,
khiến cho không có thƣơng khắc, thí dụ nhƣ ngƣời sinh đƣợc vật tƣơng trợ nuôi dƣỡng, nhận
phúc hiện thành, sao không tốt? Cách này chủ thông minh, nhiều trí tuệ, tính nhân từ hiền
hậu, lời nói thiện lƣơng, thân thể chậm rãi từ từ, dáng mạo mập mạp, có thích ẩm thực, cả đời
ít bệnh, không gặp hung hoạ, nhƣng chỉ lận tài mà thôi, làm quan đa số là Chính Quan, nhận
tuyên sắc chỉ không câu nệ văn võ, đều nắm giữ ấn tín, hỉ Quan tinh, lấy Quan có thể sinh
Ấn.
Kinh nói: Ấn dựa Quan sinh. Lại nói: Có Quan không có Ấn, tức là không phải chân quan,
có Ấn có Quan, mới thành phúc dầy là vậy. Kỵ Tài tinh, vì Tài có thể phá Ấn.
Kinh nói: Năm tháng giờ sinh Ấn thụ, kỵ kiến Tài tinh, vận nhập Tài hƣơng, lại cần thoái
thân tránh chức vị là vậy. Tuế vận đồng luận. Ấn thụ không gặp tổn thƣơng, đa số là nhận
phúc ấm của phụ mẫu, của cải kiến thành, an hƣởng phú quý, so sánh nhiều mệnh, nên lấy Ấn
thụ đa số là thƣợng cách, tháng là tối yếu, ngày giờ là thứ, can năm tuy trọng, cần quy lộc về
tháng ngày giờ, mới có thể thủ dụng, nếu năm lộ ra Ấn, tháng ngày giờ không có, cũng không
làm nên chuyện. Tứ trụ vốn có Quan tinh là vi diệu, nếu Ấn thụ ít, Quan Quỷ nhiều, hoặc
nhập cách khác, lại không thể chuyên nói Ấn thụ, nếu Ấn thụ lại gặp các cách nhƣ Củng Lộc,
Chuyên Lộc, Quy Lộc, Thử quý, Giáp quý, Thời quý, thì càng đặc biệt, nhƣng chủ ít con
hoặc không có con cái, Ấn thụ nhiều thì thanh cô. Phàm Ấn thụ, hỉ Thất Sát, nhƣng Sát
không thể quá nhiều, nhiều thì hại thân. Vốn không có Thất Sát, hành vận gặp thì phát; vốn là
Thất Sát, hành Tài vận, hoặc Ấn thụ tử tuyệt, hoặc lâm mộ địa, đều là hung.
Kinh nói: Sát có thể sinh Ấn, sợ hành Tài hƣơng, phá Ấn trợ Quỷ, quyết chủ không cát
tƣờng. Phàm cách hỉ thân vƣợng, duy chỉ có Ấn thụ hỉ sinh nhƣợc, nếu nguyên cục mang Tài
tổn thƣơng Ấn, vận hành Tỉ Kiếp thân vƣợng, cũng có thể phát phúc, không có thì không nên,
nhƣ không có Quan Sát Tài thần, lại hành thân vƣợng, chủ bình thƣờng.
《 Uyên Nguyên luận 》: Ấn thụ, nhƣ ngày Giáp gặp tháng Tý là Chính Ấn, tháng Hợi là
Thiên Ấn, tối hỉ phùng Thiên Nguyệt Đức, Tý Thiên Đức ở Tốn, Nguyệt Đức ở Nhâm, Hợi
Thiên Đức ở Ất, Nguyệt Đức ở Giáp, giờ cần phải thấy Dậu Tân Chính Quan là vi diệu, hoặc
Thân Canh Thất Sát, nhƣng cần phải thấy Tỉ Kiếp trợ thân, hợp Sát mới quý, sợ Mậu Kỷ Tài
tinh tổn hại Ấn, kỵ Bính Đinh Thực Thƣơng sinh Tài phá Ấn; Ất phùng tháng Hợi Tý, hỉ kỵ
cùng giống nhƣ Giáp. Ngày Bính phùng tháng Mão Chính Ấn, Thiên Đức ở Khôn, Nguyệt
Đức ở Giáp, tháng Dần Thiên Ấn, Thiên Đức ở Đinh, Nguyệt Đức ở Bính, hỉ kiến Tý Quý
Chính Quan, hoặc Nhâm Hợi Thất Sát, lại cần phải thấy Tỉ Kiếp trợ thân hợp Sát, sợ Thân
Canh Dậu Tân Tài tinh tổn phá Ấn, kỵ Mậu Kỷ Thực thƣơng sinh Tài phá Ấn; Đinh phùng
tháng Dần Mão, hỉ kỵ cũng giống nhƣ Bính. Ngày Mậu phùng tháng Ngọ Chính Ấn, Thiên
Đức ở Hợi, Nguyệt Đức ở Bính, tháng Tị Thiên Ấn, Thiên Đức ở Tân, Nguyệt Đức ở Canh,
hỉ phùng Mão Ất Chính Quan, Dần Giáp Thất Sát, kiến Sát lại cần có Tỉ Kiếp trợ thân hợp
Sát, kỵ thấy Nhâm Quý Tài phá Ấn, Thân canh Tân Thực Thƣơng sinh Tài phá Ấn; Kỷ sinh
tháng Tị Ngọ, hỉ kỵ cũng giống nhƣ Mậu. Ngày Canh sinh tháng Ngọ Chính Ấn, Thiên Đức ở
Càn, Nguyệt Đức ở Bính, tháng Tị Thiên Ấn, Thiên Đức ở Tân, Nguyệt Đức ở Canh, hỉ kiến
Ngọ Đinh Quan Tinh, Tị Bính Thất Sát, kiến Sát lại cần có Tỉ Kiếp trợ thân hợp Sát, kỵ Giáp
Ất Dần Mão vƣợng Tài phá Ấn, Nhâm Quý Thƣơng Thực, Ngọ Tài phá Ấn; Tân sinh tháng
Tị Ngọ, hỉ kỵ cũng giống nhƣ Canh. Ngày Nhâm sinh tháng Dậu Chính Ấn, Thiên Đức ở
Dần, Nguyệt Đức ở Canh, tháng Thân Thiên Ấn, Thiên Đức ở Quý, Nguyệt Đức ở Nhâm, hỉ
giờ phùng Tị Ngọ Chính Quan hoặc Kỷ Mậu Thất Sát, lại nên thấy Tỉ Kiếp trợ thân hợp Sát,
kỵ Bính Đinh vƣợng Tài phá Ấn, Giáp Ất Thực Thƣơng, Ngọ Tài phá Ấn; Quý sinh tháng
Thân Dậu, hỉ kỵ giống nhƣ Nhâm.
16-04-16, 08:38
149 | Tam mệnh thông hội

lesoi
Kinh nói: Quan hình không phạm, Ấn thụ cùng Thiên Đức đồng cung.
Lại viết: Ăn chay tâm từ, Ấn thụ hỉ phùng ở Thiên Đức.
Nhƣ mệnh của Mạnh Trọng Đô Hiến: Ất Hợi, Đinh Hợi, Ất Sửu, Bính Tuất, là Ấn thụ cùng
Thiên Đức đồng cung. Nhƣ mệnh: Giáp Dần, Bính Dần, Bính Dần, Đinh Dậu, là Thiên Đức
ở Đinh, Nguyệt Đức ở Bính, Ấn thụ ở Dần. Nhƣ mệnh: Canh Thân, Canh Thìn, Canh Tý,
Nhâm Ngọ, là Thiên Đức Nguyệt Đức đều ở Nhâm, Ấn thụ ở Thìn là vậy. Cách này cần phải
sinh vƣợng, tối kỵ tử tuyệt. Nếu nhƣ Ất thấy Hợi Tý là Ấn, thấy kim thành nuôi dƣỡng nhân
nghĩa, Ấn vốn thấy thổ thì cách hỗn tạp, vận hành tây bắc, Quan Ấn là phúc, nếu giờ dẫn quy
về đất Mão Thìn Tị, hoặc vận hành đất này, Tài Ấn quy về tử tuyệt, lƣu niên lại gặp Tài khắc
Ấn, quyết nhập hoàng tuyền là không sai. Hợp cách Ấn thụ, hành đại vận tối kỵ Ấn thụ biến
hợp, gặp đất tam hợp, hoặc là biến thành Thƣơng cục, hoặc biến thành Tài cục, hoặc biến
thành Sát cục, rất là không cát.
Phú nói: Kim dựa thổ sinh, thổ dầy thì kim bị chôn vùi. Mộc theo thủy dƣỡng, thủy thịnh thì
mộc tất phiêu lƣu. Hỏa viêm thổ táo, thì không thể sinh vật (nhƣ ngày Kỷ gặp Ngọ). Cƣơng
kim không thể sinh thủy (nhƣ ngày Canh gặp Tuất). Vƣợng thổ kiến vƣợng hỏa, phùng chỗ
này tất chủ mắt tật, ung thƣ, bệnh nhiệt. Thổ nóng không thể sinh kim, táo kim không thể
sinh thủy, thuỷ tuyệt không thể sinh mộc, gặp chỗ này cần nhìn cho kĩ, không thể nhìn sơ qua
mà luận Ấn thụ. Nếu thủy đƣợc kim sinh mà gặp mùa thu, chính là Thủy thanh Kim bạch, tú
lệ kham khoa, 1 thủy 3 kim, hào viết là Tượng Thể toàn. Hỏa đƣợc mộc sinh mà gặp mùa
xuân, là Mộc tú Hỏa minh, phát sáng màu hồng lục, thấy kim thì tổn thƣơng mộc, diệt ánh
sáng hỏa. Là Kim Mộc nhị Ấn, đa số đều lấy cát luận. Nếu hỏa Ấn nhiều thì hỏa táo diệt thổ,
thủy phù Ấn nhiều thì thủy phiếm mộc phù, thổ Ấn nhiều thì thổ trọng chôn kim, đều không
là cát.
Lại nói: Ngày Giáp tháng Tý, kỵ giờ Kỷ Tị, sợ Ngọ xung. Ngày Ất tháng Hợi, kỵ giờ Mậu
Thìn, sợ Tị xung. Ngày Bính tháng Mão, kỵ giờ Tân Mão, sợ Dậu xung. Tháng Dần kỵ giờ
Canh Dần, sợ Thân xung. Ngày Đinh tháng Dần, kỵ giờ Canh Tý, sợ Thân xung. Tháng Mão
kỵ giờ Tân Sửu, sợ Dậu xung. Ngày Mậu tháng Ngọ, kỵ giờ Quý Mão, sợ Tý xung. Ngày Kỷ
tháng Tị, sợ giờ Nhâm Tý, Nhâm Tuất, kỵ Hợi xung. Ngày Canh tháng Ngọ, kỵ giờ Kỷ Mão,
Ất Dậu, sợ Tý xung. Tháng Tị kỵ giờ Mậu Dần, sợ Hợi xung. Ngày Tân tháng Tị, kỵ giờ
Canh Dần, Giáp Ngọ, sợ Hợi xung. Tháng Ngọ kỵ giờ Tân Mão, Ất Mùi, sợ Tý xung. Ngày
Nhâm tháng Dậu, kỵ giờ Đinh Mùi, sợ Mão xung, tháng Thân kỵ giờ Bính Ngọ, sợ Dần
xung. Tháng Dậu kỵ giờ Đinh Tị sợ Mão xung.
Ngật can bên trên, đều hỉ kiến Tỉ kiên khai thông, kỵ thấy Thực Thƣơng làm tiêu Ấn sinh Tài,
phạm chỗ này, vật vận lại lâm thân Ấn đất suy đất Tài vƣợng, tất nhiên là Tham Tài phôi Ấn,
là bãi quan thoái chức.
Kinh nói: Ấn thụ, thấy Tài tinh trọng, trăm sự khó thông.
Lại nói: Tháng Ấn thuần túy, không có Tài tinh, chủ văn chƣơng đƣợc Hoàng giáp.
Lại viết: Thân vƣợng Ấn nhiều, Tài vận không ngại, thân nhƣợc có Ấn, Sát vận sao hại!
Lại viết: Ấn thụ có căn, hỉ gặp Tài tinh, Ấn thụ vô căn, kỵ kiến Tài tinh, Quan tinh, là căn Ấn
thụ vậy, Ấn thụ có Quan có Tài, thì Tài sinh Quan, Quan sinh Ấn, Ấn sinh Thân, thân khắc
Tài thì vinh quý, cho nên không kỵ.
Lại nói: Ấn thụ có căn, phùng Tài là phát, phùng Quan thì hiển, phùng hợp thì mờ, phùng
xung thì tai.
16-04-16, 08:39
lesoi
《 Thông Minh phú 》 nói: Tài Ấn giao soa, luận khí bẩm khinh trọng, nhƣng nếu Tài khinh
mà Ấn khí trọng, bỏ Tài thủ Ấn, biết là quý; nếu nhƣ Ấn khí khinh mà Tài khí trọng, bỏ Ấn
thủ Tài, tuy có bối lộc, can chi trọng vƣợng, lại đƣợc tƣ tài.
150 | Tam mệnh thông hội

《 Bảo giám 》 vân: Ấn bị Tài thƣơng, có tang mẹ sớm.


《 Áo Chỉ 》 vân: Ấn thụ bị thƣơng, mất tổ nghiệp, mệnh lao khổ.
《 Lạc Dịch phú 》 vân: Ấn lâm vị trí tử tức, con nhận vinh.
《 Thiên Lý Mã 》 vân: Phùng Ấn xem Quan, mà gặp Quan 10 có 7 quý.
《 Tạo Vi luận 》 vân: Ấn thụ phùng Hoa, tôn cƣ hàn uyển.
《 Vạn Kỳ phú 》 nói: Chính Ấn kiến Tài là hung, phùng Quan thì cát, có Quan không Ấn,
dù phú quý vẫn thƣơng tàn; có Ấn không Quan, dù vinh hoa mà có mất. Tứ trụ lo sầu phùng
tử tuyệt, tam nguyên hỉ kiến trƣờng sinh.
Cổ thơ nói:
Mệnh phùng Ấn thụ phúc không nhẹ,
Thiếu niên ung dung hưởng kiến thành,
Vượng tướng Ấn nhiều Thiên Phúc hậu,
Thụ ân thừa ấm lập công danh.
Lại nói:
Tháng phùng Ấn thụ hỉ Quan tinh,
Vận nhập Quan hương phúc tất thanh,
Tử tuyệt vận lâm thân bất lợi,
Tái hành Tài vận việc không thành.
Lại nói:
Ấn thụ không suy hưởng phúc toàn,
Làm quan nhận phúc có điền viên,
Quan nhận tuyên sắc đầy của cải,
Thường dùng mâm cơn phí vạn tiền.
Lại nói:
Trùng trùng Ấn thụ cách thanh kỳ,
Lại phải xem chi tử tế suy,
Trong chi Hàm Trì can mang hợp,
Tuổi trẻ phong lưu mà phá gia.
Lại nói:
Ấn thụ trùng trùng hưởng kiến thành,
Chỉ sợ Thực thần ám tương hình,
Tuổi trẻ nếu không quy tuyền lộ,
Cô khổ ly hương quấn quanh bệnh.
Lại nói:
Ấn thụ không cần thân thái vượng,
Nói chung vô sự cũng bình thường,
Trừ phi nguyên mệnh nhiều Quan Sát,
Lại có thanh danh làm Đống lương (*).
(Đống Lương: Ở đây ý nói là trụ cột của triều đình)
Lại nói:
Người sinh Ấn thụ khí thuần vượng,
Gặp nhiều Quan Sát chuyển tinh thần,
Ấn hành tử tuyệt cùng Tài địa,
Không cứu là người xuống hoàng tuyền.
Hợp lại các thuyết, xem hỉ kỵ Ấn thụ thì thấy ngay vậy.
16-04-16, 08:40
lesoi
Thời phùng sinh Ấn
151 | Tam mệnh thông hội

Nhƣ ngày Giáp giờ Tý, thủ Quý thủy ở trong Tý là Ấn, trợ giúp nhật chủ, là ngƣời túc trí đa
mƣu, an hƣởng ăn lộc, trên năm tháng cần thấy Tân Quan sinh Ấn, vận hành tây bắc, Quan
Ấn chính là Quý mệnh, nếu trụ phùng Mậu Kỷ thổ trọng, lại có chữ Ngọ xung phá, vận đến
đông nam, Quan Ấn suy tuyệt, bách sự không thành, là ngƣời bất chấp nhà nƣớc vậy.

Bào Thai phùng Ấn thụ

Kinh nói: Bào Thai phùng Ấn thụ, lộc hưởng nghìn chung. Nhƣ Canh Dần, Tân Mão, Bính
Thân, Ất Dậu, ngày giờ nguyệt lệnh gặp đất Ấn thụ, chủ quý. Kinh nói: Ngày giờ Bào Thai
cách, tháng thông Ấn thụ, phùng vận Sát Quan Ấn trợ giúp, chức vị liệt Tam Công.

Khí Ấn tựu Tài

Kinh nói: Khí Ấn tựu Tài phần Thiên Chính, Ấn thụ kỵ Tài, lý này rất rõ. Chính Ấn cƣ ở
Nguyệt lệnh, quyết không thể kiến Tài, nếu cƣ năm và giờ, Nguyệt lệnh kiến Tài chỉ dụng Tài
cách, hỉ Ấn sinh thân, địch Tài là phúc. Nếu Thiên Ấn, nguyệt lệnh cùng năm và giờ thấy Tài
không ngại, gọi là Khí Ấn tựu Tài, bỏ khinh mà dụng trọng. Nhƣ Nhâm sinh tháng Thân,
Bính sinh tháng Dần, tọa đất trƣờng sinh, năm giờ gặp Tài, tức là thân vƣợng hỉ kiến đất Tài,
tạo hóa nhƣ vậy, tất chủ bỏ tổ cơ mà tự sáng lập thân nghiệp.
16-04-16, 13:53
lesoi
Luận Đảo Thực

Đảo Thực tức là nói Thiên Ấn, còn có một tên là Thôn Đạm Sát, Thực thần tối kỵ thấy nó.
Nhƣ Giáp sinh Bính hỏa là Thực, hỏa có thể sinh thổ, là Tài của Giáp, Tài vƣợng sinh kim, là
Quan của Giáp, Thực thần sinh vƣợng, đƣợc Tài Quan vậy. Nay Giáp kiến Nhâm gọi là Đảo
Thực, Nhâm vƣợng thì khắc Bính hỏa, Bính bị khắc khử, không thể sinh thổ, Giáp không có
Tài vậy; Nhâm hợp khởi Đinh, hại Tân Quan của Giáp, Giáp không có Quan vậy; Nhâm khắc
khử Bính, Canh Sát đƣợc yên, đến hại Giáp mộc, Giáp sinh hoạ vậy. Chỗ nói dụng Thực kỵ
thấy là vậy. Phàm mệnh mang Đảo Thực, phúc bạc thọ yểu, nếu có chế hợp, nhƣ ngày Giáp
kiến Nhâm Thìn, Nhâm Tuất, trong Thìần Tuất có mang thổ chế Đinh hợp; ngày Ất kiến Quý
Mùi, Quý Sửu, trong Sửu Mùi có Kỷ chế Quý; ngày Bính kiến Giáp Thân, ngày Đinh kiến Ất
Tị, Ất Dậu, ngày Mậu kiến Bính Tý, Bính Thân, Bính Thìn, ngày Kỷ kiến Đinh Hợi, ngày
Canh kiến Mậu Dần, Mậu Thìn, ngày Tân kiến Kỷ Mão, Kỷ Hợi, ngày Nhâm kiến Canh Ngọ,
Canh Tuất, ngày Quý kiến Tân Tị, Tân Mùi.Chỗ loại Thiên Ấn này không thể là thực hại, là
do có khắc chế vậy. Trong trụ thân vƣợng, Tài Quan đều sinh, có thể thủ là phúc trợ thân,
ngày dƣơng gặp có thể ám hợp Thƣơng quan sinh Tài, ngày âm gặp có thể ám hợp Tài tinh,
trong trụ không có Thực, chỉ lấy Thiên Ấn luận.
Lại viết: Phàm mệnh có Thực gặp Kiêu, do tôn trƣởng chế ta, không đƣợc tự do, làm việc làm
biếng tiến thoái, có thủy không có chung, tài nguyên càng thành càng bại, dung mạo lệch một
bên, phẩm chất vụn vặt, nhát gan sợ việc, phàm chuyện là không thành, khắc hại lục thân, lúc
nhỏ khắc mẹ, lớn lên hại thê tử.
Phú nói: Đảo Thực, danh là Thiên Ấn, hào viết Kiêu thần, gặp thân vƣợng mà tài phong phúc
hậu, gặp hình sát thì thân bần thọ yểu, nếu thấy Tài tinh, phi Tinh đái Nguyệt không ngừng
chạy, nếu sinh Sát tinh, gánh chạy từ bỏ không ngày định, thân nhƣợc trọng phùng Thiên Ấn,
nên sầu thƣơng nhƣ Nhan Tử, chính Thực nếu gặp Kiêu thần, khó miễn hoạ nhƣ Hàn Tín, gặp
thủy là tinh thần lƣời nhác, trọng phạm thì dung mạo nghiêng lệch.
《 Vạn Kỳ phú 》 nói: Kiêu thần kiến Quan Sát, đa thành đa bại, Thiên Ấn gặp Tài tinh,
phản nhục thành vinh, thân vƣợng là quý, thân nhƣợc là bình thƣờng, có Thƣơng quan mà cả
đời phong nhuận, gặp Thực thần thì xử thế lẻ loi.
152 | Tam mệnh thông hội

Cổ thơ nói:
Ấn tinh thiên lệch là Kiêu Thần,
Trong trụ tối hỉ kiến Tài tinh,
Thân vượng gặp đây mới là phúc,
Thân suy Kiêu vượng lại vô tình.
Nhƣ: Bính Tuất, Bính Thân, Giáp Tuất, Nhâm Thân, Giáp thấy Bính Thực, lại thấy Nhâm
Đảo Thực, Giáp sinh tháng Thân bị Sát chế vô khí, 2 Bính cƣớp khí, Nhâm thủy chế Bính,
Sát đƣợc thi hành, cho nên không có danh lợi.
Lại nhƣ: Nhâm Thân, Nhâm Tý, Giáp Tuất, Bính Dần, hội Ấn quy Lộc, thủy tinh hỏa thần vi
diệu, tƣợng Mộc Hỏa thông minh.
Lại nhƣ: Kỷ Mùi, Nhâm Thân, Giáp Tý, Bính Dần, Dĩ Sát hóa Ấn, quy lộc đƣợc tú, là Mộc
Hỏa thông minh, Thủy Mộc thanh kỳ.
Hai mệnh trên đều đại quý. Trƣớc thì kỵ Đảo Thực, phùng chế hợp lại quý, nhất thiết không
thể thấy Đảo Thực, liền lấy hung luận.
16-04-16, 13:54
lesoi
Luận Tạp khí

Tạp khí, chính là Thìn Tuất Sửu Mùi, trong Thìn có Ất Mậu Quý, là thủy thổ khố; tronng
Tuất có Tân Mậu Đinh, là hỏa khố; trong Sửu có Quý Tân Kỷ, là kim khố; trong Mùi có Đinh
Kỷ Ất, là mộc khố. Tất cả tùy theo chỗ khí tàng mà nói, xem nhật can của ta, là Quan, là Tài,
là Ấn, quan hệ là những vật giúp thân, Tài là nguồn dƣỡng mệnh, Ấn là gốc sinh thân, ở con
ngƣời thì là rất cần thiết. Tứ khố đều tàng giữ ba vật, là khí thiên địa bất chính, cho nên nói là
tạp vậy.
Kinh nói: Tài Quan Ấn thụ toàn bị, tàng chưa ở trong tứ quý là vậy.
Cách này hỉ thấu lộ xung hình, kỵ áp chế, còn lại hỉ kỵ nói tiêu mất, cùng ở trên nói chính khí
Tài Quan Ấn là giống nhau. Giả nhƣ lệnh là ngày sinh Lục Giáp đƣợc tháng Sửu, lấy ở trong
Sửu có Tân kim là Quan, Kỷ thổ là Tài, Quý thủy là Ấn, xem thiên can thấu xuất chữ nào
đƣợc chỗ phúc, phân ra tiết khí nông sâu, vật nào đƣơng lệnh, đại khái là thấu Tài thì phú,
thấu Quan thì quý, thấu Ấn thụ thì hƣởng thụ tổ phụ để thành phúc, đƣợc tổ tiên che chở, phù
hộ mà đạt quý hiển, nhƣ không thấu xuất, ít xung hình lại thêm thân vƣợng là tốt, kỵ thân
nhƣợc, hình xung thái quá thì khí phúc tụ tán vậy. Nhƣ trụ gốc có vật phá hại, lại tiếp tục
không thể gặp vận cùng loại này, tiếp tục hành thì là thái quá, xung phá tú khí trái lại không
là cát, gốc không có phá hại, thì mừng gặp vận hình xung.
《 Cảnh Giám 》nói: Tạp khí Tài Quan, thân vƣợng có xung mà phát, nhƣ thái quá trái lại
chịu cảnh cô bần là vậy.
Lại nói: Tạp khí Tài Quan cách, tứ trụ cần Tài tinh nhiều, liền thành mệnh tốt, nếu tứ trụ
quay nhập cách khác thì dựa vào cách khác đoán.
Lại nói: Tạp khí Tài Quan có Chính Quan cách, Thiên Quan cách, Chính Tài cách, Thiên Tài
cách, tạp khí Ấn thụ có Chính Ấn cách, Thiên Ấn cách, cần phân biệt thiên hay chính, nếu
Thiên Quan, cũng cần ít đồng ý chế phục thì có đƣợc, nếu gặp mộ khố thay nhau trùng lắp,
gốc không có hình xung, không thấu quý khí, lại thêm có Mậu Kỷ áp chế ở trên, rất khó phát
triển ở thiếu niên, cho nên nói Tài Quan khóa bít thời thiếu niên, không phát ngƣời trong mộ
là vậy.
Lại nói: Tứ khố cũng là đất suy, dƣỡng, quan đái, nếu can giờ thấy thì gọi là Thời Mộ cách,
cùng với can tháng là luận giống nhau, cũng phát nhƣng chậm. Nhƣ Đinh Hợi, Mậu Tý, Bính
Thân, Kỷ Sửu, Bính dụng Sửu mộ là Tài khố, hành Mùi vận xung Sửu khố thì phát tài. Thấy
Nhâm, Thìn là Quan khố, đến Tuất vận xung Thìn khố thì phát quan. Nhƣng trong trụ đặc
biệt có Mậu Thìn, Kỷ Sửu áp chế ở trên khố, thì không có thể phát Tài phát Quan, khó lấy là
mệnh tốt, nếu có xung thấy hợp, thì lại không có thể gặp xung vậy.
153 | Tam mệnh thông hội

Lại nói: Tháng lâm khố địa, Đông Tây Nam Bắc là khí tứ ngung, nhƣ Mùi mộc hành Đông
phƣơng, Tuất hỏa hành Nam phƣơng, Thìn thủy hành Bắc phƣơng, Sửu kim hành Tây
phƣơng lâm khố mộ, vận hành đất sinh vƣợng tất là phát, nhƣ tháng lâm Thìn thủy khí, vận
chuyển Nam phƣơng, không thấy hội hợp, thì chỉ lấy thổ luận.
Lại nói: Cổ nhân lấy ngũ hành xứ mộ là Thƣơng khố, nếu trong mệnh mang Thƣơng khố,
gặp chỗ Thái tuế khắc thêm ngũ hành, nhƣ mộc đƣợc Tân Mùi, hỏa đƣợc Canh Tuất, thổ
đƣợc Nhâm Thìn, thủy đƣợc Giáp Thìn, kim đƣợc Quý Sửu, gọi là trong khố có Tài, bản thân
nhất định giàu có; nếu mệnh mang mộ tuyệt, mà trái lại gặp chỗ Thái Tuế sợ ngũ hành gia
thêm, nhƣ mộc đƣợc Ất Mùi, hỏa đƣợc Nhâm Tuất, thổ đƣợc Mậu Thìn, kim đƣợc Kỷ Sửu,
thủy đƣợc Bính Thìn, gọi là Tuyệt xứ không có nơi nƣơng tựa, bản thân nhất định trì trệ. Nếu
ngũ hành lần lƣợt cùng nhau khố mộ thuần túy mà không phá, lại có phúc thần tăng thêm,
chỗ này là hai cách khố vậy. Nếu phá mà sinh vƣợng, phá mà tử tuyệt, có phúc thần đến
thêm, thì hạ thấp. Nếu khắc phá mà không có phúc thần, thì chỉ là dân chúng. Chỗ này là cách
cục mộ khố, không hỏi quý tiện, chỉ là bản thân cả đời vinh vƣợng, không lợi cho lục thân,
nhƣng khó đƣợc con cháu.
Có Khố đầu Quỷ, là ngƣời Giáp Ất thấy Tân Mùi, kỵ Đinh Tị; ngƣời Bính Đinh thấy Nhâm
Tuất, kỵ Mậu Dần; ngƣời Mậu Kỷ thấy Giáp Thìn, kỵ Canh Dần; ngƣời Canh Tân thấy Đinh
Sửu, kỵ Quý Tị; ngƣời Nhâm Quý thấy Mậu Thìn, kỵ Giáp Dần. Một tên là Hiên Xa Sát, nếu
phạm chỗ kỵ, chủ là xe cộ phá nát, ngựa gãy chân, đàn bà gặp tật ách, thƣờng nhân làm trộm
cƣớp. 《 Thần Bạch kinh 》nói: ngày sinh phạm đƣợc dùng, nếu gặp giờ không phạm kỵ, chủ
nhiều phú quý, ngƣời quân tử thời niên thiếu đạt khoa giáp, thƣờng nhân thì nghệ thuật xuất
chúng.
Có Khố đầu Tài, là ngƣời Giáp Ất gặp Kỷ Mùi, Bính Đinh gặp Canh Tuất, Mậu Kỷ gặp
Nhâm Thìn, Canh Tân gặp Ất Sửu, Nhâm Quý gặp Bính Thìn, ngƣời quân tử chủ nhiều tiền,
lúa gạo, ngƣời thƣờng nhân thì gia sản khá giả, tức là thấu xuất Tài Quan luận vậy. Nhƣ kim
thấy Kỷ Sửu hỏa, mộc thấy Ất Mùi kim, thủy thấy Bính Thìn thổ, thổ thấy Mậu Thìn mộc,
hỏa thấy Nhâm Tuất thủy, cách nhƣ chỗ này, tức là trong mộ gặp quỷ, sợ rất nguy hiểm.
16-04-16, 13:55
lesoi
Cổ ca nói:
Tạp khí Tài Quan dụng cung tháng,
Thiên can thấu lộ thủy là giàu,
Tài nhiều Quan vượng cần xung phá,
Cần kỵ can chi áp chế nặng.
Lại nói:
Tạp khí chưa hề nói không thuần,
Thiên can thấu xuất thủy là chân,
Thân cường Tài vượng sinh Quan lộc,
Vào vận xung hình tụ báu vật.
Lại nói:
Nguyệt lệnh đề cương không thể xung,
Mười xung chín mệnh đều là hung,
Duy có Tài Quan gặp mộ khố,
Vận hành đến đây lại thành công.
Lại nói:
Thời mộ gặp Quan chủ phát muộn,
Hỉ gặp xung khắc là đứng đầu,
Trấn áp không đến nới xứ quý,
Quan cao chức hiển không nghi ngờ.
Lại nói:
154 | Tam mệnh thông hội

Thiếu niên không phát người trong mộ,


Đều là Tài Quan đóng cửa khố,
Phá hại có thể mở cái khóa,
Ấn chế cuối cùng chịu khổ thân;

Đinh Nhâm vốn lấy Thìn là mộ,


Mậu thổ đến thương phú lấy bần,
Ất Mão Giáp Dần đồng cứu tế,
Tài tinh lộ ra tự nhiên thịnh.

Lại nói:
Tạp khí Tài Quan cùng giống Ấn,
Trong cách kỵ nhất Quỷ Tài nặng,
Nhưng cần Ta nhiều sinh là tiến,
Dù hỉ gặp nó cần phải được;

Nếu là Tài nhiều cần từ chức,


Như gặp Quan vượng phúc vô cùng,
Tham Tài phôi Ấn cần phải nhớ,
Sừng ốc đầu ruồi uổng phí tâm.

Lại nói:
Tài Quan tạp khí tàng trong khố,
Hỉ nhất sinh thân vào đất vượng,
Sát trọng thân khinh cần chế phục,
Tài nhiều đầy khố cần xung thương;

Ngũ hành có lấy tìm cách khác,


Tứ trụ vô tình lại có sách,
Tuế Vận như lâm đất Tài vượng,
Thanh danh ngày càng tiến cao cường.
16-04-16, 13:57
lesoi
Phụ luận Mộ vận

Bí quyết nói: Trẻ tuổi không nên phùng mộ khố, về già gặp đây tất hƣng phong. Lại nói:
Vƣợng Quan vƣợng Ấn và vƣợng Tài, nhập mộ là có họa; Thƣơng quan Thực thần cùng
Thân vƣợng, gặp khố khởi tai. Lại nói: Vƣợng Sát nhập mộ, thọ toán khó dài. Có thể thấy
phàm Quan Ấn Thƣơng quan Thất Sát là dụng thần, đều kỵ hành vận mộ khố, duy chỉ có lúc
về già thần hành khố địa là cát.

Luận Thương quan

Thương quan, là nói ta sinh nó, nhƣ loại Giáp kiến Đinh, Ất kiến Bính, Giáp dụng Tân là
Quan, Đinh hỏa thừa vƣợng, cƣớp khí của ta, khắc chế Tân kim, khiến cho không thể phụ
Giáp làm quý, cho nên danh là Thƣơng quan. Thƣơng quan cách yêu cầu thƣơng tận, mới lấy
quý xem, vốn là có Quan tinh, thì tổn thƣơng nặng.
Kinh nói: "Thương quan kiến Quan, vi họa bách đoan" là vậy. Thƣơng quan tuy hung, là chỗ
ta sinh, là vật của nhà mình, thƣơng tận thì có thể sinh Tài, Tài vƣợng thì có thể sinh Quan,
tạo hóa xoay chuyển có tình. Nhƣ nguyệt lệnh ở Thƣơng quan, tứ trụ xảy ra kết cục, đều ở vị
155 | Tam mệnh thông hội

trí Thƣơng, không có xung phá, không thấy một chút Quan tinh, gọi là Thương tận. Lại có
chi tháng Thƣơng quan, thời thƣợng Thƣơng quan, tứ trụ không có Quan tinh, cũng gọi là
Thƣơng tận. Thêm thân vƣợng, Tài vƣợng hoặc Ấn vƣợng, là đề danh bảng vàng, là nhất
phẩm quý nhân. Cách này chủ đa tài đa nghệ, tính khí kiêu ngạo, tâm hiểm không sợ sệt, đa
mƣu nhƣng ít thành, lộng khéo thành vụng, thƣờng cho ngƣời không bằng mình, mà ngƣời
cũng căm ghét. Thƣơng quan không có tài chủ bần cùng, bởi vì sinh Tài khí cũng tức là Thực
thần Thƣơng quan, cƣớp Tài khí tức là Thất Sát Quan tinh, cho nên Thƣơng quan phải thấy
Tài, mà không nên thấy Quan. Giả sử nhƣ Giáp sinh tháng Ngọ, mộc không thể chạy hƣớng
nam, thế thân quá nhu, sao có thể gặp kim chế? Kim có thể cƣớp khí thổ, cho nên không thể
thấy Quan. Đã không có Quan tinh, mà trụ lại không có một chút Tài để dựa, dù thông minh
mƣu trí, bất quá cũng là hƣ danh hƣ lợi.
Kinh nói: "Thương quan không có Tài để dựa, dù xảo cũng bần" là vậy. Thƣơng quan cách
dụng Tài, cũng có dụng Ấn.
《 Thiên Huyền phú 》 nói: Thƣơng quan dụng Ấn nên bỏ Tài, dụng Tài nên khử Ấn, nếu
nhƣ Tài Ấn lƣỡng toàn, làm sao phát phúc? Thân vƣợng là dụng Tài, thân nhƣợc là dụng Ấn,
dụng Ấn phải khử Tài mới có thể phát phúc, dụng Tài thì không dụng Ấn cũng là hanh thông,
Thƣơng quan dụng Ấn, không kỵ Quan Sát, khử Tài mới phát, vốn phạm Thƣơng quan, cần
phải thấy Tài mới phát. Thƣơng quan tối hỉ hành Tài vận, Ấn thụ thân vƣợng là thứ, không hỉ
hành đất Quan, tứ trụ Thƣơng quan nhiều mà kiến Quan, không nên lại hành vận Thƣơng
quan, một vị là không sao.
Lại viết: Thƣơng quan cách yêu cầu phải thƣơng tận, nếu trụ thấy Thƣơng quan, mà Quan
tinh ẩn hiện, thƣơng không tận, tuế vận lại thấy Quan tinh, Quan đến thừa vƣợng, lại thấy
hình xung phá hại, Nhận Sát khắc thân, thân nhƣợc Tài vƣợng, tất chủ tù tội mà tử vong, ngũ
hành có cứu, cũng tàn tật. Nếu tứ trụ không có Quan mà gặp Thƣơng Sát trọng, vận nhập đất
Quan, lại gặp Tuế quân, nếu không tật mắt, tất chủ tai phá.
lesoi
Kinh nói: Ngũ hành Thƣơng quan, duy chỉ có ngƣời hỏa thổ Thƣơng quan, ngƣời thổ kim
Thƣơng quan kỵ kiến Quan tinh, nếu ngƣời kim thủy, ngƣời thủy mộc, ngƣời mộc hỏa, không
kỵ. Bởi vì hỏa lấy thủy là Quan, lấy thổ là Thƣơng, thủy sợ thổ khắc, thổ đƣợc thủy là vô ích;
thổ lấy mộc là Quan, lấy kim là Thƣơng, mộc sợ kim khắc, kim đƣợc mộc là vô ích, cho nên
Hỏa Thổ Thƣơng quan cách kỵ thấy Quan tinh. Kim lấy thủy là Thƣơng, lấy hỏa là Quan,
thủy tuy khắc hỏa, nếu kim hàn thủy lạnh, không đƣợc hỏa ấm, khó mà cứu vật, huống chi
thủy đƣợc hỏa thành công ký tế; thủy lấy mộc là Thƣơng, lấy thổ là Quan, mộc tuy khắc thổ,
nếu thủy phiếm mộc phù, không đƣợc thổ, khó mà tồn tại sống, huống chi mộc đƣợc thổ
thành lực vun bồi; mộc lấy hỏa là Thƣơng, lấy kim là Quan, hỏa tuy khắc kim, nếu mộc thịnh
hỏa tắt, không đƣợc kim gọt đẽo, khó mà lấy thông minh, huống chi kim đƣợc hỏa thành
tƣợng vật dùng, cho nên kim thủy mộc Thƣơng quan cách không kỵ Quan tinh.
Cho nên Kinh nói: " Hỏa Thổ Thương quan nên thương tận, kim thủy Thương quan cần kiến
Quan, mộc hỏa kiến Quan Quan phải vượng, thổ kim Quan khử lại thành Quan, duy chỉ có
Thủy Mộc Thương quan cách, Tài Quan lưỡng kiến mới là hay" là vậy.
Lại viết: Thƣơng quan thƣơng tận, cũng có không lấy phúc, Thƣơng quan kiến Quan, cũng có
không lấy họa. Nhƣ mệnh: Đinh Mùi, Đinh Mùi, Bính Ngọ, Bính Ngọ, ngày Bính tọa Ngọ,
nhật chủ tự vƣợng, có 2 Ngọ, 2 Đinh, 2 Mùi, Tài Quan đều tổn thƣơng, tuy là Thƣơng quan
thƣơng tận, nhƣng tứ trụ khí hỏa thái vƣợng, cƣớp khí lại nặng, vận hành đông nam đất hỏa
vƣợng, không có một chút Tài khí, thân vƣợng không có nơi nƣơng tựa, là ngƣời rất nghèo,
thân vƣợng nhất thiết không thể kiến Thƣơng quan thƣơng tận, liền lấy mệnh tốt xem. Lại
nhƣ ngƣời sinh ngày Giáp, trụ có Tân là Quan, lại có Đinh Thƣơng quan, nếu sinh mùa thu là
Quan vƣợng, tuy phùng Đinh hỏa hoặc cƣ ở trên Hợi, Tý, hoặc kiến Ngọ ở dƣới phục Nhâm,
Quý, thì Đinh không thể thƣơng Quan, cuối cùng là mệnh có quan chức, tuế vận gặp Sát
Quan Ấn thụ, đều cát, kỵ vận thân suy bại, phù hợp có Quan tinh không thể thấy Thƣơng
156 | Tam mệnh thông hội

quan cách, thì không thể xem là mệnh tốt.


Lại viết: Nhân mệnh vốn có một chút Thƣơng quan, không thể tổn hại quý khí, hoặc vận
nhập đất Quan, Quan tự vƣợng cƣờng kiện, hoặc nhập Ấn vận chế phục Thƣơng Sát, hoặc có
Tài sinh trợ, hoặc tòng hóa nhập vào cách khác, là không mất đi mệnh tốt, sợ lại hành đất
Thƣơng, bệnh mà không có khởi, nếu không, thì văn thƣ khẩu thiệt, quan sự phá bại, tai ƣơng
sẽ đến. Trụ vốn có Tài, lại hành Tài vận, cũng có thể thành tựu công danh lợi lộc, vừa hành
đất Quan Sát, hoặc đất Tài suy bại tử tuyệt, tức là mất tài lộc, không quan tụng thì tang phục
cùng đến.
Lại viết: Tứ trụ Thƣơng quan, duy chỉ có can năm Thƣơng quan là tối trọng, gọi là nền phúc
thụ thƣơng, cả đời không thể trừ khử, nếu chi tháng lại có, nặng hơn cả Thất Sát thƣơng thân.
Nhƣ sinh ngày Giáp, lấy Tân là Quan, kiến năm Đinh Mão, sinh tháng Dần Ngọ Tuất, là
trọng phạm Thƣơng quan, lại có Mão là Kiếp Nhận, danh là Bối Lộc trục Mã, là ngƣời thoái
mờ, phản thƣơng tổ ấm, vận hành đất Quan, lƣu niên lại thấy, hoặc vận Sát vƣợng Thân
nhƣợc, tất có họa. Nếu Nguyệt lệnh chân chính Thƣơng quan, lại thấy Quan tinh, ví dụ nhƣ
ngày Giáp sinh tháng Ngọ, kiến giờ Tân Mùi, trong Ngọ có Đinh hỏa khắc Tân; ngày Ất sinh
tháng Tị, thấy giờ Canh hoặc giờ Giáp Thân, trong Tị có Bính hỏa khắc Canh; ngày Bính sinh
tháng Ngọ, thấy Mậu Tý, giờ Quý Tị, trong Ngọ có Kỷ thổ khắc Quý. Đại để nhật chủ cần
phải kiện vƣợng, lại lâm vận Thƣơng quan, có thể phát danh lợi, nhật chủ nếu nhƣợc, vận qua
đất Tài Quan, họa không thể nói.
Lại viết: Thƣơng quan, nhƣ ngày Giáp kiến Đinh, hỉ Nhâm hợp Quý phá; Ất kiến Bính, hỉ
Tân hợp Nhâm phá; Bính kiến Kỷ, hỉ Giáp hợp Ất phá; Đinh kiến Mậu, hỉ Quý hợp Giáp phá;
Mậu kiến Tân, hỉ Bính hợp Đinh phá; Kỷ kiến Canh, hỉ Ất hợp Bính phá; Canh kiến Quý, hỉ
Mậu hợp Kỷ phá; Quý kiến Giáp, hỉ Kỷ hợp Canh phá.
16-04-16, 13:59
lesoi
《 Vạn Kỳ 》 nói: Thƣơng quan nguyên thần không có Quan tinh, lại hành vận Thƣơng quan,
đây là cƣớp khí thái quá, tức là một mộc gặp quá nhiều hoả, danh nghĩa là Tán khí, không
bần thì yểu, hỉ thân vƣợng cùng đất Quan, Thƣơng quan kiến Quan, lại bị cƣớp khí lại bị
ngƣng trệ, trong cục vận nhập đất Quan, lại cát, tức là Thƣơng quan thƣơng tận lại hỉ kiến
Quan tinh. Thƣơng quan nếu mang Tài kiến Ấn, họa không nhẹ. Thƣơng quan nếu mmang
Ấn, Quan Sát không là hình, Thƣơng quan nhiều nên hành đất Ấn, tức là Thực đa dụng Ấn.
Thƣơng quan ít lại hành đất Ấn, tức là Kiêu Thần đoạt Thực. Thƣơng quan nếu mang Ấn,
không nên gặp Tài, Thƣơng quan nếu mang Quan, không nên hành chế phục, Thƣơng quan
dụng Tài, không nên hành đất Kiếp, Thƣơng quan dụng Ấn, không kỵ thấy Quan Sát, Thƣơng
quan nếu thấy Quan tinh trùng điệp, chớ lấy Quan tinh luận. Thƣơng quan dụng Quan, ở năm
tháng tất cần cƣớp mất Quan, vận ở ngày giờ, không nên bị thƣơng, một khi thấy thƣơng, họa
không thể nói, không thể lâm mộ, thọ khó dài.
《 Thiên Lý Mã 》 nói: Thương quan kiến Quan, hay là nhập đất Ấn Tài. Lại nói: Thương
quan phùng Tài là có con.
《 Tâm tướng phú 》 nói: Thƣơng quan thƣơng tận, đa nghệ đa năng, khiến tâm kiêu ngạo
khinh ngƣời, đa số quỷ quyệt gian trá mà khinh ngƣời thái quá, quyền cao cốt tuấn, mắt to
mầy thô.
《 Cảnh Giám 》 nói: Thƣơng quan không Tài lại mang Nhận, là ngƣời hành gian lộng xảo.
《 Thông Minh phú 》 nói: Trọng kiến Thƣơng quan, thân tất gian cần lao khổ. Lại nói:
Thƣơng quan nhiều mà thân vƣợng vô y, định là kẻ sĩ tăng đạo nghệ thuật.
Bí Quyết nói: Thƣơng quan thái trọng, con tất có suy. Lại nói: Năm mang Thƣơng quan, cha
mẹ bất toàn, tháng mang Thƣơng quan, huynh đệ không đủ, giờ mang Thƣơng quan, con cái
hung ngoan, ngày mang Thƣơng quan, thê thiếp không hiền. Lại nói: Thƣơng quan không
tận, cần đề phòng hoạ bất trắc, Thƣơng quan phùng Tài, là hƣởng phúc thanh nhàn, Thất Sát
157 | Tam mệnh thông hội

cùng đến, tật tổn phải lo, thân vƣợng vô y, cô khắc khó miễn, Thƣơng quan gặp Kiếp, tụ tài
nhƣ cây Liễu theo gió cuốn, Thƣơng quan không có Ấn, cầu lợi tựa nhƣ đƣa tiền ra ngoài
mƣa gió.
Cổ ca nói:
Thương quan vốn là thần sản nghiệp,
Thương tận đúng là đại quý nhân,
Nếu là Thương quan thương không tận,
Quan đến thừa vượng họa không khinh.
Lại nói:
Nguyệt lệnh phùng Quan ở đất Thương,
Thương khinh giảm lực thì không ngại,
Nếu thấy hình xung cùng phá hại,
Định biết làm quan không lâu dài.
Lại nói:
Thương quan thương tận lại sinh Tài,
Tài vượng sinh Quan hỗ hoán đến,
Tứ trụ nếu Quan không hiển lộ,
Liền nói phú quý chớ có sai.
Lại nói:
Thương quan nếu gặp vốn không nên,
Có Tài không Quan là tổ phúc,
Ngày giờ tháng Thương quan cách cục,
Vận hành Tài vượng quý không sai.
Lại nói:
Thương quan thương tận mới vi kỳ,
Nếu gặp Thương nhiều lại không nên,
Trong cách cục này thiên biến hóa,
Suy kĩ cần phải dụng tâm cơ.
Lại nói:
Thương quan không Quan tối kỵ bác,
Vận nhập đất Quan lại kiến kỳ,
Trong Tuế vận mệnh phùng Ấn thụ,
Trở thành phú quý định không sai.
Lại nói:
Thương quan không kỵ Tỉ kiên phùng,
Thất Sát Thiên Quan lý cũng giống,
Nếu như không Quan thì kỵ Tỉ,
Như phùng thân vượng lại sợ nặng.
Lại như:
Thương quan không tận lại phùng Quan,
Chém cổ tù tội họa bách đoan,
Tháng phạm cha con không toàn mỹ,
Ngày phạm bản thân chủ thương tàn;
Giờ Thương tử tức nhiều chật vật,
Phải biết phú quý không chu toàn,
Nếu như Thương quan cư Thái Tuế,
Tất gây tai họa ở năm này.
Hợp các thuyết lại mà xem, thì biết hỉ kỵ của Thƣơng Quan vậy.
16-04-16, 14:00
lesoi
158 | Tam mệnh thông hội

Luận Thực thần

Thực Thần, là chỗ Nhật can sinh thuận đếm đến vị trí thứ 3, ví dụ nhƣ là Giáp Thực Bính, Ất
Thực Đinh. Giáp sinh Bính là tiết khí, Bính sinh Mậu là Thiên Tài của Giáp, Thiên Tài là tài
của lộc trời tự nhiên, thân tâm không có lao lực, kiến hƣởng thành phúc lộc. Giáp Bính có
đạo cha con, nhƣ con vƣợng tƣớng, sinh ra tài lộc lấy phụng dƣỡng cha mẹ, sao không an
hƣởng? Giáp lại thấy Canh là Sát, thấy Mậu là Tài, Thực thần Bính hỏa có thể chế phục Canh
Sát, khiến không cho khắc thƣơng Giáp mộc, có thể sinh Mậu Tài, để cho Giáp mộc sử dụng.
Phàm mệnh gặp đất Tài Sát, Thực thần vƣợng tƣớng, Sát bị Thực chế, không dám gây họa,
Tài đƣợc Thực sinh, sung túc không kiệt, cho nên Thực thần còn có một danh là Thọ tinh,
một danh nữa là Tƣớc tinh, là ngƣời hiền lƣơng vậy. Cách này phải có nhật chủ cùng Thực
thần đều sinh vƣợng, không có xung phá, chủ ngƣời có tài dày thực trọng, phúc lƣợng vô
biên, thân thể béo phì, ƣu du tự tại, có con cháu, lại có thọ. Tứ trụ thấy Tài Thực ở trên năm
tháng, hƣởng thụ tổ ấm hƣng phong, ở ngày giờ, nhận phúc vợ, sợ mẫu tử đều suy tuyệt, cả
hai đều không có thành.
Cho nên Kinh nói: "Thực thần cần Thực sinh Thực vượng, không thể Thực suy Thực tuyệt."
Lại nói: "Thực thần sinh vượng, tự thắng Tài Quan" là vậy. Thực thần đại kỵ Thiên Ấn là
Đảo Thực, là ngƣời có thủy không có chung, dung mạo méo lệch. Vóc dáng bỉ ổi, tâm tính
cục mịch, lo nhiều mà không thành. Giả nhƣ Giáp kiến Bính là Thực, trong trụ có Nhâm là
Thiên Ấn của Giáp mộc, khắc chế Bính hỏa không thể sinh Mậu thổ, không thể chế Canh
kim, khiến Giáp mộc bị chế thoái tài, sao không khốn cùng chứ?
《 Nguyên Lý phú 》 nói: Thực thần chế Sát, phùng Kiêu không bần thì yểu. 《 Nhất Hành
》 nói: Ngày dƣơng Thực thần ám hợp Quan tinh, ngày Âm Thực thần ám hợp Chính Ấn,
Quan Ấn không nên lộ rõ, nhƣng nếu Thực thần thuần túy, chủ quý mà còn có lộc, phú mà
còn có thọ, Thực thần chỉ cần một vị, không nên quá nhiều, sợ cƣớp khí bản nguyên.
Kinh nói: "Một mộc gặp nhiều vị hỏa, danh là Tán khí phụ lão" là vậy. Thực nhiều thì cần
hành Ấn vận, Thực ít thì không nên, là Kiêu thần đoạt Thực, cho nên Thực hỉ vƣợng lộc
tƣơng trợ, nguyệt lệnh kiến lộc là tốt nhất, giờ lộc là thứ, lại thêm phùng vận quý nhân, hành
đất Thực thần sinh vƣợng, đầy phúc lộc. Kỵ thân suy Kiêu vƣợng, trong trụ tuy hỉ kiến Tài,
cũng không nên thấy nhiều, nhiều thì không thanh, bất quá chỉ là một phú ông mà thôi. Thực
thần trọng kiến, biến thành Thƣơng quan, khiến ngƣời ít con, dẫu có, có mang tính ƣơng
bƣớng khó dạy, lại không thể nhập mộ, tức là Thƣơng quan nhập mộ, thọ khó mà dài. Đại kỵ
Không Vong, lại có thêm Quan Sát hiển lộ, là kẻ sĩ làm y sƣ ở thuật số cửu lƣu, nếu Thực
thần phùng khắc, lại gặp Không Vong, thì không quý, lại hành vận tử tuyệt hoặc gặp Kiêu, thì
vì ăn uống mà sinh tai hoạ, ăn uống mắc nghẹn buồn nôn, thiếu áo cơm, nhẫn nhục cơ hàn mà
thôi.
Lại viết: Ngày Giáp Thực Bính, trong trụ không có Nhâm Quý Hợi Tý mới tốt, nhƣ có khí
thủy, chữ Bính bị chế, ở ngƣời khuất phục, bản thân không thể tự kiến lập, sao có thể sinh vật
để dƣỡng cha chứ? Nhƣ chỗ này không có chế, lại cần sinh vƣợng hƣớng lộc, nhƣ Bính sinh
mùa hạ, vận qua đông nam, hỏa thổ đều vƣợng, Giáp dụng Tài tất hậu. Nếu sinh mùa xuân
Giáp vƣợng, Bính hỏa tuy đƣợc sinh, không bằng khí Mậu Kỷ bạc, cần trải qua nam phƣơng
hỏa thổ đều vƣợng, mới nói phát phúc. Lại nhƣ Canh lấy Nhâm là Thực, vận qua bắc phƣơng
đất thủy vƣợng, phát tài tất hậu, đông phƣơng đất mộc vƣợng, phát phúc tất nhanh. Luận rõ,
Canh lấy Nhâm là Thực, trƣờng sinh ở Thân, nên đoán đất Thân phúc trọng, bạo bại ở Dậu,
Nhâm thủy đến Dậu, liền không là tốt, lấy Nhâm sinh Giáp mộc là Tài của Canh, tức là tự
sinh ở Thân mới phát tài, không phải Tài là hôn phối chính thê, Giáp đến đất Dậu là mộc
khốn kim hƣơng, Nhâm thủy tự bại, sao mộc có thể trợ dƣỡng cho cha chứ? Nên đoán vận
này bình thƣờng. Hành vận đến Tuất, nhƣ gặp can Nhâm Giáp, cũng chỉ đoán là nửa cát nửa
hung, phùng Mậu có thể đoán là có tai, thấy Canh có thể đoán là phúc. Hợi vận mới nói là đại
cát, Tý vận là Quý thủy Thƣơng quan, Thƣơng trọng tiết khí bản thân, lại là Canh tử ở Tý,
159 | Tam mệnh thông hội

Giáp bại ở Tý, nên đoán là thân tai sinh họa. Vận đến Sửu, là khố Canh kim, đất thủy vƣợng,
lại có Kỷ Sửu trợ Canh Giáp quan đái đất thành nhân, có thể đoán là 10 năm phát. Dần vận
cũng cát, Mão vận có hoạ, còn lại cứ loại suy.
16-04-16, 14:01
lesoi
Lại viết: Thực thần kỵ Kiêu, cũng có không sợ vậy. Nhƣ Kỷ Hợi không sợ Đinh Đảo Thực,
Đinh cùng Nhâm hợp hóa mộc, mà Nhâm lộc ở Hợi; Bính Ngọ không sợ Giáp Đảo Thực,
Giáp và Kỷ hợp hóa thổ, mà Kỷ lộc ở Ngọ; Ất Tị không sợ Quý Đảo Thực, Mậu Quý hóa
hỏa, Ất Tị cũng là hỏa; Quý Tị không sợ Tân Đảo Thực, Bính Tân hóa thủy, Quý quý ở Tị;
Canh là thủ chúng dƣơng, không sợ Mậu Đảo Thực, Mậu, dƣơng khí số quy nguyên, thấy
Mậu lấy hỉ thần mà luận; Kỷ không Đảo Thực Tân, vốn ban đầu âm khí phát tán; Canh không
Đảo Thực Nhâm, vốn ban đầu dƣơng khí phát tán; Tân có Đinh, không sợ Kỷ Đảo Thực, vì
Đinh nuôi dƣỡng Tân kim vậy, huống chi có chỗ Đinh thì sẽ có Kỷ thổ, âm dƣơng can thiệp,
đƣợc trợ thanh phúc. Thực thần, thập can hội phúc lộc, quân tử đƣợc thì hiển đạt phong thịnh,
tiểu nhân đƣợc thì cấp đủ chu toàn, ở đất phúc tụ thì quan cao lộc hậu, ở đất họa tụ thì chức
thấp mệnh bạc. Nhƣ lấy luận Giáp Tý, Thực Bính Tý là Phúc tinh quý, Thực Bính Dần là lộc
trƣờng sinh, lại là Lộc Mã đồng hƣơng, Thực thần Học Đƣờng quý, Bính Thìn là Chính Ấn,
Bính Ngọ là tự hình phá mệnh, Bính Thân là khắc thân phá lộc, Bính Tuất là thân suy phá
Không Vong, còn lại loại suy theo nhƣ vậy. Nếu gặp các loại sinh vƣợng, khố, Ấn, Thiên Ất,
Thiên Quan, Hoa Cái, Văn tinh, Học Đƣờng, Quan Ấn Lộc Mã, là đất phúc tụ, gặp khắc phá,
Không Vong, Ác sát, hình hại, hƣu, bại, tử, tuyệt, là đất tụ họa.
Lại viết: Giáp Ất Thực Bính Đinh, gia trên Dần Mão Tị Ngọ; Bính Đinh Thực mậu Kỷ, gia
trên Thìn Tuất Sửu Mùi; Mậu Kỷ Thực Canh Tân, gia trên Tị Ngọ Thân Dậu; Canh Tân Thực
Nhâm Quý, gia trên Thân Dậu Hợi Tý; Nhâm Quý Thực Giáp Ất, gia trên Hợi Tý Dần Mão,
gọi là Thực thần kiến sinh vƣợng, mang thêm Lộc Mã vƣợng tƣớng, văn là Lƣỡng Chế lƣỡng
Tỉnh, võ là Kiến tiết Phòng Đoàn, không có, cũng là tài bạch phong hậu, Thực thần và Lộc
thấy đủ, tứ trụ thuận là rất tốt.
《 Hồ Trung Tử 》 nói: Phạm Đảo Thực, ở mệnh đa số là bị ngƣời quất nhiễu, mang trùng
điệp, lúc nhỏ thì nói thiếu sữa bú, lúc già thì nói thiếu ănc. Chính Thực là có dƣ giả phú quý,
Tranh Thực mà không đủ là bần tiện. Có dư, nhƣ ngƣời Giáp đƣợc 2 Bính 3 Bính; Không đủ,
nhƣ trong trụ có 2 Giáp mà chỉ có 1 Bính. Lại viết: Nhật chủ có can giờ trùng điệp Thực, viết
là Thôn Đạm não tử, ngày giờ đều có Thực, chủ bệnh đầu não, sớm khắc mẹ chết, sau không
có con đƣa tiễn khi chết, nếu trong Thôn phùng Thôn, nhƣ ngƣời Giáp phùng ngày giờ
Nhâm, lại phùng chữ Canh, chủ bần tử câu thông, có can hợp giải thì trì hoãn.
《 Tâm tướng phú 》 nói: Thực thần có thể đứng đầu về ẩm thực, thâm mập béo mà thích ca
hát.
《 Áo Chỉ thiên 》 nói: Nguyệt lệnh gặp Thực, thân kiện vƣợng, thích ẩm thực, tƣ chất béo
phì, tứ trụ có cát tinh tƣơng phù, là vàng bạc đầy nhà, thanh danh nổi tiếng.
《 U Vi phú 》 nói: Thực thần vƣợng tƣớng, sống thọ cao.
《 Nguyên Lý phú 》 nói: Thực cƣ trƣớc, Sát cƣ sau, công danh hiển đạt.
《 Bảo Giám phú 》 nói: Tháng lộ Thực thần giờ lộ Quan, vinh hiển đài cao trợ quốc thần.
《 Vạn Kỳ phú 》 nói: Thực thần danh là Cát diệu chế Sát, hiệu xƣng là Thọ tinh, can
cƣờng nhật vƣợng, ngƣời phú quý, Thực vƣợng thân suy, ngƣời lao khổ, phùng Tài vƣợng thì
Thực ở trƣớc, gặp Ấn thụ thì đáy nồi sinh bụi, thấy một vị thì khắc đỉnh chung lớn, có 2,3 thì
không tốt, Dƣơng Nhận trọng lâm, cả đời lao khổ, hình khắc hội nhau, một đời bôn ba.
16-04-16, 14:02
lesoi
160 | Tam mệnh thông hội

Cổ ca nói:
Thực thần chế Sát cát phi thường,
Tài vượng vợ vinh con càng mạnh,
Trong trụ nếu gặp Thôn Đạm Sát,
Quản giáo kim điện phò quân vương.
Lại nói:
Thực thần phùng Lộc hiệu Thiên Trù,
Không xung khắc Không Vong Quan Sát,
Tử tuyệt vận lâm Thiên Ấn địa,
Thọ tinh hợp xứ phúc tin giao.
Lại nói:
Thực thần Ấn thụ không nên gặp,
Duy thấy Tài Quan phúc lại hưng,
Thực thần hỉ hành thân vượng địa,
Phùng Kiêu phùng Tỉ lại thành không.
Lại nói:
Thực thần sinh vượng là đứng đầu,
Duy hành thủy mộc thổ kim tốt,
Quan Sát lại không đến hỗn tạp,
Cả đời y lộc đủ vinh hoa.
Lại nói:
Người Giáp thấy Bính vốn cướp khí,
Bính đi sinh Tài hiệu Thực thần,
Tâm rộng thân mập dày y lộc,
Nếu lâm Thiên Ấn chủ cô bần.
Lại nói:
Thực thần sinh vượng không hình khắc,
Mệnh phùng cách này thắng Tài Quan,
:ại thêm thân vượng phùng Tài địa,
Thanh xuân niên thiếu bược điện Kim.
Lại nói:
Thực thần không tổn thọ lâu dài,
Thứ Mẫu (Kiêu) phùng đây không thể đương,
Nếu không Thiên Tài đến cứu hộ,
Mệnh như thu thảo mang đông sương.
Lại nói:
Thực thần trên tháng hiệu Thiên Trù,
Nhân mệnh nếu gặp phú có dư,
Thiết kỵ Kiêu đến hiểu giảm phúc,
Rất sợ xung khử ám tiêu trừ.
Sinh Tài hóa Quỷ kiêm không bệnh,
Chế Sát là cát tin có trữ,
Sĩ tử như phùng lợi khoa giáp,
Quan phong yếu chức lĩnh Thiên thư.

Hợp các thuyết lại, xem có thể biết hỉ kỵ của Thực thần vậy.
16-04-16, 14:03
lesoi
Phi thiên Lộc Mã
161 | Tam mệnh thông hội

《 Hỉ Kỵ thiên 》 nói: Nếu Nguyệt kiến phùng Thƣơng quan, nhƣ xứ hung vị tất là hung, bên
trong có Đảo Lộc xung phi, kỵ Quan tinh, diệc sợ hợp trói, cách lấy duy có 4 ngày: Canh Tý,
Nhâm Tý, Tân Hợi, Quý Hợi, sinh tháng 10, tháng 11 mùa đông thủy thuần âm, trụ không có
Tài Quan, mới dùng. Lại cần tháng giờ hoặc năm và ngày cùng chi, mới có thể cùng xung.
Kỵ Quan tinh hiển lộ, lộc khó xung phi, hợp thần hợp trói, không thể xung phi, trong trụ phải
có một chữ hợp trụ Lộc Mã, mới không mất quý khí. Hỉ Thƣơng quan, Thực thần cùng can
chi bản vận. Giả sử nhƣ ngày Canh Tý, Canh lấy Đinh hỏa là Quan, sinh tháng Tý, là nguyệt
kiến Thƣơng quan, có thể nói là xứ hung, nếu chữ Tý nhiều, xung xuất Đinh hỏa trong Ngọ,
thì ngày Canh đƣợc Quan tinh, không thể lấy hung luận, trụ phải có Mùi hoặc Dần, Tuất, nếu
có đƣợc một chữ hợp Ngọ là tốt, nếu có chữ Sửu hợp trói, Tý đi tham hợp, không thể xung
lộc ở trong Ngọ, thấy chữ Đinh là lộ Quan, Bính là lộ Sát, chữ Ngọ là điền thực, Mậu là Thôn
Đạm, thì giảm phân số, tuế vận cũng vậy. Ngày Nhâm Tý, Nhâm lấy Kỷ thổ là Quan, trong
trụ phải có chữ Tý nhiều, xung xuất Kỷ thổ trong Ngọ, thì ngày Nhâm đƣợc Quan tinh, hỉ kỵ
cùng giống ngày Canh Tý. Ngày Tân Hợi, Tân dụng Bính hỏa là Quan, ngày Quý Hợi, Quý
dụng Mậu thổ là Quan, đều phải có chữ Hợi nhiều, xung xuất Bính, Mậu Quan ở trong Tị, thì
ngày Tân, Quý đƣợc Quan tinh, trụ có Thân hoặc Dậu, Sửu, nếu có một vị tác hợp là vi diệu,
nhiều thì không đƣợc, có Dần hợp trói, thì Hợi sẽ đi tham hợp, không thể xung lộc ở trong Tị,
thấy Bính, Mậu, Kỷ lộ là Quan tinh, giảm phân số, tuế vận cũng vậy.
Cổ ca viết:
Cách chính xung chỉ là Canh Nhâm,
Tử khứ xung Quan Lộc tự hanh,
Tứ trụ lại phùng Dần Tuất vị,
Ba chữ được một hợp công danh.
Lại nói:
Canh Nhâm tháng Tý hiệu Xung Quan,
Động Ngọ Đinh dời Kỷ cũng thiên,
Điền thực phá hình đều không phạm,
Anh danh khôi dự truyền bốn phương.
Lại nói:
Lộc Mã phi thiên biết là hiếm,
Canh Nhâm trùng Tý quý không sai,
Trụ không hợp trói Quan hiển hiện,
Bước thẳng mây xanh đến Phượng Trì.
Lại nói:
Tân Quý xung Quan trùng ngày Hợi,
Trong Tị Bính Mậu lộc lại cao,
Canh phùng Dậu Sửu Thân cư mệnh,
Được một hợp thần liền quý vinh.
Lại nói:
Ngày phùng Tân Quý chi lâm Hợi,
Dậu Sửu gia Thân hợp quý nhân,
Tứ trụ tương phù không Mậu Kỷ,
Uy phong thiên lý chấn anh thanh.
16-04-16, 14:04
lesoi
Đảo xung Lộc

Nguyệt kiến Thƣơng quan, bên trong có Đảo xung Lộc Mã cách, hỉ kỵ cùng giống nhƣ Phi
thiên, duy chỉ có giờ là không luận. Cách này chỉ có 2 ngày: Bính Ngọ, Đinh Tị, ở dƣới ngày
thuần dƣơng, Bính lấy Quý thủy là Quan, trong trụ phải có chữ Ngọ nhiều có lực, xung xuất
162 | Tam mệnh thông hội

Quý thủy ở trong Tý, thì ngày Bính đƣợc Quan tinh; Đinh lấy Nhâm thủy là Quan, cần trong
trụ có nhiều chữ Tị có lực, xung xuất Nhâm thủy trong Hợi, thì ngày Đinh đƣợc Quan tinh.
Lại đƣợc Sửu Dần hoặc Thân Thìn Mão Mùi, nhƣng có một chữ hợp trụ Lộc Mã là hay,
nhiều thì không phải. Ngày Bính Ngọ sợ Mùi, ngày Đinh Tị sợ các chữ Thân Thìn hợp trói,
thì Tị Ngọ tham hợp, không thể xung lộc ở trong Tý Hợi, trụ có Hợi Nhâm Tý Quý là Sát
Quan hiển lộ, thì giảm nửa phần, tuế vận cũng vậy.
Cổ ca nói:
Ngày Bính nhiều Ngọ không Quan cục,
Đảo xung Lộc Mã quý quan hòa,
Không phùng chữ Mùi đến trói vướng,
Quý Tý đều không phúc cheo leo.
Lại nói:
Đảo xung quý khí đạo bất đồng,
Bính Ngọ xung bay Tý lộc thần,
Quý thủy đến khắc là quý lộc,
Hình thương Điền thực là thường nhân.
Lại nói:
Đảo xung Lộc Mã quý phi thường,
Ngày Bính gặp nhiều ở Ngọ tốt,
Thất Sát không phùng cùng sợ trói,
Bạch y bước thẳng nhập triều đường.
Lại nói:
Ngày Đinh nhiều Tị là Đảo xung,
Quan tinh khởi bay xuất cung Càn,
Trong trụ không thấy chữ Nhâm Hợi,
Thìn không lưu Tị phúc quý hưng.
Lại nói:
Ngày Đinh xung quan Tị phải cường,
Hợi là lộc Nhâm người nơi quý,
Trong trụ không thấy Thìn Nhâm quý,
Tuế vận tương phù phúc lộc xương.
16-04-16, 14:05
lesoi
Phúc Tinh quý nhân

Chính là ngƣời Giáp thấy Bính Dần, Bính Tý, ngƣời Ất thấy Đinh Hợi, Đinh Sửu, độn đƣợc
chân Thực thần trong bản tuần, chủ hƣởng thụ tự nhiên, gặp thì không quý cũng phú, còn lại
suy theo nhƣ vậy. Tiền nhân lấy 《 Giáp Bính mời nhau nhập hổ hương ca 》, là lấy năm
luận, cho nên có Bính Dần, Bính Tý, nếu lấy ngày độn thì không phải.

Thực thần đồng khoa

Nói Giáp Thực Bính, là ngƣời Giáp Tý thấy Bính Tý, tức là 13 vị trí đồng, là vật của nhà
mình vậy, đƣợc chỗ này không quý cũng phú, tháng không bằng ngày, ngày không bằng giờ,
nếu hỗ hoán sinh vƣợng mang lộc, quý là đại quý. Nhƣ mệnh Hàn Ngụy Công: Mậu Thân,
Canh Thân, Canh Thìn, Canh Thìn; Tống Tần Cối: Canh Ngọ, Kỷ Sửu, Ất Mão, Nhâm
Ngọ; Lại nhƣ Minh Vƣơng Sùng Cổ Thiếu Bảo: Ất Hợi, Tân Tị, Mậu Thân, Canh Thân là
vậy. Nhƣ Đảo Thực bản gia, năm Giáp Tý thấy giờ Nhâm Tý, năm Canh Tý thấy giờ Mậu
Tý, cũng quý, nhƣng hại con.
163 | Tam mệnh thông hội

Thực thần đái hợp

Là nói ngƣời Giáp thấy Bính có Tân hợp, ngƣời Kỷ thấy Tân có Bính hợp, Ất thấy Đinh
Nhâm, Canh kiến Nhâm Đinh, Bính kiến Mậu Quý, Tân kiến Quý Mậu, là quan có quyền ấn.

Hồng Loan Thiên Ấn

Là nói Bính Thực Mậu mà đƣợc Mậu Tuất, Tân Thực Quý mà đƣợc Quý Sửu, Nhâm Giáp
Thìn, Ất Đinh Mùi, ngày giờ nếu gặp, chủ phú quý.

Mặc trì Dũng tuyền

Nói Tân Tị đƣợc Quý Tị, Quý Hợi. Nhƣ mệnh Trần Triều Nghị: Tân Tị, Nhâm Thìn, Quý
Tị, Quý Hợi là vậy. Suy theo loại này, Bính Dần thích Mậu Dần, Mậu Thân thích Canh Thân,
Kỷ Tị thích Tân Hợi, Canh Ngọ thích Nhâm Thân, Giáp Tuất thích Bính Dần, Nhâm Thìn
thích Giáp Thân, đều hợp cách này, chủ văn quý.
16-04-16, 14:07
lesoi
Luận Dương Nhận

(Trước có luận Dương Nhận Sát, cùng tham khảo thêm chỗ này)

Dương, là âm dƣơng; Nhận, là đao gƣơm, tức là trƣớc lộc một vị trí, là nói quá vƣợng, cho
nên nguy hiểm. Thiết nghĩ ngƣời Giáp kiến Mão, trong Mão có Ất mộc, Ất là đệ Giáp, có thể
cƣớp tài của huynh, xung khử Tân Quan trong Dậu, hợp vợ Canh, Canh là Thất Sát Giáp,
Kiếp tài xung Quan hợp nấu nhừ, cho nên rất hung. Duy chỉ có 5 can dƣơng Giáp Bính Mậu
Canh Nhâm là có Nhận, 5 can âm Ất Đinh Kỷ Tân Quý là không có Nhận, cho nên viết
Dƣơng Nhận. Duy chỉ thấy Thƣơng quan cùng Dƣơng nhận là đồng họa, cho nên Ất kiến
Bính gọi là nhận, lấy Bính khắc Canh Quan, hợp Tân Sát, khắc Ất mộc, âm kim khắc âm mộc
rất độc, cho nên hung dữ giống Dƣơng Nhận.
Dƣơng Nhận có 3 loại: Có Kiếp Tài Nhận, nhƣ Giáp kiến Ất là vậy, bất lợi cho Tài Quan
cách; Có Lộc hộ Nhận, nhƣ Giáp kiến Mão là vậy, đại lợi Quy Lộc cách; có Bối Lộc Nhận,
nhƣ Ất với Bính vậy, đại lợi cho khử Quan lƣu Sát cục.
《 Hỉ Kỵ thiên 》 nói: Kiếp tài Dƣơng Nhận, thiết kỵ gặp ở giờ, tuế vận cùng lâm, tai ƣơng
lập tức đến, độc lấy giờ Dƣơng Nhận nói, trọng ở năm tháng ngày vậy. Giả nhƣ ngƣời sinh
ngày Giáp, trụ giờ thấy Ất Mão, đây đúng là Chân Nhận, trong mệnh đã gặp Dƣơng Nhận, thì
phá tài hại vợ, tai ƣơng đã có lúc mới chớm nở vậy, lƣu niên tuế vận lại gặp Dƣơng Nhận, thì
gọi là cùng lâm, thấy Tị Dậu là xung Tuế quân, thấy Hợi Mùi Tuất là hợp Tuế quân, Dƣơng
Nhận, là hung sát vậy, Thái tuế, là hung thần vậy, Thái tuế đƣợc cát thần tƣơng phù, hợp thì
cát, nếu Dƣơng Nhận hung sát đến xung hợp Tuế quân, thì gọi là Toàn Hung tụ Sát, họa khó
miễn.
Kinh nói: Dương Nhận xung hợp Tuế quân, đột nhiên họa đến, là chỗ này vậy. Trong đó
cũng có phân biệt rõ, mệnh nguyên suy bạc, gặp chỗ này thì đúng, nếu mệnh vƣợng nắm khí
thâm hậu, hoặc có Thiên Nguyệt Đức cùng Thiên Xá giải cứu, chỉ có phù thực, cũng không
có đại nạn. Hoặc trụ ngày vốn có Nhận, kiến xung hoặc hợp, tuế vận lại lâm xung hợp, là đại
hung, nếu Tuế xung hợp mà vận không xung hợp, vận xung hợp mà tuế không xung hợp,
luận họa giảm nửa. Lại viết: Nhật can vô khí, giờ phùng Dƣơng Nhận không là hung. Nói
Thiên nguyên ngày sinh lâm đất tử tuyệt suy bệnh bạo bại, không thông nguyệt khí, không
thể đảm nhận Tài Quan, nếu phùng Dƣơng Nhận, có thể cƣớp Tài hóa Sát, thí dụ nhƣ lực
huynh nhƣợc Tài trọng, đƣợc đệ nhận phân chia, thì có thể thắng Tài mà làm vật dụng cho ta,
164 | Tam mệnh thông hội

cho nên không lấy hung luận. Nói thân nhƣợc kiến Tài Quan, cho nên hỉ Dƣơng Nhận phân
chia Tài hợp Sát, nếu kiến Thực Thƣơng, thân nhƣợc thoát khí, cũng hỉ Dƣơng Nhận phù trì,
nếu thấy Ấn thụ, thì không phải nhật can vô khí vậy. Trƣớc có nói kỵ Dƣơng Nhận, là thân
cƣờng lực có thể đảm nhận Tài, cho nên không hỉ Kiếp đoạt, sau nói hỉ Dƣơng Nhận, là vì
thân nhƣợc lực không giữ nỗi Tài, cho nên không kỵ Kiếp đoạt, nghĩa đều có cách dùng.
Cách này cùng Thƣơng quan là tƣơng tự, phàm mệnh có gặp, chủ mắt to râu vàng, tính cƣơng
tâm cao ngạo, không có tâm trắc ẩn hiền từ, có ý phớt lờ khắc cƣớp, đa số là mang đủ tật,
tham bạo không dừng, tiến thoái đa nghi, cứ thế mà đi, ly tổ làm con nuôi, khắc cha hại vợ,
hoặc kiến tam hình, hoặc tự hình Khôi Cƣơng, toàn phát tích ở biên cƣơng, nhƣ lại vô tình
hoặc lâm Tài vƣợng, chủ hung, nếu có đủ hình hại, đều đắc địa, lại có cứu thần, quý không
thể nói.
Lại viết: Dƣơng Nhận cách, đại khái không cần đất Tài, sợ khởi xung, nhƣ ngày Mậu Nhận ở
Ngọ, kỵ hành Tý vận Chính Tài; ngày Nhâm Nhận ở Tý, kỵ hành Ngọ vận Chính Tài; ngày
Canh Nhận ở Dậu, kỵ hành Mão vận Chính Tài; chĩ có ngày Giáp Nhận ở Mão, hành Tị Ngọ
cùng Thìn Tuất Sửu Mùi vận Tài là không sao, kỵ Dậu vận; ngày Bính Nhận ở Ngọ, hành
Thân Dậu Canh Tân Sửu vận Tài cũng không ngại, kỵ Tý vận. Dƣơng Nhận là chỗ Tài kỵ,
Mậu Nhận Ngọ kiến Tý Tài, Nhâm Nhận Tý kiến Ngọ Tài, Canh Nhận Dậu kiến Mão Tài,
đều xung Tài, cho nên kỵ, đến Giáp Nhận Mão không kỵ Mậu Kỷ Tị Ngọ Tài, mà kỵ Dậu
Quan vậy, Bính Nhận Ngọ không kỵ Canh Tân Thân Dậu Tài, mà kỵ Tý Quan vậy, có thể
đồng loạt là nói kỵ Tài chứ? Nếu thiên can Tài sinh Quan, chính là dụng thần, mà phƣơng hỉ,
sao có thể nói là kỵ.
16-04-16, 14:08
lesoi
《 Tâm Cảnh 》 nói: Dương Nhận trùng trùng lại kiến Tài, phú quý thêm vàng lụa, là nói
chỗ này vậy. Hoặc viết Giáp Mậu Canh thấy Nhận phùng xung, phát họa đa số là ứng
nghiệm, Nhâm Bính phùng Nhận kiến Tý Ngọ xung, đa số là không có họa, lấy Bính kiến Tý,
Nhâm kiến Ngọ đều là Chính Quan, lại lấy quý khí luận vậy. Lại viết: Giáp lấy Kỷ là Thê
Tài, tứ trụ lại có Mão Ất, Kỷ thổ thụ thƣơng, không thể phù Giáp, cho nên chủ có tang thê tử,
tuế vận phục lâm, Kiếp Nhận vƣợng tƣớng, thành chỗ khó miễn, nhƣ vị trí khác phùng Canh
Tân Dậu Thân, Canh có thể mời Ất làm vợ, tức là thành gia quyến, không phải là Thất Sát
của Giáp, Tân phụ Giáp là quý, có thể khắc phá Ất Sát, là phản hung thành cát. Kinh nói:
"Giáp lấy Ất muội gả vợ cho Canh, điềm hung thành cát" là vậy. Còn lại theo ví dụ này mà
suy.
Lại viết: Ngày Lục Giáp phùng Ất Mão là hung, Tân Mão là cát, Giáp Thân Đinh Mão không
là Nhận, vì trong Thân có Canh hợp Ất mộc ở trong Mão là Tài, nếu có Tài lộ, cũng hung,
Đinh hỏa Thƣơng quan, Ất mộc đoạt Tài, tuế vận cùng lâm, tai họa khó miễn. Ngày Ất Dậu
thấy giờ Canh Thìn, không phải Nhận, Ất tọa Canh ở dƣới có Tân kim trong Dậu, gặp chế
thần Ất mộc. Ngày Bính Tý thấy giờ Giáp Ngọ, không phải Nhận, trong Tý có Quý thủy khắc
Đinh hỏa trong Ngọ. Ngày Đinh Hợi thấy giờ Bính Ngọ, không phải Nhận, trong Hợi có
Nhâm hợp Đinh trong Ngọ. Ngày Canh Ngọ thấy giờ Ất Dậu, không phải Nhận, trong Ngọ
có Đinh hỏa chế Tân trong Dậu. Ngày Nhâm Ngọ thấy giờ Canh Tý, không phải Nhận, trong
Ngọ có Kỷ thổ chế Quý trong Tý. Ngày Tân Tị thấy giờ Mậu Tuất, không phải Nhận, trong
Tị có Bính hỏa hợp Tân trong Tuất. Ngày Quý Tị thấy giờ Quý Sửu, không phải Nhận, trong
Tị có Mậu thổ hợp Quý trong Sửu. Các ngày ở trên, gặp không nên thấy hình xung phá hại,
nếu không thì lấy đoán mệnh tốt.
Lại viết: Dƣơng Nhận, là hung tinh trên trời, là ác sát nhân gian, hỉ Thiên Quan, Ấn thụ, kỵ
phản ngâm, phục ngâm, Khôi Cƣơng, Tam Hợp, đại để cùng Thất Sát là tƣơng tự, cho nên
Dƣơng Nhận hỉ kiến Thất Sát, Thất Sát hỉ kiến Dƣơng Nhận, lƣỡng hung chế phục lẫn nhau,
giống nhƣ Chính Quan hỉ Chính Ấn, loại thiện hợp loại thiện là phúc.
Kinh nói: Sát không có Nhận không hiển, Nhận không có Sát không uy, Sát Nhận đều đủ, là
165 | Tam mệnh thông hội

không phải thường nhân, thêm thân vƣợng không thấy Thƣơng quan là tốt, nếu nguyên mệnh
có Sát Nhận, tuế vận lại gặp, hoặc có Nhận không có Sát, tuế vận phùng vận đất Sát, đều phát
đại phúc. Nhƣ mệnh có Nhận có Ấn không có Sát, tuế vận phùng Sát, lại chuyển thành hậu
phúc. Nếu trụ không có Nhận Sát, mệnh hợp Tài Quan, tuế vận lại gặp Nhận Sát, chủ một
năm trì trệ, nhân tài cạnh tranh, huynh đệ phân cƣ, xa vợ xa thiếp, nếu vốn không có Nhận,
hành vận Nhận tuy không sao, cũng chủ có chuyện khắc vợ, vốn có Nhận, tuế vận nhất thiết
không nên lại thấy đất Thƣơng quan Tài, vốn có mang Thƣơng quan Tài tinh, tuế vận lại gặp,
họa hại cực nặng, thân nhƣợc càng hung. Lại viết: Nhật Nhận chỉ có 3 ngày: Mậu Ngọ, Bính
Ngọ, Nhâm Tý, phép cũng giống Dƣơng Nhận.
Kinh viết: Xích Hoàng Mã độc ngọa, Hắc Thử thủ không phòng, nam hại vợ, nữ hại chồng,
chỉ có 3 ngày này vậy. Không hỉ hình xung phá hại cùng tam hội lục hợp, phải có Thất Sát
tƣơng chế, lại hành đất Quan Ấn, thì thành mệnh tốt.
16-04-16, 14:09
lesoi
Phú nói: Nhật Nhận đại kỵ xung hợp, hỉ Quan Sát tƣơng chế, hợp hình là hung, gặp Ấn là
cát, có Sát không có Nhận, thì là hữu dũng vô uy, có Nhận không có Sát, lấy việc đục trọc mà
không hiển, không có Sát gặp Sát, nhất thiết sợ họa hoạn tƣơng xâm, có Nhận gặp Nhận, phải
kỵ tai nguy tƣơng phạm, Nhận sinh Thân tử, là năm khó lấy cát suy, Tài vƣợng Quan thƣơng,
năm này không lấy hung đoán.
Lại viết: Ngày Mậu Ngọ, năm tháng thấy hỏa nhiều, thì lấy Ấn thụ luận; ngày Nhâm Tý,
tháng giờ thấy Tý nhiều, thì lấy Phi Thiên Lộc Mã luận; ngày Bính Ngọ thấy Ngọ nhiều,
cũng lấy Đảo xung Lộc Mã luận. Tự Nhận lại có 4 ngày: Quý Sửu, Đinh Sửu, Đinh Mùi, Kỷ
Mùi, vì tọa dƣới Tỉ kiên Dƣơng Nhận; Phi Nhận có 4 ngày: Bính Tý, Đinh Sửu, Mậu Tý, Kỷ
Sửu, vì lấy ở dƣới xung xuất Dƣơng Nhận, cùng Nhật Nhận ở trƣớc có hỉ kỵ giống nhau. Trụ
năm Dƣơng Nhận cùng trụ giờ Dƣơng Nhận là tối trọng, trụ năm là chủ phá bại tổ cơ, không
đƣợc sản nghiệp của cha mẹ, cả đời thi ân lại oán; trụ giờ thì chủ khắc vợ con, về già không
có kết quả, tứ trụ lại phùng, tai tật tay chân; trụ tháng hơi nhẹ, trụ ngày càng nhẹ hơn. Can chi
tháng ngày nhân mệnh mang Tài nhiều, nhật can suy nhƣợc, giờ mang Dƣơng Nhận, là vô
hại; tháng mang Thất Sát, giờ mang Dƣơng Nhận, nhật chủ có khí, đại quý; nhƣ tháng mang
Dƣơng Nhận, trụ giờ là lúc mang một chút Quan, lực không thể chế, cũng hung. Lại viết:
Nam mệnh kiến Bại Kiếp, lại kiến Thƣơng quan, tất khắc vợ con, nữ mệnh khắc phu.
Phú nói: Bại tài là Tỉ kiên tinh, thần cƣớp đoạt, Tài đa thân nhƣợc, thấy là tốt, Tài nhƣợc
thân vƣợng, thấy là họa, có Tài gặp Kiếp, vận nhập Tài hƣơng, tự có thể thành gia, không có
Tài gặp Kiếp, dàu không có năm Tài, cũng là kiến phá, vốn có Kiếp lại gặp Kiếp vận, thủ
đƣờng cùng thê thảm, thân vƣợng lại thêm Ấn trợ, tất vinh hoa mà phát phúc.
《 Tâm tướng phú 》 nói: "Kiếp tài Dƣơng Nhận, rời tổ thành gia, bên ngoài khiêm hòa
thƣợng nghĩa, trong nội ngu độc vô tri, có ý cƣớp khắc, không có tâm từ thiện."
《 Tâm Cảnh 》 nói: "Dƣơng Nhận trùng trùng lại kiến Sát, đại quý, đăng khoa giáp."
《 Thiên Lý Mã 》 nói: "Dương Nhận có Thiên Quan chế, ứng chức nắm giữ binh quyền."
Lại nói: "Nam phùng Dƣơng Nhận, thân nhƣợc gặp là tối kỳ." Lại nói: "Dƣơng Nhận Thất
sát, xuất sĩ thành danh." Lại nói: "Dƣơng Nhận nhập Quan Sát, uy trấn biên cƣơng."
《 Ngọc Hạp phú 》 nói: "Hỏa kim Dƣơng Nhận, Lục Châu rơi chết từ lầu cao" . Lại nói:
"Dương Nhận trùng trùng 3,4, tất phải hoạn tật đui điếc."
《 Kinh Thần phú 》 nói: "Đầy bàn Dương Nhận, tất định phân thây."
《 Định Chân thiên 》 nói: "Dương Nhận nếu phùng Ấn thụ, dẫu có giàu thì cũng tàn tật ở
thân."
《 Tạo Vi luận 》 nói: "Dương Nhận phùng ở ngũ hành, định phải trọng phạm tù tội."
Tôi thấy phạm Dƣơng Nhận sát đa số là mù loà, nhƣ: Quý Dậu, Mậu Ngọ, Mậu Dần, Quý
166 | Tam mệnh thông hội

Sửu; Bính Dần, Canh Dần, Bính Ngọ, Ất Mùi; Đinh Mão, Quý Mão, Giáp Tý, Ất Hợi, 3
mệnh này đều bị mù loà.
16-04-16, 14:11
lesoi
Cổ ca viết:
Giờ phùng Dương Nhận hỉ Thiên Quan,
Nếu thấy Tài Tinh họa bách đoan,
Tuế vận tương xung cùng tương hợp,
Đột nhiên hưng họa đến cửa nhà.
Lại nói:
Dương Nhận trọng phùng hợp có thương,
Chủ nhân tâm tính khí cao cường,
Hình xung thái trọng đa hung ách,
Có chế mới có ôm cát xương.
Lại nói:
Nhận phùng Thất Sát mộ đất Quan,
Chỉ sợ hình xung lộc không hưng,
Hội hợp lại phùng Tài vượng vận,
Dự phòng tai họa đến tai ương.
Lại nói:
Tỉ kiên Dương Nhận cách phi thường,
Phải thấy Quan tinh cùng đất Sát,
Nguyên thần nếu không Quan Sát chế,
Tái hành Tỉ kiếp họa khó đương.
Lại nói:
Tài tinh khinh nhược Nhận cương cường,
Ở đất thân vượng rất kkho6ng cát,
Phượng Quả Loan Cô đêm thanh oán,
Đợi nghe khắc vợ hai ba song.
Lại nói:
Nhận phùng đất vận Thất Sát Quan,
Phá hại hình xung quý dị thường,
Thiết kỵ hợp phùng Tài vượng địa,
Tất gặp tai họa phản hình thương.
Lại nói:
Nhật Nhận vẫn giống như Dương Nhận,
Quan tinh Thất Sát hỉ gặp đây,
Tuế Quân nếu cũng không khắc Nhận,
Trên chi xung hình lập vũ công.
Lại nói:
Dương Nhận thường cư ở trước Lộc,
Tính cương quả quyết ít nhân từ,
Không nên hội hợp phòng tai đến,
Nếu thấy Tài tinh họa tất triền;
Có Quan có Sát danh hiển đạt,
Không xung không phá lộc vinh thiên,
Lại thêm hình hại Khôi Cương hợp,
Phát tích biên cương nắm rọng quyền.

Nhƣ mệnh: Nhâm Thân, Nhâm Tý, Mậu Ngọ, Ất Mão, là tự tọa Dƣơng Nhận, 2 Nhâm Thân
167 | Tam mệnh thông hội

Tý, Tài vƣợng mà còn nhiều, Tý Ngọ tuy xung, Thân Tý hội Ngọ không thể xung, giờ có
Quan chế phục Dƣơng Nhận, chỉ lấy Tài Quan cách mà xem, cho nên đại quý. Lại nhƣ mệnh:
Bính Tuất, Quý Tị, Mậu Ngọ, Đinh Tị, Mậu quy lộc ở Tị, Ngọ tuy là Dƣơng Nhận, sở dĩ
nhận lộc, là vì có Ấn thụ hóa Nhận, cho nên quý.
16-04-16, 14:14
lesoi
Luận Kiến Lộc

(Chỗ này cùng ở trước luận Lộc đồng tham khảo)

Kiến Lộc, là ngày Giáp tháng Dần, ngày Ất tháng Mão, ngũ hành ở vị trí lâm quan vậy. Giáp
dụng kim là Quan, kim tuyệt ở Dần, dụng thổ là Tài, thổ bệnh ở Dần, lấy thân vƣợng thái
quá, Tài Quan đều không đƣợc, nếu chỗ khác không có Tài Quan để thủ, lại gặp Kiếp đoạt,
Mã đã không phù, Lộc lại cũng không dƣỡng, đa số chủ bần tiện, khá thích hợp giờ mang
Thiên Quan, Thiên Tài hoặc Thực thần, lại xem trên năm giờ lộ ra là thủ dụng, nếu hơi thấy
Tài Quan, trái lại là tranh đoạt không cát. Phàm mệnh có Nguyệt lệnh Kiến Lộc, khó đƣợc tổ
nghiệp, tất chủ cả đời thấy tài không tụ, nhƣng ít bệnh thọ lâu, hành vận lại thấy Tỉ kiên, là
khắc vợ hại cha tổn thƣơng con, hoặc qgặp uan phi phá tài, hoặc vì vợ cùng nô tài bạch tranh
đoạt. Nhƣ trong ngoài bát tự vốn có Tài Quan, dẫn về đất vƣợng đắc địa, Quan tinh có trợ,
vận lâm Quan tinh đất có khí, cũng quý; Tài tinh có trợ, vận lâm đất Tài vƣợng, cũng phú;
Tài Quan đều vƣợng, là mệnh phú quý. Nếu gặp giờ Tài khố, vận đến đất Tài, tất chủ về già
đại phú. Trụ năm có Tài Quan trợ, tất hƣởng tổ ấm. Nếu tứ trụ vốn không có Tài Quan, dù
vận hành đất Tài Quan, cũng chỉ là hƣ hoa mà thôi. Mệnh không có Tài Quan, tuế vận lại
hành Tỉ kiên, cả đời bần khốn.
Phú nói: Căn ở trước mầm, quả ở sau hoa. Là nói trƣớc có căn sau đó mầm sinh trƣởng, có
hoa sau đó mới kết quả. Nếu trụ năm lúc sinh ra không có Tài Quan, dù gặp vận Tài Quan là
cát, phát phúc không lớn. Giả sử nhƣ ngày Giáp tháng Dần, trong trụ có chữ Ất Mão Mùi
nhiều, chủ không có tổ tài, khắc vợ, cả đời cô bần, làm việc hƣ trá, dáng dấp ra vẻ ngƣời lớn.
Ngày Ất sinh tháng Mão, trụ có các chữ Canh Tân Tị Dậu Sửu Thân cùng Mậu Kỷ Tị Ngọ
Thìn Tuất, Tài Quan nhiều thì quý, Nhâm Quý Thân Tý Thìn Hợi phù thủy Ấn thành cục
cũng tốt, vận là phùng càng tốt, nếu trụ không thấy Tài Quan Ấn Thực, đoán nhƣ trƣớc vậy.
Bính sinh tháng Tị, can chi năm giờ có thủy kim thành cục, vận trải qua đất Tài Quan vƣợng,
cũng chủ phú quý. Đinh sinh tháng Ngọ, kim bại thủy tuyệt, Tài Quan đều nghịch, thuận vận
thì khắc vợ, nghịch vận thì khắc 3 vợ, nếu trụ có Tị Dậu Sửu Canh Tân Nhâm Quý Hợi Thân
Tý Thìn, vận lâm đất Tài Quan vƣợng cũng phát, dụng Sát hoặc Ấn, lấy nhiều là quý, nếu chỉ
Kiến Lộc, cũng đoán giống nhƣ trên. Ngày Mậu tháng Tị, năm ngày giờ không có thủy, chủ
khắc vợ, không có tổ nghiệp, con nhiều nhƣng không ra gì, trong trụ có nhiều Quan thì cát,
nhƣ thấy Thiên Quan, chủ tôn quý, năm tháng nếu nhƣ hỏa nhiều hoặc cùng Ấn thụ, tuy
không có Tài Quan, chủ cát, nếu bên trong trụ ẩn hiện Nhâm Quý Hợi Thân Tý Thìn thủy
cục, con chậm chị có 1,2, có Giáp Dần Ất Mão Hợi Mùi mộc cục, vận đến đất Tài Quan
vƣợng cũng phát. Kỷ sinh tháng Ngọ, lấy Nhâm thủy là Tài, tháng 5 thủy tù, chủ không có tổ
nghiệp, khắc vợ, con cũng không nhiều, năm giờ thấu ra Dần Giáp là Chính Quan, tháng 5
Giáp tử, Quan tất bé nhỏ, hỉ kiến Hợi Mão Mùi Ất, thân vƣợng kiến Quan Sát là tốt, Thiên
Tài cũng hay. Ngày Canh tháng Thân, sinh ở thƣợng tuần, gần mộc dƣ khí, cũng khó có tổ
tài, tuy tiết khí lâm đất thủy tuyệt, ở trên có 3,4 phần khố Tài là phúc, vận đến Bính Tuất, hết
tài vậy, nếu năm ngày giờ mang nhiều Tài, xem là mệnh tốt, kiến Bính Đinh Tị Ngọ Dần
Tuất hỏa cục thì có Quan, lấy Sát hóa Quan vậy, Quan nhỏ cũng không thanh hiển, sợ Nhâm
Quý Hợi Tý, khắc Quan không thành. Ngày Tân tháng Dậu, không có tổ tài, trong trụ thấy
nhiều phân đoạt, cô bần không vợ, hoặc khắc vợ không có tài, nếu mang mộc hỏa sinh
vƣợng, lại lấy phú quý, nguyên không có Tài Quan, lại hành Sinh địa, kiếp họa càng nặng,
168 | Tam mệnh thông hội

hoặc thấy Tân Dậu thì là Chuyên Lộc, lại có Tài Quan Ấn Thực thần tuế vận lại gặp càng tốt,
nghịch vận nam phƣơng thì cát, thuận vận bắc phƣơng, bách sự không thành, nếu ngày Tân
Mão, Tân Mùi là thân tự tọa Tài, có thể có y lộc, ngày Tân Tị có Quý, quan lộc cũng nhẹ.
Ngày Nhâm tháng Hợi, ngày Quý tháng Tý, đều không có tổ nghiệp, trong trụ thấy nhiều hỏa
thổ, chủ có liên quan tự thành lập, nhƣ thấy thủy nhiều phiếm lạm, không thành, khắc vợ, bần
bạc.
16-04-16, 14:15
lesoi
Lại viết: Ngày Giáp tháng Dần thích hợp lúc trẻ đảm nhận, ngày Ất tháng Mão thích hợp giờ
Tân Tị, ngày Bính tháng Tị thích hợp giờ Kỷ Hợi, ngày Đinh tháng Ngọ thích hợp giờ Canh
Tý, ngày Mậu tháng Tị hợp giờ Giáp Dần, ngày Kỷ tháng Ngọ hợp giờ Ất Sửu, ngày Canh
tháng Thân hợp giờ Bính Tuất, ngày Tân tháng Dậu hợp giờ Đinh Dậu, ngày Nhâm tháng
Hợi hợp giờ Mậu Thân, ngày Quý tháng Tý hợp giờ Kỷ Mùi. Là thấy Sát thủ quý, nhƣng
cũng không thể quá nhiều, tuế vận lại phùng Sát địa, chủ yểu chiết. Nhƣ mệnh: Năm Nhâm
Thân, mất lộc, tuế vận xung mà còn hội Thƣơng Quan Sát vậy, Kiến Lộc dụng Tài Quan,
thƣơng khử Bính hỏa, cho nên yểu. 《 Độc Bộ 》 nói: "Nguyệt lệnh Kiến Lộc, phần đa không
có tổ ốc, một khi thấy Tài Quan, tự nhiên thành phúc." Lại nói: "Kiến Lộc sinh đề nguyệt, Tài
Quan hỉ thấu thiên, không nên thân tái vượng, duy hỉ Mậu Tài nguyên."

《 Minh Thông phú 》 nói: "Kiến Lộc, tọa Lộc hoặc cư Lộc, đơn độc gặp Tài Quan Ấn thụ,
phú quý lâu bền."
Hợp các thuyết lại, Tử Bình luận Kiến Lộc đều cùng cổ nhân luận Lộc, thủ dụng khác xa
không giống vậy. Tôi căn cứ theo Dƣơng Nhận, Tỉ kiên, Bại tài, Kiến Lộc, danh tuy khác
nhau, thực ra cũng giống nhƣ cùng một nhà, ở địa chi viết Nhận, viết Lộc, ở thiên can viết Tỉ,
viết Kiếp, thủ dụng khá là giống nhau, cho nên lấy Kiến Lộc kế sau Dƣơng Nhận, Kiến Lộc
cũ là không có cách, cũng chỉ thủ lấy chi tháng, không có thể thủ cách, còn thiên can nếu có
Tài Quan quý khí, cho nên thủ Kiến Lộc nhƣ Tỉ Kiếp, đặc biệt phát minh ra ý nghĩa mà thôi.

(Hết quyển 6)

lesoi

Quyển 7:
Quyển 7:

Luận tính tình, tướng mạo

Nói đến quý tiện đều xem ở bát tự, tính tình ứng ở ngũ hành. Thiện, ác, nhân, nghĩa, lễ, trí,
tín, chủ ở tâm; hỉ, nộ, ai, nhạc, ái, ác, dục, chỗ sinh ra tính tình.
Mộc: Thuộc cung Chấn Đông phƣơng, viết là Thanh Long, danh là Khúc Trực, ngũ thƣờng là
chủ về Nhân. Màu sắc là xanh, mùi vị là chua, tính cách chính trực, tình cảm hài hòa.
- Vượng tướng: chủ có lòng bác ái, tâm hay thành khẩn kín đáo, ý nghĩ hiền lành, vui vẽ dễ
dàng; hay cứu vật làm lợi cho ngƣời, hay giúp đỡ ngƣời cô độc, suy nghĩ hẹp hòi, chính trực,
giản dị, thanh cao, hay dấu hình dạng, hào hiệp, rộng rãi; phong thái, tƣ cách xinh đẹp, cốt
cách thon dài, tay chân nhỏ bé, trơn nhẵn, miệnh nhọn, phát ra duyên dáng, sắc mặt trẻ trung,
lời nói hiên ngang, chỗ này thì mộc thịnh mà nhiều nhân nghĩa.
- Hưu tù: thì chủ về gầy, tóc ít dài, tính cách cố chấp, không công bằng, hay đố kị, không
nhân đức, chỗ này thì là mộc suy, tính tình ít nhân nghĩa vậy.
- Tử tuyệt: thì mặt mũi không nhân từ, keo kiệt, bủn xỉn, thô tục, cơ thể xấu xí, cổ sau dài, cổ
họng kết trái, đứng ngồi không yên, bản thân nhiều lời thiên lệch. Gặp hỏa vẻ mặt hiện ra
169 | Tam mệnh thông hội

màu đỏ, thấy thổ thì sắc mặt mang màu vàng, gặp kim thì sắc mặt mang màu trắng, gặp thủy
thì sắc mặt mang màu đen. Còn lại bốn hành theo quy tắc trên.

Hỏa: thuộc Nam phƣơng, tên là Viêm Thƣợng, ngũ thƣờng là chủ về Lễ. Màu sắc là đỏ, mùi
vị đắng, tính hay nóng vội, tính cách hay cung kính.
- Vƣợng tƣớng: chủ có tâm tính hay khéo chối từ, nhân nhƣợng làm cho phong cách cẩn thận,
dè dặt, ý nghĩa nhƣ cung kính, khiêm hòa; uy nghi lẫm liệt, giản dị, hay tôn sùng; diện mạo ở
trên thì nhọn, ở dƣới thì phình ra, hình thể thì đầu nhỏ chân dài, ấn đƣờng ( phần giữa hai
lông mày) hẹp mà lông mày dày, mũi chính lộ ra mà tai nhỏ; tinh thần sôi nổi, nhanh nhẹn,
lời nói nóng nảy, tính thô mà không độc, thông minh là có.
- Thái quá: thì âm thanh xé gió, mặt đỏ, đầu gối hay lay động, hiếu động.

- Bất cập: thì gầy còm, đồi trụy, giọng the thé, giảo quyệt, lừa đảo, đố kị, hiểm độc, lời nói
ngông cuồng, không thực tế, có thủy mà không có chung.
Thổ: thuộc Trung Ƣơng, tên là Giá Sắc, ngũ thƣờng là chủ về Tín, màu sắc là vàng, mùi vị là
ngọt, tính cách hay xem trọng, tính tình phúc hậu.
- Vƣợng tƣớng: chủ lời nói đi đôi với việc làm, thành thật, trung hiếu, thích kính cẩn Thần
Phật, không thích lừa gạt, bội tín; hay bảo thủ, tƣ tƣởng viễn vông, lƣng chừng, hay sơ suất,
mũi miệng to lớn, mi thanh mày tú, mặt béo phì, màu vàng; tính hay độ lƣợng khoan hậu, xử
sự có cách.
- Thái quá: thì hay chấp nhất, phong cách thì chất phác, ngu xuẩn, vụng về, không rõ ràng.
- Bất cập: thì nhan sắc ƣu sầu, trì trệ, chậm chạp, mặt lệch, mũi thấp, giọng nói nặng đục, lý
sự không có thông, ngu muội, tàn độc, tính tình quái gở, không đƣợc tình cảm của số đông,
điên đảo, mất tín, biến thành kẻ hay làm điều xằng bậy, bủn xỉn, keo kiệt.
16-04-16, 14:19
lesoi
Kim: thuộc Tây phƣơng, tên là Tòng Cách, ngũ thƣờng là chủ về Nghĩa. Màu sắc trắng, mùi
vị là cay, tính thì cƣơng trực, tình cảm thì mãnh liệt.
- Vƣợng tƣớng: thì anh dũng hào kiệt, trƣợng nghĩa khinh tài, biết liêm sỉ, biết xấu hổ và căm
giận, hung ác; thích hợp với cốt nhục, thể chất mạnh mẽ, thần thanh, mặt vuông, thuần trắng,
mày cao, mắt sâu, mũi thẳng, tai hồng, thanh âm rõ ràng, to tiếng, cƣơng nghị mà quả quyết.
- Thái quá: thì hữu dũng mà vô mƣu, tham lam dục vọng, không có tình.
- Bất cập: thì biển lận, tham lam khốc liệt, nhiều chuyện, giảm nhớ. Có suy tính cẩn thận,
thiếu quyết đoán, ít kiềm chế, bên trong thì ác độc, thích dâm dục, háo sát, vóc ngƣời gầy
nhỏ.

Thủy: Thuộc Bắc phƣơng, tên là Nhuận Hạ, ngũ thƣờng là chủ về Trí, màu sắc đen, mùi vị là
mặn, tính chất thông minh, tình cảm thì lƣơng thiện.
- Vƣợng tƣớng: thì cơ mƣu sâu sắc, túc trí đa mƣu, học thức hơn ngƣời, giảo quyệt không có
giới hạn; sắc mặt đen quang thải, lời nói rõ ràng, hòa thuận.
-Thái quá: thì là không hiếu động, sống lang thang, trôi nổi, tham lam dâm dục.
- Bất cập: thì là ngƣời thấp bé, hành động thất thƣờng, tình tính bất thƣờng, nhát gan, không
có mƣu lƣợc.
Chỗ này tuy lấy ngũ hành làm ví dụ, quan hệ con ngƣời liên quan cùng với thực tế mà ứng
dụng. Lấy ở trên ngũ hành, tình tính lấy mệnh xem thêm bên trong chỗ gặp cát hung, cùng
thần sát mà đoán, nói chung sinh vƣợng thì chủ là cao lớn, tử tuyệt thì chủ là thấp lùn. Nếu có
Sát lâm, chỗ này không có giới hạn ở đây, lại tòng Sát đoán trƣớc. Nếu có khắc, thì chỗ tòng
khắc chi ngũ hành đoạn, hựu khái thủ nhật thì, thƣợng nạp âm, khán hữu khắc vô khắc, cùng
Thần Sát chỗ nơi có khí hay vô khí, đóan hình trạng, tính tình, không phải là không ứng
nghiệm.
170 | Tam mệnh thông hội

16-04-16, 14:19
lesoi
Lại nói: Tính ngƣời suy ra chỉ có ở can ngày giờ, xem gốc ngũ hành, không luận theo nạp âm.
- Nếu Mệnh nhập cách mà gặp sinh vƣợng, chủ thiên tính rõ ràng, gặp vật không nghịch,
động thì nhất định chân tính, lời nói thanh cao, lời nói bỗng nhiên độ lƣợng, lâm sự thì có khả
năng quyết đoán, công bằnh là không nghi ngờ, gặp khó khăn không sợ, cả đời không lấy tài
vật làm bỉ lận, thích làm ơn cùng không ích kỷ, không xa xỉ, ham chơi, nhiều tình thƣợng
nghĩa, có đề phòng không tốt tai họa về sau.
- Nếu mệnh nhập quý cách mà gặp tử tuyệt thì chủ là tính tình ít hợp, mƣu cơ sâu mà ý nghĩ
bí mật, đa nghi đa kỵ, cử động khách sáo, nhìn cẩn thận mà đi, chải chuốt trang điểm dung
mạo, bản thân thƣờng tự kiểm tra quy ƣớc, không dự tính ngông cuồng, hay đề phòng âm
mƣu gây ra tai họa.
- Nếu mệnh kẻ tiểu nhân lấy nhập tiện cục mà gặp sinh vƣợng thì chủ tính tình không bình
thƣờng, không tự kiểm tra quản thúc, thành sự việc không để ý đến nguy vong, thích đấu
tranh, dùng mạnh hiếp yếu, thân cận với bè đảng hung ác, không có gia nghiệp, nhất định là
từ đầu đến cuối không gặp thiện; gặp tử tuyệt thì có tính dâm tà, hành động nhất định là xảo
ngụy, gàn bƣớng nhƣ súc vật, hành động hay trang sức, chuyên dùng lời nói ngọt ngào, bản
thân thích thƣơng hại, khoe khoang, lâm sự thì không có quyết đoán, nhiều việc làm không
phải, bản thân không có sinh tồn.

《Tế công yếu quyết 》nói: Chí cao thì suy tính xa, nguyên nhân là do nơi thủy có gốc sâu;
một lòng tin tƣởng là ngƣời có tín có nhân nghĩa, chỉ vì thổ thành núi cao; nhân từ, phúc hậu
là do mộc thành phƣơng Giáp Ất; tính nhanh phân biệt rõ ràng là do hỏa ứng với vị trí Bính
Đinh; danh dự cao mà nghĩa trọng, nguyên nhân là do kim quy về hợp với xứ Canh Tân. Nội
tâm chính trực không thay đổi, hoặc thịnh hoặc suy, mà tính tình biến đổi. Thủy thừa suy bại,
tính tình mê muội mà bất chấp đạo lý; thổ lực rất nhỏ, đầy cố chấp ít dụng; mộc quy về đất
không thuận lợi là do quá nhu mà sự việc trì trệ không quy về; hỏa số chƣa hƣng thịnh là do ít
phân rõ mà gặp tổn thƣơng nhiều, không có quyết đoán; kim nắm mỏng manh, tuy có nghĩa
mà có thủy không có chung. Vốn là do ngũ hành đắc địa hay thất địa, thái quá hay bất cập,
đều có thể thành hung vậy.

《Hồ Trung Tử 》nói: Lời nói giảo hoạt, là do mùa sinh có hợp lại gặp Lục Hƣ, Lục Hƣ có
ở Mạn Ngữ Thần, phàm ngƣời gặp thì tâm thích biên soạn, trang sức, xem trọng văn chƣơng
phù phiếm; gặp thì nhất định là xảo quyệt, đạo đức giả, cả đời chỉ gây trở ngại, kềm chế
ngƣời thân, phiêu lƣu nơi đất khách quê ngƣời, giả bộ bận rộn, thùng rỗng mà kêu to.
17-04-16, 07:59
lesoi
Luận biết trước tật bệnh, chỗ can chi thuộc ngũ tạng lục phủ.

Ca quyết:
Giáp mật Ất gan Bính ruột non,
Đinh tim Mậu bao tử Kỷ tì;
Canh là ruột già Tân là phổi,
Nhâm bàng quang mà Quý chứa thận;
Tam tiêu (*) cũng hƣớng Nhâm để gửi,
Bao túi đồng về nhập Quý hƣơng.
(*) Tam tiêu:cách gọi của Đông Y, thƣợng tiêu là lƣỡi, thực quản, tim phổi; trung tiêu là dạ
dày; hạ tiêu là ruột non, ruột già, thận và bàng quang.
Lại nói:
171 | Tam mệnh thông hội

Giáp đầu Ất đỉnh Bính vai cầu,


Đinh tim Mậu sườn Kỷ thuộc bụng;
Canh là vòng rốn Tân là cổ,
Nhâm cẳng Quý chân từ một thân.
Lại nói:
Tý thuộc bàng quang, tai thủy đạo,
Sửu là ruột, bụng cùng lá lách;
Dần mật phát mạch cùng hai tay,
Mão vốn mười ngón, gan trong chỗ;
Thìn thổ là da, vai, ngực loại,
Tị Mặt, cổ họng , răng , hậu môn;
Ngọ hỏa tinh thần là tai, mắt,
Mùi thổ dạ dày, cổ tay cùng sống lưng;
Thân kim ruột già kinh lạc phổi,
Dậu là tinh huyết ẩn ruột non;
Tuất thổ mệnh môn, chân, mắt cá,
Hợi thủy là đầu cùng quả Thận;
Nếu dựa phép này suy ngƣời bệnh,
Kỳ Bá, Lôi Công cũng truyền lan.
Lại nói:
Ngọ đầu Tị dạ dày cùng hai vai,
Phải trái cánh tay là Thìn Thân;
Mão Dậu hai sườn Dần Tuất cẳng,
Sửu Hợi thuộc chân Tý là âm.
Lại nói:
Càn đầu Khôn bụng Khảm tai đồng,
Chấn chân Tốn cổ Cấn là tay;
Đoài miệng Ly mắt phân bát quái,
Phàm xem tật bệnh nay suy cầu.
17-04-16, 08:01
lesoi
Nói đến tật bệnh đều do ở ngũ hành không trung hòa, tức là do ngũ tạng thân thể không trung
hòa vậy. Cái ngũ hành thông ở Ngũ tạng (tâm, can, tì, phế, thận), Lục phủ thông ở Cửu khiếu
( 9 lỗ ), phàm thập can chịu bệnh thuộc lục phủ (dạ dày, tai, mật, tam tiêu, bàng quang, ruột
già, ruột non), thập nhị chi chịu bệnh thuộc ngũ tạng.
Bính Đinh Kỷ Ngọ hỏa cục thuộc phƣơng Nam Ly, chủ bệnh ở phần trên; Nhâm Quý Hợi Tý
thủy cục thuộc phƣơng Bắc Khảm, chủ bệnh ở phần dƣới; Giáp Ất Dần Mão thuộc phƣơng
Đông Chấn, chủ bệnh ở bên trái; Canh Tân Thân Dậu thuộc Đoài phƣơng Tây, chủ bệnh ở
bên phải; Mậu Kỷ Thìn Tuất Sửu Mùi thuộc Khôn Cấn, chủ bệnh ở tỳ vị cùng trung quản.
Trúng gió chóng mặt lắc lƣ, say sẫm, ánh mắt tối sầm, huyết không phân phối đều, thiếu niên
lên đƣờng xuống tóc, thanh niên cơ bắp, quả dƣa khô gầy, thuộc gan là nhà của Giáp Ất Dần
Mão mộc chịu giảm bớt là nguyên nhân gây bệnh vậy; nhiều máu mủ lở loét nhiều ghẻ lở,
lƣỡi đắng, cổ khan, câm giọng thuộc tim nhà của Bính Đinh Tị Ngọ Hỏa chịu giảm bớt là
nguyên nhân chủ bệnh vậy; phù thũng, chân bệnh, vàng thũng, miệng thúi, dạ dày buồn nôn,
bệnh sốt rét, thuộc tỳ gia đình của Mậu Kỷ Thìn Tuất Sửu Mùi thổ chịu giảm bớt là nguyên
nhân gây ra chủ bệnh vậy; Mũi nghẹt rƣợu khô, tiếng nói trục trặc bực bội, phát cáu, ho khan,
thuộc phế là gia đình của Canh Tân Thân Dậu chịu giảm bớt là nguyên nhân chủ bệnh vậy;
nƣớc tiểu đục mang màu trắng, thổ tả, tả lỵ, chứng sa ruột non, thuộc thận là gia đình của
Nhâm Quý Hợi Tý chịu giảm bớt là nguyên nhân chủ bệnh vậy.
Giáp Ất thấy Canh Tân Thân Dậu nhiều, bên trong chủ động đến gan mật, bệnh lao, tay chân
172 | Tam mệnh thông hội

ngu đần tê dại, gân cốt đau đớn; bên ngoài chủ đầu mắt choáng váng, mắt miệng méo vẹo,
trái tê phải liệt, chồng chất bổ nhào tổn thƣơng. Gặp Bính Đinh hỏa nhiều không có thủy hỗ
trợ thì đàm suyễn lạc huyết, trúng phong bất tỉnh, da tay khô hanh, trong nóng miệng khô. Nữ
nhân chủ huyết khí không đủ điều phối, có thai thì sẩy thai. Trẻ em nóng giật kinh phong,
khóc đêm ho khan, sắc mặt xanh tối là vậy.
Bính Đinh thấy Nhâm Quý Hợi Tý nhiều thì bên trong chủ tim đau buốt, điên giản lƣỡi cao,
miệng đau, cổ họng khàn, nóng giật kinh phong, lời nói cà lăm; bên ngoài chủ nóng vả mồ
hôi phát cuồng, mắt mờ không sáng, mắc bệnh sa ruột non, ghẻ lở máu mủ, tiểu tiện nƣớc
đục. Phụ nữ chủ khô huyết khí kinh mạch không đều. Trẻ em chủ bệnh nổi đậu mùa, ghẻ lở,
sắc mặt đỏ hồng là vậy.
Mậu Kỷ thấy Giáp Ất Dần Mão nhiều, bên trong chủ tỳ vị không trung hòa, dạ dày buồn nôn,
không ăn, khó thở cổ chƣớng, tiêu chảy, vàng thủng, chọn lựa ăn uống, buồn nôn, nôn mửa;
bên ngoài chủ có tay phải nặng nề, thấp độc chảy vào, ngực bụng có khối u chặn lại. Phụ nữ
chủ không chịu ăn uống, nuốt đau, hƣ nhƣợc, thở dài mệt mỏi. Trẻ em chủ bệnh tích da vàng
mềm yếu, trong nóng, ngũ nhiều, sắc mặt vàng nhũn là vậy.
Canh Tân thấy Bính Đinh Tị Ngọ nhiều thì bên trong chủ ruột khô, bệnh trĩ, phân có máu,
đàm đỏ ho khan, khí suyễn thổ huyết, nhƣ gặp quỷ mất hồn, ƣu phiền, táo bón; bên ngoài chủ
da tay khô hanh, phổi khô mũi đỏ, mụn nhọt, phù thũng phát ra sau lƣng, máu mủ, không có
lực. Phụ nữ chủ ho đờm, máu huyết sản hậu. Trẻ em chủ máu mủ, bệnh kiết lỵ, sắc mặt trắng
vàng là vậy.
Nhâm Quý thấy Mậu kĩ Thìn Tuất Sửu Mùi nhiều thì bên trong chủ di tinh, ra mồ hôi trộm,
đêm nằm mơ thấy ma quỷ, huyết đục hƣ tổn, rùng mình, nghiến răng, mắt mờ tai điếc, cảm
mạo thƣơng hàn; bên ngoài chủ trúng gió, đau răng, sa tinh hoàn, thắt lƣng đầu gối đau nhức,
thổ tả, sợ lạnh, ghét hàn. Nữ nhân chủ bệnh huyết trắng, thai quỷ, kinh mạch không đều. Trẻ
em chủ trong tai lở loét, ruột non đau đớn, ban đêm hay quấy phá, sắc mặt vàng đen là vậy.
17-04-16, 08:02
lesoi
Phú nói: Gân cốt đau nhức, bởi vì mộc bị kim thƣơng; mắt bị mờ mê muội, nhất định là gặp
hỏa thủy khắc nhau; thổ hƣ gặp đất mộc vƣợng, tỳ tổn thƣơng mà luận; kim nhƣ gặp đất hỏa
viêm thì bệnh máu huyết không tốt.
Lại nói: Mộc gặp kim khắc, xác định chủ gặp tai ƣơng ở thắt lƣng, xƣơng sƣờn; hỏa bị thủy
gây tổn thƣơng, nhất định chủ bị tật ở mắt; tim phổi thở gấp, lại can có kim hỏa tƣơng hình;
tỳ vị tổn thƣơng, là do thổ thủy khắc chiến. Chi thủy can đầu có gặp hỏa, nhất định bụng đau
mà tâm buồn; Chi hỏa can đầu có thủy gặp thì bên trong con ngƣơi bị che mù. Viêm Thƣợng
lo buồn tam tiêu bốc lên chiếu sáng thổ thì đầu trọc mắt mờ; Nhuận Hạ thuần thấp không có
thổ chế, thì thận hƣ mà tai điếc; hỏa mê thừa vƣợng đến Ly Tốn, trúng gió mất tiếng; Thái
Bạch kiên cố lợi hợp ở Đoài Khôn, đƣợc tiến quân.
Lại nói: Tim thụ bệnh thì miệng không thể nói; Gan thụ bệnh thì mắt không thể nhìn; Tỳ thụ
bệnh thì miệng không thể ăn; Phổi thụ bệnh thì mũi không thể ngửi; Thận thụ bệnh thì tai
không thể nghe, đều từ ở nơi chủ, để chứng minh hƣ thực.
Ôi! Ngƣời bệnh quá nhiều, chỗ này lý lẽ là không có hai, nhìn, hỏi, nghe, thấy, tiếp xúc chính
là nhà y thần kỳ; sinh khắc chế hóa, là dấu hiệu không tin thuật sĩ, nhƣ có thể thì nghiên cứu
suy xét nguồn cội mà xét nghiệm, không rời khỏi phép này.
Luận ngữ nói: An khang, yên ổn sinh ở hòa hợp, tật bệnh bắt đầu từ hình thƣơng. Nghiên cứu
lý lẽ ngũ hành suy vƣợng, suy ra trăm bệnh rõ ràng trong ngoài,bên trong ứng với ngũ tạng,
bên ngoài thuộc tứ chi. Mà nhƣ khí mộc hƣu tù, hai bên tóc mai thƣa thớt mà không sản sinh;
hỏa đến tử tuyệt, hai con ngƣơi mờ tối mà không sáng; trong hỏa ẩn thổ thiếu thủy chế, thì
tâm thần hoảng hốt; mộc bên dƣới tàng kim không có thủy nhận thì chân cẳng bị tổn thƣơng.
Giáp Ất sinh Đoài gặp Nhâm Quý, say rƣợu quê hƣơng mà chết; Bính Đinh muốn Khảm gặp
Canh Tân, sông ngòi, bến cảng mà chết. Thủy thịnh mộc trôi, phần nhiều là sinh kiết lỵ; thổ
173 | Tam mệnh thông hội

trọng kim vùi, thƣờng là mắc bệnh nóng lạnh nhiều. Chỗ khô thì mắt mờ, do Ất mộc vƣợng
mà Tân kim suy; đau ngứa lở loét, do Đinh hỏa thịnh mà Quý thủy nhƣợc; khối u cứng bị
chặn lại làm cho bệnh phù thủng chỉ vì Kỷ thổ thái quá; tức giận, ấm ức làm bệnh liệt là do
Tân kim bất cập.
17-04-16, 08:03
lesoi
Giáp Ất có thể gây tổn thƣơng Mậu Kĩ, không có cứu mà thiếu thần; Bính Đinh hay khắc
Canh Tân, thiếu chế mà mất tiếng, khàn giọng. Trong hỏa có thổ, gáy sinh chứng bệnh tràng
nhạc (cổ có từng chùm nhọt như một tràng nhạc ngựa, có khi nó ăn lan cả xuống ngực xuống
nách nên cũng gọi là lịch quán ); trong thủy có thổ, bụng bệnh phù thũng. Dụng thần bị chế
mà bị hình, chết vì bổng trƣợng; trên dƣới gặp quỷ mà không có cứu, chết do trêo cổ xà nhà.
Tứ trụ xung nặng nhiều hung mà chết nơi quê ngƣời, ngũ hành suy bại bất túc mà bệnh
truyền nhiễm mất mạng. Thủy bại lƣng gù, không dùng phƣơng pháp hiên kỳ; kim hình là
con Rùa quay lƣng, là phƣơng thuyền nhỏ yên ổn mà làm con chó tốt. Canh Tân khí tú, Tây
phƣơng thấy mộc mà chết ở binh khí; Giáp Ất bại tuyệt, Khôn phƣơng Nam không có thủy,
mà không còn cốt nhục; Tân Tị, Bính Thân gặp hình, cánh tay hƣ nhƣợc mà ngƣời có 6 ngón;
Kỷ Mão, Mậu Dần gặp địch, dạ dày kém mà thƣờng bệnh mụn nhọt lở loét; Ất Mùi, Giáp
Ngọ gặp kim, nhiều ngƣời có đầu con Ba Ba; Quý Mão, Kĩ Sửu tƣơng hình, mắc bệnh phát
sinh ở thắt lƣng, đầu gối; Giáp Thân, Ất Dậu, niên thiếu nhiều bệnh gan; Tân Mão, Canh
Dần, về già lao động bị thƣơng gân cốt. Bính hỏa Viêm thƣợng, đàn ông thƣờng kỵ ở thể xác
và tinh thần; Đinh hỏa ở dƣới ẩm ƣớt, nữ nhân bệnh lao mà huyết bị sản hậu. Ngày giờ suy
bại, họa lớn khó chữa; can chi hình hại, bệnh nhỏ mà không chữa đƣợc. Khí hỗ trợ mà an
hòa, khí nghịch mà tai họa tận diệt. Bệnh chứng không rời ở Lục Mạch, sống chết đều ở nơi
ngũ hành, tƣờng tận nghiên cứu hƣng suy, vạn lần không mất một.
Cổ ca nói:
Mậu Kỷ sinh mùa khí không đủ,
Tháng giờ hai xứ thấy Thương Quan;
Tất lấy đầu mặt có hao tổn,
Máu mủ lở loét thiếu niên khổ.
Lại nói:
Bính Đinh nhật can ngũ hành suy,
Thất Sát gia tăng đến tam hợp,
Lên hợp nhật cầu áo cơm thiếu,
Tai điếc tàn tật mặt bụi trần.
Lại nói:
Nhâm Quý nặng trọng thay nhau xếp,
Trụ giờ nếu như thấy Thiên Tài;
Mặc dù đầu mặt không bệnh chốc,
Định chủ một thân họa mắt tai.
Lại nói:
Con người sinh ra là do thụ khí ở cha, thành hình ở mẹ. Ngũ tạng hòa bình thì không có
bệnh, khắc chiến, thái quá, bất cập, đều có bệnh.
《 Nội kinh 》nói:
Đông phương thực Tây phương hư,
Tả Nam phương Bổ Bắc Phương.
Đông phƣơng thực là mộc thái quá vậy; Tây phƣơng hƣ là kim bất cập vậy; Tả nam phƣơng
là hỏa thái quá vậy; Bổ bắc phƣơng là thủy bất cập vậy.
17-04-16, 08:04
lesoi
174 | Tam mệnh thông hội

Vốn là lấy ngũ hành thái quá bất cập, đều là chủ bệnh tật vậy. Nếu thủy thăng mà hỏa giáng,
hỏa giáng mà kim thanh, kim thanh mà mộc bình, mộc bình mà thổ bất cập khắc, ngũ tạng
đều đƣợc khí trung hòa, chỗ này tật bệnh ở đâu mà sinh ra ? 《 Âm dƣơng thƣ 》nói: Kim
cƣơng hỏa cƣờng, phƣơng tự hình, mộc rơi về gốc, thủy chảy hƣớng Đông. Cho nên luận tam
hình, hình thì tàn tật gây hại, nói thái quá mà thân bệnh tật vậy. Nếu chỉ có lấy bất cập là
bệnh tật, nhất định có lỗi thiên vị.
+ Phàm ngũ hành có tử tuyệt mà thành bệnh tật: Thủy tử tuyệt, đa số thận khí thì thắt lƣng bị
tấn công tập trung, cốt tiết ra liền bị chìm mất mà sinh bệnh bất lợi; Hỏa tử tuyệt, chủ đƣờng
ruột khí thắt kín, hồi hợp, dễ quên không nhớ, bệnh tinh thần bất an; Mộc tử tuyệt hƣ khô làm
cho mắt mờ mê muội, gân to, móng tay chân khô tụy, mừng giận điên đảo, bệnh chọn ăn
chọn uống; Kim tử tuyệt, chủ khí hƣ thở gấp, ho khan, bề ngoài cháy khô hà tiện, xƣơng
khớp đau nhức, nƣớc mắt chảy, ruột già bị kiết lỵ, bệnh tiểu ra máu; Thổ tử tuyệt, chủ mặt
vàng, giảm ăn, thân thế uể oải, lƣời nhác, thích nằm ngũ, lo sầu mà nhiều râu, tai điếc, thần
đụa hay quên không nhớ, bệnh ít thích hoạt động.
+ Lại có tương khắc mà thành bệnh tật: Kim Hỏa tƣơng khắc, sinh vƣợng thì phù thũng, lở
loét, tử tuyệt thì bệnh lao nôn ra máu; Thổ Mộc tƣơng khắc, sinh vƣợng thì chủ mệt mõi,
buồn bực, chóng mặt, tê dại, ruột non bị bệnh đau sƣng, tử tuyệt thì chủ ăn nôn, táo bón thành
cục, bệnh ung nhọt tích lũy không thông, hoặc chủ trúng phong; Kim Mộc tƣơng khắc, sinh
vƣợng thì chủ chân tay xƣơng cốt khớp từng đoạn không xong, bệnh về mắt, tử tuyệt thì chủ
khí hƣ tinh thoát, bệnh lao, bệnh tê liệt; Thủy Thổ tƣơng khắc, thì chủ lá lách ẩm ƣớt, tiêu
chảy, bị đầy đàm, bệnh ho khan.
+ Có tương sinh mà sinh bệnh tật: Hỏa Mộc tƣơng sinh, sinh vƣợng thì ở trên bị tắc nghẽn
ngăn chặn, mắt đỏ, đầu khô; tử tuyệt thì bệnh thƣơng hàn làm cuồng, bệnh buồn bực hỗn
loạn; Hỏa Thổ tƣơng sinh, sinh vƣợng thì không ăn; tử tuyệt thì môi khô đỏ hồng, nóng nhiệt
làm đại tiện không lợi; Kim Thủy tƣơng sinh, sinh vƣợng thì khí ngƣng, tử tuyệt thì cốt trong;
Thủy Mộc tƣơng sinh, sinh vƣợng thì dạ dày hƣ mà hay nôn mửa; tử tuyệt thì tinh bại, thì
bệnh thƣơng hàn dính với sốt rét; Kim Thổ tƣơng sinh, sinh vƣợng thì cơ thể trống rỗng,tử
tuyệt thì ruột kêu làm phồng da chân.
Phàm thủy thổ mộc tƣơng phùng ở nơi vô khí, chủ ruột bị sình, bệnh ói mửa; phàm kim thủy
hỏa tƣơng phùng ở đất vô khí, chủ bệnh kiết lỵ, kim chủ đại tràng, thủy hỏa gần là âm dƣơng
bất hòa vậy. Phàm thủy gặp thổ, phần đa chủ bệnh dạ dày hay ói mửa; thổ nhiều mà không có
thủy khí khai thông thì chủ bệnh điếc. Cái Thận thủy không lƣu thông thì dạ dày hay ói mửa,
khí bất lực thì là điếc vậy.
Lại nói:
Phàm luận tàn tật bệnh chứng, trước tiên luận nhật can, thứ đến xem nguyệt lệnh, nhưng sau
đó xem cả trụ năm và giờ, Thƣơng Quan chủ tàn tật, Sát trọng cũng không sai. Quẻ Càn ở
Hợi, Hợi là Thiên Môn, ngƣời sinh Lục Tân đƣợc ngày này, giờ này, đa số chủ là mù điếc.
Hợi thuộc Thận, Thận thông Tai, là do Bính hỏa gặp thủy khắc vậy; Tý vị trí ở Khảm cung,
Thƣơng Quan Sát trọng tƣơng hình, chủ bệnh ở hạ bộ; Dần cung Cấn thổ, chủ tỳ vị, có bệnh
ở sắc mặt vàng mà mềm; Thìn thuộc cung Chấn; chỗ này tháng có mang Thƣơng Quan, thiếu
niên chủ nhiều kinh tật, bởi vì Chấn là động vậy. Nhẹ thì chủ bệnh về kinh tỳ vị, nặng thì chủ
bệnh ở chân. Tị là cung Tốn, Thƣơng Quan Sát trọng, chủ phụ nữ huyết khí không đều, có
bệnh lao; Ngọ là Ly là mắt, Thƣơng Quan Sát trọng, chủ bệnh mất sáng, đầu khô; Thân thuộc
Khôn là nhiều âm, Thƣơng Quan Sát trọng, chủ bệnh về thắt lƣng, gân cốt, bàn chân; Thương
Quan thương tận là không luận ở chỗ này; Dậu là Đoài, thuộc bệnh răng miệng không còn.
Tuất là hỏa khố, chủ bệnh hạ huyết áp, trĩ lậu. Sửu Mùi Thƣơng Quan, cũng chủ tỳ vị.
Thƣơng Quan Sát vƣợng thì bệnh truyền nhiễm hàng năm, chủ dụng trên dƣới có khắc chiến,
ngũ hành không có cứu trợ, chủ thân thể không đủ, đầu mặt tàn thƣơng.
Lại nói:
Phàm tất cả các chư Sát cũng có bệnh tật: Kiếp Sát chủ ở tiểu tràng, lại chủ tai điếc, bệnh yết
175 | Tam mệnh thông hội

hầu; Quan Phù chủ bệnh ở thắt lƣng, bàn chân; Hàm Trì chủ bệnh tửu sắc, bệnh lao, máu mủ
lở loét, bệnh về tiểu tiện không thông; Chuế Háo chủ ám muội, hoặc bệnh khối u; Phi Liêm
tên Thiên Cổ, can chi vô khí, chủ không có mắt. Phàm Lộc thì dựa vào bệnh tham ăn mà
mang tật, cần phải mang theo Sát khắc thân mới đúng. Phàm mệnh thấy chân xung khí tán,
hoặc chân hình khí tán, là ngƣời nhiều bệnh tật tàn phế. Giáp Thìn, Giáp Tuất, Ất Sửu, Ất
Mùi, thổ mộc khắc tiết giao nhau, chủ bệnh tê liệt; Bính Thân, Đinh Dậu, kim hỏa khắc tiết
giao nhau, chủ bệnh gân huyết chỗ tổn thƣơng; Mậu Tý, Kỷ Hợi, thủy thổ khắc tiết giao
nhau, chủ bệnh về lá lách, dạ dày; Canh Dần, Tân Mão, kim mộc khắc tiết giao nhau, chủ
bệnh về gân cốt, ho lao.
Phàm muốn suy tật bệnh, tai ách, trƣớc tiên xem ba loại Lộc- Mệnh- Thân, đại tiểu vận nhƣ
thế nào? Nếu Tam mệnh vô khí, Lộc Mã bại tuyệt, nhƣng đƣợc Lộc Tài, mệnh Tài, vƣợng
tƣớng, cũng không đến nỗi chết. Nếu cha già bệnh thì suy ra mệnh con, nhƣ mệnh con gặp Cô
Thần, Quả Túc, Tang Môn, Điếu Khách cùng Bạch Y Sát lâm mệnh, thì cha nhất định có
bệnh mà không thể cứu vậy. Vợ chồng cũng theo chỗ này mà suy ra.
17-04-16, 08:12
lesoi
Luận Nữ mệnh

Có hỏi Phụ nữ lợi cái gì? Lợi ở Phu tinh. Phu lợi, phụ nữ tất lợi; Phu khốn, phụ nữ tất khốn.
Phụ nữ tòng phu, trƣớc xem Phu tinh để định xuất thân quý tiện, lại xem Tử tinh để xét lúc về
già vinh nhục. Quan Sát Tài đều đắc địa, là Phu lợi vậy; Thực thần đắc địa, là Tử lợi vậy.
Phu lợi, thì xuất thân phú quý, cả đời hƣởng phúc; Tử lợi, thì về già dƣỡng dầy, cáo phong
tán thƣởng. Nhƣng cũng có Vượng phu, là vì lấy Thực sinh Tài, Tài sinh Quan mà thôi. Trái
lại thì không. Nữ mệnh lấy khắc ta là chồng, ta sinh là con, đều cần đắc thời, nhận khí sinh
vƣợng. Nếu khí vƣợng chỉ tụ ở mùa, cũng có thể dụng Quan làm chồng, không nên thấy Sát;
Dụng Sát làm chồng, không nên thấy Quan, một vị mới tốt. Có hai vị Quan tinh, không lấy
Sát lẫn tạp, tứ trụ thuần Sát, không lấy Quan hỗn, đều là phụ nữ tốt. Lại thêm đƣợc bản thân
tự vƣợng càng tốt, nhƣng vƣợng không nên thái quá. Thực là Tử tức, dẫn đến giờ gặp vƣợng,
lại đƣợc Nhị Đức phù thân, chính là mệnh Phu quý Tử vinh. Không nên thân vƣợng, trùng
điệp ám tàng Phu thần cùng Thƣơng quan, Thất Sát, Khôi Cƣơng tƣơng hình, Dƣơng Nhận
thái trọng, có tình nhiều hợp, đều là không tốt. Tuế vận cũng vậy. Có xem bát pháp bát cách,
phải suy xét kĩ.

Thuần
Là thuần nhất vậy. Nhƣ Quan tinh thuần nhất, hoặc Sát tinh thuần nhất, có Tài có Ấn, không
gặp hình xung, là không hỗn tạp nhau vậy. Nhƣ Quý Tị, Mậu Ngọ, Tân Dậu, Bính Thân, bản
thân chuyên lộc, vƣợng không tòng hóa. Tân dụng Bính Quan làm Phu tinh, tháng 5 hỏa
vƣợng là phu khỏe. Bính dụng Quý là Quan, là tọa quý, kiến Mậu là Thực, cùng quy lộc ở Tị.
Tân kim sinh Quý thủy là con, dẫn nhập giờ Thân đất trƣờng sinh. Thiên can là Quý Mậu Tân
Bính, là Thủy Hỏa ký tế; địa chi Tị Ngọ Dậu Thân, củng giáp Tài khố, cho nên lấy chồng làm
quan, ăn lộc trời, là mệnh Phu vinh Tử quý.

Hòa
Hòa là điềm tĩnh vậy. Nhƣ thân nhu nhƣợc, chỉ có một vị Phu tinh, thần trụ không xung phá,
công kích, bẩm khí trung hòa, thì gọi là Hòa vậy. Nhƣ Nhâm Thìn, Tân Hợi, Kỷ Mão, Kỷ Tị,
Kỷ dụng Giáp làm chồng, Hợi là đất trƣờng sinh, là đƣợc thiên thời địa lợi; Giáp lấy Tân là
Quan, kim sinh ở Tị, Kỷ lấy kim là con, cũng sinh ở Tị, gọi là Phu hành Quan tinh, Tử đƣợc
trƣờng sinh, cho nên là Ích Phu vƣợng Tử. Tuy tự tọa Mão là Sát, trong Tị có Canh chế, luận
là Khử Sát lƣu Quan, nữ quý mệnh vậy.
176 | Tam mệnh thông hội

Thanh
Thanh gọi là sạch sẽ. Nữ mệnh có một Quan hoặc một Sát, không hỗn tạp nhau, gọi là Thanh.
Phu tinh phải đắc thời, trụ có Tài sinh Quan, có Ấn trợ thân, không có một chút khí hỗn trọc,
mới là thanh quý. Nhƣ Kỷ Mùi, Nhâm Thân, Ất Mùi, Giáp Thân, Ất lấy Canh là chồng,
Canh lộc đến Thân; lấy Đinh là con, Đinh vƣợng ở Mùi; lấy Nhâm là Ấn, Nhâm sinh ở Thân.
Lại tọa dƣới Mùi là Tài của Ất mộc, Tài vƣợng thì có thể sinh Quan, tứ trụ không có hình
xung phá bại. Kinh nói: Tài Quan Ấn thụ tam bàn vật, nữ mệnh nếu gặp tất vượng phu.

Quý
Quý, hiệu là tôn vinh. Trong mệnh có Quan tinh, đƣợc Tài khí lấy tƣơng sinh, là Tam Kỳ đắc
tông, tứ trụ không có Quỷ bệnh, chính là nữ mệnh Nghiêu Thuấn vậy. Kinh nói: Mệnh nữ
nhân không có Sát, nhất quý có thể lấy ngƣời tốt. Lại nói: Nữ mệnh không có Sát phùng Nhị
Dức, có thể phong tƣớc lƣỡng quốc. Thiên Đức, không phải chỉ có Thiên Nguyệt nhị Dức,
tức Tài là một Đức, Quan là một đức, lại thêm Ấn Thực, thì càng quý vậy. Nhƣ Ất Hợi, Bính
Tuất, Tân Mão, Quý Tị, Tân dụng Ất là Tài, vƣợng ở Hợi; Bính là Phu tinh, tọa khố thổ quy
lộc ở Tị. Quý thủy là Phu Quan, Tân kim sinh Quý là con, tọa Tị thổ cùng Phu lộc đồng vị,
lại là quý thần, lại là Tài Quan song mỹ, là đƣợc chồng con đều quý, lƣỡng ngộ bao phong.
Cho nên là mệnh Phu nhân.

Trọc
Trọc là hỗn vậy. Là ngũ hành mất vị trí, thủy thổ cùng hỗ thƣơng, thân thái vƣợng, chính phu
không lộ, thiên phu hỗn tạp, trụ nhiều ly biệt, không có Tài Quan Ấn Thực, là hạ tiện nhơ
đục, hoặc là xƣớng kỹ tỳ thiếp, ngƣời dâm xảo. Nhƣ Kỷ Hợi, Ất Hợi, Quý Sửu, Kỷ Mùi.
Quý thủy sinh tháng 10 là đại phiếm, Quý lấy Mậu là chồng nhƣng không hiển, giờ dẫn Kỷ
Mùi là Thiên phu, ngại Sửu Mùi đều có thổ hỗn tạp, trong trụ không có Tài, Ất mộc là can
Thực thần vƣợng, Kỷ thổ thụ khắc, là Quỷ bại lâm thân, ngũ hành thất vị, chủ trƣớc thanh sau
trọc, không thể hƣởng phúc.

Lạm
Lạm, là tham lam vậy. Nói trong trụ, có minh phu nhiều, ám Tài vƣợng, can chi lại mang
nhiều Sát, tất vì tửu sắc, tƣ ám đƣợc tài. Loại mệnh này, hoặc là nô tỳ, hoặc là khắc phu tái
giá. Nhƣ Canh Dần, Bính Tuất, Canh thân, Đinh Hợi. Canh Thân, là ngày Bát Chuyên tự
vƣợng, Bính hỏa là chồng, Dần Tuất hội cục, can giờ Đinh lại thích trọng lửa tình, Canh Thân
kim ám khắc Dần Hợi mộc là Tài, ở trong Hợi có Nhâm thủy là Thực sinh Tài, ngƣời tuy
xinh đẹp có phúc, khó tránh lạm dùng mà đắc tài.

Xướng
Xƣớng, là ca kỹ vậy. Chính là thân vƣợng phu tuyệt, Quan suy Thực thịnh, hoặc trong trụ
không thấy Quan Sát, hoặc có mà bị Thƣơng quan thƣơng tận, hoặc Quan Sát hỗn loạn mà
Thực thần thịnh vƣợng, mệnh này tất là xƣớng kỹ, nếu không, cũng là sƣ ni tỳ thiếp, khắc
phu dâm bôn. Nhƣ Đinh Hợi, Canh Tuất, Mậu Thìn, Canh Thân. Mậu lấy Giáp là chồng,
tháng 9 là thất thời vô khí, lại bị Canh khắc tuyệt. Giờ dẫn nhập Thân lấy Canh là Thực, kiến
lộc ở Thân. Mậu Thìn là Khôi Cƣơng, sinh thân thái vƣợng. Trong Hợi có Nhâm Tài cũng
vƣợng, gọi là Thân vƣợng phùng sinh, Tham Thực tham Tài, Phu tuyệt, làm ca kỹ xinh đẹp
vậy.

Dâm
Dâm, là rót vào vậy. Là bản thân đắc địa, Phu tinh minh ám cùng giao tập. Nói nhật can tự
vƣợng, trong trụ đều có Quan Sát vậy. Ở can gọi là Minh, ở chi gọi là Ám. Tứ trụ thái quá,
nhƣ ví dụ 1 Đinh thấy 3 Nhâm cùng Thìn Tý nhiều, gọi là Giao tập, ở ngƣời là không chỗ
177 | Tam mệnh thông hội

nào không nạp vào vậy. Nhƣ Mậu Thìn, Nhâm Thìn, Nhâm Tuất, Quý Hợi. Bản tự Nhâm
Thìn, Quý Hợi là đắc địa, Minh có Mậu thổ là chính phu, Ám có Thìn Tuất là thiên phu. Lại
nhƣ : Canh Tuất, Mậu Tý, Ất Dậu, Giáp Thân. Ất lấy Canh gọi là Minh phu, mà thân tự tọa
Dậu, giờ lại dẫn đến Thân gọi là Ám phu, vận hành tây phƣơng đất kim vƣợng. Hai mệnh này
Phu tinh đều có minh ám giao tập, dâm không thể nói.
17-04-16, 08:15
lesoi
Vượng Phu khắc Tử
Nói Nữ nhân có vượng Phu thương Tử là sao? Phép này đều suy ở trên giờ sinh, giờ là đất
quy tụ ( chốn quay về), hai tinh Phu Tử dẫn quy về ở giờ sinh, là nói Phu tinh sinh vƣợng, Tử
tinh suy bại vậy. Nhƣ: Bính Tuất, Bính Thân, Đinh Tị, Tân Hợi. Đinh tọa Tị là tự vƣợng, lấy
Nhâm thủy là chồng, trụ giờ chính là đất Phu tinh lâm quan, chi tháng Thân kim chính là đất
Phu tinh trƣờng sinh. Lấy Tân kim là Tài, tháng 7 kim vƣợng, so sánh với 2 Bính, đều tọa Tài
Ấn phu tinh, cho nên chồng thông tú phú quý. Đinh lấy Mậu là bức thành Tử tức, dẫn đến trụ
giờ thấy Hợi, trong Hợi có Giáp mộc khắc Mậu thổ, là Tử tinh bị khắc mà khó đƣợc vậy, cho
nên là Vƣợng Phu thƣơng Tử. Còn lại theo ví dụ này mà suy.

Vượng Tử thương Phu


Có nữ mệnh Vượng Tử thương Phu là sao? Phép này chuyên lấy tháng và giờ để xem, nói
khắc ta là Quan là chồng, có khí đắc thời, thì phu phát phúc; nếu can chi thất vị không đƣợc
Nguyệt khí, trong trụ lại gặp xung khắc, trụ giờ lại không vƣợng khí, mà lúc sinh con dẫn đến
trụ giờ gặp đất trƣờng sinh, lâm quan, đế vƣợng, lại không có hình khắc, gọi là Vƣợng Tử
thƣơng Phu vậy. Nhƣ mệnh: Kỷ Mão, Giáp Tuất, Ất Mão, Mậu Dần. Ất dụng Canh là chồng,
tháng 9 Canh kim vô khí; Ất dụng Bính là con, Bính hỏa trƣờng sinh ở Dần, cùng Tuất hội
cục, đều thuộc hỏa. Nguyệt lệnh đã không có khí kim, giờ dẫn tuyệt địa, lại bị hỏa khắc, là
tổn thƣơng Phu tinh, còn Tử tức vƣợng, cho nên viết Vƣợng Tử thƣơng Phu. Còn lại theo ví
dụ này suy.

Thương Phu khắc Tử


Thƣơng Phu khắc Tử, chính là can chi Phu tinh thất vị, tháng sinh thất thời, trong trụ lại gặp
xung khắc, chi giờ cũng không sinh phù, còn kiêm Ấn thụ trọng phùng cƣớp khí phu tinh,
khắc nặng tử tức, Phu Tử đều không thể vƣợng, trái lại là tuyệt ở giờ vậy. Nhƣ mệnh: Bính
Tý, Canh Tý, Ất Hợi, Bính Tý. Ất mộc lấy Canh kim là Phu tinh, tháng 11 là kim hàn thủy
lạnh, kim lại tử ở giờ Tý, Hợi Tý thủy cƣớp hết khí kim, trụ không có thổ sinh trợ Thƣơng
quan, mộc nhiều, cho nên là Thƣơng phu. Ất mộc lấy Bính hỏa là con, dẫn đến giờ Tý, là đất
thủy vƣợng diệt hỏa, tuy hai can năm giờ hỏa bị bầy thủy tƣơng khắc, Phu Tử đều mất, cho
nên viết Thƣơng Phu khắc Tử. Còn lại theo ví dụ này mà suy.

An tĩnh thủ phận

An tĩnh thủ phận, chính là Phu tinh có khí, nhật can tự vƣợng, tƣơng đình mà không khắc,
không gặp hình xung, là chỗ đƣợc Tài Thực vậy. Nhƣ mệnh: Quý Tị, Canh Thân, Ất Mão,
Đinh Hợi. Ất tọa Mão là chuyên lộc tự vƣợng, lại đƣợc chi giờ Hợi tự hợp cục, là bản thân
vƣợng vậy. Lấy Canh kim là chồng, tháng 7 Canh lộc ở Thân, lại đƣợc chi năm Tị hỏa là đất
kim trƣờng sinh, là Phu tinh vƣợng vậy. Hợi có Nhâm thủy, là Thiên Trù Thực thần của Phu
tinh, cho nên chủ chồng có ăn lộc trời. Chỗ này là bản thân Phu tinh cả hai đều không hại
nhau, đều đón khí vƣợng, không có hỗn loạn phạm nhau, vợ chồng hòa thuận, là cách an tĩnh
thủ phận vậy.
17-04-16, 08:17
178 | Tam mệnh thông hội

lesoi
Hoành yểu thiếu niên
Nói về Hoành yểu thiếu niên, là tạo hóa cùng tuyệt, cách cục biến dị vậy. Có thắt cổ, chết
sông, có sinh sản thiếu máu chết, bị ngƣời sát hại, nhƣ vậy là sao chứ? Chính là thân nhƣợc
mà gặp Sát trọng, Sát nhiều là khắc thân, lại còn mang hình xung phá bại; hoặc là trong mệnh
vốn có Quan tinh thụ thƣơng, hành vận lại gặp đất Thƣơng quan; hoặc không có Quan thấy
Thƣơng, vận lại lâm đến Quan; hoặc mang Nhận không có chế, vận hành đất hợp Nhận, cùng
các loại Vong Thần Kiếp Sát, chỗ này đều là thuộc loại chết yểu vậy. Không chỉ có ở nữ
mệnh, nam mệnh cũng vậy. Nhƣ mệnh: Đinh Mão, Quý Sửu, Canh Thìn, Bính Tý. Canh
dụng Đinh là Quan, bị Quý thủy Tý Thìn Thƣơng quan trùng điệp, khắc thái trọng, là thủy đa
kim trầm, một lúc giao vận Đinh Tị, Thƣơng quan kiến Quan, lại hội Bính Sát khắc thân, cho
nên tai họa chìm nƣớc vậy.

Phúc Thọ lưỡng bị


Nói về Phúc Thọ lƣỡng bị, là tạo hóa trung hòa, cách cục thuần túy vậy. Cả đời có hƣởng
dụng, vậy là sao chứ? Chính là thân tọa đất vƣợng, thông với khí tháng, can chi giúp nhau, lại
mang thêm Tài Quan Ấn thụ, đều đắc vị, không hành thoát Tài, phá Ấn, cục Thƣơng quan, hỉ
nhất là Thực thần, Thiên Trù. Nếu thân vƣợng mà vận hành đất Tài Thực, đầy đều là mệnh
Phúc Thọ lƣỡng bị vậy. Nhƣ mệnh: Bính Ngọ, Canh Tý, Tân Dậu, Quý Tị. Tân tọa Dậu, là
ngày chuyên lộc tự vƣợng, giờ Quý quy lộc ở Tý là Thực thần, Thọ tinh, là Tử tinh đắc địa.
Tân dụng Bính hỏa là Quan, Bính lộc quy về Tị, là Phu tinh đắc địa. Lại sinh tháng 11, chính
là tƣợng Kim bạch Thủy thanh, kiêm can chi trên dƣới giúp nhau, cều không có thƣơng tổn,
thân không tòng hóa, cho nên là ngƣời tƣớng mạo xinh đẹp đoan chính, Phu Tử đều nhau,
mệnh phúc thọ lƣỡng bị vậy. Còn lại theo ví dụ này mà suy đoán.

Từ chỗ Chính Thiên


Nói đến Từ chỗ Chính Thiên là sao vậy? Chính là Phu Phụ tƣơng hợp, lại gặp Tỉ kiên phân
tranh, nhƣ một vị Phu tinh có hai vị Thê tinh tƣơng hợp, gọi là Tranh Hợp. Nếu bản thân tự
vƣợng, so với nó là thân suy, tứ trụ không xung, thì ta là Chính còn nó là Thiên vậy. Bởi vì ta
sinh vƣợng có khí, thì chồng theo ta là Chính; thân ta suy mà nó vƣợng, thì chồng theo nó,
trái lại ta là Thiên, còn nó là vƣợng tranh mất chồng của ta, ta chỉ là Thiên. Hoặc tự vƣợng
thái quá, trụ không có Phu tinh cũng là Thiên; hoặc có Quan Sát hỗn tạp, hoặc Thƣơng Quan
thái trọng, cũng là Thiên, càng dâm lạm. Nhƣ mệnh: Nhâm Tý, Bính Ngọ, Tân Dậu, Tân
Mão. Tân dụng Bính là Phu tinh, ta tọa Dậu, là chuyên lộc tự vƣợng, tuy giờ dẫn Tân Mão
kim, nhƣng nó vô lực, cho nên ta là Chính còn nó là Thiên, gọi là Nhị Nữ tranh Phu, là Chính
Thiên tự xử. Lại như: Quý Mùi, Nhâm Tuất, Quý Tị, Nhâm Tý. Quý dụng Mậu thổ làm
chồng, Quý tọa Tị là thủy nhƣợc; Nhâm tọa Tý thủy vƣợng, nhƣợc không thể thắng vƣợng, bị
Nhâm thủy tranh mất Mậu thổ là chính phu, là nó thắng ta suy, ta chỉ là Thiên. Nếu Nhâm
thủy trọng mà quá phù phiếm, lại mang đào hoa, không thể là Tự Xử. Còn lại cứ loại suy theo
chỗ này.

Chiêu Giá bất định


Nói đến Chiêu Giá bất định là sao? Chính là trong con mắt khiến có Phu tinh, thấu can cùng
bản thân tƣơng hợp, bản thân tòng phục, nhƣng Phu tinh vô khí, giờ dẫn Phu tinh hoặc Sát
tinh nhƣng nhận khí vƣợng tìm khắc bản thân, lại liền phục tòng theo chồng, cho nên gọi là
Chiêu Giá bất định. Nếu Phu tinh không vƣợng, hoặc bị khắc chế, tất lấy chồng chậmì, hoặc
lấy chồng bất minh, hoặc chồng không ra gì, hoặc có ngoại tình.
Nhƣ mệnh: Quý Dậu, Giáp Tý, Kỷ Mùi, Ất Hợi. Kỷ dụng Giáp là chồng, sinh ở tháng 11, là
thất thời không vƣợng, giờ gặp chữ Hợi, là đất Giáp mộc trƣờng sinh, là phu vƣợng vậy,
nhƣng lại không hợp, lại bị Ất mộc chế Kỷ Mùi, Mùi là khố địa Ất mộc. Giáp sinh tháng Tý,
179 | Tam mệnh thông hội

phu tọa bại địa, không lộ, trụ giờ là Ất Hợi, trong Hợi lại có Giáp trƣờng sinh, Giáp lại muốn
trêu Ất vậy, chỗ này là Chiêu Giá bất định, còn lại cứ loại suy.
17-04-16, 08:19
lesoi
Luận viết:
Phàm xem mệnh âm (nữ), trước suy Phu Tử hưng suy, muốn nghiên cứu vinh khô, thứ biện
ngày giờ khinh trọng.
Quan là chồng, Tài là cha, Tài vƣợng Phu vinh; Thực là con, Ấn là mẹ, Ấn thịnh Tử suy, nhật
can không nên thái vƣợng, tháng nhận khí trung hòa. Nhật chủ vƣợng tƣớng, đoạt quyền
chồng mà cô khổ; Nguyệt lệnh hƣu tù, bản thân an phận mà giữ nhà. Quan tinh đắc địa, phu
chủ vinh hoa; Thƣơng quan không khắc, con nhận quý hiển. Có Quan thì không thể có Sát, có
Sát thì không thể phùng Quan, chớ khiến cho Quan Sát hỗn tạp, là ngƣời an ổn trinh tƣờng?
Quan tinh không bị khắc, gặp Nhị Đức, có thể phong tƣớc lƣỡng quốc; Thất Sát có chế, gặp
Tam Kỳ, là địa vị Nhất phẩm. Thêm Thực thần mà chế Sát sinh Tài, ác Thƣơng quan mà
cƣớp khí khắc phu, tham Tài phá Ấn, sao có tốt? Dụng Sát phùng Quan, không phải là Tiết
phụ; cô bần hạ tiện, bởi vì Tử tinh hƣu tù; phú quý tranh vanh, chỉ vì Phu hƣng Tử vƣợng,
Quan thái vƣợng, bố chồng thọ khó dài; Tài trùng điệp, sớm tang mẹ chồng. Thân cƣ vƣợng
địa, tuy giàu có, nhƣng Phu Tử hình thƣơng; ngày gặp đất suy, dẫu bần hàn, Phu Tử đoàn tụ;
tự vƣợng là phụ nữ đảm đƣơng, ngày suy mà vụng ở nữ công. Một vị Quý thần, không giàu
cũng vinh; số nhiều hợp thần, không à ni cũng là kỹ. Quý nhân cƣỡi Dịch Mã, quyết chủ mỹ
nữ phong trần; Quan tinh mang Đào Hoa, định ở nhà chồng quan. Thực thần đơn độc, an hòa
mà có con có thọ; hợp nhiều quý, kiều mị mà đa tiện đa tình. Đào Hoa không nên bị Đảo Sáp,
mộc dục tối kỵ lỏa hình, phạm nhiều là thị tỳ, hoặc làm sƣ ni. Tứ trọng đầy đủ, là nữ tửu sắc
hoang dâm; Tứ Mạnh đầy đủ, là ngƣời thông minh sinh phát. Mùi Sửu hình là không kỵ, Tuất
Thìn xung chỗ không tốt. Đại để Phu tinh phải gặp kiện vƣợng, bản thân phải nhận khí trung
hòa. Thực thần không thể hình thƣơng, Tử tinh phải lâm sinh địa. Ấn thụ một vị sinh thân, thì
có thể tài thần phát phúc, thấy nhiều không ngại. Tài cƣờng thân nhƣợc, không thể phát phúc;
thân cƣờng Tài nhƣợc, sao yên mà tốt? Thƣơng quan trùng điệp, khắc Phu tinh mà là ngƣời
tái giá; Ấn thụ gặp nhiều, là phụ nữ không tử biệt cũng sinh ly. Hình xung Dƣơng Nhận, hung
ác vô tri; phá hại Kim Thần, máu đổ khó sinh. Tứ trụ không có Phu tinh, không làm vợ lẽ
cũng tái giá; bát tự có Không Vong, không quả phụ cũng là cô loan. Đại khái quý tiện xem
Phu vị, vinh khô xem Tài Quan, đầy là thiên dựa ở địa, địa phụ ở thiên, cho nên quý theo
chồng mà quý, bần theo chồng mà bần. Bát pháp ở trƣớc là huyền cơ, bát cách sau là áo chỉ
minh kỳ, nếu có sai khuyết, nhờ ngƣời giải thích.
17-04-16, 08:20
lesoi
Tổng ca:

Chính khí Quan tinh đệ nhất cách,


Tài Quan lưỡng vượng cũng đồng thuyết;
Quan tinh mang hợp kiêm tọa lộc,
Nữ mệnh gặp đầy có chân phúc;
Quan tinh Đào Hoa là lương nhân,
Mang hợp kiêm Sát thì khác nhau;
Ấn thụ Thiên Đức duy tối diệu,
Nhật Quý Tài Quan cũng như nhau.
Độc Sát có chế giống Dương Nhận,
Thương quan sinh Tài cũng không hung;
Quy lộc phùng Tài chuẩn đoạn này,
180 | Tam mệnh thông hội

Thực thần sinh vượng lại rất thọ.


Sát hóa Ấn thụ cách cục thuần,
Nhị Đức phù thân quý vô luân;
Tam Kỳ hợp cục chân tạo hóa,
Củng Lộc Củng Quý cũng không sợ.
Sát Quan hỗn tạp kiêm không chế,
Nữ nhân loại này không thể cưới;
Thương quan thái trọng lại kiến Quan,
Tham Tài phá Ấn đều không kham,
Tỉ kiên trọng phạm nhiều tranh đố,
Tài Quan gặp Kiếp quyết không giàu;
Tài đa thân nhược cũng như thế,
Dương Nhận xung hình thây không còn.
Kim thần mang Nhận đoán hung ác,
Đào Hoa mang hợp dâm loạn xem;
Không Quan kiến hợp nhiều Quan hợp,
Đảo Sáp Đào Hoa loạn khuê các.
Thân vượng vô y hại Phu Tử,
Nữ nhân loại này đại bất tường;
Đảo Thực trọng phạm nên giảm phúc,
Lại phạm Quả Tú chủ cô độc.
Cô Loan Hồng Diễm Âm Dương sai,
Thần Sát loại này đều không tốt;
Nếu là quý mệnh hợp Quan Ấn,
Một chút Thần Sát không là sợ.
17-04-16, 08:21
lesoi
Lại viết:
Chọn vợ cần trầm tĩnh,
Nói rõ cho bạn nghe;
Phu tinh phải cƣờng kiện,
Nhật can nên thuận nhu;
Nhị Đức tọa Chính Tài,
Phú quý tự nhiên đến;
Tứ trụ mang hƣu tù,
Tăng danh lại tăng thọ,
Quý nhân chính một vị,
Hai ba vị chìu thân;
Kim thủy nếu tƣơng phùng,
Tất là ngƣời xinh đẹp;
Tứ quý nhất vị Sát,
Quyền gia nói phú quý;
Tài Quan nhƣ tàng khố,
Xung khai sẽ giàu có;
Dần Thân Tị Hợi đủ,
Cô dâm phúc tiện liền;
Tý Ngọ cùng Mão Dậu,
Định là chạy theo ngƣời;
Thìn Tuất kiêm Sửu Mùi,
Phụ đạo tất đại kỵ;
181 | Tam mệnh thông hội

Có Thìn sợ thấy Tuất,


Thìn Tuất nếu thấy nhau,
Đa số ngƣời dâm phá;
Có Sát không sợ hợp,
Không Sát lại sợ hợp;
Hợp thần nếu nhƣ nhiều,
Không kỹ cũng cầm ca;
Dƣơng Nhận mang Thƣơng quan,
Bác tạp việc đa đoan;
Đầy bàn nếu là Ấn,
Tất phải định tổn tử;
Thiên can liền một chữ,
Cô phá họa miên miên;
Địa chi liền một chữ,
Hai độ tự thành hôn;
Đây là Quyết phụ mệnh,
Nghìn đời chớ khinh thị.
17-04-16, 08:22
lesoi
Luận Tiểu Nhi

Nói về xem mệnh Tiểu Nhi, giống nhƣ phƣơng pháp trồng cây hoa. Bồi dƣỡng tốt thì mầm rễ
tƣơi tốt, hoa quả mới nhiều; bồi dƣỡng không tốt thì trái lại vậy. Sao lại nói vậy? Phàm ngƣời
trồng hoa, nhất định lấy thổ vun xới cho gốc, gốc có đầy thì mầm mới xung; nhất định lấy
thủy để tƣới nƣớc cho cây, cây có mạnh thì hoa tƣơi tốt; dựa vào dƣơng hỏa ấm áp để chiếu
sáng ra hoa, hoa đầy đủ thì thành quả; dùng kim lƣỡi dao để đốn cành nhánh, cành nhánh
sạch sẽ, rõ ràng thì gốc mới kiên cố. Giả nhƣ thổ hƣ thì gốc rễ ít, thiếu thủy thì mầm khô, mặt
trời chiếu ánh sáng mạnh quá thì hoa bị cháy, làm khô gãy thì trái rụng, đều là mất trung hòa
khí bồi dƣỡng, thì cây hoa có yên ổn mà không bị khô héo ƣ? Trong bát tự con ngƣời, lấy
năm là gốc rễ, lấy tháng là mầm cây, lấy ngày là hoa, lấy giờ là quả, là lý lẽ hiển nhiên.
Cho nên suy đoán mệnh của Tiểu Nhi thì cần nhật can có khí, nguyệt lệnh sinh phù, can năm
có gốc rễ, Ấn thụ không bị thƣơng, Tài Quan có chế, Thất Sát đƣợc hóa, Thƣơng Quan gặp
hợp, khí đƣợc trung hòa, không gặp hình xung phá hại, chỗ này thì mệnh dễ nuôi dƣỡng mà
trƣờng thọ. Nhƣ Sát trọng thân khinh, hoặc Tài đa thân nhƣợc, hoặc Thƣơng Quan thay nhau
gặp, hoặc Thực thần gặp nặng, hoặc nhật can quá vƣợng không có chỗ dựa, hoặc là quá nhu
nhƣợc thiếu Ấn là khí mất trung hòa, trong trụ có hình xung phá hại, chỗ này thì khó mà
mệnh đƣợc nuôi dƣỡng để hƣởng thọ. Cả hai phƣơng pháp đều giống nhƣ bồi dƣỡng vun cho
gốc đầy vậy.

Lại nói: Mệnh Tiểu nhi, cần luận ở trụ giờ là chính, trƣớc tiên xem Quan Sát, thứ đến xem
cách cục. Nhật chủ cƣờng, Tài Quan vƣợng, có Quan mà không có Sát, hoặc nhật chủ nhƣợc,
Tài Quan ít thì thƣờng dễ về nuôi dƣỡng; nhật can nhƣợc mà Tài Quan nhiều, có Sát có
Quan, khó nuôi dƣỡng. Nói đến Quan là sao vậy? Tức Thiên Quan là quan (chữ quan ở đây
nghĩa là cửa ải đóng), Thiên Tài là Sát. Chuyên lấy nhật can làm chủ, lấy số sinh thành mà
đoán. Quan, ví nhƣ cửa quan trƣớc mắt, chính là đất hiểm trở. Ngƣời đến cửa quan, không có
văn bản rõ ràng thì không dám lén lút mà vƣợt qua, làm trái quy định thì nhất định dẫn đến
tai họa. Mệnh Tiểu Nhi phạm chỗ cửa ải này, thì là bất lợi. Trong trụ có nhật can cƣờng kiện,
chế phục thuần túy, Ấn thụ không bị thƣơng, nhƣ có loại văn bản rõ ràng thì trôi chảy thông
suốt mà toại nguyện, dễ dàng nuôi dƣỡng mà trƣờng thọ. Còn trái lại thì không nên.
182 | Tam mệnh thông hội

17-04-16, 08:23
lesoi
Chữ Quan trong Tử bình thì chỉ lấy Sát luận. Giả nhƣ tiểu nhi ra đời sinh ngày Giáp, thì Canh
là Quan, trụ có Mậu thổ là bè đảng của Sát, đây là cửa quan nặng lại không có Tài. Nhật chủ
kiện vƣợng đƣợc Ấn sinh hóa giải thì cửa quan nhẹ không có hại. Ngày Giáp thấy Canh đóng
ở 9 tuổi, ngày Đinh thấy Quý là đóng ở 6 tuổi, Mậu thấy Giáp là đóng ở ba tuổi, Bính thấy
Nhâm là đóng ở 1 tuổi, Nhâm thấy Mậu là đóng ở 5 tuổi, Quý thấy Kỷ là đóng nửa tuổi.
Ngày xƣa có phép xem giờ sinh nam nữ, ngày âm hay dƣơng mà biết quý tiện.
Nhƣ mệnh kim, là sinh ngày âm, chủ tƣớng mạo quan quý; mê muội thì bần tiện; không có
gió đến lớn hay nhỏ, thì thọ không dài; có mƣa tuyết, thì chủ về tâm thiện hiếu thuận; Mệnh
Mộc, sinh ngày âm, là đại phú; trời sáng, có Quan, là thọ lâu; trời tối, cơm áo là bình thƣờng,
thì đoản mệnh; có mƣa tuyết, thì bản thân quý hiển mà hiếu thuận; Mệnh Thủy, sinh ngày
âm, thì tâm ác, nhƣng đủ áo cơm; trời sáng thì đại quý; trời tối thì đoản mệnh, bần tiện; có
gió thổi thì về sau có quý nhân dẫn dắt; Mệnh Hỏa, sinh ngày âm thì đại phú; trời sáng thì tuy
có phú mà yểu thọ; trời tối thì có phần Quan; không có gió nhỏ hay lớn thì có cơm áo; có
nhiều tuyết rơi thì đoản mệnh; có mƣa tuyết nhỏ, đến năm chừng 50 tuổi thì có bệnh; Mệnh
Thổ, ngày âm, không quá 50 tuổi thì chết; có mƣa nhỏ, không quá 30 tuổi thì đại phú; ngày
tối thì phú quý, có phần làm Quan, thọ không yểu; có gió lớn ngỗ nghịch thì đoản mệnh; có
mƣa tuyết thì có bổng lộc tiền của đến; trời quang đãng thì phú quý lâu dài.
Phàm Tiểu Nhi giờ sinh là Thìn Tuất Sửu Mùi, lại vừa có trong tứ trụ nhiều Mộ, là chủ nhận
làm con thừa tự; mang Ngọ Mùi nhiều thì gọi tên là Chấp ảo Sát ( Hung thần bƣớng bỉnh),
chủ là tính tình bƣớng bỉnh. Tuất nhiều thì cũng vậy; mang Tý Hợi nhiều thì bị bệnh sa tinh
hoàn, là giờ Tý thì không có không ứng, Nhâm Tý, Bính Tý càng khẩn cấp; giờ sinh cùng
Bào Thai cùng ở Thìn bên trên cũng vậy; mang hỏa nhiều, chủ thiếu niên bệnh máu mủ lở
loét; mang Đinh Ngọ nhiều, có chữ Mùi thì chủ đầu lớn, bệnh lở loét, hoặc vết sẹo, hoặc bệnh
chốc đầu lở loét, ngƣời lớn thì bệnh ung thƣ não. Tháng Tứ Mạnh ở trên mang kim hỏa tƣơng
khắc thì nhiều bệnh về ghẻ mụt lở loét kinh sợ; kim thủy hỏa khắc chế nhau, chủ bị cháy nhà
mà vết thƣơng bị bỏng lột da; kim thủy nhiều thì chủ nói chậm , thấy mộc thì chủ nói sớm.
Ngũ hành đầy đủ thì chủ anh tuấn, lanh lợi, ý là có đủ tinh thần, khí chất. Ngũ hành từ tháng
sinh đến can giờ lấy lần lƣợt sinh vƣợng, ít hình xung thì cát, chủ trƣờng thọ, trở thành ngƣời
tài năng vậy. Trái lại thì là yểu, tuy là phúc thần nhiều có cứu, thiếu niên lấy 10 sinh thì 9 tử,
dù đến trƣởng thành cũng không thƣợng thọ.
Nói thêm ngũ hành sinh vƣợng thì khí đầy đủ, khí đầy thì trƣờng thọ; ngũ hành tử tuyệt thì
khí mỏng, khí mỏng thì đoản thọ mà yểu mệnh.
Phàm can chi tháng, ngày, giờ rối loạn mà thấy Thái Tuế nặng, lại nói Tinh sao là chủ yếu, là
chủ làm con thừa tự, sống nhờ làm con nuôi. Mới sinh hoặc Thực Thần gặp lại nhiều lần,
hoặc có Thiên Ấn quá vƣợng, đều là chủ không có sinh. Phạm 5 Dƣơng Nhận, nói là Nhận
đầy bàn (cục). Dƣỡng nhiều mà không thành, giờ lại mang hình hại thì nhất quyết phải chết.
Nữ nhi hơi chậm, cuối cùng cũng không miễn sản hậu mà chết. Giờ sinh thấy Quan Phù, cha
có tranh cải việc công, mẹ gặp việc kinh sợ; trùng hợp có Hàm Trì thì bản thân không đƣợc
cha mẹ dƣỡng dục, hoặc không phải chỗ do mẹ chính sinh ra; nếu thấy Không Vong nhiều
lần thì chủ gặp bệnh điên mà mất, khắc cha mẹ. Bình thƣờng suy luận Tiểu Nhi đúng sai,
mệnh thấy Cô Thần, Quả Túc, di chuyển nhiều phòng, khác chỗ ở, xu thế không đƣợc khí
xoay chuyển, trẻ lại cách ly cha mẹ. Nhƣ Canh Thìn là kim thấy Kỷ Tị là hỏa, khí kim xoay
chuyển theo 12 chi, thì có hỏa ngăn chặn, cho nên khí không xoay chuyển. Còn lại dựa vào
chỗ này suy ra.
Hoặc hỏi: Nếu cùng một mẹ mà sinh đôi, cùng chỗ sinh thì làm sao phân biệt đƣợc sang hèn
hay giàu nghèo?
Đáp nói: Phàm một giờ có tám khắc mƣời hai phân, cho nên có nông sâu, trƣớc sau, cát hung
không giống nhau. Có đồng thời chỗ sinh cùng một mẹ, nhƣng cần phân biệt nông sâu và
183 | Tam mệnh thông hội

ngày giờ âm hay dƣơng. Nhƣ ngày giờ là dƣơng thì anh thắng; ngày giờ âm thì em thắng.
Nông thì chiếm trƣớc khí giờ, Sâu thì chiếm sau khí giờ.

Cổ ca nói:
Phép xem song sinh có khác thường,
Muốn nghiệm giàu nghèo là thần nhật;
Âm nhật em cường anh tất nhược,
Dương nhật anh quý em tất nghèo.

Lại có một thuyết nói: Số một là xem phƣơng hƣớng, nhƣ mệnh mộc ở hƣớng Đông phƣơng
có thể thụ sinh khí, hƣớng Tây phƣơng có thể thụ khắc sinh, sang hèn, thọ yểu lấy để phân
biệt. Ngoài ra còn thấy, Vương Thị Tam Hà nói: Anh em song sinh, em ra trƣớc, anh ra sau,
công danh, thọ, yểu, nói chung tỷ lệ là nhƣ nhau, mà anh lại không giống em. Lý Thị Dĩnh
Châu nói: Anh em song sinh, bởi vì có chút khác nhau, cho nên khoa đệ đăng giáp, anh chỉ là
Tú tài.
Khảo sát bát tự, quả nhƣ tiền thuyết.
17-04-16, 08:24
lesoi
Luận Lục Thân

Hoặc hỏi: Âm dƣơng vì sao phối hợp thành vợ chồng mà thành lục thân?
Đáp rằng: Nhƣ Giáp lấy Ất là em gái, hợp với Canh kim mà làm vợ; Bính lấy Đinh là em
gái, phối hợp với Nhâm thủy mà làm vợ; Mậu lấy Kỷ phối với Giáp; Canh lấy Tân phối với
Bính; Nhâm lấy Quý phối với Mậu, một âm một dƣơng phối hợp thành vợ chồng, có vợ
chồng thì đƣơng nhiên về sau sẽ có con, có con đƣơng nhiên về sau lại có anh em. Lục thân là
cha mẹ, anh em, vợ con vậy. Lục Giáp lấy Kỷ làm vợ, Giáp Kỷ hợp mà sinh Canh Tân là con.
Nam lấy khắc can làm con, nữ lấy can sinh làm con, thì Kỷ là mẹ của Canh Tân, Giáp là cha,
Kỷ là mẹ, cho nên nói can âm sinh ra ta là mẹ, ta khắc can dƣơng là cha, khắc ta là Quan là
con, ta khắc là Tài là vợ, Tỉ hòa là anh em chị em, can âm sinh ra vợ ta là mẹ vợ, vợ khắc can
dƣơng là bố vợ, khắc con gái ta là chàng rễ, Thực Thần là cháu, lục thân còn lại đều ở thập
can biến hóa mà dùng.
Nhƣ ngƣời sinh Lục Giáp, lấy Quý thủy là mẹ, Quý là Chính Ấn, nhƣ gặp Kỷ thổ là Chính
Tài; Mậu thổ là cha ( là do Mậu hợp với Quý vậy ), Mậu là Thiên Tài, nhƣ gặp Tỉ Kiếp, thì
cha bị tổn thƣơng. Ngƣời sinh Lục Ất cũng lấy Quý là mẹ, Quý là Thiên Ấn; lấy Mậu là cha,
Mậu là Chính Tài. Giáp Ất đều lấy Canh Tân là con, Canh kim là Nam, ở Giáp thì là Thất
Sát, ở Ất thì là Chính Quan vậy; Tân kim là nữ, ở Ất thì là Thất Sát, ở Giáp thì là Chính Quan
vậy. Kỷ thổ là vợ, Mậu thổ là thiếp, nói Ất mộc khắc Kỷ thổ vậy.
Tuy nói Âm thấy Âm không thành phối hợp, nhƣng âm mộc khắc không đƣợc dƣơng thổ, mà
phụ nữ lấy âm là chính vậy, cho nên nói Giáp Ất đều lấy Kỷ làm vợ, Mậu làm thiếp. Nhƣ nữ
nhân thì Giáp gặp Canh là Thất Sát, Ất gặp Canh là Chính Quan, đều là Phu tinh vậy. Nói
Canh là dƣơng nam là chính phu, thuộc dƣơng không có thể lấy Tân âm làm chồng vậy,
nhƣng mà dƣơng thấy dƣơng nhiều là không có tình, âm thấy dƣơng thì rõ ràng vợ chồng là
hòa hợp.
Hoặc nói: Lấy Chính Tài là vợ, Thiên Tài là thiếp; nữ Giáp thì lấy Tân làm chính phu, lấy
âm dƣơng là chính hợp vậy. Ngƣời sinh Giáp Ất đều lấy Giáp là anh chị, Ất là em trai em gái,
lấy Đinh là bà, sinh cha ta là tổ mẫu, là Đinh sinh Mậu vậy. Nhâm thủy là ông, vì Nhâm cùng
Đinh hợp. Lại lấy Đinh hỏa là mẹ vợ, sinh ra vợ ta là mẹ vợ, Đinh sinh Kỷ phối cùng Giáp
làm vợ chính vậy. Nhâm là cha vợ, vì Nhâm hợp cùng với Đinh vậy.
Anh em vợ là anh em trai. Nhƣ Kỷ thổ là vợ, Mậu thổ là anh em trai vợ. Quý thủy là vợ của
anh em trai là mợ vậy. 8 thiên can còn lại đều theo nhƣ vậy mà suy ra.
184 | Tam mệnh thông hội

Nữ nhân thủ dụng cùng với nam thì không giống nhau, ta sinh ra là con, khắc ta là chồng,
sinh ra chồng của ta là mẹ chồng, khắc mẹ chồng là cha chồng, còn lại nhƣ cha mẹ anh em
đều đoán giống nhƣ nam, nhƣng cần phân biệt âm dƣơng mà thôi, nhƣ can Giáp Ất thì lấy
Bính là con trai, Đinh là con gái, Canh là chồng, Tân là anh em chồng, Kỷ là mẹ chồng, Giáp
là cha chồng vậy.
17-04-16, 08:25
lesoi
Kinh nói: Lấy năm là cung tổ nghiệp, lấy tháng là cung cha mẹ anh em là môn hộ, lấy ngày
là bản thân và cung thê thiếp, giờ là cung con cái.
Phải xem trong tứ trụ Tinh sao của cha mẹ, anh em con cái ở đâu? Luận vƣợng tƣớng hƣu tù
mà nói cát hung. Nhƣ sao phụ mẫu tọa đất trƣờng sinh, vƣợng, khố, lộc, mã, quý nhân, thì
chủ phụ mẫu phú quý, phúc thọ vinh tốt; nhƣ tọa đất Không vong, hình, khắc, sát, tử, vong,
suy, bại, cùng giao nhau, thì chủ phụ mẫu nghèo nàn, phá thƣơng, hình yểu, hoặc chết ở bên
ngoài và cuối cùng là không tốt; nếu mang hình, mang phá hại, tuy là nơi ở đất sinh vƣợng
khố, cũng chủ cha mẹ có thọ mà nghèo hèn. Sao Huynh đệ nếu đƣợc sinh đƣợc thời đƣợc
lệnh, tọa đất trƣờng sinh khố vƣợng, lộc mã, quý nhân, thì chủ huynh đệ phú quý vinh hoa
thành đạt; nhƣ tọa đất hình khắc, Sát Nhận, tử tuyệt suy bại, thì anh em không đắc lực; nhƣ
tọa đất trƣờng sinh vƣợng khố mà gặp hình xung phá hại thì tuy là có anh em mà thù hận
cùng không đắc lực. Nhƣ sao thê thiếp tọa đất sinh vƣợng khố, lộc mã, quý nhân, hoặc đƣợc
sinh thì chủ thê thiếp phú quý, vinh hoa, đẹp đẽ mà nhiều tài năng; nhƣ tọa đất Không, hình
khắc, Sát Dƣơng Nhận, tử tuyệt xung bại, thì chủ thê thiếp nghèo nàn, xấu xí mà hình yểu,
dâm loạn, tàn tật hoặc không sinh đẻ, không đắc lực; nhƣ tọa đất sinh vƣợng, lộc mã, bị hình
xung, khắc, Sát, vợ tuy có thọ mà cũng gặp phá tƣơng, nghèo nàn.
Nhƣ sao Tử tức tọa đất sinh vƣợng, lộc mã, quý nhân, quan ấn, có lấy tƣơng sinh, thì chủ con
cháu vinh hoa, thông minh, đƣợc nhiều ngƣời tiễn đƣa lúc về già; nhƣ tọa đất lộc mã, quý
nhân ở nơi đất tử tuyệt, tuy có thông minh tuấn tú, nhƣng về già không có ngƣời tiễn đƣa.
Nhƣ ở đất sinh vƣợng bị hình xung phá hại, có con cũng chủ ngu đần hoặc tàn tật đến già;
nhƣ ở tử tuyệt lại gặp hình xung phá hại Kiếp tài, không có con , mà có con cũng chủ tàn tật,
phá tƣơng hoặc bất tài.
Nữ mệnh nhƣ sao con cái ở đất sinh vƣợng, chủ nhiều con; nhƣ tọa lộc mã, quý nhân, chủ
con có phú quý mà phúc thọ; nhƣ tọa đất không vong, hình khắc, Sát cùng xung Dƣơng
Nhận, tử tuyệt thì chủ con cái không đắc lực.
Hỏi: Nhật chủ Giáp Ất lấy Mậu Quý là phụ mẫu, can chi tứ trụ không có Quý thủy, chỉ có
Mậu Nhâm hai chữ hiển lộ ở can đầu, hoặc tàng ở địa chi, thì làm sao luận phụ mẫu?
Đáp: Vốn là kinh sách nói có can rõ (Minh can) thì lấy can rõ, không có can rõ (Ám can ) thì
tìm ẩn tàng vậy. Nhƣ trụ không có chữ Quý chỉ có chữ Mậu là cha của Giáp Ất, lấy cha để
tìm lấy mẹ, nhƣ không có mẹ chỉ có mang Nhâm là mẹ, luận cũng cần lấy Mậu là cha. Mậu
Nhâm không phải thuộc phối hôn, không phải nam nữ lấy nhau, nhất định là bên trong bị kết
hôn, hoặc mẹ nhiều tuổi hơn cha, hoặc lỡ cƣới xin mà tiếp tục kết duyên vậy.
Hỏi: Nhật chủ là Giáp, chi năm chi tháng là Ất mộc, chi giờ là Giáp mộc, Ất trƣớc Giáp sau,
thì ai là huynh? Ai là đệ?
Đáp rằng: Bất kể trƣớc hay sau, chỉ lấy cƣờng là huynh, nhƣợc là đệ. Nói ngƣời sinh ra, trên
là phụ mẫu, dƣới là vợ con, giữa là huynh đệ, liên kết hợp tan, là mệnh vậy. Nói mệnh không
đủ lục thân, tất nhiên là phiến diện.
17-04-16, 08:27
lesoi
Phú nói: Năm gặp Nhận Sát, thiếu niên sớm mất cha mẹ; giờ gặp Nhận Thƣơng, vị niên lại
làm tổn thƣơng con cháu. Xung thì không có huynh đệ, Hình thì tổn hại lục thân. Năm tháng
có đủ Quan Tài Ấn, tổ tiên ba đời phú quý; ngày giờ có Sát Nhận lại gặp Kiêu, nửa đƣờng vợ
185 | Tam mệnh thông hội

con hao tổn. Nam mệnh có Thƣơng Quan nhiều thì thƣơng tổn con cái, Nữ mệnh có Thƣơng
Quan nhiều thì khắc phu; Thƣơng Quan thấy Tài mà có con, Thất Sát có chế thì có nhiều con.
Tài nặng thì hình thƣơng phụ mẫu, Quỷ vƣợng thì đời sau con cháu xa rời quang vinh; Kiếp
tài trọng nặng thì sớm có tang cha, phá Ấn thái trọng thì mẹ mất sớm. Năm, tháng có Tài
Quan vƣợng tƣớng, đời ông cha hiển vinh; ngày, giờ có Lộc Mã tƣơng sinh, thì vợ con hiền
mà anh tuấn. Ấn phục tàng mà Tài nắm lệnh, sinh gian nhiều thiếp; Chính Tài vƣợng mà bản
thân thất thời, thì sớm tang mẹ. Thiên Quan, Thiên Ấn, Thiên Tài gặp nhiều, nhất định là
thiên về thiếp; chỉ gặp Chính Quan, Chính Ấn, Chính Tài, chính là nam trƣởng họ. Trong
tháng Kiếp nghịch Tài Quan tuyệt, cha chết bên ngoài quê hƣơng; năm, tháng nghịch đuổi lại
thêm gặp xung hại, ông chôn nơi quê ngƣời. Ngày gặp Nhận, giờ gặp Kiêu, thê thiếp vong
sản; năm gặp Sát, tháng gặp Thƣơng, khó có huynh đệ. Nguyệt lệnh có Thƣơng Quan nhiều
thì cƣớp trƣởng, giờ hành thần sát không có huynh đệ. Nam mệnh có chữ Kiếp nhiều thì
mong có vợ bé, Nữ mệnh có Sát nặng thì cốt nhục không còn. Ấn vƣợng làm trở ngại con cái,
Tài nặng hay đố kỵ với cha mẹ chồng. Năm tháng nhiều Sát có hình hại, tổn thƣơng cha mẹ
chồng; ngày giờ bối trục mà không có cứu trợ, khắc rời vợ con. Chính Tài, Thiên Tài lại thấy
hợp, dù nhiều thê thiếp cũng chủ lạm dâm; Thiên Quan, Chính Quan thêm xung hại, cho dù
có chồng vẫn lén gian dâm. Vƣợng phu hại tử, là do Thực thần thụ thƣơng; Vƣợng tử hại phu,
là do Sát Quan tinh tang tuyệt. Nữ mệnh có Ấn vƣợng Quan khinh, thì đoạt quyền chồng;
Nam mệnh Tài đa thân nhƣợc, tâm sợ vợ nói. Ở dƣới ngày có Thƣơng Quan giữ Nhận, chồng
tất ác vong; trong tháng mang Ấn hình xung, nhà mẹ suy tàn. Nhận cƣờng Sát khoẻ, mồ tổ
suy bạc; Quan cƣờng Tài vƣợng, đời sau vinh xƣơng, ngày gặp Bối Lộc Trục Mã, đa số là
phá hại tổ tiên mà ly hƣơng nơi đất khách quê ngƣời; giờ gặp Tài vƣợng sinh Quan, nam có
hƣng gia trợ quốc.
17-04-16, 08:28
lesoi
Tháng gặp Sát Nhận, có cha không có mẹ. Thiên Quan trùng điệp, sinh nữ nhiều nam ít;
Thiên Tài ẩn gặp, ít yêu vợ chính mà yêu vợ lẻ nhiều. Tài nguyên đắc địa, theo vợ lập gia mà
giàu có, bị vợ đè ép mà có đƣợc; Quan vị lâm viên, bản thân vinh hiển mà chấn hƣng tổ
nghiệp, mà nam cũng cần phải hƣng vƣợng. Tháng có Quan Ấn, năm có Thƣơng Quan, cha
hƣng thịnh mà tổ tiên suy; ngày có Tài vị, giờ có Kiếp tài, cha hƣng thịnh mà con bại. Tỉ
Kiếp nặng, thì hôn nhân nhất định chậm, Quan tinh sinh thì tất có sớm. Nam gặp Thƣơng
Quan, Dƣơng Nhận, gặp Quan Sát, không thể đoán bản thân không có con cháu; Nữ mệnh có
Thƣơng Quan, Kiêu Ấn, hành Tài Quan, cũng không thể quyết là có con cháu. Ngƣời gặp
Thực nặng, Quan khinh là Phu suy Tử vƣợng. Nam mệnh có Sát vƣợng gặp Tỉ Kiếp, có anh
mà không có em; thái quá hoặc bất cập, thì huynh đệ đều không có. Vị trí Khố trung hòa
đồng khí, chủ có Sát sinh vƣợng mà Quan bại tuyệt, con gái mạnh mà con trai suy. Tài Quan
vƣợng thân chủ hƣu, gia đình chồng hƣng thịnh mà mất nhà tổ. Nữ có Tỉ Kiếp quá nhiều,
nuôi chồng có vợ mất; Nam tử có Tài thắng Kiếp nặng, tƣ tƣởng trong lòng vợ có nhiều ham
muốn dục vọng. Năm tháng có Ấn thụ tƣơng sinh, có nhận đƣợc sản nghiệp; ngày giờ có
Thương Quan thương tận, phát sinh bất nghĩa vì tham của cải bất chính. Can năm có Quan
tinh, tổ phụ làm quan; can tháng có Quan tinh, huynh đệ nhất định quý. Nam gặp Tỉ Kiếp thì
nhất định tổn thƣơng vợ, Nữ nhập Ấn Kiêu khó có con cháu. Dƣơng Nhận gặp Thƣơng Quan,
Thất Sát, cốt nhục thân hữu bị tổn thƣơng tình cảm; tam hợp, lục hợp tƣơng hòa, bằng hữu tốt
khắp ngũ hồ tứ hải.
Lại nói: Thông thƣờng suy ra lục thân, nam mệnh lấy năm là cha, Thai là mẹ, tháng là huynh
đệ, quan chức lấy tháng là bạn bè đồng chức, ngày là bản thân là thê thiếp, giờ là con cháu,
quan chức lấy giờ là Đế Tọa họa phúc. Thông thƣờng ngày sinh là Tý Ngọ Mão Dậu, chủ lấy
mệnh vợ là Tý Ngọ Mão Dậu, nếu vợ sinh Thân Tý Thìn, sinh Sửu, sinh Giáp Kỷ, đều là
không lâu dài. Nhƣ khắc quá mức thì vợ tái giá, chỗ này không giới hạn. Phàm mệnh bên
trong tứ trụ có ta khắc là thê, không có ta khắc, danh viết là trong cục không có vợ, lại xem
186 | Tam mệnh thông hội

chỗ ngày sinh ở đất nào? Nhƣ ở đất Tài vƣợng thì có vợ đắc lực. Lại mang theo Quý nhân,
Lộc Mã, năm chủ vợ mang Quan lấy chồng. Nếu lúc ở bản mệnh có Tài ở xứ tử mộ tuyệt bại,
định chủ khắc hãm, hoặc cả đời góa vợ. Nếu nhật lộc lại thấy ở trụ giờ, nhƣ ngày Lục Bính
đƣợc giờ Quý Tị, ngày Lục Nhâm đƣợc giờ Tân Hợi, danh viết là Dự Sát, không những chủ
phú, cũng chủ nhờ vợ mà có Quan. Nếu ngày mang năm có Quan, hoặc năm có Ấn, chủ vợ
đoạt quyền chồng, hoặc là nhờ vợ, hoặc vợ thuộc gia đình quyền quý, hoặc chồng là Phò Mã
vợ là Quận Chúa. Ngày tọa mệnh Tài, lại ở đất Tài sinh vƣợng, chủ đƣợc vợ tài năng, lại chủ
có vợ hiền minh. Ngày tọa Quý nhân, chủ vợ có gia đình danh tiếng, hoặc hiền thục xinh đẹp.
Nếu mệnh mang Nhật Hình, ngày mang năm xung phá năm, Dƣơng Nhận, Kiếp Sát, Lục ách,
Nguyên Thần, Không Vong, hoặc cƣới ba bốn lần, hoặc không có vợ.
18-04-16, 13:34
lesoi
Định phụ nữ mang thai sinh nam hay nữ

Quyết viết:
Số tuổi Phụ Mẫu an hai đầu,
Trong tháng thụ thai xếp ở giữa;
Càn Khảm Cấn Chấn là nam nhi,
Tốn Ly Khôn Đoài đều là nữ.
Giả nhƣ tuổi cha mẹ đều chẵn là hai hào gãy ( - - ), tháng thụ thai lẻ là một hào đơn (―),
thành quẻ Khảm (☵), định là nam; tuổi cha mẹ đều là đơn, tháng thụ thai chẵn gọi là Sách,
thành quẻ Ly (☲), định là nữ. Trên là tuổi cha, dƣới là tuổi mẹ, ở giữa là tháng mang thai,
xếp thành một quẻ, còn lại cứ loại suy.
Lại có một phép: Lấy số Đại Diễn mà suy.
Quyết viết:
Bảy lần bảy bốn chín,
Hỏi mẹ có tháng nào;
Lại chia năm sinh mẹ,
Đơn lẻ đôi là chẵn;
Chẳng lẻ nếu bất thường,
Mệnh thọ không lâu dài.
Giả nhƣ trƣớc bàn tính dƣới số 49, thì cộng thêm số tháng mẹ thụ thai, tổng cộng có bao
nhiêu số. Nếu thai gặp tháng giêng, là số 50, trừ đi mẹ 31 tuổi, số dƣ là 19, 9 là lẻ, số lẻ là
nam. Nếu lẻ sinh nữ, chẵn sinh nam, chủ chết yểu.

(Hết quyển 7)

lesoi

Quyển 8
Quyển 8:

Đoán ngày giờ Lục Giáp

1. Đoán ngày Lục Giáp giờ Giáp Tý

Ngày Lục Giáp sinh giờ Giáp Tý,


Bại gặp Ấn thụ Quan đến sinh;
Tháng thông mộc khí không tầm thường,
187 | Tam mệnh thông hội

Nếu trái thì nói danh lợi hư.


Ngày Giáp giờ Giáp Tý, tuy là Giáp bại ở Tý, có ám Quý thủy Ấn thụ sinh khí, kiêm có Quan
sinh Ấn, nếu Kỷ thổ phá Ấn, thông khí tháng, là quý. Nếu không, hoa nở mà không có quả.
+ Ngày Giáp Tý giờ Giáp Tý, là Tý diêu Tị cách, năm tháng không có Canh Tân Thân Dậu,
Sửu hợp trói còn Ngọ thì xung, nên xa tổ mà tự lập, quý. Nếu năm tháng đều là Dần, gặp vận
Thân Dậu, đại phú về sau thoái tài. Năm tháng Tý Hợi Mão Mùi, hành Tây vận, quý. Tháng
Giáp Thìn cũng quý. Tháng Dậu, chỉ lấy Chính Quan cách luận, là đại quý. Tháng Tị Ngọ
Tuất, là bình thƣờng. Tháng Ngọ, Giáp Tý có Tý xung, càng không tốt. Tháng Ất Mão, Ất Tị,
chủ phép chết. Bên trên vốn là lấy ngày giờ làm chủ, và lấy năm tháng sinh mệnh là phụ, ngôi
quan là khác nhau, chỗ này triển vọng là đại mệnh vậy. Phía dƣới cũng vậy.
+ Ngày Giáp Dần giờ Giáp Tý, mệnh Củng Sửu đƣợc Tân Quan, là quý. Năm tháng không có
Canh Tân Thân Dậu Sửu Mùi, là đại quý. Tiếp ở tháng là Giáp Dần, thì cô khắc, duy chỉ có
thể là tăng đạo. Năm tháng có Hợi Tý, quý ở ngôi tứ phẩm. Tháng Ngọ, hành vận phƣơng
Đông Bắc, cũng quý. Nhƣ các tháng Dậu Sửu Tị, rõ ràng là có Quan Sát, nhƣng trụ có Ấn,
đều quý. Mão Mùi, thân thái vƣợng, không thể tránh khỏi hình thƣơng. Tháng Ất Tị, thụ
hình. Tháng Đinh Hợi, trong vƣợng gặp hung xấu.
+ Ngày Giáp Thìn giờ Giáp Tý, nếu thấy thủy ở trụ năm tháng, là thủy phiếm mộc phù, chủ
rễ dời thay lá; tháng Thân, là Sát tinh hội Ấn, đều quý. Tháng Tý, hành vận thủy mộc, cũng
quý. Tháng Dậu là Chính Quan, đại quý. Tháng Dần Ngọ Tuất, đều cát. Tháng Ất Mão, thì
hình chiết. Tháng Quý Tị, thủy hỏa đều gặp tử. Tháng Quý Hợi, chết hung.
+ Ngày Giáp Ngọ giờ Giáp Tý, ngày giờ gặp xung, sợ tổn thƣơng vợ, tháng thông mộc khí là
hiển quý. Năm tháng thuần Tý Ngọ, hoặc tháng Hợi Mùi Dậu, đều quý.
+ Ngày Giáp Thân giờ Giáp Tý, Giáp Thai gặp Ấn, Ấn hóa Sát, là quý. Uyên ƣơng trùng
điệp, khó có con nối dõi. Nếu hành vận phƣơng Đông Nam, ở giữa chức văn vũ. Các tháng
Hợi Mão Mùi Thìn Sửu Thân, đều quý. Tháng Ất Mão là yểu. Tháng Đinh Tị, chết không
toàn thây.
+ Ngày Giáp Tuất giờ Giáp Tý, là Củng Hợi đất Thiên Môn, gặp Hội Đồng đế khuyết, Giáp ở
đất trƣờng sinh vậy, không thể lấy Cách Giác luận. Năm tháng thông Thân Tị Dậu Sửu kim
khí, là đại quý. Năm tháng Mậu Dần, chủ bị câm điếc, hoặc gặp Sói Hổ thƣơng hại, thấy
Nhâm thì cát. Tháng Ất Mão, chết vì hình phạt, tháng Ất Hợi, gặp cƣớp giết.
Bên trên là 6 ngày năm tháng hỷ kị, nên có phƣơng pháp linh hoạt mà xem. Dƣới đây cũng
giống nhƣ vậy.

Giáp Tý gặp nhau nối Giáp Tý,


Nghĩ lấy cung Hằng bẻ Quế tiên;
Sửu trói cùng xung Quan Quỷ phá,
Công danh lận đận không chu toàn.
Ngày Giáp Tý gặp giờ Giáp Tý, trong đó có cùng dấu hiệu Ấn thụ. Nếu gặp Canh Thân Tân
Dậu, lại thêm năm tháng có Sửu Mùi. Củng quý ám tàng rất vinh hiển, gặp Tị Ngọ xung phá
là trung bình. Kết quả không có hình khắc và Không xung, định chủ là ngƣời siêu quần xuất
chúng.

( Dưới đây là chỗ tháng kị phân ra đoán cùng với thời gian )
18-04-16, 13:39
lesoi
Đoán ngày Lục Giáp giờ Ất Sửu

Ngày Lục Giáp sinh giờ Ất Sửu,


Kiếp tài Dương Nhận không nên có;
Trong trụ gặp hỏa mang Tân kim,
188 | Tam mệnh thông hội

Chế phục hòa bình quý cũng dài.


Ngày Giáp giờ Ất Sửu, Tân kim là Quan, Kỷ thổ là Tài, trong Sửu có ám Kỷ, bị Ất lộ Kiếp (
cƣớp ) đoạt, Ất Sửu là giờ Kim thần, nếu năm ngày giờ hợp thành hỏa cục, đƣợc chế phục,
chủ đức tính thuần hòa mà quý; không có hỏa thì hung bạo ngu si; nhƣ hợp thủy cục hung ác
sẽ giảm mạnh.
+ Ngày Giáp Tý giờ Ất Sửu, đƣợc hợp liền thành một chuỗi là vợ hiền con quý. Mùa Xuân
thân vƣợng, tài bạch phá tán. Mùa Hạ Giáp suy, là Kim thần có chế, quý. Mùa Thu, chỉ là
quý. Tháng Sửu là tốt nhất, tháng Hợi, Tý nhiều hung.
+ Ngày Giáp Dần giờ Ất Sửu, mùa Xuân thì bần, mùa Thu thì quý, mùa Đông thì phú, mùa
Hạ hỏa chế Kim Thần là cát.
+ Ngày Giáp Thìn giờ Ất Sửu, chủ phú về sau có tài, thông hỏa khí ở năm tháng, quý.
+ Ngày Giáp Ngọ giờ Ất Sửu, là Kim thần nhập hỏa cục, thân nhƣợc thì bần yểu. Dần Tuất là
hội hỏa, là một mộc mà gặp nhiều vị trí hỏa, không cát. Nếu chỉ có một Dần một Tuất, hoặc
tháng Thân Dậu Hợi, là vị trí quý ở hàng tứ ngũ phẩm.
+ Ngày Giáp Thân giờ Ất Sửu, mang tật, bình thƣờng. Sinh tháng Tý, vận Nam phƣơng, là
quý. Sinh mùa Thu là hóa Sát, thiên can thấu Ấn thụ, càng quý.
+ Ngày Giáp Tuất giờ Ất Sửu, ruộng liền một mạch, nhƣng không tránh tránh khỏi hình phạt
trƣớc đó. Năm tháng gặp Dần, cha con đều vinh hiển. Tháng Tý, Tây phƣơng vận, kim tử.
Kiếp tài Dương Nhận trụ giờ kị,
Trong cung Tài Quan khóa đóng cửa;
Thìn Mùi gặp nhau là đại cát,
Nếu không tùy ý qua sớm chiều.
Ngày Giáp gặp giờ Ất Sửu, trong khố cất giữ vàng ngọc. Quý nhân Thiên Ất Kiếp tài
Thƣơng, là mây che trăng sáng. Hỏa cục vận Nam phƣơng là quý, giống nhƣ Kim thần bị chế
phục. Mộc khô thủy thịnh lại bình thƣờng, ly hƣơng xa tổ mà về sau thịnh vƣợng.

(Dưới đây là chỗ kị của Lục Giáp giống như trên, hợp thời gian mà luận )
18-04-16, 13:40
lesoi
Đoán ngày Lục Giáp giờ Bính Dần

Ngày Lục Giáp sinh giờ Bính Dần,


Ở giờ Nhật Lộc tọa Thực thần;
Vượng Nhâm không thấy có hình phá,
Phúc thọ khang ninh phú quý nhân.
Ngày Giáp gặp giờ Bính Dần, Giáp mộc ở trên Dần là kiện vƣợng, Bính là Thực thần, là Thọ
tinh đắc địa, trụ không có Nhâm đoạt Quý khắc, khí tháng thông hỏa mộc là quý, kị thấy
Quan tinh cùng Thân xung lộc.
+ Ngày Giáp Tý giờ Bính Dần, là Nhật lộc cư thời, hiệu Thanh vân đắc lộ, năm tháng không
có Canh Tân kim, là quý; thông mộc hỏa khí là cực quý. Tháng Ngọ hành vận phƣơng Đông
Bắc, quý ở ngôi ngũ lục phẩm. Tháng Thân, là Quy lộc phùng Sát, chủ đại quyền quý; thủy
cục là bình thƣờng. Nếu năm tháng và ngày giờ giống nhau, là đại quý.
+ Ngày Giáp Dần giờ Bính Dần, năm tháng không có chữ Tị Dậu Tân Sửu, là Quy Lộc cách,
vị trí đến hàng nhất nhị phẩm. Thuần mộc hỏa kèm theo thổ, là phú quý song toàn, chức lục
khanh. Bính Tý cùng Hợi Mùi, tháng Mão, quý ở ngôi tứ ngũ phẩm; hành vận phƣơng Tây
Nam, rất tốt. Cũng có tháng Dậu, Sửu là quý, xem can thấu cùng năm nhƣ thế nào.
+ Ngày Giáp Thìn giờ Bính Dần, gọi là Long Hổ củng môn, còn gọi là Long ngâm Hổ khiếu,
chủ quý, hoặc là quý cả đời, tài nguyên hoặc đƣợc hoặc mất, danh lợi vừa Ký tế ( có giúp)
vừa Vị tế (không giúp). Tháng năm Mùi, Dần, làm quan đến lục khanh; tháng Tuất phong
quan trên; tháng Dậu cấp tam phẩm; tháng Tý, Hợi, Sửu hàng tứ ngũ phẩm, hành Tây phƣơng
189 | Tam mệnh thông hội

vận, là đại quý; năm tháng Mão, Tị là bình thƣờng.


+ Ngày Giáp Ngọ giờ Bính Dần, bản thân ở tuyệt địa, chủ bình thƣờng. Nếu thông tháng
thủy, mộc đƣợc nuôi dƣỡng, thì cát; tháng hỏa thì thọ yểu, thiên can có Tỉ trợ thì không ngại.
+ Ngày Giáp Thân giờ Bính Dần, ngày giờ cùng xung, sợ tổn thƣơng vợ. Nếu năm tháng
ngày giống nhau, thì đại quý; tháng Tị, Hợi hàng nhị tam phẩm; tháng năm có Thìn, Tý, hội
thủy thì gọi là Dĩ Sát hóa Ấn, là cát; tháng Mùi là Tài khố, cũng cát.
+ Ngày Giáp Tuất giờ Bính Dần, năm tháng có thổ thì phú; có kim thì phản phục. Nhƣ có
kim, cần phải sinh tháng Hợi Tý mới quý, các tháng còn lại thì không quý.

Giáp Bính mời nhau vào đất Hổ,


Phúc tinh tọa Lộc hiển văn chương;
Vận gặp tứ trụ không thương hại,
Sớm muộn cũng bước lên thềm quan.
Ngày Giáp giờ Dần gặp Bính, văn học phúc lộc đều có. Nếu gặp Thìn Tuất, là 2 -3 vợ, Lộc
chủ triều nguyên là phú quý. Đinh Ngọ Canh Thân là giảm phúc, là dẫn đến trói buộc mà
không có quan. Có ngƣời đề cập làm quan từ nhỏ, mệnh này trƣớc khó sau dễ.
18-04-16, 13:41
lesoi
Đoán ngày Lục Giáp giờ Đinh Mão

Ngày sinh Lục Giáp giờ Đinh Mão,


Thương quan Dương Nhận đúng nhận phiền;
Cho dù có khí tháng giúp đỡ,
Khó tránh là người tâm không tốt.
Ngày Giáp giờ Đinh Mão, Thƣơng quan Dƣơng Nhận, Giáp dụng Tân là Quan, chữ Đinh là
Thƣơng, dụng Tị là Tài, trong Mão có Ất mộc là Kiếp, chủ là ngƣời hung bạo ngu si. Nếu trụ
thấu Tân, là Thƣơng quan kiến Quan, hình hại trăm điều, vận khí là hung hiểm, cuối cùng là
không tốt; trụ có Thất Sát hợp Nhận, hành Tài Quan Ấn thụ, chủ đại quý.
+ Ngày Giáp Tý giờ Đinh Mão, là khắc cƣớp keo kiệt bủn xỉn, làm việc tiến lui, khó tránh
hình thƣơng vợ, hoặc chết ở nơi đất khách. Sinh tháng Thìn Tuất Sửu Mùi, là quý. Tháng
Mão là hung, trụ có Quan Sát chế cũng cát.
+ Ngày Giáp Dần giờ Đinh Mão, năm tháng có mộc hỏa quân bình, là tƣợng thông minh,
quý. Nguyệt lệnh tọa Sửu, Mùi là quý. Tháng Ất Hợi, văn chƣơng cái thế, làm quan đến tam
phẩm, can chi đầy đủ kim thủy, là cả Quan Ấn đều hiển quý.
+ Ngày Giáp Thìn giờ Đinh Mão, tài bạch đầy mắt, cuộc sống quá đủ, cợ hiền con hiếu, luận
cao mệnh. Sinh mùa Xuân thái vƣợng không có chế, là bần tiện tàn tật. Tháng Sửu, Dậu là
quý.
+ Ngày Giáp Ngọ giờ Đinh Mão, thân tọa ở tuyệt địa, là hung hình. Nếu sinh mùa Thu Đông,
thọ yểu. Sinh mùa Xuân Hạ là phú quý. Tháng Giáp Ngọ là đại quý, vận nên hành Đông Bắc
phƣơng.
+ Ngày Giáp Thân giờ Đinh Mão, chủ vũ chức, phong quan quyền quý. Tháng Dậu, vận hỏa
mộc, là trung quý. Năm tháng có Dần, Ngọ là đại quý.
+ Ngày Giáp Tuất giờ Đinh Mão, gặp tháng Hợi, có tài học, là quý hiển. Dƣơng Nhận là
đứng đầu hủy hoại, tạo hóa cần phải có chế hợp mới cát; thân nhƣợc không có hung, nếu năm
tháng thuần Sát, Giáp mộc sinh mùa Thu, chủ yểu chiết.

Giáp tuần 6 ngày gặp Đinh Mão,


Trùng trùng điệp điệp sợ xung hình;
Vận hành Bối Lộc không quan quý,
Đến già nghèo khổ không có danh.
190 | Tam mệnh thông hội

Ngày Giáp đến giờ Đinh Mão, Thƣơng quan Dƣơng Nhận cùng theo nhau. Giáp gặp Đinh
hỏa hóa thành tro, cha mẹ anh em khó nƣơng tựa. Tổ nghiệp ruộng vƣờn tiền tài đều tụ tán,
nói chung vợ con có tổn hại. Vận hành Quan Sát mới là tốt, tính cách lúc nóng lúc vui.
18-04-16, 13:41
lesoi
Đoán ngày Lục Giáp giờ Mậu Thìn

Ngày Lục Giáp sinh giờ Mậu Thìn,


Thiên Tài tọa khố hội sinh thân;
Buôn bán giàu có điền viên thịnh,
Tháng mang Tân kim danh lợi thành.
Ngày Giáp sinh giờ Mậu Thìn, là Thiên Tài tọa khố, trụ giờ có Thiên Tài, Gặp Thìn là thủ
khố, chủ là buôn bán phát tài, ruộng vƣờn hƣng thịnh. Tháng 8 kèm theo Lộc, đều có Tài
Quan, là phú quý song toàn. Kị gặp Tỉ kiên, và Dƣơng Nhận đoạt Tài.
+ Ngày Giáp Tý giờ Mậu Thìn, chủ dời căn thay lá, là đổi họ thay tên, thì vợ hiền con hiếu,
luận lấy cao mệnh. Tháng Mùi, hành vận Bắc phƣơng, là quý. Tháng Dậu, vận Bắc phƣơng,
là đại quý.
+ Ngày Giáp Dần giờ Mậu Thìn, là Long ngâm Hổ khiếu cách, là quý. Thuần Thìn, là trung
quý. Thuần Dần là khang thọ. Hợi Mão Mùi tam hợp, là Tài vƣợng thân cƣờng, đại quý. Năm
tháng có Dậu Sửu Thân cũng cát.
+ Ngày Giáp Thìn giờ Mậu Thìn, hình xung là phát tài, có vợ con muộn, có khắc song thân.
Tháng Dậu quý hàng tam tứ phẩm. Tháng Sửu cũng quý. Địa chi thuần Thìn, đại quý.
+ Ngày Giáp Ngọ giờ Mậu Thìn, là tài nhiều thành bại, tuổi trẻ nản chí. Năm tháng có Hợi Tý
Sửu Mão Ngọ Mùi là đại quý. Tháng Dậu cũng quý.
+ Ngày Giáp Thân giờ Mậu Thìn, chủ mồ côi, là tăng đạo thanh cao. Tháng Sửu phú quý.
Tháng Dần càng quý.
+ Ngày Giáp Tuất giờ Mậu Thìn, là đại phú, năm tháng phù hợp cũng quý. Năm tháng có
Dần Hợi, quý hàng tam tứ phẩm. Nhƣng ngày giờ cùng xung khắc, tuổi trẻ thân mồ côi, trung
niên phát phúc.

Thời thượng Thiên Tài dụng không nhiều,


Trong ngoài can chi phải tìm kĩ;
Vận thông Tài vượng đến sinh Quan,
Vận kém thân suy sợ gian lao.
Ngày Giáp gặp giờ Mậu Thìn, trong trụ cần có Tuất phù trợ. Vận khí Tài Quan thì mở đƣờng
tốt, hỷ gặp Tài Thìn thủ khố. Tân Canh thấu can thì quý hiển, Nhâm Quý sinh trợ không xác
xơ. Chỉ sợ Tỉ Kiếp nhiều huynh đệ, gặp ở tuế vận thì có họa.
18-04-16, 13:42
lesoi
Đoán ngày Lục Giáp giờ Kỷ Tị

Ngày Lục Giáp sinh giờ Kỷ Tị,


Gặp bệnh Tài vật thực khó nhận;
Nguyệt thông hỏa khí mới là quý,
Nếu là thân suy cũng không nhận.
Ngày Giáp giờ Kỷ Tị, là Thực vƣợng thân suy, Giáp mộc bệnh ở Tị, tuy có ám Mậu là Tài,
Bính là Thực, không thông khí tháng, khó mà nhận phúc. Giáp Kỷ gọi là Bình Đầu Sát, sinh
gặp mùa Xuân, là thân vƣợng Tài suy, chủ cốt nhục hình thƣơng, việc làm cả đời tốt biến
thành xấu. Kỷ Tị là giờ Kim thần có hỏa chế phục, Tị Dậu Sửu hợp cục, hành Nam phƣơng
191 | Tam mệnh thông hội

vận, danh trọng lộc cao. Trụ không thấy hỏa, tàn hại hóa khí, chủ hung ác bạo vong.
+ Ngày Giáp Tý giờ Kỷ Tị, trƣớc bần sau phú, tổ nghiệp xem nhẹ, vợ thì chịu khó còn con thì
khó khăn. Sinh năm tháng Dần Mùi Tị Sửu, dù có quý cũng đề phòng bệnh tật. Thân Tý Thìn
Tuất, là đại quý.
+ Ngày Giáp Dần giờ Kỷ Tị, ngày giờ tƣơng hình, sợ tổn hại vợ. Năm tháng sinh có hỏa, có
tài quyết đoán sáng suốt, nắm chức binh quyền. Năm tháng Mậu Tý, kế thừa tổ ấm ông bà
cha mẹ để lại, chủ phú.
+ Ngày Giáp Thìn giờ Kỷ Tị, phong cách đôn hậu, cả đời bình an, tài bạch có thành. Năm
tháng có Tị Dậu Sửu, hành vận hỏa kim, là quý.
+ Ngày Giáp Ngọ giờ Kỷ Tị, là Kim thần nhập hỏa hƣơng, là đại quý. Tháng Dậu, hành vận
hỏa mộc, có quyền vũ chức.
+ Ngày Giáp Thân giờ Kỷ Tị, là ngƣời đôn hậu thông minh, giỏi ở quyết đoán, thân cô thanh
quý, khó tránh phá hình.
+ Ngày Giáp Tuất giờ Kỷ Tị, là Tài thần quý cách, danh lợi lƣỡng toàn. Năm tháng có Tý
Tuất, quý ở hàng ngũ phẩm.

Giáp Kỷ trung ương làm Thổ thần,


Giờ gặp Thìn Tị thoát ai trần;
Cục gặp tuế vận hướng Viêm hỏa,
Hiển lộ công danh phú quý nhân.
Ngày Giáp giờ gặp Kỷ Tị, hỏa đến thổ dày là không có ánh sáng. Mầm gặp hạn đƣợc mƣa là
xanh tƣơi, hỏa cục Kim thần vƣợng tƣớng. Tiến sĩ có danh mà không có thực, thƣờng nhân
thay đổi họ thì tốt. Ngƣời có tính cách không tầm thƣờng, về già tốt.
18-04-16, 13:43
lesoi
Đoán ngày Lục Giáp giờ Canh Ngọ

Ngày Lục Giáp sinh giờ Canh Ngọ,


Xứ tử lại gặp Quỷ đương đầu;
Đinh Bính không phùng sinh lại nhược,
Vội vàng bần khổ qua xuân thu.
Ngày Giáp giờ Canh Ngọ, tử địa lại gặp Quỷ, Giáp mộc tử ở Ngọ, Ngọ trên đầu thấy Canh là
Quỷ, không thông khí tháng , không có cứu trợ, mang bệnh tật ngắn thọ. Tháng gặp Bính
Dần, thân vƣợng Canh tuyệt thì cát, cũng chủ có thủy không có chung. Nếu thông mộc khí,
chủ phƣơng hƣớng, thông thủy khí, hành vận Đông phƣơng, ngừng chức quan.
+ Ngày Giáp Tý giờ Canh Ngọ, là ngày giờ tƣơng xung, lo tổn thƣơng vợ, là bình thƣờng.
Nếu năm tháng có Tý Ngọ cùng tháng sinh Dần Tuất, hành vận Tây Bắc phƣơng, kim tử là
phong quan.
+ Ngày Giáp Dần giờ Canh Ngọ, mùa xuân thì có thọ. Mùa Hạ là Thƣơng quan thƣơng tận,
tài nguyên tiến lui. Thân là có quyền, Dậu là phản phục. Mùa Đông tổn thƣơng vợ. Năm
tháng có Tý Mùi là Sát trợ Ấn sinh, quan tứ phẩm.
+ Ngày Giáp Thìn giờ Canh Ngọ, ruộng vƣờn vui hƣởng. Tháng Dần, hành kim vận, là phong
quan trên.
+ Ngày Giáp Ngọ giờ Canh Ngọ, phá tổ nghiệp phát tài, bởi vì Lộc mà cuối cùng là không
đƣợc tài. Năm tháng có đủ Dần Ngọ Tuất, là quý.
+ Ngày Giáp Thân giờ Canh Ngọ, năm tháng Tý Thìn là hội Ấn. năm tháng có Hợi Mão thì
thân vƣợng, đều quý. Dần Tuất hội Thƣơng chế Sát, Giáp đƣợc ký gửi, cũng quý, vận hỷ kim
thủy.
+ Ngày Giáp Tuất giờ Canh Ngọ, sinh tháng Thìn Tuất, là ngƣời đôn hậu, không quý thì phú.
Tháng Sửu hành vận hỏa thổ, kim tử thì phong quan, tháng Dần là thanh quý.
192 | Tam mệnh thông hội

Giờ Ngọ Canh Thân là Thiên Quan,


Chế phục phù hợp không đợi nhàn;
Thân nhược Sát cường không thấy Thực,
Mưu vọng cả đời chủ gian nan.
Ngày Giáp giờ gặp Canh Ngọ, trong trụ hỷ thấy Dần Thân. Thân cƣờng Sát thiển chuyển tinh
thần, hành vận Tỉ Ấn là không thuận. Tuổi trẻ sớm hình hại vợ, về già là ngƣời xuất chúng
siêu quần. Cả đời thất thƣờng nhiều lật đổ, mệnh trƣớc phá sau thành.
18-04-16, 13:44
lesoi
Đoán ngày Lục Giáp giờ Tân Mùi

Ngày Lục Giáp sinh giờ Tân Mùi,


Quan tinh tọa quý là tối ưu;
Tháng gặp kim khí nên vinh quý,
Tài lộc ngang nhau có chí khí.
Ngày Giáp giờ Tân Mùi, giờ quý gặp Quan, Giáp thấy Tân là Quan, Mùi có Thiên Ất quý
nhân; Kỷ là Tài, trong Mùi có Kỷ thổ đắc khí, nếu thông mộc khí tháng, có chỗ dựa là phú;
thông thổ khí tháng, thì phú quý song toàn.
+ Ngày Giáp Tý giờ Tân Mùi, tháng Thìn Tuất Sửu Mùi và Kỷ Dậu, phƣơng đất thổ kim, là
văn quý hiển đạt.
+ Ngày Giáp Dần giờ Tân Mùi, tháng Dần Thân là quý. Năm tháng thuần Dậu Sửu, là đại
quý.
+ Ngày Giáp Thìn giờ Tân Mùi, tháng Thìn Tuất Sửu Mùi là phú. Năm tháng có Tị Dậu Sửu
Tý là quý.
+ Ngày Giáp Ngọ giờ Tân Mùi, mùa xuân thì cát, mùa hạ thì hung, mùa thu thân nhƣợc khó
nhận quan lộc, mùa đông là quý.
+ Ngày Giáp Thân giờ Tân Mùi, mùa xuân thì cát, mùa hạ gian khổ, mùa thu hiển đạt, mùa
đông căn cơ biệt lập là quý. Tháng Tý Sửu, là đại quý.
+ Ngày Giáp Tuất giờ Tân Mùi, trƣớc hình sau quý. Năm tháng Dần Mão Dậu Sửu là quý,
năm tháng Tý Thân, địa vị đến quý hiển.

Giáp gặp Tân Mùi là Tài Quan,


Từng bước lên cao đường không khó;
Không so lui ẩu Gà hóa Phượng,
Được thời bay cao quá đường mây.
Ngày Giáp gặp giờ Tân Mùi, Tài Quan thủ khố trợ giúp. Quý nhân Tài Lộc là đƣờng tốt, đầu
gian khổ cuối cùng Mùi là vinh phú. Quân tử Thiên Quan tiến chức, thƣờng nhân phong phú
đầy bụng. Hình xung phá hại không có trong trụ, định đƣờng đƣợc thanh vân.
18-04-16, 13:45
lesoi
Đoán ngày Lục Giáp giờ Nhâm Thân

Ngày Lục Giáp sinh giờ Nhâm Thân,


Lộ Kiêu ám Quỷ tọa trên thân;
Trụ không Bính Mậu thu đông vượng,
Khảm thủy phiêu lưu người vô định.
Ngày Giáp gặp giờ Nhâm Thân, Giáp mộc tuyệt ở Thân, đất Thân Nhâm thủy trƣờng sinh,
Canh kim là Kiến Lộc, lộ Kiêu ám Quỷ, Giáp vƣợng hóa Quỷ thành Quan, tự khó tránh hung
193 | Tam mệnh thông hội

bạo. Nếu sinh mùa thu Canh vƣợng, sinh mùa đông Nhâm vƣợng, trụ không có Bính Mậu chế
phục, là tƣợng phiêu lƣu. Nếu ở tháng Tị Ngọ, là đại cát. Mạnh mẽ thấu Canh, lấy Sát luận,
vận hành Bắc phƣơng, là quý.
+ Ngày Giáp Tý giờ Nhâm Thân, tháng Thân Tý Thìn Hợi, là Thủy phiếm mộc phiêu, là Di
căn hoán diệp, là Ngọc đường kim mã, là quý. Thủy thổ vận, hung.
+ Ngày Giáp Dần giờ Nhâm Thân, trong vƣợng có mất. Tháng Thìn Tuất Sửu Mùi là Câu
Trần đắc vị; tháng Dần, Ngọ, Tuất, là Thiên Quan có chế; mùa thu, hành Đông Nam vận, đều
quý.
+ Ngày Giáp Thìn giờ Nhâm Thân, năm tháng có Dần Thìn, là văn chƣơng hiển quý. Thấu
Bính Mậu càng tốt.
+ Ngày Giáp Ngọ giờ Nhâm Thân, tháng Thân Tý Thìn, thay danh đổi họ, mệnh là đôn hậu.
Tháng Ngọ là quý.
+ Ngày Giáp Thân giờ Nhâm Thân, tháng Dần, là Thân Sát lƣỡng đình; tháng Mão, lấy Nhận
hợp Sát, đều quý. Tháng năm có Tý Thìn, thì lấy Sát hóa Ấn; tháng Tị Ngọ hỏa, là Thất Sát
có chế, đều cát. Rất sợ Sát vƣợng thân nhƣợc, là đại hung.
+ Ngày Giáp Tuất giờ Nhâm Thân, tháng Thìn Tuất Sửu Mùi, áo gấm có thành; tháng Hợi là
Học Đƣờng; tháng Dần là Kiến Lộc; đều quý. Tháng Ngọ Dậu ngắn thọ, nếu không thì cũng
bần tiện.

Ngày Giáp gặp giờ hỷ gặp Thân,


Thiên Quan Thiên Ấn sợ hình xung;
Dục cầu danh lợi đều khó định,
Có cứu cần giảng vận khí thông.
Ngày Giáp gặp giờ Nhâm Thân, là Đảo Thực ám Quỷ hại thân. Sinh gặp thân vƣợng chủ vinh
xƣơng, thân nhƣợc tính tình là vô định. Anh em lục thân ít lực, mƣu thành tự lập tự thành.
Vận hành cát địa hiển thanh danh, vận nhƣợc mệnh bình thƣờng.
18-04-16, 13:45
lesoi
Đoán ngày Lục Giáp giờ Quý Dậu

Ngày Lục Giáp sinh giờ Quý Dậu,


Ám Quan lộ Ấn không hi vọng;
Trong trụ có hỏa không hình phá,
Nguyên mệnh Thai sinh liền hiểu quý.
Ngày Giáp giờ Quý Dậu, nguyên mệnh Thai sinh, Giáp mộc trên Dậu là thụ Thai, là nơi Giáp
sinh khí, Quý lộ là Ấn, ám Tân là Quan, có đất Tị phá Ấn, không quý. Dậu là kim thần, nếu
trụ có Dần Tuất, là thông hỏa khí, đức tính thuần hậu mà quý. Không có hỏa thấy thủy, là
hung bạo tàn tật.
+ Ngày Giáp Tý giờ Quý Dậu, sinh xuân thì mộc vƣợng; tháng Dậu là thuần Quan, là quý.
Nếu lấy Sát hỗn, hoặc Sát nhiều, trong trụ hoàn toàn không có hỏa khí, là hung.
+ Ngày Giáp Dần giờ Quý Dậu, sinh mùa xuân là thọ, mùa hạ là không tốt. Mùa Thu tính
tình là vô định, nhiều hung. Mùa Đông là bình thƣờng. Tháng Sửu Mùi là quý.
+ Ngày Giáp Thìn giờ Quý Dậu, năm tháng có Tý Tuất, có Tài có Quan, là quý.
+ Ngày Giáp Ngọ giờ Quý Dậu, chủ cô đơn. Sinh tháng Dần Ngọ Tuất, hành Đông Bắc
phƣơng thì bãi quan.
+ Ngày Giáp Thân giờ Quý Dậu, là bình thƣờng. Tháng thông khí hỏa, hành Nam vận, là phú
quý. Năm tháng có Thân Dậu, đa số là yểu. Có một thủy hóa kim, chỉ luận lấy Quan Ấn,
không lấy Kim thần cũng cát, nhƣng chủ sớm lui.
+ Ngày Giáp Tuất giờ Quý Dậu, năm tháng có Tý Tuất, văn chƣơng hiển quý. Tháng Tý Ngọ,
không quý cũng phú.
194 | Tam mệnh thông hội

Ngày Giáp giao thông giờ Quý Dậu,


Kim thần hỏa cục rất phù hợp;
Vận hành đất Nam không hình phá,
Phú quý vinh hoa mọi việc thành.
Ngày Giáp giờ gặp Quý Dậu, là ngƣời phú quý song toàn. Tam Kỳ phát phúc càng thăng
thiên, trên dƣới đều hòa thuận quý hiển. Quân tử thì làm cho bần hàn, thƣờng nhân thì thiết
lập điền viên. Không thƣơng không phá là anh tài, mệnh này định ở đất làm quan.
18-04-16, 13:46
lesoi
Đoán ngày Lục Giáp giờ Giáp Tuất

Ngày Lục Giáp sinh giờ Giáp Tuất,


Mộc gặp hỏa cục khí không mở;
Bảo vệ tốt đẹp phúc bình thường,
Ấn thụ cùng Thương có thể thành.
Ngày Giáp giờ Giáp Tuất, Giáp dụng Bính là Thực, Tân là Quan, trên Tuất Thực thần nhập
hỏa cục, Tân có dƣ khí, thân bị hỏa đốt, là ngƣời lƣơng thiện, y lộc bình thƣờng. Giáp lấy
Mậu là cha, Quý là mẹ, trên Tuất Giáp vƣợng tổn thƣơng Mậu, bên trong có ám thƣơng Mậu
Quý, Mậu Quý bị khắc, tức là làm khó song thân.
+ Ngày Giáp Tý giờ Giáp Tuất, mùa xuân thọ, mùa hạ hung bạo, mùa thu thì quý, mùa đông
thì dời rễ thay lá, trụ thấy thuần Hợi là kẹp góc, dù có quý nhƣng cuối cùng vẫn hung. Thìn
Tuất Sửu Mùi, là Tạp khí Tài Quan, cũng cát.
+ Ngày Giáp Dần giờ Giáp Tuất, Tỉ kiên tranh lộc, mộc khí bị đốt, sau 40 sẽ không bằng nhƣ
trƣớc. Năm tháng có Giáp Bính Thân Tý, là đại quý. Thuần Tuất thì phong quan, tháng Ngọ,
hành vận thủy hỏa, quý ở ngôi thất bát phẩm.
+ Ngày Giáp Thìn giờ Giáp Tuất, tài nguyên dày ổn định, tốt. Sinh mùa Xuân, vận kim hỏa,
làm quan đến lục phẩm.
+ Ngày Giáp Ngọ giờ Giáp Tuất, sinh mùa xuân, có quý nhân phù trì. Mùa Hạ, là Bối Lộc
trục Mã. Mùa Đông, Ấn bình thƣờng, cát. Tháng năm thuần Dần, chỉ có quý.
+ Ngày Giáp Thân giờ Giáp Tuất, Giáp Dậu là Quan quý, nhƣng thân cô, phát cũng không
dài. Sinh mùa Xuân, vận mộc thổ, quý.
+ Ngày Giáp Tuất giờ Giáp Tuất, là Bối lộc Trục mã, bình thƣờng. Sinh mùa Thu, Quan Sát
có khí, quý. Tháng Thìn Tuất Sửu Mùi, cát. Tháng Mão hung. Nếu năm tháng Bính Dần, năm
tháng Giáp Ngọ, có ba Giáp hai Thực Bính, Bính ở mùa Hạ là đắc thời, cƣ ở Dần là trƣờng
sinh, thì Giáp Thực là Kiến Lộc, chủ phú quý.

Giờ gặp Giáp Tuất gặp Tỉ kiên,


Có khố Thiên Lộc hỏa khí xung;
Kê Vịt (Dậu) cùng kêu cùng tụ tán,
Cuối cùng tâm chí không giống nhau.
Ngày Giáp giờ thông Giáp Tuất, Tỉ kiên kèm theo Lộc gặp nhau. Cô đơn trong khố ẩn trong
đó, thủ dụng chi Dậu Sửu Thìn. Không có chìa khóa xung hình mở phá, lập thân học nhiều
mà ít thành. Trụ kim mộc hỏa vƣợng hỏa sinh, mệnh trƣớc xấu sau tốt.
18-04-16, 13:47
lesoi
Đoán ngày Lục Giáp giờ Ất Hợi

Ngày Lục Giáp sinh giờ Ất Hợi,


195 | Tam mệnh thông hội

Dương Nhận phản thương là họa hại;


Tài Quan Tân Mậu không tương phùng,
Chỉ sợ công danh không hanh thông.
Ngày Giáp giờ Ất Hợi, Giáp mộc ở trên Hợi là trƣờng sinh có vƣợng, Ất là Nhận, chế khắc
Học Đƣờng, Nhâm là Đảo Thực, ở trên Hợi là Kiến Lộc. Giáp lấy kim là Quan, Mậu Kỷ là
Tài, Tân kim là mộc dục, Mậu Kỷ suy tuyệt, không thể lấy phúc. Sinh tháng Tị Dậu Sửu cùng
thấy Tân, trụ có chữ Mậu, là quý. Tuy thừa thông minh, nhƣng công danh không thành, là
ngƣời nghệ thuật vậy.
+ Ngày Giáp Tỳ giờ Ất Hợi, trở thành Xu Càn cách, là quý. Nhƣ sinh tháng Thân, Sát vƣợng
hợp Nhận, là quyền quý. Tháng Dậu là Chính Quan, trụ hơi đƣợc thổ trợ giúp, là đại quý.
Tháng Thìn Tị Sửu Mùi Tuất đều tốt. Năm tháng thuần Mão, Nhận vƣợng thì hung.
+ Ngày Giáp Dần giờ Ất Hợi, tháng Thìn Tuất Sửu Mùi, là phú. Tháng Thân Dậu là quý, mùa
đông thì bình thƣờng. Nếu tháng Dần Hợi là cao quý.
+ Ngày Giáp Thìn giờ Ất Hợi, tháng Dậu là Chính Quan, rất quý. Tháng năm là Thìn Tuất
Sửu Mùi cùng Dần Hợi, đều tốt.
+ Ngày Giáp Ngọ giờ Ất Hợi, tháng Mão là Dƣơng Nhận, hình cốt nhục, thân nhƣợc cuối
cùng là không tốt. Sinh mùa Xuân, quý là Tể phụ. Tháng năm là Thân Tý Tuất Ngọ, hành vận
thủy hỏa, làm quan đến lục khanh.
+ Ngày Giáp Thân giờ Ất Hợi, tháng Hợi, học vấn có thành, quý là phong quan trên. Tháng
Thân Dậu, trƣớc bần sau phú. Tháng Tý, hành vận thủy hỏa, kim tử. Thìn Tuất Sửu Mùi, là
Tạp khí Tài Quan; tháng Dần là Kiến Lộc, đều tốt.
+ Ngày Giáp Tuất giờ Ất Hợi, sinh mùa Xuân mùa Đông, là phú, chỗ phƣơng thổ dày là hiển
quý. Mùa Hạ, lao lực mà không tụ tài. Thu, bình thƣờng.

Ngày Giáp giờ gặp Ất Hợi cường,


Có Quan có Ấn không tầm thường;
Đến thời tự có cao nhân tiến,
Vận đến đất Tài đại hiển dương.
Ngày Giáp gặp giờ Ất Hợi, tự có Nhâm thủy tƣơng sinh. Giờ lâm Đế Tọa là Tử cung, đƣợc
dùng nghĩa tử nối dõi. Cha mẹ anh em ít giúp đỡ, tự ra hoa kết trái.
23-04-16, 09:20
lesoi
Đoán ngày Lục Ất giờ Bính Tý

Ngày Lục Ất sinh giờ Bính Tý,


Thương quan tọa quý phúc chưa đủ;
Trong trụ không thấy Quan hình phá,
Cả đời mới là quý lộc duyên.
Ngày Ất giờ Bính Tý, gọi là Lục Ất thử quý. Ất dụng Canh là Quan, tử ở Tý; thấy Bính là
Thƣơng, Bính ám mời Tân là Hóa Sát vi quyền, trong trụ không thấy Canh Tân, không có
Sửu hợp trói và Ngọ xung, mới thành cách, mệnh quý. Nếu ở trên có kị và không thông
nguyệt khí, là không có cứu trợ, là hung bạo nghèo hèn, có bệnh và ngắn thọ.
Ngày Ất Sửu giờ Bính Tý, thân nhƣợc là ngƣời bình thƣờng, không có Ngọ xuyên xung, hiền
đức ôn hậu. Năm tháng có Thân Dậu, là phong quan trên. Có Dần Tý, là quý hiển. Kị các
tháng Bính Dần, Kỷ Mùi, Giáp Tuất, Kỷ Sửu, chủ hung hình ác tử.
+ Ngày Ất Mão giờ Bính Tý, mệnh cao. Năm tháng có Thìn Tuất Sửu Mùi Hợi, không thấ
Quan tinh, là quý.
+ Ngày Ất Tị giờ Bính Tý, cát. Nếu năm tháng là Tị Ngọ, thọ ngắn, nếu không thì, thân cô
đơn lao lục, nếu thuần thổ, là Tài vƣợng sinh Quan, hành Tây vận; Tý Thìn, hành thủy hỏa
vận, đều là quan nhị tam phẩm. Tháng Thân là Chính Quan, tháng Dậu là Thiên Quan, tháng
196 | Tam mệnh thông hội

Mão là Kiến Lộc, đều cát. Kị tháng Giáp Dần, là hình yểu. Tháng Ất Dậu là hạ tiện.
+ Ngày Ất Mùi giờ Bính Tý, bình thƣờng. Nếu năm tháng là Tý Hợi, là đại quý, tuế vận cũng
vậy. Tháng Kị Tị Mùi, là hình thƣơng, tháng Bính Thân, thân chết không yên; tháng Kỷ Sửu,
phá tổ ác tử.
+ Ngày Ất Dậu giờ Bính Tý, là quý, thân cô, lật lọng đảo nghịch, tháng thông thủy khí,
không thấy Tân Ngọ cũng quý. Kị tháng Mậu Dần, là đại hung; tháng Đinh Tị, phá tổ mà
nghèo; tháng Kỷ Dậu, chết dƣới đao kiếm.
+ Ngày Ất Hợi giờ Bính Tý, hóa Thanh Xích, chủ phúc. Sinh năm tháng Canh Thìn, là phú
quý. Tháng thuần Hợi, thì thành bại. Tháng Sửu, hành Nam vận bãi quan. Tị Ngọ Tây vận,
cực bần. Kị tháng Nhâm Thìn, gặp hình; tháng Ất Dậu, phá tổ cao quý, gặp ác tử.

Lục Ất quý cách giờ Bính Tý,


Như không xung phá mới thành kỳ;
Không gặp Canh Thân Tị Dậu Sửu,
Cưỡi xe đội mũ bái lầu son.
Ngày Ất giờ lâm Bính Tý, nếu Thƣơng quan thƣơng tận là vinh xƣơng. Tháng Hợi Mão Mùi
là không tầm thƣờng, vận đến thân gặp vƣợng tƣớng. Không thấy Tân Canh là phát phúc,
Ngọ xung Sửu hợp trói là bình thƣờng. Nhƣ gặp một lúc hình khắc, Không vong, thì mệnh
này hoặc suy hoặc vƣợng.
23-04-16, 09:21
lesoi
Đoán ngày Lục Ất giờ Đinh Sửu

Ngày Lục Ất sinh giờ Đinh Sửu,


Thực thần tương trợ gặp Tài Quan;
Tháng thông kim khí hóa thành phúc,
Không phải tầm thường xem hạ tiện.
Ngày Ất sinh giờ Đinh Sửu, là Thực hội Tài Quan, Đinh là Thực, Canh là Quan, Kỷ là Tài,
trong Sửu có Tân kim hợp cục, Kỷ thổ đắc vị, giống nhƣ có chỗ nƣơng tựa, là quý. Thông khí
tháng hóa kim, phú dày vị trọng; không thông khí tháng, là bình thƣờng.
+ Ngày Ất Sửu sinh giờ Đinh Sửu, sinh mùa Thu là có quyền; chủ mang bệnh tật; mùa Hạ là
cát, mùa Đông bình thƣờng; mùa Xuân vƣợng, là quý thọ.
+ Ngày Ất Mão sinh giờ Đinh Sửu, tháng Hợi, thân vƣợng thấy Tân là Thiên Quan, trụ có
Đinh chế, phong quan vũ chức.
+ Ngày Ất Tị sinh giờ Đinh Sửu, tháng Hợi Mão Mùi Dần là quý. Thông tháng kim khí là có
chỗ dựa, là phúc dày.
+ Ngày Ất Mùi giờ Đinh Sửu, tháng Thìn Tuất Sửu Mùi, là phú. Xuân thì thọ dài, Thu thì
danh lợi, Hạ thì bần tiện, Đông thì bình thƣờng, năm tháng thấy Thân, là vũ chức tam phẩm.
+ Ngày Ất Dậu giờ Đinh Sửu, nếu thông mộc khí là có chỗ dựa, mệnh hiển quý. Năm tháng
có Thân Sửu cũng tốt, Dần Hợi càng tốt.
+ Ngày Ất Hợi giờ Đinh Sửu, tháng Hợi, nắm giữ tính nóng nảy, vợ hiền con hiếu, làm quan
đến lục thất phẩm. Tháng Ngọ là trƣờng sinh, năm tháng thấu Quan Ấn, đại quý.

Thương khố lúc mở Ất thấy Đinh,


Thực thần tọa khố Lộc Tài thân.
Không khóa không làm khách trong tirều,
Cũng là thanh nhàn người có phúc.
Ngày Ất gặp giờ Đinh Sửu, Thọ tinh phát đạt không nghi ngờ, thân ở xứ khổ chớ lo ngại,
trong khố có tiền tài tích tụ. Năm tháng giờ hợp lại phát đạt, là không hình vợ con khó. Song
197 | Tam mệnh thông hội

thân cùng anh em có nhiều thiệt thòi, vận đến kho tàng giữ két tiền. (Ở dƣới là chỗ tháng kị
ngày Lục Ất phân giống ở trên, cũng luận cùng với giờ)
23-04-16, 09:22
lesoi
Đoán ngày Lục Ất giờ Mậu Dần

Ngày Lục Ất sinh giờ Mậu Dần,


Bại tài Bối Lộc Thực thương thân;
Có tâm vô lực nhiều thành bại,
Y lộc chỉ là người bình thường.
Ngày Lục Ất giờ Mậu Dần, là Bại tài bối Lộc, Ất dụng Canh là Quan, trong Dần có Bính, là
Thƣơng quan bối Lộc: Dụng Mậu Kỷ là Tài, trong Dần có Giáp vƣợng là Bại tài, là ngƣời
bình thƣờng làm việc nhiều thành bại. Thông khí thổ là cát.
+ Ngày Ất Sửu giờ Mậu Dần là mệnh cao, sinh năm Tý tháng Tuất, là phú quý. Thìn Tuất,
hành mộc hỏa vận, là uy quyền.
+ Ngày Ất Mão giờ Mậu Dần, trong hình phát phúc. Sinh mùa Thu là quý. Năm Dậu gặp
tháng Thìn Tuất Sửu Mùi, là phú. Tháng Mão là Kiến Lộc, tháng Ngọ là Ấn sinh, thấu ra
Quan Ấn, đều cát.
+ Ngày Ất Tị giờ Mậu Dần, là ngƣời cô khắc bình thƣờng. Nếu năm tháng có Thân Canh, là
Chính Quan; Sửu có Tân, là Thất Sát, đều quý. Tháng Thìn, Bắc phƣơng vận, Cát.
+ Ngày Ất Mùi giờ Mậu Dần, sinh mùa Xuân là có thọ. Mùa Thu là quý hiển. Mùa Hạ bình
thƣờng, mùa Đông là trở ngại. Thìn Tuất Sửu Mùi, đều cát. Tuế vận cũng vậy.
+ Ngày Ất Dậu giờ Mậu Dần, sinh mùa Xuân thì phú, mùa Hạ bình thƣờng, mùa Thu thì quý,
ngắn thọ, mùa Đông thì cát.
+ Ngày Ất Hợi giờ Mậu Dần, mùa xuân thì cát, mùa hạ lao lực, mùa thu đông thì quý. Nắm
tháng có Tý Sửu, quý đến tam phẩm, có khởi có vui, thọ dài.

Ngày Ất giờ Dần tử tế suy,


Là người gây thị lại gây phi;
Vận suy lại gặp Không Hình Khắc,
Lao lực lao tâm người vô định.
Ngày Ất gặp giờ Mậu Dần, chính là ám tổn thƣơng tài. Trong trụ xếp là Thƣơng quan bối
Lộc, phú quý nhƣng vợ còn bị hình hại. Vận vƣợng tài Quan là phát phúc, vận hành Tỉ Sát
họa dữ dội. Lục thân cốt nhục ít hài hòa, tự lập tự thành tự tại.
23-04-16, 09:23
lesoi
Đoán ngày Lục Ất giờ Kỷ Mão

Ngày Lục Ất sinh giờ Kỷ Mão,


Giờ cư Nhật Lộc Tài đến tốt;
Vượng thông mộc khí quý không sai,
Thổ Dậu Tân trọng cũng có phiền.
Ngày Ất gặp giờ Kỷ Mão, Lộc nhập miếu đƣờng, Ất mộc gặp Mão là Kiến Lộc, là ngƣời
thanh tú đẹp đẽ, thông mộc hỏa là quý. Thấy Canh Tân là tổn thƣơng lộc phá mệnh, bệnh
hoạn về mắt. Nếu sinh tháng Tị Dậu Sửu, y lộc bình thƣờng. Thìn Tuất Sửu Mùi, là cát.
Tháng Thân cũng cát.
+ Ngày Ất Sửu giờ Kỷ Mão là cao mệnh, trung niên đại phúc. Sinh mùa Xuân, thân thái
vƣợng, cô. Mùa Hạ là bần. Mùa Thu có bệnh tật. Mùa Đông thì ôn hậu. Trụ không thấy Tân
kim, cát. Nếu tháng Thìn Tuất Sửu Mùi, là kim tử thì quý.
198 | Tam mệnh thông hội

+ Ngày Ất Mão giờ Kỷ Mão là cao mệnh, sinh mùa Xuân thì vƣợng, là tăng đạo, đủ phú.
Mùa Hạ là bình thƣờng, không thấy Tân kim, là cát. Thu thì mang tật bệnh. Mùa Đông thì ôn
hậu. Năm tháng có Mão Sửu, hiển đạt cao thọ.
+ Ngày Ất Tị giờ Kỷ Mão, mùa xuân thì cô bần, mùa hạ bình thƣờng, mùa thu mang tật, mùa
đông thì quý. Năm tháng có Ngọ Thìn, địa chi một đƣờng nối liền, càng cát.
+ Ngày Ất Mùi giờ Kỷ Mão, năm tháng không thấy Canh Tân kim, thì quý. Sinh mùa Thu,
xem địa chi dày hay mỏng, nhƣ sinh ở nắm tháng có Nhâm Tuất, làm quan đến tam tứ phẩm.
+ Ngày Ất Dậu giờ Kỷ Mão là thanh tú, đầu năm phá tổ, trung niên chủ phát tài, gặp năm
Mùi là cô hình.
+ Ngày Ất Hợi giờ Kỷ Mão, sinh tháng Dần Tị, không thấy Canh Tân, là Nhật Lộc quy thời
cách, hiển đạt thanh quý. Tháng năm thuần Mão, là cao tăng võ sĩ. Tuất, đặc biệt đạt thông
minh, có tài lộc.

Khác nhau Nhật Lộc cư thời cách,


Thực thần thì Mã phải gặp nhau;
Thương quan Ấn vận đều là cát,
Quan không gặp vậy Lộc tự phong.
Ngày Ất lâm giờ Kỷ Mão, đón Thiên Tài quy thời Lộc. Tân kim chữ Dậu không tƣơng hình,
Hổ bảng định tiêu danh tính. Phụ mẫu lục thân khó nƣơng tựa, hành huynh đệ từng ngƣời bay
cao, có tài năng văn chƣơng chói lọi, không phá không xung là quý mệnh.
23-04-16, 09:24
lesoi
Đoán ngày Lục Ất giờ Canh Thìn

Ngày Lục Ất sinh giờ Canh Thìn,


Kim thanh thủy bạch hóa chân tượng;
Nhâm theo Tân Dậu thông Quan quý,
Lại phòng bệnh mắt giảm tinh thần.
Ngày Ất giờ Canh Thìn, vợ hiền con quý. Ất hợp Canh hóa kim, nếu thông tháng Thân Tị
Dậu Sửu, là ngƣời tú lệ, chủ quý, nhƣng phòng bệnh về mắt. Nhƣ không thấy hóa, lấy Nhâm
là Ấn, Canh là Quan, Thìn thổ Quý thủy hợp cục, có bày Ất mộc, hành Đông Nam vận, quý
hiển bình hòa.
+ Ngày Ất Sửu giờ Canh Thìn, khắc cha mà phá tổ nghiệp, thân nhƣợc kị bệnh, thông khí
tháng thì quý. Năm tháng là Tý Thân, thiên can thấu Giáp Mậu, hợp Tam Kỳ, đại quý.
+ Ngày Ất Mão giờ Canh Thìn, là phú quý. Năm tháng thông hỏa thổ, là đại quý.
+ Ngày Ất Tị giờ Canh Thìn, việc làm nhiều thành bại, là tăng đạo, phú quý kèm theo bệnh
tật. Thƣờng nhân thì hình khắc vợ con. Năm tháng có Thân Tý Thìn Mão Tị là quý.
+ Ngày Ất Mùi giờ Canh Thìn, Hợi Mão Thân, là thân vƣợng; Tị Thân, là Quan vƣợng, thiên
can thấu Sát Ấn, đều quý. Sửu Dậu là thuần Sát, trụ có hỏa chế, cũng cát. Năm tháng có Tuất
Sửu, là đủ tứ khố, đại quý.
+ Ngày Ất Dậu giờ Canh Thìn, năm tháng có Hợi Tý, can thấu Mậu Quý, là quý. Tháng Dần
Tị Ngọ, là Quan Sát có chế, là cát. Thuần Dậu hóa kim, chủ dày phúc.
+ Ngày Ất Hợi giờ Canh Thìn, không quý thì phú. Nếu năm tháng có Quý Mậu hợp nhất hóa,
Thân Mão cùng vƣợng, Tị Sửu Dậu hội kim, hành mộc thổ vận, địa vị rất cao.

Ất Canh tương hội quý không sai,


Âm mộc dương kim chính hợp thời;
Vận cát thân cường không xung phá,
Thăng thiên tự có quý nhân đề.
Ngày Ất gặp giờ Canh Thìn, là Thiên Quan thủ khố, thanh niên tính danh truyền Hổ bảng,
199 | Tam mệnh thông hội

bẩm tính ôn lƣơng cung kiệm. Vợ hiền con quý. Tài Lộc đều cao. Nam Ly Mậu Quý hỏa nối
liền nhau. Trong phú quý gặp nguy hiểm.
23-04-16, 09:24
lesoi
Đoán ngày Lục Ất giờ Tân Tị

Ngày Lục Ất sinh giờ Tân Tị,


Kim mộc giao tranh chủ bất nhân;
Trong tháng có hóa thân vượng quý,
Không thông không hóa sợ hại người.
Ngày Ất gặp giờ Tân Tị, ám kim giao tranh, gặp thị phi hàng ngày, nếu thông tháng Thân
vƣợng, là có chỗ dựa, hóa Quỷ thành Quan, hành thân vƣợng vận, quý. Tháng thông mộc khí,
hành kim vƣợng vận, là đại quý. Thông tháng kim khí, hành thân vƣợng vận, cũng lấy quý.
+ Ngày Ất Sửu giờ Tân Tị, trƣớc tạp sau thuần, sinh năm tháng Dần Ngọ Bính Đinh, là Thiên
Quan có chế, lấy xem cao mệnh. Tháng Tị Thân Dậu Sửu, Quan Sát trùng điệp, nhiều thì
tòng theo Sát, cũng cát. Duy chỉ có thân cƣờng chủ binh quyền, có danh dự.
+ Ngày Ất Mão giờ Tân Tị, sinh mùa Xuân, là thân cƣờng Sát thiển, đại quý. Mùa Hạ thì
bình thƣờng. Mùa Thu, Quan Sát vƣợng; mùa Đông,Ấấn thụ vƣợng, đều cát. Mùa Thu không
bằng mùa Đông.
+ Ngày Ất Tị giờ Tân Tị, khắc vợ, vợ con đều muộn. Nếu tháng Tị Dậu Sửu, là mộc nhu kim
cứng, chủ mang bệnh tật. Nếu không thì ngắn thọ. Năm tháng có Giáp Tị Tý Tị, là nhập
Thiên Quan cách, Tây vận, phong quan lớn. Tháng mùa Xuân thân vƣợng, càng cát.
+ Ngày Ất Mùi giờ Tân Tị, tháng Ngọ là can cƣờng, vũ chức, có thành danh. Hợi Tý là Ấn
thụ, cát.
+ Ngày Ất Dậu giờ Tân Tị, nếu sinh tháng Mùi, thân tọa chế phục thì cát. Mùa Thu Thiên
Quan, là quý. Tháng Dậu, hành vận Nam phƣơng, bần, nếu không thì tàn tật.
+ Ngày Ất Hợi giờ Tân Tị, sinh tháng Tị Ngọ, Thiên Quan có chế. Xuân can cƣờng, vị trí ở
quan trên. Thu Sát trọng, chủ tàn tật.

Ất Tị nắm Thương gặp Kim mộc,


Cầu danh cầu lợi thường phản phục;
Lục thân cốt nhục có như không,
Vận đất Ấn thụ có phát phúc.
Ngày Ất gặp giờ Tân Tị, trong trụ có Quỷ vƣợng thân suy. Lục thân bất hòa khó nƣơng tựa,
mƣu vọng có thành có bại. vài lần gặp hung thì cát, dấu hiệu biết thời kỳ cực khổ đã qua. Vận
hành nhớ Ấn thụ thân vƣợng, chọn thời phú quý mà nhậu say.
23-04-16, 09:25
lesoi
Đoán ngày Lục Ất giờ Nhâm Ngọ

Ngày Lục Ất sinh giờ Nhâm Ngọ,


Ấn thụ sinh thân Tài Thực tụ;
Tháng thông thủy mộc lộc phong doanh,
Không thông khí tháng số bình thường.
Ngày Ất giờ Nhâm Ngọ, là Ấn thụ Học Đƣờng, Ất mộc trƣờng sinh ở Ngọ, thấy Nhâm là Ấn,
dụng Đinh là Thực, Kỷ là Tài, trên Ngọ có Đinh Kỷ kiến vƣợng, nếu thông thủy khí tháng, là
văn chƣơng tú lệ; không thông khí tháng, y lộc bình thƣờng, thông vận cũng tốt.
+ Ngày Ất Sửu giờ Nhâm Ngọ, sinh mùa Xuân Hạ nhiều phú quý. Thu Đông là Quan Ấn,
hoặc thuần Sát thấu can, càng cát.
200 | Tam mệnh thông hội

+ Ngày Ất Mão giờ Nhâm Ngọ, tháng Sửu, nhập Tạp khí Tài Quan; tháng Thân Dậu, là thân
Sát lƣỡng đình, đều chủ hiển quý. Năm tháng thuần Ngọ Dậu, làm quan tam tứ phẩm; Thìn
Tuất, là bình thƣờng.
+ Ngày Ất Tị giờ Nhâm Ngọ là cát, Xuân Hạ là phú quý. Thu Đông thì bình thƣờng.
+ Ngày Ất Mùi giờ Nhâm Ngọ, Dần Mão là thân vƣợng, Hợi Tý là Ấn vƣợng, tháng Sửu là
Tài Quan Ấn Tam kỳ, đều chủ quý hiển. Tháng Thân là Chính Quan, càng cát, nếu năm tháng
là Canh Ngọ, Đinh Hợi, Thực Thần cùng cung, tựu Thực kiến Lộc, là phú quý.
+ Ngày Ất Dậu giờ Nhâm Ngọ, mùa Xuân thì cát. Thu Hạ là bình thƣờng. Trụ thuần Ất Dậu,
thấu Canh hợp hóa, hoặc thấy Ấn trợ, mệnh đại quý.
+ Ngày Ất Hợi giờ Nhâm Ngọ, mùa Xuân thân vƣợng, mùa Hạ phúc dày, mùa Thu là phản
phục, mùa Đông là cát khánh.

Ngày Ất gặp sinh giờ Nhâm Ngọ,


Tháng thông thủy mộc trọng quý nhân;
Vận hành Quan vượng không xung phá,
Gia nghiệp phong long sự xưng tâm.
Ngày Ất giờ gặp Nhâm Ngọ, Thực thần Ấn thụ đồng cung. Không xung không phá không
tƣơng hình, tin là hƣởng ứng thanh danh. Từ Quán là cao sĩ thanh tú, văn chƣơng siêu quần
xuất chúng, quý nhân hỷ thấy tiểu nhân ghét, mệnh từ trung niên trở về sau rất tốt.
23-04-16, 09:26
lesoi
Đoán ngày Lục Ất giờ Quý Mùi

Ngày Lục Ất sinh giờ Quý Mùi,


Trong đó vào mộ gặp đảo thương;
Mã xấu Tài nhỏ Thực thấy khắc,
Cả đời y lộc chủ bình thường.
Ngày Ất giờ Quý Mùi, Ất lấy Quý là Đảo Thực, trong Mùi có Đinh hỏa Thực thần, Kỷ thổ
Thiên Tài, phá Quý Quý đảo Thực Đinh hỏa ở trong Mùi, là y lộc bình thƣờng. Tháng thông
khí thổ thì cát.
+ Ngày Ất Sửu giờ Quý Mùi, hung hình cô độc, năm tháng thông thổ khí, cát.
+ Ngày Ất Mão giờ Quý Mùi, thay tổ xa thân, thì vợ là nhà. Năm tháng có Ngọ Mùi, là quý.
Xuân càng quý.
+ Ngày Ất Tị giờ Quý Mùi, không quý thì phú, trƣớc khó sau dễ. Thuần Ngọ, làm quan tam
phẩm. Tháng Thìn Tuất Sửu, đều cát.
+ Ngày Ất Mùi giờ Quý Mùi, mùa xuân, thân vƣợng hình thƣơng. Mùa Thu, Quan Sát
vƣợng, có phần khoa danh. Mùa Đông an ổn. Mùa Hạ bình thƣờng.
+ Ngày Ất Dậu giờ Quý Mùi, thân tọa Sát, mùa Xuân, thân vƣợng, là cát. Mùa Hạ, thân
nhƣợc Sát suy, là bần. Mùa Thu, Sát vƣợng, thân có thể tòng hóa, là quý. Mùa Đông bình
thƣờng. Tháng Thìn Tuất Sửu Mùi, thấu Canh Tân, hành kim vận, là quý. Một khi đến vận
Nhận (Kiếp), thì thoái quan bãi chức.
+ Ngày Ất Hợi giờ Quý Mùi, mùa Xuân mộc vƣợng, hình thƣơng thê tử. Tháng Thân Quan
vƣợng, là quý. Dậu là Sát vƣợng, năm tháng có hỏa là cát. Tháng năm có Ngọ Mùi Tuất, làm
quan đến nhất nhị phẩm. Mùa Đông an ổn.

Ngày Ất tương phùng giờ Quý Mùi,


Tính ra xa tổ không thành gia;
Có hình khắc hại nhiều thành bại,
Vận cát như thêu hoa trên gấm.
Ngày Ất nhật gặp giờ Quý Mùi, sinh gặp mộc mộ là cô yểu. Vận hành huynh đệ có nhƣ
201 | Tam mệnh thông hội

không, tâm tính bất thƣờng hay hỷ nộ. Tự lập tự thành sự nghiệp, lục thân cốt nhục không
ngƣời thân, quý nhân đƣợc hợp đều tƣơng phù, mệnh này trƣớc bần sau phú.
23-04-16, 09:28
lesoi
Đoán ngày Lục Ất giờ Giáp Thân

Sinh ngày Lục Ất giờ Giáp Thân,


Quan tinh được Ấn là sinh thành;
Trong tháng thông khí không xung phá,
Tất định làm quan người vinh hoa.
Ngày Ất giờ Giáp Thân, Quan Ấn sinh thân, Ất dụng Canh là Quan, Nhâm là Ấn, Canh ở
Thân vƣợng sinh Nhâm, có Thân ký gửi, vận tháng thông kim thủy là quý; không thông, thân
nhƣợc Quan trọng, dù có quý cũng không bền.
+ Ngày Ất Sửu giờ Giáp Thân là cao, năm tháng thuần Tý Thìn, hành vận Đông Nam, đại
quý. Tị Dậu sửu, trong quý phòng hung. Ngọ Mùi thuần, cát. Hợi Mão cũng cát. Các tháng
còn lại bình thƣờng.
+ Ngày Ất Mão giờ Giáp Thân, hóa quý. Tháng thông thủy khí không có thương phá thì quý,
nếu không thì phú.
+ Ngày Ất Tị giờ Giáp Thân, là thân cƣờng Quan vƣợng. Mùa Xuân, thông minh hiển đạt,
làm quan đến tứ phẩm. Mùa Hạ, thân tâm lao lục. Mùa Thu Đông có tật về mắt. Năm tháng là
Ngọ, hành Tài vận, quý.
+ Ngày Ất Mùi giờ Giáp Thân, tháng sinh là Mùi Dậu Hợi, thì thông tuấn đặc đạt, làm quan
đến nhị tam phẩm. Năm tháng có Bính Đinh Dần Ngọ Mão Dậu, là Thƣơng Thực chế Sát, là
quyền quý.
+ Ngày Ất Dậu giờ Giáp Thân, là Quan Sát hỗn tạp, nếu trụ có Đinh hỏa chế Sát lƣu Quan thì
cát. Năm tháng có Hợi Mão Mùi Dậu, vũ chức đến hàng cực phẩm; sớm hành Đông Nam
phƣơng vận, là đại quý.
+ Ngày Ất Hợi giờ Giáp Thân, giờ lạc vào Không Vong, chủ ít con. Sinh vào mùa Thu, làm
quan ở lục khanh. Năm Hợi Mão tháng Mùi, đều cát.

Ngày Ất tương phùng giờ gặp Giáp,


Trường sinh Dịch Mã ở trong Thân;
Quý nhân Thiên Ất đến tương trợ,
Loại bỏ áo thô mặc áo tím.
Ngày Ất giờ Thân giờ gặp quý, trong thời gian này cao nhân thấy hỷ. Có hi vọng gặp tiểu
nhân nói tốt đẹp, khắc phá xung hình thì giảm lực. Thân vƣợng vận gặp cát địa, dấu hiệu biết
là có lƣỡng vƣợng Tài Quan. Có yên ổn có Mã có áo quan, định chủ môn đình hoán đổi.
23-04-16, 09:29
lesoi
Đoán ngày Lục Ất giờ Ất Dậu

Sinh ngày Lục Ất giờ Ất Dậu,


Được gặp kim cục hỏa thành kỳ;
Dụng thần gặp mộc trùng trùng kiến,
Quỷ tuyệt thọ thương lại vô y.
Ngày Ất giờ Ất Dậu, là thân tuyệt quỷ vƣợng, Ất lấy Tân là Quỷ, trên Dậu có Tân vƣợng Ất
tuyệt. Nếu thông tháng Tị Dậu Sửu, hóa kim cục là quý. Nhƣ dụng thần tọa mộc, thân vƣợng
không hóa, lại thấy ở Dậu, không yểu tất bần.
+ Ngày Ất Sửu giờ Ất Dậu là mệnh cao, sinh tháng Tị Dậu Sửu, hợp kim cục, lại hành Tây
202 | Tam mệnh thông hội

vận, là đại quý. Tháng Dần Ngọ Tuất, là bần tiện. Tháng Hợi Mão Mùi, là cát. Năm tháng
thuần Tý, hành Nam vận, địa vị đến nhất nhị phẩm. Tháng Dần có hỏa kim, quý ở thất phẩm.
Tháng Thân có thủy mộc, kim tử là quý.
+ Ngày Ất Mão giờ Ất Dậu, nguyệt thông kim cục là quý. Năm tháng là Mùi Dần, làm quan
đến nhất nhị phẩm.
+ Ngày Ất Tị giờ Ất Dậu, mùa xuân là cát. Mùa Hạ, Thƣơng quan có chế, là tốt. Mùa Thu,
mộc nhƣợc kim nặng, là yểu, nếu không thì cũng bệnh tật. Mùa Đông, phúc dày thì cũng yểu.
+ Ngày Ất Mùi giờ Ất Dậu, là Củng Quý cách, không có hình phá là quý, có Thân là điền
thực thì không phải. Tháng Hợi Mão, hành Tây vận, là quý.
+ Ngày Ất Dậu giờ Ất Dậu, xứ vƣợng là tự hình, năm tháng có hỏa thổ trọng, chủ tai họa.
Nếu thông khí tháng, thấu xuất Ấn Thực, hành hỏa mộc vận, là đại quý. Địa chi thuần Dậu,
hóa thành tƣợng kim, nhƣng kèm theo Ấn thụ, thì quý không thể nói. Rất sợ tuế vận gặp
Quan.
+ Ngày Ất Hợi giờ Ất Dậu, sinh mùa xuân, là Nhân Thọ cách, quý. Tháng Dần, hành vận kim
hỏa, đại quý.

Nhật can là Ất giờ lâm Dậu,


Thân vượng là Giả Sát vi quyền;
Thân nhược gặp Quan uổng phí công,
Công danh phại đợi thời vận thông.
Ngày Ất giờ lâm Ất Dậu, ngày sinh Ất mộc không có lo. Trong đó mƣu cầu nhận quyền quý,
không có phá định thì có công danh. Sớm khắc hại vợ, tài nguyên thu vào đều tản mạn rơi
rớt. Chuyển tông dời tổ tránh ƣu sầu. Về già có thể thành tựu.
23-04-16, 09:30
lesoi
Đoán ngày Lục Ất giờ Bính Tuất

Ngày Lục Ất sinh giờ Bính Tuất,


Quỷ bại lâm thân có tổn thương;
Nếu không thông khí tháng thân vượng,
Cô bần lao khổ khó đảm đương.
Ngày Ất giờ Bính Tuất, là Quỷ bại lâm thân, Ất dụng Canh là Quan, thấy Bính là bối Lộc,
trong Tuất có Tân dƣ khí, là khố Bính Đinh, là Thực thần chế Sát, nếu trụ thấu Canh, là
Thƣơng quan kiến Quan vi họa bách đoan; năm tháng có Dần Ngọ, Bính hỏa hợp cục, tức là
mộc trùng điệp gặp vị trí hỏa, chủ ngƣời ngạo vật khí cao, y lộc bình thƣờng, tàn tật, nếu
không thì thọ cũng ngắn. Thông khí tháng thân vƣợng là cát.
+ Ngày Ất Sửu giờ Bính Tuất, mùa xuân thân vƣợng, thì cát. Mùa Hạ, Thƣơng quan là thái
trọng. Mùa Thu, lao lực gian khổ. Mùa Đông Hợi Tý, là Ấn thụ kèm theo Thƣơng quan, là
cực quý. Tháng Tuất, mộc hỏa vận, làm quan đến thất phẩm. Năm tháng thuần Tuất, thiên
can thấu Canh Bính, là đại quý. Dần Ngọ hợp hỏa là yểu.
+ Ngày Ất Mão giờ Bính Tuất, tháng Dần Mão, vận Tây vận, làm quan đến lục thất phẩm.
Tháng Tý là Ấn thụ; tháng Nguyệt là tạp khí, hình xuất Tài Quan, đều quý.
+ Ngày Ất Tị giờ Bính Tuất, thì cát. Tháng năm có Sửu Tuất Mùi, làm quan trên cao hàng
Lục khanh. Tháng Hợi, hành đông vận, là hàn viện thanh quý.
+ Ngày Ất Mùi giờ Bính Tuất, vƣợng xứ thì hung. Năm tháng có Mão Ngọ Mùi Tuất, là quý
hiển.
+ Ngày Ất Dậu giờ Bính Tuất, mùa Xuân thân vƣợng, mùa Đông Ấn vƣợng, là đại quý. Mùa
Hạ tháng Tị Ngọ, mùa Thu tháng Dậu Tuất, đều quý. Cũng nên xem thiên can nhƣ thế nào?
Đinh Mùi, Giáp Thìn, sinh kế gian khổ; cả đời gặp quý. Tháng Sửu hình Tuất thì cát.
+ Ngày Ất Hợi giờ Bính Tuất, có bệnh máu huyết. Tháng Hợi Tý Mão Mùi Dần, gặp quý thì
203 | Tam mệnh thông hội

phát phúc; thiên can thấu Thƣơng quan sinh Tài, càng cát.

Khô mộc cùng gặp cục,


Gặp xuân là càng xanh;
Về sau phương đắc địa,
Hoa phát lại tươi xinh.
Ngày Ất giờ Bính Tuất hỏa khố,
Tàng Tân gặp Sửu là cát xương;
Nếu vận cũng gặp hung khắc hại,
Tính ra mệnh này vẫn bình thường.
Ngày Ất gặp giờ Bính Tuất, là Thƣơng quan khố khô mộc. Không đến Tân Sửu thì không có
chìa khóa mở. Khó dựa vào cha mẹ cùng lục thân, anh em bạn bè đều bất hòa, không thân
quyến mà đau lòng ngƣời. Nên biết sữa cửa ngõ mà phát phúc, mệnh này trƣớc khổ sau ngọt.
23-04-16, 09:31
lesoi
Đoán ngày Lục Ất giờ Đinh Hợi

Ngày Lục Ất sinh giờ Đinh Hợi,


Thực thần Ấn thụ cũng là tai;
Khí tháng thủy thổ không Tài quý,
Thiết kị thương tai vợ và con.
Ngày Ất giờ Đinh Hợi, xứ Tử phùng Sinh, Ất mộc tử, Hợi lại là khí Nhâm thủy là sinh khí
Ấn thụ, Ất dụng Đinh là Thực, trong Hợi có Đinh tọa vô khí, hỷ Giáp mộc sinh, trợ Đinh
Thực là phúc. Nhƣ gặp Kim cục, hành thủy vận, đề phòng bệnh mắt. Tứ trụ thấy Tài, hoặc
hành Tài vận, là Tham Tài hoại Ấn, chủ phá tài. Mậu là Tài là vợ, Canh là Quan là con, trên
Hợi Canh tuyệt thổ bệnh, là vợ suy con thiếu.
+ Ngày Ất Sửu giờ Đinh Hợi là tú khí, sinh tháng Nhâm Tý Thân Mùi Mão, can thấu Tài Ấn
là tài đức kiêm toàn, chức ở quan trên. Năm tháng có can chi thuần kim, là thân suy Sát
vƣợng, chủ hung tử.
+ Ngày Ất Mão giờ Đinh Hợi, tháng Tị Dậu Sửu là Thiên Quan, tháng Thân là Chính Quan,
đều quý. Tháng Hợi, Đông Nam vận, thăng quan. Tháng Mùi, tam hợp mộc cục, là mệnh đại
quý.
+ Ngày Ất Mùi giờ Đinh Hợi là quý, tháng năm Tý Hợi, mệnh công hầu. Sinh mùa Xuân,
hành Tây vận, làm quan. Dậu thì cô mà quý. Năm tháng có mộc hỏa, chủ phát cao khoa.
Thủy thổ kim cùng với Nhật can hợp hóa hữu dụng đều cát.
+ Ngày Ất Dậu giờ Đinh Hợi, tháng thông kim cục, hành thủy vận, mệnh đại quý. Thông
mộc khí, phát đạt. Thổ khí, toại ý.
+ Ngày Ất Hợi giờ Đinh Hợi, có Tài là tự hình, Dần Mão là thân vƣợng, thiên can thấu Tài là
phú; Thìn Sửu, hành kim hỏa vận, là quý. Hợi Tý Thân, là Quan Ấn song thanh, càng phụ
giúp lấy tài. Mệnh đại quý.

Thời thượng sinh phùng Hợi và Đinh,


Thực thần Ất mộc gặp Trường sinh;
Nguyệt khí tương phù là tối quý,
Thân suy không dựa là thường nhân.
Ngày Ất giờ gặp Đinh Hợi, là Thực thần Ấn thụ tƣơng phù. Trƣờng sinh đắc ý tốt không có
tổn thƣơng, gặp quý vinh hiển thanh danh. Hỷ gặp Đinh Nhâm hóa khí, ngoại trừ vận đến
quan đới là di dời. Không có biết cơ biến thông thì rất khó xem, Bính Kỷ Dần Thân thì giảm
quý.
204 | Tam mệnh thông hội

23-04-16, 19:14
lesoi
Đoán ngày Lục Bính giờ Mậu Tý

Ngày Lục Bính sinh giờ Mậu Tý,


Tài Quan sinh vượng gặp Thực thần;
Khí tháng tương phù là cao quý,
Thân suy dựa chồng là thường nhân.
Ngày Bính giờ Mậu Tý, là Tài sinh Quan vƣợng, Bính dụng Tân là Tài, Quý là Quan, Bính
hợp Tân, Mậu hợp Quý, trong Tý Quý vƣợng Tân sinh, Bính hỏa vô khí. Nếu thông hỏa khí,
tháng có chỗ dựa là quý; không thông là bần tiện. Thông mộc khí cũng cát.
+ Ngày Bính Tý giờ Mậu Tý, tháng Dần Tị Mão Mùi, mộc có thể sinh hỏa, là mệnh đại quý.
Mùa Đông, Bính hỏa vô khí, là bần yểu. Tháng Tuất, hành hỏa thổ vận, quý đến chức ngũ lục
phẩm. Kị tháng Đinh Tị, là yểu; tháng Kỷ Dậu, là phá gia mất nhà, thân bần tiện.
+ Ngày Bính Dần giờ Mậu Tý, sinh tháng Mão Sửu là thanh quý. Dần Tuất, là bình thƣờng.
Tháng mùa Hạ thân vƣợng, trụ có thủy kim mới cát. Tháng Tý là Chính Quan, là đại quý. Kị
tháng Quý Tị, gặp hình; Tháng Quý Hợi, là chết hung; Tháng Kỷ Dậu, ngày đại bại.
+ Ngày Bính Thìn giờ Mậu Tý, Bính Thìn là Nhật Đức cách, hỷ thấy Quan tinh. Nếu sinh
tháng Tuất, thân vƣợng là rất thích hợp, là vũ quý. Tháng Dần, hành vận kim thủy, là gặp
quý. Tháng Thân là tam hợp, là hợp Sát có Ấn, là quý. Kị tháng Kỷ Tị, là chết hung; Tháng
Kỷ Hợi, chết vì tự hình; Tháng Quý Sửu, phá tổ, chết hung.
+ Ngày Bính Ngọ giờ Mậu Tý, Bính Ngọ là Nhật Nhận cách, cần Quan Sát chế hợp. Sinh
tháng Thìn Tuất Sửu Mùi, là đại phú. Tháng năm có Hợi Mão Mùi Dần, là đại quý, Thân Tị,
là văn quý hàng tam phẩm, vũ quý thì không bền. Thuần Tý, là Tý Ngọ song bao quý cách.
Kị tháng Đinh Tị, là chết hung; tháng Đinh Hợi, là tự hình chết hung; tháng Tân Sửu thì cô
độc.
+ Ngày Bính Thân giờ Mậu Tý, năm tháng là Tị Ngọ, hành vận Đông Bắc, thì phong quan
trên, tháng Tý, hành vận mộc hỏa, quan hàng tam phẩm. Sửu thì hàng thất phẩm, Dậu Hợi,
tuy là quý nhƣng tiện. Kị tháng Quý Tị, trung niên bị hình. Tháng Ất Dậu là phá bại.
+ Ngày Bính Tuất giờ Mậu Tý, sinh mùa xuân, Ấn thụ là tối cát. Mùa Hạ, thân thái vƣợng, là
bình thƣờng. Mùa Thu, Tài vƣợng thân suy, có chỗ dựa thì quý. Năm tháng thuần Dậu, quý ở
văn tiến. Kị tháng Kỷ Hợi, chết không toàn thây; tháng Quý Sửu, là bần yểu.

Hoạt kế sinh nhai tứ quý tốt,


Bính gặp Mậu Tý Thực Quan cùng;
Không thương vều sau đều thành tựu,
Xứ cát gặp hung hiểm xứ thông.
Ngày Bính gặp giờ Mậu Tý, Quan tinh phúc Thực cùng một trụ. Ngọ Đinh chƣa gặp mà chôn
vùi, giao thông trung niên là rất tốt. Hỷ hợp Phụ mẫu cùng thê Tài. Trong hung ẩn dấu văn
tài. Nếu gặp vận tốt đƣợc một thời, phú quý thanh nhàn tự tại.
23-04-16, 19:15
lesoi
Đoán ngày Lục Bính gặp giờ Kỷ Sửu

Ngày Lục Bính sinh giờ Kỷ Sửu,


Quan Quỷ tương sinh lộc không thành;
Nếu thấy Thân Canh cùng Ất vượng,
Không cầu tài lộc qua cả đời.
Ngày Bính giờ Kỷ Sửu, là Thƣơng quan bối Lộc, là ngƣời kiêu ngạo. Bính dụng Quý là
Quan, trong Sửu có Quý dƣ khí, bị minh ám thổ Thƣơng, trụ thấu Quý là tai họa. Nếu thấy
205 | Tam mệnh thông hội

Canh Tân, là Thƣơng quan sinh Tài, lại là phúc khánh.


+ Ngày Bính Tý giờ Kỷ Sửu, năm tháng là Dần Hợi Thân Thìn, thiên can thấu Tài Ấn Thực
là quý.
+ Ngày Bính Dần giờ Kỷ Sửu, là bình thƣờng, sinh tháng Ất Dậu, là Chính Tài cách, có Ất
Canh kiện vƣợng là quý. Năm tháng là Tị Sửu, can thấu Quan Ấn là quý.
+ Ngày Bính Thìn giờ Kỷ Sửu, năm tháng Thân Hợi, hóa thủy thì cát; không hóa thì thọ
ngắn, tháng Tuất xung khố, không có ngƣời không phát. Dần Ngọ là thân vƣợng, thành Hỏa
thƣợng cách, là mệnh đại quý.
+ Ngày Bính Ngọ giờ Kỷ Sửu, mùa xuân, hành vận hỏa kim, làm quan hàng cực phẩm. Mùa
Hạ là bình thƣờng , mùa Thu là phú, mùa Đông là quý, khó cho vợ con, năm tháng có Ngọ
Dậu, hàng ngũ lục phẩm, chỗ này nghiệm là Nguyệt lộc sinh Tài.
+ Ngày Bính Thân giờ Kỷ Sửu, bệnh huyết tật. Tháng Thân, trở thành văn học nho quan.
Mão là quý. Tý Thìn là hội Quan, Dần Mão là hội Ấn, đều cát.
+ Ngày Bính Tuất giờ Kỷ Sửu là cao mệnh, vũ hình sau phát vƣợng. Sinh tháng Hợi Mão,
vận hỏa kim là đại quý. Thìn Mùi là đủ tứ khố, hỏa thổ thành cục, đại phú.

Ngày Bính Tài Quan khố tàng trong,


Tuất Thìn Mùi tự hiển văn chương;
Thân suy nếu không có chìa khóa,
Cầu danh cầu lợi chỉ bình thường.
Ngày Bính gặp giờ Kỷ Sửu, là Thƣơng quan Tài khố ám tàng. Vận giao Mùi Tuất là không
phải hạng tầm thƣờng. Phá xuất Tài Quan tất phải vƣợng. Quý chỉ mƣu tính đoạt Kiếp tài,
ting1 ra mặc dù là có hại. Lục thân chân giả ít hài hòa, đoán thẳng là chớ trách nhờ thời. (Bên
dƣới ngày Lục Bính chỗ tháng kị phân ra giống nhƣ ở trên. Giờ luận cũng nhƣ vậy)
23-04-16, 19:16
lesoi
Đoán ngày Lục Bính giờ Canh Dần

Ngày Lục Bính sinh giờ Canh Dần,


Học Đường sinh khí trợ kỳ thân;
Vận trung có hợp thông kim cục,
Tất là vinh hoa phú quý nhân.
Ngày Bính giờ Canh Dần, là sinh khí Học Đƣờng, Bính trên Dần là trƣờng sinh, là văn
chƣơng tú khí; Bính lấy Canh Tân là Tài, trên Dần Canh tuyệt Bính vƣợng. Nếu thông khí
tháng kim cục là Tài vƣợng, mệnh phú quý song toàn, hỷ Tây phƣơng vận; không thông cục
thì tài suy.
+ Ngày Bính Tý giờ Canh Dần, tháng sinh Tý, chỉ có quý. Tháng Quý Dậu, hành thủy mộc
vận, cao quý; hỏa mộc vận, quý ở hàng ngũ phẩm. Năm tháng là Mùi Thân, Quý Ngọ, thân ở
vũ chức, đại quý, ít thọ.
+ Ngày Bính Dần giờ Canh Dần, quý không lâu. Năm tháng sinh ở Dậu Thân, thế hệ sau
hiếm có chức. Tý Sửu Dần Mùi, là quý hiển. Thuần Dần càng cát.
+ Ngày Bính Thìn giờ Canh Dần, sinh năm tháng là Dần Ngọ Tuất Mùi, vợ hiền con hiếu,
phú quý song toàn. Thân Tý, hành Bắc vận, là đại quý. Dậu Sửu, chỉ có phú.
+ Ngày Bính Ngọ giờ Canh Dần, năm tháng không có chữ Nhâm Quý Tý Mùi Tị, là Phi
Thiên Lộc Mã, quý mệnh. Tị Dậu Sửu Thân, chủ văn học, không quý cũng phú. Tháng Mùi,
là Thƣơng quan. Tháng Thìn, trƣớc bần sau phú. Tháng Hợi, hành sTây vận, quý hiển.
+ Ngày Bính Thân giờ Canh Dần, hai cục Hợi Mão Mùi, Thân Tý Thìn, là Quan Ấn lƣỡng
vƣợng, mệnh đại quý. Tị Sửu là Tài cục, cát. Dần Ngọ Tuất là hỏa cục, bình thƣờng.
+ Ngày Bính Tuất giờ Canh Dần, sinh tháng Hợi Tý, là quý hiển. Năm tháng là Thân Dậu,
hành Bắc phƣơng vận; Dần Ngọ Tuất, hành Quan Quỷ vận, đều đại quý. Nếu vận lâm tử
206 | Tam mệnh thông hội

tuyệt, tức nhập hoàng tuyền là không nghi ngờ.

Bính Canh tương hợp gặp giờ Dần,


Khó nguy tiêu trừ phúc tự theo;
Vận đến Hàn môn danh cùng đạt,
Thời đến từng bước lên mây cao.
Ngày Bính giờ Canh Dần, song thân suy vƣợng xa quê. Sớm hại vợ con cuối đời mà vinh
xƣơng, là cách Bạch Hổ quy sơn chính vƣợng. Mộc có thành rừng Tùng Bách, cuộc đời mở
rộng hội tụ tài lƣơng. Đôi Kim tích Ngọc mãn cao đƣờng, cùng với tiện nhân luận nhƣ nhau.
23-04-16, 19:17
lesoi
Đoán ngày Lục Bính giờ Tân Mão

Ngày Lục Bính sinh giờ Tân Mão,


Mộc vượng là đúng có hai vợ;
Không vượng hóa thủy trên đất tử,
Thân mang yêu thích nhiều sắc dục .
Ngày Bính giờ Tân Mão, là Bại tài phùng hợp, ngày Bính trên Mão là đất Mộc dục, tháng
Tân là hợp thần. Nếu thân thậm vƣợng không hóa đƣợc, chỉ là ngƣời vô lễ mà còn ham mê
sắc dục, nhƣng tốt nếu thân nhƣợc hóa thủy, ở trên Mão là thủy tử, nở mà không đầy, là
ngƣời hay gian xảo hƣ trá. Duy chỉ có Bính Ngọ, Bính Dần, sinh tháng mùa xuân, thân vƣợng
là không hóa, là mệnh văn quý hiển tú.
+ Ngày Bính Tý giờ Tân Mão, Tý Mão tƣơng hình, là hại vợ hại con. Năm tháng giống nhau,
chủ khôi danh, chỉ là quý. Dần, Ngọ, Sửu, Tuất, thiên can địa chi đều hợp là đại quý.
+ Ngày Bính Dần giờ Tân Mão, không có dựa vào tổ tiên mà tự lập, thân thể bệnh tật. Tháng
Dần Mão Mùi Tý là quý. Các tháng còn là bình thƣờng, tuế vận giống nhƣ vậy.
+ Ngày Bính Thìn giờ Tân Mão, sinh tháng Dần Tuất, có Thiên Nguyệt nhị Đức, là cao
mệnh. Tháng Tị, hành Bắc phƣơng vận, quý. Dậu Sửu cũng quý. Hợi Mão Mùi, đại quý.
+ Ngày Bính Ngọ giờ Tân Mão, trong năm tháng gặp Quý thủy Quan tinh khử Nhận thì cát.
Tháng Tý, thƣơng khắc vợ con, Dần Dậu, tính cách cƣơng cƣờng, không bị kích động, làm
quan hàng tam tứ phẩm. Ngọ Tuất, hành Đông Nam vận; Tháng Mão, hành Tây Bắc vận, đều
quý.
+ Ngày Bính Thân giờ Tân Mão thì trì trệ, chủ thông minh thích tửu sắc, thân vƣợng không
hóa là quý. Mùa Xuân thì cát. Mùa Đông, hành Bắc vận, phú quý song toàn. Năm tháng là Tị
Sửu, hành Đông vận, hàng nhị phẩm, Ngọ Mùi quan tam phẩm.
+ Ngày Bính Tuất giờ Tân Mão, hại vợ hại con, thân vƣợng không hóa là quý. Mùa Xuân,
thông minh nhƣng thích tửu sắc. Mùa Đông, hành Tây vận, là phú quý. Mùa Hạ là phong cấp
quan trên.

Bính Tân hóa thủy không thích hợp,


Có trợ thân cường đại cát xương;
Tứ trụ nếu gặp xung khắc phá,
Lao tâm lao lực qua cả đời.
Ngày Bính gặp giờ Tân Mão, là Tham Tài hoại Ấn, khó thành. Bƣớc vận Tài Quan hiển lộ
thanh danh, thân nhƣợc tính tình là vô định. Khó dựa cha mẹ anh em, dũng cảm thay họ mới
thành. Hành vận Tỉ Kiếp thì tiền trình có hi vọng, có phá là mệnh bình thƣờng.
23-04-16, 19:17
lesoi
207 | Tam mệnh thông hội

Đoán ngày Lục Bính giờ Nhâm Thìn

Ngày Lục Bính sinh giờ Nhâm Thìn,


Sát tinh tọa khố hỏa khó thân;
Thân cường lại chủ là Quan quý,
Nếu nhược định là người bần yểu.
Ngày Bính giờ Nhâm Thìn, là Thủy Hỏa Vì tế. Bính thấy Nhâm là Thiên quan, trên Thìn có
Nhâm thủy hợp cục, là hỏa tử không phát sáng. Nếu sinh mùa Xuân Hạ, thân vƣợng hóa Quỷ
thành Quan, phục hành vận thân vƣợng là quý. Mùa Thu Đông, thân suy Quỷ vƣợng, càng
không có chỗ dựa, là mệnh bần tiện tàn tật.
+ Ngày Bính Tý giờ Nhâm Thìn, tháng Thìn Tuất Sửu Mùi, là Thiên Quan có chế, cát. Năm
tháng là Hợi Mão, mệnh phú quý. Dần Ngọ, hành Tý vận; Tý, hành Dần Ngọ vận, đều quý.
Nếu không thì là tăng đạo.
+ Ngày Bính Dần giờ Nhâm Thìn, là Thân Sát đều vƣợng, năm tháng là Dần Mão Thìn Sửu
Mùi, mệnh đại quý. Năm tháng Tị Ngọ Tuất cũng quý.
+ Ngày Bính Thìn giờ Nhâm Thìn, thân cô nhƣng có tài, chủ chết hung. Sinh mùa Xuân,
hành Bắc vận; Hạ, hành Đông vận, đều quý. Thu, hành Nam vận, làm quan tam phẩm.
+ Ngày Bính Ngọ giờ Nhâm Thìn là quý, thân vƣợng Sát thiển, nếu tháng Thìn Tuất Sửu
Mùi, là Thiên Quan có chế, mệnh quý; không có chế, thì bình thƣờng.
+ Ngày Bính Thân giờ Nhâm Thìn, vƣợng trong tai họa. Mùa Xuân bình thƣờng, mùa Hạ là
phúc, mùa Thu là phú, mùa Đông ngắn thọ. Nếu Thân Tý Thìn mộc cục, can thấu Ấn Tỉ trợ
giúp, mệnh đại quý, Thực chế Sát cũng quý. Sợ Sát thấu không có chế, Tài đảng Sát cƣờng,
yểu tử bỏ mệnh.
+ Ngày Bính Tuất giờ Nhâm Thìn, mệnh hung. Năm tháng Mão Mùi, vận hành hỏa thổ, làm
quan tam phẩm, vợ hiền con hiếu. Tháng Thìn Tuất Sửu, bình ổn. Năm tháng là Dần Ngọ Tý
Tị, phong quan trên.

Ngày Bính thân sợ thấy Nhâm Thìn,


Tái gặp dương thủy định tai truân;
Trong trụ nếu gặp Dần Ngọ Tuất,
Biến hung thành cát quý tuyệt luân.
Ngày Bính gặp thời mộ Nhâm Thìn, nắm đƣờng thân suy hao quỷ. Hành Tỉ Kiếp khó mà dựa
vào phù trợ, vợ con là không có duyên gặp. Quân tử thì văn chƣơng phúc trợ, còn thƣờng
nhân thì phản ân thành cừu. Vận hành Quan Lộc nhận mƣu đồ, không phá thì không quý
cũng phú.
23-04-16, 19:18
lesoi
Đoán ngày Lục Bính giờ Quý Tị

Sinh ngày Lục Bính giờ Quý Tị,


Nhật Lộc quy thời lại gặp Quan;
Không thấy tháng Nhâm Quý Tị Dần,
Công danh tựa như nhổ nước bọt.
Ngày Bính giờ Quý Tị, là Nhật Lộc quy thời, Bính hỏa trên Tị quý là thấy ở Chính Quan, là
tọa quý. Trụ không có Nhâm Kỷ cùng Dần Hợi, xung hình là quý, có thì cũng nhƣ không.
Quan thông thủy vƣợng, Bính thông mộc vƣợng, không có gì là không quý.
+ Ngày Bính Tý giờ Quý Tị, Bính lộc ở Tị, Quý lộc ở Tý, là Hỗ hoán Lộc Mã, năm tháng
không có Nhâm Kỷ Dần Hợi xung phá, tiếp cận hàng quan trên, vị trí công hầu.
+ Ngày Bính Dần giờ Quý Tị, tháng Xuân, can chi không có thủy, văn tiến áo quan, vợ vinh
con ấm. Năm tháng Mão Tuất Thân Dậu, quan hàng nhị tam phẩm.
208 | Tam mệnh thông hội

+ Ngày Bính Thìn giờ Quý Tị, bất lợi cho tổ tông. Năm tháng có Dậu Tuất Dần Sửu, là Khôi
Cƣơng cách, thông thân vƣợng, là mệnh quý.
+ Ngày Bính Ngọ giờ Quý Tị, tháng Sửu Thìn, là Tạp khí Tài Quan, mệnh quý hiển. Tháng
Dần, Bính trƣờng sinh; Tháng Tị, Bính kiến Lộc, thiên can thấu Tài Ấn là đại quý, thích hợp
giới tửu sắc. Tý, là Quan vƣợng; Dậu, là Tài vƣợng, đều cát.
+ Ngày Bính Thân giờ Quý Tị, thân tọa Thiên Quan, Thiên Tài, không quý cũng phú.
+ Ngày Bính Tuất giờ Quý Tị, tháng Mão Tuất Sửu Mùi, quý, không bền. Năm tháng là Dần
Hợi, phong quan trên, sợ xung hình, thích hợp giới tửu sắc.

Ngày Bính gặp đúng giờ Quý Tị,


Hiệu là Chính quý hỷ tương thân;
Trong trụ năm tháng không xung phá,
Tất là vinh hoa phú quý nhân.
Ngày Bính gặp giờ Quý Tị, là Chính Quan Lộc Mã hiếm thấy. Tính ra vợ còn sớm khó thành,
Quan Lộc bị xung khắc là tối kị. Quân tử thì văn danh xuất chúng, thƣờng nhân thì Tài Lộc
có dƣ. Hoàng kim bạch ngọc đến đầy đủ, vận đến thời đến cứ mãi tụ.
23-04-16, 19:19
lesoi
Đoán ngày Lục Bính giờ Giáp Ngọ

Ngày Lục Bính sinh giờ Giáp Ngọ,


Cách nhập phục tinh cần thấy thổ;
Lạc vào Mậu Tị rất là cát,
Hỏa viêm thái quá nhiều gian khổ.
Ngày Bính giờ Giáp Ngọ, Bính hỏa trên Ngọ là thái vƣợng, cần có Kỷ hợp Giáp hóa thổ, là
hỏa khí phục tinh, chiếu sáng bốn phƣơng, nếu không thấy thổ thì khó mà hƣởng phúc. Sinh
tháng Thìn Tuất Sửu Mùi, trên phục hỏa khí, tạo hóa đƣợc trung hòa là quý. Trên can trụ năm
tháng lại thấu Mậu Kỷ, vận hành kim thủy, mệnh quý; nếu không thấu, thông vận thổ khí
cũng quý. Thông, kị hình phá.
+ Ngày Bính Tý giờ Giáp Ngọ, sinh mùa Xuân thì cát; mùa Hạ là không có nơi nƣơng tựa,
mùa Thu là Tài vƣợng, mùa Đông là Quan quý, về sau hiếm con, hỏa thổ vận thì phát đạt.
+ Ngày Bính Dần giờ Giáp Ngọ, sinh tháng Thìn Tuất Sửu Mùi, trên phục hỏa khí, tạo hóa
đƣợc trung hòa là quý. Tháng Ngọ, hỏa thái vƣợng, hung.
+ Ngày Bính Thìn giờ Giáp Ngọ, có Dần Mão là có Ấn trợ, Thân Dậu có Ấn vƣợng, Tị Ngọ
thì thân vƣợng, Hợi ý là Quan vƣợng, đều cát. Nhƣng Tị hỏa thổ là quan trọng, không có thì
phúc mỏng. Thấy Mùi Tuất Thìn Sửu là cát.
+ Ngày Bính Ngọ giờ Giáp Ngọ, tháng Dần Ngọ Tuất, lấy Đảo Xung cách mà luận, làm quan
hàng nhị tam phẩm. Tháng Tý, Nam vận, quan hàng bát cửu phẩm. Tháng Dần, Nam vận, áo
vàng tía là quý. Tháng Ngọ, Đông phƣơng vận, chỉ là quý.
+ Ngày Bính Thân giờ Giáp Ngọ, không thấy hỏa thổ khí thì phúc mỏng. Hành kim thủy vận,
thì quý.
+ Ngày Bính Tuất giờ Giáp Ngọ, sinh mùa xuân thì cát, mùa hạ thì cô khắc, mùa thu thì cát,
thiếu con. Tháng Dần Ngọ Tuất, phú quý siêu quần. Thần tiên Tể tƣớng.

Ngày Bính giờ Ngọ ít thủy tai,


Hồn như viêm hỏa lại thêm củi;
Trong trụ thấy hỏa là hình phá,
Về sau vinh hoa tất không sai.
Ngày Bính gặp giờ Giáp Ngọ, trong trụ có Kiếp Nhận Thƣơng quan. Mộc suy hỏa vƣợng hóa
209 | Tam mệnh thông hội

thành tro. Đề cƣơng là tháng Tứ quý mới quý. Quân tử thì ra vào hanh thông, thƣờng nhân thì
lấy tổ nhiều tai họa. Lục thân cốt nhục thiếu hài hòa, việc làm có thành cũng có bại.
23-04-16, 19:20
lesoi
Đoán ngày Lục Bính giờ Ất Mùi

Ngày Lục Bính sinh giờ Ất Mùi,


Người sinh tháng hỏa nhiều phú quý;
Ất là Chính Ấn gặp trong cục,
Không thấy Tài tinh phương mới an.
Ngày Bính gặp giờ Ất Mùi, là Sinh khí Ấn thụ, Bính thấy Mùi là Ấn khố, nếu thông khí tháng
hỏa, là quý; nếu không thông, trụ không có Tài, không hành Tài vận, cũng luận lấy là cao
mệnh, thấy thì là Tham Tài hoại Ấn, chủ bình thƣờng. Sinh mùa Đông, là Quan vƣợng phụ
Ấn, mệnh quý hiển.
+ Ngày Bính Tý giờ Ất Mùi, mùa Xuân, Ấn thụ ổn hậu. Mùa Hạ thì bình ổn, mùa Thu là
phản phục, mùa Đông là quý, tuế vận cũng nhƣ vậy.
+ Ngày Bính Dần giờ Ất Mùi, sinh tháng Mão Mùi, là Ấn thụ cách, có trí tuệ phong hậu,
nhƣng khó có vợ con. Năm tháng là Dần Tị Tý Thìn, là quý.
+ Ngày Bính Thìn giờ Ất Mùi, mùa xuân là cát, mùa hạ thì bình ổn, mùa thu thì lao lục, mùa
đông là quý hiển. Tháng Tị Ngọ, hành Tây Bắc vận, quan hàng lục thất phẩm.
+ Ngày Bính Ngọ giờ Ất Mùi, không quý thì phú. Năm tháng là Ngọ Tuất, chức ở quan trên.
Thân Tý Thìn, là Quan tinh chế Nhận; Hợi Mão Mùi, là Ấn thụ hóa Nhận, đều là mệnh tốt.
+ Ngày Bính Thân giờ Ất Mùi, không thông hỏa khí, không thấy Tài tinh, luận là mệnh tốt.
Năm tháng có Tý Thìn là hội Quan; Hợi Mão là hội Ấn, đều quý.
+ Ngày Bính Tuất giờ Ất Mùi, năm tháng Thân Tý Thìn, thì chỉ có quý. Năm tháng Dần Mão
Tị, là đại quý.

Giờ Mùi sinh ngày Bính không sai,


Duyên phận với anh em là bạc bẽo;
Vận khí nếu hành Đông và Bắc,
Bình thường y lộc có không suy.
Ngày Bính lâm giờ sinh Ất Mùi, vận hành Đông Bắc thì vinh hoa. Thân cƣờng Tài vƣợng thì
chớ có bàn bạc, là hiển quý ở nhà lớn cao đƣờng. Quân tử thì vợ giàu con ấm, thƣờng nhân
thì cuộc sống tốt đẹp, đôi kim tích ngọc thực đầy đủ, phú quý cƣỡi xe đạp Mã.
23-04-16, 19:21
lesoi
Đoán ngày Lục Bính giờ Bính Thân

Ngày Lục Bính sinh giờ Bính Thân,


Thân suy Tài phá Tỉ kiên chia;
Ám trung Quỷ vượng đất Thất Sát,
Không cứu làm sao yên gia đạo.
Ngày Bính sinh giờ Bính Thân, là Tài vƣợng thân suy, Bính gặp Canh là Tài, Nhâm là Quỷ,
Thân Canh vƣợng sinh Nhâm, làm Bính hỏa vô khí, Tài cần có TỈ kiên phân đoạt. Nếu không
thông tháng thân vƣợng thì bần hạ; có chỗ dựa có cứu trợ, lại thông tháng thân vƣợng, vận lại
giống vậy thì quý.
+ Ngày Bính Tý giờ Bính Thân, nếu thông hỏa khí cùng tháng Dần Mão lại hành thân vƣợng
vận, là cát. Năm tháng thuần kim, là Khí mệnh tựu Tài, cũng lấy cát luận.
+ Ngày Bính Dần giờ Bính Thân, là ngày giờ đối xung nhau, sợ thƣơng hại vợ con, thông
210 | Tam mệnh thông hội

tháng hỏa khí, hành thân vƣợng vận, là cát, tháng Hợi, thì thủ nghệ thuật.
+ Ngày Bính Thìn giờ Bính Thân, tháng Dần, hành Nam vận, là quý. Tý, là tam hợp Quan
cục, thiên can thấu Ấn, là mệnh đại quý. Sinh tháng Hợi lại thấu Nhâm, phần đa là yểu.
Tháng Tuất Mùi, ngƣời bình thƣờng.
+ Ngày Bính Ngọ giờ Bính Thân, chủ có họa huyết hỏa, về sau đại phát. Nếu sinh tháng Tị,
có Canh Tân thấu lộ, là Tài tinh cách, là vũ quý.
+ Ngày Bính Thân giờ Bính Thân là cao mệnh, háo sắc. Năm tháng có Tý Thìn, gặp Đông
vận, là quý; nếu không thì cũng tàn tật ngắn thọ. Hợi Mão Mùi, thì cát.
+ Ngày Bính Tuất giờ Bính Thân, trụ không có chữ Nhâm Quý Hợi Tý Dậu điền thực, thì lấy
Củng Cách mà luận, là quý. Dần Tuất Tị Ngọ, là thân vƣợng vô y, mệnh tăng đạo.

Hai Bính tương phùng gặp giờ Thân,


Không hình không phá sữa cửa sân;
Hỏa kim nung luyện nhiều thành bại,
Có Ấn mới có đạo thoát tục.
Ngày Bính gặp giờ ở vị trí Thân, là Tỉ kiên dƣơng hỏa trì trệ. Thiên Quan vinh vƣợng là
không trung hòa, thì đƣờng thê tài toại ý. Tổ tông tròn khuyết đƣợc mất, song thân cùng
huynh đệ bạn bè khó mà nƣơng tựa. Thời đến an ổn gia đạo vui, sinh Tài thì hƣ danh bạc lợi.
23-04-16, 19:21
lesoi
Đoán ngày Lục Bính giờ Đinh Dậu

Ngày Lục Bính sinh giờ Đinh Dậu,


Nhận sinh Thân Tý là họa tai;
Trong trụ không cứu định là hung,
Tựu Tài bỏ mệnh khó trường thọ.
Ngày Bính giờ Đinh Dậu, Nhận sinh Thân Tý, Đinh là Nhận, Tân là Tài, ở trên Dậu thì Tân
vƣợng Bính tử, Đinh hỏa trƣờng sinh, là Khí (bỏ) mệnh tựu Tài, nếu không có cứu trợ, không
thông tháng thân vƣợng, thần Nhận không thấy hình xung, là ngƣời hung bạo, không rõ lễ
nghĩa, có thủy không có chung; thông khí tháng, hoặc có cứu trợ, là đƣờng kỹ nghệ khéo léo.
Sinh tháng Quý Mão, Quý là Quan có thể phá Đinh Nhận, Quý thủy ở trên Mão là trƣờng
sinh, trong Mão có Ất vƣợng là Ấn, nhƣ dụng thần có lực, lại hành thủy mộc vận, mệnh quý
hiển.
+ Ngày Bính Tý giờ Đinh Dậu, mùa xuân yên ổn, mùa hạ thì quý, mùa thu bình thƣờng, mùa
đông thì cát. Năm tháng có Mùi Thân Dậu Hợi, là đại quý. Có Sửu hội Tý, có Thìn hội Dậu,
đều lấy quý luận.
+ Ngày Bính Dần sinh giờ Đinh Dậu, năm tháng là Mão Hợi Mùi, can thấu Quan Sát là quý.
Các tháng còn lại là có kỹ nghệ, là bình thƣờng.
+ Ngày Bính Thìn giờ Đinh Dậu, năm tháng Dần Ngọ Tuất Tị, can thấu Sát Ấn là quý. Thân
Tý là hội Quan, can thấu Ấn Tỉ là quý. Nhƣ năm tháng là hỏa thổ, cần thấy Tài mới cát.
+ Ngày Bính Ngọ giờ Đinh Dậu, sinh tháng Tị Ngọ Tuất, mệnh tốt là tăng đạo; tháng Dậu là
quý; năm tháng là Hợi Tý Sửu Dần Mão Thìn là Quan Ấn, đại quý.
+ Ngày Bính Thân giờ Đinh Dậu, thông thủy mộc khí tháng, hành thủy mộc vận là quý. Tị
Ngọ, là thân vƣợng. Hợi Tý, là Quan vƣợng. Năm tháng có đủ, là đại quý.
+ Ngày Bính Tuất giờ Đinh Dậu, tháng thông mộc khí, hành thủy vận, là quý; thông kim khí,
hành hỏa vận, là Kim mã Ngọc đƣờng, tài danh quan thế. Lộ Canh tàng Mậu, là mệnh bần
yểu.

Bính hỏa gặp Dậu không thích hợp,


Thái Dương một ngày không phát sáng;
211 | Tam mệnh thông hội

Tứ trụ nếu sợ xung khắc phá,


Lục thân hình hại bàng hoàng chạy.
Ngày Bính gặp giờ Đinh Dậu, là Thiên Nguyên viêm hỏa nung kim. Lục thân không thể có
yên ổn, tiền trình trở ngại khó tiến. Đêm ngày suy nghĩ không đủ. Giống nhƣ làm quan lo
tham ô. Nếu gặp tháng Tị thì thay đổi môn đình, Tý Ngọ kề bên ngƣời oán trách.
23-04-16, 19:22
lesoi
Đoán ngày Lục Bính giờ Mậu Tuất

Ngày Lục Bính sinh giờ Mậu Tuất,


Hỏa cục ở trong gặp Thực thần;
Khí tháng thông hỏa là phúc thọ,
Không thông gặp cát cũng thường nhân.
Ngày Bính gặp giờ Mậu Tuất, thọ lâu, danh lợi không mất. Năm tháng sinh là Dần Hợi Mão
Mùi Ấn cùng Thân Dậu Tuất Tị, là quý.
+ Ngày Bính Dần giờ Mậu Tuất, là Miếu đƣờng Thực thần, Bính lấy Mậu là Thực thần Thọ
tinh, trên Tuất có Bính hỏa nhập khố, là Mậu thổ chuyên vị, nếu thông hỏa khí tháng cùng
vận Đông Nam, phúc dày có thọ; không thông, mệnh bình thƣờng.
+ Ngày Bính Tý sinh giờ Mậu Tuất, sống thọ, danh lợi không mất. Thêm năm là Hợi Mão
Mùi Ấn cùng Thân Dậu Tuất Tị là thắng, là quý.
+ Ngày Bính Tý giờ Mậu Tuất, tháng mùa hạ, là phúc thọ song toàn. Mùa Xuân, mộc khắc
thổ, là Thực thần gặp Kiêu. Tháng Dần, Bính Mậu đều ở trƣờng sinh, là rất tốt. Có Thân
Canh chế Giáp, là đại quý. Mùa Thu Đông hỏa suy là mệnh bần hạ. Năm tháng có Tị Thân
Hợi, làm quan cực phẩm.
+ Ngày Bính Thìn giờ Mậu Tuất, tháng Ngọ, là Bính hỏa có khí, là chốn phƣơng thổ dày, làm
quan ngũ lục phẩm. Tháng Hợi, kim hỏa vận, thăng quan.
+ Ngày Bính Ngọ giờ Mậu Tuất, Dƣơng Nhận Thực thần đều kiện vƣợng, danh lợi phát
nhanh, năm tháng là Hợi Mùi Thìn Tuất, Tây phƣơng vận, thăng quan.
+ Ngày Bính Thân giờ Mậu Tuất, tháng Hợi, Đông phƣơng vận, là quý. Dần Ngọ thì thân
vƣợng, can thấu Tài, là cát. Sửu Thìn hình xung Tuất khố, phát lúc về già.
+ Ngày Bính Tuất giờ Mậu Tuất là mệnh bần, nếu thông Dần Tị Ngọ Tuất hỏa cục, phúc thọ
song toàn, mệnh đại quý. Thấy Tài cũng tốt.

Thời thượng Thực Thần cục,


Lâu đài điếm xá trung;
Trà phòng bính tửu tứ,
Kỷ độ lập gia phong.
Ngày Bính gặp giờ Tuất là mở Tài khố, thiếu niên chƣa gặp đã bị chôn vùi; vận thông sớm
muộn gì cũng đƣợc phong quan tƣớc, giả nhƣ không có Quan cũng phát tài. Ngày Bính gặp
giờ Mậu tuất, ở giữa kiêm đủ kho tàng. Trùng trùng phúc lộc tự nhiên đến, phú quý nhƣng vợ
hiền mà con hèn. Quân tử thì văn chƣơng sớm lập, thƣờng nhân thì tài vật có đều đều. Cô đơn
cha mẹ sớm nhớp nháp, có chìa khóa Thìn Tuất mở sẽ hiển lộ.
23-04-16, 19:23
lesoi
Đoán ngày Lục Bính giờ Kỷ Hợi

Ngày Lục Bính sinh giờ Kỷ Hợi,


Trong Hợi Nhâm vượng bị Tị thương;
Nếu thông khí tháng mới là quý,
212 | Tam mệnh thông hội

Không gặp Dần Mão chủ bình thường.


Ngày Bính giờ Kỷ Hợi, Quỷ vƣợng Thân tuyệt, Bính thấy Kỷ là Thƣơng quan, Nhâm là đúng
Quỷ, Giáp là Đảo Thực, trên Hợi có rõ Kỷ, vƣợng Nhâm sinh Giáp, Bính hỏa tuyệt khí, nếu
thông tháng thân vƣợng có chỗ dựa, thì hóa Quỷ thành Quan, chủ quý hiển, nhƣng cuối cùng
cũng hung ngoan. Thông thân vƣợng vận cũng quý; thân nhƣợc không có chỗ dựa, không
thông khí tháng, trong trụ thấu ra chữ Nhâm, là Vi họa bách đoan, khí cao ngạo vật, chủ
ngƣời bình thƣờng.
+ Ngày Bính Tý giờ Kỷ Hợi, mùa Thu Đông, là bình thƣờng. Tháng Mùi, hành thủy mộc vận,
can thấu mộc hỏa là quý. Tháng Tý, hành Đông vận, mệnh đại quý. Năm tháng là Thân, Hợi,
Sửu, Tuất, cũng quý.
+ Ngày Bính Dần giờ Kỷ Hợi, sinh mùa Hạ, là hóa Quỷ thành Quan, là vợ hiền con hiếu,
không quý cũng phú. Năm tháng là Dần Mão Thìn Tị Thân Sửu, hoặc Ngọ Tuất hội cục,
thiên can lại thấu chữ Bính Tuất, chủ đại quyền quý.
+ Ngày Bính Thìn giờ Kỷ Hợi, là ngày Nhật Đức cách. Sinh tháng Dần, là cát, tháng Thìn, là
tăng đạo chủ phú, ngƣời thƣờng thì cô khắc. Tháng Tuất xung Thìn, tháng Tị xung Hợi, Bính
ở vƣợng khố, đều cát. Mão Mùi hội, hành kim thủy vận, Thân Tý hội, hành mộc hỏa vận, đều
quý.
+ Ngày Bính Ngọ giờ Kỷ Hợi, mệnh vũ quý. Sinh tháng Dần Tị Ngọ, trùng thê con muộn,
không quý cũng phú. Mùa Thu Đông, danh lợi tiến thoái, Dậu Ngọ Tuất, là đại quý.
+ Ngày Bính Thân giờ Kỷ Hợi, sinh mùa Xuân Hạ, là di căn hoán diệp, thì vợ thay đổi phúc.
Thu Đông là bình thƣờng. Tháng Dậu, hành Đông Nam vận, phong quan.
+ Ngày Bính Tuất giờ Kỷ Hợi, Dần Mão Tị Ngọ, mộc sinh hỏa viêm, hại vợ thiếu con, thông
minh phú quý; Dậu Hợi Tý Sửu, là bình thƣờng, Đông vận cũng quý.

Ngày Bính giờ Hợi mệnh tối cao,


Giống như Lan Huệ ra cỏ cúc;
Tứ trụ nếu kiêm xung khắc phá,
Cầu danh cầu lợi lại hư hao.
Ngày Bính lâm giờ Kỷ Hợi, nếu hi vọng không có chữ Nhâm. Trong mệnh hai ba vợ nhƣng
thiếu con, thì bên trong hỷ gặp Thiên Ất.Cha mẹ anh em đi xa, Hình Không thì văn phúc khó
đủ. Đều bởi vì bát tự có cao thấp, thiết kị tham tài mà bãi chức.
26-04-16, 10:55
lesoi
Đoán ngày Lục Đinh giờ Canh Tý

Ngày Lục Đinh sinh giờ Canh Tý,


Thân suy Quỷ vượng gặp ám tàng;
Tháng không cứu trợ thì bần yểu,
Được tọa thân cường lại cát xương.
Ngày Đinh giờ Canh Tý, là thân tuyệt quỷ vƣợng, Đinh lấy Canh là Tài, Quý là Quỷ, trong
Tý có Quý, Đinh hỏa vô khí, không thể phù trợ. Nếu thông tháng thân vƣợng, có chỗ dựa là
quý, lại hành thân vƣợng vận, là đại quý; trái lại, là bần yểu hạ tiện.
+ Ngày Đinh Sửu giờ Canh Tý là bình thƣờng, thông mộc hỏa khí, hoặc hành thân vƣợng
vận, là quý. Cũng có năm tháng là Hợi Tý, lấy Đinh hỏa âm nhu, cho nên không sợ đất thủy
vậy.
+ Ngày Đinh Mão giờ Canh Tý là bần, Thìn Tuất Sửu Mùi, là Thiên Quan có chế, tháng Ngọ
thì can cƣờng, mùa xuân thì thân vƣợng, đều cát. Mùa Thu Đông là bình thƣờng. Tháng kị
Quý Tị, là phá tổ, mệnh hung; tháng Kỷ Mùi, là hình thƣơng; tháng Giáp Thân, cảnh máu me
do bị ám sát mà chết.
+ Ngày Đinh Tị giờ Canh Tý, mùa xuân vƣợng, mùa hạ cƣờng, đều quý. Thu Đông là bình
213 | Tam mệnh thông hội

thƣờng. Tháng tứ quý, chế phục thì gặp cát. Tý Thìn, hành Tây vận, làm quan hàng tứ ngũ
phẩm.
+ Ngày Đinh Mùi giờ Canh Tý, tháng Thìn Tuất Sửu Mùi, là Thiên Quan có chế. Tháng Ngọ
thì can cƣờng, là quý. Tháng còn lại nếu có chế phục, thì cát; Mậu Tý, thì văn chƣơng hiển tú.
Kị tháng Mậu Thân, là yểu; tháng Bính Tuất, gặp hình; tháng Tân Sửu, mệnh gặp hung hình.
+ Ngày Đinh Dậu giờ Canh Tý, tháng Thìn Tuất Sửu Mùi, đặc biệt đạt rõ bền là quý. Năm
tháng Thìn Tị, quý tôn ở tƣớng phủ. Kị tháng Giáp Dần, là phá bại chết hung; tháng quý Tị,
ly hƣơng mà chết hung; tháng Ất Dậu là tử hình.
+ Ngày Đinh Hợi giờ Canh Tý, sau 50 tuổi rất thịnh vƣợng. Tháng Thìn Tuất Sửu Mùi, là cát.
Năm tháng Dần Ngọ, là quý. Kị tháng Canh Dần, là chết hung; tháng Canh Thân, thân chết
không toàn thây; tháng Tân Dậu, là phá bại.

Giờ Canh Tý gặp ngày là Đinh,


Hỏa lạc giang hồ ám phục minh;
Tứ trụ nếu kiêm xung khắc phá,
Dù học đến giả vẫn hư danh.
Ngày Đinh gặp giờ Canh Tý, nhật can Đinh hỏa sáng rực rỡ. Hỏa thai kim tuyệt có tròn
khuyết, vợ không có thể hoàn mỹ. Có khắc có hình xung phá, trong đó văn phúc khó mà đầy
đủ. Tƣơng sinh tƣơng cứu nói quý nhân, mệnh này trƣớc khó sau dễ.
26-04-16, 10:58
lesoi
Đoán ngày Lục Đinh giờ Tân Sửu

(Dƣới đây là chỗ tháng kị của ngày Lục Đinh phân ra giống nhƣ ở trên, không có luận giờ kị)

Ngày Lục Đinh sinh giờ Tân Sửu,


Trong khố khe tài nhiều hủ mục;
Thân không chỗ dựa không là hung,
Đã có vợ hiền còn phúc dày.
Ngày Đinh giờ Tân Sửu, Sửu là Tài khố, Tân là Thê tài, Kỷ là Thực thần, Sửu vƣợng kim
cục, ám Kỷ đắc vị, Đinh hỏa vô khí, nếu thất thời không có chỗ dựa, đƣợc vợ mà phát; có chỗ
dựa cứu trợ, tài thực phong phú.
+ Ngày Đinh Sửu giờ Tân Sửu, tháng Thân Dậu, là Tài cách, Tài vƣợng sinh Quan, là quý.
Tháng Ngọ, Thƣơng Tài Thân vƣợng, là chủ quan lộc. Thuần Tý Dần, vũ quý hàng tam
phẩm. Tháng thủy, gian nan lao khổ. Tháng Thìn là quý.
+ Ngày Đinh Mão giờ Tân Sửu, năm tháng Thìn Tị Mùi, là phú quý, nắm giữ vợ con. Dần
Mão là Ấn trợ, Tuất khố thì thân vƣợng, là hình. Sửu thì Đinh đƣợc chỗ dựa, đại quý.
+ Ngày Đinh Tị giờ Tân Sửu, nhờ nữ nhân mà quý. Năm tháng Tị Dậu Sửu Thân, là Tài
vƣợng sinh Quan, là phú quý. Tháng Mão bình thƣờng, hành vận này cũng quý. Tháng Sửu,
Tây Nam vận, là đại quý. Ngày Đinh Mùi giờ Tân Sửu, ngày giờ đều xung, sợ thƣơng hại vợ
con. Tháng Dậu, thông thủy khí, là cát. Tuế vận giống vậy.
+ Ngày Đinh Dậu giờ Tân Sửu, Dần Mão Tị Ngọ, thân vƣợng có chỗ dựa, chủ văn danh cao
quý, địa vị phi thƣờng. Thân Dậu Tuất, tòng Tài vƣợng, rất tốt. Hợi Tý, Quan vƣợng cũng
cát.
+ Ngày Đinh Hợi giờ Tân Sửu, mùa xuân là Ấn thụ, cát, mùa thu, có hỏa khí cũng cát, mùa
hạ thân thái vƣợng, là hung. Mùa Đông Quan Sát vƣợng, cát. Tháng Mùi Tuất, xung khai Sửu
khố, là phú.

Tân Sửu gặp Đinh là khố báu,


Trụ không mở khóa có nói phú;
214 | Tam mệnh thông hội

Hình xung vận đến gặp cao nhân,


Xa quê phát tích danh dự có.
Ngày Đinh gặp giờ Tân Sửu, Thiên Tài khố hỷ hình xung. Nếu vẫn hiển lộ có hƣ danh. Cùng
với vợ con là hòa hợp, cha mẹ anh em bất hòa. Gia môn lại thay đổi lần nữa, phát tài phát
phúc ở trung niên. Tất là mệnh vinh hoa.
26-04-16, 10:59
lesoi
Đoán ngày Lục Đinh giờ Nhâm Dần

Ngày Lục Đinh sinh giờ Nhâm Dần,


Thân khử tòng Quan hóa mộc thần;
Thủy mộc tháng thông thành cục tượng,
Tôn vinh an phú quý vô luân.
Ngày Đinh giờ Nhâm Dần, thân khử tòng theo Quan, Đinh Nhâm hóa mộc, trên Dần là kiện
vƣợng, nếu tháng là thủy cục, thì đại quý; thông tháng mộc cũng quý. Nhƣ tháng Đinh Mùi,
hành Đông phƣơng vận, tốt.
+ Ngày Đinh Sửu giờ Nhâm Dần là hóa quý. Sinh tháng mùa Đông, là Quan vƣợng, quý.
Mùa Xuân, là Ấn thụ, an ổn, mùa hạ là cát; mùa thu bình thƣờng, hành Đông vận tốt.
+ Ngày Đinh Mão giờ Nhâm Dần, quý hóa, cát. Năm tháng Dần Mão, hành kim thủy vận, là
đại quý. Tháng Hợi Tý, hành Tây vận, quý.
+ Ngày Đinh Tị giờ Nhâm Dần, Đinh tử ở Dần, Tị không có sức sống, lại bị Dần hình, có
thủy không có chung, nếu hành kim thủy vận, là vinh quý. Năm tháng Dần Ngọ, là thân
vƣợng; Thân Tý Thìn, là Quan vƣợng; Hợi Mão Mùi, là Ấn vƣợng, đều quý.
+ Ngày Đinh Mùi giờ Nhâm Dần, chết hung. Mùa Xuân là Ấn là cát, mùa hạ, mộc hỏa vận,
phát phúc. Mùa Thu phú, mùa Đông quý. Năm tháng Dậu Tuất, quan hàng tam phẩm. Hợi
Mão Dần Tuất, là văn quý, thuần Mão hành kim thủy vận, mặc áo quan.
+ Ngày Đinh Dậu giờ Nhâm Dần, năm tháng Hợi Mùi Dần Mão Thân Tý, thông minh phú
quý, quan cao hàng cực phẩm. Tị Ngọ, là Tể tƣớng. Tháng Thìn, hành kim thủy vận; tháng
Tuất, Đông phƣơng vận, đều quý.
+ Ngày Đinh Hợi giờ Nhâm Dần, là Nhật Quý cách, phối hợp Nhâm Dần, Quan Ấn đều đủ,
thì văn chƣơng hiển đạt. Tháng Tý, là đại quý, hóa bỏ hung.

Đinh Nhâm hợp hóa nhập kim hương,


Cẩu lộc Ruồi danh không tự mang;
Tiết khái suy tàn không đầy đủ,
Nhãn tiền cốt nhục cũng tham thương.
Ngày Đinh giờ Nhâm Dần gặp hợp, hóa cục đất mộc vƣợng. Không gặp chi tháng Thân Dậu,
đắc ý cao nhân tiến dụng. Cha mẹ anh em ít trợ giúp, ngƣời dƣng thấy thì vui mừng, vận gặp
thủy mộc không có kim, mệnh quý hiển vinh đạt.
26-04-16, 11:00
lesoi
Đoán ngày Lục Đinh giờ Quý Mão

Ngày Lục Đinh sinh giờ Quý Mão,


Quỷ vượng thân suy không chịu được;
Tháng thông có dựa mới là phúc,
Nếu không thì bần khổ bi tâm.
Ngày Đinh giờ Quý Mão, là thân suy quỷ vƣợng, Đinh lấy Quý là quỷ, Ất là Đảo Thực, trên
Mão có Quý sinh Ất vƣợng, nếu tháng sinh có chỗ dựa cứu trợ cùng thân vƣợng, thì hóa Quỷ
215 | Tam mệnh thông hội

thành Quan, là cát, trụ không có vận thông cũng cát; trái lại là bần hạ, mất ánh sáng, bệnh
máu, vợ hung con thiếu.
+ Ngày Đinh Sửu giờ Quý Mão, tháng Thìn Tuất Sửu Mùi, chế phục thì đƣợc quý. Tháng
Ngọ thì can cƣờng, là quý. Thân Sửu, phong quan lớn.
+ Ngày Đinh Mão giờ Quý Mão, sinh tháng Dần Mão, là Ấn thụ kèm theo Sát, không lấy
hung luận; hành Quan vận, thì quý hiển.
+ Ngày Đinh Tị giờ Quý Mão, sinh tháng Sửu, Bắc phƣơng vận, đấy thổ dày, thì cát; đất thủy
tú, làm quan hàng nhị tam phẩm. Thân Dậu, dụng Tài cũng cát.
+ Ngày Đinh Mùi giờ Quý Mão, là Thiên Quan sinh Ấn. Mùa Xuân thì cát, mùa hạ bình
thƣờng, mùa thu thì phú, mùa đông là bần.
+ Ngày Đinh Dậu giờ Quý Mão, ngày giờ đều tọa quý, rất tốt. Mùa Xuân Hạ thân vƣợng, hóa
Quỷ thành Quan; mùa thu đông thì thân suy, bần khổ. Tháng Tị Tuất, là quý. Năm tháng
thuần Ngọ Sửu, can thấu Canh Kỷ, là thanh quý.
+ Ngày Đinh Hợi giờ Quý Mão, tháng Mão, là Ấn thụ, chỉ là quý, Dần Ngọ, làm quan hàng
ngũ lục phẩm.

Ngày Đinh Sửu sinh giờ Quý Mão,


Cầu danh cầu lợi chỉ trung bình;
Thân suy lộng xảo lại thành ngã,
Đắc chí cần thông gặp quý nhân.
Ngày Đinh lâm giờ Quý Mão, thân suy không chỗ dựa là bình thƣờng. Trong nhà có quỷ tặc
làm hao tài của, lấy tổ nghiệp nên đề phòng phá đãng. Cha mẹ anh em đều ít có nhờ, vợ
không tránh khỏi ly hƣơng. Trong vận thân vƣợng nơi Sát giáng, có hứa lợi danh vinh quang.

lesoi
Đoán ngày Lục Đinh giờ Giáp Thìn

Sinh ngày Lục Đinh giờ Giáp Thìn,


Quan tinh đắc vị Ấn sinh thân;
Không thông khí tháng bình là phúc,
Có chỗ dựa cùng Lộc quý nhân.
Ngày Đinh giờ Giáp Thìn, Ấn thụ Quan khố, Giáp là Ấn, Nhâm là Quan, trong Thìn có Ất
mộc Ấn thụ sinh thân, Quan tinh hợp cục, nếu thông nguyệt khí, có chỗ nƣơng tựa là quý, nếu
không thì bình thƣờng. Sinh mùa Xuân, hỷ Bắc vận; sinh mùa Đông, hỷ Nam vận, cát.
+ Ngày Đinh Sửu giờ Giáp Thìn là cát, tháng Hợi Tý, là phú quý. Tháng Thân, Đông phƣơng
vận; tháng Ngọ, kim thủy vận, đều quý. Thuần Dần, làm quan cực phẩm.
+ Ngày Đinh Mão giờ Giáp Thìn, tháng Thìn Tuất Sửu Mùi, là cô khắc, vận thông thì phát
tài. Tháng Sửu, Nam phƣơng vận, quý. Tháng Mão, vận kim thủy, là liền kề quyền quý,
không thấy bất lợi.
+ Ngày Đinh Tị giờ Giáp Thìn, là hung hình cô khắc. Mùa Xuân là Ấn, cát. Mùa Hạ Thu là
bình thƣờng. Mùa Đông Quan vƣợng. Thuần Tuất, mộc hỏa vận, quan nơi chức nhỏ.
+ Ngày Đinh Mùi giờ Giáp Thìn, tháng Sửu Hợi Mão Mùi, là Ấn thụ, là Quan quý. Mùa Hạ
bình thƣờng. Thìn Tuất, là dày quý. Dậu Ngọ, kim thủy vận, đại quý.
+ Ngày Đinh Dậu giờ Giáp Thìn là bình thƣờng, năm tháng không thấy chữ Tuất, nhật chủ là
cách vinh quý. Sinh mùa Xuân, Nam vận, thì quý; Bắc vận, đại quý. Năm Ngọ có chi tháng
hợp cục, hóa Nhân Mã cách, càng quý.
+ Ngày Đinh Hợi giờ Giáp Thìn, là Nhật Quý cách, Quan Lộc đắc vị, tất nhiên là hiển đạt.
Năm tháng Thân Thìn, là đại quý. Tháng Ngọ, Đông Bắc vận; tháng Thìn, Bắc phƣơng vận,
đều quý.
216 | Tam mệnh thông hội

Ngày Đinh gặp giờ cùng Quan Ấn,


Mở khóa Tài khố thấy tiền rồng;
Can chi tứ trụ không hình phá,
Vận đến mới xưng phú quý ông.
Ngày Đinh giờ Thìn là khố vƣợng, trong đó có Ấn thụ tƣơng sinh. Có chìa khóa Tuất mở ra
hỷ Nhâm Đinh, văn tú xuất quần siêu chúng. Cốt nhục lục thân hình khắc, kết thành hoa quả
tạ ơn vinh. Chỉ tranh giành vận trì trệ thấy tiền Long (Thìn), mệnh trƣớc xấu sau tốt.
26-04-16, 11:02
lesoi
Đoán ngày Lục Đinh giờ Ất Tị

Ngày Lục Đinh sinh giờ Ất Tị,


Trong ám Thương quan hội Kiêu thần;
Đông phương vận địa thành hư tú,
Đất nơi kim thủy Lộc Quý nhân.
Ngày Đinh giờ Ất Tị, Đinh lấy Nhâm là Quan, Ất là Đảo Thực, trên Tị có Nhâm tuyệt, có Ất
Đảo Thực lộ rõ, ám Mậu Thƣơng quan kiện vƣợng, là ngƣời chí cao ngạo vật, là bình thƣờng.
Nếu thông tháng khí kim thủy, là quý. Vận thông cũng quý.
+ Ngày Đinh Sửu giờ Ất Tị, mùa xuân thì phú, mùa hạ thì cô, mùa thu cát, mùa đông thì quý.
+ Ngày Đinh Mão giờ Ất Tị, mùa xuân là Ấn, mùa hạ thân vƣợng, mùa thu là Tài, mùa Đông
là Quan, thủ dụng nhƣ thế nào? Đều có thể luận cát. Năm tháng Ngọ Mùi, là văn chƣơng quý
hiển, hành vận Quan Lộc, cát.
+ Ngày Đinh Tị giờ Ất Tị, lại sinh tháng Tị, là Đảo Xung cách, Hợi có Nhâm là Quan, không
có thủy điền thực phá cách, chủ làm quan hàng tứ ngũ phẩm.
+ Ngày Đinh Mùi giờ Ất Tị, nếu là Đảo Xung cách, không có xung phá, là quý. Năm tháng là
Tị Hợi, làm quan tam tứ phẩm. Dậu Sửu hợp Tài cục, là phú.
+ Ngày Đinh Dậu giờ Ất Tị, là phá tài, Đảo Thực, nếu thông năm tháng có kim thủy, hành
kim thủy vận, cát.
+ Ngày Đinh Hợi giờ Ất Tị, ngày giờ cùng xung, sợ thƣơng hại vợ con. Tị Dậu Sửu Thân Tý
Thìn, hai cục kim thủy, Tài Quan đắc dụng, luận là phú quý.

Ngày Đinh giờ Tị sợ Hổ hình,


Tài Quan bước vận mới có thông;
Hảo ý nhân tình lại ác ý,
Trước khó sau dễ thong thả vui.
Ngày Đinh giờ lâm Ất Tị, là phá tài đảo thực khó thông. Song thân bạn bè lại hòa bình, vợ
con không buồn không giận. Quân tử thì văn học tú khí, thƣờng nhân thì tài nghệ thông minh.
Nhâm Canh Tân Quý nếu gặp nhiều, về sau tài danh đủ dùng.
26-04-16, 11:02
lesoi
Đoán ngày Lục Đinh giờ Bính Ngọ

Ngày Lục Đinh sinh giờ Bính Ngọ,


Nhật Lộc hỷ cư gặp thời thượng;
Trong trụ Tý Mão Quý không thương,
Thiếu niên từng bước thanh vân lộ.
Ngày Đinh gặp giờ Bính Ngọ, là Thanh vân đắc lộ. Đinh hỏa ở trên Ngọ là kiến lộc, nếu chi
không có Kiêu phá, can không có Quý hình, lộc nguyên thuần túy, là chủ quý. Nhƣ chi có Tý
217 | Tam mệnh thông hội

Mão, can có Quý phá Lộc, gọi là Ngộ nhi bất ngộ.
+ Ngày Đinh Sửu giờ gặp Bính Ngọ, mệnh bình thƣờng; năm tháng Dần Mão Tuất Mùi, là
quý. Dậu Sửu, dụng Tài là rất tốt. Kị Hợi Tý Quan sát.
+ Ngày Đinh Mão gặp giờ Bính Ngọ, trong vƣợng có họa, chữ Mão hình phá trắng tay.
Tháng Tị, Tây Bắc vận, là quý; Đông Nam, có quyền hành hàng cực phẩm. Dần Hợi, vũ chức
hàng nhị phẩm. Nếu hoàn toàn là Tý Dậu, mệnh đại quý.
+ Ngày Đinh Tị giờ Bính Ngọ, Đinh lộc ở Ngọ, Bính lộc ở Tị, gọi là Hỗ hoán Lộc cách, trụ
không có chữ Dần Hợi Tý, là mệnh văn chƣơng hiển quý.
+ Ngày Đinh Mùi giờ Bính Ngọ là mệnh quý, phá tổ mà thành. Năm tháng kị chữ Nhâm Quý.
Tháng Giáp Thân, là Tam Kỳ Tài Quan Ấn; tháng Thìn, là Quan khố; tháng Hợi, là Quan Ấn,
đều là mệnh đại quý.
+ Ngày Đinh Dậu giờ Bính Ngọ là mệnh bình thƣờng, bất lợi cho con cháu. Năm tháng Hợi
Mão Mùi, là quý. Tị Dậu Sửu, bình thƣờng. Dần Ngọ Tuất, là phú.
+ Ngày Đinh Hợi giờ Bính Ngọ là bình thƣờng, tháng Tý, kim thủy vận, mệnh làm quan.
Năm tháng Mùi Thân Dậu Sửu, đều là mệnh tốt.

Giờ Ngọ ngày Đinh Lộc nguyên cục,


Không thấy Quan tinh chế bầy Tỉ;
Tứ trụ không hình hành vận cát,
Thanh vân có đường bước trời cao.
Ngày Đinh gặp giờ Bính Ngọ, là Hỗ hoán Lộc Mã sáng ngời. Công danh hiển hách ứng thế
hiếm thấy, học tập văn chƣơng chủ quý. Năm tháng không có Quý Tý Mão, đến thời cùng tụ
văn phúc. Áo vải đổi thành áo cẩm y, lộ trình tƣớc phong vạn dặm.
26-04-16, 11:03
lesoi
Đoán ngày Lục Đinh giờ Đinh Mùi

Ngày Lục Đinh sinh giờ Đinh Mùi,


Hỏa dựa mộc cục sinh có khí;
Y lộc yên ổn mà bình thường,
Vận thấy thủy này phương đắc địa.
Ngày Đinh giờ Đinh Mùi, hỏa dựa mộc cục, Đinh lấy Giáp là Ấn thụ, Mùi là mộc khố đất Ấn
thụ, nếu trụ không thấy Tài tinh, không hành Tài vận, năm tháng thông Hợi Mão Mùi cục, có
chỗ dựa, phúc là yên ổn.
+ Ngày Đinh Sửu giờ Đinh Mùi, Sửu Mùi hình xung, không đƣợc sống yên lành. Năm tháng
là Thìn Tuất, đủ tứ khố, quý đến hàng cực phẩm. Thân Mùi, hàng tam phẩm, làm hình pháp
đạm bạc mà thanh nhàn.
+ Ngày Đinh Mão giờ Đinh Mùi, trong hình gặp phát. Tháng Dần Mão, là Ấn thụ, phát tài mà
đôn hậu. Thìn Tuất Thân Ngọ, đều cát.
+ Ngày Đinh Tị giờ Đinh Mùi, là Củng Lộc cách, mệnh quý. Năm có chữ Tý, thì Ngọ là
khuyết môn, là đắc củng, mệnh đại quý. Kị Không vong và điền thực. Năm tháng thấy Tài
Quan Ấn, đều cát; Tài, là phú; Quan Ấn, là quý.
+ Ngày Đinh Mùi giờ đinh Mùi, là ngày Bát Chuyên thái vƣợng, sớm khắc cha mẹ vợ con, y
lộc bình thƣờng, là tăng đạo, cát. Trụ thông kim thủy mộc cùng kim thủy vận, y lộc an ổn, đại
quý.
+ Ngày Đinh Dậu giờ Đinh Mùi, là Nhật Quý cách. Nếu sinh tháng Hợi Mão Mùi Dần, y lộc
mà đôn hậu, tháng Dần, kim thủy vận, mặc áo tía phong quan cao.
+ Ngày Đinh Hợi giờ Đinh Mùi, tháng Mão, tam hợp Ấn cục, quý mà còn thọ, tháng Thân, là
Tài Quan vƣợng; tháng Hợi, là Quan vƣợng, đều cát, sinh mùa hạ, Đinh hỏa có khí, là nho
quan, nhƣng không tránh khỏi cô bần.
218 | Tam mệnh thông hội

Hai Đinh giờ Mùi xếp gặp nhau,


Đường nguy trung niên đến phát phúc;
Vận cát quý nhân cùng hội hợp,
An nhàn y lộc không cần đoán.
Ngày Đinh gặp giờ Đinh Mùi, trong đó kho tàng chìm chôn ẩn. Thiếu niên khó phát đợi thời
đến, Sửu Mùi tƣơng xung là thông thái. Không dựa vào cha mẹ anh em, hoa nở thu quả Thê
Tài. Giờ gặp thọ đủ phúc đến trùng, cuối cùng là gặp đƣợc vinh hoa vui sƣớng.
26-04-16, 11:04
lesoi
Đoán ngày Lục Đinh giờ Mậu Thân

Ngày Lục Đinh sinh giờ Mậu Thân,


Thiên nguyên bối Lộc sinh mệnh bại;
Tháng không cứu trợ tài khó phát,
Chỉ là người y lộc bình thường.
Ngày Đinh giờ Mậu Thân, là bối lộc thân bại, Đinh lấy Nhâm là Quan, ở trên Thân thấy Mậu
thổ thƣơng khắc, nếu can năm tháng thấu ra Nhâm, là thấy Quan là họa, dù có vƣợng Canh là
Tài, tự bại không thể chế khắc, không thông tháng thân vƣợng là mệnh bình thƣờng. Hỷ năm
tháng có Giáp Dần, kị Nhâm Tý.
+ Ngày Đinh Sửu giờ Mậu Thân, là tú quý. Năm tháng Mùi Thân, là quý; hành Đông Nam
vận, là đại quý. Tháng Tị, Tây Bắc vận, chức hàng lục khanh.
+ Ngày Đinh Mão giờ Mậu Thân, mùa xuân, là Thƣơng quan dụng Ấn; mùa Thu, là Thƣơng
quan dụng Tài, đều cát. Mùa Hạ, là Tỉ kiên; mùa Đông, là Thƣơng quan kiến Quan, mệnh
bình thƣờng. Tháng tứ quý là cát.
+ Ngày Đinh Tị giờ Mậu Thân, không quý cũng phú, khó miễn hình khắc. Sinh mùa Hạ, hành
Tây Bắc vận, là quý, sinh mùa Thu Đông, lao khổ.
+ Ngày Đinh Mùi giờ Mậu Thân; sinh Tị Ngọ Mùi Tuất, thân vƣợng là quý hiển. Nếu Hợi
Mão hội Mùi, Tý Thìn hội Thân, đều lấy quý luận.
+ Ngày Đinh Dậu giờ Mậu Thân, sinh tháng Dần Ngọ Tuất Sửu Thìn Mùi, là Thƣơng quan
thƣơng tận rất tốt, lại là Nhật Quý cách, chủ đăng khoa đệ, vận hành kim thủy, mời mặc áo
vàng.
+ Ngày Đinh Hợi giờ Mậu Thân, ngày giờ tƣơng hại, sợ tổn thƣơng vợ con. Thông khí tháng
thân vƣợng, là quý hiển. Năm tháng là Mậu Tuất, Đinh Tị, hỏa thổ thái trọng là bệnh về mắt.

Ngày Đinh giờ Mậu Thân là chính,


Thiên Nguyên khí vượng hiển văn minh;
Làm quan tuy là cam đạm bạc,
Vận cát cuối cùng gia đạo thành;
26-04-16, 11:05
lesoi
Đoán ngày Lục Đinh giờ Kỷ Dậu

Ngày Lục Đinh sinh giờ Kỷ Dậu,


Học Đường gặp quý cách là hiếm;
Thê tử có khí Thực thần vượng,
Không phá không hình mới là kỳ.
Ngày Đinh giờ Kỷ Dậu, Đinh hỏa ở trên Dậu là trƣờng sinh, là Học Đƣờng, Thiên Ất quý
nhân đều có đủ. Đinh dụng Kỷ là Thực, Tân là Tài, ở trên Dậu có Kỷ lộ ám Tân sinh vƣợng,
219 | Tam mệnh thông hội

văn chƣơng tú lệ, nhƣ gặp Mão Ất xung phá là không quý.
+ Ngày Đinh Sửu giờ Kỷ Dậu, năm thháng có Thìn Tị Ngọ Mùi Thân Tuất là quý.
+ Ngày Đinh Mão giờ Kỷ Dậu, ngày giờ tƣơng xung, sợ tổn thƣơng vợ con, thông hỏa khí là
cát. Kị chữ Ất Mão. Năm tháng có Hợi Mùi, Tị Sửu, nhƣng có hai hợp một chữ, không lấy
xung luận.
+ Ngày Đinh Tị giờ Kỷ Dậu, năm tháng tị Dậu Sửu, là Tài vƣợng sinh Quan, cả đời phú quý.
Hợi Tý cũng cát.
+ Ngày Đinh Mùi giờ Kỷ Dậu, thông hỏa khí, quý. Thấy chữ Mão Ất Quý không quý.
+ Ngày Đinh Dậu giờ Kỷ Dậu, mệnh hình hại cô ác, tháng thông mộc hỏa, là cát.
+ Ngày Đinh Hợi giờ Kỷ Dậu, là trở ngại. Nhƣ năm tháng có Mậu Kỷ Bính Đinh, chỉ là nơi
có quyền. Mão Giáp Ất Dần, Tây Bắc vận, là quý.

Ngày Đinh giờ Dậu sau thấy quý,


Thiên Tài Thực gặp Lộc không về;
Can chi sinh vượng hung gặp cát,
Xung phá Tài tinh ẩn họa cơ.
Ngày Đinh giờ lâm Kỷ Dậu, Thực thần vƣợng tƣớng sinh Tài. Thanh nhàn phúc lộc tự nhiên
đến, cả đời là ngƣời hƣởng an vui. Quân tử thì khoan hồng độ lƣợng, thƣờng nhân thì tình
cảm khắp nơi. Trong xếp tƣợng là Tài Quan song mỹ, một mạch thao thao không có trở ngại.
26-04-16, 11:05
lesoi
Đoán ngày Lục Đinh giờ Canh Tuất

Ngày Lục Đinh sinh giờ Canh Tuất,


Trong mộ phùng bại khó thành phúc;
Nếu không cứu trợ quỷ đến thương,
Tài bạch không tụ tổn thương mắt.
Ngày Đinh giờ Canh Tuất, là trong mộ gặp bại, Đinh lấy Canh Tân là Tài, trong Tuất có Bính
là Bại, không thành phúc. Nếu không có cứu trợ, trùng điệp thấy Quý thủy, chủ mắt bị tổn
thƣơng.
+ Ngày Đinh Sửu giờ Canh Tuất, ngày giờ tƣơng hình, sợ tổn thƣơng thê tử. Nếu năm tháng
có Dần Hợi Thân Dậu, làm quan đến hàng tam phẩm. Ngọ Mùi Tý Thìn, hành kim mộc vận
cũng quý.
+ Ngày Đinh Mão giờ Canh Tuất, sinh năm tháng là Hợi Mùi, tam hợp hội Ấn, là quý. Tháng
Tý, là Sát Ấn, cát. Năm tháng kiến lộc, là tăng đạo, chủ quý. Trụ không có cứu trợ, thấy Quý
vƣợng, đa số bệnh về mắt, tháng Dậu không quý; năm tháng thuần Dậu Tuất, thiên can thấu
Kỷ Giáp là quý, trong kèm theo hung.
+ Ngày Đinh Tị giờ Canh Tuất, tháng Thìn Tị, kim thủy vận, phong quan lớn. Quý Tý, Nhâm
Hợi, Nam phƣơng vận, làm quan cực phẩm. Thuần Mùi, Tây Bắc vận, quan hàng tam tứ
phẩm; thân vƣợng không hành Tài Quan vận, là bình thƣờng, là tăng đạo thanh cao.
+ Ngày Đinh Mùi giờ Canh Tuất, chủ hình. Hợi Mão hội Ấn, Thân Tý Thìn hội Quan, đều
chủ văn quý. Tháng Ngọ, là Kiến Lộc, có Tý xung, là hung. Nếu năm tháng dụng thổ sinh
Tài, chủ phú; dụng Tài sinh Quan, phú quý song toàn.
+ Ngày Đinh Dậu giờ Canh Tuất, là Nhật Quý cách, chỉ có quý, hiểu nghề nghiệp tài năng, có
cơ mƣu. Dậu Tuất, là lục hại, cốt nhục vô tình, tháng mùa thu, làm quan hàng ngũ lục phẩm.
+ Ngày Đinh Hợi giờ Canh Tuất, là Nhật Quý cách. Năm tháng có Tị Dậu Sửu, làm quan
hàng tứ ngũ phẩm. Dần Mão Hợi, hỏa kim vận, làm quan hàng lục khanh.

Ngày Đinh đúng gặp khắc Tuất,


Không có chìa khóa kho đóng cửa;
220 | Tam mệnh thông hội

Cha mẹ anh em khó nương tựa,


Lập thành gia kế tự ân cần.
Ngày Đinh gặp giờ Canh Tuất, gặp hỏa kim là hình hại yểu cô. Không gặp Sửu Thìn là không
có chìa khóa, đóng khố tài có thể thu vào cất giữ. Không giữ hợp lấy Tài theo trụ, lục thân cốt
nhục đều không thân thiết. Về già phát phúc thay đổi gia phong, mệnh này trƣớc khổ sau
sƣớng.
26-04-16, 11:06
lesoi
Đoán ngày Lục Đinh giờ Tân Hợi

Ngày Lục Đinh sinh giờ Tân Hợi,


Tài Quan song mỹ Ấn trường sinh;
Nếu thông khí tháng cực cao quý,
Khí tháng không thông danh lợi hư.
Ngày Đinh giờ Tân Hợi, là Tài Quan song mỹ, Đinh dụng Nhâm là Quan, Tân là Tài, Giáp là
Ấn, ở trên Hợi có lộ Tân là Tài, ám Nhâm là Quan, Giáp sinh là Ấn, nếu thông hỏa khí là có
chỗ dựa, mệnh đại quý, có danh toàn mỹ; không thông, thì danh lợi khó thành.
+ Ngày Đinh Sửu giờ Tân Hợi, mùa Thu Tài vƣợng, mùa Hạ thân vƣợng, mùa xuân Ấn
vƣợng, là mệnh quý hiển. Mùa Đông, Quan Sát thái trọng, e sợ thân nhƣợc không thể thắng
mà nhận phúc.
+ Ngày Đinh Mão giờ Tân Hợi, Thời thƣợng có Tài Quan Ấn là Tam kỳ, lại đƣợc năm tháng
có Ấn trợ Tài sinh, đều chủ đại quý. Thuần Tý, hành mộc hỏa vận, làm quan hàng lục phẩm,
tháng Tị Dậu Sửu, Tân Tài đắc cục, mới có chỗ dựa thịnh vƣợng, là mệnh phú quý song toàn.
+ Ngày Đinh Tị giờ Tân Hợi, ngày giờ tƣơng xung, lo tổn thƣơng thê tử. Nếu thông hỏa khí,
sinh mùa thu, hành Đông vận, là quý. Tháng Tân gặp Tị Hợi, là phá tổ mà hiển tú.
+ Ngày Đinh Mùi giờ Tân Hợi, năm tháng Hợi Mão Mùi Dần Thìn Ngọ, can thấu Chính Ấn,
Chính Quan, thông minh quý hiển; hành Tây vận, quan hàng cực phẩm. Tháng Tị Sửu, phong
quan lớn.
+ Ngày Đinh Dậu giờ Tân Hợi, quý nhân nâng Ấn, là quý. Tháng Tý, Đông phƣơng vận,
phong quan lớn. Trụ có Tị Sửu hội Tài, Mão Mùi hội Ấn, thiên can thấu Tài Quan Ấn là
mệnh đại quý.
+ Ngày Đinh Hợi giờ Tân Hợi, là Nhật Quý cách, lại đủ Tam Kỳ, tháng thông khí thân vƣợng
là quý. Mão Mùi tam hợp Ấn cục, là đại quý.

Thiên Nguyên ngày Đinh giờ Hợi phú,


Từng bước lên cao nơi chính trường;
Đắc ý trả lông gà hóa Phượng,
Bay cao vạn dặm mà ngao du.
Ngày Đinh giờ lâm Tân Hợi, Thiên Nguyên có Lộc Mã đồng hƣơng. Quan nơi tiến sĩ mặc áo
triều đình, tất là làm tƣớng Hàn Môn. Định chủ vợ hiền con hiếu, quyền bính uy nghi khó nói
hết. Chức vụ ngày càng thăng cao, là do Tài Quan sinh vƣợng.
26-04-16, 11:07
lesoi
Đoán ngày Lục Mậu sinh giờ Nhâm Tý

Ngày Lục Mậu sinh giờ Nhâm Tý,


Tháng thông tứ quý mộ gặp Tài;
Nếu giao Thân hóa thành chân hỏa,
Vận đất Thủy vượng kị họa mắt.
221 | Tam mệnh thông hội

Ngày Mậu giờ Nhâm Tý, là Thê Tài đều vƣợng, Mậu lấy Nhâm là thê tài, ở trên Tý có Nhâm
thủy vƣợng, Mậu thổ vô khí, sinh tháng Thìn Tuất Sửu Mùi, không hóa là giành đƣợc Tài.
Nếu hợp Quý hóa rơi vào đất thủy vƣợng, hỏa sẽ không hiển lộ đƣợc ánh sáng, việc làm
không thành, hƣ mà không thực, chịu họa bệnh về mắt. Thông khí tháng vƣợng là quý.
+ Ngày Mậu Tý giờ Nhâm Tý, là Tài tinh cách. Tháng Dần Mão, là Lộc Mã triều nguyên,
mệnh hiển quý. Năm tháng có Dậu Hợi Sửu, Tây Bắc vận, đƣợc mặc áo tím phong quan cao.
Kị năm Ất Mão là gặp hình; tháng Quý Tị, trong vƣợng gặp hình; tháng Bính Ngọ, trong
vƣợng nhận hình.
+ Ngày Mậu Dần giờ Nhâm Tý, tháng Mão, là Chính Quan cách, mệnh quý. Mùa Hạ thì lanh
lợi, mùa thu thì ít thuận lợi. Năm tháng Sửu Dậu, là cát. Kị tháng Kỷ Tị gặp hình, tháng Kỷ
Hợi là hình hung.
+ Ngày Mậu Thìn giờ Nhâm Tý, mùa xuân, là Tài Quan vƣợng, quý. Mùa Hạ nhanh nhẹn.
Mùa Thu ít thuận lợi. Mùa Đông thì Tài vƣợng, hành Tây Nam vận, làm quan hàng ngũ lục
phẩm. Kị tháng Canh Thìn, tự hình, mệnh hung; tháng Tân Tị, là tiệt lộ mệnh gặp hình hung;
tháng Ất Sửu, phá bại, mệnh hung.
+ Ngày Mậu Ngọ giờ Nhâm Tý, ngày giờ gặp xung, sợ tổn thƣơng thê tử. Năm tháng Tị Ngọ,
đƣợc phong quan. Dần Mão Hợi, quan hàng lục khanh. Tháng Thân, hành mộc hỏa vận, làm
quan chức hầu bá. Kị tháng Bính Ngọ, thân chết không toàn thây; Quý Hợi, là tự hình, mệnh
yểu. Năm tháng không hỗn tạp Tý Ngọ, Sửu Tuất lại hình, đều chủ đại quý.
+ Ngày Mậu Thân giờ Nhâm Tý là cao mệnh, trƣớc suy sau vƣợng. Năm tháng Tý Dậu, Thời
thƣợng có Thiên Quan, là quý. Tị Ngọ Mùi Tuất, thân có chế hóa, dụng Tài cũng chuyên, đều
lấy cát luận. Thân Dậu, là Thực Thƣơng sinh Tài, thiên can thấu Giáp Ất, mệnh phú quý song
toàn. Kị tháng Kỷ Tị là hình hại, tháng Nhâm Ngọ là yểu thƣơng, tháng Quý Hợi là cô bần.
+ Ngày Mậu Tuất giờ Nhâm Tý, năm tháng Dần Tị Ngọ, là khử Tài lƣu Ấn, quan hàng tam tứ
phẩm. Kinh nói: Năng kiến nghĩa vong lợi, là lấy Ấn bỏi Tài vậy. Tý Dậu, làm quan hàng
ngũ phẩm ở Hàn Lâm. Thuần Dậu, thủy mộc vận, là Ngọc đƣờng, cực quý. Kị tháng Mậu
Ngọ, mệnh yểu; tháng Tân Mão, phá bại hung hình; tháng Quý Sửu, là thụ hình; tháng Canh
Ngọ, là bần khổ.

Ngày Mậu hỷ gặp giờ Nhâm Tý,


Thân cường Quan vượng rất phù hợp;
Vận hành lại quay đất hưu tù,
Vinh lộc bôn ba mà nhận lấy.
Ngày Mậu gặp giờ Nhâm Tý, chỗ này gọi là Tài vƣợng sinh Quan. Hóa thành mệnh nhàu nát,
nhận Tý mà chạy khắp nơi. Trong vận mộc vƣợng mà hiển đạt, thừa có văn chƣơng tú lệ. là
ngƣời học rộng tài cao, phú quý tiền tài bạc triệu.
26-04-16, 11:08
lesoi
Đoán ngày Lục Mậu giờ Quý Sửu

(Dƣới đây là chỗ tháng kị của ngày Lục Mậu phân ra đều giống nhƣ ở trên, giờ phạm cũng
giống nhƣ vậy)

Ngày Lục Mậu sinh giờ Quý Sửu,


Lại bỏ theo Tài thành phối ngẫu;
Là người tính xảo rất thông minh,
Lại càng thích phong lưu tửu sắc.
Ngày Mậu giờ Quý Sửu, Mậu lấy Quý là thê Tài, trong Sửu có Quý dƣ khí tòng Tài, Quý
vƣợng, nếu thông khí tháng hóa thành chân hỏa, là ngƣời thông minh; nếu thông thổ khí, chủ
phú quý, nắm quyền. Tháng mùa Hạ, hành Đông phƣơng vận, quý hiển.
222 | Tam mệnh thông hội

+ Ngày Mậu Tý giờ Quý Sửu, sinh tháng Tuất, là Tạp khí Ấn thụ, thiên can thấu chữ Bính
Đinh, bất tất câu nệ ở cách cục, chủ phú quý. Nếu năm tháng là Ngọ Dậu, can thấu Canh Ất,
Ất cùng Canh hợp, Mậu cùng Quý hợp, Mậu có Thực Canh, Canh vƣợng ở Dậu, quý nhân ở
Sửu, Quý là Tài, Ất là Quan, mà Ấn căn gốc ở Ngọ, can chi ngày giờ đều là thiên địa hợp
đức, quý lộc giao gia, huống chi lại kiêm đón lấy văn quý, mệnh gặp chỗ này là quan hàng
cực phẩm.
+ Ngày Mậu Dần giờ Quý Sửu, tháng Dần Tị Ngọ Mùi Tuất, hóa hỏa là cát. Thu Đông là
bình thƣờng.
+ Ngày Mậu Thìn giờ Quý Sửu, tháng Dần Tị Ngọ Mùi Tuất, hóa hỏa đắc địa, Thân Tý Thìn
Tài cục cũng cát. Can chi năm tháng thuần thổ, đƣợc đủ tứ khố là quý.
+ Ngày Mậu Ngọ giờ Quý Sửu, tháng Dần Tuất Mùi Ngọ, thông minh đặc biệt đạt đến uy
quyền.
+ Ngày Mậu Thân giờ Quý Sửu, tháng sinh là Thìn Tuất Sửu Mùi Ngọ, phú quý nhƣng rất
ham mê tửu sắc. Mùa Hạ, Đông phƣơng vận, là quý. Mùa Thu Đông, Tài vƣợng sinh Quan,
nếu thân suy, thì không yểu cũng bần.
+ Ngày Mậu Tuất giờ Quý Sửu, sinh ở mùa hạ, Đông phƣơng vận, là quý. Tháng Thìn Tuất
Sửu Mùi, phú quý mà còn nắm quyền, thích phong lƣu tửu sắc.

Hóa hợp Nam Ly cục,


Tài môn Nhật Nguyệt khai;
Trong trụ không xung phá,
Phúc lộc đến tự nhiên.
Giờ Sửu nơi Mậu Quý hóa hợp, hỷ nhất là hình xung, kị khóa đóng; Vận hành bỗng nhiên
gặp chìa khóa mở ra, gia môn sinh kế hƣng vƣợng.
Ngày Mậu gặp giờ Quý Sửu, hóa thành viêm hỏa sinh ánh sáng. Vận hành đất thủy không
thích hợp, vận đến Đông Nam mới hƣng vƣợng. Tổ nghiệp xa rời không bền vững, tòng Tài
mà dẫn đến đƣợc mua điền trang. Nếu không thì cốt nhục có hình thƣơng, về sau vinh hoa
thịnh vƣợng.
26-04-16, 11:09
lesoi
Đoán ngày Lục Mậu giờ Giáp Dần

Ngày Lục Mậu sinh giờ Giáp Dần,


Trong bệnh lại bị Quỷ thương thân;
Nếu thông khí tháng thân vượng cát,
Nhật can suy nhược người yểu vong.
Ngày Mậu giờ Giáp Dần, là thân suy Quỷ vƣợng, trong Dần Giáp là kiến lộc, Bính sinh thân,
nhƣ thông tháng thân vƣợng, có chỗ dựa là có cứu trợ, sẽ hóa Quỷ thành Quan, chủ phú quý;
trái lại chỗ này là bần yểu, hành thân vƣợng vận cũng cát.
+ Ngày Mậu Tý giờ Giáp Dần, trƣớc phá sau phát, quý mệnh. Sinh tháng Mùi, can có chế
phục, là quý. Tháng Ngọ không có chế, thông minh nhƣng chỉ quý. Thìn Tuất Sửu là thân
vƣợng, Hợi Mão là Sát vƣợng, nhƣng có Ấn là có chế, là quý. Năm tháng thuần Ất Sửu,
mệnh mặc áo quan.
+ Ngày Mậu Dần giờ Giáp Dần, thân vƣợng, không sống chung cốt nhục. Tháng Ngọ, Nhận
Ấn kèm theo Sát; Tháng Tý, là Chính Tài đảng Sát, can thấu chế; Hợi Mão Mùi, thuần Sát
thân nhu, can thấu Nhận, vận hành Tây Nam, nắm quyền vạn lý; năm tháng Tị Sửu Tuất, là
Thân vƣợng địch Sát; Dậu Sửu Thân, là chế Sát, đều chủ đại quý, sợ Kiếp Sát khắc thân thì
hung.
+ Ngày Mậu Thìn giờ Giáp Dần, Thời thƣợng là Thiên Quan, Ấn thụ kèm theo Sát, trụ có
Canh Tân chế phục là quý. Thìn Tuất Sửu Mùi, thân vƣợng cũng quý.
223 | Tam mệnh thông hội

+ Ngày Mậu Ngọ giờ Giáp Dần, viết là Dƣơng Nhận, Thời có Thiên Quan, lấy Nhận hợp Sát,
là quý. Tháng Tị Dậu Sửu, là đao bút kinh nhân, chế phục không nên thái quá; năm tháng
Dần Mão Thìn Tị Tuất Tý, thiên can có chế phục, đều chủ đại quý.
+ Ngày Mậu Thân giờ Giáp Dần, Thân Dậu, là Thƣơng quan kèm theo Sát, đất thổ dày là
quý. Năm tháng Sửu Mão, là khử Sát lƣu Quan, là đại quý; nên hành kim hỏa vận, gọi là Vị
cực nhân thần.
+ Ngày Mậu Tuất giờ Giáp Dần, tháng Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, hành thủy mộc vận, quan hàng
tam phẩm. Năm tháng Sửu Mùi, hành kim thủy vận, mệnh phú quý song toàn. Năm tháng
Thân Tý, Dậu Tý đều quý, con cháu cũng vinh xƣơng. Tị Ngọ, là quý, nhƣng thƣơng hại vợ
con.

Giờ Dần ngày Mậu tự phi phàm,


Trác việt siêu quần xuất thế gian;
Định hiển Hàn môn nên xuất tướng,
Như gặp thân nhược thì gian nan.
Ngày Mậu đúng giờ Giáp Dần, thân cƣờng tựa nhƣ cây hoa gặp mùa xuân. Nếu gặp Thiên
Quan lại sợ hình xung, là Giả Sát trái lại là thành quyền ấn. Sát vƣợng thân suy là giảm phúc,
khó dựa vào anh em cha mẹ. Nhƣ hành Ấn vận phúc có thể đến, định chủ tài danh đều thuận.
26-04-16, 11:09
lesoi
Đoán ngày Lục Mậu giờ Ất Mão

Ngày Lục Mậu sinh giờ Ất Mão,


Tứ trụ Thương quan không thấy tốt;
Thân nhọn hkông gặp xung không hại,
Quản lấy công danh thẳng đến già.
Ngày Mậu giờ Ất Mão, là Quan cƣờng thân nhƣợc, Mậu dụng Ất là Quan, trên Mão có Ất
vƣợng Mậu tử, nếu không có chỗ dựa, không thông khí tháng, thân nhƣợc hóa Quan thành
Quỷ, dù có quý cũng thọ yểu; nếu thông khí tháng, thân vƣợng có chỗ dựa, trong trụ không
thấy Thân Dậu Tân Canh, Thƣơng quan Giáp mộc phá mệnh là quý hiển.
+ Ngày Mậu Tý giờ Ất Mão, là ngày giờ tƣơng hình, thƣơng hại vợ con, bản thân thành tự
lập. Năm tháng lại gặp, thì chủ phong quan lớn. Ngọ Dậu, đầy đủ tứ chính, đại quý.
+ Ngày Mậu Dần giờ Ất Mão, năm tháng là Hợi Tý, vợ hiền con hiếu, mệnh quý. Thuần Mão
Thìn, là cát; Dần Tị cũng cát.
+ Ngày Mậu Thìn giờ Ất Mão, mệnh thân cô, quý. Năm tháng là Tị Mão, là thân cƣờng Quan
vƣợng, vinh thân hiển tổ, con hiếu vợ hiền.
+ Ngày Mậu Ngọ giờ Ất Mão, là Nhật Nhận cách, có Chính Quan khử Nhận là phúc, năm
tháng có Tý Dần Mão Thìn Ngọ Mùi Thân Hợi, đều là chủ quý hiển.
+ Ngày Mậu Thân giờ Ất Mão, trung niên phá tổ. Mùa Xuân là quý. Mùa Hạ chỉ quý. Mùa
Thu cô khổ. Mùa Đông phú quý song toàn. Tháng Tị, mộc hỏa vận, làm quan hàng ngũ phẩm
là thanh quý.
+ Ngày Mậu Tuất giờ Ất Mão, mùa xuân Quan vƣợng. Mùa Hạ, là Quan Ấn song toàn, quý
hiển. Mùa Thu bình thƣờng. Mùa Đông là quý. Năm tháng Tuất Sửu, làm quan hàng tam
phẩm. Tháng Tuất, hành Đông phƣơng vận, cô bần.

Thời thượng sinh Quan tọa Lộc quyền,


Ngày Mậu mà gặp hkông có nhàn;
Thân cường có dựa mới thành quý,
Chế hợp Quan tinh quý cũng khó.
Ngày Mậu gặp giờ Ất Mão, mộc xung lục hợp khai thông. Kim kê ngọc miễn hiển quang
224 | Tam mệnh thông hội

vinh, hợp nắm quyền ấn rực rỡ. Ất Dậu Tân thƣơng huynh đệ, trọng hoa kết tử mới thành.
Khốn long đắc thủy hỷ đằng vân, vận đến siêu quần xuất chúng.
26-04-16, 11:10
lesoi
Đoán ngày Lục Mậu giờ Bính Thìn

Ngày Lục Mậu sinh giờ Bính Thìn,


Báu tàng Tài khố lợi cho thân;
Không thương không phá sao phải hỏi,
Lộc Mã tương phù phú quý nhân.
Ngày Mậu giờ Bính Thìn, Quan tàng Tài khố, Mậu dụng Nhâm Quý là Tài, Ất mộc là Quan,
Bính là Đảo Thực, ở trên Thìn Bính hỏa vô khí, Nhâm Quý nhập khố, Ất có dƣ khí, nếu có
chỗ dựa thông khí tháng, là quý hiển.
+ Ngày Mậu Tý giờ Bính Thìn, sinh mùa xuân chỉ quý. Mùa Hạ gian khổ. Mùa Thu, quyền
cao nhƣng ngắn thọ. Mùa Đông là Tài, thông hỏa thổ, có chỗ dựa là quý.
+ Ngày Mậu Dần giờ Bính thìn, là cách Long ngâm Hổ khiếu, trung niên là đại quý. Tháng
Tý, hành Bắc vận, đất thổ dày, làm quan đến tam phẩm; Đông vận, phong quan lớn. Năm
tháng Sửu Thìn, làm quan tứ ngũ phẩm. Năm Dần Ngọ Tuất, thông khí tháng thổ, hành mộc
hỏa vận, làm quan cực phẩm.
+ Ngày Mậu Thìn giờ Bính Thìn, khắc cha quá mức, thân thông tháng vƣợng, hành vận Đông
Bắc, phú; tháng thủy mộc, hành vận thân vƣợng, mệnh quý.
+ Ngày Mậu Ngọ giờ Bính Thìn, năm tháng Hợi Mão, hành Đông Bắc vận, phú quý. Mùi
Sửu, hành Tây Nam vận, phong quan.
+ Ngày Mậu Thân giờ Bính Thìn, tháng Thìn Tuất Sửu Mùi, quý; không thông thổ khí, hành
thổ vận cũng quý.
+ Ngày Mậu Tuất giờ Bính thìn, ngày giờ xung nhau, sợ thƣơng hại vợ con. Khôi cƣơng,
hành Đông Bắc phƣơng vận, chủ quyền trọng phát phúc. Tháng Dậu, chỉ quý không có phúc
lộc. Tháng Hợi Mão Mùi, lấy Quan Ấn luận, cách quý.

Gặp giờ Bính Thìn là Đảo Thực,


Trong khố Tài Quan đóng khóa cửa;
Không gặp khóa mở khó phát đạt,
Truy cầu lao lục độ sớm chiều.
Ngày Mậu đúng giờ Bính Thìn, hỏa không có công chiếu tọa khố. Tài Quan đóng khóa chủ
thịnh hƣng, chuyên thu dụng khóa mở mà dùng. Mão Tuất mở phóng ra Ất Quý, phú quý
danh cử Cao Sùng ( giàu có). Vận hành hỏa thổ không hanh thông, việc làm tựa nhƣ giấn
mộng say.
26-04-16, 11:11
lesoi
Đoán ngày Lục Mậu giờ Đinh Tị

Ngày Lục Mậu sinh giờ Đinh Tị,


Ấn sinh Nhật lộc hỷ quy thời;
Tài Quan không thấy hình xung phá,
Sớm gặp gió mây cùng hội ngộ.
Ngày Mậu giờ Đinh Tị, là Ấn thụ ngộ Lộc, Mậu lộc ở Tị, thấy Đinh là Ấn, ở trên Tị Đinh hỏa
là đế vƣợng. Can chi năm tháng không nên thấy Tài Quan, thấy Quan là tổn lộc, thấy Tài thì
tổn Ấn. không thấy Quan Sát, không hành Tài Quan, hành Thực Thƣơng Ấn vận, là cao quý.
Kị hình xung phá hại.
225 | Tam mệnh thông hội

+ Ngày Mậu Tý giờ Đinh Tị, là quý. Tháng Tý là Chính Tài, đất thổ dày, thì hiển đạt. Năm
tháng Hợi Sửu, quan hàng cực phẩm, bên trong gặp Thìn, phú quý song toàn.
+ Ngày Mậu Dần giờ Đinh Tị, Dần Tị tƣơng hình, sợ thƣơng hại vợ con. Tháng Ngọ, Đông
Bắc vận, phong quan trên. Năm tháng Dần Ngọ, làm quan tứ phẩm.
+ Ngày Mậu Thìn giờ Đinh Tị, tháng Tị Dậu Sửu, tính cách phong lƣu, uy quyền rất lớn. Can
chi năm tháng không thấy Tài Quan, là Thanh vân đắc lộ. Hợi Tuất, hành Nam vận, quan
hàng ngũ lục phẩm. Thân, hành Bắc vận, quý.
+ Ngày Mậu Ngọ giờ Đinh Tị, trụ không có Giáp Ất Mão Dần, là Nhật Lộc quy thời cách,
vừa là Mậu lộc ở giờ, Đinh lộc ở ngày, là Hỗ hoán Lộc, mệnh cao quý; hành Thƣơng Thực
Ấn vận, đều cát; có chữ Giáp Ất Dần Mão Mùi, là thủ dụng Quan Ấn cũng quý.
+ Ngày Mậu Thân giờ Đinh Tị, mùa xuân hạ thì bình thƣờng, mùa thu thành bại, mùa đông
phú quý. Hành mộc kim vận, cát.
+ Ngày Mậu Tuất giờ Đinh Tị, không có xung phá, năm tháng không thấy Tài Quan, không
hành Tài Quan vận, quý. Tháng Dần, lấy Thiên Quan luận, hành Mùi Thân vận, quý. Tháng
Tý, thấu Giáp cũng quý. Hợi Mão Mùi, dù thấy Tài Quan, đều cát, bởi vì Quy Lộc cách
không có kị Quan Sát và Tài, lấy đƣợc thân vƣợng, trái lại là phúc vậy.

Can chi Nhật Lộc hỷ quy thời,


Không thấy Tài Quan có thể quý;
Không phá vũ môn người phiêu lãng,
Lặng nhìn một lúc nhảy lên trời.
Ngày Mậu giờ lâm Đinh Tị, Lộc nguyên Ấn thụ cùng gặp. Sớm đoạt Đan Quế bƣớc lên cung
Hằng, hợp nắm quyền bính công khanh. Thực thần Thƣơng quan vận là cát. Tài Quan gặp
nhau thì không công, cha mẹ anh em không giúp đỡ, cùng có phá thì tìm cách dùng khác.
26-04-16, 11:13
lesoi
Đoán ngày Lục Mậu giờ Mậu Ngọ

Ngày Lục Mậu sinh giờ Mậu Ngọ,


Là người hung ngoan tính cương cường;
Trong tháng hóa hỏa nơi Quan cát,
Phá hại hình xung lại là vinh.
Ngày Mậu giờ Mậu Ngọ, thần Nhận trùng điệp, Mậu lấy Ngọ là Nhận, tính ngu mà nhiều
cƣơng mãnh, nhƣ thấy hình xung phá hại, Nhận thần bị chế, nếu thông khí tháng, là vũ chức
biên cƣơng. Trong tháng có hỏa đƣợc thiên thời hóa khí, mệnh đại quý. Can năm tháng thấy
Giáp, mệnh tăng đạo. Trong năm hỏa vƣợng, Mậu thổ bị đốt, đa số có bệnh tỳ phế. Nếu tháng
không thông Dần Ngọ Tuất Hợi, thông vận khí cũng quý.
+ Ngày Mậu Tý giờ Mậu Ngọ, tháng Tị Dần Tuất, phong quan lớn. Mùa Hạ không nung đúc,
trƣớc hình sau phát, xứ vƣợng nhiều Quan. Tai họa phá tổ.
+ Ngày Mậu Dần giờ Mậu Ngọ, tháng Tuất, tam hợp hỏa cục, can thấu Quý hóa, đƣợc thiên
thời địa lợi là quý. Năm tháng có Thân Tý hội thủy, Dần Ngọ hội hỏa, có tƣợng Ký Tế là tốt;
tháng Thìn cũng đƣợc; Dậu Tân là Thƣơng quan; Mùi là Quan Ấn, đều cát.
+ Ngày Mậu Thìn giờ Mậu Ngọ, là Củng Lộc cách, năm tháng không có chữ Dần Tị Giáp Ất,
là quý. Mão Thân, là vũ chức. Dậu Sửu Hợi, hành Nam vận, là quý.
+ Ngày Mậu Ngọ giờ Mậu Ngọ, trƣớc hình sau phát, đa số có kết thúc không tốt. Năm tháng
có Dần Tị Ngọ Tuất, là Ấn thụ, mệnh đại quý. Thuần Ngọ, là vũ chức uy quyền, danh trọng
trấn phiên. Hợi Mão Mùi Thân, phú quý song toàn.
+ Ngày Mậu Thân giờ Mậu Ngọ, là Củng Quý cách, năm tháng gặp Dần, hành Nam vận,
phong quan; gặp Ngọ, là quý thọ; Tuất là văn quý. Có Mùi là điền thực, Tị là kiến lộc là một
khối liền nhau, đại quý.
226 | Tam mệnh thông hội

+ Ngày Mậu Tuất giờ Mậu Ngọ, là đại hung. Năm tháng Mão Ngọ, Quan vận, quý hiển. Dần,
là Ấn thụ kèm theo Sát, biến hung thành cát.

Mậu gặp Mậu Ngọ hỏa đất Ly,


Nhận vượng thân cường đại hiển dương;
Vận không thuận thì danh chưa thành,
Bình thường y lộc độ qua ngày.
Ngày Mậu gặp giờ Mậu Ngọ, là nắm Tỉ kiên Tài lộc. Cho dù đảm nhận vợ trùng con muộn,
phát đạt vận đến Nhâm Quý, cha mẹ anh em lít có lợi, lục thân nhƣ nƣớc với lửa? Có quý.
Xung khắc phá mới đƣợc thành, về sau là chủ quý.
26-04-16, 11:13
lesoi
Đoán ngày Lục Mậu giờ Kỷ Mùi

Ngày Lục Mậu sinh giờ Kỷ Mùi,


Dương Nhận Thiên Quan không sợ xung;
Nhưng mà là người nhiều tính cương,
Cả đời y lộc cũng không may.
Ngày Mậu giờ Kỷ Mùi, là Dƣơng Nhận Thiên Quan, Mậu lấy Kỷ là Dƣơng Nhận, Giáp là
Thiên Quan, Thời thƣợng minh ám hai Kỷ là Nhận, Giáp mộc trong Mùi là hợp cục, nếu thấy
hình xung phá hại, Nhận Sát có chế, là chủ quý. Tháng thông vƣợng là y lộc bình thƣờng, 20
tuổi, cha mẹ đều mất; nếu không thông khí tháng, đƣợc Dần Thân là quý.
+ Ngày Mậu Dần giờ Kỷ Mùi, ngày giờ tƣơng xuyên, sợ tổn thƣơng vợ con, trƣớc khổ sau
tốt. Tháng thông thổ khí, hành Tài Quan vận, là quý; tháng thủy mộc, hành thân vƣợng vận,
là quý.
+ Ngày Mậu Dần giờ Kỷ Mùi, trƣớc khó sau dễ, quý nhân nâng đỡ, không quý cũng phú.
Năm tháng thấu Giáp chế Nhận, địa chi Ngọ Mùi thân vƣợng, là Sát Nhận song hiển, chủ đại
quý.
+ Ngày Mậu Thìn giờ Kỷ Mùi, mùa xuân đông, hành Bắc vận, phú quý.
+ Ngày Mậu Ngọ giờ Kỷ Mùi, là Dƣơng Nhận Thiên Quan, chủ ngƣời có mƣu cơ, ngắn thọ,
nếu không thì, vợ con khó mà lập thành. Năm thyáng Ngọ Hợi, kim thổ vận, là quý; Thân
Dậu, là phú.
+ Ngày Mậu Thân giờ Kỷ Mùi là quý, hành Tài Quan vận, phát phúc. Sợ Dần xung Sát gặp
hung.
+ Ngày Mậu Tuất giờ Kỷ Mùi, mùa xuân, Quan vƣợng, là quý. Mùa Hạ Ấn an ổn. Mùa Thu
bình thƣờng. Mùa Đông cô khổ. Tháng Tuất, là Khôi Cƣơng cách, quan hàng ngũ lục phẩm.
cần năm tháng có Thân Tý Thìn hội Tài, Dần Ngọ là Ấn thụ, Tị Dậu là Thƣơng quan, Hợi
Mão là Quan Sát, tất cả thành cục diện mới cát.

Trong Mùi Mậu Kỷ thổ thành đôi,


Hình hại đến xung việc cũng thuận;
Trước ám sau minh hung biến cát,
Quý nhân nâng đỡ ra khỏi bụi.
Ngày Mậu giờ lâm Kỷ Mùi, lục thân cốt nhục thành phân tán. Hỷ gặp hỏa Ấn ám đƣợc phù,
Giáp Ất Dần Mão là chủ. Hậu tạ hoa khai kết quả, cha mẹ anh em cô yểu. Tự thân tự lập tự
mƣu đồ, dựa vào có quý nhân phù trợ.
26-04-16, 11:14
lesoi
227 | Tam mệnh thông hội

Đoán ngày Lục Mậu giờ Canh Thân

Ngày Lục Mậu sinh giờ Canh Thân,


Can đầu Thực thần hỷ tương thân;
Không thấy Mão Dần kiêm Giáp Bính,
Sao lo mang ngọc thân không vinh.
Ngày Mậu giờ Canh Thân, Mậu lấy Canh là Thực, Nhâm Quý là Tài, trên Thân Canh vƣợng
sinh Nhâm, Mậu thổ có khí, không có Bính hỏa đoạt Thực phá Tài, lại không có Dần Tị hình
xung, sinh tháng mùa Thu là đại quý. Nhƣ có Bính hỏa Giáp Dần cùng Tị, là ngƣời hay lật
lộng, cũng có công danh. Can năm tháng chỉ có thấu Giáp là Tam Kỳ, địa chi hội cục, hoặc
chỉ có Dần Thìn, đều quý.
+ Ngày Mậu Tý giờ Canh Thân, nếu sinh tháng Hợi Tý, cũng là Hợp Lộc, quý.
+ Ngày Mậu Dần giờ Canh Thân, hung hình sau phát, nhƣ sinh tháng Dần, lấy Thực Lộc chế
Sát luận, quý.
+ Ngày Mậu Thìn giờ Canh Thân, là Chuyên Thực hợp Lộc, năm tháng thuần Dần, hai Dần
không sợ một Thân xung, cũng quý.
+ Ngày Mậu Ngọ giờ Canh Thân, năm tháng là Mùi Dậu Sửu, trụ không có Bính Giáp Mão
Dần, là nhập Hợp Lộc cách, hành Tây Bắc vận, mệnh quý; có Giáp Bính lại hợp thần tàng
không có Sát, tứ trụ thuần dƣơng cách, đại quý.
+ Ngày Mậu Thân giờ Canh Thân, thân lộc cùng chỗ, là phú quý lƣỡng toàn, năm tháng Tý
Thìn Mùi Dậu, hành Tây vận, nhập Hợp Lộc cách, gần hàng tam phẩm. Năm tháng có Sửu
Tuất, là cát: Thìn Tuất thƣơng khắc, là mệnh bình thƣờng. Năm tháng là Hợi Tị, hành Đông
Bắc vận, quan hàng nhất nhị phẩm.
+ Ngày Mậu Tuất giờ Canh Thân, bên trong bị bệnh sốt rét, tháng Tý, cũng Hợp Lộc cách,
văn quý hàng tam phẩm. Năm tháng Mão Thìn, là mệnh đại quý.

Ngày Mậu lâm giờ hỷ thấy Canh,


Thực thần hợp Lộc chủ xương vinh;
Trong vượng nếu thấy chữ hình xung,
Cuộc sống sinh nhai chỉ hứa bình.
Ngày Mậu sinh giờ Canh Thân, ở trên chi sinh vƣợng là hiếm thấy. Thực thần sinh thần hiển
rực rỡ, trên dƣới lƣu thông vƣợng khí. Chữ Bính làm tổn thƣơng cành lá, Giáp Dần bầy Tỉ
hành suy. Nếu không có xung phá và hình khắc, quý ở tích trữ vàng bạc đầy nhà.
26-04-16, 11:15
lesoi
Đoán ngày Lục Mậu giờ Tân Dậu

Ngày Lục Mậu sinh giờ Tân Dậu,


Thương quan bạo bại sợ gặp giờ;
Trong trụ dù có Tài tinh trợ,
Chưa có được con mệnh đã hết.
Ngày Mậu giờ Tân Dậu, là Thƣơng quan thân bại, Mậu lấy Ất là Quan, Tân là Thƣơng quan,
ở trên Dậu Tân kim vƣợng, Mậu thổ là mộc dục, là ngƣời tính kiêu ngạo thấp hèn. Năm tháng
thấu Ất, là Vi họa bách đoan; nhƣ có Ất lại hành Quan vƣợng vận, hình hại là không tốt. Nếu
thông khí tháng sinh, hành Bắc vận, không quý cũng phú.
+ Ngày Mậu Tý giờ Tân Dậu, tháng Tị Dậu Sửu, là Thƣơng quan thƣơng tận, hành Tài vƣợng
vận, phong quan vũ chức.
+ Ngày Mậu Dần giờ Tân Dậu, tháng thông thổ khí, hành Tây Bắc vận, không quý cũng phú.
+ Ngày Mậu Thìn giờ Tân Dậu, năm tháng Sửu Mùi, can thấu Tài, chủ quý. Nếu tháng Quý
Tị, là Từ Quán Học Đƣờng nơi đề cƣơng, chủ văn học cao khoa, năm Dần Thân Tị Hợi, thì
228 | Tam mệnh thông hội

giờ phạm Lang Tạ Sát, vền sau không có kết quả.


+ Ngày Mậu Ngọ giờ Tân Dậu, mùa xuân hạ là bình thƣờng. Mùa Thu, là Thƣơng quan
thƣơng tận, quyền quý ngắn thọ. Đông, khó đƣợc vợ con.
+ Ngày Mậu Thân giờ Tân Dậu, năm tháng Tuất Hợi Sửu Tý, quyền quý.
+ Ngày Mậu Tuất giờ Tân Dậu, tháng Thìn Tuất Sửu Mùi, quý. Cổ nhân lấy thủy thổ bại ở
Dậu, cho nên đa số là không có kết quả, hoặc công danh sớm lui, hoặc con cháu không thành.
Xem ở trên 6 ngày đều không phải mệnh đại quan, có thể thấy Thƣơng quan gặp ở giờ là
không tốt.

Ngày Mậu gặp Tân hiệu Bãi quan,


Thời thượng nếu gặp càng lo chịu;
Quan tinh nếu gặp sinh tai họa,
Càng sợ mang tật chết không toàn.
Ngày Mậu giờ lâm Tân Dậu, Thƣơng quan không hỷ Quan tinh. Tài hƣơng vận ở đất thủy là
hanh thông, tính cách tâm tình là bất định. Không có phá khó đƣợc tổ nghiệp, anh em tất cả
đều bay cao. Vợ trùng con muộn mới an ninh, mệnh này trƣớc khó sau dễ.
26-04-16, 11:15
lesoi
Đoán ngày Lục Mậu giờ Nhâm Tuất

Ngày Lục Mậu sinh giờ Nhâm Tuất,


Thân cư chính vị thấy Thiên Tài;
Nếu sinh mùa Thu thân thông vượng,
Tiền tài bạc triệu không cần đoán.
Ngày Mậu giờ Nhâm Tuất, là Chuyên vị phùng Tài, Mậu lấy Nhâm là Tài, ở trên Tuất thủy là
Quan đới. Xuân Hạ thì Nhâm thủy vô khí, Tài bạch không thịnh; mùa Đông thì đại vƣợng, là
thổ hƣ thân nhƣợc không thể lái chạy; duy chỉ có sau mùa Thu Mậu thổ dày kiên cố, tài mệnh
có khí, phú quý.
+ Ngày Mậu Tý giờ Nhâm Tuất, tháng Dậu Thân Tuất, gia tài là đầy mắt. Thìn, Sửu là xung
hình mở khố, đều cát.
+ Ngày Mậu Dần giờ Nhâm Tuất, năm tháng là Dần Ngọ Tuất Thìn, kim thủy vận, thì đại
quý.
+ Ngày Mậu Thìn giờ Nhâm Tuất, ngày giờ xung nhau, sợ thƣơng hại vợ con, nhƣ chỗ đất
thổ dày, là đại quý. Tháng Mão, hỏa kim vận, là gặp quý. Dần Thân Tuất Sửu, hành Tây Nam
vận, cực quý.
+ Ngày Mậu Ngọ giờ Nhâm Tuất, sinh tháng Dần Ngọ Tuất, năm và giờ nhiều hỏa, lấy Ấn
thụ luận, khó tránh cô khắc, trƣớc khó sau dễ, không quý cũng phú. Tháng Mão, Quan tinh
chế Nhận, là cát.
+ Ngày Mậu Thân giờ Nhâm Tuất, xuân thì quý, hạ thì bình, thu thì phú quý, đông thì bình
thƣờng.
+ Ngày Mậu Tuất giờ Nhâm Tuất, mùa thu là phú quý. Mùa Hạ, Tây vận; mùa xuân, Bắc
vận; mùa Đông, Nam vận, đều quý. Tháng Thìn Sửu, càng tốt.

Giờ Nhâm Tuất trong chôn Tài khố,


Cần mở chuyên chờ chìa khóa đến;
Vận hành Tài Quan sinh vượng địa,
Phú quý vinh hoa không dụng sai.
Mậu gặp giờ Nhâm Tuất, trong trụ có Mão Sửu là vui. Tý Thìn Ất Quý hiển Tài Quan, xuất
trụ làm bạn cao nhân. Mở khố liền bỏ vào nhà, không có xung anh em khó còn. Trƣớc bần
sau phú việc đoàn tụ, không quý thì kho rƣơng của đầy nhà.
229 | Tam mệnh thông hội

26-04-16, 11:16
lesoi
Đoán ngày Lục Mậu giờ Quý Hợi

Ngày Lục Mậu sinh giờ Quý Hợi,


Hóa hỏa không Tuất chiến thủy hương;
Nếu thấy Ất Canh không Đinh Sửu,
Lại là mệnh quan không tầm thường.
Ngày Mậu giờ Quý Hợi, Mậu hợp Quý hóa hỏa, hỏa tuyệt ở Hợi, chiến ở đất thủy, không
thành tƣợng, là ngƣời hƣ tú, đa số là ngƣời hạng cửu lƣu nghệ thuật chỉ có quý, chủ có họa về
mắt. Mậu lấy Giáp là Quỷ, Nhâm Quý là Tài, trên Hợi có Nhâm vƣợng sinh Giáp, Mậu thổ
khí tuyệt, tài bạch tụ tán, nếu can đầu năm tháng thấy Ất Đinh Canh vƣợng, quý là Tam Kỳ;
thông khí tháng thổ là thân vƣợng, hành hỏa mộc vận, là cát.
+ Ngày Mậu Tý giờ Quý Hợi, năm tháng không thấy chữ Mậu phá cách, là quý. Năm tháng
Thân Tý, gặp Đông Nam vận; Hợi Mão, gặp Nam vận, đều quý. Tị Ngọ Mùi là vƣợng, mệnh
đại quý.
+ Ngày Mậu Dần giờ Quý Hợi, sinh tháng Ngọ Mùi, hóa hỏa hội cục, là cao mệnh. Xuân,
Quan Sát hỗn tạp, y lộc no ấm. Năm tháng Dậu Sửu, làm quan tam phẩm.
+ Ngày Mậu Thìn giờ Quý Hợi, là thanh tú. Tháng Hợi Tý, là Tài Quan cách, không quý thì
phú. Năm tháng Dần Mão, là quý hiển. Sinh mùa Hạ, là giáo chức.
+ Ngày Mậu Ngọ giờ Quý Hợi, là quý. Năm tháng Dần Tị, nơi đất thổ dày thủy tú, thì làm
quan lục thất phẩm. Mão Mùi Thìn Sửu, đều cát.
+ Ngày Mậu Thân giờ Quý Hợi, năm tháng Tý Mùi, không có tổ nghiệp, vì vợ mà làm giàu,
nếu không thì là dời căn thay lá, bần mà còn tiện.
+ Ngày Mậu Tuất giờ Quý Hợi, năm tháng là Dần Mão Ngọ Tị Sửu Tuất Hợi, thiên can thấu
chữ Ất Canh Đinh, thanh mà quyền quý, thích hợp hỏa thổ vận.

Mậu Quý hóa hỏa sinh giờ Hợi,


Lạc chiếu khắp nơi ám phục minh;
Tháng sinh Mùi Mão tam hợp cát,
Đổi nhà dời cửa tất an ninh.
Ngày Mậu giờ lâm Quý Hợi, thiên can hóa hỏa là kỳ diệu. Ất, Canh Đinh vƣợng hỷ phù hợp,
định chủ danh thanh hiển quý. Tứ hải xuân phong hƣởng khoái, lục thân cốt nhục hình suy.
Vợ hiền con hiếu vui vẽ sung sƣớng, không có phá thì khoa danh đề cao.
26-04-16, 14:15
lesoi
Đoán ngày Lục Kỷ giờ Giáp Tý

Ngày Lục Kỷ sinh giờ Giáp ý,


Minh kiến Quan tinh ám có Tài;
Ỷ thác nếu thông nơi nguyệt khí,
Y lộc cả đời tự trời đến.
Ngày Kỷ giờ Giáp Tý, là minh Quan ám Tài. Kỷ dụng Giáp là Quan, Quý là Tài, Tân là
Thực, Tý là Thiên Ất quý nhân, trên Tý có minh Giáp ám Quý, Tân ở trƣờng sinh. Thân
nhƣợc có chỗ dựa thông khí tháng, là mệnh phú quý; nếu không thân vƣợng, hành thổ khí
vận, cũng tốt.
+ Ngày Kỷ Sửu giờ Giáp Tý, hóa quý, năm tháng Ngọ Dần, mệnh yểu chiết; thông khí tháng
thổ, là quý. Kị tháng Giáp Dần, trong quý gặp chết hung. Tháng Đinh Mùi bị hình, tháng
Đinh Sửu phá tổ, mất đất là chết hung.
+ Ngày Kỷ Mão giờ Giáp Tý, trƣớc phá tổ sau vƣợng, hoặc trong vƣợng có tổn thƣơng.
230 | Tam mệnh thông hội

Tháng Thìn Tuất Sửu Mùi, là quý. Ngọ, thì thân vƣợng. Tý, là tụ quý, Hợi, là Quan trƣờng
sinh, đều là đại quý. Kị tháng Kỷ Tị, phá bại thì hung tử. Tháng Canh Thân, chết hung gặp
cảnh đổ máu. Tháng Nhâm Tý, chết vì hình hại.
+ Ngày Kỷ Tị giờ Canh Tý, tháng Thìn Tuất Sửu Mùi, phong quan hàng tam phẩm, cần hành
thủy mộc vận, Tây vận thì không thành, Nam vận thì Tài Quan vô khí, hƣ danh bạc lợi, quý
mà không hiển. Năm tháng là Tý Dần, Đông Nam vận, quý hiển;《 Thần Bạch kinh》 nói:
"Hóa thổ sinh phúc, nhưng không hiển". Kị tháng Nhâm Dần, là thụ hình. Tháng Ất Mùi, là
hình thƣơng. Tháng Quý Dậu, là yểu.
+ Ngày Kỷ Mùi giờ Giáp Tý, thân cao tọa Quan khố, tháng Thìn Tuất Sửu Mùi, là cát. Tháng
Dần Hợi, Quan vƣợng, văn chƣơng chấn phát, dễ thành quý hiển. Tị Sửu, về sau thành văn
quý. Dần Mão, la2 bần hạ. Kị tháng Giáp Thân, thân chết không toàn thây. Tháng Bính Tý, là
cô bần. Tháng Đinh Sửu, hình hại.
+ Nagỳ Kỷ Dậu giờ Giáp Tý, năm tháng Dần Thân Ngọ Mùi Sửu, phong quan văn quý.
Tháng Ngọ, Đông Bắc vận, quan hàng cực phẩm. Kị năm Canh Dần, là phá bại chết hung.
Tháng Kỷ Tị, hung ác. Tháng Mậu Tuất, cô đơn chết do máu huyết.
+ Ngày Kỷ Hợi giờ Giáp Tý, mùa xuân hạ, là Tài Quan sinh vƣợng, mệnh cát; mùa thu đông
tháng tứ quý, là Bối lộc Trục mã, mệnh hung. Tháng Dần, kim hỏa vận, làm quan. Tháng
Ngọ, Đông Bắc vận, mặc áo quan trên. Kị tháng Nhâm Dần, mệnh chết hung. Tháng Nhâm
Thân, gặp hình mà quá bần. Tháng Quý Dậu, là phá bại.

Ngày Kỷ hỷ phùng giờ Giáp Tý,


Tài Quan song mỹ quý vô cùng;
Một lúc được triều hội phong vân,
Độc bước cung Hằng bẻ Quế Chi.
Ngày Kỷ lâm giờ Giáp Tý, hóa sinh thổ dày sinh gốc. Tài Quan vừa trợ hiển ánh sáng rực rỡ,
có tựa Thanh Long hí thủy. không gặp Canh kim Mão Ngọ, là ngƣời hội đủ phúc lộc. Thƣờng
nhân thì phát phúc có thừa, quân tử thì đăng khoa Giáp đệ.
26-04-16, 14:16
lesoi
Đoán ngày Lục Kỷ giờ Ất Sửu

Ngày Lục Kỷ sinh giờ Ất Sửu,


Sát tinh thụ chế không là hại;
Trong trụ thân vượng nhiều vinh quý,
Sinh ra bất lực bận ngày đêm.
Ngày Kỷ giờ Ất Sửu, là Chuyên Tài gặp Quỷ, ở trên Sửu có Ất lộ là Quỷ, ám Quý là Tài.
Nếu có chỗ dựa thông thân vƣợng thì quý; thông vận cũng cát. Nếu Quỷ có trợ giúp, vƣợng
không thể đảm nhận, thì y lộc bình thƣờng.
+ Ngày Kỷ Sửu giờ Ất Sửu, Thời thƣợng là Thiên Quan, đều ở nơi bậc thềm vũ chức, vẫn
phải xem chỗ đất nào mà đoán. Tháng Mão kim thủy vận, quan hàng lục thất phẩm.
+ Nagỳ Kỷ Mão giờ Ất Sửu, tháng Tý Thân, hành kim thổ vận, làm quan đến hầu bá. Năm
tháng là Tị Dậu Sửu Tuất, đều cát.
+ Ngày Kỷ Tị giờ Ất Sửu, tháng Dần Mão, là Thiên Quan cách. Không có chữ Dậu Tuất, văn
nhập quý mệnh.
+ Ngày Kỷ Mùi giờ Ất Sửu, ngày giờ xung nhau, cũng có thể vợ sinh tài. Năm tháng Mão
Ngọ, là Kim Thần nhập hỏa hƣơng, Tây Nam vận, là quý. Đủ Thìn Tuất tứ quý, là mệnh đại
quý. Can thấu Đinh Tân, thuần âm cũng quý.
+ Ngày Kỷ Dậu giờ Ất Sửu, tháng Mão, là Thiên Quan. Tháng Thìn, là Tài Sát, quý mệnh.
Thân Dậu, là Thƣơng quan thƣơng tận. Tị Ngọ, là Ấn thụ, đều quý. Sửu Tuất, cũng quý.
+ Ngày Kỷ Hợi giờ Ất Sửu, tháng Mão, mệnh đại quý. Tháng Thân, thủy mộc vận, phong
231 | Tam mệnh thông hội

quan.

Giờ gặp Ất Sửu bản thân suy,


Khố có Tài tinh trong ẩn phục;
Không gặp khóa mở khó hiển đạt,
Mới biết xuất ngoại xứng tâm hoài.
Ngày Kỷ giờ lâm Ất Sửu, trong khố có quỷ hao khởi hƣng tai họa. Sản nghiệp Tổ tông có đầy
có khuyết, mƣu vọng tài đi rồi tài đến. Tuất Mùi hình xung thì phát phúc, không có chìa khóa
mở, di dời lui tới, cha mẹ anh em khó nƣơng tựa, gặp Mùi là có cứu thì thủ quý.
26-04-16, 14:17
lesoi
Đoán ngày Lục Kỷ giờ Bính Dần

Ngày Lục Kỷ sinh giờ Bính Dần,


Ám Quan minh Ấn bản thân vượng;
Tháng thông mộc khí không xung phá,
Quý ỷ tam đài bát vị thành.
Ngày Kỷ giờ Bính Dần, là Quan Ấn sinh vƣợng. Kỷ dụng Giáp là Quan, Bính là Ấn, trên Dần
Giáp vƣợng sinh Bính. Nếu nhƣ không có phá, thông khí tháng mộc cục, là đại quý. Hỷ hành
mộc hỏa, không nên hành kim thủy, tuế quân luận giống vậy.
+ Ngày Kỷ Sửu giờ Bính Dần, mùa xuân Quan vƣợng, mùa hạ Ấn vƣợng, mùa thu là Ký tế,
mùa Đông bình thƣờng. Năm tháng Thìn Tuất, hiển đạt văn quý. Thuần Sửu, mệnh thọ cao.
Tháng Tuất, mộc hỏa vận, làm quan hàng ngũ, lục phẩm.
+ Ngày Kỷ Mão giờ Bính Dần, năm tháng Ngọ Thìn, hiển đạt văn chƣơng, là đại quý. Dần
Ngọ, làm quan đến hàng tam phẩm.
+ Ngày Kỷ Tị giờ Bính Dần, trƣớc hình sau vƣợng. Tháng Dần, là Chính Quan cách, hiển
quý văn chƣơng. Hợi Tý thủy, thủy vận, là quý. Thuần Tuất, vũ chức hàng tam phẩm. Năm
tháng Thân Hợi cục đủ tứ sinh, mệnh đại quý, hoặc là không tốt.
+ Ngày Kỷ Mùi giờ Bính Dần, sinh đất thổ dày, mới quý. Năm tháng là thủy mộc, hành đông
Bắc vận, là quý. Một là làm con nuôi, hai là khi ra đời không gặp cha.
+ Ngày Kỷ Dậu giờ Bính Dần, tháng thông mộc hỏa cục, là quý; mộc hỏa vận, cũng vinh đạt.
+ Ngày Kỷ Hợi giờ Bính Dần, sinh mùa xuân Quan vƣợng, là quý; mùa hạ thu là bình
thƣờng; mùa đông là Tài vƣợng, là cát. Năm tháng sinh Dần Thân Sửu Tị Ngọ Thìn Tuất là
quý. 《 Thần Bạch Kinh 》nói : "Hỏa mộc tượng quý."

Ngày Kỷ giờ Bính Dần khác thường,


Thiếu niên chưa gặp phú văn chương;
Vận hành đất Mão sinh rõ tháng,
Từng bước thanh vân đến đất vua.
Ngày Kỷ đúng giờ Bính Dần, Quan tinh Ấn thụ trƣờng sinh. Học Đƣờng tam hợp hỷ quang
vinh, thông bác lãm lịch văn chƣơng. Năm tháng không có xung phá, định ứng đề danh bảng
vàng. Vận hành Quan vƣợng chủ hanh thông, mệnh cao nhân thƣợng đẳng.
26-04-16, 14:18
lesoi
Đoán ngày Lục Kỷ giờ Đinh Mão

Ngày Lục Kỷ sinh giờ Đinh Mão,


Can chi ám Quỷ Kiêu hư thần;
Trong trụ có trợ mới là phúc,
232 | Tam mệnh thông hội

Không trợ khó thành người hiển đạt.


Ngày Kỷ giờ Đinh Mão, Kỷ lấy Đinh làm Ấn, Ất là Quỷ, trên Mão có đinh lộ ám tàng Ất.
Nếu trong năm tháng không có chỗ dựa cứu trợ, tú hƣ mà không thực, có thành có bại. trong
tháng thấy Tân chế phục thân vƣợng là quý; Vận vƣợng, cũng cát.
+ Ngày Kỷ Sửu giờ Đinh Mão, Thân Tý Thìn, là vũ chức. Hợi Mão Mùi, là vinh phú. Tị Dậu
Sửu, hành Đông Bắc vận, là cát.
+ Ngày Kỷ Mão giờ Đinh Mão, năm tháng Tị Dậu, là chế phục đƣợc phù hợp. Canh Thân
hợp Sát, văn tiến đại quý. Tháng Tý, là Hình Sát ngộ Quý, chủ nắm binh quyền hoặc làm
pháp quan. Địa chi thuần Ấn hoặc tam hợp mộc cục, vận hành Dần, là hỗn Quan lại gặp lƣu
niên xung vận, là chết hung.
+ Ngày Kỷ Tị giờ Đinh Mão, không có xung phá, là mệnh phú quý; nam tháng là Dần Ngọ
Thìn, hình thƣơng là bất lợi. Tháng Hợi, mộc hỏa vận, là quý. Nếu sinh mùa xuân thấu ra
Giáp Ất, là Quan Sát thái vƣợng, nếu có chế hóa, cũng quý; nếu không, là hung yểu.
+ Ngày Kỷ Mùi giờ Đinh Mão, không quý cũng phú; năm tháng Mão Tuất Hợi Sửu thì cát.
+ Ngày Kỷ Dậu giờ Đinh Mão, 9 thành 10 phá, năm Mùi vƣợng. Năm tháng thông thân sinh
vƣợng, can đầu có Tân Quý chế phục Đinh Ất là cát.
+ Ngày Kỷ Hợi giờ Đinh Mão, sinh mùa thu, là Thiên Quan có chế, mệnh phú quý. Mùa
Xuân thì ngắn thọ. Mùa Hạ thân vƣợng, là cát. Mùa Đông là bình thƣờng. Tháng Thìn Tuất
Sửu Mùi là quý.

Ngày Kỷ giờ Mão phúc tự gãy,


Cầu danh cầu lợi nói không nên;
Thân cung nhưng có chữ hình khắc,
Xa quê xa gốc chạy khắp nơi.
Ngày Kỷ gặp giờ Đinh Mão, Đảo Thực cùng Thiên Quan là giao gia, Dậu Canh Tân bị phá
bỏ chạy, tƣ tƣởng là không thể thông đạt. Khó hi vọng giúp đỡ của cha mẹ và anh em, sau khi
hoa rơi sẽ lập mầm rễ mới. Xa rời tổ tông để có thể thành lập gia thất, phát tích ở dƣới khe
rừng núi.
26-04-16, 14:18
lesoi
Đoán ngày Lục Kỷ giờ Mậu Thìn

Ngày Lục Kỷ sinh giờ Mậu Thìn,


Bản thân đắc vị gặp Tài thần;
Điền viên phú quý nhiều thành tín,
Đề cương Giáp Ất Lộc quý nhân.
Ngày Kỷ giờ Mậu Thìn, là Tài khố chuyên vị. Kỷ lấy Nhâm Quý làm Tài, ở trên Thìn là nhập
mộ, là Kỷ thổ chuyên vị. Là ngƣời thành tín phú quý. Nếu thông khí tháng hoặc thấu xuất
Giáp Ất, là tháng sinh mang lộc, là đại quý. Tháng Thìn, là thân vƣợng, không đƣợc lực của
cha mẹ. Thấy Giáp thì hóa thổ, mệnh đại phú. Mùa Đông Hạ, là Tài vƣợng sinh Quan, phú
quý. Tây vận, thì bình thƣờng.
+ Ngày Kỷ Sửu giờ Mậu Thìn, mệnh thân cô. Tháng Dần Mão, là Lộc vƣợng. Tháng Thìn mà
thấu Giáp, thì lấy hóa khí xem, quý mệnh. Ngọ, thì phú dày. Dần Dậu, phong quan. Năm
tháng có Tý Sửu lại thấu Giáp, hành Đông Nam vận, chỉ là quý quan; sợ Tây Bắc vận, là
thoái chức.
+ Ngày Kỷ Mão giờ Mậu Thìn, tháng Mão, phong quan. Năm tháng là thủy mộc, hành Đông
Bắc vận, cũng giống vậy.
+ Ngày Kỷ Tị giờ Mậu Thìn, thân cô sau phát. Mùa Xuân là Quan quý; mùa hạ bình ổn; mùa
thu hung bạo; mùa đông Tài vƣợng. Tuế vận cũng vậy.
+ Ngày Kỷ Mùi giờ Mậu Thìn, tháng Sửu, là Tạp khí Tài Quan, cát. Năm tháng là Dần Thìn
233 | Tam mệnh thông hội

Tị Hợi Ngọ Tuất, quý hiển văn chƣơng.


+ Ngày Kỷ Dậu giờ Mậu Thìn, mùa xuân Quan vƣợng, mùa hạ bình cát, mùa thu hung bạo,
mùa đông Tài vƣợng.
+ Ngày Kỷ Hợi giờ Mậu Thìn, tháng Sửu, là Tạp khí Tài Quan, quý. Tháng Tuất, mộc thủy
vận, làm qaun hàng lục, thất phẩm. Năm tháng Dần Ngọ Tý Thìn, là đại quý.

Giờ Thìn ngày Kỷ không tầm thường,


Trong có Tiền Long trấn khố tàng;
Tỉ kiếp không gặp hành vận cát,
Định nói phú quý quảng điền trang.
Ngày Kỷ giờ gặp Mậu Thìn, thân gặp vƣợng khố là phong phú. Quả nhiên hoa rụng lại trùng
vinh, Sửu Tuất hình xung Tài thịnh. Nhâm Thân là Tài Quan song mỹ, trùng Thê Tử muộn
mới thành. Cha mẹ anh em việc trung bình, mệnh tự thành độc lập.
26-04-16, 14:19
lesoi
Đoán ngày Lục Kỷ giờ Kỷ Tị

Ngày Lục Kỷ sinh giờ Kỷ Tị,


Kim Thần cùng hỏa cả hai hòa;
Không thông khí tháng xem bình thường,
Như thông khí tháng khoa Giáp vinh.
Ngày Kỷ giờ Kỷ Tị, là kim hỏa tƣơng hợp, Kỷ lấy Bính làm Ấn, trong Tị có Bính, là kiện
vƣợng; Giờ Kỷ Tị lại là Kim Thần, tọa ở vị trí hỏa, là tƣơng hợp. Nếu thông tháng hỏa khí, tứ
trụ không thấy Tài tinh phá Ấn, không gặp hành Tài, là phát phúc phi thƣờng. Nếu không
thông khí tháng, hoặc sinh ở mùa đông, là hƣ tú không thực. Không thông, gặp Nam vận,
cũng cát.
+ Ngày Kỷ Sửu giờ Kỷ Tị, tháng Thìn, Tây Bắc vận, là quý. Ngọ Mùi là hỏa vƣợng, mệnh
đại quý. Thân Tý Tuất Tị, cũng cát.
+ Ngày Kỷ Mão giờ Kỷ Tị, Giáp Thìn là Tài khố, chủ đại phú. Lại vừa, Mão lấy Tị là Dịch
Mã, thông nhìn hai Kỷ, vị trí chi tọa Mã. Lại sinh tháng Ngọ, đều có Lộc Mã, càng là quý
mệnh. Tháng Hợi, Tài lâm vƣợng địa, Quan gặp trƣờng sinh. Tháng Tị, Kim Thần ngộ hỏa
hƣơng, đều chủ đại quý.
+ Ngày Kỷ Tị giờ Kỷ Tị, năm tháng Ngọ, là quyền uy hiển hách, danh dự đầy đủ. Tháng mùa
Xuân, là con hiếu vợ hiền. Mùa Thu Đông là bình thƣờng, quý mà không hiển. Thìn Tuất, Tài
Ấn Quan Thực; tháng Thân, là Thƣơng quan sinh Tài, đều là cát.
+ Ngày Kỷ Mùi giờ Kỷ Tị, là Củng Lộc cách. Nếu không có Dƣơng Nhận Thất Sát, chữ Ngọ
điền thực, không phạm Không vong, chủ hiển quý. Năm tháng Hợi Sửu Thìn Thân, hành
Đông vận, văn vũ đều ở hàng cực phẩm. Cách này không nhƣ Đinh Tị, Đinh Mùi, Tị Đinh là
chính lộc, cho nên Tị ký gửi lộc vậy.
+ Ngày Kỷ Dậu giờ Kỷ Tị, sinh mùa Hạ, là Kim Thần nhập hỏa hƣơng, mệnh quý hiển, tuế
vận cũng nhƣ vậy.
+ Ngày Kỷ Hợi giờ Kỷ Tị, sinh mùa hạ, tài sản đấy nhà, hành lạc hiên ngang. Đông, thì bình
thƣờng, tháng Tuất, Đông Nam vận, là Quốc Sƣ, mặc áo tía. Tháng Dần, cũng quý.

Ngày Kỷ trọng phùng giờ Kỷ Tị,


Kim Thần hóa vượng nên thích nghi.
Nam Ly bước vận Tài Quan hiển,
Dần Mão Đông phương gặp cũng trách.
Ngày Kỷ giờ gặp Kỷ Tị, sinh mùa Hạ Bính hỏa là Kim Thần. Không gặp Tuất Hợi và Canh
234 | Tam mệnh thông hội

Thân, không có phá thì tất cả âm thanh đều hƣởng ứng. Cha mẹ một suy một vƣợng, có Hình
Không thì sự nghiệp trắc trở. Nên biết hiển đạt cần đổi họ, hỏa vƣợng vận Nam phƣơng.
26-04-16, 14:20
lesoi
Đoán ngày Lục Kỷ giờ Canh Ngọ

Ngày Lục Kỷ sinh gặp giờ Ngọ,


Lộc quy đất giờ chủ xương vinh;
Trong trụ sợ thấy có Quan tinh,
Nếu là phục tinh lại bình thường.
Ngày Kỷ giờ Canh Ngọ, là Nhật Lộc quy thời. Kỷ thấy Canh là Thƣơng quan, Ất là đúng
Quỷ; ở trên Ngọ có lộ Canh hợp Ất, là Thƣơng quan hợp Sát, chủ ngƣời độc lập có thành
công. Nếu năm tháng không có Ất mà Thƣơng quan lâm ở bại địa, trụ có hai chữ Giáp, Bính,
là Phục tinh cách, không thƣơng tổn cách cục không có xung phá, chủ đại quý.
+ Ngày Kỷ Sửu giờ Canh Ngọ, sinh tháng Dần, là quý; mùa hạ là hung; mùa thu là bạo
ngƣợc; mùa đông, là Tài (thê) vƣợng Tử (con) thiếu.
+ Ngày Kỷ Mão giờ Canh Ngọ, Kỷ lộc ở Ngọ, năm tháng có Giáp Bính cùng Dần Ngọ là đại
quý. Tháng Mão, Sát vƣợng Canh hợp, là quyền quý.
+ Ngày Kỷ Tị giờ Canh Ngọ là quý. Tháng Dần Ngọ Tuất, Kim Thần nhập hỏa hƣơng, lấy
Ấn thụ mà luận, mệnh quý hiển, năm tháng Thìn Tuất Sửu Mùi, là quan tƣớc hầu bá. Nếu gặp
vận hợp Sát, tất là không tốt. Tháng Dậu, Đông Nam vận, quý.
+ Ngày Kỷ Mùi giờ Canh Ngọ, là Bối lộc Thƣơng quan, là hình khắc lục thân; không có phá,
về già phát vƣợng. Năm tháng Mùi Tuất là quý.
+ Ngày Kỷ Hợi giờ Canh Ngọ, năm tháng Ngọ Tuất, là Tài Quan Lộc Ấn, mệnh đại quý.
Năm Dần tháng Ngọ, mệnh cự phú. Tháng Mão, hành Tây vận là quý.

Kỷ gặp Canh Ngọ giờ Quy Lộc,


Không phá không xung có phát phúc;
Trong trụ Bính Thân nếu gặp nhau,
Đức nhuận thân hề phú nhuận ốc.
Ngày Kỷ gặp giờ Canh Ngọ, danh là Bối Lộc Thƣơng quan. Xung hình phá hại họa đủ điều,
cốt nhục lục thân nhƣ nƣớc với lửa. Trong trụ nếu gặp Giáp Bính, là Phục tinh cách thanh
nhàn. Mệnh này mỗi ngày mỗi lên cao, phú quý là không cần suy đoán.
26-04-16, 14:21
lesoi
Đoán ngày Lục Kỷ giờ Tân Mùi

Ngày Lục Kỷ sinh giờ Tân Mùi,


Thực thần Quan khố hỷ tương thân;
Mộc thông khí tháng nên nói quý,
Như tháng không thông người phú mệnh.
Ngày Kỷ giờ Tân Mùi, là Thực thần trợ Quan. Kỷ lấy Tân là Thực, Giáp là Quan, Mùi là
Quan khố, ở trên Mùi có Tân lộ Giáp tàng. Nếu có thông khí tháng làm chỗ dựa, là mệnh
quý. Thực thần sinh vƣợng, thắng qua Tài Quan. Khí tháng thông mộc, là Quan vƣợng, càng
quý; không thông, thì chủ phúc. Thông vận, cũng quý.
+ Ngày Kỷ Sửu giờ Tân Mùi, không quý cũng phú. Khí tháng thông thổ, là phú. Khí tháng
thông mộc, là quý. Một khi nói đến hình, là mệnh hung.
+ Ngày Kỷ Mão giờ Tân Mùi, năm tháng Dậu Tuất Hợi Mão, Mùi là quý, hành Đông Nam
vận, mặc áo tía làm quan.
235 | Tam mệnh thông hội

+ Ngày Kỷ Tị giờ Tân Mùi, là ngày Kim Thần. Sinh tháng Dần Ngọ Tuất, là quý; Hợi Mão
Thìn Ngọ, hành kim hỏa thủy mộc vận, là mệnh đại quý.
+ Ngày Kỷ Mùi giờ Tân Mùi, mùa xuân hạ, tháng Sửu, phong cách đặc đạt, lời nói thanh
biện, danh cao lộc trọng. Thu Đông, là bình thƣờng. Mộc hỏa vận, hình hại là phát tài. Một
lúc nói gặp Tài là tự hại.
+ Ngày Kỷ Dậu giờ Tân Mùi, mùa xuân là phản phục; mùa hạ là cát; mùa thu ngắn thọ; mùa
đông thì tài bạch phong phú. Tháng Mão gặp kim thủy vận, làmu qan hàng ngũ phẩm. Tháng
Sửu nếu hành Tây Nam vận, làm quan. Thìn Tuất, là Tài Ấn khố địa đều cát. Một khi gặp
hung hình thì về sau thịnh vƣợng.
+ Ngày Kỷ Hợi giờ Tân Mùi, mùa xuân là quý, mùa hạ yên ổn, mùa thu là bần, mùa đông là
phú. Tháng Dậu, Kỷ thổ trƣờng sinh, là Thực thần gặp lộc, tự nhiên hƣởng thụ. Một khi nói
gặp quý mà mất hung.

Ngày Kỷ tương phùng giờ Tân Mùi,


Cửa đèn lạnh lẽo có ai biết;
Vận hành Tài vượng kiêm Quan vượng,
Danh lợi song toàn oán càng muộn.
Ngày Kỷ giờ lâm Tân Mùi, là Thực tọa Quan khố cần xung khai. Sửu Tuất hình xung hiển
Tài Quan, trấn đóng làm tiền trình trở ngại. Quân tử thì phúc trợ văn chƣơng, thƣờng nhân thì
là ngƣời cầm đầu thƣơng lái. Nên có chìa khóa mở ở trong mệnh thì mới phát phúc, tài đi tài
đến luôn tồn tại.
26-04-16, 14:21
lesoi
Đoán ngày Lục Kỷ giờ Nhâm thân

Ngày Lục Kỷ sinh giờ Nhâm Thân,


Tổn bại Thiên nguyên khí không còn;
Nếu mất Thiên nguyên không chỗ dựa,
Không cùng thì yểu mệnh khó bền.
Ngày Kỷ giờ Nhâm Thân, là thủy vƣợng thổ hƣ, Kỷ lấy Giáp làm Quan, Nhâm là Tài, Canh
là Bối Lộc. Ở trên Thân có Canh vƣợng sinh Nhâm Giáp tuyệt, khí Kỷ thổ bại. Nếu thông
tháng tứ quý thổ khí hoặc vận thông thổ khí thì cát. Nếu mất thiên thời không có chỗ dựa,
không thông khí tháng, không bần thì yểu; nếu không thì tàn tật, chớ bái quan.
+ Ngày Kỷ Sửu giờ Nhâm Thân, năm tháng là Dậu, thiên can thấu Ấn, phú quý thích lễ nghi,
là ngƣời khảng khái. Thìn Tuất thì cát. Năm Hợi, là Càn thanh Khôn di đại cách. Dần Thân,
cùng phụ trợ Quan quý, đều cát.
+ Ngày Kỷ Mão giờ Nhâm Thân, tháng Thìn, là Tạp khí Tài Quan, sớm đạt quý. Tháng Hợi,
Nam phƣơng vận, làm quan hàng ngũ, lục phẩm. Năm Dần Thân, làm quan hàng tam, nhị
phẩm.
+ Ngày Kỷ Tị giờ Nhâm Thân, là đại hung, hình. Tháng Tị Dậu Sửu, là Thƣơng quan, hành
Tài vận, cát. Tháng Dần Ngọ Tuất, là Kim Thần nhập hỏa hƣơng, vận Tây Nam, quý. Tháng
Thân Tý Thìn, mộc hỏa vận, quý.
+ Ngày Kỷ Mùi giờ Nhâm Thân, sinh tháng Tị, là Quán hủ túc trần ( nối liền mục nát).
Tháng Hợi Tý Dần, kim hỏa vận, phong làm Hầu Bá. Năm tháng Thìn Hợi, chỉ lấy quý.
+ Ngày Kỷ Dậu giờ Nhâm Thân, tháng Tị Dậu Sửu, là Thƣơng quan thƣơng tận, cát. Tháng
Dần, hung bạo. Tháng Mão Mùi, là vũ chức. Tý Mùi là công hầu. Một khi nói rằng chủ tâm
cuồng hiền bệnh, đại quý.
+ Ngày Kỷ Hợi giờ Nhâm Thân, Mão Mùi, tam hợp hội Quan, can thấu Ấn, đại quý. Tháng
Mậu Tý, là Tài vƣợng sinh Quan. Dậu Kỷ thổ thụ sinh, can thấu Giáp Bính, đều cát.
236 | Tam mệnh thông hội

Nhật can là Kỷ hội giờ Thân,


Không phá không xung rất phù hợp;
Trong trụ dẫu có Quan không hiện,
Cũng giao Tài vượng định căn cơ.
Giờ Nhâm Thân lại gặp ngày Kỷ, trong đó có tam hợp là thích hợp. Đề cƣơng gặp đúng
Thiên Ất quý nhân, nên dụng Tài Quan là hiển quý. Mậu Kỷ Thìn Tuất đắc vị, phải biết là
ngƣời có tài văn chƣơng rộng lớn. Vợ hiền con hiếu phúc văn đủ, hình phá thì trung niên gặp
bất lợi.
26-04-16, 14:22
lesoi
Đoán ngày Lục Kỷ giờ Quý Dậu

Ngày Lục Kỷ sinh giờ Quý Dậu,


Là đất mộc dục hồn thủy thổ;
Tài Thực ẩn tàng nhiều tụ tán,
Thân suy thất địa thọ khó bền.
Ngày Kỷ giờ Quý Dậu, là thủy thổ bị vẫn đục. Kỷ lấy Quý là Tài, Tân là Thực. Ở trên Dậu
Quý bệnh, Tân vƣợng, là Tỉ kiên đoạt Tài, tài nhiều tụ tán; lại thân suy thất địa, chủ thành bại
phản phục; nếu không thì, ngắn thọ. Nếu tháng hoặc vận thông thân vƣợng, cát.
+ Ngày Kỷ Sửu giờ Quý Hợi, mùa xuân bình thƣờng; mùa hạ ổn định; mùa thu là Thƣơng
quan thƣơng tận, có uy quyền; mùa đông thì phú. Nhƣ tháng Bính Dần Tị, là Kim Thần ngộ
hỏa, quý. Tháng Sửu, kim thủy vận, làm quan. Thấu ra Ất, là đại quý.
+ Ngày Kỷ Mão giờ Quý Dậu, ngày giờ tƣơng phùng Mão Dậu, chủ di dời; hình thƣơng lại
vừa Thƣơng quan đới Sát, chủ tính hung bạo, việc làm trì trệ kéo dài. Sinh tháng tứ quý là
cát.
+ Ngày Kỷ Tị giờ Quý Dậu, tháng Tị Dậu Sửu, là Thƣơng quan thƣơng tận, ở nơi vũ chức,
phong quan. Tháng Mão Tuất, là Kim thần nhập hỏa hƣơng, rất quý, hại quý, tâm bị ức chế
sớm thoái lui, cho nên lấy thủy thổ bại ở Dậu vậy ( Bại tức là đất mộc dục).
+ Ngày Kỷ Mùi giờ Quý Dậu, năm tháng Tuất Hợi Sửu Thìn, Tây phƣơng vận, quý. Tý Tị là
đại quý. Mão, Thìn, quý nhƣng không lớn.
+ Ngày Kỷ Dậu giờ Quý Dậu, là Thiên Tài gặp Thực, chủ tài hoa dnah tiếng. Sửu Mùi Tý
Ngọ đều cát. Tháng Dậu, bên trong lo sầu. Nhƣ năm tháng đủ Kỷ Dậu, là phạm Phá Toái Sát,
chủ cả đợi gặp phá bại, chạy mà không có kết quả.
+ Ngày Kỷ Hợi giờ Quý Dậu, thông khí tháng thổ, hành mộc hỏa vận, quý.

Kỷ gặp Quý thủy sinh giờ Dậu,


Thực thần sinh vượng tự nhiên nạp;
Thân nhược lại kiêm xung khắc phá,
Mệnh này y toán chỉ trung bình.
Ngày Kỷ gặp giờ Quý Dậu, Thiên Tài hỷ gặp Thực thần. Cha mẹ anh em đều không có chỗ
dựa, tính cách tình cảm bất định. Tài đến tài đi tụ tán, trƣớc mắt thấy nhiều nhƣng khó tồn tại.
Hoa nở hoa rơi lại trọng cái mới, mệnh này trƣớc nghịch sau thuận.
26-04-16, 14:23
lesoi
Đoán ngày Lục Kỷ giờ Giáp Tuất

Ngày Lục Kỷ sinh giờ Giáp Tuất,


Thê tòng Phu hóa là chân thổ;
Như thông khí tháng gốc Lộc sâu,
237 | Tam mệnh thông hội

Trái lại thì nói mệnh bình thường.


Ngày Kỷ sinh giờ Giáp Tuất, là Thê tòng Phu hóa. Kỷ hợp Giáp mộc hóa thổ thành cục, thổ
thần tú khí, gốc lộc sâu dày. Trong tháng không có hóa, lấy Giáp là Quan, Bính là Ấn, ở trên
Tuất thổ có Giáp mộc thành hình, Bính hỏa hợp cục. Thông khí tháng là quý; không thông, có
hình xung phá hại là bình thƣờng, bản thân tuy cát, cha mẹ mất sớm.
+ Ngày Kỷ Sửu giờ Giáp Tuất, là khắc cha rất nặng. Sinh tháng Thìn, thì thổ dày. Ở Tị Ngọ
Mùi Thân, là lâm quan, đế vƣợng, cát. Hợi Tuất Dần Mão, thổ bệnh tử, là hung. Dậu Thìn,
làm quan hàng tam, tứ phẩm, trung niên thoái nhàn. Hợi mộc hỏa vận, làm quan hàng lục,
thất phẩm.
+ Ngày Kỷ Mão giờ Giáp Tuất, năm tháng Bính Đinh Ngọ Tuất, can có Canh Tân chế phục
Quan Sát, sinh ở phƣơng đất núi sáng thủy tú, làm quan đến hàng nhị, tam phẩm. Tháng Mùi
Dậu Sửu, hành thổ hỏa vận, làm quan hàng tứ, ngũ phẩm. Tháng Ngọ, Đông Bắc vận, là đại
quý. Tý vận, mộc hỏa vận, phong quan. Thìn Tị là có chỗ dựa, cực phẩm.
+ Ngày Kỷ Tị giờ Giáp Tuất, tháng Dần Ngọ Tuất, là Kim Thần nhập hỏa hƣơng, quý hiển.
năm tháng Hợi Tuất, thủ lệnh ở Quan, rất có thanh danh. Tháng Tý, mộc hỏa vận, quan hàng
cực phẩm.
+ Ngày Kỷ Mùi giờ Giáp Tuất, khắc hãm gặp hình. Năm tháng Dần Ngọ, quan hàng tam, tứ
phẩm. Tháng Tuất, Đông Nam vận, quan ngũ phẩm. Năm tháng Thuần Tân Mão, hình hung.
+ Ngày Kỷ Dậu giờ Giáp Tuất, Thìn Sửu là hình xung, tài nguyên có ích. Dậu Tuất tƣơng
hại, danh lợi trung bình. Tháng Tý, Kỷ là quý. Tháng Dần, là Quan Ấn, hành Ấn vận, là quý.
Tháng năm thuần Ất Dậu, hung bạo. Mệnh cô độc ly hƣơng.
+ Ngày Kỷ Hợi giờ Giáp Tuất, thông thổ khí tháng, cần hành mộc vận; tháng thông thủy
mộc, phải hành thân vƣợng vận, đều quý.

Giáp Kỷ hóa thổ khí thu tàng,


Như gặp chìa khóa phúc ưu du;
Nếu như gặp Tài tài không tụ,
Hồn như lá cây gặp cuối Thu.
Ngày Kỷ gặp giờ Giáp Tuất, là Thê tòng Phu hóa là tốt. Khố Tài chuyên đợi chìa khóa mở ra,
Nhâm Thân Sửu Thìn là thông thái. Cha mẹ yểu cô hình khắc, anh em hành hoa quả khó
thuận hòa. Nếu gặp thời vận đến một lúc, gia nghiệp hƣng long hạnh phúc.
26-04-16, 14:23
lesoi
Đoán ngày Lục Kỷ giờ Ất Hợi

Ngày Lục Kỷ sinh giờ Ất Hợi,


Quan tàng Sát lộ chưa là tốt;
Gặp kim chế Sát mới là cát,
Vậy thân không vượng hung thấy liền.
Ngày Kỷ giờ Ất Hợi, Sát lộ Quan tàng. Kỷ lấy Giáp là Quan, Ất là Quỷ. Ở trên Hợi có Ất lộ
Giáp tàng, là Quan Sát hỗn tạp. Trong trụ thấy Tân chế Ất, là Khử Sát lƣu Quan; thông khí
tháng, là quý hiển. Ở trên Hợi thì thủy vƣợng thổ hƣ, là phiêu lƣu thất nghiệp, thấy Tài mà
không tụ, tiến thoái thành bại; phải thân quỷ lƣỡng đình, mới cát. Không thông khí tháng,
thông vận khí, cũng cát.
+ Ngày Kỷ Sửu giờ Ất Hợi, tháng Tị Dậu Sửu, là chế Sát lƣu Quan, mệnh quý. Tháng Ngọ, là
thân vƣợng, cũng quý. Tháng Tý, hỏa vận, làm quan thất, bát phẩm. Mão Mùi, thấu Tân chế
Ất, mệnh đại quý.
+ Ngày Kỷ Mão giờ Ất Hợi, tháng Mão, là Thiên Quan cách, là Sát trọng thân nhu, lấy Khí
mệnh tòng sát xem. Nhâm tự ám phùng, là chí khí hiên ngang; trụ có chế phục, hành thổ kim
vận, làm quan đến hàng tam, tứ phẩm. Tháng Sửu, là tạp khí. Thìn, Tị, ở Tây vận, mặc áo
238 | Tam mệnh thông hội

quan. Tháng Hợi, gặp thủy vận, mệnh yểu.


+ Ngày Kỷ Tị giờ Ất Hợi, tháng Dần Ngọ Tuất, là Kim Thần nhập hỏa hƣơng, mệnh quý.
Tháng Tị, Tây Bắc vận, làm quan đến hàng công khanh. Mão Ngọ, phong quan. Năm tháng
thuần Tý Hợi, lấy Tài bè đảng Sát, lấy Khí ( bỏ) mệnh tòng mà xem, chủ nắm đại binh quyền.
+ Ngày Kỷ Mùi giờ Ất Hợi, không có hình phá hỗn tạp, là thanh cao, mệnh phú quý, văn học
kham khoa.
+ Ngày Kỷ Dậu giờ Ất Hợi, mùa xuân hạ, hiển đạt; mùa thu, chế phục thái quá, bần nho; mùa
đông, Tài vƣợng. năm tháng Ngọ Tị Tuất, làm quan hàng lục, thất phẩm. Tháng Dần, hành
kim hỏa vận, làm quan hàng tứ, ngũ phẩm.
+ Ngày Kỷ Hợi giờ Ất Hợi, năm tháng thấu ra Tân chế, là quý; không có chế, cũng chủ thành
đạt. Tháng Tuất, phong quan. Tị, cũng quý. Sửu, là cung thổ dày, làm quan đến hàng tam
phẩm. Mệnh gặp tự hình, nhiều thành bại, về sau phú.

Thiên nguyên ở giữa giờ Ất Hợi,


Dịch Mã trường sinh không thể nhàn;
Thân vượng Sát cường giữ phúc lộc,
Công danh hiển đạt nét mặt vui.
Ngày Kỷ gặp giờ Ất Hợi, là Thiên Quan hỷ gặp Chính Tài. Nếu gặp thân vƣợng cũng là tốt,
Thiên Nguyên hỗn tạp giảm nửa tốt. Hành tàng tiến thoái vô định, lục thân anh em hƣng suy.
Vận hành Lộc Mã tự nhiên đến, phú quý thanh nhàn tự tại.
27-04-16, 12:11
lesoi
Đoán ngày Lục Canh giờ Bính Tý

Ngày Lục Canh sinh giờ Bính Tý,


Thân Quỷ đều suy thoái thần cường;
Có lấy vinh hoa không lấy tiện,
Quỷ gặp sinh vượng thọ khó bền.
Ngày Canh giờ Bính Tý, thân và Quỷ đều suy nhƣợc. Canh lấy Quý là Thƣơng, Bính là Quỷ.
Ở trên Tý có Canh tử, Bính hỏa vô khí, Quý thủy kiện vƣợng. Nếu thân có nơi nƣơng tựa, là
cát; không có chỗ dựa, lại hành vận Thân suy Quỷ vƣợng, mệnh yểu tiện. Thông hỏa khí
tháng, phải hành Tây vận, mới quý. Thân nhƣợc thì không thể.
+ Ngày Canh Tý giờ Bính Tý là quý. Năm tháng lại có Tý, là hợp xung, trong Ngọ có Đinh là
Quan, Kỷ là Ấn, là Phi Thiên Lộc Mã cách; trụ không có Tài Quan điền thực, chủ quý, là
tăng đạo, không nhiễm bụi trần, vạn pháp đều thành; là thƣờng nhân, thì có danh có lợi,
nhƣng hình thƣơng vợ con. Mệnh trƣớc bần sau phú. Kị tháng Kỷ Tị, là phá hình, mệnh bần.
Tháng Quý Mùi, là cô đơn. Tháng Tị Hợi, hình hung.
+ Ngày Canh Dần giờ Bính Tý, sinh mùa Xuân, mang Tài mang Sát, hành kim thủy vận, mặc
áo tía làm quan. Mùa Hạ, là Sát vƣợng, đại quý. Mùa Thu, là thân vƣợng, nên hành Nam vận,
là quý. Mùa Đông, Thân và Quỷ đều nhƣợc, mệnh bình thƣờng. Năm tháng thuần Ngọ, địa vị
đến hàng công khanh. Nhâm Tý, tùy theo Thực trƣớc Sát sau; sinh sau Nhất Dƣơng, thì Bính
hỏa có khí, là nhân thần rất quý. Kị tháng Quý Dậu, là phá bại, hung mệnh. Tháng Tân Hợi,
gặp cảnh máu đổ. Tháng Giáp Tý, mệnh yểu.
+ Ngày Canh Thìn giờ Bính Tý, tháng thông mộc hỏa khí, hành Tây vận, tốt. Tháng Ất Tị, là
phá bại, hình hại. Tháng Đinh Dậu, vƣợng gặp hình, mệnh hung. Tháng Kỷ Sửu, là phá bại,
mệnh hung.
+ Ngày Canh Ngọ giờ Bính Tý là quý, ngày giờ tƣơng xung, sợ thƣơng hại vợ con, vận hỷ
Tây Nam, tháng thông hỏa mộc khí, phong quan hàng tam tứ phẩm. Sinh mùa Thu, Bính hỏa
vô khí, khó có con cháu. Kị tháng Kỷ Tị, là phá tổ, mệnh hung. Tháng Kỷ Hợi, bị Kiếp cƣớp,
là hung. Tháng Quý Sửu, là hình cô.
239 | Tam mệnh thông hội

+ Ngày Canh Thân giờ Bính Tý, tháng Thân, đất sinh thổ dày là quý. Năm tháng Thìn Mùi,
hành Tây vận kim, mới cát. Tháng Tân Tị, là hung hình. Tháng Tân Hợi, cô yểu.
+ Ngày Canh Tuất giờ Bính Tý, sinh mùa xuân hạ, Tây nam vận; tháng mùa Thu, mộc hỏa
vận, đều quý. Kị tháng Ất Tị, hung, phá. Tháng Ất Hợi, nhiều quan tai, là hung hình. Tháng
Kỷ Sửu, phá bại, hung. Tháng Mậu Tuất, là chết hung.

Ngày Canh tương phùng giờ Bính Tý,


Thương quan hợp cục không thành tốt;
Tổ nghiệp cha mẹ khó tựu thành,
Yến ngũ Loan đậu nơi biệt lập.
Ngày Canh gặp giờ Bính Tý, là Hình Quan bối Lộc mà an thân. Cha mẹ khuyết hãm sớm
gian khổ, anh em không thể hòa thuận. Bỏ học làm kinh doanh mới phát phúc, trƣớc cần cù
sau có chỗ dựa điền trang. Gia cƣ tài bạch về sau mới thành, mệnh trƣớc ám sau minh.
27-04-16, 12:12
lesoi
Đoán ngày Lục Canh giờ Đinh Sửu

Ngày Lục Canh sinh giờ Đinh Sửu,


Đất quý gặp Quan hỏa quá khinh;
Mộc hỏa vận thông liên miện khách,
Không thông độc lập chỉ hư danh.
Ngày Canh giờ Đinh Sửu, là kim trọng hỏa khinh. Canh lấy Đinh làm Quan, lấy Kỷ là Ấn,
trên Sửu có khí Đinh hỏa khinh, Kỷ thổ nơi chính vị. Nếu thông tháng mộc hỏa khí, là Quan
Ấn phùng sinh vƣợng, là quý; không thông, là hƣ danh mà thôi. Thông tháng hỏa thổ sinh
vƣợng, là phú; không thông, vận gặp cũng chủ có thanh danh mà thôi.
+ Ngày Canh Tý giờ Đinh Sửu, sinh xuân hạ, là quý; sinh thu là bình thƣờng; sinh đông thì
cô khắc.
+ Ngày Canh Dần giờ Đinh Sửu, là Khôi nguyên. Tháng Dần Mão Ngọ Mùi Hợi, là thanh tú,
cao mệnh. Hành vận Ngọ, Mùi, quý hiển. Thông hỏa thổ ở năm tháng là quý.
+ Ngày Canh Thìn giờ Đinh Sửu, tháng Sửu, phú mà ngắn thọ. Tị chỉ là đại quý. Thông tháng
hỏa vƣợng thổ sinh, thì quý; không thông, gặp vận cũng phú, có danh dự.
+ Ngày Canh Ngọ giờ Đinh Sửu, thông tháng thổ khí, là quý; nếu không, cũng phú, có thành
danh.
+ Ngày Canh Thân giờ Đinh Sửu, tháng Sửu, vận kim hỏa, quan hàng cực phẩm. Tháng Thìn
Tị Ngọ Mùi Tuất, là Quan Ấn lƣỡng vƣợng, quý mệnh. Thân, Dậu, thân thái vƣợng cần hành
mộc hỏa. Dần, Mão, Tài thái vƣợng, cần hành kim thủy. Hợi Tý, là kim hàn thủy lạnh, cần
hành hỏa thổ vận, mới quý.
+ Ngày Canh Tuất giờ Đinh Sửu, mùa xuân Tài vƣợng; mùa Hạ Quan vƣợng; mùa Thu bình
thƣờng; mùa đông là vô lực.

Canh Đinh tương hợp đủ giờ Sửu,


Tượng tốt minh thiềm diệu bích thiên (*);
Bất ngộ hình khắc chân hi kỳ,
Tài Quan hưng vượng cánh trường niên.
(*) Minh thiềm diệu bích thiên là nói Con cóc vàng sáng rực khỏe ông trời, ý nói tượng mệnh
tốt.
Ngày Canh gặp giờ Đinh Sửu, là Chính Quan, Tài khố tƣơng tùy. Tháng Ngọ Mùi Tuất phúc
là có dƣ, Canh thủ gặp giờ Kim Quỹ. Kim gặp hỏa mà thành khí, tất nhiên ấm tử phong thê (
vợ con đều tốt). Theo đuổi ca tửu không xa rời, định chủ thanh nhàn vui sƣớng.
240 | Tam mệnh thông hội

27-04-16, 12:13
lesoi
Đoán ngày Lục Canh giờ Mậu Dần

Ngày Lục Canh sinh giờ Mậu Dần,


Hỏa sinh kim tuyệt phúc cao nhân;
Nguyệt thông Tòng Cách hoặc Thu giáng,
Lại làm Hoàng gia trụ thạch thần.
Ngày Canh giờ Mậu Dần, hỏa sinh kim tuyệt. Canh lấy Bính là Quỷ, Mậu là đảo thực. Trên
Dần có Mậu lộ rõ, hợp Quý hóa hỏa, Canh kim khí tuyệt. Nếu không thông tháng kim vƣợng,
không có cứu trợ, thì yểu tiện bần hạ. Tháng Tị, Canh trƣờng sinh, Bính kiện vƣợng, thân
Quỷ đều cƣờng; vận hành Tây phƣơng, dũng bạo, vũ quý. Tháng Thân Dậu Sửu Tuất, kim
hỏa hợp cục, hóa Quỷ thành Quan, lại đƣợc vận thân cƣờng, là mệnh quý.
+ Ngày Canh Tý giờ Mậu Dần, năm tháng là Dần Ngọ, đăng khoa hiển đạt. Thuần Thân, thì
làm quan hàng tam, tứ phẩm. Tháng Sửu, kim hỏa vận, phong hàng công khanh.
+ Ngày Canh Dần giờ Mậu Dần, tháng thông hỏa cục hoặc sinh ở mùa Thu, hành thân vƣợng
vận, đều quý. Tháng Canh Tý, tự chết. Năm thấy Tân Dậu, là bần yểu tàn tật. Thân suy thấy
Bính thái vƣợng, luận giống vậy.
+ Ngày Canh Thìn giờ Mậu Dần, sinh mùa Xuân Hạ, can thấu Bính Đinh, vận hành thân
vƣợng, là quý.
+ Ngày Canh Ngọ giờ Mậu Dần, tháng Dần Ngọ Tuất, là kim suy hỏa vƣợng, nên mang tàn
tật. Thuần Dần, trái lại là cực quý. Thu, kim vƣợng, đa số là quý, nhƣng kị giờ gặp Vong
Kiếp, khắc thân thì hung.
+ Ngày Canh Thân giờ Mậu Dần, ngày và giờ hợp xung, sợ tổn thƣơng vợ. Tháng Dần Mão
Thìn, hỏa kim vận. Là Hầu bá. Mùa Xuân, Tây Nam vận, đại quý. Tháng Dần, quý hiển
không bền. Mệnh trƣớc khổ sau cát.
+ Ngày Canh Tuất giờ Mậu Dần, là quý. Tháng Tuất, là Tạp khí Tài Quan Ấn thụ, mệnh quý.
Năm Canh Thìn, tháng Kỷ Mão, phong làm Hầu Bá.

Ngày Canh giờ Dần rất có khoa,


Không hình khắc phá hiển ưu hoa;
Vận đến tự có cao nhân trợ,
Đến thời như gấm có thêm hoa.
Ngày Canh giờ Mậu Dần là thanh tú, bên cạnh Ấn là Đảo Thực khó mà tiếp nhận. Thiếu niên
chƣa gặp tâm chớ lo, mệnh này hoặc là bần hoặc là phú. Đến thời phát tài phát phúc, vận đến
thuận bƣờm xuôi gió. Trong tháng có kim thủy càng hợp nhau, không có phá thì công danh
thành tựu.
27-04-16, 12:14
lesoi
Đoán ngày Lục Canh giờ Kỷ Mão

Ngày Lục Canh sinh giờ Kỷ Mão,


Thai sinh nguyên mệnh phát nhờ vợ;
Trong trụ có nhờ gặp Canh vượng,
Tài Lộc phong doanh phúc thọ tề.
Ngày Canh giờ Kỷ Mão, là Thai sinh nguyên mệnh. Canh kim ở trên Mão là Thụ Thai, thấy
Tị là sinh khí Ấn thụ. Canh lấy Ất là Tài, Mão có Ất vƣợng, là nhờ vợ mà phát phúc. Nếu trụ
có Đinh vƣợng, tháng sinh có Lộc là quý; có chỗ dựa là phú. Thông sinh khí Tài vƣợng, sinh
vận Tài vƣợng, đều quý.
+ Ngày Canh Tý giờ Kỷ Mão, Tý Mão là tƣơng hình, sợ tổn hại vợ con, năm tháng là Tý, quý
241 | Tam mệnh thông hội

mệnh. Sửu Mùi, làm quan tới hàng tam phẩm. Một khi nói rằng phá tổ là mất đất, là đại quý.
+ Ngày Canh Dần giờ Kỷ Mão, tháng Hợi Mão, là Tài tinh cách, sớm vinh mà cũng sớm
thoái. Ngọ Tuất, tam hợp Quan cục, can thấu kim thủy, hành Tây Bắc vận, cát.
+ Ngày Canh Thìn giờ Kỷ Mão, cô đơn. Năm tháng thông mộc khí và có chỗ dựa là quý.
+ Ngày Canh Ngọ giờ Kỷ Mão, là hình phá. Thân Tý Thìn Tị Dậu Sửu, đều hành Đông Nam
vận, là quý. Dần Ngọ Tuất Hợi Mão Mùi, tcần đƣợc Tây Bắc vận là tốt.
+ Ngày Canh Thân giờ Kỷ Mão, tháng Mão, Tài tinh cách, không quý cũng phú. Năm tháng
là Sửu Tị, là Hàn Lâm thanh quý, làm quan đến Á Khanh. Một khi nói ít bần, trung niên sẽ có
họa nhỏ, khắc vợ thiếu con.
+ Ngày Canh Tuất giờ Kỷ Mão, thiếu cô mẹ tiện, trung niên mới quý. Tháng Mão Dậu Thìn
Sửu, làm quan đến hàng công khanh.

Thiên Nguyên Canh Kỷ liền giờ Mão,


Kiến Lộc văn thư phú quý toàn;
Tứ trụ không hình xung khắc phá,
Quý nhân tiếp dẫn đến trời xanh.
Ngày Canh gặp giờ Kỷ Mão, Tài Quan vận khí hanh thông. Nếu không có hình xung định là
phong quan, có phá thì trung niên không thuận. Anh em lục thân khó nƣơng tựa, tự thành lập
gia kế không có bần cùng. Thời đến thì phát đạt hiển công danh, tự có cao nhân dẫn dụng hỗ
trợ.
27-04-16, 12:15
lesoi
Đoán ngày Lục Canh giờ Canh Thìn

Ngày Lục Canh sinh giờ Canh Thìn,


Kim hỏa sinh Thu khí tượng thuần;
Nếu có Khôi Cương bao quý tiện,
Tài Quan hỷ kị lục Quan phân.
Ngày Canh giờ Canh Thìn, là Kim Thủy thanh bạch. Trong Lục Canh, Canh Tuất Canh Thìn
là Khôi Cƣơng, sợ thấy Tài Quan hình xung; không thấy, chủ là ngƣời thô thiển bạo gan mà
quý, thấy thì họa hoạn đến. Canh Tý, Canh Dần, Canh Ngọ, Canh Thân, hỷ thấy Tài Quan.
Sinh tháng mùa Thu, là ngƣời đẹp đẽ, không quý thì phú. Nếu thân không hóa, đƣợc Giáp Ất
Đinh thấu ra, sinh hỏa mộc cháy vậy, cũng lấy Tài Quan luận. Hỷ khí tháng thông vận là cát.
+ Ngày Canh Tý giờ Canh Thìn, sinh tháng Thân, là Tỉnh Lan Xoa cách. Trụ cùng vận không
thấy chữ Bính Đinh Tị Ngọ Dần Tuất là quý. Năm tháng thuần Mão, địa vị đến Công Hầu.
+ Ngày Canh Dần giờ Canh Thìn, gọi là Long Hổ củng môn. Năm tháng thông hỏa thổ là
quý. Thuần Canh Thìn, là vƣơng hầu; nếu không thì cực hung. Nếu năm tháng gặp mộc hỏa,
vận lại hành tiếp tục, là cực phẩm.
+ Ngày Canh Thìn giờ Canh Thìn, là Khôi Cƣơng, năm tháng không thấy Tài Quan cùng chữ
Tuất, là quý; xung phá là phú. Năm tháng Thân Tý là Tỉnh Lan Xoa cách, hành Tây Nam
vận, cát. Thuần Canh Thìn, Canh Thân hoặc Ất Dậu hóa kim thông không có hỏa khí, là kẻ
tiểu nhân hung đồ. Chỉ nói hình.
+ Ngày Canh Ngọ giờ Canh Thìn, là tự hình, là Kim Thần nhập hỏa hƣơng. Tháng Thân,
hành hỏa mộc vận, làm quan lục phẩm.
+ Ngày Canh Thân giờ Canh Thìn, năm tháng có Tý, Thân thì nhập Tỉnh Lan Xoa cách. Trụ,
vận không gặp chữ Bính Đinh Tị Ngọ là quý. Thuần Canh Thân, Canh Thìn, hành Tây Bắc
Đông vận, là vũ chức cực phẩm.
+ Ngày Canh Tuất giờ Canh Thìn, là Khôi Cƣơng, chỗ đất thổ dày, làm quan cao lộc trọng.
Tháng Tý, Tây Nam vận, là quý. Năm tháng Dần Thìn, bình thƣờng.
242 | Tam mệnh thông hội

Lục Canh giờ Thìn tử tế suy,


Trong Thìn Ấn khố chìa khóa mở;
Tứ trụ nếu có chữ xung hình,
An nhiên phúc lộc từ trời đến.
Ngày Canh đúng giờ Canh Thìn, địa chi tam hợp là Tƣớng quân. Thì trong Mão Tuất khố cửa
mở, không có phá thì mặc áo tía làm quan. Tị Ngọ Bính Đinh giảm làm phó, mƣu cầu tài đi
tài đến. Trong mệnh quản con muộn vợ trùng, phú quý thanh nhàn tự tại.
27-04-16, 12:16
lesoi
Đoán ngày Lục Canh sinh giờ Tân Tị

Sinh ngày Lục Canh giờ Tân Tị,


Thiên Quan hợp Nhận tự sinh thân;
Là người cương nghị thê tài tổn,
Vận đến đất kim quý lộc hưởng.
Ngày Canh giờ Tân Tị, là Dƣơng Nhận Thiên Quan. Canh lấy Tân là Nhận, Bính là Sát. Minh
Tân ám Bính, là Hợp Sát vi quyền. Thông thân tháng vƣợng, là quý; không thông, không quý,
giảm thọ.
+ Ngày Canh Tý giờ Tân Tị, sinh xuân thì phú; sinh hạ, thu thì quý; mùa đông thì bần. Năm
tháng sinh có Thìn Tuất Sửu Mùi, Ấn thụ, hành vận Tây Nam, là quý.
+ Ngày Canh Dần giờ Tân Tị, tháng Tị Dậu Sửu, thân vƣợng, quý. Tháng Sát vƣợng thân
nhƣợc, bần. Năm tháng thuần Thân, đại quý lâu dài. Tháng Hợi, Đông Nam vận, chủ có
quyền quý.
+ Ngày Canh Thìn giờ Tân Tị, tháng Tị Dậu Sửu, thân vƣợng, quý. Tháng Sát vƣợng thân
nhƣợc là bần. Tháng năm thuần Thân, đại quý lâu dài. Tháng Hợi, Đông Nam vận, chủ có
quyền quý.
+ Ngày Canh Thìn giờ Tân Tị, cuối cùng thì không thuận lợi. Năm tháng không thấy Tài, là
cao mệnh. Thông mộc khí, hành Tây Nam vận; Mùi Thân, Đông Bắc vận, đều quý. Mệnh
trƣớc không sau có.
+ Ngày Canh Ngọ giờ Tân Tị, năm tháng Tị Ngọ Mão, phong quan tiến sĩ. Tị Thân Dậu Tuất,
hành thổ mộc vận, là Hầu bá.
+ Ngày Canh Thân giờ Tân Tị, hình. Tháng Tị Dậu Sửu, thành đạt. Xuân Hạ, mộc hỏa
vƣợng, Tài Quan đắc địa, cát. Thìn Tuất Sửu Mùi, Ấn thụ, hành Nam vận, quý.
+ Ngày Canh Tuất giờ Tân Tị, năm tháng gặp Tài, là cát. Ngọ Mùi, hành Đông Nam vận, văn
chức thao quyền, sợ không có kết thúc tốt. Dần Thân, là tể tƣớng Hàn lâm; nếu hành hỏa vận,
cũng khó có kết thúc tốt đẹp.

Ngày Canh lại gặp giờ đã sinh,


Là người phúc lộc không rõ ràng;
Trụ như có hình xung phá hại,
Tự lập tự thành sẽ miễn họa.
Ngày Canh giờ lâm Tân Tị, là thu tìm Bại tài ám quỷ. Tài đến tài đi tiểu nhân xâm hại, tổ phụ
gia cơ khó che chỡ. Ngoài hợp trọng hành thì phát phúc, không có anh em bạn bè. Vợ con có
muộn mới hài lòng, mệnh trƣớc khổ sau vinh.
27-04-16, 12:17
lesoi
Đoán ngày Lục Canh giờ Nhâm Ngọ

Ngày Lục Canh sinh giờ Nhâm Ngọ,


243 | Tam mệnh thông hội

Quan Ấn phúc cung tụ Thực thần;


Kim thổ trợ thân nên hiển quý,
Ngày gặp hỏa vượng mệnh khó thông.
Ngày Canh giờ Nhâm Ngọ, Quan Ấn kiện vƣợng. Canh lấy Đinh làm Quan, Kỷ là Ấn, Nhâm
là Thực. Ở trên Ngọ Nhâm Thực vô khí, Đinh Tị lộc vƣợng. Thông kim tháng thổ khí phù
thân là quý. Thông hỏa khí, Quan quý thái trọng, lại hóa thành quỷ; Canh kim nhu nhƣợc,
không thể làm phúc, vận khí phù thân, cũng quý.
+ Ngày Canh Tý giờ Nhâm Ngọ, ngày giờ cùng xung, sợ thƣơng hại vợ con. Thông kim khí,
là quý. Hỏa khí thì đại quý, nhƣng lo nhiều tổn lộc.
+ Ngày Canh Dần giờ Nhâm Ngọ, tháng Thìn Tuất Sửu Mùi Tị Thân Dậu, thì thân vƣợng,
đều quý. Dần Ngọ, hỏa vƣợng, lại gặp vận khí, ngắn thọ; nếu không thì tàn tật.
+ Ngày Canh Thìn giờ Nhâm Ngọ, Thực thần vƣợng, thích ẩm thực, biết sắp xếp quản lý,
phát thì chết.
+ Ngày Canh Ngọ giờ Nhâm Ngọ, tháng Dần Ngọ Tuất, là kim nhu hỏa vƣợng, lo sợ tàn tật.
Tháng Hợi Tý Ngọ, hành mộc hỏa vận, là quý.
+ Ngày Canh Thân giờ Nhâm Ngọ, là Lộc Mã đồng hương, rất tốt. Nhƣ năm tháng Ngọ Mùi,
địa vị đến đài các. Mão Thìn Tị, là quý. Tháng Tuất, hành hỏa thổ vận, lãnh chức hƣ danh.
+ Ngày Canh Tuất giờ Nhâm Ngọ, tháng Mão, là Chính Tài, cát. Tháng Mùi, là Tạp khí Tài
Quan, quý. Giống tháng Thìn Sửu. Nhâm Canh hội hợp lâm Ngọ, không có phá không có
xung thì phúc tự nhiên đến; theo chỗ này thì danh lợi đều có hi vọng, quý nhân tiến cử đến
triều đình.
Ngày Canh giờ gặp Nhâm Ngọ, trong chi Quan Ấn đều tàng. Quý nhân Lộc Mã lại đồng
hƣơng, họa hoạn ẩn tàng phúc dày. Khắc phá hình xung là không cát, trong trụ càng kị Không
Vong. Tƣớng tinh Thiên Ất chủ vinh xƣơng, về già gia nghiệp hƣng vƣợng.
27-04-16, 12:17
lesoi
Đoán ngày Lục Canh giờ Quý Mùi

Ngày Lục Canh sinh giờ Quý Mùi,


Quan tinh Khôi chế quyền tinh thoái;
Trong trụ thấy Kỷ không thấu Đinh,
Lại có ngôi quan được hiển đạt.
Ngày Canh giờ Quý Mùi, là Ấn Tài khố, Canh lấy Ất là Tài, nhập khố trong Mùi, dụng Đinh
là Quan, Kỷ là Ấn, trong Mùi có Kỷ Đinh lại có minh Quý chế. Trụ có Kỷ chế Quý, không
thấu chữ Đinh, làm quan hiển đạt. Nếu không có Kỷ thấu Đinh, là họa đủ điều. Thông hỏa
thổ vận khí, quý.
+ Ngày Canh Tý giờ Quý Mùi, năm tháng không có Đinh thấu lộ, có Kỷ thổ chế phục Quý
thủy là quý.
+ Ngày Canh Dần giờ Quý Mùi là quý. Tháng Thìn Tuất Sửu Mùi, cao mệnh. Mùa Hạ thì
phú. Tuế vận cũng giống vậy, tháng Tị Dậu Thân, thân vƣợng, đại quý.
+ Ngày Canh Thìn giờ Quý Mùi, là ngày Khôi Cƣơng. Trong Thìn có thổ chế Quý. Năm
tháng không có Đinh là quý. Tháng Mão, kim thủy vận, địa vị là thất phẩm.
+ Ngày Canh Ngọ giờ Quý Mùi là quý. Năm tháng Dậu Thân Tị Hợi, tổng lĩnh binh quyền,
làm quan đến hàng nhị phẩm. Trƣớc xấu sau tốt.
+ Ngày Canh Thân giờ Quý Mùi, tháng Dậu là quan võ, giai đoạn đầu cƣớp quyền. Năm
tháng có hai cục Dần Ngọ Tuất, Thân Tý Thìn là tham tƣớng, quý.
+ Ngày Canh Tuất giờ Quý Mùi, tháng Tuất, đông phƣơng vận, quý. Tháng Thìn năm Mão,
đại quý. Sinh mùa Thu rất cát. Mùa Hạ, cần hành đến Tây Bắc vận mới cát.

Ngày Canh giờ Mùi có Tài khố,


244 | Tam mệnh thông hội

Chìa khóa mở ra tự làm tướng;


Vận tới Tài vượng đất sinh Quan,
Phú quý vinh hoa nói không sai.
Ngày Canh gặp giờ Quý Mùi, hỷ gặp Sửu Tuất là Tài vinh. Thƣơng quan bối lộc khố khó mở,
e rằng tổ nghiệp có trở ngại. Khắc cha mẹ, cô yểu, cần lấy vợ có con muộn mới vui vẻ. Vận
hành cát địa miễn có họa, đất Tài Quan vƣợng thì thông thái.

lesoi
Đoán ngày Lục Canh giờ Giáp Thân

Ngày Lục Canh sinh giờ Giáp Thân,


Quy Lộc mang Tài cách thuần nhất;
Tị Bính cùng trụ Dần không thấy,
Công danh phú quý đến tự nhiên.
Ngày Canh giờ Giáp Thân, gọi là Nhật lộc cư thời. Canh kim trên Thân là Kiến Lộc, Giáp là
Thiên Tài. Trong trụ không thông Bính hỏa, Tị Dần xung hình, chủ quý có là bình thƣờng.
Tuế vận giống vậy.
+ Ngày Canh Tý giờ Giáp Thân, giờ phạm Nhật lộc, thấy Tài tinh, trụ không có Tị Dần Bính,
phú quý song toàn. Thìn Tuất Sửu Mùi thổ có thể sinh kim, cát. Dần Ngọ Tuất, bình thƣờng.
Thân Dậu, hành hỏa mộc vận, quý. Dần Hợi, làm quan hàng tam, tứ phẩm, quý. Mão, là
Hình. Tý, gặp nhiều hung.
+ Ngày Canh Dần giờ Giáp Thân, sinh tháng Dần, Hợi, làm quan Tam Phẩm.
+ Ngày Canh Thìn giờ Giáp Thân, là ngày Khôi Cƣơng, lại quy lộc, đều không hỷ Tài Quan,
trụ không có chữ Dần Ngọ Tuất Bính Đinh Tị là quý.
+ Ngày Canh Ngọ giờ Giáp Thân là quý. Thông tháng thân vƣợng, không có Bính Tị Dần
Ngọ Đinh, thƣơng phá, là quý.
+ Ngày Canh Thân giờ Giáp Thân là quý. Không có chữ Mão Ngọ Mùi Tuất Bính Đinh là
quý. Tháng Tý Sửu, kim thủy vận, là văn quý. Còn lại thấy Canh Thân, Giáp Thân, là chuyên
lộc quy lộc. Kim cứng không có hỏa không thể nung luyện, cho nên sinh tháng Tị Ngọ Tuất,
nhiều quý. Xem quy lộc có 7 phép, vật lấy là lo sợ. Tháng Tài rất cát.
+ Ngày Canh Tuất giờ Giáp Thân, tháng Dần Tị Ngọ Tuất, vợ hiền con hiếu, là quý. 《 Thần
Bạch kinh 》nói: Kim thủy đới Ấn, chủ thanh nhàn chi phúc.

Nhật Lộc cư thời hỷ gặp Thân,


Trong trụ sợ Tị Bính và Dần;
Thời đến nếu gặp cao nhân tiến,
Liễu hồng Đào hồng vạn lý xuân.
Ngày Canh giờ thân làm chủ, gọi là Tài Lộc tương phù. Sinh trƣởng thanh nhàn lại giỏi thơ
văn, bẩm tính không nóng không giận. Vận xấu thì làm nông thƣơng công, đến thời chức vị
di dời. Cao nhân thấy thì thích tiểu nhân thì phù, không có phá, có đƣờng làm quan.
27-04-16, 12:19
lesoi
Đoán ngày Lục Canh giờ Ất Dậu

Ngày Lục Canh sinh giờ Ất Dậu,


Trong kim tương hội hóa chân kim;
Trong trụ không hỏa nhiều cương khuyết,
Có hỏa mới thành quý khí vinh.
Ngày Canh giờ Ất Dậu, khí hóa chân kim. Canh lấy Ất là Tài, Tân là Nhận, trên Dậu có Tài
245 | Tam mệnh thông hội

tuyệt Nhận vƣợng. Nếu hóa chân kim, trong trụ không có hỏa, kim thái cƣờng thì khuyết;
hành hỏa vận, tạo hóa ức dƣơng, đƣợc hợp trung đạo. Ngày Canh Thìn tốt nhất là năm tháng
có kèm theo Mã, làm quan hàng tam, tứ phẩm, nhƣng ít con hoặc không có.
+ Ngày Canh Tý giờ Ất Dậu, chủ phú. Tháng thông hỏa khí, quý: không thông, bình thƣờng,
vận thông cũng toại ý. Năm tháng Mão Hợi, bậc tƣớng soái. Một khi nói phá tổ thì hình hung.
+ Ngày Canh Dần giờ Ất Dậu, hình. Dần Ngọ Tuất cát. Thân Tý, hung bạo.
+ Ngày Canh Thìn giờ Ất Dậu, hình. Năm tháng Dần Mão Ngọ, quan hàng nhị phẩm quyền
quý. Tuất Hợi là đại quý. 《 Thần Bạch kinh 》nói: Hóa kim, chủ phúc hậu.
+ Ngày Canh Ngọ giờ Ất Dậu, hình, đƣợc quý. Hai cục Dần Ngọ Tuất Hợi Mão Mùi là quý.
Tị, cũng cát.
+ Ngày Canh Thân giờ Ất Dậu, là chân hình. Dần Ngọ Tuất, đại quý. Tị Dậu Sửu, gặp quý.
Thân Tý Thìn, phú. Hợi Mão Mùi, thì điêu linh, gặp Tài là cát.
+ Ngày Canh Tuất giờ Ất Dậu, hình thì hậu phát. Dần Ngọ Tuất, Quan tinh sáng tỏ là quý.
Hợi Mão Mùi, phú hoặc là làm quan hàng ngũ, lục phẩm. Tị Dậu Sửu là Nhận vƣợng nắm
quyền, chủ phát tích ở chiến trƣờng, vũ thần rất thích hợp, làm văn thần cũng chủ nắm binh
quyền, cuối cùng cũng bị họa do Dƣơng Nhận.

Thiên Nguyên hóa hợp sinh giờ Dậu,


Trong tháng sinh có thấy thuận thổ;
Vinh gặp Tài Quan đều hiển đạt,
Công danh lợi lộc mộc ân vinh.
Ngày Canh gặp giờ Ất Dậu, ở trong là hợp hóa chân kim. Tài Quan bƣớc vận gốc sinh phúc,
là văn tú thông minh rất sâu. Không gặp Hợi Tý khắc thê; mệnh này trƣớc hung sau cát, nhân
phẩm hiển đạt.
27-04-16, 12:20
lesoi
Đoán ngày Lục Canh giờ Bính Tuất

Ngày Lục Canh sinh giờ Bính Tuất,


Kim hỏa trì tranh không rõ việc;
Tháng thông thân vượng Ấn thụ cát,
Không thông không cứu họa khó đương.
Ngày Canh giờ Bính Tuất, là Kim hỏa trì tranh. Canh lấy Bính là Quỷ, Bính hỏa, Mậu thổ
hợp cục, kim vô khí. Nếu thông thân vƣợng Ấn, tháng Mão có cứu trợ là quý; trái lại là bình
thƣờng hoặc yểu tiện. Vận thông cũng cát. Canh thuộc đại tràng, nếu Bính Đinh quá vƣợng,
chủ bệnh trĩ lậu, tạng độc, nùng huyết.
+ Ngày Canh Tý giờ Bính Tuất, mùa xuân, Thiên Quan dụng Tài, cát. Hạ, Sát vƣợng thân
suy, hung bạo. Thu, thân Sát đều vƣợng. Tháng Tị Dậu Sửu, Tây phƣơng vận, mời mặc áo
quan. Tháng Dần Hợi Tý, là kim tuyệt bệnh tử, đa số bần tiện. Mệnh câm điếc, bị thú hại tổn
thƣơng.
+ Ngày Canh Dần giờ Bính Tuất, tháng Thân Tý Thìn, là Thiên Quan có chế, cát. Thu, là
thân Sát đều vƣợng, có lộc quyền. Thuần Ngọ, cô bần không nơi nƣơng tựa, nếu không thì
tàn tật. Sửu Ngọ hành Tây Nam, quan hàng công khanh. Thuần Dần, cũng quý.
+ Ngày Canh Thìn giờ Bính Tuất, ngày giờ tƣơng xung, sợ thƣơng hại vợ con. Tháng thông
kim thủy khí, quý. Mộc hỏa khí trọng, là gian khổ, bần yểu hoặc tàn tật.
+ Ngày Canh Ngọ giờ Bính Tuất, Thân Dậu Hợi Sửu, phú, quan hàng tam phẩm. Tị Ngọ Mùi
Thân, thấu xuất chữ Nhâm, phƣơng vận Cấn Khảm Càn, khanh tƣớng mà thọ.
+ Ngày Canh Thân giờ Bính Tuất, tháng năm Tuất Hợi, Đông Nam vận, quý. Tháng Thân,
đại quý.
+ Ngày Canh Tuất giờ Bính Tuất, Thìn Tuất Sửu Mùi, Ấn thụ sinh trợ, cát. Thân Tý Thìn,
246 | Tam mệnh thông hội

Thiên Quan có chế, quý. Tháng thông kim khí, không thấu chữ Nhâm, hành Bắc vận, là quý.

Giờ Tuất khố Quan tướng cầm đầu,


Sửu Tuất tương hình khố tự mở;
Sơ trung thời vận không hiển đạt,
Về già một lúc có toại tâm.
Ngày Canh giờ gặp Bính Tuất, Thiên Quan Thƣơng khố ẩn tàng. Trong đó quỷ tặc không
tƣơng xứng, thân nhƣợc tiền tài là hƣ hao. Vận vƣợng thân cƣờng là phát phúc, anh em cốt
nhục tình cảm. Vợ trùng con muộn tránh hình thƣơng, về già phong hầu bái tƣớng.
27-04-16, 12:20
lesoi
Đoán ngày Lục Canh giờ Đinh Hợi

Ngày Lục Canh sinh giờ Đinh Hợi,


Quan tinh thất địa tự thân suy;
Không thông khí tháng khó thành phúc,
Nếu thấy Khôi Cương càng họa tai.
Ngày Canh gặp giờ Đinh Hợi, Canh lấy Giáp làm Tài, Nhâm là Thực, Đinh là Quan. Trên
Hợi Đinh hỏa vô khí, Nhâm vƣợng Giáp sinh, Canh kim thất địa, khó nhận Tài Thực. Nếu
tháng không thông thân vƣợng, không thể thành phúc; thông khí tháng, có âm thổ phù thân
thì phát tài. Quan tinh có trợ, hơi quý. Canh Tuất, Canh Thìn hai ngày này là Khôi Cƣơng,
không nên thấy Tài Quan sinh vƣợng; giờ gặp Đinh Hợi, lại quý.
+ Ngày Canh Tý giờ Đinh Hợi, quý. Tháng Thân Tý Thìn, là Thƣơng quan, lao lục. Tháng
Mão, kim hỏa vận, quan hàng ngũ lục phẩm.
+ Ngày Canh Dần giờ Đinh Hợi, bình thƣờng, trƣớc bần, trung niên tú, cuối đời chủ phú
vƣợng. Năm tháng Thìn Tuất, quý hiển. Năm tháng Thân Dậu Hợi Mão Tị Ngọ, can thấu Ất
Kỷ là đại quý.
+ Ngày Canh Thìn giờ Đinh Hợi, thuần Mùi, là hiển đạt. Tị Ngọ, Tây Bắc vận, phong quan
mặc áo tía. Hợi Mão, làm quan có quyền hành. Tháng Thân, kiến lộc, rất cát.
+ Ngày Canh Ngọ giờ Đinh Hợi, quý. Tháng Thìn Tuất Sửu Mùi, thổ có thể sinh kim, là vinh
hiển. Tháng Thân Hợi Dậu, hành mộc hỏa vận, quan hàng cực phẩm.
+ Ngày Canh Thân giờ Đinh Hợi, mùa thu, Nam vận, quý hiển; Bắc vận, bình thƣờng.
+ Ngày Canh Tuất giờ Đinh Hợi, tháng Thìn Tị Ngọ, Quan Sát tuy là hỗn tạp, cũng chủ vũ
quý. Tháng Sửu, Tây vận, thăng quan. Tháng Thìn, Tây Bắc vận, đoan chính.

Giờ Đinh Hợi xếp gặp ngày Canh,


Trùng trùng hỷ sắc chiếu cửa đỏ;
Màu hồng rực rỡ chiếu ngày giờ,
Một trận xuân phong tự hiển uy.
Ngày Canh gặp giờ Đinh Hợi, trong trụ có ám hợp Tam Kỳ. Làm cho con vƣợng lại nhiều vợ,
cha mẹ anh em rất tốt. Không gặp Quý Kỷ Mậu Tân, văn chƣơng bác lãm nhiều tri thức,
không xung không phá quý nhân đề bạt, cuối cùng là hanh thông cát lợi.
27-04-16, 12:21
lesoi
Đoán ngày Lục Tân giờ Mậu Tý

Ngày Lục Tân sinh giờ Mậu Tý,


Ấn thụ Học Đường tọa Thực thần;
Không thấy Bính Đinh cùng Ngọ phá,
247 | Tam mệnh thông hội

Tất là người quý hiển vinh hoa.


Ngày Tân giờ Mậu Tý, gọi là Lục Âm triều dương. Tân kim ở trên Tý là trƣờng sinh Học
Đƣờng. Tân lấy Mậu làm Ấn, Quý là Thực, thời thƣợng có Mậu lộ ám Quý, trong trụ không
thấy chữ Bính Đinh Ngọ xung khai; thông thân tháng vƣợng là đại quý; phạm thì không quý.
Không thông khí tháng, thông vận, cũng quý.
+ Ngày Tân Sửu giờ Mậu Tý, tháng Sửu, là Tạp khí Tài Quan, quý. Thuần Sửu, nho chức.
Thuần Thìn, hành tây vận, làm Đô hiến. Tháng Dậu, vận đông bắc, quý. Kị tháng Canh Dần,
bị đâm mặt, hung. Tháng Quý Mùi, là thụ hình. Tháng Quý Sửu là phá bại cô hung.
+ Ngày Tân Mão giờ Mậu Tý, sinh mùa xuân, tháng Dần là bần, tháng Mão là quý. Mùa Hạ
là thanh quý. Mùa Thu là Dƣơng Nhận, vô ích. Mùa Đông là phú, tháng Sửu càng cát. Tháng
Thìn Tuất Mùi, Tài Quan Ấn thụ, đều cát. 《 Thần Bạch kinh 》 nói: Kim hoá hỏa, chủ quý.
Kị tháng Tân Mão, cha mẹ chết hung. Tháng Tân Tị, đại hung. Tháng Nhâm Thân, chết
không toàn thây.
+ Ngày Tân Tị giờ Mậu Tý, tháng Dần Tị Ngọ, Chính Quan, là quý hiển. Hợi Tý, Thƣơng
quan, vợ nhiều ít con. Mão Tuất, địa vị ngũ phẩm. 《 Thần Bạch kinh 》 nói: Hóa tƣợng kim,
là quý. Kị tháng Bính Dần, hình, bình thƣờng. Tháng Ất Tị, trƣớc bần. Tháng Đinh Dậu, yểu.
+ Ngày Tân Mùi giờ Mậu Tý, quý. Tháng Dần Tị Ngọ năm Dậu, vận mộc hỏa, quý. Hợi Tý,
là Hàn Uyển. Thìn Tuất Sửu Mùi, là Tạp khí Tài Quan Ấn, đều cát. Kị tháng Canh Thân, chết
không toàn thây. Tháng Nhâm Tý, cô hung. Tháng Quý Sửu, chết hình hung.
+ Ngày Tân Dậu giờ Mậu Tý, sinh tháng Tý Dậu, không có Bính Đinh hỏa, không hành nam
vận, địa vị là tam, tứ phẩm. Tổn thƣơng vợ con; nắm trọng quyền võ chức. 《 Thần Bạch
kinh 》 nói: hóa kim hỏa, chủ quý, phá tổ mới phát. Kị tháng Nhâm Dần, chết hung. Tháng
Tân Tị, đại bại, tổ gặp hung. Tháng Canh Tuất, chết hung.
Ngày Lục Tân giờ Mậu Tý, gọi là khí thiên đình thanh hiển. Đƣợc Tân Dậu, Tân Hợi, là tối
cao. Kị tháng Bính Dần, chết không toàn thây. Tháng Bính Thân, xa quê chết hung. Tháng
Đinh Dậu, chết hung mất xác.
+ Ngày Tân Hợi giờ Mậu Tý, không quý thì phú. Tháng Hợi, không có Quan, là Thƣơng
quan thƣơng tận, phát phúc, ít con. Mùa xuân hạ, Hợi Tý Sửu, vận cục mộc hỏa, mặc áo bào
phong hiến.

Thiên nguyên Lục Tân sinh giờ Tý,


Mùa xuân hoa nở sáng rực rỡ.
Bính Tị Ngọ Đinh như phá hoại,
Công danh khó vọng già mới thành.
Ngày Lục Tân gặp giờ Mậu Tý, là Lục Âm hội hợp hƣớng dƣơng. Kim thần, Ấn thụ hiển uy
quang, tƣơng trợ một thân là vinh vƣợng. Gặp Tị Ngọ là giảm phúc, Bính rời chim nhạn ở tôn
đƣờng. Vợ con cần trợ vƣợng gia trang, không phá hàn môn thì làm tƣớng.
27-04-16, 12:22
lesoi
Đoán ngày Lục Tân giờ Kỷ Sửu

Ngày Lục Tân sinh giờ Kỷ Sửu,


Kim thổ tranh giành thế bất an;
Năm tháng Tài Quan đến cứu trợ,
Miễn giao bần khốn thụ cơ hàn.
Ngày Lục Tân gặp giờ Kỷ Sửu, là kim thổ tƣơng tranh. Tân lấy Kỷ gọi là Đảo Thực, trên Sửu
có Kỷ lộ ám Tân. Năm tháng không có Tài Quan cứu trợ, mệnh bần khốn; đƣợc vận Tài
Quan, cũng cát.
+ Ngày Tân Sửu giờ Kỷ Sửu, là cô trọc sinh trì trệ. Tháng Thân Dậu, kim vƣợng, vận hành
248 | Tam mệnh thông hội

hỏa hƣơng, khai thông, hình thƣơng thê tử, là tăng đạo, thì quý. Thuần Sửu, vận tây nam, là
đại quý.
+ Ngày Tân Mão giờ Kỷ Sửu, các tháng Dần Mão Hợi Mùi, là Tài tinh cách, vận nam
phƣơng, quý. Thìn Tuất Sửu Mùi, Ấn thụ, vận nam phƣơng, cát.
+ Ngay Tân Tị giờ Kỷ Sửu, sinh tháng Sửu Tị Thân Dậu, kim nhiều khắc mộc, tổn thƣơng
thê tử; làm tăng đạo, quý. Tháng Dần Mão Thìn, vận phƣơng nam, quý.
+ Ngày Tân Mùi giờ Kỷ Sửu, tháng Dần Mão Mùi, Tài tinh cách. Tị Ngọ, quan hiển.
+ Ngày Tân Dậu giờ Kỷ Sửu, phá tổ. Tháng Tị Dậu Sửu, kim nhiều khắc mộc, anh tuấn có
tài, vợ con khó thành. Tháng Dần Ngọ, là cận quý.
+ Ngày Tân Hợi giờ Kỷ Sửu, sinh tháng Dần Tị Ngọ, Quan tinh sáng rõ, thành tƣợng lập kế.
Mão Mùi, Tài cục, phú quý. Mùi Tuất, xung, cát. Tháng Thân, Tý, Thìn, kim thủy tú khí, tốt.
Dậu là Kiến Lộc, hành mộc hỏa vận, cát. Thuần Hợi, kim thủy thành tú, quý.

Giờ Kỷ Sửu gặp ngày Tân hiểm,


Tài Quan mai một không thành kỳ;
Lục thân cốt nhục nhiều hình hại,
Năm tháng xung khai phú quý suy.
Ngày Tân giờ lâm Kỷ Sửu, nói chung là do lƣu lại Đảo Thực. Trong đó giam giữ kim chặt
chẽ ở trong kho, Ngọ Mùi Tuất khai mở thì thành tựu. Giáp Bính Mão Dần là phát phúc, Quý
Nhâm Hợi Tý là phiêu lƣu. Thiếu niên mƣu vọng việc khó thành, gặp Mùi xung phá thì tự có
tiền trình.
27-04-16, 12:23
lesoi
Đoán ngày Lục Tân gặp giờ Canh Dần

Ngày Lục Tân gặp giờ Canh Dần,


Tài vượng sinh Quan gặp Quý thần;
Trong cục kim mộc thông khí tháng,
Tất là vinh quý phú hào nhân.
Ngày Lục Tân giờ Canh Dần, là Tài Quan Quý nhân. Tân lấy Dần gọi là Thiên Ất quý, Bính
hỏa là Quan, Giáp mộc là Tài, Bính, Giáp ở trên Dần vƣợng, nếu thông khí tháng hoặc thông
vận là kim mộc, chủ phú quý hiển đạt.
+ Ngày Tân Sửu giờ Canh Dần, mùa xuân quý; mùa hạ Quan vƣợng; mùa thu hiển đạt; mùa
đông cát. Tháng Sửu, nam vận, làm chức Phong hiến hoặc là vũ quý. Một khi phát thì bị
phong tật. Năm tháng Dậu, Thân kim, không có hỏa khí, là bần yểu.
+ Ngày Tân Mão giờ Canh Dần, tháng Ngọ Mùi Hợi Tý, đều quý. Tháng Dần Mão Thân
Dậu, địa vị hàng lục, thất phẩm.
+ Ngày Tân Tị giờ Canh Dần, mùa xuân là quý; mùa hạ là Quan lộc, hành vận tây bắc, đại
quý; mùa thu thân vƣợng; mùa đông hung bạo. Nói một khi về say gặp hình có tài.
+ Ngày Tân Mùi giờ Canh Dần, tháng Tị Mùi Sửu, danh tên bảng vàng, vợ hiền con hiếu, về
già phong tật. Dần Mão Ngọ Tuất, đều cát.
+ Ngày Tân Dậu giờ Canh Dần, quý. Mùa xuân tụ tài; mùa hạ thành Quan lộc; mùa thu thân
vƣợng; các năm tháng Hợi Tý Sửu Tuất Ngọ Dậu, đều quý.
+ Ngày Tân Hợi giờ Canh Dần, quý, chủ có ám tật. Can thấu Bính thì phát. Năm tháng Ngọ
Dậu Dần Hợi, vận nam phƣơng là quý.

Ngày Lục Tân gặp giờ Canh Dần,


Tài vượng sinh Quan hỗ hoán suy;
Vận kém lợi danh ứng trì trệ,
Nếu hành Tài lộc lại không ngu.
249 | Tam mệnh thông hội

Ngày Tân gặp giờ Canh Dần, anh em cốt nhục không thân. Song thân tổ nghiệp khó mà dựa,
uyên ƣơng trung niên rời xa. Hợi Quý Khảm Nhâm là giảm phúc, Bính Đinh Tị Ngọ lừng
danh. Sinh mùa xuân mùa đông trọng Quý nhân, mệnh từ trung niên đến già là vinh hoa.
27-04-16, 12:23
lesoi
Đoán ngày Lục Tân giờ Tân Mão

Ngày Lục Tân sinh giờ Tân mão,


Làm khó cho vợ gặp Tỉ kiên;
Sinh Thu sinh Đông bần hạ cách,
Bính lâm Dần Ngọ lại nắm quyền.
Ngày Tân giờ Tân Mão, là Tỉ kiên phân tài. Tân lấy Ất là Tài, trên Mão Ất vƣợng, gặp Tỉ
kiên phân đoạt, tổn thƣơng thê tử. Sinh mùa thu đông, Tài Quan vô khí, bình thƣờng. Tháng
Dần Tị Ngọ, can thấu Bính hỏa, Bính hợp Tân sinh, Quan quý hiển đạt. Tân Mão, là Huyền
Châm sát, trụ nhiều là không cát.
+ Ngày Tân Sửu giờ Tân Mão, sinh mùa xuân, hạ nơi thổ dầy, là phú quý. Mùa thu, khắc thê
hình tử. Mùa đông, gian khổ. Tháng Dần Tị Ngọ, cận quý. Năm tháng Giáp Tuất, vận mộc
hỏa, thăng quan phong hiến.
+ Ngày Tân Mão giờ Tân Mão, tháng Dần Ngọ Tuất, là Tài Quan song mỹ, quý hiển. Năm
tháng Mão Dậu Thân Thìn, là cận quý; thấy Quan Ấn Tài tinh, là vinh diệu. Có thể nói là
trƣớc khổ, trung niên đại phát.
+ Ngày Tân Tị giờ Tân Mão, mùa xuân Tài vƣợng; mùa hạ Quan vƣợng, mùa thu thân
cƣờng; mùa đông, suy nhƣợc. Năm tháng Tị Dậu, hành vận mộc hỏa, là quý. Tháng Thân,
vận thủy hỏa, kim tử. Tháng Tị, vận tây bắc, làm quan phong hiến.
+ Ngày Tân Mùi giờ Tân Mão, thuần Mùi, năm tháng là Đinh, tuy là đại quyền quý, nhƣng
kết cục không thiện. Tháng Dần Tị Hợi, thuần cát.
+ Ngày Tân Dậu giờ Tân Mão, xuất thân cô khổ, trung niên lấy phúc, về già hƣởng phúc ấm
vợ con, quý. Tháng Tị, Quan Ấn phùng Thiên Đức, địa vị nhất phẩm. Tháng Sửu, vận mộc
hỏa, trung niên quý. Năm tháng Thân Dậu Hợi, vận đông nam, làm quan đến chức phong
hiến.
+ Ngày Tân Hợi giờ Tân Mão, sinh mùa xuân hạ, là Tài Quan song mỹ, quý hiển. Sinh mùa
thu đông, là Bối lộc Trục mã, lao đao phản phục. Thuần Hợi, kim thủy thanh tú, phần đa là
phát cao khoa. Thìn Tuất, cát. Sửu Mùi, càng cát.

Lục Tân gặp Mão Lộc phân minh,


Tỉ Kiếp phùng Tài chuyện không thành;
Người sinh xuân hạ Tài Lộc vượng,
Thu đông hình hại mệnh trung bình.
Ngày Tân gặp giờ Tân Mão, 2 Tân phân đoạt thê tài. Nhạn hành uyên ƣơng ít hòa hợp, độc
lập tự thành không trở ngại. Năm tháng Tài tinh sinh vƣợng, hiển nhiên lộc đến từ trời. Vận
hành Tỉ Kiếp việc trầm kha, trong vận mộc hỏa là thông thái.
27-04-16, 12:24
lesoi
Đoán ngày Lục Tân giờ Nhâm Thìn

Ngày Lục Tân sinh giờ Nhâm Thìn,


Thương quan thương tận bội tinh thần;
Tứ trụ hỏa hư phòng khắc hại,
Kỹ nghệ cửu lưu thành y bốc.
250 | Tam mệnh thông hội

Ngày Tân giờ Nhâm Thìn, ám kim trầm đáy thủy. Tân dụng Bính là Quan, Nhâm là Thƣơng
quan, Thìn thủy khố, Bính Tân vô khí, Nhâm thủy hợp cục. Nếu năm tháng thấu ra Bính, là
Thƣơng quan kiến Quan, hình họa bách đoan, là ngƣời khí cao khoa đại, tú mà không có
thực. Không thông khí tháng, không có chỗ dựa, là ngƣời thành bại phản phục, là ngƣời làm
nghề y bốc nghệ thuật. Trụ có mộc hỏa thân vƣợng, hành vận đông nam, quý.
+ Ngày Tân Sửu giờ Nhâm Thìn, mùa xuân, Tài vƣợng, thê hiền tử hiếu. Mùa hạ, Thƣơng
quan kiến Quan, nhƣng cũng nhiều phú. Mùa thu cát. Mùa đông cô khắc, nhiều quý.
+ Ngày Tân Tị giờ Nhâm Thìn, mùa xuân hiển đạt; mùa hạ bình thƣờng; có danh lợi, chủ bạo
ngƣợc. Tháng Dậu, hành vận phía đông là quý. Tháng Tuất Mùi, đủ tứ khố, rất quý. Thuần
Mùi, tạp khí Tài Ấn. Sửu Mùi xung khai, chủ có quyền quý.
+ Ngày Tân Mão giờ Nhâm Thìn, mùa xuân, là Thƣơng quan sinh Tài. Mùa hạ, hành tàng
phản phục, hoặc là hung bạo. Ngọ Mùi cũng đƣợc. Mùa thu, Thân Dậu thân vƣợng, đƣợc hỏa
thì cát. Mùa đông, Hợi Tý là Thƣơng quan thƣơng tận, có mộc thổ là tuyệt diệu; quý trọng
khinh cao, Mùi miễn hình khắc. Thìn Tuất Sửu Mùi là vũ quý.
+ Ngày Tân Mùi giờ Nhâm Thìn, thân cô. Mùa xuân, Tài tinh cách, cát. Mùa hạ, lao khổ.
Mùa thu, quý. Mùa đông, Thƣơng quan thƣơng tận, là tốt.
+ Ngày Tân Dậu giờ Nhâm Thìn, mùa xuân, phú quý song toàn. Mùa hạ tốt. Mua thu thân
vƣợng, quý. Mùa đông, tay trắng; tháng Tý, Tân ở sinh địa, là Học đƣờng, chủ văn học. Năm
tháng có hỏa cứu, là quý. Tháng Giáp Tuất, quan hàng tam phẩm.
+ Ngày Tân Hợi giờ Nhâm Thìn, quý. Mùa xuân, Tài vƣợng phù thân. Mùa hạ cát. Mùa thu
thân vƣợng, tốt. Mùa đông, là Thƣơng quan thƣơng tận, tự lập tự thành. Năm tháng là Mão
Mùi, quý.

Ngày Lục Tân can giờ Nhâm Thìn,


Khá đóng Tài Quan chuyện không được;
Không thông chìa khóa kiêm áp chế,
Từ xưa khó phát người thiếu niên.
Ngày Tân gặp giờ Nhâm Thìn, là Thƣơng quan thƣơng tận rất tốt. Tổ nghiệp cha mẹ sớm khó
thành, anh em vô tình. Mùa xuân hạ là Tài Quan sinh vƣợng, vận phƣơng đông nam là thi
triển. Tự mƣu tự lập lấy gia đìnhƣ, không đƣợc giúp đỡ của thân nhân.
27-04-16, 12:25
lesoi
Đoán ngày Lục Tân giờ Quý Tị

Ngày Lục Tân sinh giờ Quý Tị,


Quý khí không tổn Quan Ấn cường;
Có thông khí tháng kiêm có dựa,
Tuổi trẻ vinh quý tính danh hương.
Ngày Tân giờ Quý Tị, là Quan Ấn phù thân. Tân lấy Bính là Quan, Mậu là Ấn, Quý là Thực
thần. Trên Tị có Bính Mậu kiện vƣợng, Quý hợp hóa hỏa, văn chƣơng rực rỡ. Nếu có chỗ
dựa, thông khí tháng là hiển đạt; nếu không thông, vận thông, cũng quý.
+ Ngày Tân Sửu giờ Quý Tị, hung, khác cha mẹ ( làm con nuôi) là phát phúc. Xuân hạ, cát.
Thu đông, hung bạo. Một lúc có thể nói là hóa quý, kiêng tửu.
+ Ngày Tân Mão giờ Quý Tị, xuân hạ, thân nhƣợc ngắn thọ. Thu, thân cƣờng, lao lực gian
khổ. Nhƣ khí tháng là hỏa mộc, làm quan hàng tam, tứ phẩm.
+ Ngày Tân Tị giờ Quý Tị, hóa quý. Năm Tý Ngọ, tháng Dần Ngọ Tuấtt, quý. Hợi Mão Mùi,
thanh quý. Thân Tý Thìn, làm ngƣời vô nghĩa. Tân Tị Quý Tị, là Lƣỡng Can bất tạp. Dần
Thìn, thấu Bính, đều là cực quý. Sửu Dậu tam hợp, cũng cát.
+ Ngày Tân Mùi giờ Quý Tị, tháng Dần Ngọ Tuất, là cao mệnh. Tị Dậu Sửu, thân vƣợng là
bình ổn. Thân Tý Thìn, là thƣờng dân. Hợi Mão Mùi, là thanh quý.
251 | Tam mệnh thông hội

+ Ngày Tân Dậu giờ Quý Tị, quý hiển, nặng tửu sắc. Dần Mão, Tài vƣợng, cát. Sửu, là đủ
tam hợp, phú quý.
+ Ngày Tân Hợi giờ Quý Tị, ngày giờ cùng xung, lo tổn thƣơng thê tử. Xuân là Tài vƣợng.
Hạ, cát. Thu, bình. Đông, hung bạo. Năm tháng Dậu Ngọ, vận mộc hỏa, làm quan Phong
hiến, Đô đƣờng.

Giờ Quý Tị gặp can ngày Tân,


Trong trụ độc hỷ hiển Tài Quan;
Vận hành Lộc Mã không hình địa,
Kim bảng đề danh bước xe chuông.
Ngày Tân gặp giờ Quý Tị, mùa xuân tài vƣợng. Năm Bính Đinh Ngọ là thanh kỳ, phá khắc
hình xung là bất lợi. Nhâm Quý Canh Thân không phá, là công danh phú quý. Vợ hiền con
hiếu, hình phá giờ Tị là bất lợi.
27-04-16, 12:25
lesoi
Đoán ngày Lục Tân giờ Giáp Ngọ

Ngày Lục Tân gặp giờ Giáp Ngọ,


Ám Quỷ Kiêu thần chân khả úy;
Nếu không chỗ dựa lại lao khổ,
Chớ nói Lục Tân gặp Mã Quý.
Ngày Tân giờ Giáp Ngọ, Quỷ vƣợng thân suy. Tân dụng Đinh là Quỷ, Kỷ là Đảo Thực, Giáp
là Tài. Giáp Ngọ là Tử mộc thần vô khí, Đinh Kỷ kiện vƣợng, dù có thấy Ngọ là Thiên ất quý
nhân, cả đời là phản phục; dẫu thông vƣợng khí, quý cũng không lâu. Nếu tháng sinh hỏa thổ,
Tây phƣơng vận, là quý.
+ Ngày Tân Sửu gặp giờ Giáp Ngọ, năm tháng là Mùi Thân, tứ trụ có lợi hại, tuy phú nhƣng
thọ yểu. Thông kim, tuy quý mà không bền.
+ Ngày Tân Mão giờ Giáp Ngọ, tháng Mão, vũ quý. Dần Tuất, phá tổ; nếu không, là tàn yểu.
Tị Ngọ làm quan hàng thất, bát phẩm. Vận cũng nhƣ vậy.
+ Ngày Tân Tị giờ Giáp Ngọ, bình. Dần Ngọ Tuất, Quan vƣợng, cát. Thân Tý Thìn, bình
thƣờng. Năm Mão Tuất, là Quan Ấn song toàn, công hậu.
+ Ngày Tân Mùi giờ Giáp Ngọ, Thân Tý Thìn, là Thiên Quan có chế, cát. Sửu Tuất, ngay
thẳng. Tháng Mùi là quý.
+ Ngày Tân Dậu giờ Giáp Ngọ, mùa xuân Tài vƣợng; mùa hạ Quan quý, đều cát. Mùa thu,
thân cƣờng, tuy phú mà không lâu bền, mùa đông bình thƣờng.
+ Ngày Tân Hợi giờ Giáp Ngọ, năm tháng là Hợi Tý, kim thủy mới thanh tú, đảm nhận khoa
văn học. Thìn Tuất Sửu Mùi, là Tạp khí Tài Quan, quý hiển.

Ngày Lục Tân giờ Giáp Ngọ,


Tài thần vô khí không tương xứng;
Sinh xuân mộc vượng Tài Quan vận,
Nhất lộ thao thao dòng họ thơm.
Ngày Tân giờ lâm Giáp Ngọ, Thê Tài vô khí, thân suy. Can cƣờng hỏa vƣợng là Thai Quỷ,
hỏa trọng kim nhu luyện hƣ. Tối kị dụng thần thƣơng tổn, kim chìm dƣới đáy biển mà sinh tai
hoạ. Không hình không phá là toại tâm xứng ý, quý trọng quang minh quảng đại.
27-04-16, 12:26
lesoi
Đoán ngày Lục Tân giờ Ất Mùi:
252 | Tam mệnh thông hội

Ngày Lục Tân sinh giờ Ất Mùi,


Hỏa mộc tương thành kim không ngại;
Nguyệt thông kim khí cùng xuân vinh,
Tài vượng sinh quan thân tự quý.
Ngày Tân giờ Ất Mùi, là Thiên Tài nhập khố. Tân lấy Ất là Tài, đến Mùi là nhập khố; Kỷ là
Đảo Thực, Đinh là Chính Quỷ; trên Mùi có tàng Đinh, Kỷ bị minh Ất chế phục, không thể
làm hại. Nếu thông tháng Tị Dậu Sửu, là quý, thông hỏa, hành tây vận thông kim; hành nam
vận, đều quý.
+ Ngày Tân Sửu giờ Ất Mùi. Hình. Tháng Hợi Mão Mùi Dần, Tài vƣợng sinh Quan không
quý thì phú. Thìn Tuất Sửu Mùi, đều cát.
+ Ngày Tân Mão giờ Ất Mùi, tháng Hợi Mão Mùi, Tài thịnh sinh Quan, cát.
+ Ngày Tân Tị giờ Ất Mùi, tháng thông kim hỏa, quý. Vận thông, cùng quý.
+ Ngày Tân Mùi giờ Ất Mùi, năm tháng Dần Mão Mùi, Tài vƣợng sinh Quan, danh cao lộc
trọng. Thông hỏa khí, hành tây vận; thông kim khí, hành nam, đều cát.
+ Ngày Tân Dậu giờ Ất Mùi, tháng thông hỏa khí, hành đông vận, quý. Thìn Tuất Sửu Mùi,
tối cát. Hợi Mão, quý hiển không lâu. Thu, thân thái vƣợng, Tài Quan vô khí, là hung yểu.
+ Ngày Tân Hợi giờ Ất Mùi, tháng Hợi Mão Mùi, là Tài tinh cách, cát. Thu đông, là cô độc.
Thìn, Sửu, chỉ là hàng tam phẩm.

Giờ Mùi ngày Tân khai cửa khố,


Trác lập gia thành tự phát tài;
Trong vận kim mộc thân vượng cát,
Vài lần hiểm gặp phúc đến trùng.
Ngày Tân giờ gặp Ất Mùi, trong khố thấu ra Thiên Tài. Vận hành mộc kim kị thân suy, vận
Sửu Tuất là thông thái. Tuổi nhỏ trải qua phát phúc, có hợp chống địch là vô tai. Vinh hoa
phú quý bày trong mệnh, không phá thì làm quan thanh thái.
27-04-16, 12:27
lesoi
Đoán ngày Lục Tân giờ Bính Thân

Ngày Tân sinh giờ gặp Bính Thân,


Tháng thông kim hỏa chuyển tinh thần;
Hóa thành kim thủy phùng kim địa,
Tụ phúc có thể người phú quý.
Ngày Tân giờ Bính Thân, Bính Tân hợp hóa thủy, thân đến trƣờng sinh. Nếu tháng thông Tị
Dậu Sửu khí kim, tinh thần thanh tú, văn chƣơng tụ phúc. Thông hỏa khí vƣợng, có chỗ dựa
là quý. Tân Dậu, Tân Mùi là tối diệu, không thành hóa tƣợng. Đến Thân Quan tinh vô khí, y
lộc bình thƣờng.
+ Ngày Tân Sửu giờ Bính Thân, hóa quý. Thiếu niên trục trặc, trung niên quý hiển. Tháng
Hợi, lấy hóa khí luận, là cát. Tháng Dần Ngọ Tuất Tị Mùi, Quan tinh có khí; mùa xuân, Tài
vƣợng, đều cát.
+ Ngày Tân Mão giờ Bính Thân, hóa quý. Tháng Dần Tị Ngọ Mùi Tuất Dậu Hợi, Quan tinh
sáng tỏ, sơn minh thủy tú, đăng khoa vinh quý. Thông khí thổ, cũng quý. Nói thiếu niên trắc
trở, trung niên đến già tốt.
+ Ngày Tân Tị giờ Bính Thân, thấy máu thì phúc; lại nói mất ở trong quý. Năm tháng Thân
Mùi, thê trọng tử hiếu, võ chức hàng tam phẩm.
+ Ngày Tân Mùi giờ Bính Thân, vì đƣợc quý nhân đến cửa mà đƣợc phú. Mùa xuân, thanh
quý. Mùa hạ, bình thƣờng. Mùa thu, phú. Mùa đông, đại quý ngắn thọ. 《 Thần Bạch kinh 》
nói: kim thủy lại hợp, lại hóa thủy, chủ quý.
253 | Tam mệnh thông hội

+ Ngày Tân Dậu giờ Bính Thân, tháng Dần Tị Ngọ Tuất, Quan vƣợng, vinh quý. 《Thần
Bạch kinh 》 nói: Hoá thủy là quý.
+ Ngày Tân Hợi giờ Bính Thân, phát phúc, phòng cô khắc mang tật. Thông kim khí, chủ
ngƣời thanh tú phúc hậu. Thông thủy khí, đại quý.

Ngày Tân gặp giờ Bính Thân,


Thiên Nguyên hóa hợp đắc kỳ chân;
Sinh đông nếu mà không hình phá.
Quý hiển đương đăng phải lộ tân.
Ngày Tân gặp giờ Bính Thân, trƣờng sinh lộc mã hiếm thấy. Thiên Nguyên hóa hợp hiển
quang huy, chức trọng danh cao uy thế. Quân tử văn chƣơng thƣợng lập, thƣờng nhân gia
đình vinh vƣợng. Giờ sinh đúng định lại không suy, vận hỷ tây nam đông địa.
27-04-16, 12:27
lesoi
Đoán ngày Lục Tân giờ Đinh Dậu

Ngày Lục Tân sinh giờ Đinh Dậu,


Quỷ phá lộc vô họa bách đoan;
Ỷ thác thân cường mới đoán cát,
Nguyệt thông chế phục là Thiên Quan.
Ngày Tân giờ Đinh Dậu, hỏa kim tranh giành. Tân kim trên Dậu là kiện vƣợng, thấy Đinh là
đúng Quỷ; trên Dậu Đinh trƣờng sinh, phá lộc, không thành phúc, thành bại lặp đi lặp lại.
Thân cƣờng thông khí tháng có chế phục, thì lấy Thiên Quan luận; thêm hành vận thân
vƣợng, quý. Thông kim khí không có Đinh, thân cƣờng, hành nam vận, đại quý.
+ Ngày Tân Sửu giờ Đinh Dậu, rất bình ổn. Tháng Dậu, vận thổ mộc, mới tốt. Tháng năm là
Tuất Hợi Tý Tị Mùi, đại quý.
+ Ngày Tân Mão giờ Đinh Dậu, ngày giờ cùng xung. Tháng thông kim khí, không thấu Bính
Đinh, vận nam phƣơng, quý.
+ Ngày Tân Tị giờ Đinh Dậu, bình thƣờng. Tháng Hợi, phản phục bất định. Tháng Ngọ,
Thiên Quan kèm theo tật, hiển đạt ngắn thọ. Tháng Tý, quý. Nói có Tài có hỷ, thọ không qua
31 tuổi.
+ Ngày Tân Mùi giờ Đinh Dậu, không quý thì phú. Tháng thông kim khí, không có chữ Bính
Đinh, hành nam vận, quý.
+ Ngày Tân Dậu giờ Đinh Dậu, năm tháng thông kim khí, cát. Tháng Sửu, vận tây phƣơng,
địa vị là Phong hiến. Dần Ngọ Tuất, quý.
+ Ngày Tân Hợi giờ Đinh Dậu, quý. Năm tháng Sửu Dần Mão Dậu; cận quý, vƣơng hầu.

Giờ Dậu gặp ngày Tân đồng luận,


Xuất hộ tương nghênh hỷ sự tân;
Không gặp hình xung không khắc phá,
Sao lo phú quý không đến thân.
Ngày Tân giờ lâm Đinh Dậu, Thiên Quan hợp cục hợp nhau. Bính, Đinh trọng kiến chủ lƣu
lại lâu, con cháu nữ nhiều nam thiếu. Tổ nghiệp hoa tàn chiều thu, trăng sáng du khách nói
thu. Thân cƣờng Quan vƣợng phúc ƣu du, vận đến Tài Quan đại cát.
27-04-16, 12:28
lesoi
Đoán ngày Lục Tân giờ Mậu Tuất

Ngày Lục Tân sinh giờ Mậu Tuất,


254 | Tam mệnh thông hội

Ấn thụ sinh thân tọa lộc đường;


Có nhờ phúc người khó dựa tổ,
Không thông khí tháng là bình thường.
Ngày Tân gặp giờ Mậu Tuất, cùng có Lộc cùng Ấn đƣờng ở chung. Tân lấy Tuất là Lộc
Đƣờng, đến Tuất có Mậu lộ là Ấn thụ; lấy Bính, Đinh là Quan, trên Tuất có Mậu thổ chính
vị, Bính, Đinh hỏa cục. Nếu có chỗ dựa thông khí thánh, khó có tổ nghiệp. Không thông, là
bình thƣờng.
+ Ngày Tân Sửu giờ Mậu Tuất, hình hại. Thìn Tuất Sửu Mùi, Ấn thụ, hành nam vận, đại quý.
Dần Tị, Chính Quan, quý. Tý Ngọ Mão Dậu, vũ chức địa vị là Phong hiến.
+ Ngày Tân Mão giờ Mậu Tuất, hình hại, là kẻ tham ăn. Tháng Hợi, Mão, vận mộc hỏa, quý
hàng ngũ, lục phẩm.
+ Ngày Tân Tị giờ Mậu Tuất, tháng Thìn Tuất Sửu Mùi, Ấn thụ, văn quý ít bệnh; sinh ở ranh
giới thổ dầy, là quý. Tháng Tuất, hành vận mộc hỏa, địa vị phong hiến.
+ Ngày Tân Mùi giờ Mậu Tuất, hung ác hung bạo, tổn thƣơng vợ con. Tháng Dần Tị Ngọ
Tuất Sửu, quý. Thân Tý Thìn Hợi, kim thủy mới thanh tú, càng quý. Nói là khắc cha mẹ, thân
vƣợng, trung niên thì phú.
+ Ngày Tân Dậu giờ Mậu Tuất, hung hình. Tháng năm là Tị Dậu Sửu Thìn Tuất Mùi, là
mệnh Khôi nguyên, Khanh, Doãn.
+ Ngày Tân Hợi giờ Mậu Tuất, hung ác, cơ mƣu giảo hoạt, kế xảo. Nói hung sau phát.

Ngày Tân giờ Tuất Tài đóng khố,


Như mở cần đợi đến Sửu Thìn;
Trong tháng Giáp Bính thiên can thấu,
Phú quý vinh hoa không nói sai.
Ngày Tân giờ lâm Mậu Tuất, ngũ hành Tài Lộc vinh xƣơng. Trong trụ có 2 vị Thìn, Tuất đối
nhau, danh viết là Chìa khoá mở kho tàng. Hỏa thủy quang huy phát đạt, Không Vong tỏa bế
là bình thƣờng. Vận hành Tài địa cùng đất Quan, không phá thiên nhiên phúc tƣớng.
27-04-16, 12:29
lesoi
Đoán ngày Lục Tân giờ Kỷ Hợi

Ngày Lục Tân sinh giờ Kỷ Hợi,


Bối Lộc bác Quan lại phá thương;
Như lấy Phi Thiên Lộc Mã Quý,
Thất thời không hợp không vội vàng.
Ngày Tân giờ Kỷ Hợi, là hợp cục Phi Lộc. Tân lấy Bính là Quan, trên Hợi có Nhâm Thƣơng
vƣợng, cho nên Quan tinh vô khí; nhƣ lại gặp tháng hợi hoặc ngày Hợi, Tị Hợi xung xuất
Bính hỏa ở trong Tị là Quan tinh. Nếu là Tân Dậu, hợp cục Tân Sửu, quý; còn các ngày Tân
khác là không hợp. Không thông khí tháng, là không có chỗ dựa, bần tiện; có chỗ dựa, là cát.
+ Ngày Tân Sửu giờ Kỷ Hợi, sinh tháng Thìn Tuất Sửu Mùi cùng Dần Mão, lấy Phi Thiên
Lộc Mã, là quý. Tháng Mùi, vận kim thủy, là mặc áo bào.
+ Ngày Tân Mão giờ Kỷ Hợi, tháng Dần Mão Hợi Mùi, Tài vƣợng sinh Quan, cả đời hỉ
khánh. Năm tháng Tị Dậu Đinh, quý.
+ Ngày Tân Tị giờ Kỷ Hợi, chữ Tị là điền thực, không nhập Phi Thiên cách, lấy Quan Ấn
luận, chủ cha mẹ kiệt lực phù trì mà sau phú quý.
+ Ngày Tân Mùi giờ Kỷ Hợi, quý. Tháng Hợi Mão Mùi Dần, kim có thể khắc mộc, là Tài
thịnh sinh Quan, danh lợi quý hiển, năm tháng Tị Ngọ, phú quý. Sinh mùa thu, thấu Bính,
cũng cát.
+ Ngày Tân Dậu giờ Kỷ Hợi, tháng Thìn Tuất Sửu Mùi, là Tạp khí Tài Quan, cát. Thuần Hợi,
xung Bính hỏa trong Tị là Quan, quý.
255 | Tam mệnh thông hội

+ Ngày Tân Hợi giờ Kỷ Hợi, năm tháng có Hợi, là cách Phi thiên Lộc Mã, làm quan hàng
tam, tứ phẩm; vũ chức là cực phẩm; hàng Hầu, Bá. Dần Tị, là điền thực, thì giảm. Năm tháng
là Tý Thìn, cũng cát.

Ngày Tân nếu gặp giờ Kỷ Hợi,


Kiêu thần Bối Lộc chủ tai ngu;
Không xung phát phúc cũng không dầy,
Lộc Mã phi Thiên quý khỏi chê.
Ngày Tân gặp giờ lâm Kỷ Hợi, Kiêu thần Bối Lộc ở đồng cung. Nếu may gặp tháng thiếu
đƣợc Vân Long. Nhâm Tị Giáp Dần là vô dụng. Cha mẹ hoàn toàn không hoà thuận, hoa tàn
kết quả phòng gió. Nếu không có khắc phá và hình xung, Phi thiên Lộc Mã là phúc trọng.
27-04-16, 12:39
lesoi
Đoán ngày Lục Nhâm giờ Canh Tý

Ngày Lục Nhâm sinh giờ Canh Tý,


Trên Tý lộ Canh ám tổn thương;
Trong tháng hỏa thổ vẫn là cát,
Không thông hung ngoan chỉ bình thường.
Ngày Nhâm sinh giờ Canh Tý, Nhận vƣợng thân cƣờng. Nhâm lấy Canh là Đảo Thực, quý là
Dƣơng Nhận, trụ giờ lộ Canh Quý vƣợng, nếu thông khí tháng là hỏa thổ, chế phục Canh
Quý, là đại quý; không thông, là hung ngoan bình thƣờng. Thông vận cũng quý.
+ Ngày Nhâm Tý giờ Canh Tý, tháng Thìn Tuất Sửu Mùi, là Tạp khí Tài Quan; Tị Thân Dậu
Sửu, là Ấn thụ, cƣ ranh giới đất thổ dầy, đều quý. Tháng Dần, vận kim thủy, là gần với vƣơng
tử. Tháng Ngọ, hành tây vận, quan hàng lục phẩm, Tý vận là bại hung. Nếu thuần Nhâm Tý
Dƣơng Nhận, là bần hung. Nói, thiếu niên phú, sau 35 tuổi là gian khổ, về già đại phú. Kị
tháng Tân Tị là chết hung tử, tháng Tân Hợi là đại hung, tháng Giáp Tý là bị hình.
+ Ngày Nhâm Dần giờ Canh Tý, quý mà hình. Tháng Thìn Tuất Sửu Mùi, là Tạp khí Tài
Quan; tháng Tị Thân Dậu, là Ấn thụ, đều quý. Kị tháng Ất Tị là thụ hình, tháng Đinh Dậu là
đại phá, tổ gặp ác tử, tháng Ất Hợi là thụ hình.
+ Ngày Nhâm Thìn giờ Canh Tý, nếu sinh tháng Dần Ngọ, Tài tinh vƣợng; Thìn Tuất Sửu
Mùi, Quan vƣợng, đều cát. Thuần Thìn, thấu Canh Nhâm, lấy Nhâm kỵ Long Bối cách, là đại
quý. Kị tháng Bính Thìn, yểu tử, chết không toàn thây; tháng Đinh Mùi là phá tổ, cô nhi;
tháng Tân Sửu là đại phá, hình.
+ Ngày Nhâm Ngọ giờ Canh Tý, ngày giờ cùng xung, nữ nhiều nam ít. Tháng Sửu Mùi, hành
nam vận, phú quý. Năm tháng còn lại, có thể thấy quan là quý mệnh. Kị tháng Giáp Ngọ là tự
hình, gặp nhiều thị phi; tháng Quý Dậu là đại phá, rời quê hƣơng chết ác tử; tháng Tân Hợi là
chết ác tử.
+ Ngày Nhâm Thân giờ Canh Tý, là bần, hình. Tháng Mùi, là Tạp khí Tài Quan, hành vận
Tài vƣợng là quý hiển, trƣớc khó sau dễ. Thìn, hội thủy thái vƣợng, cần hành vận hỏa thổ,
cát. Sửu, Tuất, là Tài Quan Ấn thụ, đều cát. Xuân đông là bình thƣờng, thu hạ là cát khánh.
Kị tháng Ất Tị thụ hình, yểu; Đinh Dậu, yểu; tháng Ất Hợi là cô nhi, tự hình.
+ Ngày Nhâm Tuất giờ Canh Tý, yểu. Tháng Sửu vận kim hỏa, Thìn Mùi là Tài Quan cách,
đều quý. Dần Dậu, hành vận tây bắc, quý. Thân Tý Thìn, hành vận đông nam, cực phẩm. Kị
tháng Tị Dậu, cô đơn, hung; tháng Đinh Hợi, hung hình ác tử; tháng Tân Sửu, thụ hình.

Thiên can ngày Nhâm giờ Canh Tý,


Ngày Kiêu do đến gặp Kiếp tài;
Vận nhược vợ con phòng khắc hại,
Vận cường tài lộc đến từ trời.
256 | Tam mệnh thông hội

Ngày Nhâm gặp giờ Canh Tý, lƣu liên gặp Kiếp tài Đảo thực, vận hành Tỉ kiếp sự ƣu tiên, tài
lộc không thể có thông hiển. Anh em xa bầy, chậm vợ con thì đoàn viên, vận Tài Quan gặp
phúc đến, tổ nghiệp lại thay đổi lần nữa.
27-04-16, 12:39
lesoi
Đoán ngày Lục Nhâm giờ Tân Sửu

Ngày Lục Nhâm sinh giờ Tân Sửu,


Dưới có Quan tinh cùng Ấn thụ;
Như thông khí tháng vận tây nam,
Quan Ấn phù thân người thanh tú.
Ngày Nhâm gặp giờ Tân Sửu, là Quan Ấn đắc vị. Nhâm lấy Kỷ là Quan, Tân là Ấn, trên Sửu
kim cục, ám Tị đắc vị, nếu thông khí tháng, là ngƣời thanh tú, lộc quý an ổn; không thông,
chủ tính quái gở quỷ quyệt.
+ Ngày Nhâm Tý giờ Tân Sửu, tháng Tị Dậu Sửu, là Ấn thụ, đa số đƣợc sự che chở của cha
mẹ. Tháng Thân, vận hỏa thổ, là kề có quyền. Thìn Tuất Sửu Mùi, có Quan có Ấn, phong tƣ
khoáng đạt, danh bá thiên nhai. Tháng Dần Ngọ Tuất, là phá tài, không thành cục Lộc Ấn,
bình thƣờng. Năm tháng là Hợi Thân, quý.
+ Ngày Nhâm Dần giờ Tân Sửu, tháng Sửu, là Tạp khí Ấn thụ, cao. Thìn Tị, Sát cƣờng
không có chế phục, Tài Quan thân nhƣợc, lao khổ.
+ Ngày Nhâm Thìn giờ Tân Sửu, Thìn Tuất Sửu Mùi, là Tạp khí Tài Quan Ấn thụ, đều cát.
Xuân bình thƣờng, Hạ thì Tài lộc, thu thì cát, bên trong có hung. Đông thì thân vƣợng, cần
hành nam vận mới hiển thông.
+ Ngày Nhâm Ngọ giờ Tân Sửu, là Lộc Mã đồng hƣơng, quý. Hạ cát. Thu, đủ Tài Quan Ấn,
cũng quý.
+ NgàyNhâm Thân giờ Tân Sửu, năm tháng là Dần Mão Hợi Mùi, tiến sĩ làm quan phong
hiến, quan đến hàng nhị phẩm, cuối cùng có đảo nghịch. Thìn Tuất, giàu có. Thân Dậu,
hƣởng dụng tự nhiên, hành bắc vận cũng quý.
+ Ngày Nhâm Tuất giờ Tân Sửu, tháng Thìn, xung khai Tài Quan, là quý. Sửu Tuất, cũng cát.
Trụ có chữ Ất Quý Mão, là bình thƣờng.

Ngày Lục Nhâm gặp giờ Tân Sửu,


Quan Ấn tương sinh mọi chuyện tốt;
Tháng Ngọ lại thông kim thổ vượng,
Làm quan thanh quý định không sai.
Ngày Nhâm lâm giờ Tân Sửu, ở trong Tài Quan Ấn thụ, phải biết lấy chìa khoá mở kho mới
thông, Mậu Kỷ tƣơng phùng hỏa trọng. Chữ Quý Mão Ất là giảm phúc, có gặp Long Hổ
tƣơng xung, chỉ tranh giành mới sớm giữ thay đổi gia phong, phú quý thừa ân bái sủng.
27-04-16, 12:40
lesoi
Đoán ngày Lục Nhâm gặp giờ Nhâm Dần

Ngày Lục Nhâm sinh giờ Nhâm Dần,


Thủy hỏa tương phùng luận Ký Tế;
Tháng thông thủy mộc Tài Lộc quý,
Không thông không cứu là thường nhân.
Ngày Nhâm giờ Nhâm Dần, là Thủy Hỏa ký tế. Nhâm dụng Bính là Tài, Giáp là Thực, trên
Dần có Bính sinh Giáp vƣợng, Nhâm thủy vô khí, nếu thông thủy cục, là có chỗ dựa, đều
quý, không thông không có cứu, là phúc bạc. Ngày Nhâm Dần là kiện vƣợng, chủ đại phú,
257 | Tam mệnh thông hội

nhƣ không thông khí tháng, cũng quý.


+ Ngày Nhâm Tý giờ Nhâm Dần, thuần Tý, năm tháng không có Ngọ xung phá, nhập Phi
Thiên cách, là phú quý. Năm tháng là Dần Mão Tị Thân Dậu Tuất Hợi, đều quý.
+ Ngày Nhâm Dần giờ Nhâm Dần, là Lục Nhâm xu Cấn cách, nơi thổ dầy, sơn minh thủy tú,
mặc áo gấm bào. Năm tháng Tị Hợi, vũ chức hàng tam phẩm, phú dầy đôn hậu. Năm Dần
tháng Ngọ, hành bắc vận, mặc áo cẩm bào. Tháng Tị, hành tây bắc vận, quý. Thìn Tuất Sửu
Mùi, cũng cát. Thuần Dần càng cát. Nói trung niên là quý, sau 50 tuổi thì đại ách.
+ Ngày Nhâm Thần giờ Nhâm Dần, thuần Thìn, là Nhâm kỵ Long Bối cách, can đầu không
có Bính Đinh Mậu Kỷ, vận hành Tỉ kiên, đại quý. Thuần Dần là đại phú. Tháng Mão Tuất,
vận mộc kim, địa vị hàng tam ngũ phẩm. Tháng Ngọ, bình thƣờng.
+ Ngày Nhâm Ngọ giờ Nhâm Dần, thiếu niên nhiều tật ách. Nhâm Ngọ, là Lộc Mã đồng
hƣơng. Năm tháng Thìn Dần, địa vị hàng nhị phẩm. Thân Dậu, cao thƣợng, nếu thông mộc
hỏa, tài danh quán thế, quý. Tháng Tuất, hành đông nam vận, làm quan cực phẩm.
+ Ngày Nhâm Thân giờ Nhâm Dần, tháng Tị Dậu Sửu, vũ chức hàng tam phẩm. Tháng Tân
Mão, Tuất cũng quý. Tý Dần, đại quý. Nói bần mà phát, cũng không lâu.
+ Ngày Nhâm Tuất giờ Nhâm Dần, tháng Tị, Thiên quan cách, danh tiêu kim bảng, thân tọa
Ngọc đƣờng. Thuần Tý, tam phẩm, Dần Mão, hành bắc vận, Phong hiến. lại nói, ngày Lục
Nhâm thấy giờ Nhâm Dần, danh quý mà thái hƣ, không lâu, thịnh mà sinh hoạ.

Lục Nhâm phùng Hổ là bọt nước,


Công danh phú quý chớ cưỡng cầu;
Có Ấn có Quan là thượng cách,
Đột nhiên tài lộc miễn ưu sầu.
Ngày Nhâm gặp giờ Nhâm Dần, Tỉ kiên tƣơng ngộ Thực Thần, đệ huynh bè bạn ít cùng bầy,
đây là phân định giờ sinh. Tọa cục vận hành Quan địa, thân cƣờng lộc vị siêu quần, thân suy
hình hại họa tƣơng xâm, mệnh y lộc bình thƣờng.
27-04-16, 12:41
lesoi
Đoán ngày Lục Nhâm giờ Quý Mão

Ngày Lục Nhâm sinh giờ Quý Mão,


Dẫn về tử địa thế khó an;
Kiếp tài Sát Nhận kiến Thương Quỷ,
Chỗ dựa không có xem mệnh thường.
Ngày Nhâm gặp giờ Quý Mão, thân ở tử Nhận ở sinh. Nhâm lấy Quý là Nhận, Mão là ám Ất,
mà thƣơng Quan Quỷ. Trên Mão có Quý sinh Ất vƣợng, Nhâm bị tử, không thông khí tháng
thân vƣợng, không có cứu trợ cùng chỗ dựa, là yểu tiện. Tháng Tị Dậu Sửu, Ấn vƣợng không
có hóa, tính khí kỳ quái cao ngạo hƣ trá, thông thân vƣợng, kiến khí kim, hành Tài vận, quý.
Thƣơng quan thƣơng tận, hành Nam vận, cũng quý.
+ Ngày Nhâm Tý giờ Quý Mão, Tý Mão tƣơng hình, lo thƣơng hại thê tử, quý nhân đề huề,
tài bạch doanh dƣ, mệnh đôn hậu.
+ Ngày Nhâm Dần giờ Quý Mão, là bối tài bại lộc, hoặc hƣng hoặc phế. Năm tháng Tý, quý.
Tháng Tị, Tài Quan tuy hình, cũng quý. Thìn Tuất Sửu Mùi, Quan Sát chế Nhận, đều cát.
+ Ngày Nhâm Thìn giờ Quý Mão, thông tháng thân vƣợng, kiến thổ kim phá Nhận, hành Tài
vận, quý.
+ Ngày Nhâm Ngọ giờ Quý Mão, Nhâm cƣ Ngọ vị, là Lộc Mã đồng hƣơng, lại gặp giờ Mão,
quý hiển vinh đạt. Năm tháng Tị Ngọ, vũ chức phong hiến.
+ Ngày Nhâm Thân giờ Quý Mão, tháng Hợi mão Mùi Dần, là Thƣơng quan thƣơng tận, thê
hiền tử hiếu, thổ dầy quý mệnh. Thuần Thìn, làm y bốc. Tháng Tý thủy mộc, quý.
+ Ngày Nhâm Tuất giờ Quý Mão, năm tháng Giáp Quý Ngọ Dậu, văn quý. Thân, bình
258 | Tam mệnh thông hội

thƣờng, kim hỏa vận, quý.

Nhâm Quý tương phùng kiến Quý Mão,


Hình xung phá hại không chu toàn.
Tháng phùng Nhị Đức kiêm thân vượng,
Đổi họa thành cát lạc tự nhiên.
Ngày Nhâm lâm giờ Quý Mão, là từng bƣớc bại tài bối lộc, cả đời phản phục việc không
thành, thủy đến đông phƣơng là thất vị. Cần có Quý nhân cứu trợ, tự thân văn phúc khó cùng,
tổ tài cốt nhục có tròn khuyết, mệnh chủ trƣớc bỏ sau thành.
27-04-16, 12:42
lesoi
Đoán ngày Lục Nhâm giờ Giáp Thìn

Ngày Lục Nhâm sinh giờ Giáp Thìn,


Nhâm kỵ Long Bối tọa Thực thần;
Trong trụ có xếp không hình hại,
Tất là người vinh hoa phú quý.
Ngày Nhâm giờ Giáp Thìn, cũng là Nhâm kỵ Long Bối. Nhâm lấy Giáp là Thực thần, trên
Thìn có Nhâm thủy hợp cục, Giáp có sinh khí, Thực thần vƣợng tƣớng, thông khí tháng thì
phú quý phúc hậu. Mùa Đông, hành Mão vận, bất lợi.
+ Ngày Nhâm Tý giờ Giáp Thìn, thuần năm tháng Tý, là Phi thiên Lộc Mã, không có phá, là
lục khanh. Tị Dậu, đại quý. Hợi, cũng quý.
+ Ngày Nhâm Dần giờ Giáp Thìn, tháng Tị là Thiên Quan cách, không xung không phá, là
quý hiển. Ngọ, là Chính Quan, quý. Thìn Mão cục toàn mộc, đông phƣơng, thiếu niên đăng
khoa, vinh quý.
+ Ngày Nhâm Thìn giờ Giáp Thìn, sinh tháng Thìn, là Nhâm kỵ Long Bối cách, đại quý.
Tháng Dần, không quý cũng phú. Tháng Tuất, là Tạp khí Tài Quan, xung khai Thìn khố, cao
mệnh. Tháng Tý, cắt rễ tổn lá, thành bại bất định. Tháng Mùi, vận kim thủy, quý.
+ Ngày Nhâm Ngọ giờ Giáp Thìn, tại hoạ về thủy hỏa. năm tháng Dần Thìn, nhà nho cửa
Hàn Uyển, hoặc cƣ tế tửu. Thuần Tý, là Phong hiến. Mão Dần, dầy phú. Thìn Tý, chức văn
nho.
+ Ngày Nhâm Thân giờ Giáp Thìn, thủy hỏa tai, năm tháng Sửu Dần, văn hành vũ quyền.
Thuần Tý, vận kim hỏa, làm quan.
+ Ngày Nhâm Tuất giờ Giáp Thìn, tháng Dần Thân Dậu, hành nam vận, làm quan. Năm
tháng Hợi Mão Mùi Thân Tý Thìn Tị Ngọ, đều cát.

Giờ gặp Giáp Thìn can ngày Nhâm,


Hỷ thần trùng điệp phúc đa đoan;
Thời đến sớm muộn công danh tựu,
Vận đến Thân Thìn hiển làm quan.
Ngày Nhâm gặp đúng giờ Giáp Thìn, là Thanh Long nhập miếu, là cao mệnh, giống nhƣ Lan
Huệ thành cỏ dại, thủy mộc tƣ sinh là tƣơi tốt. Ngày giờ xung khai khố vƣợng, tự nhiên thành
tựu, vận hành cát địa sánh anh hào, quý hiển thân nhân khó nƣơng tựa.
27-04-16, 12:42
lesoi
Đoán ngày Lục Nhâm giờ Ất Tị

Ngày Lục Nhâm sinh giờ Ất Tị,


Thân tuyệt có tài không tụ tài;
259 | Tam mệnh thông hội

Tiến thần ám quỷ đến tương khắc,


Thấu Kỷ tương hình là họa thai.
Ngày Nhâm giờ Ất Tị, Tài vƣợng thân tuyệt. Nhâm dụng Bính là Tài, Mậu là Quỷ, Canh là
Đảo thực. Trên Tị có Ất mộc là Thƣơng quan, Bính Mậu kiện vƣợng, Canh kim trƣờng sinh,
Nhâm thủy khí tuyệt, trụ có Kỷ Quan, là họa hoạn bách đoan, kiêu ngạo khoe tài. Nếu không
thông tháng thân vƣợng, không có cứu trợ, là bần; có chỗ dựa, thông khí vƣợng, hoặc hành
vận thân vƣợng, đều cát.
+ Ngày Nhâm Tý giờ Ất Tị, quý, nhƣng khó cho thê tử, tính cách cƣơng cƣờng, không bị
kích chạm. Năm tháng Tuất, thuần Sát có chế, hành vận mộc kim, làm quan đến hàng tam
phẩm.
+ Ngày Nhâm Dần giờ Ất Tị, là cô cao, hình thê khắc tử, nhƣ làm tăng đạo, phú quý.
+ Ngày Nhâm Thìn giờ Ất Tị, xuân bình thƣờng, hạ là Tài, thu thì ổn thực, đông thì không có
trợ cứu, chủ bần khổ.
+ Ngày Nhâm Ngọ giờ Ất Tị, tháng Thìn Tuất, quý. Tháng Hợi, kim vận, làm quan đến chức
Đô Soái.
+ Ngày Nhâm Thân giờ Ất Tị, thân tọa trƣờng sinh Học Đƣờng, tài bạch tiến thoái, danh lợi
chạy băng. Tháng Mộc, hành bắc vận, quý. Thìn Tuất Sửu, đều cát.
+ Ngày Nhâm Tuất giờ Ất Tị, năm tháng Dần, là ngày Nhật Đức cách, quý. Thìn Tuất Sửu
Mùi, quý. Thu là Ấn, Hạ là Tài Quan, đều cát, xuân là Thƣơng, đông thì vƣợng, xem can thấu
nhƣ thế nào, cũng có thể thủ quý.

Ngày Nhâm gặp giờ lâm Ất Tị,


Làm mưu không gặp mà trầm ngâm:
Quý nhân cử tiến Tài Quan vượng,
Vợ chồng con cái không nhất tâm.
Ngày Nhâm gặp giờ Ất Tị, là Thƣơng quan bối lộc không thủ, mặc dù có Thiên Ất quý nhân
phù, quý hiển gặp mà không gặp. Mƣu vọng nói là phản phúc, thực sự cả đời thành hƣ, thời
đến phát đạt đổi gia môn, giống nhƣ mầm thấy mƣa.
27-04-16, 12:43
lesoi
Đoán ngày Lục Nhâm giờ Bính Ngọ

Ngày Lục Nhâm sinh giờ Bính Ngọ,


Ở đất tụ tài tọa bào thai;
Tháng phùng kim thủy nên phú quý,
Bỏ mệnh tòng theo là tựu tài.
Ngày Nhâm giờ Bính Ngọ, là Tam kỳ Lộc Mã. Nhâm lấy Kỷ là Quan, Bính Đinh là Tài, trên
Ngọ có Đinh Kỷ là Lộc Mã, Nhâm thủy thụ thai, có chỗ dựa, thông khí tháng kim thủy, tựu
Tài sinh vƣợng, chủ phú quý, thông khí hỏa, cũng quý.
+ Ngày Nhâm Tý giờ Bính Ngọ, là trụ cột công trực, cô cao mà quý. Năm tháng có Tý Ngọ,
tự trọng là Thủy Hỏa ký tể, quan hàng cực phẩm.
+ Ngày Nhâm Dần giờ Bính Ngọ, tháng Dần Ngọ Tuất, là Tài tinh cách, nhƣng sợ thân
nhƣợc, nên làm tăng đạo, cát. Sinh mùa thu là Ấn thụ. Đông, thân vƣợng, hành vận kim hỏa,
mặc áo cẩm bào.
+ Ngày Nhâm Thìn giờ Bính Ngọ, tháng Dần Ngọ Tuất, Tài vƣợng, đại quý.
+ Ngày Nhâm Ngọ giờ Bính Ngọ, mùa đông thân vƣợng, cát. Hạ, là Tài đa thân nhƣợc, mùa
thu cận quý. Dần Ngọ, vận kim thổ, độc nhƣợc tòng cƣờng, là Khí mệnh tựu Tài, cao mệnh.
+ Ngày Nhâm Thân giờ Bính Ngọ, thông khí tháng kim thủy, quý; không thông, là Khí mệnh
tựu Tài, chủ phú, nếu không, cực bần hàn.
+ Ngày Nhâm Tuất giờ Bính Ngọ, tháng Dần, tam hợp Tài cục, là Khí mệnh tƣơng tòng, phú.
260 | Tam mệnh thông hội

Thu, thân có chỗ dựa, quý. Đông cũng cát.

Giờ Bính Ngọ sinh ngày Nhâm cường,


Trong giờ Lộc Mã không tầm thường;
Vận hành cát địa không xung phá,
Sớm muộn thăng thiên đến tỉnh đường.
Ngày Nhâm gặp giờ Bính Ngọ, cũng là danh Lộc Mã đồng hƣơng, là Ký tế kiến văn chƣơng,
chí khí khoan hồng hải lƣợng. Không bị hình xung phá hại, tự nhiên tài lộc đầy nhà. Vận
hành Tài vƣợng cùng đất Quan, định là Tể tƣớng triều đình.
27-04-16, 12:44
lesoi
Đoán ngày Lục Nhâm giờ Đinh Mùi

Ngày Lục Nhâm sinh giờ Đinh Mùi,


Phu hóa tòng thê cách cục kỳ;
Nếu là trong cục thông thủy mộc,
Phát tài phát phúc lưỡng tương nghi.
Ngày Nhâm giờ Đinh Mùi, là Phu tòng thê hóa, Nhâm hợp Đinh, đến Mùi là cùng mộc cục,
quý. Nếu tháng thông mộc cục, có chỗ dựa là phát tài, nếu không thông, nhƣng có sinh trợ,
nhờ vợ mà làm giàu.
+ Ngày Nhâm Tý giờ Đinh Mùi, tháng thông mộc khí, quý; thông kim khí, phú, thông hỏa
thổ khí, phú quý; không thông cả hai, hành hỏa thổ vận, cũng cát.
+ Ngày Nhâm Dần giờ Đinh Mùi, Đinh Nhâm hóa mộc, tháng Hợi Mão Mùi, Dần, quý.
+ Ngày Nhâm Thìn giờ Đinh Mùi, sinh tháng Thìn, là Nhâm kỵ Long bối cục, quý hiển.
Tháng Dần, thê trọng tử vinh. Tam hợp thủy cục, là thân vƣợng vô y, đa bần khắc thê.
+ Ngày Nhâm Ngọ giờ Đinh Mùi, xuân bình thƣờng, hạ phú, thu quý, đông cát. Năm tháng
Tị Ngọ, địa vị đến Vƣơng Hậu. Tháng Mùi, đông vận, quý. Tháng Tý, là Chính Ấn, đều tàng
Tam Kỳ, quý đến hàng cực phẩm.
+ Ngày Nhâm Thân giờ Đinh Mùi, đại phú. Năm tháng Tị Ngọ, hoặc thấu Mậu Kỷ, phú quý
song toàn.
+ Ngày Nhâm Tuất giờ Đinh Mùi, là ngày Nhật Đức, phong thê ấm tử, trung niên lại bị tổn
hại vợ con. Tháng Hợi Tý Thân Dậu quý. Tị Ngọ, không quý cũng phú. Tháng Thìn yểu, là
Nguyệt Đức quý.

Ngày Nhâm gặp giờ lâm Đinh Mùi,


Mộc hóa thành rừng kị thấy kim;
Năm tháng nếu vẫn không phá hại,
Tất dạy phú quý phúc di thâm.
Ngày Nhâm giờ lâm Đinh Mùi, trong đó có ám hợp thê tài, may là đến Sửu Tuất có chìa khoá
mở, thu tích tiền tài rất lớn. Năm tháng không phạm khắc xung, tất nhiên y lộc an bài, vợ
chồng con cháu đều tốt, trung niên đến già hƣởng thái y nhiên.
27-04-16, 12:44
lesoi
Đoán ngày Lục Nhâm giờ Mậu Thân

Người sinh Lục Nhâm giờ Mậu Thân,


Là đất Trường sinh quỷ thương thân;
Thân cường chế phục là cao mệnh,
Trái lại định biết người bần bạc.
261 | Tam mệnh thông hội

Ngày Nhâm giờ Mậu Thân, thủy thổ hỗn trọc. Nhâm lấy Mậu là Quỷ, Canh là Ấn, trên Thân
có Canh kim kiện vƣợng, Nhâm thủy trƣờng sinh, Mậu thổ Thiên Quan, thân và Quỷ đều
cƣờng, là ngƣời hùng dũng hung bạo, nếu thông tháng vƣợng, hành vận thân vƣợng, có Giáp
mộc chế phục là quý; nếu không thông, thông minh nhƣng không quý, lại hành vận Quỷ
vƣợng, khó mà hiển đạt.
+ Ngày Nhâm Tý giờ Mậu Thân, là Dƣơng Nhận đới Sát, quý nhân đề huề. Năm tháng là Tị
Ngọ, là cận quan quyền.
+ Ngày Nhâm Dần giờ Mậu Thân, ngày giờ tƣơng xung, thân cô làm tăng đạo, là tốt. Nhƣ
Dần Ngọ Tuất hoặc năm tháng thuần Thìn, cũng quý.
+ Ngày Nhâm Thìn giờ Mậu Thân, sinh tháng Tuất, sớm đăng khoa giáp, làm quan. Năm
tháng là Dần Mão Sửu Thân Tý Ngọ, cực quý, vũ chức hàng nhất phẩm.
+ Ngày Nhâm Ngọ giờ Mậu Thân, có Thiên Quan Thiên Ấn. Tháng Hợi Mão Mùi Dần, nắm
uy quyền. Tháng Tý Sửu, vận mộc hỏa, là Hàn Lâm thanh quý. Tháng Tuất, hành vận đông
nam, cao phẩm.
+ Ngày Nhâm Thân giờ Mậu Thân, Nhâm thủy trƣờng sinh, cƣ ở Thân, Sát vƣợng thân
cƣờng, lại sinh tháng Hợi Mão Mùi, Thiên Quan có chế, cát.
+ Ngày Nhâm Tuất giờ Mậu Thân, phá hƣ trì trệ. Thuần Dậu, là cự phú. Nếu không thông
tháng thân vƣợng, hành đất Sát vƣợng, không cát. Có Giáp chế cũng đƣợc. Mậu Kỷ thổ trọng,
chủ tật mù là tầm thƣờng.

Giờ Thân Nhâm Tuất hợp Thiên Nguyên,


Vận khử Tài Quan tự nhiên phúc;
Quỷ vượng thân suy không cứu trợ,
Cả đời lao khổ không chu toàn.
Ngày Nhâm giờ lộ Mậu Thân, can chi Sát vƣợng song toàn, hỷ phùng hai chữ Thìn Tý liền
nhau, chính hợp cục diện mặc áo cẩm bào. Bị hại hình xung khắc chiến, trong đó có khó khăn
văn phúc, vận hành cát địa mặc áo gấm, phú quý, thê đa tử kiện.
27-04-16, 12:45
lesoi
Đoán ngày Lục Nhâm giờ Kỷ Dậu

Ngày Lục Nhâm sinh giờ Kỷ Dậu,


Minh Quan ám Ấn có phù trì;
Tháng thông thân vượng người thanh quý,
Vẫn sợ luyến hoa tham tửu sắc.
Ngày Nhâm giờ gặp Kỷ Dậu, là Bại xứ phùng Sinh. Nhâm thủy đến Dậu là mộc dục (còn gọi
là Bại địa), Tân là sinh khí Ấn thụ, trên Dậu có Tân kim vƣợng, dụng Kỷ là Quan, trên Dậu
có lộ Kỷ, nếu thông khí tháng có chỗ dựa, hành vận Tài Quan, quý, trái lại, là bình thƣờng.
Nhƣng mệnh phạm Đào Hoa, là nhân vật phong lƣu, luyến hoa tham tửu.
+ Ngày Nhâm Tý giờ Kỷ Dậu, xuân bình thƣờng, hạ cát, thu bình thƣờng, đông vƣợng. Nhƣ
sinh tháng Mão, thích tửu sắc.
+ Ngày Nhâm Dần giờ Kỷ Dậu, đại phú quý, hỷ thông khí thủy, hành Quan vận, quý. Nhƣng
thích tửu sắc, là nhân vật phong lƣu.
+ Ngày Nhâm Thìn giờ Kỷ Dậu, cao, tháng cùng ngày, là Nhâm kỵ Long Bối, là đại quý.
Tháng Tị, hành vận đông bắc, quý.
+ Ngày Nhâm Ngọ giờ Kỷ Dậu, là Lộc Mã đồng hƣơng, trƣớc khó sau dễ. Tháng Sửu Dần,
hành vận kim thủy, vũ chức hàng nhị phẩm.
+ Ngày Nhâm Thân giờ Kỷ Dậu, là Quan Ấn lâm môn, trong cục không có xung phá, là Lộc
Mã song toàn, không quý cũng phú. Sinh tháng Tuất, vận đông nam phƣơng, mang áo cẩm
bào thắt lƣng vàng.
262 | Tam mệnh thông hội

+ Ngày Nhâm Tuất giờ Kỷ Dậu, tháng Hợi Dần Tý, hành vận Tài Quan, quý hiển phi thƣờng.
Thuần Hợi, là văn quý.

Thiên can ngày Nhâm giờ đúng Dậu,


Đổi họa thành cát gặp quý nhân;
Nếu không làm quan phong phẩm cấp,
Về già hưởng phúc vượng gia môn.
Ngày Nhâm giờ gặp Kỷ Dậu, Chính Quan Ấn thụ không có thiên, vinh khô quý tiện là nhân
duyên, ngƣời tự sinh thành liền thấy. Ất Quý Mão xung phá khắc, bác tạp Tài Quan thì giảm
nửa, gặp phú quý không song toàn, sai giờ sinh khó biện.
27-04-16, 12:46
lesoi
Đoán ngày Lục Nhâm giờ Canh Tuất

Ngày Lục Nhâm sinh giờ Canh Tuất,


Thân lâm Tài khố lại thành Quỷ;
Minh Canh ám Tuất tương hình khắc,
Tài Lộc cả đời tụ tán nhiều.
Ngày Nhâm giờ Canh Tuất, Kiêu lâm Tài khố, Nhâm lấy Bính Đinh là Tài, khố ở Tuất, Canh
là Đảo thực, Mậu là Thiên Quan, nếu thông khí tháng hỏa mộc, là có chỗ dựa, quý; không
thông, tài bạch tụ tán.
+ Ngày Nhâm Tý giờ Canh Tuất, danh lợi tiến thoái, năm tháng Canh Tân, quý. Thìn Sửu,
hình xung; tháng Dậu, phá hại, Tài khố đắc dụng; Tị Ngọ, Tài Quan vƣợng, đều cát.
+ Ngày Nhâm Dần giờ Canh Tuất, hình thê khắc tử. Nếu sinh mùa xuân, bình thƣờng, mùa
hạ, đông, thì cát. Tháng Thìn Sửu Mùi, quý.
+ Ngày Nhâm Thìn giờ Canh Tuất, màu hạ, không phú thì quý, mùa xuân bình thƣờng, mùa
thu ổn, mùa đông lao khổ, hoặc làm tăng đạo, có Tài phá Hình.
+ Ngày Nhâm Ngọ giờ Canh Tuất, là Lộc Mã đồng hƣơng, Nhâm tự tọa Lộc, có Canh Tân
chế Giáp Ất là quý. Năm tháng có Thìn Tuất Sửu Mùi, cát. Tháng Thân là Học Đƣờng, văn
quý đại hiển. Hợi Tý thủy vƣợng, thấu Nhâm chủ hung. Ngọ Tuất thấu Mậu, Sát vƣợng cũng
hung.
+ Ngày Nhâm Thân giờ Canh Tuất, thông khí tháng hỏa mộc, phú quý; không thông, hành
vận thông, cũng tốt. Năm tháng Sửu Tuất, đại quý.
+ Ngày Nhâm Tuất giờ Canh Tuất, bất lợi cho vợ, chủ bị thê thiếp hại, phản phúc thành bại.
Thuần Tuất, quý. Dần Sửu, vũ chức. Tháng Thân, là Trƣờng sinh Học Đƣờng, cần văn đa
quý. Tháng Hợi, là Kiến Lộc, can thấu Tài Quan; tháng Mão, Thƣơng quan, can thấu Tài
tinh, đều quý. Tháng Mùi, là Tạp khí Tài Quan, Sửu Tuất tƣơng hình. Cát.

Nhâm Canh tương phùng sinh giờ Tuất,


Khố có Tài Quan tỏa bế môn;
Cứu cánh vô đầu nhiều phản phúc,
Công danh cuối cùng tựa phù vân.
Ngày Nhâm giờ gặp Canh Tuất, can chi Đảo Thực khó dùng. Tài Quan Ấn thụ đầy trong khố,
không có chìa khoá mở khó mà sử dụng. Sửu Dậu Thìn phùng thì lấy phúc, lại phùng Đinh
Kỷ là thành danh, nhƣng sợ khắc hại puá hình xung, bác tạp thì mệnh bình thƣờng.
27-04-16, 12:46
lesoi
Đoán ngày Lục Nhâm giờ Tân Hợi
263 | Tam mệnh thông hội

Ngày Lục Nhâm phùng giờ Tân Hợi,


Ấn Lộc theo nhau rất tinh kỳ;
Tài Quan không thấy không xung phá,
Đắc lộ thanh vân báo bạn biết.
Ngày Nhâm giờ Tân Hợi, gọi là Nhật Lộc cƣ thời, không có khắc phá, có chỗ dựa, trong trụ
không thấy Tài Quan, phú quý hiển đạt; hành đông vận, đại quý; nếu thông khí, giảm phúc;
nam phƣơng vận, không quý cũng cự phú.
+ Ngày Nhâm Tý giờ Tân Hợi, chủ cha mẹ không đƣợc yên lành, về sau phát không phú.
Năm tháng Hợi Mão, văn chƣơng tiến thân, đại quý.
+ Ngày Nhâm Dần giờ Tân Hợi, gian nan trong phát. Tháng Mùi, là Tạp khí Tài Quan, đôn
hậu, trung niên quý, sau 50 hết. Tháng Hợi, đông nam vận, mới khá.
+ Ngày Nhâm Thìn giờ Tân Hợi, tú quý, ác tử, tháng Ngọ, can đầu không có Kỷ thổ, là thanh
vân đắc lộ, nếu có Giáp hợp, gọi là Khử Quan lƣu Sát, làm quan hàng tam tứ phẩm. Tháng
Dậu cũng quý.
+ Ngày Nhâm Ngọ giờ Tân Hợi, bình thƣờng. Tháng Sửu, quan Phong hiến. Tháng Dần, là
Lộc Mã đồng hƣơng, hành vận kim thủy, mới khá. Tháng Tuất, vận đông bắc, làm quan tứ
ngũ phẩm. Sửu Ngọ, mệnh quan tăng đạo.
+ Ngày Nhâm Thân giờ Tân Hợi, quý. Thìn Tuất Sửu Mùi, là Tạp khí Tài Quan, cát. Năm
tháng can không có Kỷ thổ, nhập Nhật Lộc cách, tháng Dậu năm Thân Mão, hành đông bắc
vận, hiển quý.
+ Ngày Nhâm Tuất giờ Tân Hợi, thiếu niên phú quý. Năm tháng có Hợi Thân Tị Tuất, làm
quan hàng nhất nhị phẩm. Thuần Tuất, vận thủy hỏa, mặc áo kim bào.

Nhâm Tân hội giờ Hợi suy,


Bạch ngọc lại hiềm xuất thấy chậm;
Trường sinh Lộc Mã không hình phá,
Lại bỏ áo gai mặc áo gấm.
Ngày Nhâm giờ lâm Lộc Mã, lại là Ấn thụ đồng hƣơng, thủy tòng kim mộc tất nhiên cƣờng,
mệnh này cực cao là thƣợng đẳng. Quý Ất ám hợp hàm phúc, không xung phá hiển văn
chƣơng, tích ngọc đôi kim đầy ốc đƣờng, tƣợng ấm tử phong thê ( vợ con đều tốt).
27-04-16, 12:47
lesoi
Đoán ngày Lục Quý giờ Nhâm Tý

Ngày Lục Quý sinh giờ Nhâm Tý,


Thanh vân đắc lộ tối vi kỳ;
Nếu không Kỷ thổ xung khắc phá,
Tự có công danh thời hiển đạt.
Ngày Quý giờ Nhâm Tý, là Nhật Lộc quy thời, Quý thủy trên Tý là Kiến Lộc, nếu can chi
năm tháng không có Mậu Kỷ Ngọ Mùi tự hình xung phá hại, Tam Nguyên có chỗ dựa, thông
khí tháng, thì văn chƣơng tú lệ, quan chức hiển đạt; nếu thông khí tháng mộc, cũng quý. Nhƣ
trụ thấu Kỷ, có Giáp hợp, cũng quý. Nếu không, thì phản phúc.
+ Ngày Quý Sửu giờ Nhâm Tý, năm tháng Ngọ Dần, Ất Sửu, Kỷ Sửu, văn chức hàng tứ ngũ
phẩm, thông thân vƣợng khí tháng mộc, không có chữ Mậu Kỷ Ngọ Tị là hiển quý. Mùi, là
phong hiến. Tị Ngọ, là Tiến sĩ. Kị tháng Nhâm Dần, Ất Mùi, Canh Tuất, đều thụ hình. Tháng
Ất Sửu, là hạ tiện.
+ Ngày Quý Mão giờ Nhâm Tý, ngày giờ tƣơng hình, thƣơng thê khắc tử, chỉ có quý; không
có Kỷ thổ, nắm uy quyền. Nếu có đủ Hợi Tị, là Tiến sĩ ô phủ. Năm tháng thuần Dần, là
Thƣơng quan sinh Tài, không đại quý cũng đại phú. Kị tháng Giáp Thìn là hung hình cô nhi,
tháng Bính Thân chết hung tử, tháng Kỷ Sửu thụ hình.
264 | Tam mệnh thông hội

+ Ngày Quý Tị giờ Nhâm Tý, mùa xuân hạ phát tài phúc, Thìn Tuất Sửu Mùi, không quý
cũng phú. Kị tháng Mậu Dần thụ hình, tháng Mậu Thân gặp hình, tháng Kỷ Dậu làm khất cái.
+ Ngày Quý Mùi giờ Nhâm Tý, tháng Thân Dậu, quý. Tuất Hợi, đại phú quý. Dần Mão, cô.
Thìn Tị, hung. Kị tháng Nhâm Thân, thân không toàn, hung; tháng Canh Thìn, hung hình;
tháng Ất Sửu, thất thổ là hung tử.
+ Quý dậu nhật nhâm tử thời, hành tàng tiến thoái, thiểu tử nan vi thê gia. Kị bính dần
nguyệt, bất toàn thi tử; ất tị nguyệt, đại phá hung tử; đinh dậu nguyệt, tự ải tử.
+ Ngày Quý Hợi giờ Nhâm Tý, quý. Sinh tháng Hợi, là Phi thiên Lộc Mã cách, đăng khoa
giáp đệ, đại quý. Lại Quý Lộc cƣ ở Tý, Nhâm lộc cƣ ở Hợi, ngày giờ hỗ hoán nhau, làm quan
hàng tam tứ phẩm. Kị tháng Mậu Dần, chết không toàn thây; tháng Mậu Thân là cô bần;
tháng Kỷ Dậu là cô khổ.

Nhật Lộc quy thời đắt trung cục,


Thực thần hỷ gặp sợ hình xung;
Thương quan chớ đi Thương Tài vận,
Quan không tăng cùng tài không hưng.
Ngày Quý giờ lâm Nhâm Tý, danh là Quy Lộc cách, gia môn bạch ốc cũng tranh vanh,
Huyền Vũ đƣơng quyền, lộc trọng. Thủy thanh lọ báu ích thịnh, văn chƣơng bác lãm đa
thông, vinh thiên lai lịch phong Tử Vi, Giáp Ngọ Dần Hợi là phá động.
27-04-16, 12:47
lesoi
Đoán ngày Lục Quý giờ Quý Sửu

Ngày Lục Quý sinh giờ Quý Sửu,


Trong chi ám Quỷ có hình thương;
Tháng thông thân vượng phòng thê tổn,
Sửu Tị diêu hợp quý dị thường.
Ngày Quý giờ Quý Sửu, chi ẩn Quỷ. Quý lấy Kỷ là Thiên Quan, trong Sửu có ám Kỷ đắc vị,
Quý lấy Đinh làm vợ, trong Sửu Đinh hỏa vô khí, nếu thông tháng Tỉ kiên thân vƣợng, phòng
tổn thê tài. Trụ nhiều Sửu Dần, lấy Dần hình Tị, Sửu hợp Tị, hình xuất Bính Mậu ở trong Tị
là Tài Quan, cần can đầu không có chữ Mậu Kỷ, là đại quý. Kị Tị Mùi Mão là phá cách.
+ Ngày Quý Sửu giờ Quý Sửu, Sửu diêu Tị trong có Bính Mậu là Tài Quan, nếu sinh sửu
năm tháng Dần Thân Tý Dậu tam hợp, chủ thê hiền hiếu, vinh quý đặc đạt; vận hỏa thổ là
hung; vận kim thủy cát.
+ Ngày Quý Mão giờ Quý Sửu, là Nhật Quý cách, thân cô khắc, chủ quý. Năm tháng có Sửu
Dần Thìn, can chi không có chữ Mậu Kỷ Tị Ngọ Mão, là quan hàng cực phẩm.
+ Ngày Quý Tị giờ Quý Sửu, là Phúc Đức Tú khí cách, học vấn thông minh, anh tài đặc đạt,
quý. Nếu năm tháng thuần Sửu Tị, là đại quý.
+ Ngày Quý Mùi giờ Quý Sửu, năm tháng là Tý Sửu Dần, quý, trung niên phú. Tháng Mão,
hành vận kim thủy, hàng cực phẩm. Thìn Tuất, đủ tứ khố, đại quý.
+ Ngày Quý Dậu giờ Quý Sửu, là Phúc đức Tú khí cách, học vấn uyên nguyên, hành tàng
tiến thoái, khó thành thê gia.
+ Ngày Quý Hợi giờ Quý Sửu, là Củng Lộc cách, sợ xung phá, điền thực, trụ không có chữ
Tý Tị Ngọ Mùi, đại quý. Tháng Dần Ngọ Tuất, vận nam phƣơng, quan lục thất phẩm.

Âm thủy trùng trùng thời khố thâu,


Thiếu niên khó phát chớ cưỡng cầu;
Đợi đến thụ qua sau trung niên,
An tọa cao đường nhậm bạc đầu.
Ngày Quý gặp giờ Quý Sửu, thủy lƣu kim cục doanh xung, khố phùng Tuất Mùi Lộc Tài
265 | Tam mệnh thông hội

phong, không qua không sợ khó động. Không thi hành thiếu niên không hiển, có thi triển Lộc
Mã hòa đồng, vận đến sao lo dụng khổ lao tâm, phát đạt môn đình, đại khánh.
27-04-16, 12:48
lesoi
Đoán ngày Lục Quý giờ Giáp Dần

Ngày Lục Quý sinh giờ Giáp Dần,


Nhận phục Quan Lộc giảm tinh thần;
Trong trụ không có chữ Canh Thân,
Hình hợp Tài Quan là Quý nhân.
Ngày Quý giờ Giáp Dần, là Hình hợp Tài Quan, Quý lấy Bính là Tài, Mậu là Quan, Dần hình
xuất Bính Mậu trong Tị là Tài Quan, nếu trụ không có Quan Sát cùng hình xung phá hại tổn
cách, thì quý; có chữ Canh Thân Mậu Kỷ, không có chế phục, thì không quý.
+ Ngày Quý Sửu giờ Giáp Dần, vốn quý, trong Sửu có Tân kim, giảm nửa số. Năm tháng
thuần thủy, quan đến nhất phẩm. Thu sinh Ấn thụ, cũng quý. Tháng Thìn, hành đông vận, bần
tiện. Thuần Thân phá Dần, là hung.
+ Ngày Quý Mão giờ Giáp Dần, tháng Hợi Mão Mùi, rất quý. Năm tháng Dần Mão, là Hình
Hợp cách, địa vị là Hầu Bá. Dần Hợi, quan tứ phẩm. Tháng Dần, tây vận, mặc áo bào. Sửu
Tuất Thìn Tị, cũng quý.
+ Quý tị nhật giáp dần thời, bình, thông thân vƣợng nguyệt, đại quý. Kị mậu kỷ canh thân tự,
tuế vận đồng.
+ Ngày Quý Mùi giờ Giáp Dần, chủ tú thực, trung niên quý hiển. Nếu sinh năm tháng kỷ Mùi
Kỷ Tị, là vũ quý.
+ Ngày Quý Dậu giờ Giáp Dần, là Kim Thần cách. Tháng Dần Ngọ Tuất, kết hỏa cục, quý
hiển đặc đạt, làm quan hàng nhị tam phẩm. Kị năm Sửu, không quý. Năm tháng Tị Mùi Hợi
Tý, phú thọ. Thìn Sửu, can thấu Giáp Đinh, là hung.
+ Ngày Quý Hợi giờ Giáp Dần, tháng Tý Sửu Mùi Thân, là Tiến sĩ, vận hành kim thủy, quan
Phong hiến. Năm tháng Mão Tuất, địa chi lục hợp, là quý.

Giáp Dần ngày Quý Mậu Bính khai,


Thiếu niên gặp Mùi mà chôn chìm;
Nếu tứ trụ vẫn không xung phá,
Từng bước đăng vân đến Tỉnh đài.
Ngày Quý ứng giờ Dần, can chi tƣơng hợp là vinh quang, nếu không có Nhâm Kỷ Mậu Canh
Thân, tất nhiên tài lộc là hƣng thịnh. Đến vận Hoàng Châu là hiển đạt, văn chƣơng đề danh
bảng vàng, nhƣng gặp một chữ Không lại xung, khắc tử Thƣơng Thực mất bổng lộc.
27-04-16, 12:49
lesoi
Đoán ngày Lục Quý giờ Ất Mão

Ngày Lục Quý sinh giờ Ất Mão,


Ở đất trường sinh gặp Thực thần;
Không nhiều Ngọ Dậu kiêm Tân Tị,
Phúc thọ song toàn lộc vị nhân.
Ngày Quý giờ Ất Mão, can Thực thần vƣợng. Quý lấy Ất là Thực thần Học đƣờng, trên Mão
có Quý thủy trƣờng sinh, Ất tọa Lộc, trong trụ không có Kỷ phá Tân đoạt, Ngọ Dậu hình
xung, thông khí tháng, có chỗ dựa, chủ thông minh có thọ, cƣ Quan Thực Lộc; nếu có Kỷ
thổ, thì không quý. Sinh ở mùa xuân, vận bắc phƣơng là hiển đạt.
+ Ngày Quý Sửu giờ Ất Mão, tháng Thìn Sửu, là cao quý. Nói: Thiếu niên tiện, trung niên
266 | Tam mệnh thông hội

quý.
+ Ngày Quý Mão giờ Ất Mão, gian nan. Sinh tháng Dần Mão, là Thƣơng quan cách, khó mà
nói phú quý. Năm tháng Mùi Tuất, kỹ nghệ là cận quý. Thìn Sửu, cát. Kỷ Sửu, Bính Tý,
hung.
+ Ngày Quý Tị giờ Ất Mão, là Tài Quan song mỹ, xuân là Thƣơng quan, hạ là Tài vƣợng, thu
là Ấn ổn, đông thì bình thƣờng. Nhƣ năm tháng là Sửu Ngọ Tý Hợi, làm quan đến hàng tam
tứ phẩm. Ất Hợi, Ất Dậu, là tàn tật.
+ Ngày Quý Mùi giờ Ất Mão, tháng Dần Hợi Mão Mùi, là Thƣơng quan thƣơng tận, cƣơng
đoán bình thƣờng. Tháng Thìn Tuất Thân Tý, quý.
+ Ngày Quý Dậu giờ Ất Mão, tháng Thân Tý Thìn, quý. Dần Ngọ Tuất, trung bình. Hợi Mão
Mùi, bình thƣờng. Tị Dậu Sửu, phú.
+ Ngày Quý Hợi giờ Ất Mão, tháng Thìn Sửu, quan Phong hiến.

Ất Quý tương phùng Thực thần vượng,


Công trời tạo vật vốn vô tư;
Vận hành tự có cao nhân tiến,
Tay cầm Đơn Quế đến mây xanh.
Ngày Quý gặp giờ Ất Mão, đất Quý nhân Thực Lộc, Ngọc Đƣờng Ất Mão địa vị Hầu Vƣơng,
chính là làm tƣớng cửa vàng kim. Quân tử văn chƣơng bá phát, thƣờng nhân thì tài lộc đầy
nhà, Giáp Dần Tân Dậu khá yên ổn, đại hƣởng vinh hoa phú quý.
27-04-16, 12:49
lesoi
Đoán ngày Lục Quý giờ Bính Thìn

Ngày Lục Quý sinh giờ Bính Thìn,


Thiên Quan vô khí không là bần;
Nếu không mộc khí thông kỳ cục,
Định là thanh cao phúc lộc nhân.
Ngày Quý giờ Bính Thìn, thân tọa khố Quan, Quý dụng Mậu Kỷ là Quan, trên Thìn thổ mộ là
khố Quan, thấy Bính là Tài, Thìn là thủy cục, Bính hỏa vô khí, Quý thủy hợp cục, trụ không
có Giáp phá Quan tổn khố, chủ quý.
+ Ngày Quý Sửu giờ Bính Thìn, bình thƣờng. Tháng Thìn Tuất Sửu Mùi, là Tài Quan hữu
khí, quý.
+ Ngày Quý Mão giờ Bính Thìn, cô độc làm khó cha mẹ, có tài bạch, quý, ngƣời khâm phục
tôn kính. Năm tháng Mão Hợi, là Nhật Quý cách. Ngọ Tuất, làm quan hàng cửu phẩm đến
ngũ phẩm. Tháng Dần, hành nam vận, làm quan phong hiến.
+ Ngày Quý Tị giờ Bính Thìn, sinh tháng Tý, nam phƣơng, là nơi sơn minh thủy tú, cao quý.
Năm tháng Tý Mùi, giàu có. Tuất Mão, chỉ quý. Mùi Tuất Thân, bậc nho quan.
+ Ngày Quý Mùi giờ Bính Thìn, cao quý. Tháng Dần Mão Mùi, bình thƣờng. Tháng Thìn
Tuất Sửu, cát, tháng Tị là Tài Quan đều vƣợng, quý.
+ Ngày Quý Dậu giờ Bính Thìn, cô nhi, quý. Tháng Tị Dậu Sửu, quý. Dần Mão, không cát.
Tý Ngọ, phú. Tuất, đại quý.
+ Ngày Quý Hợi giờ Bính Thìn, trụ không có Giáp mộc phá tổn khố Quan, là quý, vận nam.

Ngày Quý giờ Bính Thìn khố Quan,


Tài tinh tuy thấu nhưng vô khí;
Quan phải mở khóa Tài mới hưng,
Trụ gặp Mão Tuất mới là quý.
Ngày Quý gặp giờ Bính Thìn, Tài Quan bị khóa ở không khố, phải gặp Mão Tuất mới mở
267 | Tam mệnh thông hội

khóa, thủ tổ lục thân trở ngại. Ám có Thực thần tƣơng trợ, của cải có mà thiếu thốn, trƣớc
bần sau phú an bài trong mệnh, thay tổ dần dần hƣng thịnh.
27-04-16, 12:50
lesoi
Đoán ngày Lục Quý giờ Đinh Tị

Ngày Lục Quý sinh giờ Đinh Tị,


Quý địa phùng Tài gặp ám Quan;
Có dựa thì xem Tài Lộc thịnh,
Vô y tất định phúc thiên tàn.
Ngày Quý giờ Đinh Tị, Quý hợp Tài Quan, Quý dụng Bính là Tài, Mậu là Quan, Canh là Ấn,
Tị là Thiên Ất quý nhân. Trên Tị có Canh kim trƣờng sinh, Bính Mậu kiến Lộc, Quý thủy thụ
thai, nếu có chỗ dựa, thông khí tháng thủy, thì quý, không thông khí thủy, là bình thƣờng.
Giờ gặp Tam Kỳ, đại để phát ở về già.
+ Ngày Quý Sửu giờ Đinh Tị, trƣớc bần sau phú, hành vận hỏa thủy, phát đạt.
+ Ngày Quý Mão giờ Đinh Tị, nếu tháng Tý, thân vƣợng Tài vƣợng, quý hiển.
+ Ngày Quý Tị giờ Đinh Tị, là Tài Quan song mỹ. Tháng Tý, quý. Tháng hỏa, phú. Thiên can
thấu thổ, địa chi Ngọ Mùi, chủ đại quyền quý. Thuần Sửu, cực phẩm.
+ Ngày Quý Mùi giờ đinh Tị, tháng Dần Ngọ Tuất, thân tài vƣợng hiển, mùa thu đông là Lộc
vƣợng, tổn thƣơng tàn tật.
+ Ngày Quý Dậu giờ đinh Tị, trƣớc bần sau phú. Tháng Tị Dậu, Quan Ấn đều vƣợng. Hợi
Mão Mùi, là Thực Thƣơng sinh Tài, quý hiển. Ngọ Tuất, Tài vƣợng cũng cát.
+ Ngày Quý Hợi giờ đinh Tị, hình hại. Sinh mùa xuân hạ, tốt. Thu, là Ấn thụ, cát. Đông, bình
thƣờng. Ngăm tháng Canh Dần, vũ quý.

Giờ Tị Lộc Mã đồng tranh tiên,


Tạo hóa vô tư sinh đại hiền;
Hình xung giảm nửa không Không khắc,
Đến vận thanh danh dương cửu thiên.
Ngày Quý giờ lâm Đinh Tị, là Quý nhân Lộc Mã đồng hƣơng, tam trọng Xà Mã chính triều
cƣơng, lui tới Ngọc Điện cửa vàng. Nhâm Hợi Thân Dần thì phúc giảm nửa, chỉ sợ vận lạc
Không Vong, nếu không có xung khắc hình thƣơng, vũ bái đến Phƣợng Hoàng trì.
27-04-16, 12:51
lesoi
Đóan ngày Lục Quý giờ Mậu Ngọ

Ngày Lục Quý sinh giờ Mậu Ngọ,


Hóa hỏa lâm giờ đất đế vượng;
Vận hỷ đông nam mộc hỏa địa,
Làm quan thanh chính lộc vinh xương.
Ngày Quý giờ Mậu Ngọ, hóa khí thành hỏa cục, Quý hợp Mậu hóa hỏa, đến Ngọ là đế
vƣợng, hợp cục mà quý, thân vƣợng Quý thủy không hóa, chỗ dẫn khí đến nam phƣơng, Quý
thủy vô khí, quý mà ngắn thọ, vận đông phƣơng, cát.
+ Ngày Quý Sửu giờ Mậu Ngọ, Tài phong phú, nam vận chủ quý nhƣng ngắn thọ, đông vận,
cát.
+ Ngày Quý Mão giờ Mậu Ngọ, tháng Thân Tý Thìn Hợi, thân vƣợng không hóa, bình
thƣờng. Tháng Mão Tuất, quý.
+ Ngày Quý Tị giờ Mậu Ngọ, trung niên đại phú, nếu hành đông vận, quý hiển. Tháng Thân
Mùi cũng quý.
268 | Tam mệnh thông hội

+ Ngày Quý Mùi giờ Mậu Ngọ, Dần Ngọ Tuất, hóa hỏa hợp cục, quý hiển.
+ Ngày Quý Dậu giờ Mậu Ngọ, chủ thƣơng thê gia tài, có thủy không có chung, năm Tý tử
quý mà không có lộc, hành nam vận, tốt.
+ Ngày Quý Hợi giờ Mậu Ngọ, quý, tháng Mùi, vận đông phƣơng; tháng kim có chế, đều quý
hiển.

Tướng tinh phù lộc mệnh cao thấp,


Xem trọng ở người cùng là không;
Đắc chí thì lui Gà hóa Phượng,
Hổ nằm núi bằng bị Thỏ khinh.
Ngày Quý gặp giờ Mậu Ngọ, là phƣơng Thiên Nguyên ký tế, hóa thành chân hỏa hiển uy
quang, tai nạn tiêu trừ phúc thọ dài. Nhâm hội Giáp Dần giảm nửa phúc, thị phi thành bại khó
đề phòng, lục thân bất hòa ám hình thƣơng, khó mà sinh tài phú vƣợng.
27-04-16, 12:51
lesoi
Đoán ngày Lục Quý giờ Kỷ Mùi

Ngày Lục Quý sinh giờ Quý Mùi,


Quỷ vượng thân suy phúc không đều;
Không thông khí tháng không cứu trợ,
Y lộc bình thường có kém suy.
Ngày Quý giờ Kỷ Mùi, là Quỷ vƣợng thân suy. Quý lấy Kỷ là Quỷ, trên Mùi có minh ám 2
Kỷ đƣợc tọa chuyên vị, Quý thủy vô khí, là hồn trọc không thanh, thành bại phản phục, nếu
thông khí tháng chế lại không thông khí thủy, là bình thƣờng.
+ Ngày Quý Sửu giờ Kỷ Mùi, cao. Năm tháng đều có Sửu, là bần bạc. Thìn Tuất Sửu Mùi,
thổ vƣợng, chủ bệnh mắt, bần tiện. Thông khí kim mộc thủy, quý. Tháng Ngọ, vận đông bắc,
làm quan hàng lục thất phẩm.
+ Ngày Quý Mão giờ Kỷ Mùi, năm tháng Tý Tị Mùi, quan hàng nhị phẩm. Chữ Tị Dần, thụ
hình lục thân.
+ Ngày Quý Tị giờ Kỷ Mùi, là Tài Quan song mỹ, trụ không có Mậu thổ, có Mão mộc hợp
cục, lấy thời thƣợng Thiên Quan, có chế, là quý.
+ Ngày Quý Mùi giờ Kỷ Mùi, cao. Mùa xuân Thiên Quan có chế, cát. Hạ, bình thƣờng. Thu,
Dông thân vƣợng, tháng Thân hành mộc vận, hiển quý. Năm Tị Thìn, làm quan hàng lục
khanh.
+ Ngày Quý Dậu giờ Kỷ Mùi, năm tháng Dần Tị Thân Dậu Sửu Tuất, quý.
+ Ngày Quý Hợi giờ Kỷ Mùi, quý. Sinh tháng Mùi, trung hiếu song kim, làm quan đến chức
Phong hiến. Nhƣ Sát Quan hỗn tạp, e rằng không tốt. Năm tháng Hợi, quý.

Thiên Quan ám Quỷ chôn trong khố,


Nguy hiểm khó khăn không tụ tài;
Sửu Tuất gặp nhau mở khóa cát,
Trong vượng quý phúc định vô tai.
Ngày Quý lâm giờ Kỷ Mùi, trong khố bao Quỷ thân suy, không gặp Mão Tuất chìa khóa mở,
đóng khố không thể thông thái. Hoa nặng rơi thắt nút vinh hoa, anh em song thân khó mà hài
hòa, dẫu cho trƣớc bần sau phú, bỏ cũ đón mới không trở ngại.
27-04-16, 12:52
lesoi
Đoán ngày Lục Quý giờ Canh Thân
269 | Tam mệnh thông hội

Ngày Lục Quý sinh giờ Canh Thân,


Quan tinh Ấn vượng ở trong chi;
Trong trụ không Kỷ Bính Dần Tị,
Tự có vinh hoa thời phú quý.
Ngày Quý giờ Canh Thân, lấy Chuyên Ấn hợp Lộc. Quý lấy Mậu là Chính Quan, Canh là
Chính Ấn, trên Thân có Canh vƣợng Mậu sinh, lấy Mậu Bính ở trong Thân hợp Tị, ngày Quý
đƣợc Tài Quan, nếu có chỗ dựa, trong trụ không có Tài cùng phá hại hình xung Quan Ấn, thì
quý; trong trụ có Tài, hành Tài vận, tiến thoái phản phục, là thiếu quý.
+ Ngày Quý Sửu giờ Canh Thân, năm tháng Thìn Tuất Sửu Mùi, văn chƣơng cái thế, làm
quan đến hàng tam phẩm. Tháng Tý tọa lộc, cũng cát.
+ Ngày Quý Mão giờ Canh Thân, tháng Mão lấy Hợp Lộc cách, vận tây bắc là quý, mắc áo
gấm bào. Tháng Thân, vận đông bắc, làm phong hiến. Năm tháng thấy Canh Thìn, Canh
Tuất, là Chính Quan cách, quý. Tháng Thìn, vận kim thủy, làm quan hàng thất phẩm.
+ Ngày Quý Tị giờ Canh Thân, bần, cũng là Hợp Lộc cách. Sinh tháng Mùi, học vấn thành
tựu, vận tây bắc, quý; hành vận đông cũng quý.
+ Ngày Quý Mùi giờ Canh Thân, trụ có Giáp Dần, Ất Mão, Kỷ và Giáp hợp, Ất và Canh hợp,
thê hiền tử hiếu, về sau vinh hoa. Năm tháng Dậu Thân, quan hàng tam tứ phẩm. Sinh mùa
thu, hành vận mộc hỏa, quan hàng nhị tam phẩm. Hợi Mão, văn tiến quý.
+ Ngày Quý Dậu giờ Canh Thân, năm tháng Mão Dậu Tuất Dần, quý. Thân Dậu, vận hỏa
mộc, đại quý.
+ Ngày Quý Hợi giờ Canh Thân, tính bình, thân cô. Tháng Mão Mùi, hiếu học, quý mệnh.
Thân, cũng quý. Tý Thân, là có cận quyền.

Ngày Quý Canh Thân tử tế suy,


Vũ môn thâm xứ thấy Rồng bay;
Văn chương đắc trợ hùng uy lực,
Trụ hợp Tài Quan chỗ quý hiếm.
Ngày Quý giờ gặp Canh Thân, Ấn thụ cùng Quan tinh hợp, Hợi Dần Thân Bính Tị hình xung,
lập thân ly hợp bất định. Không phá hoàng giáp hiển tính, thƣờng nhân Tài lộc an bình, nếu
không có hình hại cùng Tai tinh, chính là Gà hóa thành Phƣợng.
27-04-16, 12:53
lesoi
Đoán ngày Lục Quý giờ Tân Dậu

Ngày Lục Quý sinh giờ Tân Dậu,


Tự thân thất địa lại sao có;
Trong chi minh ám bị Tân thương,
Vô trợ lợi danh không thành tựu.
Ngày Quý giờ Tân Dậu, là minh ám Kiêu thần. Quý thấy Tân là Đảo Thực, trên Dậu có Tân
vƣợng, Quý bị thất địa, nếu không chỗ dựa cứu trợ, thì xấu; có chỗ dựa là cát.
+ Ngày Quý Sửu giờ Tân Dậu, mùa thu là Ấn thụ cách, hành vận Quan Sát, cát. Đông, phúc
lộc song toàn. Năm tháng Tý Dần, can đầu không có chữ Mậu Kỷ là quý.
+ Ngày Quý Mão giờ Tân Dậu, là ngày Nhật Quý cách, tháng Thìn Tuất Sửu Mùi, quý. Năm
tháng Tý Mão, đại quý. Tị Ngọ, cũng quý. Lại nói bất lợi cho thê tử.
+ Ngày Quý Tị giờ Tân Dậu, cô nhi. Năm Dần Mão, tháng Thìn Tuất Sửu Mùi, quý. Tý Ngọ
Mão Dậu, là trung quý. Dần Thân Tị hợi, rất quý.
+ Ngày Quý Mùi giờ Tân Dậu, xuân bần, hạ trƣớc khó sau dễ, thu cát, đông quý.
+ Ngày Quý Dậu giờ Tân Dậu, tháng Thân Dậu, Ấn thụ nhiều, có thể giữ tổ nghiệp, phá nhà
vợ. Tháng Tý Tị Ngọ, can thấu Canh Tân, là Lộc Quý Ấn thụ đều có đủ, quý không thể nói.
Dần Tuất, đeo đai vàng. Ngọ Hợi, đại quý. Tháng Sửu, Sát trọng là hung yểu.
270 | Tam mệnh thông hội

+ Ngày Quý Hợi giờ Tân Dậu, tháng Tuất, hành vận đông nam, đeo thắt lƣng vàng; đông bắc,
làm quan phong hiến. Tháng Tý Kiến Lộc, năm gặp Tài Quan, đại quý.

Thiên Nguyên là quý giờ Tân dậu,


Dụng tận tâm cơ độ nhật mang;
Quan Ấn tương sinh phùng Ấn hợp,
Trong hung thấy phú mà như thường.
Ngày Quý gặp giờ Tân Dậu, Thiên Ấn Đảo Thực khó cấm, trong trụ không có chỗ dựa mà an
bần, cũng gọi là tháng gặp Tài Quan. Chỉ sợ Quý thủy thất địa, không thể điều khiển sao
thắng, cốt nhục lục thân đều ở tây đông, là mệnh cả đời lao khổ.
27-04-16, 12:53
lesoi
Đoán ngày Lục Quý giờ Nhâm Tuất

Ngày Lục Quý sinh giờ Nhâm Tuất,


Trong chi Chính Quan sinh Tài khố;
Tháng kiêm có cứu nhiều thành quý,
Nếu không chỗ dựa thì không phú.
Ngày Quý giờ Nhâm Tuất, là Thủy Hỏa ký tế, Quý dụng Bính Đinh là Tài, Mậu thổ là Quan,
Mậu cùng Quý hợp vƣợng, là ngƣời mƣu trí, thông khí tháng có chỗ dựa là quý; không thông,
bình thƣờng; thông khí tháng hỏa thổ, phú quý song toàn; vận khí thông, cũng cát.
+ Ngày Quý Sửu giờ Nhâm Tuất, hình, tháng Hợi, đất thổ dầy là quý. Năm tháng Thìn Thân,
vận nam phƣơng làm Trạng nguyên. Tháng 5, vận phƣơng nam, làm quan Đô hiến. Nếu sinh
mùa xuân thu, vận nam phƣơng, làm quan hàng bát cửu phẩm.
+ Ngày Quý Mão giờ Nhâm Tuất, là Nhật Quý cách, năm tháng Dần Tị, can thấu Mậu Đinh
Tài Quan mà vƣợng, đại quý có quyền. Các năm tháng là Mão Thìn Sửu Ngọ Tý, là văn quý.
Dậu Tuất, vận kim thổ, địa vị hàng ngũ lục phẩm.
+ Ngày Quý Tị giờ Nhâm Tuất, là Tài Quan song mỹ, xuân bình thƣờng, hạ thu đông thì quý.
Năm tháng có Thìn Sửu Mùi Dần Dậu, làm quan Phong hiến.
+ Ngày Quý Mùi giờ Nhâm Tuất, hình. Sinh tháng Tị, địa vị hàng tam tứ phẩm. Năm tháng
Canh Tý, là cận quý.
+ Ngày Quý Dậu giờ Nhâm Tuất, tháng Hợi Tý, tài trí cao quý, thê hiền tử hiếu. Xuân, bình
thƣờng. Hạ, Tài Quan, thu Ấn thụ, đều cát. Thìn Sửu, hình xung Tuất khố, phú quý lƣỡng
toàn. Tháng Tuất, vận đông nam là võ quý.
+ Ngày Quý Hợi giờ Nhâm Tuất, sinh mùa xuân, Thƣơng quan kiến Quan, hạ là Tài vƣợng,
thu, đông thì cát, danh lợi có thành. Tháng Tuất Thìn, hành vận Hợi Tý, quý. Tháng Tý, hành
vận tây nam, mặc áo cẩm bào.

Thiên Ất Nhâm Quý xếp giờ Tuất,


Tài Quan trong khố đợi mở khai;
Không gặp hình xung Không đóng cửa,
Thiếu niên khó phát lại sinh tai.
Ngày Quý gặp giờ Nhâm Tuất, trong đó kho tàng dƣ đầy, Tƣớng tinh Thiên Đức cùng phù
trợ, Thìn Tuất chỉa khóa giúp mở kho. Thổ vƣợng trƣờng lƣu thủy cục, lục thân ân xứ khai
thành, không gặp Không vong có tăng dƣ, trung niên đến già hƣởng phúc vinh hoa.
27-04-16, 12:54
lesoi
Đoán ngày Lục Quý giờ Quý Hợi
271 | Tam mệnh thông hội

Ngày Lục Quý sinh giờ Quý Hợi,


Lộc Mã phi thiên lâm vượng thần;
Khống thấy Quan tinh kiêm sợ trói,
Tất là quý cách dị thường nhân.
Ngày Quý giờ Quý Hợi, là Lộc Mã Phi thiên cách, Quý thủy Hợi kiện vƣợng, Quý dụng Mậu
là Quan, Bính là Tài, trong Hợi Bính Mậu đều tuyệt, Quý không có Tài Quan, nhƣng Hợi đi
xung xuất Bính Mậu ở trong Tị, bay đến là quý ở Tài Quan, trụ không có Mậu Kỷ sợ hợp trói
cùng Quan tinh phá Lộc, nếu thấy Canh Tân, thanh bạch mà tú lệ, là ngƣời trí tuệ, là quý.
+ Ngày Quý Sửu giờ Quý Hợi, lấy Củng Lộc cách. Sinh tháng Tị Dậu Sửu, là Phúc Dức tú
khí. Tháng Ngọ bình thƣờng. Tháng Mão Dậu, hành nam vận, làm quan Phong hiến, nhƣng
ngắn thọ.
+ Ngày Quý Mão giờ Quý Hợi, bình thƣờng, là Nhật Quý cách. Tháng Dần Mão, lấy Thƣơng
quan luận, hành vận kim thủy, Phong hiến. Tháng Thìn Tuất Sửu Mùi, Quan vƣợng. Thuần
Mão, địa vị tam phẩm. Thìn Tuất cùng Mão hình, chủ cô bần.
+ Ngày Quý Tị giờ Quý Hợi, sửu nguyệt, tạp khí ấn thụ. Quý. Hợi tử niên nguyệt, hành nam
vận, quý. Hựu lộc mã đồng hƣơng cách, tị thân niên nguyệt, đại quý.
+ Ngày Quý Mùi giờ Quý Hợi, dƣới Thân tọa Tài Quan. Tháng Thìn Tuất Sửu Mùi, hành vận
đông bắc, quý. Mùa thu, đông vận, địa vị hàng thất bát phẩm; can thấu Chính Ấn, Chính
Quan, làm quan.
+ Ngày Quý Dậu giờ Quý Hợi, tháng Thìn Tuất Sửu Mùi, sinh nhai toại ý. Tháng Dậu, hành
vận đông bắc, địa vị bát cửu phẩm. Tháng Thân, vận đông phƣơng, là ngũ phẩm.
+ Ngày Quý Hợi giờ Quý Hợi, tính tình phóng khoáng, trung niên đại phú. Sinh mùa đông, là
Phi thiên Lộc Mã, không có chữ Mậu Tị Tý điền thực sợ trói buộc, là quý hiển; nếu không, cô
khắc làm tăng đạo, cũng chủ thanh cao. Năm tháng là Thìn Hợi, can thấu Tân Nhâm, không
có chữ Tị điền thực, có trí tuệ, đại quý. Tháng Mão, làm quan. Tị Sửu cũng quý.

Âm thủy trùng trùng thấu sóng biển,


Thiếu niên không gặp mà vô ích;
Khốn Long đắc chí mới có hóa,
Không gặp thời đến Hổ nằm không.
Ngày Quý gặp giờ Quý Hợi, là Bại tài mang Lộc hanh thông. Hỷ ở mùa Thu Hạ, kị xuân
đông, Mậu Bính Canh mộc là phú thịnh. Tị Hợi Giáp Bính là phản phục, lục thân đa số là
không thân thiện. Cả đời phiêu lãng bất định, mệnh trƣớc bại sau thành.

(Hết quyển 8)

lesoi
Quyển 9
Quyển 9:

Khẩu quyết xem mệnh

Xem mệnh nói chung, trƣớc tiên xem Chi tháng, có hay không có Tài Quan, mới xem cái
khác, Nguyệt lệnh là mệnh vậy. Tháng lấy chi thần, năm lấy thiên can, ngày lấy thiên can,
lƣu niên thái tuế lấy thiên can, đại vận lấy chi thần. Năm là gốc, Ngày là chủ. Nhƣ tháng có
Chính Quan cùng Thiên Quan, mà giờ lại nhập cách khác, chỉ lấy trong tháng mà thủ cách,
không dùng cách khác. Nhƣ nguyệt lệnh hoàn toàn không thể sử dùng, mới xem cách khác.
272 | Tam mệnh thông hội

《 Cổ ca 》nói:
“ Tam cung mang cách tạp khó tìm,
Không hiểu dựa ai là mới quý.
Cho dù ba cung đều mang cách,
Loại ra chỉ được dụng đề cương”
( Đề cƣơng còn gọi là Nguyệt lệnh, tức là Chi tháng). Là vậy.

Nguyệt lệnh dụng địa chi, giả nhƣ có Quan tinh, trên dƣới cần phải có can chi thấu ra mới tốt;
hoặc can thấu ra, trong chi không thấu, cơ bản chỉ là thông minh tuấn tú. Kỵ năm cùng giờ
xung nhau, còn chi tháng chi ngày tự xung thì không ngại, đại vận cùng Tuế quân đến xung
chi tháng thì gặp họa.
Phàm Chính Quan có một vị, chính là quý nhân quân tử, trung hậu thuần túy, cƣơng trực liêm
minh; năm và giờ có Ấn lại càng tốt, nhiều thì trái lại chủ thành bại. Bốn vị trí đều thuần
Quan, làm quan hƣ danh. Phàm Thất Sát một vị, thông minh linh lợi, hai vị, ba vị thì trƣớc
trong sau đục. Tứ trụ thuần Sát, có chế là quý, không có chế thì bần.
Phàm Tài có một vị, việc phải đƣợc thời, phú quý thành gia, tính tình nóng vội; hai vị, tính
khí giảm nửa; ba vị, bốn vị, hao khí mà thân suy. Nếu thân quá vƣợng thì có thể thành lập,
suy nhƣợc thì nhận sự lao khổ.
Phàm Ấn, không luận một vị, hai vị, bốn vị cũng tốt, trong cách không nên thấy Tài phá Ấn.
Thông thƣờng hành vận tốt, nhật can gây tổn thƣơng can đầu lƣu niên, tuế quân thì họa nhẹ.
Hành vận không tốt, nhật can tổn thƣơng can đầu Tuế quân thì họa nặng, nếu đã qua phát thì
chết.
Thìn Tuất Sửu Mùi, tất cả đều có ba phần dƣ khí. Ví dụ nhƣ hành Ngọ vận tới Mùi có ba
phần hỏa khí, hành Tý tới Sửu có ba phần thủy khí, không thể hoàn toàn lấy thổ mà luận.
Phàm Dƣơng Nhận cách, Tuế Vận sợ nhất là cùng xung hợp. Can Thái Tuế hợp can ngày giờ,
gọi là Hối khí Sát; Can chi ngày giờ cùng can chi lƣu niên giống nhau, là Chuyển chỉ Sát.
Nhƣ loại ngày Canh Thân thấy Thái tuế là Canh Thân hoặc là Canh Dần, nhẹ thì di chuyển đi
xa, nặng thì phá gia bại sản.
Phàm năm, tháng, ngày có cát thần, yêu cầu giờ dẫn quy về xứ sinh vƣợng; có hung thần, yêu
cầu giờ dẫn quy về nơi chế phục. Nếu ở trên trụ giờ mang theo cát thần hoặc hung thần, cũng
cần năm, tháng, ngày ở trên có sinh cho cát thần, hung thì chế. Trụ tháng có dụng thần thì
đƣợc lực của tổ tông, trụ giờ có dụng thần thì đƣợc lực của con cháu, trái lại chỗ này thì
không đƣợc lực.
Phàm xem mệnh, lấy can ngày dụng là Thiên nguyên, lấy can là Lộc; chi ngày, chi tháng
dụng là Địa nguyên, lấy chi là mệnh. Ví dụ ngày Nhâm Quý, tháng Kỷ Mùi, can chi thấu ra
Tài Quan là vậy.
28-04-16, 12:45
lesoi
Luận Tài Quan có gốc hay không, địa chi vốn có Tài Quan, thiên can không lộ ra thì không
xét; nếu địa chi không có Tài Quan, nhƣng mà thiên can thấu ra, dù là hành vận tốt, cũng
không làm đƣợc việc.
Xem Lƣu niên Tuế quân, chỉ sử dụng Thiên nguyên. Nhƣ hành vận dù có xem trọng ở địa
chi, cũng phải xem thêm thiên nguyên. Trong trụ nhân mệnh hoặc có Quan tinh, hoặc có
Thiên quan, có chế phục thái quá, mà vận thấy ở Quan Sát, thì có thể phát; Chi vận không có
Tài, mà Can vận thấy Tài, cũng có thể là phúc vận; chi không có Sát mà can vận thấy Sát,
cũng có thể có họa.
Nhân mệnh lấy tháng sinh là nguyên vận, rất sợ đại vận cùng Tuế Quân đến xung thì gặp họa.
Nên lúc sinh là Quan tinh là Lộc nguyên, rất sợ xung phá. Nhƣ ngƣời sinh ngày Đinh, lấy
Nhâm là Quan, mà sinh tháng Hợi, trong Hợi có Nhâm là Lộc của Đinh, nếu năm và giờ có
chữ Kỷ thì xung phá Lộc nguyên.
273 | Tam mệnh thông hội

Lúc sinh là Mã nguyên, rất sợ bị Kiếp (cƣớp) đoạt, nhƣ ngƣời sinh ngày Canh, lấy Giáp Ất
mộc là Tài, mà sinh tháng Dần Mão, trong Dần có Giáp mộc là Thiên Tài, trong Mão có Ất
mộc là Chính Tài, nếu năm giờ có chữ Tân, thì có họa tranh đoạt. Tuế vận cũng luận giống
vậy.
Phàm ở trên can năm có Quan tinh, phúc khí rất dày; có Thất Sát, thì cả đời không thể loại ra.
Quan tinh là Lộc, Tài tinh là Mã. Hành Quan tinh thì phát quan, hành Tài tinh thì phát tài, cả
hai không thể thiếu một, tất cả đều có chỗ dùng.
Trên năm tháng có Tài Quan, nhất định sinh ra ở nhà phú quý, có căn cơ tổ phụ. Thiếu niên
lại hành vận Quan Lộc, phần đa nhận chức ở thiếu niên, sớm phát công danh; năm tháng
không có Tài Quan, mà ngày giờ có, thì bản thân tự lập.
Nhân mệnh lấy Tài Quan làm gốc, trong trụ chỉ có một, cũng có thể phát phúc;
Nếu tứ trụ vốn không có Quan tinh, không nhập cách khác, can chi năm tháng ngày giờ có
Tài nhiều, lại hành vận Tài vƣợng, cũng có thể thành tựu công danh. Lấy Tài vƣợng tự có thể
sinh Quan, cần thân vƣợng mới có thể tốt. Năm tháng không có Tài Quan, thiếu niên lại hành
vận không tốt, phần đa là xuất thân nơi thấp hèn, phá tổ hại cha. Không có phúc hiện hành.
Phàm xem mệnh, có Quan Sát hỗn tạp, Thƣơng quan hợp thần nặng, nam mệnh phạm thì đam
mê tửu sắc; nữ mệnh phạm thì không có ngƣời làm mai mạ tự lấy chồng.
Phàm xem mệnh, chuyên lấy Nhật can làm chủ, thủ dụng vật ở chỗ Đề cƣơng. Thí dụ Nguyệt
lệnh lấy kim, mộc, thủy, hỏa, thổ là dụng, nhƣng có một điều kiện là: lấy tiết khí trƣớc sau,
khinh trọng thiển thâm, thành cục, xung phá phải khảo cứu tỉ mĩ. Gọi là Quan, Ấn, Tài, Sát,
Thực, Thƣơng, lấy 6 phép này dùng làm tiêu chí.
Gặp Quan xem Tài, gặp Sát xem Ấn, gặp Ấn xem Quan. Lấy bốn thần này không thiên vị,
bởi vì sinh khắc chế hóa là Thƣợng; gặp phá hại hƣu tù là Hạ; Vận có sinh có khử là phúc, có
trợ có cƣớp là họa.
Cũng có dụng chi năm, ngày, giờ thành cách cục, nhƣng đều lấy Nguyệt lệnh làm dụng. Giả
nhƣ tháng dụng kim chỉ dụng kim, dụng hỏa chỉ dụng hỏa. Trong 18 cách, lấy 6 cách làm
trọng. Dụng tƣơng sinh để định cách hợp cục, nhƣng dụng năm, ngày, giờ là Hạ để suy khinh
trọng, nông sâu. Nhƣ gặp Quan dụng Ấn không sợ Sát, là Sát Ấn cục, Ấn thân cục, vẫn thủ
lấy Thƣợng cục; Gặp Ấn xem Sát, nếu có Quan Sát ở mệnh, hành đất Quan Sát, cũng lấy quý
luận.
28-04-16, 12:46
lesoi
Nguyệt lệnh gặp Quan, trong trụ gặp Tài, Tài vƣợng sinh Quan chính là phú quý. Trong trụ
thấy Tài, phải vào vận Tài vƣợng mới phát phúc. Nhƣng khi thấy một Sát, thì lấy Sát làm
trọng, không thể dụng Tài; nếu hành vận Tài vƣợng là Tài sinh đảng Sát, thì nói lấy bần tiện,
phàm cách lấy Sát làm trọng.
Phàm trong mệnh, trƣớc tiên xem Can thần có khắc chế hay không, Chi thần có hình xung
hay không, nạp âm can chi có khắc chiến hàng phục hay không. Nhƣ Giáp lấy Dần là lộc,
xem ở trên Dần có thiên can nào? Giáp lấy Tân là Quan, mà Tân đƣợc chi nào?
Can không xâm phạm Chi, vì Trời là bề trên. Chi không phạm Can, vì Đất là bề tôi; Ngũ
hành không làm hại nhau, vì Ngƣời là thuận theo; Tứ Mạnh không tƣơng hại, vì Mã là có thể
phi nhanh. Nếu can xâm phạm Chi, là ngũ hành hại nhau.
Lại cần phân biệt, Chủ Bản có khí hay không, hữu dụng hay vô dụng, có cứu hay không có
cứu, thành cách hay không thành cách? Là vì can chi đan chéo nhau, ngũ hành biến hóa, tạo
hóa ở trong đó vậy!

Lý Thuần Phong nói: Ngũ hành sinh vƣợng, xem phúc khí qua lại; Ngũ hành tử tuyệt, nhờ
cát thần cứu trợ. Ngũ hành đắc địa, nạp âm tƣơng sinh, cát thần không có trợ giúp thì cũng
vinh; ngũ hành vô khí, nạp âm gây trở ngại nhau, thì dù có cát thần cũng vô dụng.
274 | Tam mệnh thông hội

Phàm mệnh, Thiên nguyên hỷ Địa nguyên có lộc:


Nhƣ Giáp Kỷ hỷ tứ quý, Ất Canh hỷ Thân Dậu, Bính Tân hỷ Hợi Tý, Đinh Nhâm hỷ Dần
Mão, Mậu Quý hỷ Tị Ngọ.

Địa nguyên hỷ Thiên nguyên có hợp:


Nhƣ Tý Sửu hỷ Mậu, Dần hỉ Kỷ, Mão Thìn hỷ Canh, Tị hỉ Tân Quý, Ngọ hỷ Giáp Nhâm,
Thân hỷ Ất, Dậu Tuất hỷ Bính, Hợi hỷ Đinh.
Thiên nguyên, Địa nguyên đều có, cả đời có phúc khí cao lớn; tất cả đều không có, thì danh
lợi không thành.
Phá hƣ Thiên nguyên thì trƣớc 39 tuổi danh lợi khó phát; phá hƣ Địa nguyên thì sau 40 tuổi
phúc không bằng trƣớc.
Nếu Thiên nguyên tọa lộc tú khí, ví dụ nhƣ Quý đƣợc Tý, Giáp đƣợc Dần, thì không quý
cũng phú.

Địa nguyên kỵ Thiên nguyên tương khắc:


Nhƣ Tý Sửu sợ Kỷ, Dần sợ Canh, Mão Thìn sợ Tân, Tị sợ Giáp Nhâm, Ngọ Mùi sợ Ất Quý,
Thân sợ Bính, Dậu Tuất sợ Đinh, Hợi sợ Mậu. Lại xem hỷ kị nhƣ thế nào, không thể chấp
nhất mà luận.

Phàm mệnh, thủ can chi cùng nạp âm giống nhau:


Nhâm Tý Nhâm Ngọ là chân mộc, Kỷ Dậu Kỷ Mão là chân thổ, Bính Tý Bính Ngọ là chân
thủy, Mậu Tý Mậu Ngọ là chân hỏa, Ất Sửu Ất Mùi Canh Thìn Canh Tuất là chân kim.
Nhƣ ngày Ất Dậu giờ Canh Thìn là kim tinh; ngày Đinh Tị giờ Bính Ngọ là tinh hỏa; ngày
Quý Hợi giờ Nhâm Tý là tinh thủy; ngày Kỷ Sửu giờ Mậu Thìn là tinh thổ; ngày Giáp Dần
giờ Tân Mão là tinh mộc. Nếu gặp nhƣ ở trên đều chủ phú quý.
Nhƣ ngƣời mệnh hỏa có ngày Bính giờ Tân, ngày Tân giờ Bính; mệnh mộc có ngày Giáp giờ
Kỷ, ngày Kỷ giờ Giáp; mệnh thổ có ngày Mậu giờ Quý, ngày Quý giờ Mậu; mệnh thủy có
ngày Nhâm giờ Đinh, ngày Đinh giờ Nhâm; mệnh kim có ngày Canh giờ Ất, ngày Ất giờ
Canh, dù là ngũ hành chân quý, phạm nặng thì giảm phúc.
28-04-16, 12:48
lesoi
Phàm mệnh thủ chân khí ngũ hành giao hỗ:
Nhƣ mệnh Tân Hợi kim đƣợc Đinh Tị thổ, có Đinh Nhâm qua lại hợp chân mộc, có Bính Tân
qua lại hợp chân thủy; Mệnh Đinh Tị thổ đƣợc Quý Hợi thủy, có Mậu Quý qua lại hợp chân
hỏa, có Đinh Nhâm hợp qua lại chân mộc; Nhƣ tạo: Mậu Tuất, Quý Hợi, Đinh Tị, Tân Hợi,
đầy đủ giao hỗ chân khí, là mệnh của Tể tƣớng vậy.
Mậu Ngọ hỏa đƣợc Nhâm Tý mộc, trong có Đinh Nhâm là chân mộc, Mậu Quý là chân hỏa.
Bính Thân hỏa đƣợc Ất Dậu thủy, trong có Bính Tân là chân thủy, Ất Canh là chân kim.
Canh Dần đƣợc Kỷ Mão thổ, trong có Giáp Kỷ là chân thổ, Ất Canh là chân kim. Nhƣ Canh
Dần, Kỷ Mão, đều là giao hỗ, chính là mệnh lƣỡng phủ vậy.

Phàm mệnh trước luận hóa khí, suy xét 《 Chương Ngũ vận 》:
Lấy Giáp Bính Mậu Canh Nhâm hợp ngũ can âm gọi là thái quá, Ất Đinh Kỷ Tân Quý hợp
ngũ can dƣơng gọi là bất cập. Giữa thái quá và bất cập, là có quyền bảo lƣu chỗ này.

Xét 《 Sách Thiên nguyên biến hóa 》, lại phân ra ngày và đêm. Nhƣ: Ngƣời Lục Giáp
sinh ban ngày dụng thủy, sinh ban đêm là hóa thổ. Là do ngƣời Lục Mậu đƣợc Giáp, thủ sinh
ban ngày là Quỷ, sinh ban đêm là dụng Quan; Ngƣời Lục Ất sinh ban ngày dụng kim, sinh
ban đêm dụng mộc. Là do ngƣời Lục Kỷ sinh ban ngày là Quan, sinh ban đêm là Quỷ. Riêng
275 | Tam mệnh thông hội

chỉ có Lục Kỷ, Lục Canh là bất biến, là lấy: Ngũ can dƣơng sinh ban ngày làm bản thể, sinh
ban đêm là lấy hóa xem; ngũ can âm sinh ban đêm làm bản thể, sinh ban ngày là lấy hóa xem.

+ Loại Lục Dƣơng, mệnh nam phạm Lộc Quỷ Đảo Thực, cần thủ sinh ban đêm, thì phản
hung thành cát. Hô Quỷ thành Quan, Đảo Thực thành Hỷ thần, lại lấy sinh ban ngày là thuận;
+ Loại Lục Âm, mệnh nam phạm Lộc Quỷ Đảo Thực, cần thủ sinh ban ngày, thì phản hung
thành cát. Còn lại giống nhƣ trƣớc, lại lấy sinh ban đêm là thuận.
Mệnh nữ thì ngƣợc lại chỗ này.
Chỗ này là khí tƣợng ngày và đêm, là phối hợp âm dƣơng, cƣơng nhu, thể dụng vậy.
28-04-16, 12:48
lesoi
Phàm mệnh, ngũ hành ở dƣới sinh trên viết là Trợ khí (giúp khí), chủ cả đời tự nhiên hƣởng
phúc. Trên sinh dƣới viết là Đạo khí (cƣớp khí), chủ cả đời cung cấp phúc cho ngƣời khác.
Trên khắc dƣới viết là Thuận, chủ có uy thế mà quản thúc con ngƣời; dƣới khắc trên viết là
Nghịch, chủ phần nhiều trì trệ và khó phát, tử tuyệt thì càng nhanh, sinh vƣợng thì chậm hơn.
Tứ trụ nạp âm nhiều Quỷ, Chủ Bản nắm thời, gọi là ngày Quan tinh thừa vƣợng; nạp âm Tài
nhiều, Chủ Bản vô khí, gọi là Tài đa hại thân.
Phàm xem mệnh, ngũ hành quý ở âm dƣơng bằng nhau, nhƣ: loại 2 kim thấy 2 mộc, hoặc 2
hỏa 2 thổ 2 thủy, từng loại thành tƣợng mới cát;
Nhƣ thái quá, bất cập, nhƣ loại ba thủy một mộc, một thủy ba mộc, đều không là phúc. Nhƣ
ngƣời mệnh kim thấy 3 kim 1 mộc, kim khắc mộc là Tài, 3 kim tranh 1 mộc, thì phúc bị phân
đoạt, phần đa chủ tài vật không thành. Nếu 1 kim 3 hỏa, hỏa nhiều kim ít, bị nung thái quá, cả
đời chủ không nhàn.
Lại nhƣ ngƣời Giáp, gặp 3 Nhâm 3 Kỷ, nói là 3 phối 3 đoạt, chủ không cát. Nếu gặp 2 Kỷ, 2
Canh, gọi là trọng ngẫu trọng thƣơng, nếu là 3 thì càng hung, không bần thì yểu. Còn lại theo
đó mà suy.
Xuân vƣợng hỏa nhiều, thích hợp Tây Bắc hkố là ngày trở về; Hạ mờ kim vƣợng, lợi Đông
Nam đất quỷ là đất thọ. Tứ Nhận tinh trọng, chết ở dƣới Chính Tài; Một Quan ít quý, cuối
cùng ở trong Dƣơng Nhận. Tứ trụ đều là Thƣơng là ngƣời tự chết. Kim thần nhập thủy thì
gặp họa. Dƣơng Nhận Đảo Qua làm quỷ không đầu; Sát tinh trùng Nhận, chết còn nửa thân.
Chế phục trung hòa, Sát đầy cực điểm mà khí tử. Sinh phù thái quá, Ấn quá vƣợng thì chết.
Thƣơng quan nhập mộ tử, rất cần nhìn cục về sau. Dƣơng sinh mà âm tử, âm tử mà dƣơng
sinh. Sát gặp tam hợp thái quá tất phải suy ngã, nên cần suy xét trong ngũ hành tiêu tƣờng.
Phàm xem mệnh: Ngũ hành thái quá hay bất cập, là nguyên nhân không có phúc, trong đó
cũng có khác nhau. Nhƣ thủy thổ không sợ tử tuyệt, bởi vì ở giữa trời đất đều đầy thủy thổ,
không phân ra bốn mùa, sao lý có Tử Tuyệt? Nhƣng phải biện khinh trọng, nhƣ ở trong thổ
chỉ có một chút thủy thì khô, trong một chút thổ mà nhiều thủy làm úng thì tan rã. Cần phải
luận nhiều ít, mà phân khinh trọng vậy.
Kim không thổ thì không sinh, mộc không thủy thì không lớn, là do kim mộc muốn sinh
vƣợng, mà rất sợ tử tuyệt. Nhƣ kim tử thì bị chìm, mộc tử thì thành tro bụi, cùng với thủy thổ
khác nhau. Hỏa tàng ở mộc, vốn có ở thổ, cho nên không muốn vƣợng, vƣợng thì bị thiêu
cháy; cũng không muốn tử, tử thì diệt, duy chỉ đƣợc cân bằng thì tốt. Ngũ hành đều dựa vào
thủy thổ, phàm mệnh mộc kim hỏa, càng cần có vậy.

Phàm xem mệnh: Thƣơng quan kiến Quan mà chết sớm, Thất Sát kiến Tài thì yểu vong, Tài
gặp Kiếp phải chết, trọng Tài phá Ấn là hung. Thủy thịnh mộc lƣu, cuối cùng làm quỷ bên
ngoài; Thực thần phùng Kiêu, chết trong lao ngục. Kiếp trọng thấy Tài là chết, Sát vƣợng thì
treo căn ngừng. Vong Thần Thất Sát xung hình, không phải kẻ tù tội thì cũng chết. Dây trói
cƣơng Thƣơng quan, cùng Dƣơng Nhận đều trọng, dù thây thể còn nhƣng chết bởi cảnh đổ
máu. Tài tinh thấy Nhận, thì Tài tán ngƣời vong. Sinh Vƣợng tử ở Khố Mộ, Khố Mộ tuyệt ở
276 | Tam mệnh thông hội

Sinh Vƣợng. Về sau hành vận tốt, không vào hung vận, vì sao lại chết đột ngột? Có đến hung
vận, về sau cát vận phát phúc luận làm sao? Nên nghiên cứu nguyên do Tiến khí Thoái khí,
lại suy xét nghĩa chƣa phát hay đã phát. Tƣơng lai mà tốc tiến, công lạo đã sinh quy về trƣớc
đây. Cả đời tuế vận đều hung, thiếu niên chết sớm; cuối đời mệnh tinh đắc địa, thọ lão càng
cao. Già sợ sinh vƣợng, ít sợ tử tuyệt; Dƣơng Nhận phùng sinh phần đa chết dữ, có căn Sát
vƣợng cuối cùng định hung.
28-04-16, 12:50
lesoi
Phàm thủ tượng ngũ hành: Bản tƣợng thủ bản tƣợng, nhƣ loại Giáp Ất Bính Đinh là tƣợng
mộc hỏa. Hóa tƣợng thủ hóa tƣợng, nhƣ loại Mậu Quý, Đinh Nhâm, cũng là tƣợng mộc hỏa.
Tƣợng kim thủy không thể thấy thổ, gọi là Thổ tạp Thủy hỗn, thì kim sẽ không thanh. Tuế
vận gặp thổ cũng trì trệ, duy chỉ có kim thủy là không tạp, sinh ở mùa thu là rất quý.
Như mệnh Minh Thần Tông: Quý Hợi, Tân Dậu, Quý Hợi, Tân Dậu. Can chi đều là thuộc
kim thủy không tạp, tháng kim sinh thủy, là kim trợ thủy thanh, thành tƣợng 2 thủy 2 kim,
gọi là Kim bạch Thủy thanh, đặc biệt không có lẫn tạp, hợp lại Lƣỡng Can bất tạp, cho nên
tôn làm thiên tử.
Như tạo: Quý Dậu, Quý Hợi, Canh Tý, Tân Tị. Kim sinh tháng thủy, kim lại bị thủy tiết khí,
chìm ở trong Hợi Tý, cho nên không tránh khỏi họa về nƣớc.
Tƣợng kim thổ không thể thấy mộc, gọi là mộc khắc thổ, thì thổ không thể sinh kim, là không
thành tƣợng vậy. Thổ tích thành kim, thổ nhiều kim ít, là phúc thật dày. Kim trọng thổ khinh,
phúc xuất gian lao.
Tƣợng kim hỏa không thể thấy thủy, thấy thủy thì hỏa diệt kim chìm, không thể thành khí.
Kim trọng hỏa khinh, phát chậm ích thọ. Kim khinh hỏa trọng, phát sớm mà thoái nhanh,
hoặc chủ thọ giảm.
Tƣợng kim mộc không thể thấy hỏa, vì Hoạt mộc sợ kim, thấy hỏa thành tú. Tử mộc đƣợc
kim mới thành tạo hóa. Kim trọng mộc khinh, thì bệnh đau xƣơng cốt; Mộc trọng kim khinh,
chủ tổn hại tiền tài, hoặc bị tấn công phế tật, duy chỉ có kim mộc là thích hợp, cát.
Tƣợng thủy mộc tú mà thanh cao, không thể thấy Mão Tị, vì thủy tử tuyệt; Tƣợng mộc hỏa tú
mà phong phú, không thể thấy kim, vì mộc bị khắc. Lƣu niên mà gặp thì có họa.
Tƣợng thủy hỏa thành Ký tế là rất tốt, hoặc là Vị tế cũng đƣợc. Không thể thấy thổ, hỏa nhiều
tính táo khô, thủy nhiều thì bệnh mắt. Hỏa sợ tử, sợ thủy tắm, nhập Dậu thì hỏa tử thủy tắm,
chủ gian nan mà chết. Tuế vận cũng nhƣ vậy, tƣợng này kị ngày giờ.
Tƣợng thủy thổ không thể thấy hỏa, thổ trọng thủy khinh, tú mà không thực; thủy trọng thổ
khinh, lại có khoa danh.
Tƣợng hỏa thổ không thể thấy thủy, hỏa hƣ thổ tụ không thành vật, nếu cùng thủy lƣu thì chủ
chìm không còn. Nhƣ Mậu Tý Mậu Ngọ Kỷ Sửu Kỷ Mùi, Đinh Tị Đinh Hợi Bính Thìn Bính
Tuất. Bính Đinh cùng Mậu Kỷ kẹp nhau, là thổ tụ hỏa hƣ.
Lý Cửu Vạn lấy: Mậu Tý Kỷ Sửu Mậu Ngọ Kỷ Mùi, Bính Thìn Đinh Tị Bính Tuất Đinh Hợi,
đều là tƣợng hỏa thổ hỗn tạp, không thể lấy liên châu là quý. Thời thƣợng ( trụ giờ) gặp
Nhâm Quý thủy, là thổ trệ hỏa diệt, cả đời gặp trở ngại.

Lại nói: Hỏa hỏa thấy thổ thì ám, thổ thổ thấy hỏa thì hƣ. Thổ khinh hỏa trọng thì táo khô,
nhƣ ngày Kỷ Mão thấy giờ Nhâm Dần vậy. Hỏa khinh thổ trọng không sáng, nhƣ ngày Đinh
Dậu thấy giờ Mậu Thân vậy.
Nhƣ Hàn Học sĩ: Mậu Tuất, Đinh Tị, Mậu Tuất, Đinh Tị. Thành tƣợng hỏa thổ, lại còn gọi là
Phƣợng Hoàng Can Chi cách, cho nên quý. Kinh nói: Kim thủy đa thanh, kim thổ đa hậu, là
lấy tƣơng sinh; Kim hỏa đa cƣơng, kim mộc đa chính, là lấy tƣơng khắc. Hỏa thổ nhiều là
hại, hỏa mộc nhiều là thông, hỏa thủy nhiều là mê muội; hỏa kim nhiều là cƣơng trực. Mộc
hỏa là văn chƣơng tài hoa, mộc thủy là trong sạch; mộc kim là phƣơng thẳng, mộc thổ là độc
277 | Tam mệnh thông hội

hại, thủy hỏa trí tuệ, thủy mộc là trí nhân, thủy kim là tú lệ, thủy thổ nặng đục. Đều là lấy ngũ
hành mà suy.
28-04-16, 12:51
lesoi
Phàm mệnh sợ cùng loại hình phá nhau:
Nhƣ Kỷ Mùi thấy Giáp Thìn, Giáp Thìn thấy Kỷ Sửu, Kỷ Sửu thấy Giáp Tuất, Giáp Tuất
thấy Kỷ Mùi.
Phàm ở đất tứ xung, nạp âm cùng loại, lần lƣợt đếm nghịch hai vị. Dần Thân Tị Hợi, Tý Ngọ
Mão Dậu, cũng thủ lấy chỗ này, chủ cả đời không đủ, đa số không thành khí. 《Đạo kinh 》
nói: Tỉnh Lan hỗ phá, giống nhƣ có bác sĩ mà không có thuốc, gặp mấy lần Không vong, tuế
vận cũng kị.
Phàm mệnh, Chủ Bản gặp Tuế Vận, không thể gặp Tử địa. Nhƣ Bính Dần hỏa sợ Ất Mão
thủy, Tân Tị kim sợ Đinh Dậu hỏa, Giáp Thân thủy sợ Kỷ Mão thổ, Mậu Thân thổ sợ Nhâm
Ngọ mộc, Kỷ Hợi mộc sợ Giáp Tý kim. Cùng đồng nghĩa với ngƣời sống sợ chết. Chủ Bản
sinh tử cùng đƣờng thì không kị.
Phàm mệnh rất sợ Quỷ khắc, mà tổ Quỷ là tối độc. Nhƣ loại Bính Tý thủy thấy Canh Tý thổ,
Đinh Sửu thủy thấy Tân Sửu thổ.

Trong tổ vào vị trí tương khắc, cho nên nói là tối độc: Có Quỷ ở trong mộ, nhƣ loại Nhâm
Thìn thủy thấy Bính Thìn thổ, Bính Thìn thổ thấy Mậu Thìn mộc. Có bên cạnh Quỷ, nhƣ loại
Canh Tý thổ thấy Quý Sửu mộc; Có Không vong Quỷ, nhƣ Giáp Tuất thấy Giáp Thân Ất
Dậu, đều là có hại. Trong đó: Quỷ mộ nhẹ hơn Tổ Quỷ, kề Quỷ nhẹ hơn mộ Quỷ, Không Quỷ
nhẹ hơn kề Quỷ.

Như loại người mệnh mộc, được tháng hỏa, ngày giờ là kim: Có hỏa khắc kim, kim không
hại đƣợc mộc, là quản lý Quỷ vậy, thì quỷ không làm hại. Nhƣ ngƣời mệnh thủy, tứ trụ có
hỏa thổ, thổ khắc thủy, hỏa lại sinh thổ, là trợ giúp Quỷ vậy, thì Quỷ càng hung. Can chi
thông xuất, nạp âm tối khẩn. Quản Quỷ thì lập thân gian nan, còn trợ quỷ thì cốt nhục đa số
phát sinh đấu tranh.

Như trong quỷ có quỷ, gọi là Quỷ Khiếu ( Quỷ gào): Nhƣ loại ngƣời mệnh thổ sinh tháng
mộc, có ngày giờ là kim, lấy mộc khắc thổ, kim khắc mộc. Căn cơ suy kém thì hung, Chủ
Bản mà cƣờng kiện thì không kị.
Nhƣ mệnh họ Vƣơng: Kỷ Mùi, Ất Hợi, Bính Dần, Tân Mão. Gặp tam hợp sinh, lại gặp Dần
Mão là Kỷ nhập đất Quan, Bính và Tân hợp, là đại quý; sao Kỷ âm thổ gặp Ất mộc làm Quỷ,
Tân lại là quỷ của Ất mộc, biến Quan Dần Mão làm Quỷ của Kỷ thổ, ở vị trí tam hợp Hợi
Mão Mùi, là thông Quỷ khắc, phạm Quỷ Khiếu vậy, cho nên chủ chết hung.

《 Kinh 》 viết:
Ngũ hành thiết kị dưới cướp trên,
Cả đời vây quanh việc không đủ.
Lại viết:
Quỷ Khiếu phân minh cách cục xấu,
Lại thêm hình sát họa không sai.
Cho dù trước đây gặp phú quý,
Định biết ngày sau đè niên kỷ.
Phàm xem mệnh thủ Thai Sinh Vƣợng Khố là Tứ Quý, Tử Tuyệt Bệnh Bại là Tứ Kị, còn lại
là Tứ Bình. Lấy can Thái tuế làm chủ, phối với ngũ hành, thủ vị trí Tứ Quý, Tứ Bình, Tứ Kị
278 | Tam mệnh thông hội

mà phân ra quý tiện, gặp quý nhiều thì quý, gặp kị nhiều là tiện. Trong Tứ Quý lại phân ra tứ
vƣợng, khố là thƣợng, Thai là thứ.
28-04-16, 12:51
lesoi
Nếu nhân mệnh Thai Nguyệt Nhật Thời có tam Quý, can đều có phụ trợ, hoặc có Chính lộc,
Chính Quan, Chính Ấn, là mệnh Tam Công vậy. Mang đúng Thiên Ất, nhƣ ngƣời sinh tháng
ngày giờ Sửu Mùi, đƣợc loại Giáp Mậu Canh; Mang gốc Lộc, nhƣ ngƣời sinh tháng ngày giờ
Dần, mang loại Giáp, gọi là hội phúc. hoặc là cùng mang cả hai Thiên Ất Quý hợp, cũng là
mệnh tam công vậy. Tam quý mang trên hợp dƣới, hoặc một Quan một Ấn, cùng một Chính
Thiên Ất hoặc một vị bản Lộc, hai ba vị quý nhân hợp, là mệnh quan Tể phụ vậy. Nếu trên
ngày giờ gặp hai quý, mà kèm theo nhƣ ở trên thì cũng quý nhƣ vậy. Nếu ở trên một vị gặp
các thần Tai Sát, Địa Sát, Vong Kiếp, Dƣơng Nhận, kiêm chủ nắm binh quyền, địa vị giống
nhƣ Tƣ Mã Tiết Việt. Nếu tháng sinh Thai nguyệt, cùng trên ngày giờ gặp một quý khố Thai,
lại mang đúng Thiên Ất trên hợp dƣới. Hoặc Thiên Ất quý hợp gốc Lộc, Chính Quan Chính
Ấn cùng bản gia Lộc có khí. Hoặc trên Quý nhân trƣớc cũng mang can Lộc, cũng là mệnh
Cửu Khanh Tể Phụ vậy.
Nếu tháng ở kị thần, mà gặp Nhật quý, hoặc ở ngày kị thần, mà giờ gặp quý thì không hại, là
theo chức vị hầu vua; nếu tháng ngày đều ở quý, mà giờ gặp kị thần, chỗ này là ngƣời bình
thƣờng vậy.
Tứ Kị là chủ bần tiện, cũng có khinh trọng (nặng nhẹ), tử bại tuyệt là nặng, bệnh là nhẹ. Ở
mỗi ngũ hành có ba vị, nhƣ ngƣời Bính Đinh gặp Dần Ngọ Tuất thành hỏa là quý, cũng giống
nhƣ có ba vị Tứ Quý. Duy chỉ có khuyết một vị Thai Quý, phúc là chủ quý, cũng giống nhƣ
Tứ Quý.
Dƣơng Lộc quý ở Lâm quan, Âm Lộc quý ở Đế vƣợng. Nếu Dƣơng Lộc gặp vƣợng, Âm Lộc
gặp Lâm quan, tuy là bản vị, nhƣng phúc giảm nửa. Nếu Vƣợng mà không có Lộc, nhƣ Bính
Dần đƣợc ngày giờ Mậu Ngọ, khắc bản mệnh lại mang hình sát, chủ dâm đãng ngu tiện. Có
gặp 1,2 vị quý, nhƣng lại là hung sát hình hại, gặp phá trầm trọng, cũng không có lộc.
Thẩm Chi nói: Ngũ hành lấy sinh vƣợng là vua, lâm quan là tƣớng, nếu nạp âm là mộc,
tháng ngày giờ gặp hai vị Dần Mão. Kim gặp Thân Dậu, thủy gặp Hợi Tý, hỏa gặp Tị Ngọ,
thổ gặp Thìn Tuất Sửu Mùi, đều lấy quý luận.
28-04-16, 12:53
lesoi
Phàm xem mệnh, phân ra ngũ hành sinh vượng tử tuyệt, như:
Giáp Thân, Bính Dần, Kỷ Hợi, Tân Tị, Mậu Thân, đều là ngũ hành tự Trƣờng Sinh. Bất luận
bốn mùa, vƣợt qua ngoài lý lẽ tự đƣợc sinh. Bẩm tính nhân mệnh thông minh trí tuệ siêu
quần, đƣợc quý, dần dần mà tiến. Đƣợc phú quý, cũng cầm hƣớng vinh, đó là lý do mà đƣợc
sinh vậy.
Bính Tý, Mậu Ngọ, Tân Mão, Quý Dậu, Canh Tý, đều là ngũ hành tự Vƣợng. Không đợi bốn
mùa, mà vẫn có thể dẫn đến vƣợng, phúc lực phấn phát, không cần phải so sánh.
Quý Mùi, Nhâm Thìn, Bính Thìn, Giáp Tuất, Ất Sửu, đều là ngũ hành tự Mộ vậy. Chính là
lúc quy căn phục mệnh, phàm chỗ ở khố tất vật muốn tụ thì khố đầy đủ, nhƣ Nhâm Thìn
thủy, muốn tụ trở về đƣợc nhiều thủy, sau đó là vƣợng. Còn có kim tƣơng sinh qua lại, tƣơng
xứng trọng quyền. Nếu thủy chế hỏa, hỏa chế kim, lại đến không trung, là vì Ấn bần không
khởi, chủ bần tiện.
Ất Mão, Đinh Dậu, Nhâm Ngọ, Giáp Tý, Kỷ Mão, chỗ này là ngũ hành tự Tử vậy. Sinh là vất
vả, Tử là ngừng lại, là lẽ tự nhiên. Đất không có tử, vật tự không có chỗ mà quay về, chỗ nói
là tự tử , lý chỗ này là phải quay về.
Phàm mệnh gặp chỗ này, là đặc biệt thông minh siêu quần, đa tuệ thì thiếu phúc, lấy tĩnh lặng
làm thể, mà có đầy bất lợi. Lấy làm việc đạm bạc, mà dấy lên sự bất lợi, duy chỉ có thể học
279 | Tam mệnh thông hội

đạo mà gặp thần tiên, cửa đầu thai kiếp khác vậy.
Quý Tị, Ất Hợi, Canh Thân, Nhâm Dần, Đinh Tị, chỗ này là ngũ hành tự Tuyệt vậy. Thiên
đạo không có thể tuyệt ở chỗ này, can chi vừa hội, chỗ tuyệt thì lại sinh. Phàm gặp chỗ này,
vui buồn không định, nhƣ Quý Tị là thủy tuyệt, đƣợc Quý Dậu vƣợng kim sinh phù, gọi là
thủy tuyệt phùng sinh, rất là cát khánh.
28-04-16, 12:55
lesoi
Phàm trên mệnh mang tử tuyệt, sinh vƣợng, khố mộ, thì không thể liền mang lấy mà nói, cần
phải xem nguyệt lệnh để biện thanh trọc. Thanh, là nói có chế phục, nhƣ thủy bệnh thấy thổ
thì đục, nhƣng không có thổ làm đê phòng thì không thể dừng. Đã dừng thì dần dần có thanh
vậy. Trọc, là nói không có chế phục, nhƣ thủy nhiều không có thổ thì chảy tràn lan không có
chỗ quy về, mà thủy cực sinh mộc, cực thì biến, biến thì thông vậy.
Bởi vì do trên ngũ hành thay đổi, mà không còn bình thƣờng, quý ở ẩn, mà không quý ở hiển.
Tử tuyệt có cứu, thì gọi là Hoàn hồn, đa số là lấy quý luận; Sinh vƣợng có khắc, thì thành
khinh ngƣời, trái lại là chủ ít phúc. Nếu nó và ta cùng tƣơng sinh, thuận thì có ích cho ta,
nghịch thì đoạt khí. Nó cùng ta tƣơng khắc, thuận thì thế cƣờng, nghịch thì tổn thƣơng.

《 Kinh 》nói: Lấy nhỏ phạm lớn, tự lấy hại; lấy nhược thắng cường, tự gây ra họa. 1 thủy
khắc 3 hỏa, là lấy nhƣợc thắng cƣờng, lấy âm thắng dƣơng, dù họa cũng không rõ; lấy dƣơng
thắng âm, là hại không nặng. Hai dƣơng chống nhau, hung họa tức thời; hai âm địch nhau, là
chỗ bất an.
Nhƣ Ất Tị hỏa khắc Nhâm Thân kim, là lấy âm thắng dƣơng; Nhâm Thân kim khắc Kỷ Tị
mộc, là lấy dƣơng thắng âm, là âm dƣơng hữu tình, cho nên không có hại lớn. Nhƣ Đinh Mão
thấy Quý Dậu, là hai âm đối địch nhau; Mậu Ngọ thấy Giáp Tý, là hai dƣơng chống nhau.
Dƣơng cƣơng âm nhu, mà sau đó tất thắng, cho nên rƣớc họa.

《 Thái Ất 》nói: Trời đất biến hóa, cơ âm dương, chưa từng không lấy âm triệu dương,
dương triệu âm. Do trời đất hợp chính, khí ngũ hành lƣu thông. Nếu là dƣơng theo ở dƣơng,
âm theo ở âm. Thì âm dƣơng thiên lệch, động tĩnh mất thứ tự, cho nên họa phúc hai đƣờng
vậy. Nói chung âm dƣơng thiên lệch, tạo hóa không thành ngũ hành, nhƣ hỏa nhiều kim ít, tụ
tán không đƣợc thành hình; hỏa ít kim nhiều, vừa không thể nung chảy, lại có họa dập tắt
vậy, còn lại theo chỗ này mà suy.
28-04-16, 12:57
lesoi
Phàm xem mệnh, trƣớc tiên luận ngũ hành, thể diện, thế cục. Sau đó khảo sát hỷ kị, tốt xấu,
vƣợng tƣớng, hƣu tù. Nhƣ ngƣời mệnh kim, đƣợc Canh Tân hoặc Thân Dậu gọi là Thể diện,
đƣợc Tị Dậu Sửu tam hợp gọi là Thế cục, hỷ hỏa chế thổ phù, kị kim hàn thủy lạnh, sinh ba
tháng mùa thu là vƣợng tƣớng, xuân hạ là hƣu tù. Còn lại mộc hỏa thủy thổ theo đó mà suy.
Ngƣời mệnh Kim gặp Canh Thân, Tân Dậu gọi là Ngũ Ly Sát, nếu sinh mùa thu, gặp thủy thì
độc hóa kim, là Kim bạch Thủy thanh; gặp hỏa thì chế thép kim, là khí mùa hạ nung thành
sắc bén. Trụ không có hỏa không có thủy, thì gọi là Ngoan kim, là lúc trẻ tửu sắc, thân ốm
bệnh mà chết; Nếu gặp ngày giờ Mậu Dần, thì là xứ cƣơng phùng sinh, chủ phú mà thọ.
Ngƣời mệnh Mộc gặp thổ, thì gốc rễ mƣợn để vun bồi; đƣợc thủy thì cành lá dựa vào mà tắm
rữa; gặp kim, đẽo gọt mà thành vật dùng vậy. Mộc gặp Dần Mão, lại sinh ở mùa xuân thì rất
tốt. Nhƣ có tam hợp hội đủ mộc cục, thì không cần sinh mùa xuân, đa số là chủ nhân thọ.
Mộc gặp kim chế, có hỏa phục nung kim, thì thành cƣơng nhu tƣơng chế; nếu hỏa quá nhiều,
thì thiêu cháy; kim quá nhiều, thì tổn hại; Thổ hƣ, thì không thể vun bồi; thủy phiếm lạm, thì
không thể tƣ nhuận, kỳ diệu là ở trung hòa.
Ngƣời mệnh Thủy lấy Hợi Tý làm gốc, lấy Dần Mão Thìn Tị là nạp, can xuất từ Bắc, vạn gãy
280 | Tam mệnh thông hội

ở hƣớng Đông, cho nên mệnh thủy hỷ gặp Đông phƣơng, thì sóng ngừng sóng phẳng lặng;
thủy dựa vào thổ làm đê phòng, nếu sinh Hợi Tý, thổ nhiều thì cát; đã ở Đông phƣơng, gặp
thổ cũng cát. Thổ không nên nhiều, lại có Quý nhân, Tài Lộc, thì quý; nếu ngày giờ gặp Canh
Thân, Tân Dậu, thủy kị chảy về Tây, e sợ thọ không cao; sinh ở thu đông, sinh vƣợng thanh
trong, lúc này Nhâm Quý mà gặp Hợi Tý, chủ có văn học; lại nạp âm là thủy, thì thủy thái
quá, trụ không có thổ đê phòng, là đoán ít con, duy chỉ làm nghệ thuật hoặc đi tu là cát; lại
trọng phùng Cách Giác (tháng tứ quý), định chủ hình khắc. Tháng mùa Xuân can khát mà
khô, tháng mùa hạ hiên ra nƣớc đục, trụ không có thủy trợ thì không quý.
28-04-16, 12:58
lesoi
Hỏa cƣ ở Dần Mão, sinh ở mùa xuân, là mộc tú hỏa minh, vinh hoa phú quý; sinh ở mùa hạ
thì thái viêm, trong trụ không có thủy, định là mệnh yểu, có thủy thì sớm quý; sinh ở mùa thu,
hỏa tử kim thành, chiếu tàng trong ánh sáng, ngày giờ gặp vƣợng khí thì cát. Bởi vì thủy hỏa
không sợ tử tuyệt, chỉ có không màng danh lợi; sinh ở mùa đông, trong trụ lại đƣợc hỏa trợ
giúp, thì sƣơng tuyết biến mất, núi sông ấm áp. Cổ nhân nói: Mùa Đông đáng yêu, mùa Hạ
đáng sợ, là chỗ này vậy.
Thổ gặp đủ tứ quý là Thƣợng quý. Nhƣ nạp âm toàn là thổ, trong trụ lại đƣợc chữ Dần là Cấn
sơn, cũng quý. Thổ có thể tải dày, sinh sôi vạn vật, kim mộc thủy hỏa đều không thể thiếu,
cho nên bốn hành này, tất cả đều dựa vào thổ vậy.
Nói luận dụng ngũ hành, nhiều thì thái quá, ít thì bất cập. Khí, số, quá dƣ, không đủ, đều có
thể dẫn đến hung; ức dƣơng quy trung, mà sau đó nhận phúc. Công thành thì nên thoái tàng,
tƣơng lai là quý ở quang vinh.
Ngũ hành bẩm vƣợng là nói Thành công; vƣợng mà có thể ngừng, thì nói là Thoái tàng. Ngũ
hành ở đất quan đới, thai dƣỡng, khí thiếu mà chƣa đầy, thì nói là Tương Lai. Cho nên muốn
Mẫu Tử tƣơng sinh, thì lấy kỳ ích khí, thì có đạo vinh tiến chấn phát.
Nhƣ mộc không phải thời kỳ, suy thì cành thẳng, tử thì héo khô. Kim vƣợng thái quá thì động
làm nhiều hung. Viêm viêm thì quý ở tắt, không tắt thì có họa thiêu đốt. Thao thao thì quý ở
dừng lại, không dừng lại thì có họa đắm chìm.
Hỏa hành đất Nam mà hóa nhiệt, thịnh thì đốt cháy mãnh liệt mà hại vật. Đến Dậu Hợi thì âm
có khép lại, sau đó mà có thể sƣởi ấm vạn vật. Thủy hành đất Bắc mà hóa hàn, thịnh thì quá
lạnh mà giết chết vật, đến Mão Tị thì có thể thông dƣơng khí, rồi sau đó có thể sinh sôi vạn
vật.
Lại có sinh mà không sinh, vƣợng mà không vƣợng, chỗ này hung là trƣớc cát; có tử mà
không tử, tuyệt mà không tuyệt, chỗ này là cát trƣớc hung vậy.
Nhƣ thủy thấy Mậu Thân thổ, chỗ này là sinh mà không sinh; thấy Canh Tý thổ, vƣợng mà
không vƣợng, gặp chỗ này đa số thành mà lại bại, bởi vì hỷ mà lại lo. Nhƣ thủy thấy Quý
Mão kim, chỗ này là tử mà không tử; thấy Tân Tị kim, chỗ này là tuyệt mà không tuyệt. Ngũ
hành khí tận mà đƣợc đức của phụ mẫu, lấy sinh ích mà khí lại sinh, gặp chỗ này thì trong
nguy mà có phúc, cùng mà thông, cong mà duỗi ra vậy.
28-04-16, 12:58
lesoi
Sinh vƣợng thái quá thì phúc tàng trong họa, tử tuyệt thái quá thì không thể nắm phúc. Nếu
nói Tử tuyệt phùng Sinh, họa biến mà có thể trốn thoát, trƣớc hết là hỏa thổ, sau đó là kim
thủy. Hỏa tuyệt đƣợc thổ viết là Duệ ( Hỏa theo thổ là khô, hỏa tuyệt ở Hợi, mà đổi là Đinh
Hợi vậy ); Thổ tuyệt gặp kim tử mà không mất, viết là Thọ ( thổ tuyệt ở Tị, mà đƣợc Tân Tị
là kim vậy ); Kim tuyệt đƣợc thủy tinh phục đƣợc thể (Kim tuyệt ở Dần, đƣợc Giáp Dần là
thủy vậy ); Thủy tuyệt đƣợc mộc, hồn phục thiên du ( thủy tuyệt ở Tị, đƣợc Kỷ Tị là mộc vậy
). Mộc tuyệt đƣợc hỏa, hỏa xuất ra mộc thành tro bụi, tro bay lửa tắt, là do độc thành hung (
Mộc tuyệt ở Thân, đƣợc Bính Thân là hỏa vậy ). Xà Mã vô đảm ở chỗ này có đủ bằng chứng:
281 | Tam mệnh thông hội

(Xà Mã là ở vị trí Tị Ngọ, mộc qua Tị Ngọ mà tử) Mộc ở tạng thuộc gan, ở phủ thuộc mật,
làm bằng chứng mộc tử là hung vậy.

Kinh nói: Mệnh thổ gặp hỏa sinh mà dần dần có lợi; mệnh thủy đƣợc năm kim là sống thọ;
Kim nhiều cần hỏa hoặc tòng cách để thành danh, mộc trọng đƣợc kim cần Khúc Trực mà
đƣợc đảm nhận. Thủy chảy không ngừng thì cần thổ để giúp đỡ, hỏa thịnh không có chỗ dựa
duy chỉ có thủy để giúp đỡ.
Ngũ hành dụng thích hợp, tuy là tƣơng khắc mà thành phúc. Nếu dụng không thích hợp, tuy
có tƣơng sinh mà vẫn có họa.
Phàm ngũ hành sợ ngang ngƣợc thái quá, nhƣ Lộc nhiều thì bần, Mã nhiều thì bệnh, Ấn nhiều
thì cô, Khố nhiều thì hƣ. Sinh vƣợng nhiều thì không có chỗ quy về, tử tuyệt nhiều thì không
có phấn chấn. Ngũ hành không thể quá tổn thƣơng nhau, không thể quá thuần túy. Quý nhân
có Mã nhiều thì đề thăng; thƣờng nhân có Mã nhiều thì bôn ba ngƣợc xuôi. Phá muốn họa
thƣơng, Không muốn hết Không.
Chỗ thích thì không thể hủy, chỗ sợ thì không thể vƣợng. Trƣớc sợ sau thích thì phúc, trƣớc
thích sau sợ thì họa. Hợp nhiều không phát mà xinh, Học Đƣờng nhiều thì không thành; Quý
nhân nhiều thì hèn yếu mà không có lập chí, Lộc Mã quá hiển lộ thì không thể lấy quý nhân
luận; Quý nhân trong ngoài có đủ, thì không thể lấy thƣờng nhân mà luận;
28-04-16, 12:59
lesoi
Tứ trụ đều là dƣơng, khẩu ác mà tâm thiện; tứ trụ đều là âm, là hung ngoan trầm độc. Củng
phải Củng Mã, Củng Lộc, Củng Quý, Củng Phúc thần; không nên củng Hình, củng Họa,
củng Tuế, củng Thời, âm dƣơng quý ở hợp nhau, bệnh thƣơng phải có khắc chế.
Phàm mệnh Bính Tân Nhâm Quý thấy Mậu Tuất, chính là Nhận Thƣơng nắm đƣờng cản trở.
Nhâm Tý, Bính Ngọ, Bính Ngọ, Nhâm Tý, tinh thần thủy mộc, là âm dƣơng thuần túy. Vị trí
còn lại không có trợ giúp, cũng hết sức coi trọng; hơn nữa khí tú quý thì dung nạp đại đức là
không có gì sánh bằng, là trƣợng phu vậy.

Mão Dậu là đất mặt trời xuất nhập; cung Tý Ngọ, bắt đầu phân ra âm dƣơng, gặp thì mệnh lui
tới vô định, tuế vận cũng vậy. Tị Hợi là đất lƣỡng cực, xoay vần trời đất; Dần Thân là
phƣơng tam đình, gửi bƣớc qua lại, nhƣ ngƣời gặp, đa số chấp hành bất nhất.

Sửu Mùi thì chậm chạp, Thìn Tuất thì nhanh chóng, gặp thì khiến ngƣời chấp phƣơng, tính
không thông biến. Thìn Tuất có khí, lại có thể kiến lập đại sự.
Ngƣời Bính Tý, tứ trụ có Nhâm Dần, là Nhâm vào nhà Bính thì phá, không tốt. Canh Tý thấy
Canh Ngọ, là Ngũ Quỷ lâm môn; Mậu Dần thấy Giáp Dần, Giáp khắc Mậu, Mậu Dần theo thế
khắc Giáp Dần, là nạp âm can chi trên dƣới bất hòa. Ngoại trừ có Phúc thần, mới là phúc lực.
Quý Dậu thấy Mậu Dần, Mậu thổ khắc Quý thủy, khí kim lại hƣớng đất tuyệt, chỗ ở của Kiếp
Sát Nguyên Thần. Ngoại trừ đƣợc trong nguyệt lệnh tú khí, mới có thể thành dụng, lâu mà
cũng không tốt.

Canh Ngọ, Đinh Dậu là hỗ vƣợng hỗ phá, là vƣợng bị phá vậy, không thể hoàn toàn là phúc
lực. Kỷ Mùi, Tân Dậu tuy đƣợc Thực, nhƣng quy về Tử địa, cuối cùng cũng không tốt. Ất
Sửu, Ất Mùi, Canh Thìn, Canh Tuất thấy Mậu Dần, rất tốt, vận cũng vậy. 《Kinh》nói: Nhƣ
đƣợc cƣơng kim giúp, Mậu Dần muốn tuyệt mà không tuyệt, thành phúc lực. Ất Mão thấy
Mậu Dần, Mậu Dần thấy Ất Mão, là mệnh rất tốt.
28-04-16, 13:00
lesoi
282 | Tam mệnh thông hội

Sách Đơn Dƣơng nói: Ở trên ranh giới Tam Kỳ có hƣ thanh, ở trong tử tuyệt lại tồn sinh
vƣợng. Bởi vì tam hợp tam kỳ, không hợp nguyệt phần thì không quý. Nhƣ Giáp Mậu Canh,
có giờ Tý Ngọ mới quý; Ất Bính Đinh, có giờ Dần Mão mới quý.

《 Sách Thiên Nguyên biến hóa 》nói: Ất Bính Đinh thích Dậu Hợi, lại xem nạp âm có hay
không có liên can.
Lại nói: Phàm Tam Kỳ, tam hợp, kèm theo tú khí trong nguyệt lệnh nhập quý cách, cũng
không tránh khỏi làm con nuôi hoặc ở rễ.
Lại nói: Phàm mệnh thấy tam hợp, tam kỳ, mà bản niên (gốc mệnh) không mang Tứ Mạnh.
Sinh mà đƣợc Tứ trọng, Tứ quý. Cùng Thai tháng ngày giờ đƣợc tứ trọng, tứ quý luận giống
vậy. Cùng Thai tháng ngày hỗ hoán can hợp hoặc lục hợp, mà bản mệnh không mang, tất cả
ngày đều rơi Thái tuế, đa số chủ xa tổ cô lập, là ngƣời ít trợ giúp, không đắc lực, lại thích hợp
với nghĩa Hợp mà lập vậy, quý mệnh thì đa số dựa vào mà thăng tiến.

Phàm tứ trụ kèm theo Tam Kỳ, tam hợp: Bản thân nếu không phải là con nuôi vợ thứ, thì
tƣơng lai con cái tất có ngƣời làm thứ thiếp, con theo mẹ. Cổ thơ nói: Tam hợp cùng Tam Kỳ,
xinh đẹp lại béo phì, không làm con nuôi, thì cũng là con đi theo mẹ.

Phàm trước mệnh 5 thần là Trạch xá: Nếu gặp có khí cùng lâm cát thần, chủ có nhà tốt,
thuộc nhà quý tộc to lớn, con cháu hiển sáng.
Ví dụ nhƣ ngƣời Giáp Thân, trạch xá ở Sửu, sinh gặp tháng 12 (tháng Sửu), Thiên Ất lâm
Trạch là cát. Nhƣ ở chỗ vô khí, cùng lâm hung thần, chủ Trạch (nhà ở) hƣ hao, phá hoại
không còn, không có tổ nghiệp. Hoặc nhƣ ngƣời Canh Ngọ, Trạch xá ở Hợi, Canh Ngọ thuộc
tuần Giáp Tý thì Hợi lạc Không Vong, lại lâm Kiếp Sát là hung. Còn lại chuẩn theo chỗ này
mà suy.

Sau Mệnh một thần gọi là Phá Trạch Sát: Nếu nhƣ ở trong Phá trạch, chủ không có sản
nghiệp tổ phụ, hoặc làm khách chết ở đất quê ngƣời.
Lại xem nạp âm Trạch cùng với nạp âm bản mệnh tƣơng sinh là cát. Trạch khắc thân thì đƣợc
nhà tốt, thân khắc trạch tất phải phá tán. Ví dụ nhƣ Giáp Tý kim, lấy Kỷ Tị mộc là Trạch.
Sinh tháng 2 là Trạch vƣợng, có hợp là Trạch tốt, lấy thân khắc trạch, nên về sau phá sản.
28-04-16, 13:01
lesoi
Mậu Ngọ hỏa lấy Quý Hợi thủy là Trạch: Sinh tháng 9, Trạch ở cung quan đới; sinh tháng
10, là Trạch kiến lộc; sinh tháng 11, là Trạch vƣợng, lại gặp Trạch sinh khắc thân, tất đƣợc
trạch tốt. Nếu Trạch sinh gặp Quỷ vƣợng, có Quan thì cát, không có Quan thì hung. Phàm lộc
mệnh tuy có hƣu vƣợng, lại xem Trạch để lấy đủ cát hung.

Thẩm Chi nói: Trạch sợ phạm phá. Nhƣ ngƣời Giáp Tý lấy Kỷ Tị làm Trạch, nhƣ phạm chữ
Hợi, là Trạch bị phá, gốc mệnh hơi mỏng. Thái tuế xung năm cũng phải phá, cần phải giỏi
mới có thể đoán. Nhƣ ngƣời Bính Tý đƣợc Tân Tị kim là Trạch, là gặp loại lƣu niên Ất Hợi
là đúng. Giỏi mệnh, cũng cần biến thông mới ứng.

Phàm mệnh sau 5 thần gọi là Điền Viên: Nếu cƣ ở đất có khí, lại có lâm Phúc thần thì chủ
điền viên dƣ đầy, kho tàng phong phú. Ví dụ nhƣ lệnh ngƣời Giáp Tý, Điền viên ở Mùi, sinh
tháng 6, thổ thừa vƣợng khí, lại gặp Thiên Ất quý là cát. Nếu gặp đất vô khí, lại lâm hung
thần, chủ ít tích trữ điền viên, kho tàng hƣ không. Ví dụ nhƣ mệnh Mậu Tý, điền viên ở Quý
Mùi, sinh tháng 6 thuộc tuần Giáp Thân, Mùi lạc Không vong, còn lại theo chuẩn này suy.
283 | Tam mệnh thông hội

《 Quỷ Cốc di văn 》nói: Mã không có hại ( phá Tài ), Lộc không có quỷ ( Quỷ khắc ), Thực
không có Vong ( Không vong ), chi hợp không có Nguyên ( Nguyên thần ), Can hợp không
có Tai Ách ( Lục Ách ), vƣợng không có Tang ( Tang Môn ), suy không có Điếu ( Điếu
Khách ), Thê không có Nhận ( Dƣơng Nhận ), Tài không có Phi ( Phi Liêm ), Mạnh không có
Cô ( Cô thần ), quý không có Quả ( Quả tú ).
Thể trọng cần Quỷ, Lộc trọng cần Quan. Phu cần ít, Thê cần gấp bội, Cát cần hiển lộ, Hung
cần chìm sâu. Can chi bất hòa mà bế tắc, vợ chồng thất thời mà hung. Tứ trụ có Chủ Bản,
Lộc Mã qua lại, cần phải phân ra phá hay lập, Thiên Ất phù trì, nắm đức là xung, lại đủ tôn ti.
Có căn mà không có mầm quả, bần mà còn đƣợc; Cam thực bản khí, tuyệt mà hoa tốt, dẫu có
con mà ý chí quá kém.
Nếu quý thần đúng vị, chƣ sát phục tàng, tam nguyên vƣợng tƣớng, sao chuyên thần sát?
Trong mệnh dụng Sát, lấy ngũ hành làm gốc, nếu ngũ hành đắc địa không có quý, Sát mà
cũng quý. Tuy có ác sát, thì việc cũng vô hại; nếu ngũ hành không đắc địa, dẫu có cát Sát,
cũng phát không lâu, nhƣ hoa gặp mùa Đông vậy.
28-04-16, 13:01
lesoi
Nạp âm, là diễn số của trời đất vậy. Dịch Mã, Học Đƣờng, cƣ ở vị trí Trƣờng Sinh, tài năng
quan chức ở đất vƣợng tƣớng, chỗ đất Ấn khố văn chƣơng phú quý. Nhƣ gặp suy bại, thì mất
1/3; lại gặp tử tuyệt thì mất 1/2. Thiết kị Không vong, xung khắc, không thích hợp hình hại
đoạt Thực. Cho nên, Đồng nguyên tương thành (Đồng nguyên tƣơng thành, chất số là
Thƣợng, Ứng số là thứ ), thì diễn số của trời đất đầy đủ, cơ bản là cƣờng tráng; Đồng loại
tương thương ( nhƣ loại Đinh Mùi hình Đinh Sửu ), thì Chi thần khí tán, lý là không có hợp
lại.

Quản Lộ viết: Ngũ hành hỗ tƣơng cùng vƣợng, tuy xung nhƣng khí đủ; Ngũ hành tƣơng
khắc, tuy hợp mà khí tán, là nói chỗ này vậy.

Hoặc hỏi: Cả đời có thủy chung công danh phú quý, một khi quật khởi bỗng nhiên phát triển
nhanh chóng; có thủy chung bị tróc ra từng mảng mà ở giữa được phấn phát; có trở ngại
nữa đời mà về sau lại thành tựu, là tại sao vậy?

Đáp viết: Hẳn là mệnh vậy. Từ đầu đến cuối phú quý, chính là trong trụ thân chủ chuyên
vƣợng, chỗ dụng cát thần, hoặc Quan Ấn Tài Thực, tất cả đều mang Lộc đắc lệnh, không
thiên lệch không thành đảng, không có hình xung khắc hại, bƣớc vào cửa hành vận, các bƣớc
đều cát, cho nên có thể thành tài năng chấn động, nối tiếp cơ nghiệp của tiền nhân để lại, lập
nên công danh to lớn, không gây ra phỉ báng, không dẫn đến thƣơng hại, chung thủy giữ gìn,
mệnh vận là sinh vƣợng, thể dụng là rất kiên cố vậy.
Một khi quật khởi, bỗng nhiên phát triển to lớn, là do chỗ trong trụ có dụng quý thần, tất cả
đƣợc vị trí đón vƣợng, lại còn hợp cách. Thế nào nhật chủ vô lực, không thể gánh nhận phúc,
cho nên khốn khó; bỗng chốc gặp vận tốt, sinh phù nhật can, nguyên mệnh đƣợc cƣờng kiện,
dụng thần mới là chỗ ta dụng. Ta vì nhận, hổ gầm gió sinh, đại phát phú quý. Là nhận thiên
khí hòa thuận, suy mà gặp vƣợng, cho nên đón cát mà phát, trƣớc sau là khác xa.
28-04-16, 13:02
lesoi
Cũng có Nhật chủ cƣờng vƣợng, ngũ hành thuần Sát không tạp, làm sao gốc rễ vốn không có
chế phục, phú quý không thành, duy chỉ đợi đến vận, chế phục Sát thần, hóa thành quyền
bính, công danh hiển đạt, xuất ra siêu quần, lực chế thần vƣợng, phát phúc phi thƣờng, cho
nên hƣng phát, từ bần tiện mà đến cực phẩm, hoàn toàn là do hành vận đắc địa, mới thấy
hƣng thịnh; nhƣ vận không đến, tức làm thƣờng nhân vậy.
284 | Tam mệnh thông hội

Từ đầu đến cuối phấn phát mà ở giữa rơi rụng, chính là trong trụ nhật chủ kiện vƣợng, dụng
thần cũng vƣợng, tất cả lực lƣợng quân bình, là ngƣời hiền tài con nhà giàu có, lầu vàng cửa
son. Đến khi trƣởng thành, phải gặp sao chiếu tốt. Nếu đại vận gia lâm nguyên mệnh, thấy
Tài mà đoạt, vì quan mà bị Thƣơng, đến Ấn mà phá hƣ, gặp Thực mà có Kiêu. Gặp ranh giới
vận này, họa không thể nói hết, cho nên năm thịnh thấy nghiêng mà không phát; nhƣ một khi
khử ác vận, lại gặp vận tốt phù trì, khiến cho dụng thần hoàn toàn đổi mới. Thí dụ nhƣ Khô
miêu đắc vũ bỗng nhiên hƣng phát, nhƣ lông hồng gặp gió cứ bay lên thẳng, không thể điều
khiển vậy.
Nếu nửa đời trục trặc, về già thành tựu, chính là tứ trụ thân cƣờng, Dƣơng Nhận Tỉ kiên tất cả
đều tranh vƣợng. Duy các loại Tài Quan Sát thần đều hƣ phù, nhẹ, ít, không có lực mà thành
công danh, ra cửa hành vận, lại không lấy đất phúc, cho nên cả đời cơ hàn, lao khổ, thằng đến
lúc về già, bỗng gặp vận tốt, bổ túc cho các loại Tài Quan Sát thần, thành Giả Sát vi quyền,
chế phục Dƣơng Nhận, hoặc đƣợc quyền quý mà hiển dƣơng, hoặc khởi sinh Tài mà phát
phúc, nên tùy theo ngũ hành thanh trọc, lấy chỗ gặp vận mà phân biệt.
Than ôi! có mệnh cùng thông phú quý là do trời, Khổng Tử là có nói vậy, Há ngƣời trí lực có
thể di dịch chăng!

Hoặc hỏi: Hưng vong sinh tử là sao?

Đáp viết: Phàm trong sinh mệnh có Sát là dụng, Sát thần không có chế thì là ngƣời Bạch ốc
cùng đường, hoặc là ngƣời giàu có tuyệt luân, phải gặp vận chế phục, Giả Sát mà hƣng thịnh,
nhất thiết không thể thoát khỏi chế phục. Vận một khi nhập đất Tài, Tài bè đảng cùng Sát, lại
gặp ở llƣu niên là Tài trợ Sát vƣợng, hợp lực thành tai ƣơng, thân chủ bị cô hàn khắc hại, nhẹ
thì khuynh gia bại sản, nặng thì hình khí bản thân. Sát thần cùng hợp, hung vong đáng sợ nhƣ
vậy. Dƣơng Nhận cũng luận giống vậy.
Lại có trong trụ Nguyệt lệnh là chính khí Quan tinh, là cả đời phú quý, duy chỉ gặp Tài Ấn thì
có lợi cho Quan tinh, hỷ Tài vƣợng, lấy Ấn sinh vƣợng để bảo vệ, cho nên ngƣời có thể hành
nhân bố đức, trị quốc kinh bang, quyền trọng tƣớc cao; về sau Sát thần đắc vị, Tuế Sát cùng
lâm, Quan hóa thành Quỷ, tất phải tang thân vậy. Không hành Sát vận, hoặc hành Thƣơng
quan vận, lại không có Ấn cƣỡng chế, Thƣơng quan đắc địa, quý lộc gặp tổn hại, làm tang thê
khắc tử, bãi chức sinh tai; lại gặp lƣu niên cùng đảng với nó, tất dẫn đến thân vong thảm ác.
Nhƣ có trí tuệ cao kiến, biết cơ tiến thoái tồn vong mà bảo trọng thân, không gặp sai trái, bản
thân cũng gặp bệnh hiểm nghèo mà chết.
Lại có trong trụ chỗ chuyên dụng thần không có khí Quan Sát, duy chỉ có Thiên Chính Tài
vƣợng, Tài thần nắm quyền, ám tàng thịnh vƣợng, tích tài tụ phú, nhƣng chỉ thiếu quý mà
thôi. Lại xem hành vận nhƣ thế nào? Nhƣ gặp đất Quan Lộc vƣợng, phú quý song toàn; giả
nhƣ có bất hạnh, Tài thần thoát cục, Dƣơng Nhận tƣơng phùng, lại gặp lƣu niên xung hợp
Dƣơng Nhận, Tài thần thƣơng tận, nguyên mệnh suy tuyệt, Dƣơng Nhận sinh họa, tất là bại
vong vậy.
28-04-16, 13:04
lesoi
Sinh Tử thì lấy cách cục mà luận:
Nhƣ Ấn thụ thấy Tài, hành Tài vận, lại kiêm tử tuyệt, tất phải nhập hoàng tuyền, trụ có Tỉ
kiên, để hầu có giải. Chính Quan thấy Sát và Thƣơng quan, hình xung, phá hại, hợp cùng tuế
vận tất chết. Chính Tài, Thiên Tài thấy Tỉ kiên phân đoạt, Dƣơng Nhận kiếp tài, tuế vận xung
hợp, tất chết. Cách Thƣơng quan, Tài vƣợng thân nhƣợc, thấy nhiều Quan Sát, hỗn tạp xung
Nhận, tuế vận lại thấy tất chết, có chế thì cũng thƣơng tàn.
Củng Lộc, Củng Quý, điền thực, lại thấy Quan Sát, Kiếp Vong, Xung Nhận, tuế vận cùng
thấy tất phải chết. Nhật Lộc quy thời, hình xung phá hại, thấy Thất Sát, Quan tinh, Không
Vong, xung Nhận, tất phải chết. Sát Quan đại kị cùng hợp với tuế vận, tất chết. Còn lại nhiều
285 | Tam mệnh thông hội

cách, kị Sát cùng điền thực, tuế vận cùng lâm, tất chết. Hội nhiều hung thần, Ác sát, Câu
Giảo, Nguyên Thần, Vong thần, Kiếp sát, Điếu khách, Mộ Bệnh, Tử cung các sát, thì thập tử
nhất sinh.

Tài Quan quá nhiều thân nhược, nguyên phạm Thất Sát, thân khinh: Nhƣ nhật can Bính
Đinh, năm tháng giờ có Canh Tân lại thêm vận Dậu, hoặc năm Canh Tân, tất chết; Nhật can
Giáp Ất, tháng giờ Canh Tân xen tạp. Tuế vận thấy Canh Tân, tất chết. Nếu có cứu, thì cát;
không có cứu, định hung.

Ngũ hành Thần Sát: Kim nhiều yểu chiết; thủy thịnh phiêu lƣu; mộc vƣợng thì yểu; thổ đa si
ngốc; hỏa nhiều ngu ngoan; thái quá, bất cập, đều lấy chỗ này luận.

Một là không thể câu nệ, Hai là cần phải dũng cảm, cầu sinh tử, quyết định không có sai.

Về phần ngũ hành sinh tử: Nhƣ ngày Nhâm sinh ở tháng hai, hành Thân vận tất chết; sinh ở
tháng bảy, hành Mão vận tất chết. Chính là Gặp sinh sợ tử, đã tử sợ sinh, tạo hóa cùng với
nhân sự là một vậy, cần phải hợp lại mà xem.

(Hết quyển 9)

lesoi
Quyển 10
Quyển 10:

Vu Hàm toát yếu

(Tóm tắt tất cả phép bói toán)

Thiên Nguyên Thần Thú kinh nói: Phàm đoán nhân mệnh, trƣớc tiên hiểu rõ ở dƣới ngày là
hƣng hay suy, dùng biến đổi chia cục, phƣơng thành thiên địa. Tạo hóa quý tiện hiểu rõ ở trên
dƣới, hƣng suy đều ở can chi. Diệu lý cùng thông ở trong bốn mùa, tự bẩm vinh khô bên
trong ngũ hành. Là lấy: Sinh mùa xuân Giáp Ất cƣ Dần Mão, sao sợ Canh Tân? Sinh mùa hạ
Bính Đinh nhận Tị Ngọ, sao sầu Nhâm Quý? Canh Tân gặp Đoài sinh mùa thu, Ly hỏa khó
xâm. Nhâm Quý phùng Càn sinh mùa đông, sao sợ Mậu Kỷ khắc? Thổ sinh tứ quý đắc thời
mà gặp Quỷ, tổn thƣơng cũng vô hại. Giả sử ngũ hành thất địa mà phùng khắc, thì hoạ không
khỏi.
Lại nếu hóa cách thành tƣợng, phải chia ra suy vƣợng với dừng lại. Bên trong cần phải phối
hợp, phải biết đƣờng đi qua lại. Kim tuyệt Cấn Bắc, Hỏa không đi Càn tây, mộc lạc Khôn
nam mà vô hình, thủy đến Tốn đông mà vô vị. Chỗ này can dƣơng đều là tử, gặp hợp mà lấy
loại theo nhau. Thê nếu ẩn hình, nhƣng thấy trong cục. Mà có thể quyết âm sinh tứ chính, giờ
vƣợng thì thân quý gia vinh. Tử tuyệt mộ thƣơng loại tổn thƣơng can, rất là bất túc.
Hóa khí nhập cách không phá, hiển đại quý là 10 có 8,9. Hóa khí thất cục có tổn thƣơng, luận
hiển vinh là 100 mà không có 2,3. Tối cao tối quý, là ba vị cƣ ở xứ vƣợng, thì cần phải giúp
đỡ. Rất tiện rất bần, cƣ ở xứ suy, tứ trụ khó mà tìm tạo hóa. Nguyên tƣợng ở trong địa chi,
phối hợp ở bên trong thiên can. Tƣợng thành vƣợng dụng, đều sinh ở trong hỏa thổ. Tứ trụ
không có tổn thƣơng, trực chỉ xếp hạng ở triều đình. Trong chi có chỗ sợ, cũng không phải
cần thanh danh. Bần vận đến đất suy, tất chủ tai hoạ. Hóa thành tạo hóa, đều cƣ ở đất suy mộ
tuyệt. Tƣợng thành tạp cục, gặp hợp giống nhƣ không gặp. Nói hành vận vƣợng, vợ là theo
286 | Tam mệnh thông hội

chồng. Vận Thê phù trì, luận chồng theo vợn. Bản thân lâm Quỷ, cần hiểu ở trong thiên địa.
Tƣợng vƣợng tƣợng suy, phải hiểu vinh khô quý tiện. Thân suy Quỷ vƣợng, thân thể phải
thƣơng tàn. Thân vƣợng Quỷ suy, định mệnh là nguy hiểm. Quỷ Thân đều suy, nam tất phiêu
bồng, nữ tất làm sƣ ni, thân phục ẩn náu, tự cƣ cao danh. Tổn thƣơng khí tháng, đây chính là
Phục Tƣợng, Quan Quỷ đều có, đến già không toại nguyện.
Can gặp phá bại, là có kỹ nghệ để theo thân. Chi là đầy đủ sinh, khó cầm lục thân mà độc lập.
Ngũ hành thuộc ở tƣợng, đều ở trong 12 chi. Trƣớc chia nam bắc cùng đông tây, thứ xem bên
trong tam hợp. Tƣờng thuật lục thân, theo tƣợng mà suy. Thẩm xét phú quý, là 2 thuyết Quan
Lộc. Có Lộc thịnh, Quan quả cô độc. Có Quan Quỷ, tàn tật yểu thọ. Thân nếu lộ rõ, bản thân
vô khí, bản tính hoàn toàn kém. Giả sử ngũ hành thành tƣợng, cả đời khó khăn, sao mà đƣợc
tài của tổ tông ? Hiển phúc hiển dƣ, vì phạm mà xa rời nhà cha mẹ.

Tòng tượng, luận dẫn dụng là khí, Hóa tượng, luận thiên địa tƣơng đình. Trong Tòng có quý
có tiện, trong Hóa có phú có bần. Trong Tòng đắc thời thì quý hiển, mà đị vị liệt ở trong
triều. Trong Hóa thành cục vận, ngƣợc lại đƣợc phong tƣớc kề cận vua. Tòng tƣợng suy, mà
đuổi chạy đến già. Hóa phục tƣợng, mà cả đời hƣởng lộc.

Lại viết: Phép xem Tử Bình, chuyên luận Tài Quan, lấy Tài Quan ở tháng là khẩn yếu. Phát
giác ở tại ngày giờ, cần phải hiểu ở cƣờng nhƣợc. Luận Tài Quan thì không luận cách cục,
luận cách cục thì không luận Tài Quan. Nhập cách thì không phú cũng quý, không nhập cách
thì không bần cũng yểu. Một cách hai cách không làm Khanh cũng làm tƣớng, 3 cách 4 cách
thì Tài Quan không thuần, không bị hình chết, thì phần đa là đồ Cửu Lƣu. Quan sợ Thƣơng,
Tài sợ Kiếp, Ấn thụ kiến Tài, càng nhiều càng tai. Thƣơng quan kiến Quan, vốn có là nặng,
vốn không có là nhẹ. Nặng thì di dời, nhẹ thì hình phạt. Trụ năm Thƣơng Quan, cha mẹ bất
toàn. Trụ tháng Thƣơng quan, anh em không còn. Trụ ngày Thƣơng quan, làm khó thê thiếp.
Trụ giờ Thƣơng quan, không truyền con cháu. Năm tháng là Thƣơng quan Kiếp tài, sinh ở
nhà bần tiện, hoặc là con vợ lẻ. Ngày giờ là Thƣơng quan Kiếp tài, thƣơng tổn con cháu, chủ
không có phúc về già.

Quan Sát hỗn tạp, là ngƣời háo sắc đa dâm, làm việc tiểu xảo hàn tiện. Có Tài Ấn là cát,
không có Tài Ấn là hung. Kiếp tài Bại tài, tâm cao hạ tiện, là ngƣời tham lam. Chính Tài ở
nguyệt lệnh, cần kiệm keo kiệt. Trụ có Kiếp tài, Tỉ Nhận nhiều, hình thƣơng cha mẹ cùng vợ,
không tụ tài. Làm con buôn cần xem Tài rơi ở đất nào, Tể tƣớng phải xem đắc thời Chính
Lộc.
Thất Sát Kiêu trọng, là khách di dời tha hƣơng. Thƣơng quan Kiếp tài, là kẻ cậy nhờ tâm lừa
gạt. Trọng phạm Kỳ Nghi là quý. Trọng phạm Vong Thần là yểu. Thất Sát thì cần chế, độc
lập là cƣờng. Trong Quỷ phùng Quan, bức bách quá nặng. Sát lộ hợp khử, ngũ hành hòa khí
xuân phong. Ám Sát đến hợp tứ trụ, hình thƣơng hại bản thân. Sát Nhận không chế, nữ đa số
sản ách, nam phạm hình danh.
29-04-16, 08:39
lesoi
Nhị Đức không có phá, nữ tất hiền lƣơng, nam tất trung hiếu. Tài Quan Ấn Thực, định hiển
đức nhân từ. Kiếp Thƣơng Tỉ Kiêu, khó trốn danh quả ác. Xung Quan không có hợp, là kẻ
phiêu lƣu. Tọa Mã lạc Không, là kẻ lạc phách.
Nguyệt lệnh phùng xung, xa tổ làm con nuôi. Quan Ấn gặp Thiên, nghiệt sinh làm con vợ lẻ.
Can đầu diệt liệt, sao chịu nỗi bệnh Bá Ngƣu than thở. Ngày giờ xung hình, khó tránh Bốc
Thƣơng khóc lóc. Lục Hƣ lâm ở Ất Hợi, Mạnh Hạo Nhiên chỉ uổng phí văn chƣơng. Tam Tài
hội ở Nhâm Thìn, Thạch Quý Luân tràn đầy vàng ngọc. Có Văn không Ấn, Giả Nghị khuất ở
sa trƣờng. Có Ấn không Văn, Lý Tƣ Chuyên đến ở đất Thái. Hình nhiều, là ngƣời bất nghĩa.
Hợp nhiều, Sơ Bối phạm thân. Hợp nhiều chủ hối, xung nhiều chủ hung. Thìn nhiều háo đấu.
287 | Tam mệnh thông hội

Tuất nhiều thích tranh cải. Thìn Tuất là Khôi Cƣơng, hung nhiều cát ít. Ngày giờ Không
Vong, làm khó vợ con. Bối mang Dịch Mã, ly hƣơng xa tổ. Hỗn tạp Tài Quan, bôn tẩu y
thực. Ấn thụ bị thƣơng, danh lợi thành bại. Thiên Trù phùng Kiêu, thực lộc đều suy. Thƣơng
quan gặp Dƣơng Nhận Kiếp tài, cả ngày cầu ăn.
Phân biệt Chính Quan phùng Thất Sát khắc thƣơng, cả đời vội vàng mƣu sinh. Tài Quan gọi
liền trên quý, Sát Thƣơng lo kẻ tiểu nhân. Quan không xung phá, tƣớc lộc độc hiển. Tài ít bị
Kiếp thƣơng, danh lợi song toàn. Quan Ấn ở đất hình tù, tâm loạn thân mang. Ngày giờ ở đất
Quỷ mộ, buồn nhiều vui ít. Phúc mà không phúc, e rằng cát vẫn gặp bị thƣơng. Thành mà
không thành, là trong cách mang Sát.
Tài Quan đều vƣợng, giữa gìn quá tiết. Sát Nhận giao hiển, nắm chắc binh quyền. Quan vốn
là phù thân, Quan ở trƣờng sinh nên là phú học. Tài là nguồn dƣỡng mệnh, Tài phùng xứ
vƣợng đủ tiền bạc. Tài Quan Ấn thụ là tam cát, không thể không gặp. Kiếp Nhận Thƣơng Sát
là tứ hung, không thể không lo. Ấn lâm Thiên Ất, thụ phong thế thịnh. Tài tàng Quan khố,
tích giữ báu vật. Tam Kỳ quý nhân thấy ở giờ sinh, chỗ quán học thanh hoa quý hiếm. Quý
nhân nếu gặp Lộc Mã đến, sắp đặt kim chƣơng là chƣa đủ. Quan quý nếu gặp Tài Quan trợ,
trọng phạm Kỳ Nghi làm Tể Phụ. Không làm khách bồng lai tam đảo, cũng là bƣớc đến kim
điện ngọc giai. Hỗ Lộc hỗ Mã, cũng là tƣớng công đầu đen. Mang hình mang phá, cuối cùng
là bạch diện thƣ sinh. Có Ấn không Quan, phát không nhanh. Có Quan không có Ấn, khó cầu
danh ở vinh hiển. Tài Quan mang ấn, đội kim tích ngọc. Thiên Chính phùng Tài, doanh
thƣơng đầy khố. Ấn thụ cƣỡi ngựa yên gấm, Quan quý ngọc mang kim ngƣ.
Hung chớ ở Dƣơng Nhận, họa chớ ở Thơng quan. Vận phùng Dƣơng nhận Kiếp bại, tài vật
hao tán. Dƣơng Nhận nếu đồng sinh khí, nắm quyền quan ngoại. Thƣơng quan bị hợp, hại vợ
hại con. Thƣơng quan mang Nhận, khắc cha tổn mẹ. Quan tàng Sát lộ, định gậy họa bất ngờ.
Sát tàng Quan lộ, nắm quyền phò tá quân vƣơng. Buồn nhiều ít vui, Quan tinh lại mang Kiếp
tài. Cốt nhục phân ly, Cô Loan lại gặp Thƣơng Sát. Tam Hình Lục Hại xung kích, khó mà
thanh danh. Cô Thần Cách Giác cùng thấy, đa số là bần yểu. Hƣởng dụng hiện thành, ra cửa
liền đƣợc Tài Lộc. Cả đời tịch mịch, hành vận cùng mệnh chia ly. Có Quan mà không có ăn
lộc, trụ tháng Chính Quan bị thƣơng. Có Tài mà không đƣợc hƣởng, trong trụ có Kiếp tài
phân đoạt. Lộc Mã trƣớc gặp ở tháng sinh, âm đức vinh hoa. Nếu ngày giờ lại thấy Tài Quan,
chỗ này chính là Ngộ nhi bất ngộ.
29-04-16, 08:40
lesoi
Lại viết: Trong tứ tƣợng, mà thành Ẩn thổ. Trong Ngũ hành, can tú là vinh. Hợi Mão Mùi tƣ
vinh Giáp Ất, Dần Ngọ Tuất tụ phúc Bính Đinh. Nhâm Quý hỉ sinh nhuận hạ, Canh Tân thích
thấy Tòng Cách, Mậu Kỷ nên phùng tứ quý. Thủy Nhuận Hạ thì văn học quý hiển, thổ Giá
Sắc thì kinh thƣơng phú quý.

Xuân sinh Giáp Ất, tâm ôm nhân đức. Hạ tụ Bính Đinh, tâm phải biết Tàng (ẩn) Minh (lộ).
Thu kim thì tính nhiều cƣơng nghị, đông thủy thì trí túc quyền mƣu. Mộc thịnh không kim,
tuy là nhân ái cũng không thành tạo hóa. Hỏa vƣợng mộc suy, dẫu có học cũng khó quý hiển.
Thủy nhiều gặp thổ, công thành đê ngạn. Mộc thịnh phùng kim, là vật đẹp đống lƣơng (trụ
cột tài năng). Thủy hỏa tƣơng đình thành ký tế, thổ phùng mộc vƣợng là Giá Sắc. Kim hỏa
khí bình quân, luyện khí xuất kiếm sắc. Ngũ hành tạo hóa, đều bởi vì khắc mà thành công.
Mộc bại không nhân đức mà ngông cuồng làm bậy, kim suy quả nghĩa cũng vô ân. Hỏa diệt
là kẻ vô lễ, thủy trọc là ngƣời mất trí. Thổ gặp mộc khắc, lời nói hay thất tín. Kim Quỷ háo
sát, thủy thịnh đa dâm. Nhật vƣợng cẫn phải tự lập, lại xét trên dƣới cát hung. Suy Mộ cả đời
cô lập, Sinh Vƣợng cả đời tài hoa.
Năm tháng tƣơng phù, nhờ tổ tiên mà phát. Ngày giờ tƣơng xung, vợ con là vô công. Trên
dƣới tƣơng hợp mà không có hại, khắc chiến qua lại là nhiều lo. Giờ Lộc Mã khắc phá ngày,
chức vị cuối cùng thoái lui. Ngày vƣợng giờ cƣờng tụ tú, không có phúc thì cũng phải phát
288 | Tam mệnh thông hội

đạt. Tháng gặp thƣơng hại giờ lại đắc địa, tài vận tự có thể thành lập. Tháng gặp tuyệt thƣơng
đối xung giờ, môn hộ định có nhiều lần di dời. Sinh phùng suy địa, lúc nhỏ gian nan.

Tháng ở đất vƣợng, về già suy nhƣợc. Giờ suy ngày tú, có thủy không có chung. Tháng
nhƣợc giờ cƣờng, về già vinh hiển. Nguyên khí cƣờng vƣợng, tuy chƣa đạt cuối cùng sẽ hiển
công danh. Nền móng hƣu tù, dù có đắc địa cũng khó thành phú quý. Nếu nói Thiên Nguyên
suy nhƣợc, mệnh không còn sống. Bỗng gặp Bản Chủ hƣu tù, bần hàn không tấc đất. Khí
vƣợng bị thƣơng, tuy gặp hiểm cuối cùng có cứu. Khí bại phùng sinh, dẫu đắc địa cả đời cũng
không thành. Ngũ hành thất địa, ngƣng nói Lộc Mã đồng hƣơng. Tứ trụ vô quy, khó luận Tài
Quan song mỹ. Lấy ngày khắc là vợ, vợ sinh là con. Xét kỳ sinh vƣợng, định kỳ tử tuyệt. Giờ
lâm xứ vƣợng là nhiều con, giờ ở đất bại tất không con cháu nối dõi. Nam phùng 2 vị Tài, tất
là có thiếp. Nếu gặp xứ hợp phùng Lộc, định hợp thê vinh. Đất Tài thấy hợp, lập thân nhờ vợ.
Can Dƣơng trên dƣới gặp hợp, dễ có nhiều vợ. Trong Hợp lại gặp sinh khí, thê thiếp hiền
lƣơng. Tứ trụ lần lƣợt thân cận nhau, sinh nhiều hỉ khánh. Ngũ hành qua lại tƣơng hại, đều
chủ bất nghĩa. Tài thất địa, mà kinh thƣơng trên đƣờng. Thân vƣợng thậm, là thuật nghiệp
cửu lƣu. Hỏa tụ thủy đức tƣơng hình, làm tăng lại có phúc. Thủy phùng thổ vƣợng tƣơng tàn,
là đạo không có chung. Hỏa minh mộc tú, lúc trẻ hiển đạt triều đình. Hỏa viêm thủy khô,
chung thân cầu tài ở chợ. Kim bạch thủy thanh phần đa hiển đạt. Quỷ vị phùng Quan chủ
khốn cùng. Tài thấy dƣới Tài, giàu mà keo kiệt. Dƣơng Nhận mang sát bị hình, nam tử thân
bị phối roi. Tài thịnh hình thƣơng cha mẹ, Quỷ vƣợng đời sau vinh xƣơng.
29-04-16, 08:41
lesoi
Tòng hóa, kỵ tòng phản bản, cả đời vui buồn không yên. Bính Tân hóa thủy đến thủy hƣơng,
vị liệt triều đình. Đinh Nhâm hóa mộc lâm mộc vị, thân cƣ Tể Phụ. Đông kim tây mộc là
không tòng hóa, cả đời hƣ danh. Ly Nhâm Khảm Bính đắc vị ở giờ, cả đời hiển tích. Dụng
thần bại suy mang Lộc, không thể nói phúc. Lộc Mã khí vƣợng ngộ quý, hợp là hiển vinh. Có
Quan không có Mã là chức nhỏ, có Mã không có Quan là thân tiện. Tứ trụ sinh vƣợng, tuy
không có Quan Lộc cũng sống thọ. Ngũ hành bại suy, dẫu có mang Lộc Mã cũng chết yểu.
Khôi Cƣơng tƣơng phùng xung khắc, đa số là gặp hình ngục. Kiến Lộc không có Tài hình
chế, định là nô tỳ. Dƣơng hỏa tử ở mộ tuyệt, tính hung ngoan, đa số là quan ác. Âm hỏa sinh
ở Trƣờng Dƣỡng, ngƣời to lớn, nên là phú hào. Ngũ hành kỵ mộc dục phùng Thƣơng, tứ trụ
hỉ sinh vƣợng chế Sát. Có hại là nhân thân tán thất, gặp chiến là tật bệnh triền thân. Mộc hỏa
kỵ phùng Thân Dậu, bệnh là triền thân. Suy kim sợ gặp vƣợng hỏa, khổ hình bi thán. Giờ lâm
Quỷ địa, không chế là bần. Vận đến Tài Quan, không hình tất phát. Thất Sát Dƣơng Nhận,
danh vị đại hiển. Chính Ấn Quan tinh, hình xung là họa. Nhâm xu Cấn vị, gặp thì phát tài
của. Biến Sát thành Quan, lúc trẻ công danh hiển đạt. Ngày Mậu tháng Ngọ, hỏa nhiều mà
vận hỉ Quan hƣơng. Tam Kỳ không tổn thƣơng, cả đời phú quý. Tài Quan bại địa, cả đời bần
hàn.
Nhật tuy Kiến Lộc, không gặp Tài Quan chủ cô bần. Nhật lộc quy thời, không gặp Tài Ấn
cũng khó phát. Thời thƣợng Thiên Tài, vận đến nơi huynh đệ, chủ vợ có họa. Thời thƣợng
Dƣơng Nhận, tuế gặp Thiên Chính Tài, sinh hung họa. Chính Quan vƣợng ở tháng phú quý
song toàn. Thiên Quan gặp ở trụ giờ, vô tình có họa. Tài quy đất vƣợng không có phá, gia
đạo hƣng long. Ấn thụ sinh thân không tổn thƣơng, hào quang đến cửa. Có Quan không có
Ấn, tức là không phải Chân Quan. Có Ấn không có Quan, lại thành hậu phúc. Đào Hoa mang
hợp, ngƣời phong lƣu nho nhã. Mây nhiễu ngũ Hồ, khách đói ở đầu dƣơng.
Nhâm thủy kỵ Long phùng Thìn nhiều, thiếu niên bƣớc lên cổng trời. Ất mộc bộ Thử gặp Tý
nhiều, sớm bƣớc cung son. Nhật Lộc quy thời một quan tinh, mặc áo hồng bào. Nhật can sinh
tháng mang Tài khí, ngọc đái kim ngƣ. Lục Âm triều Dƣơng phùng tháng quý, chỉ lấy Ấn
xem. Lục Nhâm xu Cấn phùng tháng Hợi, nên lấy bần luận. Cách cục không phá không hình,
danh lợi thành tựu. Quan Ấn có thƣơng có tổn, tƣớc vị dừng thoái.
289 | Tam mệnh thông hội

Can hình chi hợp, vui biến thành buồn. Can hợp chi hình, trong hỉ không cát. Nếu không làm
tăng đạo cửu lƣu, định phải bái trọng nhiều mẹ. Thời mộ tạp khí phùng khóa cục, mới đƣợc
hiển vinh. Dƣơng Nhận Kim Thần gặp Thất Sát, tất là đại quý. Song thần Giáp Giác, là ngƣời
làm con vợ lẻ. Quả Tú Cô Thần, sống chung con khác họ.
29-04-16, 08:41
lesoi
Thê cung suy nhƣợc phạm Kiếp tài, tất tổn vợ. Huynh đệ nhƣợc thấy Quan cƣờng, tất tổn
thƣơng anh em. Thiên Nguyên suy nhƣợc thất thời, khó mà sống thọ. Nhật chủ cao cƣờng
hóa Quỷ, nên nhận hậu phúc. Nhật vƣợng vô y, ly tổ dời đi. Nếu không di dời, chết ở bên
ngoài. Nhật vƣợng vô y, tổn tài thƣơng thê. Nếu không hại vợ, lƣu lạc ngoài quê. Chính Quan
bị hợp, danh lợi cả đời đều hƣ. Thất Sát bị hợp, xử thế phản hung thành cát. Sát vƣợng lại gặp
thân suy, y thực bôn tẩu. Quan nhu lại gặp Sát nhiễu, dáng vẻ không có.
Tài vƣợng thân cƣờng, tƣ tài điệp tích. Giả nhƣ: Giáp Thìn Giáp Tuất lạc Dần Hợi, vàng bạc
đầy nhà. Đinh Hợi Đinh Mão đến Dậu Hợi, trân bảo đầy nhà.
Ngày Lục Giáp gặp Canh Tân, nếu gặp nhiều tất chủ tai ách. Ngày Lục Bính thân cƣ Hợi Tý,
không có chế phục định là bần nho. Hành vận đƣợc mất, lại cần suy xét. Đắc địa thất thời,
nhƣ đồng ruộng đƣợc mƣa. Đắc thời thất địa, nhƣ xe bị lún bùn. Đắc thời cũng có thể nổi
dậy, thất địa khó mà thăng thiên. Cho nên hỏa đến nam phƣơng mà vinh, thủy lâm bắc địa mà
thịnh. Thổ đến đông là bệnh, mộc đến tây là suy, kim nhập bắc là chìm. Xứ vƣợng là sinh còn
xứ tử là diệt, xứ tử sinh mà xứ vƣợng thoát. Tuế vận đều tổn thƣơng nhật chủ, mệnh gặp tất là
nguy hiểm. Khí vận cùng tổ khí thƣơng tàn, môn hộ cùng phụ mẫu đều tổn. Vận thần khắc
tuế, hình tụng đến lâm. Tuế khắc Vận thần, quan tai kề khởi. Kim chủ đao nhận hình thƣơng,
thủy chủ giang hà chìm chết. Mộc thì treo cổ tự ải, Hổ vồ Long giận. Hỏa thì ngũ đêm áp
đảo, rắn cắn chết cháy. Thổ là tƣờng suy đất sụp. Ngũ hành Sát trọng, nên xem chỗ này.

Lại viết: Có hóa mà giống nhƣ không hóa, cơ tụ mà nhƣ không tụ. Hợp mà không hợp, tú mà
thực ra không tú. Hóa mà không hóa thì tổn quý, tụ mà không tụ thì tổn tài. Hợp mà không
hợp thì tổn quan, tú mà không tú là tổn phúc. Lại nói: Không hóa mà hóa, không tụ mà lại tụ.
Lý không hợp mà hợp, không tú mà dụng tú. Không hóa mà hóa, định tôn cƣ quyền quý.
Không tụ mà tụ, cuối cùng giàu có. Không hợp mà hợp, tất thăng chức cao. Không tú mà tú,
tất là hƣởng lộc. Định bốn thời có vƣợng hay không vƣợng, khảo sát ngũ hành có khí hay vô
khí. Tùy theo vật mà biến vật, vì loại mà cầu loại.
Ngũ hành cần phải trung hòa, nhất định vật không thể thiên khô. Thủy không thắng hỏa, bôn
ba lƣu đãng. Hỏa không thắng kim, khốn khổ tây hoàng. 3 Tân kiến 1 Bính, tiền tài phá tán. 2
Nhâm kiến 1 Đinh, gia đạo hƣng long. Có tú mà không có Quan, nhƣng làm khéo léo ở kỹ
nghệ. Thấy Tài mà không có nắm, duy chỉ có toại chí ở kinh thƣơng. Giáp cƣ phƣơg Tòng
Cách, phong tai khốn khổ. Kim thành cục Nhuận Hạ, cánh bèo tha hƣơng. Tất cả vƣợng đều
phải theo chỗ khiến, tất cả suy thì biến thành vật khác. Một Quỷ không thể thắng 2 Quan, 1
Lộc không thể thắng 2 Quỷ.
29-04-16, 08:42
lesoi
Ngũ hành rơi ở bản hƣơng, không quý thì phú. Tứ trụ lâm ở phá địa, không tiện thì bần. Sinh
vƣợng là Thƣợng, Đức Tú là Kỳ. Thân tọa Học Đƣờng, là khách văn nghệ thanh cao. Mệnh
lâm Quỷ họa, là ngƣời rơi vào đạo tặc. Lộc ẩn trong hình, định là ngƣời cầm binh khí trong
quân đội. Trong tú thấy khắc, tất chủ chỉ theo ở công môn. Quỷ hƣu Mẫu vƣợng, năm nhiều
tiền tài nô mã. Quỷ vƣợng Mẫu suy, phụ mẫu huynh đệ phân tán. Quan Ấn lƣỡng toàn, nắm
cờ lông mà cƣ vũ chức. Thanh tú đầy đủ, ứng khoa giáp mà nhập văn thuyên. Tàng ám Lộc,
Quan cƣ cực phẩm. Gặp Chân Quan, lộc vị phi thƣờng. Thập can lâm tử tuyệt bệnh suy, liền
đất bụi. Ngũ hành ở Tam Kỳ mộ khố, vinh xếp quan chức. Lƣỡng vị Quỷ hƣơng phùng Đảo
290 | Tam mệnh thông hội

Thực, tất là nô tỳ. Nhất khí có gặp quy về mộ nguyệt, định chủ cô bần. Câu Trần đắc vị cƣ
Thìn Tị, quý hàng Tam công. Nguyên Vũ đƣơng quyền phùng Hợi Tý, quan phong nhất
phẩm. Quý kiến Canh Thân cƣ có chức, Tân phùng Mậu Tý trúng khoa cao. Âm thủy gặp tú
mà thất địa, thân là tăng đạo. Dƣơng hỏa không quy về gặp thủy, định làm hung đồ. Kim đến
đất hỏa, tài phần đa tụ tán. Vƣợng thủy nhập nam, gia đạo hƣng xƣơng. Canh cƣ mùa đông,
thủy lạnh kim hàn, đƣợc hỏa tƣơng phù, chớ lấy loại nhàn. Phá lộc thì vong, khí tuyệt thì
bệnh. Giờ lâm chỗ Quỷ lại phùng xung, tổn nguy là không sai. Lâm quan phục gia đất suy
bại, chết hết là không sai.

Tối quý mệnh có Quan tinh, đƣợc Thiên Chính Tài là phúc. Tối hung là Thất Sát lâm thân,
Thiên Xá Nhị Đức là cát. Quan tinh nếu nhƣ gặp Tỉ Kiếp, tuy là Quan mà không quý. Thất
Sát nếu phùng trợ giúp, thì Sát càng hung. Tam hợp lục hợp, tuế vận hợp tất là vinh. Thất
Quan bát Quan, nguyệt kiến Quan mà là hỉ. Tứ hợp Tứ hình, hình hợp thƣờng phân tà chính.
Thất xung bát kích, xung kích hỉ đƣợc hội tàng. Kẹp quý kẹp khâu là ám hội, Tài khố Quan
khố phải rõ xung. Quan tinh ở phƣơng sinh vƣợng, phùng không cần thấy phát. Ấn thụ tàng
dƣới Mạnh Trọng, thấy là không dụng lộ hình. Ấn thụ đƣợc Kiếp tài là quý, Tài nguyên hỉ
Thực Thƣơng là kỳ. Thƣơng quan nếu thấy Ấn thụ, quý không thể nói. Quy lộc nếu gặp Thực
Thƣơng, phúc là vô hạn. Năm ngày có âm dƣơng qua lại, 2 Nhận hình pháp trọng phạm.
Quan Sát hỗn phùng Thiên Nguyệt nhị Đức, lộc vị thăng cao. Phi Nhận Phục Nhận, hội Nhận
nhiều hung. Thƣơng quan bác quan, kiến Quan là họa. Dƣơng Nhận nếu phùng Ấn thụ, tuy
Quý mà tàn tật ở thân. Thất Sát không có chế phùng Quan, là họa mà thọ nguyên cũng không
lâu.
29-04-16, 08:44
lesoi
Tam Thiên tam Chính gặp Tam Kỳ, quý cƣ ở hàng nhất phẩm. Tứ Vƣợng tứ Sinh toàn tứ trụ,
phúc ở trên mọi ngƣời. Sát hóa thành Ấn, sớm lấy cao khoa. Tài vƣợng sinh Quan, ít bị dời
nhà. Quan Sát cùng đến, phải biết phù Quan phù Sát. Thiên Chính tƣơng hội, phải biết hợp
Chính hợp Thiên. Quy Lộc tháng phùng Dƣơng Nhận, thế sự bất minh. Kim Thần đến vận
đất thủy, thân phân làm hai. Ám trung tàng Sát, phải biết dụng thần dƣới tháng. Thấy xứ
không có Tài, tất thụ Không Trung họa hại. Dƣơng Nhận lại kiêm hội hợp, di dời nghìn dặm.
Dụng Tài nếu gặp Kiếp đoạt, cả đời nghèo túng. Tiền định cả đời, cùng đạt đã phân. Cần phải
hiểu kỳ Tiêu Trƣởng, cũng nên khảo cứu kỳ Thủy Chung. Hoặc có trƣớc bần sau phú, hoặc
có bột phát mà bần. Hoặc là nhà trắng làm công khanh, hoặc là cửa vàng son mà chết đói.
Hoặc là cả đời vui vẻ, hoặc là cả đời chỉ sầu lo. Nên xét nguyên vận lƣu niên, phải xét vị trí
hành niên. Thân nhƣợc nhƣ phùng Thất Sát, vận đến chế phục tất khuynh. Thân vƣợng nếu
phùng phúc khinh, vận đến suy bại tất chết. Thái Tuế cùng mệnh bất hòa, có tai có bệnh. Tứ
trụ cùng Tuế tƣơng sinh, không họa không tai. Thân nhƣợc bỗng nhiên nhập cách, tuy phát
mà chết yểu. Phúc khinh nếu gặp hƣu tù, tất nhiên khuynh yểu. Là lấy dụng thần không thể
cầu vọng, hình tích tự nhiên thấy phát. Có phúc thì nhận nó dụng, vô thời tất là dụng thân.
Họa hại ở tại ngũ môn, phúc vinh tồn ở vận khí. Chỗ cùng chung ngƣời phúc hậu, hoặc nhƣ
tổn thƣơng nguồn cội, cuối cùng vây khốn ở trong đó. Phải hiểu nguyên diệu, lý suy thông
minh là ở ta.

Lại viết: Tam Nguyên định mệnh, trƣớc nói tứ trụ. Ngũ hành có hay không có thành cách, thứ
mới luận mệnh vận cƣờng nhƣợc. Nhƣ thân nhƣợc Tài vƣợng, cần đất thân vƣợng. Nếu thân
vƣợng lộc suy, lại hỉ lộc ở đất sinh. Ấn sinh là phúc, sợ thấy đất Tài. Sát ở trong trụ, Sát
không nên vƣợng. Mệnh không có Tài Lộc, vận phùng Lộc Mã thì tai. Vốn có Thƣơng quan,
lại gặp đất Quan thì họa.
Tối kỵ, nhật can xung vận. Chỗ hỉ, can vận sinh cho can ngày vậy. Nhƣng xem có tình hay
không có tình, hợp cùng không hợp, xét kĩ hội hung hay hội cát. Nhƣ vốn có Nhận hại, thì cốt
291 | Tam mệnh thông hội

nhục tàn thƣơng. Vốn có Thƣơng Sát, địa chi tử tuyệt. Hơn nữa trong vận Lộc Mã đều nhƣợc,
họa không quay gót. Lại lấy Lƣu Tuế ức dƣơng, họa phúc không có không chuẩn. Nếu gặp
đất kiến lộc, danh là Lộc Mã câu tuyệt, thọ hạn khó tránh. Trong có Lộc tuyệt mà phát, Tỉ
kiên mà hao. Khí có thiển thâm, cách có phá thành, không thể chấp nhất mà suy vậy.

Lại viết: Tuyệt, không thể thủ Tài ở sƣới sinh. Suy, không thể địch ở trong Quỷ vƣợng.
Nghịch chế vô tình, thuận sinh có cứu. Chủ không có mà Bản có thì có thể cứu, ngày giờ đều
đạt một nửa. Nhị Đức bách sự không hung, lại gặp Tài Quan, định là hào phú. Chủ Bản có
lực, Quỷ sẽ thành Quan. Chủ Bản vô khí, Quan lại làm Quỷ. Phép hình xung, tử tế mà suy.
Có hình xuất, hình nhập, hình cát, hình hung. Có phân chia xung động, xung không động,
xung hợp, xung không hợp. Can suy, tất định động xa đến hợp, có tình mới là phú quý. Tàng
trữ tạp khí, cần định ai trƣớc ai sau. Chuyên dụng Đề cƣơng, phải phân khí thiển khí thâm.
Đến phục Nhất Dƣơng, mộc hỏa dụng mà thủy tàng. Nếu sinh Nhất Âm, hỏa thổ thịnh mà
kim phục. Tƣơng lai là tiến, gặp có thành công. Thành công là thoái, đƣợc thì ích gì. Nguyệt
kiến Tài Quan Ấn thụ, giờ làm phân dã quy nguyên. Hoặc bổ túc cái chƣa đủ, hoặc ức kỳ thái
quá, cần tạo hóa trung hòa là cát.
29-04-16, 19:52
lesoi
Ngọc Tỉnh áo quyết

(An Đông Đỗ Khiêm sáng tác – Vạn Dân Anh chú giải)

Phàm lý suy thành tạo hóa, phép lấy ngày làm chủ.
(Chỉ lấy đề cƣơng làm Thể, phải cho rằng làm chủ đầu mối. Đƣợc hóa khí làm bản thể, nhập
môn thì phải biến thông. Phải biết can chủ có bản tƣợng có hóa tƣợng, mới nắm tin tức. Nhƣ
Giáp bản tƣợng tức là mộc, hóa tƣợng là thổ. )

Chi thần tọa dưới, trước tìm ý nghĩa.


(Là toạ dƣới nhật can, thủ trƣớc tiên xem địa chi này. Cùng một vị chi tháng, một vị chi giờ,
một vị chi năm. Hình xung phá hại, sinh khắc tỉ hòa nhƣ thế nào. Can chủ có vật gì đƣợc hỉ
kỵ, không thể xem là bình thƣờng, không thể nhìn quanh. )

Khí tháng thiển thâm, vật nào chủ quyền.


(Dƣới nguyệt kiến, khí hậu thiển thâm (nông sâu). Khí ngũ hành, can thần là gì. Thoả đáng
ngày này, nắm lệnh thiên thời (khí hậu). Khí 5 ngày là một hầu. Chuyên nói [ Đức Tú có hay
không ])

Địa chi chí thiết, đảng thịnh là cường.


(Địa chi là 4 vị chi thần, là chí thiết, xem thiên can là càng cấp thiết vậy. Phải xem Trạch xá (
chỗ nhà ở) can chủ là gì, dụng thần cơ nghiệp là gì. Lực nào khinh, lực nào trọng. Trạch xá
tức là đƣợc phƣơng đắc địa, Chi thần tức là chỗ nhận quý. Một là, xem thế lực Xung khởi, là
chi thần nào. Hai là, xem thế lực Củng khởi, là chi thần nào. Ba là, xem thế lực Hình khởi, là
chi thần nào. Bốn là xem, thế lực Hợp khởi, là chi thần nào. Năm là xem, địa chi cai quản.
Phép này là có lập ở không trung vậy. Luận địa chi, 4 mấu chốt Xung Củng Hình Hợp, là
cánh cửa cấp thiết vô cùng. Có một phép, thủ dụng chỉ nắm nhật can làm chủ. Trung gian
hoặc có cát thần có hình xung, hung sát có củng hợp. Sinh vƣợng hƣu phế, giao nhau không
đều, khó bề hành động. Không bằng chỉ xem kĩ 4 nền tảng địa chi, trong ngũ khí vật nào tối
trọng, đo lƣờng tƣơng lai tốt xấu. Lại xem thần nào hao tán, thần nào có thể sinh phù, thần
nào có thể xung hợp, thần nào có thể biến hóa. Sau đó lại xem nhật can thuộc ngũ khí nào,
cùng khí nào cai quản tối trọng nhất. Liền nắm các vật Tài Quan, khí dụng thần, cùng ngũ khí
292 | Tam mệnh thông hội

trƣớc dẫn về tọa ở giờ, vật xem thêm tính toán. Thần nào khinh, thần nào trọng, nghĩa lý điều
thuận là nói cát, trái lại là xấu vậy. Nhƣ chỗ này đã lập định, sau đó xem khí địa chi. Đều có
đầu mối chỗ hỉ chỗ kỵ, không thể không xem xét. Ngũ khí là nói 5 khí mộc hỏa thổ kim thủy,
từng cái cần phải nhớ kĩ đề mục. Nếu trong ngũ khí, đảng nào nhiều thì là trọng. Nhƣ can chi
trong ngoài, Minh Ám có nhiều mộc, thì khí mộc đảng thịnh vậy. Hỉ kỵ đã luận ở trƣớc trong
ngũ hành. )

Chuyên chấp dụng thần, thiết tường hỉ kỵ.


(Chuyên nhất một vị dụng thần gọi là Tôn trƣởng, là quyền thần, là mệnh lệnh, là bản lĩnh, là
chỗ dựa. Chỗ này không phải tầm thƣờng, nắm mà suy, không dám cẩu thả tuỳ ý cầu. Thủ
ngoài dụng thần, các loại then chốt nhƣ Tài hoặc Quan, hoặc Nhận hoặc Sát, hoặc Thực hoặc
Quý, hoặc Ấn hoặc Lộc Mã. Lấy các loại ví dụ. vốn không có phép định. Dụng thần tối kỵ
tổn phạm, kiêm sợ chia cƣớp, không nên thái quá hay bất cập. Nhƣ vật thái quá, vốn là không
tốt. Hoặc tuế vận lại đến sinh phù, tức là phá hƣ lật đổ. Nhƣ mộc bị gãy, thủy bị khô, thổ bị
sụp, hỏa cùng phát mà tắt, kim thì hao tổn. Nhƣ vật bất cập, vốn không tốt. Hoặc có tuế vận
lại đến cƣớp khắc, phá hƣ hết vật, sao không có họa. Dụng thần hỉ kỵ, rất mới rất hay, sẽ nói
phần khác, vật phải đƣợc trung hòa là quý. )

Khí khí thiết cùng kỳ lý, vật vật chí cực chuyển quan.
(Ngũ khí kim mộc thủy hỏa thổ, nhất âm nhất dƣơng, cộng có 10 loại tin tức. Nghiên cứu lý
lẽ cho tận nơi từng cái phải xem suy vƣợng, khinh trọng, sáng tối, rộng hẹp, cùng tắc. Thần
nào sinh, thần nào khắc, thần nào hình, thần nào hợp. Vật bị phá, vật đƣợc sinh, thuộc chủ
việc gì. Đem từng vật đi suy, cần phải có căn cứ chỗ dựa tung tích. Đến chỗ không thể tránh
đƣợc, đó là Chuyển quan. Nhập điều cách nào, xứ cực vừa chuyển, tức là kiến công, viên
hoạt thông suốt. Nhƣng phải kiến định tung tích, đoán thế nào là thành khí hay không thành
khí. )

Hữu khí là cấp, Hữu tình là thiết.


(Hữu khí, là đƣơng thời (nắm thời tiết) vậy, xem trong ngoài bát tự can chi minh ám. Nhƣ
trung khí tháng 6, tiết Đại Thử, thổ kim vƣợng tƣớng, là loại hữu khí. Chỗ này là rất cấp, còn
lại thì không. Hữu tình, là hợp khí vậy, nhƣ loại Giáp thấy Kỷ, Bính thấy Tân, Đinh thấy
Nhâm. Giữa can chi minh ám, có hợp đều lấy, chỗ này là tối thiết vậy. Vừa nói chẳng những
Hợp khí Hữu tình, cát thần sinh ta khắc ta, cũng là hữu tình. Hƣ Củng quý khí, sinh ta, khắc
ta, hình ta, hợp ta. Cũng không có khác vậy. )
29-04-16, 19:54
lesoi
Can năm quản lý, thứ xem tháng giờ, như lúc quyền hành, gia giảm một ít.
(Xem chỗ can năm ngồi trên chi nào, cùng ta hút nhau nhƣ thế nào là thiết. Cũng cần dẫn ở
quý địa hữu khí, phƣơng thể cục lớn. Lại xem dụng thần, lại gắn với Tuế quân, là cát hung
thần sát nào. Nếu thêm dụng thần cùng Tuế quân hòa, thì hoàn toàn quý là không sai. Thứ
xem quan hệ giữa hai thiên can tháng giờ, cuối cùng không thể lấy sai biệt, lại không có bó
buộc. Trong trụ tƣợng số biến hóa, ngũ khí chân giả, cát hung thần sát, đều nên dẫn quy về
tọa ở giờ. Phân kĩ khinh trọng, một chút cũng phải so sánh. Lại nói: Thái tuế là lĩnh tụ một
năm, là chủ tể của chƣ thần, rất có chỗ dùng. Chỉ vì Từ Tử Bình lấy ngày làm chủ, chuyên
thủ Tài Quan. Ít nhiều kẻ hậu nhân hiểu nghĩa sai lầm.
Cho nên viết: Năm nói giống nhƣ cái đầu móc cân, dùng để buộc vật. Tháng nói ví nhƣ cái
móc treo vật, để nâng vật lên. Ngày giống nhƣ thân đòn cân, phân chia không sai một ly. Giờ
ví nhƣ quả cân, dùng gia giảm nặng nhẹ. Ví dụ hầu nhƣ là phù hợp vậy. )

Tùy hợp vẫn khẩn, diêu hợp bất nhàn.


293 | Tam mệnh thông hội

(Tùy hợp: Nhƣ Bính Ngọ khí tráng, liền biết có hai chữ Tân Mùi. Nhƣ ảnh theo hình, cũng
xem Tân Mùi, vẫn là ân nhân của nhà ta, nhƣng là cừu nhân. Diêu hợp: Tức là chỗ thần tàng
ở trong chi, cùng nó hợp khí chỗ ẩn tàng vậy. Nhƣ các loại Thân Mão, Tý Tị, Hợi Ngọ. Che
cái có khí, loại việc hợp xa, tự ý không để nhàn hạ vậy. )
Thể chế phải rộng lớn.
(Phàm bát tự phải xem quy mô khí tượng: Thế thể rộng rãi, trời đất đâu vào đấy, hùng tráng
kiện thực. Ngũ khí thuận khắc mà có lực, đảo sinh nghịch hóa mà có công. Quý khí qua lại
không hỗn tạp, tất không phải loại cách tầm thƣờng. Lại xem bát tự đại ý thể đoạn: Quá
thanh, thì hoặc là hàn hoặc là bạc. Quá dầy, thì hoặc là trọc hoặc là trì trệ. Quá hoa lệ, thì
hoặc là khinh hoặc là phù. Quá tuỳ tiện, thì hoặc là lƣu hoặc là đãng. Quá hữu tình, thì hoặc
là lạm hoặc là dâm. Quá cô giới, thì độc lập không thể dung vật. Quá cƣơng dũng, thì hoặc là
bạo hoặc là táo mà không có hàm dƣỡng. Quá nhu nhƣợc, thì hoặc là ngu hoặc là độn mà
không có hành động. Quá chân thực chấp nê, thì tự trói buộc chỉ có biết mình. Quá mở rộng,
thì mƣu đồ nhiều mà hoa nở không có quả. )

Mặt chữ phân trước sau.


(Trói dụng nét chữ, xa mà ở sau, hoặc bị mặt chữ nhàn thần, chiếm trƣớc ngăn cách. Nếu
không thƣơng phạm, cần có tuế vận sinh phù, mới là toàn mỹ. Trói dụng nét chữ, tuy gần mà
ở trƣớc, nhƣng có nét chữ nhàn thần, chỗ xa ở sau. Động xa mà gần, nét chữ dụng thần mới
ngại. Lại xem trong trụ, vật nào có thể tiêu trừ đi đƣợc. )

Thiên can chuyên luận sinh khắc chế hóa.


(Sinh là tƣơng sinh, lý là có sinh hay không muốn sinh. Khắc là tƣơng khắc, tình có khắc hay
không muốn khắc. Chế nhƣ là thủy khắc hỏa, mà có thổ chế sát, hỏa có tình phục sinh. Hóa là
bản thủy khắc hỏa, thấy mộc có thể cƣớp khí, lý là hỏa chuyển đƣợc sinh. Còn lại loại suy. )
29-04-16, 19:56
lesoi
Địa chi chuyên thủ hình xung phá hại.
(Hình: Nhƣ loại ngày Sửu giờ Tuất, là Hình xuất. Nhƣ loại ngày Tị giờ Dần, là Hình quy. Vật
xấu cần hình khử, vật tốt hỉ hình quy. Xung: Cát tƣợng cần xung hung tƣợng, quý khí cần
xung nhà của ta. Phá: Đại khái là vật bị phá hƣ, giữa có cát có hung. Nhƣ Mão phá Ngọ,
chính là Ất khắc nhà Ngọ Kỷ thổ bị phá. Nếu Kỷ thổ là Sát, khu vực có lực, tuế vận một khi
lộ ra, hại là không nghi ngờ. Nếu nhƣ không lộ, thì cũng giống nhƣ ôm hổ mà ngũ. Lại xem
chữ Dậu có khí hay không có khí, có thể khống chế hay không. Lại nhƣ Kỷ là quý khí, lộ mà
có lực có thế, thì cũng vì phá mà mang đến phúc. Hại: Xứ Lục Hại, nếu mang kỵ thần hung
sát, đến khắc đến cƣớp, đúng là cừu hại. )

Tượng thành một nhà. Bất chấp quý khí.


(Trong bát tự con ngƣời, hoàn toàn không có các loại Tài Quan quý khí, có an nhiên phấn
phát phú quý sao? Bởi vì lấy khí tƣơng sinh, tự lập thành tƣợng vậy. Sinh ý cuồn cuộn, có
tình không hết, cao xa vững bền nhƣ vậy. Bản tƣợng phối bản, nhƣ loại Giáp Ất Bính Đinh.
Hóa tƣợng phối hóa, nhƣ loại Mậu Quý Đinh Nhâm. Mộc hỏa thành tƣợng, thổ kim thành
tƣợng, kim thủy thành tƣợng, thủy mộc thành tƣợng. Cùng có ba tƣợng thuận theo thứ tự,
cùng giống nhƣ phép này. Nhƣ loại tƣợng hỏa thổ kim. Lại có tứ tƣợng hòa hợp sinh sản,
cũng nhƣ vậy. Nhƣ loại thủy mộc hỏa thổ. )

Căn nguyên nhất khí. Sinh vật đầy đủ.


(Nhƣ thứ tự khí kim lâm đúng thiên thời kiến vƣợng, lại không có cƣớp khắc. Nhất khí đến
chỗ sinh, là thủy thần vậy. Thủy thần đã hiển lộ ở thiên can, hoặc phiếm lạm ở địa chi, vật
thịnh không cát. Vẫn còn bao nhiêu hỏa thổ, có thể dựa vào làm đê phòng chăng? Còn lại cứ
294 | Tam mệnh thông hội

loại suy. Thì đạo tạo hóa tròn hay khuyết, sáng tỏ nhƣ có bằng chứng, vạn không mất một
vậy. )
29-04-16, 19:57
lesoi
Mấu chốt Bát pháp. Khởi đầu ngũ khí.
(Bát pháp đã luận ở trƣớc, ngũ khí gồm có: Tụ tán, tròn khuyết, thực hƣ, thâm thiển, địch
giao, rộng hẹp, nặng nhẹ, dày mỏng, hàn hòa khác nhau. Can chi đều có lực, khắc vật quy tổ.
Tinh thần cƣờng kiện là Tụ, hỉ cát thần, kỵ hung sát. Cũng cần phụ tá cát thần, xung là vô
nghĩa. Hình mà không quy là Tán, hợp với hung sát, kỵ cát thần. Kim mộc thủy hỏa thổ đều
đủ, thuận theo thứ tự là khí Đủ. Ngũ hành khuyết một, đợi đến tuế vận bổ túc là khí Khuyết.
Thực, nhƣ là Giáp Tuất kiến loại Bính Dần, có hợp có sinh, cục hƣớng về một tƣợng, giữ lại
ở một phƣơng. Trong trụ nếu không có loại kích dƣơng ngang tàng, nhƣ vậy thì bất quá chỉ là
một phú ông mà thôi. Tức là có thể mà vô dụng, dẫu có quý cũng là ngồi không ăn bám. Nhƣ
trong trụ có khí thổ thái trọng, lƣợc kiến Quan đến là quý. Hư, nhƣ là thổ nhập Dậu Dần, mộc
lâm Ất Tị, kim đến Thìn Hợi, thủy hƣớng Mão Tuất, hỏa cƣ Sửu Thân. Khí hư mà không thể
kiên cố. Còn lại loại suy. Khí thâm, ví dụ nhƣ bản tƣợng mộc hóa tƣợng gần tiết Thanh
Minh. Khí thiển, nhƣ bản tƣợng mộc hóa tƣợng phƣơng đƣợc tiết Vũ Thủy. Khí địch, nhƣ
Tân Dậu kiến Ất Mão, đại khái rất hung. Nếu thấy Kỷ Mùi Kỷ Sửu, có chuyển dựa vào gốc,
lại cát. Nhƣ không có chỗ dựa, thì xem Khách Chủ cƣờng nhƣợc, Chủ nhƣợc thì thành Quỷ
tƣợng, Khách nhƣợc thì thành Tài tƣợng. Khí giao, ví dụ nhƣ Đinh Tị kiến Tân Hợi, Bính
Tuất kiến Kỷ Sửu, Canh Thìn kiến Quý Mùi. Nhƣng vẫn phân chia khí nào vƣợng mà nói.
Khí hợp, nhƣ dụng thần, có tình với một hai thần ở trong cục. Hợp cũng có sinh vƣợng, chỗ
dụng dẫn khí nhƣng khí đến không đƣợc. Khí rộng, là chỗ dụng dẫn khí đến đƣợc, chỗ xứ
sinh vẫn có đủ tinh thần. Thông khí tam hợp, hoặc thông khí lục hợp. Khí khinh, nhƣ loại
bản tƣợng mộc hóa tƣợng, lại nhập vào đất kim, lại không phải đúng mùa. Khí trọng, nhƣ
tƣợng mộc phùng Dần Mão, là loại địa chi bản tƣợng. Khí mỏng, nhƣ tƣợng mộc tự mình gặp
đất tử tuyệt, vẫn không đúng tiết mùa. Khí dày, nhƣ tƣợng mộc phùng đất khố mộ trƣờng
sinh, hoặc đúng tiết mùa, hoặc có can khác đến trợ giúp. Khí hàn, nhƣ mộc khô hỏa tán, kim
hàn thủy lạnh thổ đóng băng. Thiên can hƣu tù, địa chi tử tuyệt. Khí hòa, là có hợp có sinh,
có tình có trợ, có lâm quan đế vƣợng, không có hƣu phế tử tuyệt. Hoặc có thần vƣợng tƣớng
đến phù trợ, hoặc nắm mùa trƣớc sau. Có đầy khí mà thịnh, là vật không có chỗ nƣơng tựa
mà làm đê phòng, không lâu sẽ sụp. Có khí kém mà suy, là căn rễ không thực. Vẫn không
đƣợc thời, khí cũng không đủ. Lại không có sinh phù, loại này là bỏ đi, làm sao nói thắng?
Có khí suy mà lâu dài không được thiên thời, lại lâm tử bại. Nhƣng có ám can tƣơng sinh,
dẫn quy về đất sinh vƣợng. Có khí vượng không bền, lúc đầu thì dáng vẻ phấn phát, từ từ
suy nhƣợc. Cuối cùng thì thu liễm quy tàng, xứ đi lại không có chỗ dựa, dễ dàng phân tán,
thịnh tình không có ngọn nguồn. Đặc biệt thiếu khuyết chuyển sinh, thế nhận không liên tục.
Có khí non yếu dễ tiến hành, phƣơng khí đến, ngƣời đều cho rằng là tƣợng vƣợng tƣớng.
Nếu gặp trung gian, khí ngu dầy cƣớp khắc, hung không thể nói. Có khí nén chịu quá xa, khí
hậu đã qua đều viết hƣu phế, lại nói thành công là thoái. Không biết dƣ khí, bỗng đƣợc xứ
vƣợng đến giúp, xâu động sức sống. Khí trở về xứ đầy, khỏi chịu tuế hàn. Dư khí tức là khí
bị hƣu phế, cho nên nó xoay hóa tƣợng vậy. )
29-04-16, 19:58
lesoi
Tạo vật cần nguyên bản thể.
(Phƣơng Đông dƣơng tán tiết lấy mà sinh phong, phong sinh mộc. Phƣơng Tây âm dừng lại
để thu vào mà sinh táo, táo sinh kim. Phƣơng Nam dƣơng cực mà sinh nhiệt, nhiệt sinh hỏa.
Phƣơng Bắc âm cực mà sinh hàn, hàn sinh thủy. Trung ƣơng âm dƣơng giao nhau mà sinh
thấp, thấp sinh thổ. Thể tƣợng nguồn cội Ngũ hành, đã nói ở trƣớc. )
295 | Tam mệnh thông hội

Khí Hoàn xuất từ căn cơ.


(Phàm chỗ thành tƣợng gọi là Khí Hoàn. Phàm quý khí quy nhất, cũng là Khí Hoàn. Phàm
lục thân dồn nhất, ta sinh là con, nhƣ loại Bính Tân kiến mộc vậy. Một khi nói vợ sinh là con,
thủ hai nghĩa mà dùng phải hoạt pháp, đều có lý thú. Sinh ta là mẹ, hợp ta là vợ, tƣợng có
nhau đầy đủ thì thành vật. Diệc là ở chỗ sinh lục thân, dồn một mà thành vậy. Nhƣ trong vận
thành tƣợng, ích lợi là do căn cơ, vốn có ý đến là thành vậy. Nói mộc hỏa tất không có ngang
nhau, đều có khinh trọng, là mộc trọng hỏa khinh. Vận đến gặp can hỏa chi hỏa, hợp thành
chân tƣợng. Nếu ở trong tứ trụ: Hoả vốn mang các chữ lâm quan, đế vƣợng, trƣờng sinh, khố
mộ, mới gọi là Khí Hoàn. Nếu không thì không chân không thực, không đủ không chính, chỉ
tốt bề ngoài mà thôi. Còn lại cứ loại suy theo chỗ này.)

Pháp như kiểm soát. Đều bẩm cát hung.


(Giờ cùng tháng ngày cùng năm, can chi bát tự. Phải kết hợp ngang dọc qua lại, thủ dụng lẫn
nhau, không thể có một chỗ nào mà không chiếu cố đến. Nhƣ 4 can cƣỡi 4 chi, từng chỗ đều
chiếm quý chiếm sát, hoặc can năm cƣỡi chi tháng chi giờ thủ quý. Hoặc can năm thủ chi
ngày, can ngày thủ chi tháng, can tháng thủ chi năm, đều có quý có sát. Hoặc hai chi năm
tháng, hai chi ngày giờ, tự thủ can thần quý khí. Nhƣ kiểm soát chỗ này tỉ mĩ thì sẽ không sai
lầm. )

Vật cần lấy bỏ. Mới rõ khinh trọng.


(Chỗ đoạn này nói trƣớc tiên cần phải xem 4 chi, đem từng cái chỗ tàng can khí, hiện ra lấy
hoặc bỏ. Suy tính kỹ đảng nào nhiều, lực nào ít, vật nào vƣợng vật nào nhƣợc, vật nào khinh
vật nào trọng. Mới rõ đƣợc đạo lý dụng thần cát hung. Không đi lấy bỏ từng cái, đại cƣơng
che giấu, khó mà suy xét lấy hay bỏ. )

Vinh mà dễ khô, thân phát không lâu. Hiển mà không lộ, vật thành tuế hàn.
(Khí giòn hƣ phù non yếu, đất hƣu phế bại tuyệt, đƣợc can chi giáp phù, tạm hợp mà phát ở
một thời. Nếu gặp tuế vận lấy thần tán trợ phá thƣơng, hoặc ức dƣơng vô khí, thì dễ bại mà
không lâu dài. Nhƣ vật không hiển lộ dụng thần hữu khí, hợp thần cƣỡi nhau thành tƣợng,
một đƣờng trong vận không có bị phá thì lâu bền. Buông thả Tuế quân hàng năm pha tạp,
chính là Phù vân tế nhật (mây che mặt trời), hoặc là ví nhƣ mặt trăng đi qua bóng cây mà
thôi. Cho nên can không hiển lộ, ẩn tàng trong chi có khí đƣợc sinh. Lại là cao xa vậy. )
29-04-16, 19:59
lesoi
Đoạt thai hoán cốt. Ý xuất tự nhiên. Bỏ gốc lấy ngọn. Gốc không đúng nghĩa.
(Bản tƣợng nhƣ có Tài Quan quý thần, vị trí khác lại có thông khí. Có hóa có tƣợng có loại.
Dẫn dụng lại thanh. Nên lợi dụng phúc địa, không miễn cƣờng mà hành khí, giống nhƣ có
cảm tình tất có chỗ đến vậy. Muốn hóa chân tƣợng, nhƣ loại Đinh Nhâm hóa mộc. Vạn nhất
không nên đố hợp tranh chiến, chợt đến trong vận lại trợ giúp bản tƣợng rõ ràng. Lợi dụng
bản tƣợng các loại Tài Quan quý nhân, thì đúng khí bản tƣợng, từng kỳ không bị tiết khí. )

Đại khí từ gốc, tự nhiên chế xấu mà hành thiện.


(Thể cục nếu lớn, bản nguyên nếu trọng, dụng thần nếu chuyên, kiêm mang Đức tú quý nhân.
Tuy có Đại hao, Nguyên thần, Nhận Sát các loại ác sát, lại có thể trợ uy. Thì chỗ gọi là lấn ác
mà lấy thiện vậy. )

Thể cục suy bạc, mới biết hại vật lại còn hại người.
(Tuế cùng Nhật thần lực hƣ bạc không chuyên, bị cát hung thần sát điều khiển, theo khí rung
chuyển. Tinh thần bị chỗ sai khiến, tự mình chủ trƣơng vô định. Đa số là bên trong tƣợng
296 | Tam mệnh thông hội

hung sát, các loại Nhận Sát Vong Kiếp Kim Nhận Bạch Hổ gây nên, cho nên không thể so
với khí đức tú thuần hậu vậy. Kiến nghiệp lập sự, tuy có ngẫu nhiên thành, sao không hại vật
tổn ngƣời chứ. )

Quý nhân Lộc Mã giao soa, Câu Giảo Nguyên Vong đa đoan.
(Quý khí không nên phiền tạp, dụng Tài chỉ dụng Tài, dụng Quan chỉ dụng Quan. Nhƣ dụng
các loại Lộc Mã Quý nhân Thực thần Ấn thụ, chỉ cần một vị hai vị, quý khí phụ tá tiện lợi.
Nhƣ loại dụng Tài lấy Quan phụ trợ, Quan Ấn giúp nhau, Lộc Mã kiêm hành. 3 vị 4 vị,
phiếm lạm liền không quy nhất. Lại nói: Một loại quý khí, cần phải có Quý nhân Đức thần
tƣơng trợ, mới có thể đại hiển. Các loại Câu Giảo Kiếp Sát Nguyên thần Vong thần, nếu quý
khí trọng, thì trợ thân hành uy. Ác Sát trọng, thì hình hại đến nhanh, vừa nói các loại sát đủ
kiểu, chỉ cần thông tin. )
30-04-16, 12:19
lesoi
Cát thần tham thiên nguyệt phù trì, Hung sát bát Không Vong bình phẩm.
(Quý thần Lộc Mã, đều là cát thần vậy, lại thêm gặp Thiên Nguyệt nhị Đức càng cát. Câu
Giảo Nguyên Vong, đều là hung sát vậy. Nếu nhập Không Vong giảm nửa. Cát thần cũng sợ
Không Vong, hung sát cũng cần Nhị Đức. Chú xƣa nói cát thần quý khí, tuy thanh quy nhất,
lại không thấp trọc, hoặc nhập cách khác, dựa theo suy diệu kỳ. Nếu không có Thiên Nguyệt
nhị Đức, Thiên Nguyệt nhị Hợp, Nguyệt không Thiên Xá trợ giúp, cũng giảm nửa phần,
không đủ phúc lực. Không Vong lấy ngày sinh chỗ thuộc tuần nào, nhƣ tuần Giáp Tý, thì 2 vị
Tuất Hợi là đúng vậy. Không Vong có 3 thần, ở sau trong một tuần chỗ tàng kiền thần, nhƣ
tuần Giáp Thìn, là 2 can Giáp Ất vậy. Sau một tuần chỗ độn đến can thần, nhƣ tuần Giáp
Thìn, Bính Ngọ tức là Canh Tân vậy. Một Tiệt lộ Không Vong, đến thêm càng khẩn, nhƣ loại
ngày Giáp Kỷ giờ Thân Dậu. Hung thần cần tọa Không, Cát thần sợ tọa Không. Còn nói:
Kim Hỏa cần Không, Mộc Thổ Thủy kỵ Không. Lại nói: Thủy cũng hỉ Không. Lại nói: Trong
trụ hung sát cùng giao, có Đức thần, gặp nguy hiểm thì tự tán, chết không đến nổi mất mạng,
ngày giờ mang càng khẩn. )

Thập toàn quý khí, vẫn xem ỷ phục Họa tinh, nhất cục hung thần, phải biết ẩn tàng phúc
khí.
(Quý khí thập phần đầy đủ, thủy chung không phá, trung gian an ninh không có một họa thần
ẩn tàng. Thần hung sát, qua lại phồn tạp, trong đó lại có một chỗ phúc thần, ẩn ẩn thâm áo.
Hoặc Hƣ Giáp Diêu Hợp hoặc hình xuất xung quy, cũng gắn bó có chỗ hữu ý, không thể lấy
toàn bàn hung sát mà xem. Chỉ đợi vận nào, phù khởi phúc khí trong cục thì cát. Phù khởi
họa tinh, phá quý phá dụng thì hung.)

Điều cao cách cô, thế cùng lực tận, nghĩa lý chính dục biến thông.
(Nghiên cứu dụng thần nhật can, kiểm tra minh ám, tạo hóa cát hung, chỗ thần sát ẩn hiện.
Thể cô cao, khí cũng không là cùng tuyệt, khó mà thủ dụng. Chí cực nhƣ vậy sẽ chuyển xứ
đóng, lý tự có cùng thì biến, biến thì thông, vận nghênh đón khí nào. Một đƣờng xoay
chuyển, là sức sống nào, khởi tình phát nguyên, nghĩa cũng có vô hạn. )

Khí đầy vật thịnh, vận cùng tuế xung, thân chủ làm sao mà yên tĩnh.
(Nghĩa muốn xem đại khái, khí tƣợng hoặc đầy hoặc lƣu, khảo sát lý thể vật, thì thịnh mà
cực, thì điềm báo không bền. Huống chi gặp tuế vận ức thì suy phúc, dƣơng thì trôi nổi bồng
bềnh không có, lại nếu xung cùng hình, thân chủ này, chỉ có thể an nhiên điềm tĩnh không
quấy nhiễu, là không có lý này vậy. )

Năm tháng ngày giờ, can chi có thứ tự, nếu thần Chủ Khách, thể cách hướng theo thứ tự.
297 | Tam mệnh thông hội

(Tháng nên ở sau can năm, giờ nên ở sau can ngày, nếu lại có tuần hoàn theo lần lƣợt. Nhƣ
Giáp Tý, Ất Sửu, Bính Dần, Đinh Mão, là kỳ cách vậy. Năm là vua, nhày là chủ, tháng giờ
giống nhƣ khách nhƣ thần, phụ tá quý khí, kiêm thứ tự lần lƣợt giống nhƣ phép trƣớc, hƣớng
về cƣơng thƣờng, phụ trợ tuần tự theo thứ tự, là đúng tôn nghiêm. Lại nói: Dƣơng chỉ muốn
cẩn thận, âm muốn theo bầy, chỗ gia tăng nhiều sát quý sát. )

Nhật chủ tối hỉ can trước, nhật chủ ứng sợ thứ vị.
(Can trước nhật chủ, nhƣ ngày Giáp thấy chữ Quý, loại này có 3 lợi ích: Một là có thể hợp
Mậu Tài giúp ta. Hai là, có thể thiện về trƣờng phát ta. Ba là, có thể hóa tƣợng sinh ta. Nhƣng
khí trƣớc đây hơi chậm. Sau nhật chủ, nhƣ Giáp thấy Ất, loại này có 4 loại tổn hai: Một là,
có thể cƣớp thê tài không cua ta. Hai là, có thể hợp sát tổn hại ta. Ba là, có thể hóa tƣợng để
tiết khí ta. Bốn là, có thể ngăn cản tiền lộ, làm Nhận hại ta vậy. )

Chi thần tiền khí, chi thần hậu cung.


(Địa chi nghênh đón khí phía trước nhiều, là ngƣời cả đời có tinh thần lỗi lạc. Nhƣ năm
Giáp Tý, hoặc ngày Tý thấy Sửu Dần Mão Thìn Tị vậy. Địa chi hậu cung, chủ làm việc tích
trữ hối hận, hoặc gãy ngã, tiến thoái đa đoan. Nhƣ năm Giáp Tý, hoặc ngày Tý, thấy Hợi Tuất
Thân Mùi vậy, còn lại cứ loại suy. )

Độc điệu Tuế quân, cô hư nhật chủ.


(Can chi tháng ngày giờ, nối liên thành đảng, tác vƣợng tác hợp, hoặc thành một tƣợng, hoặc
hóa nhất khí. Chỉ có Thái Tuế cô hành khác một vị, quá xa quá phân tán, tất nhiên ly tổ biệt
tông mà tự lập, hoặc làm con nuôi, nghèo cùng cô độc. Giống ở trên năm tháng giờ, mà nhật
chủ độc cƣ cô quả, vẫn tự mình vô hợp vô sinh, lại lập ở nơi khuyết hãm, không phải cùng
sống chỗ khác, thì sống nhờ ngƣời nuôi, ở rễ bên ngoài. )
30-04-16, 12:20
lesoi
Đảng hợp song tranh, thê tài lưỡng nghĩa.
(Trong trụ nếu nhƣ đảng thổ đã nhiều, thiên thời (mùa sinh) lại thuộc mộc vƣợng, đạo ức
dƣơng, dụng nhƣ thế nào, không thể liền lấy hai kẻ thù cạnh tranh nhau. Nếu thổ không hƣ
mà tăng dầy, mộc có khí mà lộ, chi âm kiêm không hình hại xung khắc, lại có thể bồi dƣỡng
mộc tú thành rừng, là dụng lại thanh kỳ. Ta hợp là vợ, ta khắc là Tài, thế nhân chỉ biết ta
khắc, nói chung là thê tài, là sai lầm không đúng, lại còn xem hóa tƣợng nhƣ thế nào. )

Dụng thần một chữ, quý khí đến trọng, tượng muốn tinh minh, khí tổn phân tán.
(Trong trụ có cả đời chỉ sử dụng một chữ, nói không bằng ô mặt chữ, đủ hợp đủ tán, từng chữ
lại đi thành bầy đảng. Nhật can xứ khác cũng treo một chữ, không có chỗ nƣơng tựa, cho nên
dụng chữ này, hoặc dụng hai chữ. Một vị Dụng thần, tinh thần nghiêm thiết tối diệu, nhƣ
dụng Quan tinh, lại thấy Quan tinh đến tiếp, phục kiến lộc. Hoặc dụng Tài, lại thấy Thực thần
quý nhân, đều là quý khí trùng điệp, là giống không có hoa, hoa không có quả. Dụng thần
tráng kiện thành tƣợng, ý chuyên lực lộ không hƣ, ngày đêm không nghịch. Nhƣ thổ mộc
thủy sinh ban ngày, kim hỏa sinh ban đêm, trong trụ nhƣ vậy, sao không là ngƣời danh lợi
đặc đạt? Nếu thiên can địa chi, cùng ta không chiếu cố nhau, dụng thần không hợp, tinh chủ
xứ cô, xung hình khắc hại, nghịch nhau cƣớp khí lại nhiều, tƣợng không cứu trợ, trùng điệp
thấy hƣu phế, không lập không thành, là đạo bất túc vậy. )

Ta sinh ta khắc tình có thoái, nó khắc nó sinh khí tự quy về.


(Phàm ta sinh ta khắc, nghĩa tất nhiên thoái tán. Nó đến sinh ta khắc ta, cả hai đều là khí
nhập. Là sinh, là khắc nhập cát thần, nhƣ vậy là đệ nhất diệu kỳ. )
298 | Tam mệnh thông hội

Sinh khắc qua lại, hợp chủ phù trì.


(Trong trụ hợp không, hoặc có thần cứu trợ. Hợp thực, hoặc có thần phá hƣ. Sinh có chế,
khắc có phù trì, tiến thoái qua lại không đều nhau. Ngộ nhỡ thất thủ, một chút ở trong đó, liền
kém xa nghìn dặm. Nhƣng hội ở hợp chủ phù tá, thần nào là chí thiết, là cấp bách vậy. )

Thiện Ác phức tạp khó khăn, thời phân nhiều ít.


(Hai vị Thiện Ác đều nhiều, hoặc đan xen hoặc phức tạp, nhƣng xem giờ tọa tụ nhiều hƣu
vƣợng, tụ ít hƣu vƣợng. Ác nhiều thì là toàn hung tụ sát, Thiện nhiều thì là cát tụ phúc tập,
thiện ít lực không đủ, ác ít mấy thứ. Vừa nói năm tháng giờ cùng tồn tại quý nhân sinh
vƣợng, cùng ngày hài hòa, là đệ nhất kỳ diệu. )

Sinh mà phục sinh, đều dựa vào thành công ở đâu.


(Nhƣ ngƣời Bính Tân thấy vận Mậu Thân, lại thấy năm Canh Thân, có ý chuyển dựa vào
phục sinh. Có Nhâm thủy tự đến tinh thần, huống chi Bính Tân hóa thủy cho nên đƣợc sinh,
chỗ này là dựa vào thành công ở đâu vậy. )

Hóa mà lại hóa, lại mờ mịt sa vào xứ nào.


(Nhƣ Đinh Nhâm hóa mộc, huống chi có trên đất Dần Mão Hợi Mùi, lại có dƣ thần, thủy mộc
cứu trợ. Mộc bừng bừng nuôi ngu, yên ổn lại có dụng thủy đến trợ giúp, khí mờ mịt không có
nơi nƣơng tựa. Lại xem vận dẫn, hoặc có đƣờng đê phòng chế ngự, mới có thể thành phúc.
Nếu gặp xứ chuyển sinh, một hƣớng mênh mông, lại không thành lập vậy. )
30-04-16, 12:22
lesoi
Ngũ tượng cưỡi nhau: Có Tường thụy, có Quai kiển. Ngũ khí giao chiến hoặc là thương
tàn, hoặc là phấn phát.
(Tường thụy, nhƣ thành tƣợng mộc hỏa, hỏa thổ, thổ kim, kim thủy, thủy mộc. Đắc thời, gọi
là đƣợc thiên thời. Đắc vị, gọi là các khí đƣợc vị trí sinh vƣợng, hoặc nhận kiến lộc. Đắc
quyền, gọi là nhận đƣợc Tài Quan quý nhân, nhƣ có quyền có thế có chấp sự. Quai kiển, trái
ngƣợc với 3 điều trên, nếu tọa dƣới quý khí, dẫu có nhận đất quý, địa chi lại bị hình xung
khắc hại vậy. Giao chiến, là nói thể lực ngang nhau, nhƣ một vật là thiên thời, nhất vật thị kỳ
đảng chúng. Hoặc nhất vật đắc địa, hoặc có một vật đƣợc quyền, nhƣ loại thủy hỏa, thổ thủy
giao chiến. Thương tàn, gọi là dụng thần bị khắc, can chủ bị hại, hoặc Tài cũng bị thƣơng,
Quan cũng bị khắc. Hoặc một vật có đảng thành hóa, lại thấy khắc thần đến phá. Nhƣ loại
Bính Tân hóa thủy, bỗng nhiên thấy thổ đến khắc. Phấn phát, vật và ta cùng an nhiên, Khách
Chủ cùng hòa hợp. Ta cƣỡi khí vƣợng mà bị xâm phạm, nó đắc địa mà còn đƣợc đón nhận,
thế ta cƣờng mà địch không còn, nó có khí mà lại hƣớng đến. )

Tài Quan muốn chân, chỗ diệu này cần lý hóa khí.
(Nhƣ Bính Tân thấy Mậu Quý là Tài, Giáp Kỷ là Quan, đây là chân tạo hóa, tú khí không thể
nói. Còn lại loại suy từ chỗ này. )

Tài Quan có tượng, chỗ tinh hoa này phải dựa vào Cục thần.
(Nhƣ Bính Tân thấy Mậu Quý là Tài, đƣợc hỏa cục, Giáp Kỷ là Quan, đƣợc thổ cục. Thì
phƣơng là Khí hoàn (đủ khí), mà còn thanh thuần không gì sáng bằng vậy. Còn lại theo ví dụ
này mà suy. )

Tạp khí Tài Quan, Cát gọi là Khố, Hung gọi là Mộ.
(Khí Tài Quan, quân bình có Củng, lại thêm quý khí ở trên, là cát Khố. Tạp khí ở trong khố
có 3 mấu chốt, nếu nắm vƣợng tƣớng là quý, ích lợi cho ta là tốt. Nếu Quan hóa Quỷ nhập
mộ, Tài thần hƣu tù nhập mộ là hung, thì không phải là Khố. Nếu cát thần nhập khố, vẫn
299 | Tam mệnh thông hội

mang hƣu phế đến hình, mà còn khắc ta thì cũng không phải là Khố. )

Thiện Ác xung thần, khắc thì nhập, sinh thì thông.


(Địa chi đến xung quý khí, không thể liền nói cát, Ác thần không thể liền nói hung. Phải là
can chi cùng khắc, mới là khắc nhập cát hung. Hoặc là cả đời có một sinh một khắc, một hòa
một chế, chỗ này có biến hóa thông đạt ở trong đó vậy. )

Trên sinh dưới, thành thoát khí, có thể lo Tử vượng Mẫu suy. Ba cướp một, sinh dụng
thần, lật lại hỉ Tử suy Mẫu vượng.
(Trên sinh dưới, nhƣ can sinh chi, chi sinh âm, là một vậy. Năm sinh tháng, tháng sinh ngày,
ngày sinh giờ, là hai vậy. Đƣợc sinh đã là Tử, nếu thuộc Nhàn thần, là ba vậy. Nhƣ mộc sinh
hỏa, ở dƣới chính là Tử vƣợng Mẫu suy, còn lại theo chỗ này mà suy. Ba cướp một, nhƣ kim
sinh 3 thủy 4 thủy, là Mẫu sinh Tử nhiều, Mẫu đã chịu hƣ. Tức là hỉ Tử suy mà Mẫu ở đất
vƣợng là cát. Nhƣ mộc sinh hỏa ở Hợi, chính là Tử suy Mẫu vƣợng. Còn lại loại suy nhƣ vậy.
)
30-04-16, 12:23
lesoi
Tiền hô hậu ứng, sinh thì kế tục, khắc thì trì trệ.
(Phàm cách cục một can một thần, có Thể Dụng, có đầu đuôi, có phối hợp ăn ý, nan hĩ. Sinh
thì kế tục mà không tuyệt, khéo léo có tình. Nếu khắc thì đẽo gọt nung luyện, ký tế đê phòng,
khai thông sắp đặt tạo vật vậy. Nhƣ là cục diện, đều ở sinh khắc nhỏ nhặt, do đó không thể
nghiên cứu thấu triệt nguyên cơ vậy. )

Tả bao Hữu thừa, thu thì quy, tán thì hư.


(Phàm một can một chi, dựng đứng ở trong trụ, có dấu hiệu tả hữu nối nhau. Có bao la, có
quy hƣớng, có tản mạn, có thoái thoát, tính toán khinh trọng, gia giảm đƣợc mất. Nghĩa chỗ
này là đƣơng nhiên, không thể theo nhỏ bỏ lớn, bỏ gốc lấy ngọn. )

Cục thần không thủ, Nhàn đến nhất phái thanh lạnh.
(Trong trụ nhật chủ thủ các loại Tài Quan Dụng thần, hoặc tạp hoặc trọc, hoặc phồn hoặc
hỗn. Hoặc khiếm thắng phụ, hoặc khiếm chế hàng, không phân tốt xấu. Chợt một can nhàn,
không chủ không dụng, nhƣng lại hai bên gặp gốc, có thể nhận một quý khí. Nhƣng thủ can,
thuộc thần nhật chủ, chờ độn thần nào, chớ lấy dụng chỗ hƣ tạo tƣợng. Hoặc các loại hợp
Quan hợp Tài, thủ thành cục có thiết dụng, tuy mới nhàn mà vô dụng. Mà đã đến thời Nhàn
thần, Nhàn đƣợc thành khí, gặp lúc hữu dụng, thì nói vật bỏ không có thiên hạ. Huống hồ tạo
hóa. )

Quan khí hỗn cầu, diệu ở từng chi phối hợp.


(Đã trọng phạm cách thành một thể vậy. Nói nhƣ Quan Sát hỗn tạp, vừa có chỗ phối hợp, vừa
có không đón chỗ quay về, phải đƣợc tuế vận, lại phối ngẫu không quay về là cát. Hoặc Quan
Sát trong trụ, đều tìm chỗ hợp chỗ chế, thì đều phát sinh bất cập. Lại có tin tức cực kỳ thiết
sự, lại có 2 Quan 1 Sát, 2 Sát 1 Quan, đều là loại này vậy. Nhƣ dụng thổ là nhật chủ, lộ Giáp
Ất là Quan Sát, trong chi có chữ Thân Dậu, hoặc chữ Thìn Tị, đây chính là chỗ hợp chỗ chế
vậy. )

Có tình ý với nhau, phải xét ai Phù, Củng Kẹp tuy chân, cần phòng tổn lộ.
(Có tình ý với nhau, nhƣ Bính Ngọ thấy Nhâm Tý, đều có chỗ dựa nhau, Bính dụng Quý
Quan, Nhâm dụng Đinh Tài Kỷ Quan, xem dƣ thần nào phù là cấp, thần nào không cấp.
Củng Kẹp tuy chân, nhƣ ngƣời Ất gặp hai vị Quý Mùi Ất Dậu, minh kiến Củng Kẹp Giáp
Thân là chân Quan, quý khí là không nghi ngờ. Hoặc dƣ thần mai tàng hỏa thần, nếu gặp tuế
300 | Tam mệnh thông hội

vận kiến hỏa kiến canh, hoặc kiến vị trí điền thực, phát họa khả thắng ngôn tai. )

Hợp khởi lực lộ, chớ lấy loại Nhàn, thoát phế tinh anh, gia chuyển thời dụng.
(Thiên can tƣơng hợp, xem chi thần cát hung là khẩn yếu, chi thần có lực, thì tự nhiên phi
thƣờng. Cùng địa chi tƣơng hợp, xem chỗ lực can cƣỡi chi, lực trọng tốt hơn tinh thần vậy.
Có nói: Trên dƣời đều hợp, có chân hợp sát, nhƣ loại Kỷ Hợi kiến Giáp Dần, lại có loại Hợp
Sát nhƣ Giáp Tý thấy Kỷ Sửu. Có nói: Sát thần kỵ hợp, hỉ hình xung phá hại, can thần chi
thần có một nhàn mạn, tuế vận hợp, là hết sức tinh thần. Có nói: Lộc Mã cần lục hợp, kỵ hình
phá, huống chi trong trụ thấy hợp, lực lộ, không phải là nhàn vậy. Thoát phế tinh thần, nhƣ
tinh khí ta sinh ta khắc, vốn tán khí ta, nếu thêm thời thƣợng dụng thần, thì hung chế ngự, nếu
chuyển sinh trợ chủ bản, thì đúng là xoay chuyển sức sống vậy. )

Quần phân có nhật chủ chuyên hành, nhật thần ắt ở vị trí cát hung.
(Cát thần: Tài nguyên, Quan quý, Ấn thụ, Thực thần, Nhật Đức, Nguyệt Đức, Nhật Lộc, Quý
nhân, Đức thần, Thiên Nguyệt Đức hợp, Thiên Xá, Nguyệt Không, Thời lộc, Thời tƣợng, Kỳ
bảo Học Đƣờng. Hung thần: Kim thần, Dƣơng Nhận, Thất Sát, Không Vong, Lục Hại, Cô
Quả, Cách Giác, Tam Hình, Xung thần, Tử thần, Tử Tuyệt, Câu Giảo, một thuyết ở năm,
Vong Thần giống thuyết ở trên, Nguyên Thần cũng vậy. )
30-04-16, 12:24
lesoi
Loại tụ có niên thần lĩnh dụng, Thái tuế xem Cung trạch cát hung.
(Cát thần: Kiến Lộc, Dịch Mã, Trạch thần, Thiên Y, Phúc Đức, Khuyết Môn, Tiến thần, vị trí
Sinh Vƣợng, Hoa Cái, Tam Kỳ. Hung Sát: Toái Sát, Đích Sát, Hàm Trì, Mộc dục, Vong
Kiếp, Bạch Hổ, Dƣơng Nhận, Phi Nhận, Phá Trạch, Đại Hao, Câu Giảo, Tang Điếu, Quan
Phù, Bệnh Phù, Tử Tuyệt. )

Thời tọa tiêu tường, đương nhiên có ngũ lý.


(Một là, nói Thời thƣợng (trụ giờ) có các loại Vong Kiếp, Nhận Sát, Không Vong, Nguyên
Thần, Cô Quả, Tử Bại, Kim Thần, Bạch Hổ. Ác khí quán tụ, đảo quy ở ngày, có chỗ hình
xung khắc phạm là không cát. Nếu quý khí tụ chỗ này, thì là Tƣờng thụy ( nghĩa đã nói ở
trên) vậy. Một là, nói năm tháng ngày ba hạng quý khí, tam nguyên phúc lộc thần dẫn nhập, ở
đâu trọng, ở đâu khinh, phân rõ chính xác. Ở đâu đến đƣợc an ổn, ở đâu không đƣợc dừng lại,
lại thêm nhà mình còn tiếp đƣợc khởi không, hoặc nhƣ xe thuyền, lại thêm phòng ốc nhà ở.
Lại nói giờ có nơi ở, lại ở trên chỗ năm tháng ngày, lại xem có nƣơng tựa nhau ăn khớp hay
không. Lại nói giờ tọa một vị, ắt là đầu mối làm Chủ Thể. Tôi thấy không có dũng cảm nhƣ
vậy, cũng phải biện rõ cát hung, cùng là diệu lý, thể đƣợc tạo hóa tinh thiết vậy. Bên trong
năm tháng ngày, có một vị cùng giờ hòa bình. Hai vị cùng giờ hòa, hƣởng ít phú quý. Ba vị
cộng cùng giờ hòa, đại phát kiến thành phú quý, nhƣng ngày thì khẩn năm thì ít tháng thì
chậm hơn. Một là, nói giờ có khắc phá xung hại, cùng trợ đều dẫn các loại Không vong Tử
Bại, sự thể là tóm lƣợc nhất. Nhƣ giờ Canh Dần thủ Ất Hợi là dụng, là vƣợng tƣớng sinh phù,
đắc khí đắc địa. Có mƣợn nhờ hay không, tham khảo tuế vận, tính toán tùy theo cát hung phát
phế. Một là, nói giờ muốn vƣợng tƣớng có khí, vật khiến hƣu tù vô tình. Lại nói có ba loại
tình nghĩa đầu giữa và cuối, nhƣ đầu giờ Dần thuộc thổ, giữa giờ thuộc hỏa, cuối giờ thuộc
mộc. Một là, nói giờ tƣơng xung hình, là việc thiết khẩn vậy, tải vật không tổn sức, giờ tọa
thứ tự ngũ khẩn, là đạo chí thiết chí yếu. Bởi vì ngày sinh này, thiên hạ phổ biến, chỗ mọi
ngƣời cùng chung đại cƣơng tạo hóa vậy. Duy chỉ có thời khắc, một chút cũng không thể có
sai trái, cho nên là tiêu chuẩn làm bằng chứng, huống chi giữa lúc trao đổi, là quỹ đạo thời
khắc của ngày kế tiếp. Rất là quan trọng, cần phải nắm rõ vậy.)

Hư thần độn pháp, hữu tam thuật chi diệu thú.


301 | Tam mệnh thông hội

(Các loại cát thần nhƣ Lộc Mã Quý nhân, các loại hung nhƣ Nhận Sát Tử Bại, từng việc đều
có định vị. Chính là nguyên ở can chi sử dụng Ngũ Hổ Độn, có thể nắm chuyện quan, cực kỳ
ứng nghiệm. Lại nói: Thái tuế chỗ lâm thập nhị cửa quan thiện ác, độn cụng chỉ độn can Tuế
thần, xứ cát lấy phúc, nguyên nhân chỗ hƣng họa. Nếu thủ dụng các loại Tài Quan nhật chủ,
chỉ cần xem hai vị thiên can năm và ngày, thuộc chỗ độn lúc sinh, loại thần sát cát hung ở
đâu, chỗ cũng phân chia khinh trọng, nhƣ chỗ xuất thân con ngƣời, tƣ cách nguồn cội là
thuộc phái nào, ở đâu? )

Phương dụng thần sinh giờ vượng, nên đề phòng khắc chế.
(Dụng thủy là Quan, kỵ thổ đến các nơi Thân Tý Thìn. Dụng mộc là Quan, kỵ kim đến các
nơi Hợi Mão Mùi. Chỗ Lý Hƣ Trung gọi là Thƣơng phá gia trạch dụng thần, tôi chỉ có lấy xứ
khởi phát dụng thần, trƣớc tiên là bị thƣơng phá, tức là chỗ dụng thần không có nơi trở về
vậy. )
30-04-16, 12:25
lesoi
Kỵ thần tọa chỗ lệnh vượng, lại hỉ hình thương.
(Kỵ thần, nhƣ dụng kim là Tài, hỏa tức là kỵ, duy chỉ có hỉ thần khắc chế, thổ chiếm là vi
diệu. Lại cần thủy đến các nơi Dần Ngọ Tuất Tị, để giảm chỗ cơ trạch kỵ thần phát vƣợng
vậy. )

Dụng thần Quỷ mộ, gặp là tai ương. Dụng thần là quý, tình giúp đỡ vút cao.
(Dụng thần tự có Quỷ mộ, cát thì gọi là Quan khố. Nhƣ mang hung sát đến hình xung khắc
cƣớp, dụng thần tự kỵ, nhật chủ càng kỵ. Dụng thần tự có Tài Quan quý khí, không phải là
Tài Quan của ngƣời trong dòng họ vậy. Múc đích đến thuận sinh phù hợp, tinh thần gấp trăm
lần, dụng thần tự hỉ, nhật chủ càng cần nên thấy vậy. )

Mộ tuyệt cùng Sát Nhận đến hình, họa hình ác hội. Không miễn nhận Tài Quan là thể, tụ
lộc càng thêm phúc.
(Mộ Tuyệt Tử Bại, đạo rất là bất túc, nếu có mang theo các loại ác sát Nhận Sát Vong Kiếp,
Câu Nguyên, đến xung hình khắc, cƣớp khắc nhật chủ cùng dụng thần, họa hoạn lập tức đến
vậy. Hai thần Nguyệt Không Thiên Xá, rất cát thiện, Thiên Nguyệt Đức, Thiên Nguyệt Hợp,
4 thần cùng đoán, đều nắm chức chủ sự, nếu lại thuộc loại Tài Quan quý khí chủ lĩnh thì càng
tốt, phúc khí càng vinh diệu, cùng song song tập hợp càng tốt vậy. )

Có loại Thương quan mộ thần, trong trụ càng xấu. Có ám Kiếp tài Khố Quỷ, chia mệnh là
rất hung.
(Thƣơng quan tự có Mộ Khố, nhƣ ngƣời thấy Kỷ là Thƣơng quan, gặp Thìn là Mộ thần của
nhà mình. Nếu mang hung sát, cƣớp khắc hình xung nhật chủ cùng dụng thần, ác khí rất là
khẩn thiết, là gốc khố Kiếp tài vậy. Nhƣ ngƣời Bính ở vị trí Tuất Kiêm ở trên có Đinh vƣợng,
đến mà hung sát ở trƣớc, cƣớp khắc hình xung dụng thần nhật chủ là rất hung. )

Đất Ấn thụ sinh, thích hợp ở nhuận trạch. Ác thần tử địa, sợ lấy hình thương.
(Ấn thụ vốn là thần sinh ta, nếu gặp chỗ Ấn thụ nhà mình sinh vƣợng, lại thấy thần sinh hợp,
chuyển thành phúc, nhà mình đại nghĩa, liên miên bất tuyệt là đƣợc. Hoặc đầy hoặc tràn, hỏa
xuất đốt mộc, mộc phù thủy phiếm, thổ trọng kim mai, hỏa trọng thổ hƣ, thủy lƣu kim trầm.
Trái lại thì có họa quá đầy sẽ sụp, quá thịnh thì gãy vậy. Thần hung ác, nhà mình đã ở xứ tử
tuyệt, ở trên lại cƣỡi ác khí, cƣớp khắc hình xung dụng thần nhật chủ thì thảm hại, nếu tử
tuyệt mộ bại ở trên cung chủ, là ác đế phá hƣ, thì rất hung. )

Dụng thần xứ ác không có, địa chi khởi dục toàn chương. Phương nạp âm sinh vượng,
302 | Tam mệnh thông hội

dụng thần thản nhiên vô kỵ.


(Phàm dụng thần hãm ở vị trí bại tuyệt ác hãm, trong trụ lộ kỵ, đa số là hạ cách ti tiện. Lại
mang thêm thần hung sát, đƣợc ƣ? Nếu thấy 1, 2 vị thì đƣợc, nếu tuế vận đến phù khởi khí ác
hãm, kiêm hội Sát cục; tức là luận chìm tang bại, loại khí hối lận phá mất vậy. Thậm chí thân
chết không có đất an táng, cần phải đoán Không vong cùng phƣơng Sát. Phàm mệnh nạp âm,
luôn sinh luôn vƣợng, đất tứ quý, đến sinh dụng thần. Tự nhiên hỉ duyệt, đều không sợ sệt,
điềm nhiên tự an. )

Hỏa thổ trong nguồn mất, dễ hóa tượng bụi mờ.


(Nếu khí hỏa thổ không đƣợc tạo hóa trung hòa, hoặc táo hoặc hàn, hoặc thiên hoặc khô, khí
vật dễ bị mờ mịt, là tƣợng mờ mịt mơ hồ, không thể tả sáng, gặ là không thành vậy. )

Tượng tử bại có đảng, chớ hại thần sinh vượng.


(Nhƣ tƣợng tử bại có bè đảng, lại đến hình xung cƣớp phạm thần sinh vƣợng, dấu hiệu lớn là
không hanh thông. Nhƣ ngƣời thủy thấy các loại thần nhà Mão mộc, Dậu kim, Thìn thổ, Tị
hỏa, lại đem cung chủ nhật chủ sinh vƣợng, cung chủ dụng thần sinh vƣợng, phạm tƣơng
khắc nhau, là điềm bất hạnh không nhỏ, cần xem cho tỉ mĩ. )
30-04-16, 12:27
lesoi
Ngũ khí bố định đông tây, địa lý có bồi có kiệt.
(Hợi Tý thủy, Dần Mão mộc, Tị Ngọ hỏa, Thân Dậu kim, Thìn Tuất Sửu Mùi thổ. Nhƣ kim
đến Hợi Tý, thì khí tiết mà kiệt. Mộc đến Hợi Tý, thì nhận nuôi dƣỡng đƣợc bồi. Còn lại theo
đó mà suy, cực kỳ thiết yếu. )

Một thần tụ tàng quý sát, nạp âm tự vượng tự sinh.


(Nhƣ một thần tụ quý, trƣờng sinh mang Sát, ở ngày giờ là cùng đƣờng sinh Sát. Vừa nói Sát
mang quý, tự trƣờng sinh, là hữu dụng, chỗ này là tự sinh mang quý, còn gọi là trong Sát tàng
quý. Vừa nói trong năm can âm theo sinh trƣởng, cùng thần sát ở ngày giờ, là chân trƣờng
sinh. Là khí tụ năm tháng ngày giờ, lại là một cƣờng bốn nhƣợc. Còn nói: Tứ trụ chỉ cần một
vị trƣờng sinh, chuyên kỳ vƣợng khí, là Tụ liễm tinh thần. )

Không Vong đứng đầu số Tiêu Tức, há chỉ có chỗ khuyết thập can.
(Sát này rất là yếu khẩn, ở giữa khinh trọng chân giả, nên khảo sát cho tỉ mĩ. Một tuần Không
Vong, 10 ngày chỗ phân trên dƣới mà quản lý, nhƣ trong tuần Giáp Tý, Mậu Thìn đến Quý
Dậu dụng Tuất Không là cấp thiết, Kỷ Tị đến Quý Dậu dụng Hợi Không là cấp thiết. Một khí
phân khinh trọng, Giáp Tý thấy Nhâm Tuất là Chân Không, thấy Mậu Tuất là nhẹ. Một là
nói: Ở trên vai một vị thái trọng, ví dụ nhƣ ngƣời Giáp thấy Quý, ngƣời Ất thấy Giáp. Tức là
trong một tuần, sau Lộc gặp Không Vong. Nhƣ ví dụ tuần Giáp Tý là Nhâm Thân, tuần Giáp
Tuất là Canh Thìn. Một là nói Ngũ khí lạc Không, nhƣ tuần Giáp Tý là thủy thổ, tuần Giáp
Tuất là kim, tuần Giáp Thân là hỏa thổ. )

Quan quý ức phù lưỡng lập, xưng đình nhất lộ từ cơ.


(Quan tinh là phúc nguyên quý khí một thân, đệ nhất thiết sự, Tài thần là thứ. Nếu có một phù
một ức, nghĩa là lƣỡng lập, bất phân thắng bại, nhƣ âm dƣơng khí không thăng giáng. Trong
một đƣờng vận, nói dừng phối tình thuộc cƣờng nhƣợc, lấy đƣợc Sát hƣng hay phế vậy. )

Sát lộ Quan ẩn lấy nhờ tình, Quan hiển Sát tàng mà lập nghĩa.
(Sát lộ, có thần hiển lộ chế hợp cùng phối, Quan ẩn không có Ấn thì càng ẩn, chủ bên ngoài
có quyền mƣu thao lƣợc, bên trong mƣu kế tính toán xấu xa, nếu Sát trọng mà không có
khống chế, trái lại là Quan thần vô tình. Quan hiển Sát tàng, bên trong thì tính ác vô tình,
303 | Tam mệnh thông hội

bên ngoài thì nghĩa hòa cẩn tiết, đại nghĩa nhƣ vậy, lại đem truy nguyên để lấy thông tin. )

Kỵ Sát khí chuyên, dụng thần có tình. Dụng thần lực thiết, kỵ Sát ngoại trì.
(Kỵ Sát có sinh có phù, hoặc tọa đất sinh vƣợng, cùng có thần hợp trợ, ý là khí chuyên,
không thể đƣợc vậy. Trong trụ là thấy dụng hƣ thần đến sinh hợp, tình lộ hình có khí, hoặc
lạc thiên trung, tuy vƣợng cũng không có đất, tình lực tán, cho nên tự không bằng khí chuyên.
Nếu dụng thần hợp trợ, có phù có sinh, hoặc lực chuyên vị sinh vƣợng, mới có thần sinh trợ,
có tình có lực, rõ ràng là thiết yếu. Cả hai Kỵ thần Sát thần, tuy ở trong trụ làm khó dễ, lực
khiếp tự thiên lệch, tuế vận kiêm có cƣớp khắc, trong trụ tự nhiên dừng lại, không phải khí
rơi mà chạy bên ngoài vậy. )
30-04-16, 20:20
lesoi
Khuyết dụng nạp âm, hoàn toàn vì bổ khí.
(Đại Nạo tạo ra phép nạp âm, vốn có 8 cách hữu dụng, rốt cuộc làm sao mà bỏ vật, chỗ
khuyết khí vẫn phải nạp âm bổ túc, nhƣ khuyết thổ nạp âm có thổ, thì bổ túc cái không đủ,
một ít hƣu tù. )

Vật đều diệu ý, thân không thể đảm nhận.


(Quý khí hoặc nhiều hoặc trọng, tự thân vô khí sao có thể đảm nhận. Nhƣ tùy theo loại, liền
hóa, hoặc tòng tƣợng, ứng khí, không luận ở đây. Một khi nói thân không thể đảm nhận,
giống nhƣ bệnh thì không thể ăn, hoa không kết quả. )

Thế tình sung duyệt, phát vượng theo thời. Tượng ý không hàn, giam cầm qua ngày.
(Bát tự khí hậu so sánh tình thế, tình tƣ thể đoạn, nhƣ ngƣời khí tráng khí đầy, tự ấm áp thích
thú, thiếu đạt năng lực thì cứu thông, lợi vật phát nhận, hoặc tuế vận phù trì, lại nói gì chăng.
Nếu bát tự thể chế cô hƣ, khí tƣợng lãnh lạc, kiêm mang Không vong Hƣu Tù, mặc dù có trí
thuật tài dũng, không có chỗ thi triển, năm tháng không nhàn mà thôi. )

Khí thành công, biến hóa quy tôn. Thần qua lại, lui tới đều quý.
(Biến hóa thành công, nhƣ Nhâm thủy ở tháng 12, bản khí tàn phế. Có can chi tƣợng mộc dẫn
hóa, là đệ nhất diệu sự, qua lại đều quý. Nhƣ loại Đinh Tị kiến Tân Hợi, hoặc Canh Dần Kỷ
Mão. Địa chi tuy xung, xứ bất hòa, hai chi lẫn nhau đều có Nhàn thần Quý khí qua lại, còn lại
theo ví dụ này mà suy. )

Hưu tù lại nhập Không Vong, trái thời việc thoái. Vượng tướng nếu kiêm sinh hợp, phúc
thấu quyền hành.
(Phàm vật hƣu tù, vốn là không tốt, lại nhập Không Vong, há chỉ sinh không gặp thời. Dẫu
cho có thời, việc cũng thoái tán không cứu. Nếu ngũ tƣợng vƣợng tƣớng, đến Không cũng
đƣợc, kim hỏa vƣợng nhập Không lại tốt. Nói đến thần vƣợng tƣớng, vốn tự đƣơng thời, nếu
sinh nếu hợp, càng thấy tinh thần quyền biến. Phúc có tập hợp, có đƣợc ý chí, đƣợc đảm
nhiệm đều không đánh mất. )

Khí đã qua là muốn thoái tàng, trở mình nên ở đất mộ tuyệt. Phương vật đến cần nên tiến
thủ, vốn hỉ cung sinh vượng.
(Nhƣ tháng 3 đã qua khí Giáp mộc, hợp lý thoái tàng, duy chỉ nên ở đất mộ tuyệt, là hợp đạo
tự nhiên vậy. Nếu lâm đất sinh vƣợng, lại thành bất thƣờng. Phƣơng đến sinh vƣợng, nhƣ
tháng 12 Giáp mộc tiến khí, tháng giêng Ất mộc tiến khí, đem đến phƣơng tiến. Nên lập đất
sinh vƣợng, là họa là phúc càng gần. )

Hưu Tù hữu dụng, càng phát vẫn chậm, vượng tướng vô tình, xấu thì rất nhanh.
304 | Tam mệnh thông hội

(Dụng thần tuy quý hữu dụng, sinh ta trợ ta, lại lâm loại Thiên Nguyệt nhị Đức, Thiên Ất.
Nếu không lâm mùa vƣợng tƣớng, dẫu là hữu dụng, càng phát càng chậm. Trong trụ tuy
mang thần vƣợng tƣớng, cùng ta vô ý, giống nhƣ nửa cát nửa hung. Một khi đến tuế vận, chỉ
phù hung sát, họa rất là nhanh. )

Tiến thần chấp quyền, rất tinh rất xứng, nạp âm lại quý, nên khắc nên sinh.
(Tiến thần mang quý khí, là hay đệ nhất ở trong trụ. Dẫn Sát nhập nội, là hung bậc nhất. Quý
khí trong trụ tuy cát, tình nếu không gần. Nạp âm nến đến khắc ta sinh ta, thì mới là hữu ý, là
lấy quý toàn mỹ. Nếu nạp âm không sinh khắc, không phụ trợ quý, cùng ta là không có chung
vậy. )
30-04-16, 20:22
lesoi
Xung khí Vượng thần, thấu dụng điêu khô, ác sát nắm quyền, bản tuần cấp thiết.
(Nhƣ Đinh Mùi hoặc sinh mùa hạ lúc đắc thời, hình xuất Tân Quý ở trong Sửu, thấu ở trong
trụ là dụng. Phúc khí mỏng, là họa cũng nhẹ. Ác Sát vƣợng tƣớng vốn là hung, nếu cùng nhật
thần trong một tuần, họa nhanh rất nặng vậy. Vốn trong tuần Quý thần, rất cát rất khẩn. )

Kim thần đắc thế rất hung, Không Vong gặp xung tất phát.
(Kim thần vốn là hung, nếu không có đất hỏa chế, lại đƣợc xứ khác phù khởi, hoặc vƣợng
tƣớng, đều là đắc thế. Rất hung bạo rất cƣơng, là hung rất nặng, hãm Không Vong không
bằng không có dụng, chính là vật bỏ đi vậy. Gặp xung thần tất nhiên khởi phát, tức là hữu
dụng vậy, ví dụ nhƣ Dần Không thấy Thân vậy.)

Nhận cùng Nguyên Vong Kim đầy cục, hoàn toàn dựa vào hỏa thần. Vượng tướng hung
sát hỏa đốt không, cần dựa vào tượng thủy.
(Kim chính là tƣợng sát hại vật mệnh, cục đầy khí kim, kiêm mang các thần hung sát hình
khắc, ta không sát hại ngƣời khác, tất bị chỗ ngƣời hại, không có hỏa chế tất nghiệm. Nếu
tƣợng hỏa đốt nóng hƣng thịnh, loại này phần lớn là gặp hỏa tai, huống chi tuế vận phù hợp
khí, phải nhờ tƣợng thủy ký tế. )

Cầm khí mộc thổ, để đợi phát minh, lực khắc xung bằng, không phân thắng bại.
(Mộc không có thổ thì không thể bồi dƣỡng, thổ không có mộc thì không thể khai thông, đợi
đến tuế vận, phù cái không đủ, hoán khí mà phát, tự nhiên có ích kiên cố. Về phần nhuận
trạch xung khắc, có thắng có bại, lực bằng nhau thì thắng bại không phân, phải xem khí mà
thôg tin, mới có thể đoán vậy. )

Phù trì sinh trợ, Sát thần chuyển dưỡng, chiến đấu xung tranh, xem khí phá tận.
(Sinh trợ không ngừng, xem thần chuyển dƣỡng, chỗ nào là cơ thể dụng, là dấu hệu cát hung
mà quyết định. Chiến đấu xung tranh, xem khí phá tận, tức chỗ này là ngƣời thoái nhàn vô
dụng vậy. )

Can âm thủ Nhận muốn phân minh, chi lực đương quyền phòng ám phạm.
(Chi lực là nói quý lực. Can âm thủ Nhận, ví dụ nhƣ Đinh Kỷ thấy Mùi, Tân thấy Tuất, là loại
Nhận. Chi lực đƣơng quyền, nhƣ Mùi thuộc quý thần, hoặc là lực trọng, thì hợp Ngọ, Ngọ
xung Tý, là phạm đến Mùi. Lại nhƣ Mùi có lực trọng, có thể xung khởi chữ Sửu trong có vật
Quý Kỷ xuất ra. )

Vượng thần dựng đứng, vật chớ trước mặt, tràn đầy ác sát, can không xứ dừng.
(Nhƣ vị trí một can, có khí thiên thời rất vƣợng, trong trụ nổi bậc thiên quyền, còn lại không
có liên quan bó buộc. Thần bị khắc, sao dám hiện lộ, dẫu cho tàng phục, cũng chớ dám chấp
305 | Tam mệnh thông hội

sự vậy. Can năm can ngày, gặp các ác thần Sát Nhận đầy trong cục, can chủ là mình, lại
không có chỗ ở, quyết chủ không cát, là bần yểu ác tử. )

Trong Quỷ phùng Quỷ không có khử tựu, xung mà gặp xung thiếu khuyết chỗ dựa.
(Khắc hại ta gọi là Quỷ, nếu Quỷ cũng gặp Quỷ đến tƣơng hại, xoay chuyển thƣơng khắc, khí
cực áp bức ta. Nếu càng không có chuyển chế, là dấu hiệu kề chết. Chi thần bị xung, can thần
quý khí liền không an ổn, xung thần lại gặp xung kích thì không biết làm sao. Nền tàng nhà ta
lại không có chỗ nƣơng tựa, tƣợng không thành lập, vật cũng không thành, không họa thì yểu.
)
30-04-16, 20:24
lesoi
Cùng khắc Trọng thôn đều thành họa, nhị kích song xung tổng bất tường.
(Nhƣ Giáp thấy 2 Nhâm là Trọng thôn, thấy 2 Canh là Song khắc. Trong trụ trùng điệp thấy
xung thần, hoặc xứ hợp có hình có hại, có khắc có phá, đều là dấu hiệu không cát tƣờng vậy.
)

Ngũ hành cần phải quân bình, thiên lệch khó mà cứu vật. Tứ trụ hoàn toàn nên phối hợp,
hưng suy e rằng không thành công.
(Nói quân bình, có 5 loại: Một, là dụng thần nhật chủ, xung hòa cứu nhau, so với chỗ này
đều có chỗ dựa không đến nỗi thiên khô. Hai là, tổn khí dụng thần, có vật để chế, không đến
nỗi tác quái. Ba là, can chi trên dƣới giống nhau, đƣợc chỗ đón nhau, không quá bất cập. Bốn
là, Tử khí hoặc đối địch vật bé, đảng ít không thể thắng đảng nhiều. Năm là, muốn biến muốn
hóa, có đố có phá, muốn an muốn tĩnh, có phạm có kích. Phối hợp, có 6 loại: Một là, suy
thần hữu dụng, cần có vận phù suy mới đƣợc. Hai là, thiện ác rời nhau có thể cùng phối, xem
vận nào phù, để phân biệt cát hung. Ba là, tuy có dụng thần, một hƣng một suy, thiên khô
không cứu. Bốn là, chỗ an chỗ cứu, chỗ ứng chỗ cầu, đều có chỗ dựa. Năm là, vƣợng muốn
thành vật, một suy không thể hoàn thành. Sáu là, can chi đều có chỗ phối quý khí, hoặc có
chỗ bất thƣờng. )

Phúc đức cả đời, không biết vật hóa liên miên. Thứ vị đến thần, phải biết ám thương cản
đường.
(Trong chi có loại Kỷ Ất Tân Đinh, đều nói Thất Sát hung ác, không ngờ rằng Kỷ thổ sinh
Tân kim, Tân kim sinh Quý thủy, Quý thủy sinh Ất mộc, liên tục không tuyệt, huống hồ lộ rõ,
xứ hƣ củng hoặc có Giáp Bính Nhâm Canh, ám hợp hoàn khí, là quý cách đại phú. Thiên can
không đến trƣớc một vị, địa chi không đến trƣớc một vị, đều là hung ác, không thể không
biết. Nhƣ Ất thấy Bính, hợp Tân ám tổn. Cùng có loại Nhận, Tý thấy Sửu, Sửu thấy Dần,
Dần thấy Mão, có Nhận có Sát, Hàm Trì Tỉ kiên, là ác khí đa đoan. )

Thập can chú ý phạm chân khí nhau, Thất Sát phạm khắc thần cực thiết.
(Nhƣ Ất Dậu thấy Mậu Tuất, tức thành Đinh hỏa thƣơng Ất kim, lại là mộ hỏa lục hại, phát
khí kim vƣợng. Còn lại loại suy theo chỗ này. Thất Sát phạm khắc, nhƣ vốn dụng Ất mộc
hành Dậu vận, xung tổn tuế Sửu, Ất Mùi kim cục, vốn phá Ất mộc dụng thần, kiêm xung Sửu
hƣ vị, đem chỗ thần tàng, phá bể hƣ ngã xuống đất vậy. Đƣa ví dụ này suy, cục còn lại xem
kĩ. Đoạn này chỉ có thể nói, Thất Sát phùng xung là không cát, không thể luận kim cục phá
Ất mộc dụng thần. )

Bát tự mang Sát hình thai, ngoài ý muốn cần biết. Tứ Ấn có liên quan gì cưỡi khí, nói rõ
thủ loại.
(Chỗ Thai thần truyền thông tin, đều có khác loại, nhƣng ngƣời ngày nay ƣớc tổng vị trí 12
tháng, cho nên không có thiển thâm, dẫn đến sai lầm. Một phƣơng pháp có khoảng 12 tháng,
306 | Tam mệnh thông hội

đối nhau chỗ ngày sinh là đúng, nhƣ ngày Bính Ngọ ở trong tiết tháng nào. Hoặc là tháng 11,
hoặc là tháng 9, hiểu thông mà sử dụng. Nếu mang hình, chủ sớm làm trở ngại cha mẹ, không
hãm xung hình, tứ sát là tối ác. Tứ Ấn: Cổ ca nói: Thìn Tuất Sửu Mùi là Tứ Ấn, đƣợc Mậu
Kỷ thiên về chủ Tín, nếu gặp Giáp Ất thì thấp hèn mà còn tham lam, có gặp Bính Đinh nhiều
là bần bệnh, cách Canh Tân hiệu là Mẫu sinh Nhi, tụ sát cung Sửu thì phần đa là đoản mệnh,
Nhâm Quý không nói. )

Ngũ hành phân bố phương ngung, tử thủy sinh kim mà dị dụng.


(Nói hỏa sinh ở Dần bại ở Mão vƣợng ở Ngọ, Kim sinh ở Tị bại ở Ngọ mộ ở Sửu. Nhƣ ngƣời
Giáp Tý gặp Tị, tức là sinh ở kim khắc Giáp, tuyệt ở thủy sinh Giáp, lâm quan ở hỏa cƣớp
Giáp. Gặp Mão tức là tử ở thủy sinh Giáp, đồng đảng vƣợng mộc, bại ở hỏa làm hao Giáp.
Từng vị đều có chỗ điều khiển, xem cục còn lại, theo sau phù ức mà luận, can còn lại loại suy
theo chỗ này. )

Một Nhàn thần dừng ở tả hữu, Thương quan cướp vốn dĩ đợi thời.
(Nhàn thần dừng ở tả hữu, tức là can năm tháng giờ, đa số là không thủ dụng, cho nên một
hƣớng hơi chậm. Mà đến tù dừng trƣờng trí, dƣỡng bệnh tang thân, hoặc thuộc thần Thƣơng
quan vô khí, không buộc thành việc. Bỗng tuế vận trợ khởi loại thần này, tiết hao khí của ta,
tổn thƣơng dụng thần của ta, nửa chân nửa giả. Kỳ thực là nuôi ngựa đắc thế, tiểu nhân phùng
ân mà có quyền, chỗ này giữ lấy căn họa, sao lại chợt có vậy chứ? )
30-04-16, 20:25
lesoi
Hai bên can thần an ổn, mới là đủ lộc. Địa chi xung kích qua lại, làm sao ngựa không
chạy.
(Nhƣ ngƣời Giáp Lộc ở Dần, kiến Nhâm Dần, thì nhà mình mang Tiệt Lộ Không Vong, là có
phúc tăng đạo. Canh Dần là Phá Lộc, là nửa cát nửa hung. Lại nhƣ Đinh kiến Mùi là Nhận,
khó mà nói lộc là quý. Tân lộc ở Dậu, kiến Quý Dậu là kim mộc phạm nhau, Đinh là Không
vong Dậu quý. Đinh thụ khí ở mộc, Tân mộc dục ở thủy, chủ gian dâm. Trên Lộc độn can,
gọi là Chân Lộc, rơi vào phƣơng nào là hữu dụng. Can thấy Thiên Ất quý nhân, can lộ trên
quý, phục tọa quý lộc. Nhƣ ngƣời Đinh lộc ở Ngọ, độn đến năm, đƣợc chữ Bính. Bính quý ở
Dậu Hợi, mà phùng Tân Dậu, Tân Hợi. Thì Tân quý phục kiến ở Ngọ, là nhập cách cực
phẩm, chỗ này Lý Hƣ Trung gọi là Thiên Lộc hỗ Quý. Nhất Mã không hỉ xung, xung thì
động, can thần ở trên Mã cƣỡi quý là cát, trên Mã độn can có tình là cát. Nhƣ ngƣời Đinh Sửu
gặp Tân Hợi, là muốn xứ quý hữu dụng. Can thần trên Mã, tự mang ác thần hung sát Không
vong, lại khắc chủ thể cùng dụng thần là hung. Hoặc chi thần chăm chú kích hình xung mãnh
liệt, sao Mã yên ổn mà dừng chứ. )

Thương tận Quan tinh, mới biết dụng lộc. Xung phá lộc vị, mới được dụng Quan.
(Trong trụ có thần Thƣơng quan, Quan tinh lộ bị khắc hại, lại có Nhật Lộc, dụng lộc lại thỏa
đáng, không dụng cả hai, là không quy nhất vậy. Lộc vị nhƣ bị phá hƣ, lại chỉ dụng Quan tinh
làm định thể, bởi quý dụng một đầu mối là hay nhất, nhiều thì tán liễu tinh thần. )

Lộc vị tuy minh, hóa khí e là kỵ, đã thấy Dịch Mã, lại trọng Nhật thần.
(Các loại Quan tinh Kiến Lộc, đã rõ không có phá, tất là cát là phúc vậy. Nếu thể dụng thành
hóa, lại ở vị trí có đố có đoạt, hóa lại không đƣợc, là vật không thành. Thì cũng nhƣ mầm
giống mà không tú, không quý không quan, hoặc có phúc, mà không có tích tài phúc hậu.
Dịch Mã vốn chôn ở cung Thái tuế, muốn đến cƣỡi dụng. Nếu cung ngày lại có Mã xuất ra
trùng điệp, lại thành cục tiện. Một thuyết, Nhật thần Mã cùng Tuế Mã tuy trọng, Mã nếu hữu
dụng, quý khí an nhiên càng tốt. Lại thấy tiếp thì bất trung vậy. )
307 | Tam mệnh thông hội

Đã thủ Lộc tân là dụng, tế Quan Mã tướng vi nguyên.


(Độn Lộc trên can, danh là Lộc Tân (Tân nghĩa là Khách), nhƣ không có Tuế Lộc, phải cần
xem độn đến lộc quan. Can thần là dụng, là lộc tối thiết, lại xem Nhật thần, dụng là thần nào
vậy. Mã tƣớng cũng giống nhƣ Lộc pháp, thí dụ nhƣ năm Đinh Tị ngày Bính, Mã ở Hợi. Độn
thấy Tân, là vợ của ngày Bính, chủ con đƣờng chỗ cƣới ở phƣơng ngoài. Lại chia Quý Lộc
Tài Quan, sát hung sát nói khinh trọng. )

Dụng tượng phù hợp, cần đề phòng đố tranh, quý khí giao thông, thiết xem phân đoạt.
(Dụng thần vốn cùng nhật can tác hợp, có tình có khí là đƣợc bằng hữu. Hoặc trong kỳ minh
ám có Tỉ kiên, một tranh một đố, gặp mà không gặp. Dụng thần nhà mình có thần tranh đố,
tất cả phép đoán, kể cả năm. Phàm quý khí chuyên dụng thì đƣợc, hai xứ ba xứ chia ra sử
dụng, chính là vật của mọi ngƣời. Cả đời không chỉ khởi nhiều kiện tụng phân tranh tài sản
gia đình mình, cũng là chỗ Tỉ kiên phân chia. Tỉ trọng Ta khinh thì càng năng. )

Tài Quan chỉ dựa vào Nhật thần, Vong Kiếp cần tham khảo Thái tuế.
(Nhật thần chỉ thủ Tài Quan làm dụng, rất là thân thiết, hƣng suy vƣợng tuyệt, tƣơng sinh
tƣơng khắc. Lại cùng Tuế gia cai quản nhƣ thế nào, hành tàng họa phúc cực nghiệm. Hai thần
Vong Kiếp, là một năm ác sát rất nặng vậy. Cần phải tham khảo đúng Tuế quân, đều có tiến
thoái. 16 loại cát hung, chỗ dẫn đạo hành tàng bỏ hay lấy, đã thuật ở trên. )
30-04-16, 20:27
lesoi
Quý có loại giáng minh năng nhẹ, Phú có phân cao thấp dày mỏng.
(Một, xét thể chế cách cục, nhƣ thế ý mãnh liệt chủ bản hùng kiện, quý khí trao đổi qua lại.
Hung sát đƣợc chỗ phụ tá, không đến mức khí đầy không có rời bỏ. Là nghĩa thứ nhất vậy.
Hai, Dụng thần chí thiết chí tình, không phá không hƣ, phân lƣợng cách cục, bằng nhau mà
thuận. Ba, Phúc thần có tình, hóa tƣợng đƣợc thể. Bốn, bản loại Tài Quan hữu dụng, vận gặp
phù trì không tuyệt. Năm, chỗ vật hỉ, thời thƣợng cùng vận đƣợc phù trì. Chỗ vật ác, thời
thƣợng cùng vận đƣợc chế ngự. )

Xứ hung kiêm có Đức thần, xứ cát đều có phấn phát.


(Một, Đại phú không ở Tài thần khinh hay trọng, đại khái cũng đầy đủ có quý khí. Chẳng qua
xem khí dày khí mạnh, nhƣng trung gian khuyết tƣợng thanh thuần. Hai, Tinh thần có trợ
giúp, Nhàn thần rất nhiều, nhật chủ có chỗ dựa, Ấn Thực Tài thần cả ba đều rất gần. Ba, Lộc
Mã phù thân, Nhật chủ thụ khí Tuyệt Thai Tuyệt xứ, Tài Quan hữu dụng. Hoặc gặp sinh khí,
nhƣng khí chảy xa tụ tƣợng không rộng. Bốn, Khố Tài có củng, hoặc lộ thì khí phải dày,
đƣợc xung đƣợc hình. Tài Ấn Thực thần, ba vị có một vị hữu dụng. Nhật thần nếu trói buộc
tự chuyên, quý khí tản mạn, xét kĩ, đều có trên dƣới rõ ràng vậy. Năm, mang hình khắc hoặc
vật khắc ta thuộc khí Tài tinh sinh vƣợng, hoặc khí Tài thần Lộc Mã Quý nhân. )

Bần tiện mà thọ dài, phú quý mà yểu tử.


(Một, Ứng dụng thần khắc chiến không có chỗ dựa, lại kiêm hƣu tù vô dụng, hoặc lâm tử
tuyệt hỗn tạp. Độc thân đƣợc khí trung hòa, vận dẫn mà không thiên lệch. Hai, Thân lâm Bào
Thai thụ khí phƣơng tử tuyệt, không mang Phúc thần, vận thông thì không thể hại. Hoặc
Không Vong Phá Toái, Nguyên thần Đại Hao, Lục hại Quỷ mộ, Kim thần Bạch Hổ, Tử khí
Nhận Sát. Đan xen quy cục, chỉ có một Ấn thụ, hoặc một Thực thần có lực, từng vận dẫn mà
xứ hỗn tạp không tuyệt, đoạn văn trên là chuẩn. Ba, Phúc qua lại đƣợc thế, tự thân vƣợng
tƣớng, tuế vận hiển dƣơng. Quá đầy thì dụng sụp, hoặc khiếm khuyết thần chuyển sinh, hoặc
xứ khắc ta lại không rời bỏ. Hoặc một vật hãm Không, hình xung chỗ tụ khí của ta. Bốn, Bản
tƣợng cùng hóa tƣợng, đều đƣợc dụng thần là phúc, tả hữu phùng nguyên. Bản thân lại hóa
308 | Tam mệnh thông hội

mà không hóa, căn cơ không ổn. Năm, cục đầy quý khí, thân nhƣợc không thể đảm nhận tuế
vận khắc chiến nhật chủ, đoạn văn trên là chuẩn. )
30-04-16, 20:29
lesoi
Đầy bế tắc cũng từ ở hỏa thổ.
(Hỏa sinh thổ, ý là rất tốt rất thực, khí tƣợng tự nhiên tụ kiên cố, tất ắt là vốn trung hậu. Lợi
danh an hƣởng, xử thế ƣu du, lại không phải không điều khiển kiến công lập nghiệp. )

Lưu hành đều dựa vào ở căn nguyên.


(Đại phàm lƣu niên vận hạn ung dung, không trải qua phong ba thành bại. Bởi do căn cơ
nguyên có quý khí đắc lực, dẫn hành tuế vận, trợ giúp không phá hƣ, là có chỗ nƣơng tựa
vậy. )

Thông minh không ngoài Đức tú, mệt mỏi chẳng qua do hưu tù.
(Đức tú, nhƣ tháng Thân Tý Thìn, Nhâm Quý là Đức, Bính Tân là Tú. Mang chỗ này đa số là
văn nghiệp thông đạt, ngƣời thông minh hiểu chuyện, cục còn lại dựa theo ví dụ này. Hưu Tù
Phế Tử, là thiên thời (tiết mùa) vậy. Tử Bại Mộ Tuyệt, là ngũ hành vậy. Nhƣ đầy cục đều
mang chỗ các loại khí số này, cả đời sẽ mƣu vọng không thành. Thoái hối tàng vụng, nếu
kiêm cô khí, xuất tục làm ngƣời ở ẩn vậy. )

Khí thiên lệch đều cường mà thô tục, bản nguyên mất ký thác thì phiêu lưu.
(Nhƣ bát tự thuần âm hoặc thuần dƣơng, trong trụ vì khiếm khuyết hợp các loại quý thần Tài
Quan, dụng thần vừa thiên vừa cƣờng. Lại có vật hình xuất xung bay đến, đều là chỗ dẫn đến
khí thiên lệch, tuy tài mà thô tục, không phải thanh tú đẹp đẽ. Nhật chủ, tƣợng thì coi nhƣ
không có bè đảng, khí thì không có nhận quý. Trong trụ có nhiều Nhàn thần ngạo mạn sát
phạt, kiêm có khí hình khắc xung cƣớp tản mạn, rƣợt đuổi mệt mỏi nhƣ vậy, phần đa là mƣu
sự không thành. )

Khí như mãnh liệt, hại vật hại người, nếu tượng thuần hòa, không có thao túng.
(Thế khí nắm thiên thời, dũng mãnh cƣơng cƣờng. Nếu lại mang Kim thần Bạch Hổ, thần
Nhận Sát hình hại. Bởi vì do cƣờng đạo cƣớp bóc, thiện thì tàn sát công việc, cuối cùng cũng
sát nhân hại vật. Cũng sợ bị ngƣời giết hại vậy. Lâm việc sẻ mất, tuỳ cơ ứng thông lợi, đều do
thần hung sát, không bế không tắc, phụ tá dụng thần, nhƣ vậy có dùng để sai khiến vậy. Nếu
trong trụ tƣợng số thuần hòa, khí thực nhu hoà, thì không có thể giữ đạo lý luân thƣờng. Tuy
có dụng thần, cũng khó khăn mà thôi. )

Hiên ngang hô ứng, vốn là dựa uy Nhận Sát. Tài phong xấu ác, hết tận mang khí khố mộ.
(Có quý khí, không có Nhận Sát phụ tá, không chỉ lâm sự không có uy dũng, hành vi hợp với
khiếm khuyết vậy. Có chỗ này Nhận Sát phù quý, tất có thể làm việc lập nghiệp, có quả quyết
việc làm. Có ngƣời danh mục thấp kém, lại phát tài lộc, chính là do Tạp khí Tài Quan, Ấn thụ
thân dày trong khố mộ. Có ích cho nhật chủ, huống chi tuế vận lại phù hợp nhau vậy. )

Thân cường lộ Nhận, trở mình nên tụ liễm dư đầy. Can hợp thiên lệch nhiều, đảo loạn
tinh thần mờ mịt.
(Thân cường lực kiện, ý là trong trụ có ám Tài nguyên. Nếu thấy Nhận lộ, vốn là Kiếp tài,
nếu lực của ta đã chuyên, Tài thần có tình, trái lại cần lộ Nhận. Bởi do ta có thể nắm vật quy
về vậy. Loại điều cách này, can là khiếm khuyết, giỏi thì có thể tụ tài. Nếu trong trụ tuế vận,
có đất Nhận vƣợng, không dám luận đoán nhƣ vậy, cần phân biệt kỹ càng. Can hợp thiên
lệch nhiều, nhƣ Ất thấy 3 Canh 2 Canh hợp, sao khí chỉ không đƣợc trung hoà, cũng tự thiên
309 | Tam mệnh thông hội

khô đảo loạn, dẫu có hóa đƣợc thành tƣợng, cũng không thành toàn đẹp đẽ. Chẳng qua là ba
họ cùng sống, hai họ hợp lại mà sinh sống, là ngƣời lấy cây Lý đổi thành cây Đào vậy. )
30-04-16, 20:30
lesoi
Độc Sát là phân bố chúng thần, phô trương thanh thế. Một loại quý từ ba chỗ, phân tán
anh linh.
(Sát vốn không tụ, nếu chỉ có một Sát, phân bố nhiều chỗ, lực tự khinh tán. Không đến nỗi
mƣu nhiều thành ít, có miệng không có tâm, quá sức tiết tháo, lực nhỏ mà nhận nhiều. Một vị
quý khí, tinh chuyên là diệu, nếu 2,3 chỗ đều có, giống nhƣ mây dầy mà không mƣa. Tú mà
không thực, hoặc không quý không quan, học nhiều mà ít thành. )

Bình Đầu lại mang Châm Nhận, sao không thương tàn? Câu Giảo cùng đến Vong Kiếp,
thà rằng chỉ xảo quyệt.
(Bình Đầu, chính là các chữ Giáp Bính Đinh, dẫn Huyền Châm Dƣơng Nhận, hình hại nhật
thần. Một nói: Trong ngày mang Sát mang Hoa Cái, chủ lấy ngƣời vợ trƣớc, hoặc tàn tật,
hoặc ngu độn. Một nói: Tỷ suất vì chuyện mà kết hôn, hoặc có diện mạo tất dâm, nhƣ ngƣời
Kỷ ngày Mùi hoặc Kỷ Hợi Kỷ Mão. Một nói: Ngày giờ Tân Nhận, là kề thân Nhận, vợ có
sinh ly tử biệt. Một nói: Hỗ hoán Huyền Châm, chủ mang tật, cùng quan hình, hợp Ác sát, lập
tức thấy tự hình, nữ nhân cũng vậy. Hai thần Câu Giảo, chủ giảo hoạt phá bại, cát thì lập uy.
Nếu lâm Vong Kiếp tất hung, huống chi bất hòa với nhật chủ. )

Tài cư khố địa, thân nhập đất suy, tính năng bỉ lận, khí cũng hèn nhác.
(Tài thần gặp khố bế tàng, đã thiếu khuyết hình xung khai kích, huống chi là thân nhƣợc.
Loại ngƣời này, rất ít khoan dung, phong độ ít rộng lƣợng vậy. )

Mộc gặp Học Đường, hỏa lâm sinh địa, văn vừa tinh hoa, chí càng kiêu ngạo.
(Mộc Hỏa, tƣợng văn minh. Cƣ vị trí sinh vƣợng, chủ văn học khai thông, tài năng hùng kiện.
Nếu khí mộc hỏa viêm thƣợng, là ngƣời không quan tâm chi tiết, không thể chịu khuất phục,
cao ngạo kiêu căng. )

Bá Đức chí vọng thanh danh, mẫn trí mưu mô tài lược.
(Quý khí có trợ, can có lực, Thiên Nguyệt Đức thần, cùng Thiên Ất, hỗ hoán qua lại. Chủ
thông minh nho nhã, kiêm nhờ Không vong Hình xung đắc dụng. Sát Nhận phù Quý tƣợng,
có chế phục, đắc trung, nhật can có thể ngự phục, duy chỉ có câu trên. Lại nói: Thủy mang
quý khí có phù trợ có đê phòng, không chỉ có tài thao lƣợc quyền biến, mà mƣu trí cũng hơn
ngƣời. )

Tài nguyên trói cục, kinh doanh cửa hàng trên phố. Cướp khí không có chỗ dựa, ra ngoài
bôn tẩu giang hồ.
(Cách cục không rộng, thì không đủ phong độ, nếu có Tài nguyên trợ thân, một hai lanh lợi
sinh phù. Mà khí cục ở thuần túy, kiêm khố thần đắc dụng, trạch thần có tình, đoạn văn trên
là chuẩn. Lại nói: Thực thần hoặc Ấn, đoạn ví dụ này giống vậy, phàm thần tiết khí, thế khí
cuồn cuộn mênh mông. Xa mà có lực, tụ mà không có chỗ dựa, đoạn văn trên là chuẩn. )
30-04-16, 20:32
lesoi
Giang hồ phù phiếm, phong xan vũ túc. La Võng mưa phùn, lợi tỏa danh cương.
(Hợi Tý là Giang hồ, nếu buộc Tài Quan Lộc Mã dụng thần, khí đầy trôi nổi. Đa số dẫn đến
con đƣờng sinh kế, một nắng hai sƣơng, thế thủy phù phiếm, kỳ mã hình xung, phƣơng là
đoạn tuyệt. Thìn Tị là Địa Võng, Tuất Hợi là Thiên La. Toàn là đất dụng thần đến thất địa,
310 | Tam mệnh thông hội

ngũ khí không thể thành tƣợng, thì lợi danh lục đục không thành. Nhƣ bụi bặm che đầy, đều
là chỗ mê muội, tuế vận cùng đến, vẫn cùng khắc hại nhật can, là yểu vong. )

Thủy hỏa động diêu, thị phi lâm lý lập thân. Mộc kim hòa hợo, nghĩa lễ môn đình phát tài.
(Thủy Hỏa, là vật động nhân gian, phạm cách này, đa số là miệng lƣỡi gây nên chuyện thị
phi. Phàm lập thân lâm sự, đoản ở xuất đầu gây chuyện, có đầu không đuôi. Nếu cát thì có cơ
quyết sách, hung thì có chuyện bất nhã. Kim mộc không có thiên lệch, khí đƣợc trung hoà,
âm dƣơng phối nhau cứu nhau, tất việc đầy đủ. Ta nếu khắc còn nó chuyên, lúc đạo nghĩa
nhận tài. Nếu giao thác vô tình, Chủ bị Khách lăng nhục; chủ ngƣời bất nghĩa, tổn Tài của ta
vô tình, hoặc gặp chuyện bất nghĩa, chịu oan làm nhục. )

Dịch Mã được ta khắc nó sinh, lộc phát tận bên ngoài. Không Vong hữu vật minh khí
kiến, thường ưng ý vô danh.
(Can gặp trên Mã có thể khắc nhật chủ, hoặc vị trí Mã có vật sinh ta, đa số là phát tài bên
ngoài phƣơng xa, hoặc xuất ngoại ở vùng biên giới đƣợc tài lộc. Không Vong là chỗ hung
bại, nếu có hỉ tƣợng đến tụ tập. Nhƣ kim hỏa hỉ Không thừa vƣợng, là loại thần quan quý có
tình, hợp cách cục này. )

Thân tuy thực lộc, gia kế bần hàn. Khố có dư tài, danh mục ti tiện.
(Bát tự thể đoạn khinh thanh, quan thần thừa quý, địa chi hoặc có phá tƣợng, Tài tinh hƣu
phế. Lại nhập các nơi tử tuyệt, không mang quý thần trạch thần mộ khố, trạch thần vẫn bị
xung phá, đoạn văn trên nói chuẩn. Quý khí lạc Không Vong, dụng thần nhập xứ tử bại, là
không có sức sống. Có Hàm trì, Mộc dục, Bạch Hổ, Không Vong, lại có củng hộ. Trong trụ
chỉ có Tài khố, hoặc Tài thần chuyên vƣợng, phụ trợ nhật chủ có tình khắc trợ, đoạn văn trên
là chuẩn. )

Tuế vọng khuyết môn, cận lúc chức vụ triều đường. Khí xung đệ trạch, khó có cơ dựa vào
tổ nghiệp.
(Đối diện Thái tuế là Khuyết môn, có củng nhập cách quyết chủ Thực lộc, phải lộ xứ nhậm
chức đều gần với triều đƣờng. Vị trí thứ 5 trƣớc Tuế, nếu là bị xung, lại cùng nhật chủ không
phải quản lý sinh phù quý khí, quyết chủ phá vỡ cơ nghiệp tổ thƣợng, không thể ở lại sống.
Nếu cƣỡi Quan phù, cùng Vong thần, chủ làm quan bị cắt không có phong tƣớc, phạm Phá
Toái Kiếp Nhận, tất hủy hoại vậy.)

Không hợp hai vị Vong Kiếp, bỏ nhà bán ruộng. Nếu phạm Tứ trọng Hàm Trì, tham tài
mỹ mạo.
(Trƣớc Tuế 5 vị gọi là Mệnh Trạch, sau Tuế 5 vị gọi là Lộc Trạch. Mệnh Trạch là nhà cửa
chỗ ở, Lộc Trạch là đất đai mộ phần. Nếu mang Vong Kiếp, chủ cả đời tổn phí nhiều tài, tạo
nhà lập điền lại chủ phá hƣ, huống chi cùng nhật gia hình xung hại kiếp phá khắc. Đủ Tý Ngọ
Mão Dậu, xƣa gọi là Biến dã Đào Hoa, lại còn có tên gọi là Liêm Trinh Mộc dục, lại là Bạo
bại Đào Hoa. Chủ thích phong lƣu nghệ thuật, tính xảo tình cấp, lập thân gặp thị phi, cùng
ngày hình xung cƣớp khắc, mới chuẩn. Kỵ thủy, chủ dâm, kiêm nói quý sát khinh trọng, Hàm
Trì là khẩn, Mộc dục thì chậm. )
30-04-16, 20:33
lesoi
Mã thượng Không Vong, thường gặp tài bạch dị lộ. Thiên trung Lộc vị, thường gây thanh
danh căm ghét.
( Mã thượng, độn can đắc dụng, gặp trên Mã can lộ trợ ta, hoặc lấy tài nguyên hoặc Mã tọa
Tài đất sinh vƣợng. Lại có ý tọa Không Vong, đa số lấy đƣợc tài lộc từ bên ngoài, hoặc
thƣờng gây ra cửa khác không có quan tâm lợi lộc. Dị lộ, là nói không phải loại gốc Tài vậy.
311 | Tam mệnh thông hội

Thiên Trung, tức là Không Vong, mang Lộc, nếu suy bại, thì đoạn văn trên là chuẩn. Thêm
Bạch Hổ ở ngày lại càng khẩn thiết, hoặc nhận ngƣời truyền tiếng xấu, huống chi tƣợng thủy
hỏa, có cùng Hàm Trì Đào Hoa. )

Mão Dậu được thiên di môn hộ, Tị Ngọ lúc cảm mộng sinh thai.
(Phạm chữ Mão Dậu, ở ngày giờ, hay trang sức nhà cửa, sửa chữa di dời nhà cửa, mang Mã
thì thƣờng ngừng di dời chỗ ở. Thai lúc lâm thêm Tị Ngọ, năm mang Lộc hài hòa cùng Nhật
chủ, chủ ứng cha mẹ đƣợc nằm mộng sinh sản. )

Vượng Nhận không kiêm dư Sát, thiên hảo dị đoan. Vong Kiếp lại dẫn thần khác, là chủi
bức tranh ăn uống hả hê.
(Vƣợng khí Dƣơng Nhận, là không còn dƣ Sát, vũ dũng cƣơng liêm chính trực. Chịu đánh bắt
nuôi trong lồng, loại đóng vai làm trò chơi dân gian, mang Học Đƣờng Quan quý chớ nói. Tụ
nhiều Vong Thần Kiếp Sát Dƣơng Nhận, lại cùng với ngày không hòa hợp, là loài lang sói ăn
uống cá voi, no say hàng ngày. Mặc cho phong ba, nghèo túng không thành vậy. )

Đào Hoa trâm chủ tứ phong tình, Phá Toái triều nguyên nên lạc phách.
(Nhƣ ngƣời Mão thấy loại Dần Ngọ Tuất, ngƣời Dậu thấy Thân Tý Thìn, còn gọi là Đảo Sáp
Đào Hoa. Là ngƣời hào phóng phong lƣu, lại có hiền mà có không hiền vậy, cùng ngày khắc
cƣớp mới chuẩn. Nhƣ ngƣời Dậu thấy loại Dần Thân Tị Hợi, ngƣời Sửu thấy Thìn Tuất Sửu
Mùi, cũng gọi là Hồi đầu Phá Toái. Khắc cƣớp hình hại Nhật thần, chủ giảo hoạt yểu mệnh,
nhẹ thì không thể khởi phát mà bần. )

Quan Phù lạc ở Thiên Trung, lời nói nhiều hoang đường. Không Vong lại lâm Thiên Ất,
tính thích hát ca.
(Quan Phù, tức là Vong Thần vậy. Ở trong Không Vong, cùng ngày cƣớp khắc. Thiên Ất
Quý nhân ở trong Không Vong, cùng ngày cƣớp khắc, câu nói trên đều chuẩn. )

Tài Thương dụng khí, oán hận thở than. Trọng giá thân cường, làm bậy oan uổng.
(Dụng thần khi sinh, dẫu không có thƣơng động, nhƣng nếu tuế vận đến khắc, tất phải trung
ý, lại thành thất ý, cho nên than thở oán hận vậy. Phàm ngƣời thân vƣợng, giống nhƣ say mê
uống rƣợu, muốn không điên cuồng, cũng không thể đƣợc vậy. Hoặc lại gặp tuế vận kéo nặng
khí cƣờng, tự nhiên là chỗ dâm đãng cuồng vọng, kiêm phá tài sản gia nghiệp. Làm sao mà
thành, trụ có chế ngự, có chỗ dựa, thì không nói. )

Bạch Hổ kiêm Nhận, mạ sát người đương thời. Hoa Cái tự mộ, hưởng ở thanh phúc.
(Bạch Hổ cùng Nhận, chính là Bạch Hổ cùng Phi Nhận Dƣơng Nhận đồng cung, cùng ngày
hình xung cƣớp khắc, nhƣ vậy. Một là nói: Nếu ở trên ngày giờ khắc năm, đột nhiên cƣới vợ
chim khách, nếu không vợ có chứng khác thƣờng. Vì phục vụ kiện tụng bức xúc kết thân thì
đƣợc, vợ cũng đƣợc chửi ngƣời vậy. Hoa Cái tự mộ, nếu tự sinh vƣợng, lại gặp tuế vận cùng
ngày hòa hợp thành cục, phúc cực kỳ thanh cao. Nếu không sẽ làm cửu lƣu tăng đạo, nhƣ
Canh Thìn không thể tự mộ chỉ là thầy mo thô tục, hoặc là làm ngƣời thô lỗ. Một là nói: Hoa
Cái mang mộ có khí, chủ phúc thọ. Nhƣng không tới phong tƣớc quan quý, hoặc là ngƣời làm
tăng đạo danh vọng. Nếu mang quỷ Hàm Trì, không là nghệ nhân cũng là ngƣời thô tục vậy. )
30-04-16, 20:34
lesoi
Hai thần Lộc Mệnh tương kích, cổ vũ hành vi. Quý Sát 4 vị cưỡi nhau, tụ quy thủ dụng.
(Phép trƣớc hai trạch Lộc Mệnh, nếu phạm lấy kích hình xung khắc hại, ý là xem cát hung
nhƣ thế nào, cùng ngày bất hòa nhƣ vậy là ứng nghiệm. Bởi vì hai thần Lộc Mệnh, buộc đầy
xung lệnh, khiến cho khí tả cổ hữu vũ vậy. Hoặc Quý hoặc Sát, có 2 đến 3 vị, kiêm cùng trên
312 | Tam mệnh thông hội

một thần. Huống chi trong trụ có 4 vị, đều có cát hung thần, phải phân tụ ở vị trí nào nhiều
nhất, để tính toán dài ngắn. Dần Thân Tị Hợi không có trƣờng sinh, thì hung. )

Tượng thủy hỏa, nhẹ thanh thì văn chương dị thuật. Hình xung thì đạo đức thiện môn.
(Thủy Hỏa chính là thần Khảm Ly, tạo hóa có ký tế, trong đó khí thanh, thì văn chƣơng xuất
chúng. Nhẹ thì thuật nghiệp dị thƣờng, Không thì tiên phong dị chất, Hình thì đạo pháp quỷ
phù, Khắc thì thiền tông không tịch, cũng nạp đủ duyên, giác ngộ nghiên cứu. Chuyên luận
cách tƣợng nhật thần, mà nói khinh trọng. )

Nguồn gốc kim thổ, khí lão thì lâu đài tài khố, non cạn thì thủ nghệ kinh thương.
(Nghĩa kim thổ, có công lấy tiện sinh quý, khí lão thì vật thành tựu. Bởi vì cần ở phú tàng,
tƣờng thành lâu đài nguy nga đẹp đẽ, vì thế mà đạt đƣợc vậy. Hoặc khí suy tàn tuyệt, hoặc
mới đầu khí non mềm, nếu không kinh thƣơng mua bán, thì là ngƣời thủ công việc kỹ nghệ. )

Hoa Cái mộ thần, Thiên Nguyệt Đức hợp, tuyền thạch gia phong. Nhật Đức hưu tù, tử
tuyệt bại sinh, trần ai thứ sĩ.
(Hoa Cái mộ thần, Thiên nguyệt Đức hợp, ba vị này ở trong trụ tuần hoàn, tất có duyên ở
bên bờ đá suối, ý là phóng đạo cầu tiên. Nhật Đức nếu hƣu phế, có hƣ đức danh vậy. Can âm
lại có vị trí tử bại, ác khí Không Vong đến sinh trợ, chẳng qua chỉ là một kẻ hàn sĩ mà thôi. )

Thập Ác Đại Bại nếu chân, quý là tướng, tiện là thảo khấu. Tù tử Không vong nếu tụ, sinh
là đạo, suy là tăng.
(Thập Ác, lấy chỗ đạo tàng kinh ghi lại làm chuẩn, quý khí tƣơng phù, nhập cách thanh dầy,
tất nắm binh quyền. Nếu hung sát thấu tập, cùng giao trong trụ, chiến hại dụng thần, thì thân
chủ hung. Dụng thần nhật chủ, lúc nắm hƣu phế, lạc Không Vong kiêm là Cô Quả Lục Hại.
Nếu lâm trƣờng sinh, lâm quan, vƣợng địa, thì là đạo sĩ. Nếu xứ phƣơng bại tuyệt mộ tử, là đi
tu. )

Khôi Cương quyền trọng, lại hại lục thân. Kiếp Quả tuy Cô, hỉ toàn tam quý.
(Thìn là Thiên Cƣơng, Tuất là Thiên Khôi, là lực lƣợng rất có quyền uy. Nếu khí cô khắc quá
nặng, khó tránh làm hại lục thân. Kiếp Sát Quả Tú, nếu mang trƣờng sinh quý nhân có lộc, là
ba mấu chốt phúc khí vậy. Cùng với ngày hòa hợp, tất chủ phú quý, không có ba quan kiện
này, dẫu có phát không lâu cũng bần. )

Thôn Đạm thế nhiều, không làm vợ lẽ cũng định thiếu sữa bú. Cô Quả cùng đến, do giả
khác họ mà cùng sống chung.
(Thôn Đạm, chính là thần Đảo Thực, nếu nhƣ nhiều có lực có thế có quyền, hoặc lâm đất
sinh vƣợng rất phù hợp. Cô Quả cùng đồng Lục Hại, lại có Ấn thụ Thực thần hữu dụng một
lúc, vẫn thấy Trạch thần xung phá. Đoạn văn trên chuẩn.)
30-04-16, 20:36
lesoi
Trọng bái song sinh, Tị Hợi mang can chi đồng loại. Thầy mo y dược tửu sắc, Vong Kiếp
phạm Hàm Trì Quý nhân.
(Mệnh mang hai vị Tị Hợi, lại có chi khác can khác đồng một loại, có 2, 3 vị. Nhƣ Giáp kiến
Giáp, Tý kiến Tý, tất là song sinh, hoặc sùng bái cha mẹ. Can chi cần phải đều có lực tƣơng
đồng, lại thêm Kiếp Cô cũng thế. Các thế hệ thầy mo y dƣợc bà mối, vẫn phân ra nặng nhẹ
cao thấp, đều do hai vị Vong Thần Hàm Trì chủ lĩnh. Kiêm loại Dƣơng Nhận Phá Toái, Mộ
quỷ Bạch Hổ, là ngƣời quỷ trá cuồng vọng, mê hoa luyến tửu, kẻ cửu lƣu bất tài. Nếu gặp
Quý nhân Đức thần Tài Quan sinh vƣợng là thứ yếu. )
313 | Tam mệnh thông hội

Khảm Ly giao hội, lão túy Tần lâu. Tượng loại thanh u, trẻ đăng phủ thần tiên.
(Trên Tý Ngọ có can thần câu hợp, nhƣ Nhâm Ngọ Mậu Tý, Mậu hợp Tý Quý, Nhâm hợp
Ngọ Đinh, hoặc Đinh hợp Nhâm, Quý hợp Mậu, thủy hỏa có tình, đến già vẫn mê hoa luyến
tửu. Thanh thì phong lƣu, trọc thì ti tiện. Ngũ hành hợp thành tƣợng rất thanh, huống chi dẫn
tới đất âm u thanh khiết. Quý thần quy về một mà ở xa không có tạp khí thuần thanh, không
còn tƣơng phạm các vật ác thần tử tuyệt. Đoạn văn trên là chuẩn.)

Luận văn học nghiệp đặc tinh anh, trường sinh Đức Tú. Tham tửu tích hoa thiên lạc
phách, thân vượng Hàm Trì.
(Các xứ trường sinh đế vượng tứ quý, hai thần Đức Tú. Văn học tài năng nghệ thuật, đặc đạt
tinh chuyên, là ngƣời nỗi tiếng hơn ngƣời vậy. Tham tửu tích hoa, nhật can vƣợng ở trên
Hàm Trì, là một vậy. Bản thân tự vƣợng, thụ thần Mộc dục khắc, là hai vậy. Bản thân thái
vƣợng, mộc dục lại nhiều, phúc khí tán mạn không tụ, là ba vậy. )

Thê (Vợ) gặp Tỉ kiên vượng đoạt, không phải là người tốt. Tài vì Mộc dục cường tranh,
khó chối dâm trọc.
(Can Tài hoặc ẩn hoặc lộ, mà khẩn thiết gặp Tỉ kiên, gần nhau thân nhau, gọi là bị chiếm
đoạt. Hoặc Tỉ kiên thừa vƣợng, thê tất cùng ngƣời ngoài tƣ thông, không bằng, kết hôn cƣới
tỳ thiếp xinh đẹp. Phƣơng miễn chỗ này xấu xí. Ngũ hành ở xứ bại gọi là Mộc dục, còn có
danh là Đào Hoa Hàm trì Sát, cùng một ví dụ mà đoán. Nếu thần đến thừa thế tranh Tài, hoặc
Tài lập ở trên, bị chỗ thần khác cƣớp chiến. Thân ta cùng kiêm khí dụng thần, không tụ
không liễm, tinh thần tán mạn, đoạn văn trên là chuẩn. )
01-05-16, 14:09
lesoi
Cưới vợ lại vì phục kiện tụng, loại minh lục can. Sinh con muốn chuyển hiền ngu, thể ché
có ngũ pháp.
(Nhật thần: Bính Tý, Đinh Sửu, Mậu Dần, Tân Mão, Nhâm Thìn, Quý Tị, Bính Ngọ, Đinh
Mùi, Mậu Thân, Tân Dậu, Nhâm Tuất, Quý Hợi. Phạm các ngày này, đa số là vì hai chuyện
hiếu phục và quan tụng, lâm áp bức kết hôn, hoặc trong 100 ngày thành thân, quyết chủ hai
nơi thông gia, chợt gây ra tranh cải kiện tụng. Hoặc chủ lực nhà bên ngoại, cậu là không có
hài hoà, hoặc không có nhà họ ngoại. Hoặc có hai cha mẹ, hoặc không có thê tài. Hoặc nữ
mệnh có hai bố mẹ chồng, nửa thật nửa giả. Mang hợp thần Đào Hoa, hoa chúc không rõ,
hoặc không có phụ nữ tốt, hoặc vào nhà không có phòng. Chỗ này trong trụ lục can nhiều,
càng gần càng tràn, tức là ngày Âm thác Dương sai vậy. Mang Đào Hoa ở đế vƣợng, đa số
gây ra phụ nữ kiện tụng, hoặc là nhà giàu có có nhiều vợ tỳ thiếp dẫn đến tranh giành. Nếu
không thì vì con gái mà kiện tụng vậy.

Ngũ pháp phân biệt hiền ngu:


+ Một, là lấy vợ sinh mà khắc ta làm con, nam lấy Thiên Quan làm con trai, nữ lấy Chính
Quan làm con trai.
+ Hai, là nữ lấy ta sinh làm con, dẫn đến thời thƣợng, phùng sinh vƣợng thì tốt. Vẫn lấy dƣ
thần hội hợp có tình mới quý.
+ Ba, là nói Ta cùng vợ cùng hóa, nhƣ ngƣời Giáp lấy Kỷ thổ làm con, dẫn đến thời thƣợng (
trụ giờ) mà khảo cứu.
+ Bốn, là nói chỗ hóa khí sinh ra làm con, nhƣ ngƣời Giáp lấy kim làm con, dẫn đến thời
thƣợng thủ dụng.
+ Năm, là nói chỗ bản khí của ta sinh làm con, nhƣ ngƣời Giáp lấy hỏa là con, dẫn đến thời
thƣợng nghiên cứu.
Trong trƣờng hợp có một Thiên Quan Chính Quan có tình, dẫn đến thời thƣợng hóa đƣợc
thành tƣợng, tức là con tốt. Khí nạp âm trƣờng sinh, trợ giúp là rất tốt. Một là nói: Nhƣ lấy ta
314 | Tam mệnh thông hội

sinh là con. Lấy loại Thủy 1, Hỏa 2, Mộc 3, Kim 4, Thổ 5. )

Ác tụ ở ngày giờ, nhẹ thì con bướng vợ ngu, nặng thì không phòng cô quạnh.
(Vong Kiếp Cô Quả tam hình, nếu cùng tam sát mà có cứu, ở thời thƣợng thì con phần đa là
bất hiếu. Ở trên ngày thì vợ ngu muội hoặc là bất hòa, phạm nặng lực mạnh không có cứu, thì
cô độc bần hàn, cả đời tự thủ không phòng. )

Nhận mang mộ hình, cát thì thọ di phúc hậu, hung thì phá mạo đơn y.
(Dƣơng Nhận Phi Nhận, phạm hai vị trí mộ hình, phải có Hoa Cái mới cát. Cùng Sửu Mùi
can đầu có Quý, là không có không hƣởng phúc vậy, cùng ngày nên hòa. Nếu không có Hoa
Cái, mang Không Vong Tử Tuyệt, là ngƣời cô hàn phá bại vậy, cùng ngày bất hòa cũng nhƣ
vậy. )

Ngày phạm ác thần có trợ, tái hôn nữ thê. Thời lâm hung sát theo Không, phải gọi nghĩa
tử.
(Ngày phạm Niên gia, Vong Kiếp, Đại Bại Phá Toái, lâm quan đế vƣợng là khắc thê. Lại có
can âm sinh trợ nhật chủ, tất là thiếu niên tái thú gái chƣa chồng, hoặc tuổi trẻ cƣới thiếp làm
vợ. Nếu mang Lộc Quý củng trợ, mỹ mạo hiền năng. Một là nói: Nếu năm có Lộc Mã Quý
Thực, lục hợp ở ngày, không chỉ có vợ đẹp, lại chủ đƣợc vợ tài năng. Thời thƣợng mang
hung sát, lạc Không Vong, tất chủ không có con. Nếu sinh trợ Thực thần, hoặc ngày đi xung
khắc, tất là làm con nuôi.)

Ngày giờ mang Hàm Trì Sát, phụ mệnh ác vong. Hưu tù Đại Bại lâm Không, nhà vợ
không có chỗ ở.
(Hàm Trì ở ngày giờ gọi là Tuế Sát, chủ cha ác tử, lại thêm ác sát là không nghi ngờ. Nhƣ
kim chủ đao binh, hỏa chủ hỏa ách, thủy chủ thủy ách, thổ chủ ôn dịch, mộc chủ gậy bổng,
lấy ngũ tƣợng mà suy. Một là nói: Hàm Trì nếu vƣợng, phạm Hoa Cái Phá Toái, Âm thác
Dƣơng sai, vì vợ xấu mà nhục, hoặc là ly dị.
Nếu nhà giàu có, vợ cùng cha mẹ anh em trong nhà nội loạn. Một là nói: Hàm Trì Dƣơng
Nhận, là đa toán đa năng, cũng có đủ tật. Hỗ hoán ở ngày giờ thì rất khẩn thiết, thần nhật
trạch, khí hãm vợ, kiêm ngày Thập ác Đại Bại, hƣu phế lại lạc Không Vong, nhƣ tuần Giáp
Dần quý lộc cƣ ở Tý là Không thần, chủ nhà vợ không có nền mống mái ngói. )
01-05-16, 14:10
lesoi
Thai thần khắc cướp hoành vong, kỵ chữ xung trong cục. Phá Toái Không Cô là ly tổ, vì
phạm thần Lộc hậu.
(Thai thần, là Bạch Hổ sát vậy. Nhƣ thủy Ngọ kim Mão. Chữ xung trong cục, nhƣ Thân Tý
Thìn, chi thuộc mệnh thủy. Sợ chữ Ngọ là Thai thần, Bạch Hổ đến cƣớp khắc nhật chủ cùng
dụng thần, chủ chết thảm máu đổ. Lấy ngũ tƣợng mà suy. Sau Lộc một thần, nếu thuộc các
sát Không Vong Cô Quả Phá Toái, định chủ xuất tổ mà biệt lập. )

Chi ngăn cách hai phương xung hợp, cách này phần đa ứng thắt cổ tự vận. Hợp kiêm hai
vị sông giếng, phạm đều bị chết chìm.
(Tự Ải sát, ví dụ nhƣ ngƣời Tuất thấy Tị, ngƣời Tị thấy Tuất. Nếu mang Kim thần Bạch Hổ
Vong Kiếp Quỷ mộ Không Vong, Quan Phù Đại Hao Nhận Sát. Lĩnh đất tử tuyệt, lến khắc
thân phế dụng thần, phạm kỳ thái tuế, hình kỳ đại vận, thì đoạn văn trên là chuẩn. Bính Tý
vƣợng thủy, Quý Mùi đông tỉnh, Quý Sửu tam hà. Mang Hàm Trì Kim thần Tân Nhận Vong
Thần, đa số là chết chìm trong nƣớc. Một là nói, khởi đầu mang Vong Thần, vì tửu sắc mà
gây chuyện. )
315 | Tam mệnh thông hội

Tai điếc mắt mù, cướp hãm dụng thần, mà tử bại khắc thân. Chân thọt lưng gù, phúc khí
suy đồi, mà Nhận Sát hình chủ.
(Dụng thần bị loại vật tử bại cƣớp khắc, lại lâm hƣu phế, thời lệnh lại bị ác thần khắc cƣớp
thân. Đoạn văn trên là chuẩn. Quý khí hƣu tù, lại bị ác thần khắc chế bản thể, lại kiêm dựa
cầm tử tuyệt. Ác khí xuất hiện, dụng thần cát trầm luân, Nhận Sát theo hình nhật chủ của ta,
đoạn văn trên là chuẩn. )

Quỷ gọi ứng biết ác yểu, bản suy không chỉ bần hàn.
(Quỷ gọi, nhƣ ngƣời Giáp gặp Canh, Canh gặp Bính, loại xoay chuyển tƣơng khắc. Có Tân
hợp Bính, mới có thể Tham hợp vong Khắc. Một là nói: Trƣớc hỏi ngày, sau hỏi năm, cách
này là tối khẩn. Bản suy, là hung thần làm bè đảng.
Khí khắc nhật gia, hại can năm, cho nên khó tránh bần khó thiểu vong. )

Thiên địa bao tàng đủ đức, âm thanh phong lôi vang dội ở xa.
(Hai chữ Thân Hợi, minh có lực lƣợng, Dậu Tuất đƣợc chỗ dụng thần, chính là hợp cách này.
Một là nói: Thần Thân Hợi không lộ, hai vị Hƣ Giáp, có quý khí, thể cục bất phàm. Hai vị
Mão Tị, bên trong có quý khí. Trong trụ có Hƣ Củng, tuế vận đối xung, xứ Không tất có thể
biến hóa phát việt. Một là nói: Xứ ẩn Củng Giáp, lại sợ hình xung quá nhanh, tẩu mất quý
khí. )

Củng tướng Củng tọa cùng Củng Ấn, tất là quý nhân. Nhìn Tử nhìn Mẫu nhất là nhìn
Thân, tự không phải là tục khách.
(Củng tướng, là nói bản Chi tam hợp, nhƣ ngƣời Tý thấy Thân Thìn. Củng tọa, là nói Đối
cung, nhƣ ví dụ ngƣời Tý là cung Ngọ. Củng Ấn, là nói Ấn thụ chính vị, nhƣ ví dụ ngƣời
Giáp thấy Tý Sửu. Một là nói: Ấn chính là Khố vậy. Lại nói: Ấn tức là can Khố, kiêm nếu có
Tài Quan Quý khí hữu dụng, hoặc đất Tài Quan sinh vƣợng, đều là tạo hóa phú quý. Sinh ta
là Mẫu, Ta sinh là Tử, kiêm bản thân là 3 vị, đều không có phá tổn, qua lại cho nên nói là có
phúc ích, là ngƣời có phúc vậy. )
01-05-16, 14:12
lesoi
Ba vị kỳ bảo dụng Quan thần, lưu phương anh liệt. Bốn can Thiên Ất lâm Hoa Cái,
khoáng thế thanh cao.
(Giờ tọa tam hợp, gọi là Kỳ Bảo. Nếu Quan tinh cƣ ở trên, không phá không kỵ, thế đại bất
tuyệt, là ngƣời có tiếng thơm trong sự nghiệp vậy. Cổ pháp nói không chỉ luận can năm và
ngày, cƣỡi Thiên Ất quý là cát, can tháng giờ có cƣỡi Quý nhân, càng tốt. Huống chi bản
mệnh lâm Hoa Cái, cả đời không chỉ không có hung, cũng là quý nhân thanh cao vậy. )

Bốn mắt tuyên minh vượng tướng, nội đình thực lộc. Nhị Sát nếu lâm Giáp Củng, sa thì
dương uy.
(Thanh Long, Nguyên vũ; Chu Tước, Câu Trần gọi là bốn mặt, can lộc quy nguyên, đều có
chiếm từng phƣơng vị, vƣợng tƣớng. Nhƣ Giáp Ất lâm Dần Mão là Thanh Long, Bính Đinh
lâm Tị Ngọ là Chu Tƣớc, đoạn văn trên là chuẩn. Vong Thần Kiếp Sát, hai vị đều Không
Nhàn, mà lại đều có Củng Giáp. Thì đoạn văn trên là chuẩn. )

Kim thủy văn hoa mà xuất chúng, thổ kim giàu có lấy thành cao.
(Hai tƣợng kim thủy, nếu khí thanh mà không có dƣ khí, gốc không hỗn trọc, văn chƣơng anh
hoa xuất chúng. Kim thổ tƣơng sinh, nếu không có thiên lệch, khí đƣợc trung hòa, tự vật dần
dần sinh trƣởng, sức sống ích cao. Tƣợng nhƣ vậy, lấy cách làm phú quý, hoặc quý khí hòa
hợp, cũng chủ công danh thực lộc. )
316 | Tam mệnh thông hội

Vinh diệu là mộc hỏa có phát nguyên, thanh quý là thủy mộc nhiều thuận theo thứ tự.
(Mộc hỏa dễ dàng toả sáng, xứ dẫn đến có căn nguyên, trong trụ có sức sống, hoặc dẫn tới tuế
vận. Cho nên có thể dẫn phù mà vinh diệu, cho nên ngƣời vốn không có biết căn khí, chỉ biết
trên vận mộc hỏa thấu phát mà thôi. Thủy mộc thanh kỳ, nếu khí không thiên lệch, thuận phù
sinh vƣợng mang quý, tất là xoay vƣờn Thanh uyển, hoặc là Đài các. )

Đăng kim bước ngọc, Quý nhân trên đầu mang Quan tinh. Dựa sách đội nón, Học Đường
Quán trung phùng Dịch Mã.
(Thiên Ất trên đầu có Quan tinh hiển lộ, gọi là Quan tinh tọa quý, chủ quý. Học Đƣờng
chính là vị trí nhật chủ toạ vƣợng, là phƣơng Quan tinh sinh vƣợng, vị trí lâm quan cũng
đồng thủ dụng. Ở trong gặp Dịch Mã, quý khí không quá mức, có Không tài học không
thành. Tức nhập đƣờng làm quan, cũng nhiều bôn tẩu trên đƣờng, lạc Không Vong càng
nặng. )

Ghi danh Hàn Uyển, định bẩm Càn Khôn thuận lợi, là tượng cầm quyền, ứng củng Tý
Ngọ Đoan Môn.
(Hai vị trí Dần Tị có lực, có thể hợp Hợi Thân Càn Khôn, lại có củng tam hợp, Tý Thìn có
thể củng Thân, Mão Mùi có thể củng Hợi, nếu không có hỗn tạp, Thân Hợi cƣỡi trên quý khí,
tất là tạo xuất quan vậy. Hai vị trí Tý Ngọ hoặc có chính củng, hoặc ngoài có củng tam hợp.
Nhƣ có quý khí tụ tập ở trên, sự nghiệp danh gia. Sửu Hợi củng Tý, Mùi Tị củng Ngọ, là
chân chính. Thân Thìn củng Tý, Dần Tuất củng Ngọ là bên ngoài. )
01-05-16, 14:13
lesoi
Khôi Cương Tài phùng Giáp Quý, phong hiến đề hình. Long Hổ đắc dĩ chuyên chức, bái
tướng Ngọc Đường.
(Hai vị Thìn Tuất, phùng Giáp Quý gọi là Phong hiến đề hình, là nói có uy quyền chấn động
vậy. Nhƣ Nhâm Quý phùng Tị Mão củng Thìn, Bính Đinh phùng Dậu Hợi củng Tuất vậy.
Lại thấy rõ Khôi cƣơng, tụ tập nhiều quý khí, đoán giống nhƣ trƣớc. Hai vị Thìn Dần, nếu
gặp đúng củng ngoại củng, có quý khí cát thần tụ ở trên càng tốt. Hợp với cách này. Hoặc
thấy Dần Thìn đắc khí tụ tập quý, vƣợng tƣớng phù trì, không có hình xung khắc hại, vẫn
đƣợc ở Mão cũng cát. Đoán giống nhƣ trƣớc. )

Âm Dương thiên dụng, quý tôn sùng hàng cực phẩm. Mão Dậu chính môn, quyền phụ
lĩnh ngoại biên cương.
(Thiên Âm thiên Dƣơng, khí nhiều là phấn phát, gió bay sấm giật. Quý khí nếu chuyên, lực
lƣợng vƣợng tƣớng phần đa tiến hàng cực phẩm. Bởi vì thiên khí háo tranh, rất là bất khuất,
lực lớn hào hùng. Thiên Quan dễ dàng khởi phát, nhƣng thoái cũng rất nhanh, hoặc là mệnh
chết bất đắc kỳ tử mà thôi. Nếu Chính Quan thì ổn, thuận chia chuyển dời, không có quyền
sinh sát. Mão Dậu chính là nơi cánh cửa Nhật Nguyệt xuất nhập, có Quý khí Củng Giáp đắc
dụng, là hợp cách này. Hoặc thấy rõ hai vị trí này, dụng thần có lực tụ phúc, không có phá,
đoạn văn trên là chuẩn. )

Tuế giá Lộc Mã mang Tài Quan, anh hùng siêu việt. Quý cục ngày giờ cưỡi Đức Tú, tài
nghiệp tranh vanh.
(Phàm hai vị Thái tuế Lộc Mã, nên gắn bó với nhật chủ ở trên Tài Quan, hẳn là anh hùng siêu
việt. Phàm cục quý nhân, ở ngày giờ thấy hai khí Đức Tú, hợp thì tài hoa văn chƣơng, là
ngƣời có tài anh kiệt xuất sắc. )

Dụng kém mà vận phù, khô miêu tế thủy. Dụng cường mà vận kém, đi thuyền qua khúc
cong.
317 | Tam mệnh thông hội

(Dụng thần lực kém, hoặc có khí mà bị khắc cƣớp, hoặc ẩn tàng mà không có xung hợp,
thuần mà bất lợi. Kết nối với vận lại đƣợc dẫn khí sinh phù, u du thông suốt vậy. Dụng thần
hoặc có lực, hoặc đắc thời, hoặc hợp tình, nếu gặp vận cản trở phá hƣ khí. Thì đông vƣớng
tây cản, không thể thuận, dẫu có nhất thời thuận gió, cũng không ra gì vậy. )

Vận lấy Chi làm cơ trọng, Tuế lấy can trọng nhận khí.
(Thần chi vận, vật thái quá, thì nên ức, vật bất cập, thì nên phù. Cần phải đem lấy thần sinh
chi nối liền, xem kỳ bản vị trái thuận nhƣ thế nào. Nếu chỉ hiểu dụng thần khinh trọng phù
ức, cũng không giỏi. Lại luận sinh khí khắc khí, rất trọng chi nối liền, thứ xem can vận hài
hoà chiến đấu ở đâu. Tổng hợp vật trong trụ có tình mà nói mới cát. Can thần lƣu niên cùng
Thái tuế, quan hệ rất là khẩn thiết, chủ một năm vạn thần cát hung. Nhật khắc Tuế thì tai, hợp
thì mờ. Nếu có hóa có tình, thì có việc tốt, là chỗ ứng nghiệm hoạ phúc nhanh chậm, vẫn
khảo sát ở trong vận hút nhau nhƣ thế nào. Phải kiêm dụng chi Tuế hình xung phá hại mà nói,
không có thiên lệch là đƣợc. )
01-05-16, 14:33
lesoi
Vận trì hành sắc, dụng phân chỗ nào nhược cùng chỗ nào cường. Tuế nhiếp binh quyền,
thế trì tình cấp mà tình trọng.
(Ngày là bản thân Quý là dụng, cả hai khó mà thiên phát. Nhật chủ là Thể Quý khí là Dụng,
đều phải trung hòa. Vừa nói Dụng thần quý khí, giống nhƣ hành lý lên đƣờng chuyên chở các
vật dụng cụ lƣơng thảo, Vận tức là chỗ dừng chân cập bến chỗ nhà khách công đƣờng. Ngũ
khí Quý sát, chỗ nào nơi chốn thích hợp cần đến đó, hoặc thuận theo tham khảo tin tức cát
hung. Hai tƣợng cát hung, vận nguyên chƣa nảy sinh, không phải Tuế thì không thể kích
dƣơng. Duy chỉ có Tuế Quân là nghiêm ngặt nhất tối thiết nhất, rất uy rất trọng, cầm giữ đặc
cấp, thế đến thì giống nhƣ chiến trận đấu địch, nhanh chóng hiểm nguy nhiều. Khó mà vội
vàng cứu ứng đúng thiết quan kim tỏa, sao có thể sai khiến chăng. Cũng có quý khí là hung,
ức ác dƣơng thiện, thừa cơ tiếp tế khó lƣờng. )

Lộc quý vận muốn hiển dương, trai tráng nên kiêm vượng địa, hung sát phải theo chìm
mê, người già lại hỉ đất suy.
(Bào Thai đất Dƣỡng Mộc Trƣờng sinh Quan đái, 20 tuổi cần đƣợc. Vận lâm quan Đế vƣợng,
dƣơng khí cƣờng thịnh, 30-40 tuổi nên đi. Vận suy bệnh mộ tuyệt, thời tiết khô kiệt, 50-60
tuổi nên hành. Trong đó có hợp nghĩa, thì đạo tạo hóa lấy hay bỏ, thông biến mà nói vậy.
Trong vận trai tráng hợp thể, cùng nên phất lên quý lộc. Vận hung thần muốn chìm ngập, về
già nên hành vận tử tuyệt. Vẫn không cần cùng dụng thần nhật chủ, sức sống trong ngoài, trở
thành phúc vận. )

Vận khí phát nguyên lực ổn, mới dễ thành công. Can giờ hóa tượng cầu tình, phân vai
dẫn dụng.
(Khảo cứu hành vận, yêu cầu tra xét phúc họa, cũng là chuyện dễ. Lúc tin tức từng cung, xét
lúc nào tới. Nhƣ khởi nguyên vận, ở trên năm tháng ngày giờ, đất Không xung tử bại, dù có
phát cũng không lâu. Phát nguyên ở chỗ ổn định, có chịu hoạn nạn, có hƣởng phú quý, ân
phúc lâu đời vậy. Phép hành vận, thủ can giờ hóa tƣợng, có 2 ý Thể tƣợng và Hóa tƣợng. Một
là đƣợc bằng hữu, có tình có loại, là tƣợng thành dụng. Hoặc hành đến vận đƣợc phù trì, hoặc
hoàn toàn tạo thành khí, là việc kỳ diệu bậc nhất. Chính là bí mật Lý Hƣ Trung gia truyền, có
đỉnh luận chỗ này, dẫn dụng khí dƣ thần là tối thiết, cần thủ dụng sinh khắc cƣờng nhƣợc. )

Phi hoàng đằng đạt, liền mở nhất lộ Quan tinh. Báo biến hưng long, năm quản tài khí cả
đời.
(Trong trụ mang Quan tinh, không bằng từng vận cai quản, Quan thần đắc ý, từng bƣớc vinh
318 | Tam mệnh thông hội

diệu. Trong bát tự có Tài không vƣợng, tuy thấy vô tình, hành vận tuy đến xứ sinh vƣợng,
vẫn không phấn phát. Bởi vì khí hoặc là tử tuyệt, hoặc là bế tắc. Tuế là vua tôn nghiêm, là
chủ thần sát cát hung. Lƣu niên hoặc nhận Tài nguyên, hoặc sinh phù Tài tƣợng. Hoặc kích
khai Tài khố, hoặc diêu hợp xung phi chỗ sinh vƣợng. Hoặc Củng Giáp ám bao cung Tài thần
Lộc Mã Quý nhân, Tài vƣợng. Do vậy, hệ thống Tuế quân biến đổi, đột nhiên hƣng phát vậy.
)
01-05-16, 14:34
lesoi
Vận xâm thân nhược, mà thích hợp phù dụng thần. Vận biến thân cường, mà ức kỳ phúc
khí.
(Lúc sinh thân vƣợng hoặc Tỉ kiên quá nhiều, dụng thần khiếp nhƣợc, nên phạm khí xâm
thân. Thích hợp phù dụng thần của ta, trái lại thì không cát tƣờng vậy. Lúc sinh bản thể khí
nhƣợc, dụng thần thái quá, thân không nhậm thắng, lại thành thác loạn không thể quy về một
chỗ. Chỗ hỉ nhƣ vậy, trái lại là nghịch. Bởi vì từ lúc sinh đến cuối, thể dụng tƣơng xứng, vận
phù thân thái quá, hoặc vây khốn dụng thần, cũng không trung hoà vậy. )

Tuế hoặc vận phù cát tránh hung, tuế hoặc vận che thiện thả ác.
(Hoặc lúc sinh hung sát lực trọng, cát thần lực khinh, tình thế Tài Quan tán mạn, tuế vận phù
hợp phúc thần mà có ức chế hung khí. Lúc sinh cát thần lực trọng, hung sát cho dù là sứ giả
nhƣng khí mỏng. Tuế vận mất đạo kỷ cƣơng chế ngự, hoặc rất dung túng ác sát, là có chìm
mịt loại thiện. )

Thơ viết:
Tham ngộ qua lại bài Ngọc Tỉnh,
Nhân gian lại là đất hành Tiên;
Trọng khai ngũ khí phân điều xứ,
Phẩu phá lá chắn chớ có thiên.
(Ngọc Tỉnh áo quyết, chính là chỗ An Đông Đỗ Khiêm sáng tác, trong đó thú vị là Diệu
Tƣợng, số thấy mà dụng tàng, khí loại tòng không mà lập có, Đảo phi Ám hợp, đƣợc một
chia ba, thoát thai hoán cốt, nhập thánh siêu phàm, thật không phải dễ. Muốn cùng Tuyệt xứ
phùng sinh, nên biết vƣợng mà thoái tàng, khí đầy tất sụp, vật quá thì tổn, đảng thịnh thì theo
loại, khí suy thì nâng tình, dụng hay không dụng, chân giả nên biện, biến hay bất biến, tƣợng
loại chia trƣớc, cho nên bẩm khí có dày mỏng chỗ này, có thanh trọc chỗ này, có cao thấp chỗ
này, có mờ có sáng chỗn này, vạn chữ vạn điều, thiên biến vạn hóa, khí có sinh khắc, cuối
cùng lý hết thuộc ngoài lý, vật có tạo hóa, ngay từ đầu phải biết hoạt pháp, tôi học đƣợc thành
một phái của chính truyền Lý Hƣ Trung vậy, phần đa thế gian không hiểu đƣợc sách này vậy,
tôi cố gắng biểu thị ra đây vậy. )

【 Dục Ngô 】 Cẩn ký

(Hết quyển 10)

lesoi
Quyển 11
Quyển 11:

Khí Tượng thiên


319 | Tam mệnh thông hội

Túy Tỉnh Tử biên soạn

Nay nói lập tứ trụ mà thủ ngũ hành, định một vận mà chở 10 cửa. Thanh trọc thuần bác, vạn
lần không đủ, tốt xấu thị phi, lý khó chấp nhất. Cho nên xƣa luận mệnh, nghiên cứu tinh vi, là
từ Thể mà nên Dụng. Nay luận mệnh, câu nệ cách cục, lại nắm Giả mà mất Chân. Tất trƣớc
tiên là xem quy mô khí tƣợng, là cƣơng lĩnh phú quý bần tiện. Thứ là luận xuất xứ dụng thần,
tử sinh cùng đạt vô cùng tinh vi. Không cần bát tự phức tạp, chỉ cần ngũ hành hòa khí. Không
chỉ ràng buộc Tam nguyên Lục Giáp, ai biết vạn nghìn đầu mối.

Học giả ắt phải nhớ: Tìm tòi huyền ẩn, phát sinh quy căn. Hƣớng Thực tìm Hƣ, từ Không
thủ Có. Tuy viết là mệnh lý, ở đây đã nhớ hơn nửa vậy. Nhƣng mà biển lớn ở từ muỗng nƣớc,
Thiếu Âm sinh sản ở Lão Dƣơng. Thành là cơ bại, biến là dần hóa. Chỗ đoạn văn này nên
khảo sát cho kĩ càng, nhƣ là Nhất Dƣơng giải hàn, Tam Phục sinh hàn.

Dương cương bất trung, kháng thì hại vậy.


Cƣơng mà có nhu, là đạo cát vậy. Tƣợng kháng dƣơng này không có chế, lại không bao tàng
âm vật. Còn vận lại hành đông nam, thì dƣơng cƣơng mất gặp, tất chủ ở hại. Dụng chỗ này, là
cô bần hung bạo, tử ở giữa thủy hỏa. Ví nhƣ ngũ dƣơng sinh ở tháng âm, can chi kẹp vật hợp
âm nhu. Đạo vận lại hành đất âm nhu, là vị trí cát vậy. Dụng chỗ này, tuy xuất từ hàn tiện,
cuối cùng tất vinh hoa.

Nhu nhược thiên khô là tượng tiểu nhân, cương kiện trung chính, là tác phong quân tử.
Tƣợng này là đạo bất trung vậy. Trong tứ trụ nếu thấy âm nhu, mà không nhập cách. Can chi
lại không bao dƣơng, thì cuối cùng nhật chủ nhu nhƣợc. Dụng chỗ này la xảo trá âm độc,
không có chỗ nào là không đến. Ví nhƣ Thể cƣơng kiện là quân tử vậy. Trung chính, là đức
quân tử vậy. Trong tứ trụ dƣơng mà tàng âm, cƣơng nhu đƣợc chế, không phạm phá khắc
hình xung. Dụng chỗ này, đức hạnh hơn ngƣời, trung trực cái thế, cho nên là tác phong quân
tử.

Quá ở hàn lạnh, chỗ ấm áp cuối cùng khó phấn phát.


Quá ở khô táo, xứ thủy kích lại có hung tai. Tứ trụ thuần âm, sinh ở tháng 10, không tuyệt
căn ngũ hành. Nhật can lại thấy suy nhƣợc, mà không có khí cƣờng kiện. Dẫu có gặp đất ấm
áp, cuối cùng cùng khó phát đạt. Tứ trụ thuần hỏa, sinh ở trƣớc Hạ Chí, tính ngƣời khô cháy.
Trong tuế vận sợ gặp thủy kích, không chỉ không có thể chế, trái lại dẫn đến hại vậy. Dụng
chỗ này, là cô bần chết yểu, đa số là phạm hình luật pháp.

Quá ở Chấp thực (nắm đầy), việc khó sáng tỏ.


Quá ở thanh lạnh, nhớ có thê lƣơng. Chấp thực, dụng một mà cũng không thông vậy. Giả
nhƣ: Dụng Quan không có Tài, dụng Ấn không có Sát, hợi nhiều thành ít, gặp chuyện cuối
cùng không có sáng tỏ. Nếu kim thủy quá ở thanh hàn, không gặp vận làm ấm ấp. Nhƣ Canh
Tân sinh ở thang 10, trong trụ thuần thủy, vận lại hành tây bắc. Cả đời là ăn một mình rồi ngũ
cũng một mình, kiếp sống cô quạnh, ngƣời không chịu nỗi sự buồn tẻ vậy. ]

Quá ở hữu tình, chí hướng không có đạt xa.


Vật ở trong cục, không thể quá ở hữu tình. Nếu quá hữu tình, thì liền say mê mà không thể
thoát ra, không có chỗ thấy bên ngoài vậy. Nhƣ Giáp mộc lấy Kỷ thổ là vợ, nên có tình cảm
vững chắc. Nếu ở dƣới Giáp Kỷ, lại cƣỡi Tý Sửu, trong ngoài đều hợp. Mà bên ngoài không
có Tài Quan, Ấn thụ làm động tâm Giáp. Thì Giáp luôn bị vây ở dƣới Kỷ thổ, ý chí sắp đặt
sao có thể đạt xa chăng?
320 | Tam mệnh thông hội

Quá ở dụng lực, cũng đa số là khó thành.


Phàm trong trụ vật đƣợc tự nhiên, là tốt. Nếu luôn phải dụng lực, cuối cùng cũng không tốt.
Ví nhƣ dụng Tài, trong cục không thấy, tất cầu chỗ Thƣơng quan Thực thần sinh. Nhƣ Thực
Thƣơng thất thời vô khí, lại cầu Tỉ kiên chuyển trợ, hoặc bên ngoài ở xa xung hợp. Đều là
quá ở dụng lực, thì thành tựu tất là gian nan vậy.

Quá ở Quý nhân, phùng tai tự khỏi. Quá ở Ác sát, gặp phúc khó hưởng.
Trong bát tự vốn có nhiều Quý nhân nhị Đức, phù dụng Tài Quan, không có hình phá. Tuy cƣ
trong phái điên, cũng không có nguy vậy. Vốn có nhiều Ác sát, tam hình lục xung, lại cùng
Tài Quan nghịch phản. Dẫu có gặp đất Tài Quan, làm sao mà lấy đƣợc cơ hƣởng phúc ?

Ngũ hành tuyệt xứ, Lộc Mã phù thân.


Ở trong tứ trụ, Tỉ kiên chia phúc. Phàm gặp tuyệt xứ, không thể liền chỉ là hung, bởi vì xứ
hung cũng có cát thần tƣơng phù. Giả nhƣ mộc tuyệt ở Thân, Thân có Nhâm thủy là Ấn,
Canh Mậu là Tài Quan. Là vật chỗ ta dùng, tất có thể phù thân tiến phúc. Chỉ lo có thần khắc
hại chỗ dụng Quan, thì chỗ tuyệt dụng vậy, nhƣ vậy là hung. Nếu lấy Quan là quý, lấy Tài là
kỳ, trong cục đƣợc gặp Tài Quan, thì là cát vậy. Nhƣ thấy Tỉ kiên không sợ, tranh Quan Kiếp
tài, thì không có toàn mỹ.
02-05-16, 14:39
lesoi
Âm dương vốn có cương nhu, can chi sao không có đảo nghịch.
Dƣơng cƣơng Âm nhu, là đạo trời đất vậy. Đảo nghịch, tức là phản phúc vậy. Cho nên mở
đầu ở bên dƣới.

Tuy xuất giá vợ không biết chồng.


Vợ chồng đã nhập cung, sao không có biết, nhƣng tình ngăn cách mà không thông, thì không
thấy chồng vậy. Nhƣ Ất mộc dụng Canh kim làm chồng, trung gian có Bính hỏa ngăn cách,
Canh bị hỏa tổn thƣơng. Hoặc tọa Tý Ngọ đất bại tử, khiến vợ cuối cùng không thể thấy
chồng vậy.

Bản có Tử không chiếu cố đến Mẫu.


Tử chiếu cố Mẫu, là lý, là tình vậy. Thân có chỗ trói buộc, thì cuối cùng không có nuôi
dƣỡng. Nhƣ Giáp dụng Bính là Tử, lại bị Tân kim hợp. Nhƣng lƣu luyến tình vợ, mà xem nhẹ
yêu Mẫu vậy. Cho nên trong cục tuy có Bính hỏa, mà không thể dụng vậy. Phàm trong mệnh
nghị luận đến đây, để mà không sai lầm.

Phụ không có Tử mà không đơn độc, Tử có Phụ trái lại là cô.


Mộc lấy hỏa là Tử tức, trong tứ trụ nếu không có vị trí Bính Đinh Tị Ngọ, thì không có con
vậy. Nếu địa chi ám giữ có hỏa, hoặc thiên can chế hóa đắc dụng, cũng không phải là không
có con. Mộc lấy thủy là phụ mẫu, nếu bị tổn khắc, thì không đƣợc chỗ ngồi. Nhƣ ngày Giáp
Ất sinh ở năm Hợi Tý, gặp tháng tứ quý, thủy bị thổ tổn thƣơng. Chỗ ngƣời sinh mất vậy, sao
không cô đơn chứ?

Sinh còn có thể tái sinh, Tử thì không thể lại tử.
Vật ở trong cục, vốn là có trƣờng sinh, trƣớc bị khắc tổn. Tuế vận lại gặp đất sinh vƣợng,
thân lực lại cƣờng, giống nhƣ tái sinh vậy. Tử là hết vậy, phàm vật ở tứ trụ, vốn là gặp cung
tử tuyệt. Sau đó tiếp tục gặp ở đất này, không phải luận càng hung, bởi vì Tử không có 2 lần
vậy.
321 | Tam mệnh thông hội

Đã Tử cũng không phải là Quỷ, phùng sinh lại không thành người.
Mộc sinh mùa xuân, đắc thời là vƣợng, trong trụ tuy gặp cung tử tuyệt; nếu vận hành đất sinh
vƣợng, cũng không phải là đất tử. Mộc sinh mùa thu, thất thời là nhƣợc, trong trụ tuy gặp
cung sinh vƣợng; nếu vận hành đất suy tuyệt, cối cùng không phải là sinh vậy.

Tử đa Mẫu bệnh, như điền phủ điền. Mẫu đa Tử bệnh, như lâm vực sâu.
Tử là chỗ Mẫu sinh, nhiều thì tiết khí Mẫu, đúng nhƣ nói Tử có thể khiến Mẫu hƣ vậy. Nếu
Mẫu lại thêm đất suy bệnh, không đủ tinh lực, quyết không thể bảo vệ lấy con, gọi là Điền
phủ Điền. Mẫu không có 2 tôn trƣởng, là ân ái đầy đủ vậy. Nếu họ Mẹ đông, âm tụ đố sinh, là
đầy gian mƣu vậy. Tức là Ngũ tinh 2 Mẫu tranh quyền nuông chìu thái quá, Mẫu quên chỗ
yêu thƣơng, Tử sao có chỗ dựa? Nhƣ còn lâm cung bệnh tử, thay đổi sinh thân, tất là nhận ở
phút chốc vậy.
02-05-16, 14:41
lesoi
Không chính không xung, không Thiên không hợp, không họa không hình, không trực
không phá.
Kỳ Xung, là bắt đầu cực lục kỳ môn. Kỳ Hợp, là bắt đầu dấu vết hình dáng vạn vật. Kỳ
Hình, là biến mà thay đổi. Kỳ Phá , là đối địch mà có tổn thƣơng. Là lấy đất hiểm trở sinh
vàng bạc, không bằng ruộng xanh giống nhƣ báu ngọc. Bốn đầu mối ở trên, chính là tƣợng
khắc chiến vậy, bên trong có dụng Hình Hƣ Câu Viễn. Nếu trong đó đảo nghịch, mà thủ dụng
thần là quý là phúc. Không bằng dụng Tài sinh Quan, dụng Ấn đƣợc Sát, tự nhiên mà kỳ
diệu. Cho nên chỗ Tử Bình chuyên luận Tài Ấn Thực vậy. Cát thần giúp ta, công cầu giúp cát
thần. Phàm nhân mệnh suy nhƣợc, hoặc hình thƣơng phá hại. Không thể thành dụng, tất
muốn cát thần phù tá, thành phúc cho ta. Lại xem thần giúp ta, thế lực khinh trọng nhƣ thế
nào. Nếu nhƣ vô căn thất lệnh, hoặc tự thụ thƣơng, trƣớc tiên dụng cầu trợ giúp cát thần nhƣ
thế nào. Giả nhƣ ngày Giáp sinh mùa hạ, gặp hỏa thiêu đốt, đƣợc Nhâm Quý Hợi Tý giúp ta
là cứu. Nhƣng thủy trƣớc tiên bị hỏa thổ khắc hao, không thể làm phúc cho ta. Tất muốn cầu
kim, chuyển thủy vƣợng, khiến cho thủy có chiếu cố tình với ta. Công nhƣ vậy, không ở thủy
mà ở kim vậy. Lại nhƣ Ngọ bị Tý xung, dựa vào Mùi hợp của ta, mà cùng Tý xuyên, thì là
thần giúp cho ta. Nhƣ Mùi bị thƣơng không thể là dụng, tất cầu thần sinh trợ Mùi thổ có lực,
mà Mùi thổ mới đƣợc thành dụng.

Hung vật thương thân, dụng vật giải trừ hung tổn.
Trong nhân mệnh, nếu gặp hung thần khắc cung thân của ta. Tất cầu vật nào ở trong trụ, có
thể chế hại thần của ta. Thì nó tự giải vết tỳ này hay không, làm sao có thể cùng hại ta? Nhƣ
Giáp mộc vốn là bị kim thƣơng, chỗ họa khó miễn, đƣợc hỏa khắc thì nguy tự đi xa vậy. Lại
nhƣ Mão bị Dậu xung, trong trụ thấy Ngọ cũng giải đƣợc.

Ngũ hành đều được vị trí, quy tụ thành phúc.


Phàm ngũ hành không thể thất vị hƣ danh, nhƣng cần đắc lệnh quy viên, mới có thể là quý.
Nếu quy tụ một cục, thì tốt không thể nói.

Một cục đều mất quy viên, thì lưu đãng không nơi nương tựa.
Phàm dụng thần nhật chủ, chỉ cần lạc chỗ. Nhƣ trong tứ trụ không đƣợc thông căn có nơi
nƣơng tựa, lại gặp Không Vong tử tuyệt, mộc dục hình xung. Thì cuối cùng là không có
thành lập, tất nhiên là lƣu đãng mất chỗ vậy.
02-05-16, 14:43
lesoi
322 | Tam mệnh thông hội

Đại vận chiết trừ thành tuổi, tiểu vận nghịch thuận theo giờ.
Văn Khố xung mà văn minh thịnh, Vũ khố che đậy mà binh khí an ổn. Tuất là Văn khố, bởi
vì hỏa là văn minh. Trong bát tự vốn không có Tài Quan, ấn thụ, Thực thần, Sinh khí, thì cơ
bản là không có học vấn văn chƣơng. Ngƣời đƣợc hỏa khố, lại bị đóng cửa, chỗ này là ngƣời
không có văn chƣơng. Nếu có ám Thƣơng quan, hoặc Ấn thụ ẩn mà không hiện rõ, cũng chủ
thông minh. Trong trụ đƣợc chữ Thìn Mùi Sửu, xung hình khố Tuất, lại nhận đƣờng vận đông
nam, phát ánh sáng hỏa. Văn chƣơng tất từ chỗ này mà thịnh vậy, đạt cao nơi Hàn Uyển, tôi
đã thấy nhiều rồi vậy. Sửu là Vũ Khố, bởi vì kim là vũ khí. Trong bát tự nếu nhƣ mang khí
mùa thu, Thân Dậu Canh Tân là Sát, Thiên Quan Dƣơng Nhận, lại thấy đồng cung, ngƣời này
chẳng sợ hiếu chiến vậy. Trong trụ gặp Tý Tị Dậu thần hợp cục, kiêm hành Đông Nam mộc
hỏa, chế kỳ kim ngu. Thì che dấu kỳ Vũ khố, vũ khí sẽ không đƣợc dùng mà yên ổn vậy.
Tráng sĩ ở đây, sẽ vứt bỏ mũ giáp mà an nhàn, tôi vẫn thƣờng thấy điều này.

Rồng bay xa trời, theo mây mà vào biển sâu.


Rồng ẩn ở trong đáy biểu sâu, theo mây bay lên trời. Rồng là Thìn vậy, Thiên môn là Hợi
vậy, Mây là Nhâm vậy, Rồng gặp mây mà bay. Nếu can năm thấy Hợi, tháng thấy Thìn, can
đầu năm tháng có Nhâm, thì Rồng ở trên trời vậy. Nếu ngày giờ thủy vƣợng, cùng Thìn hội
cục, Rồng tất là theo mây mà nhập vào biển sâu. Bởi vì Rồng lấy thủy là nhà, cho nên ở trên
tách rời xa trời, ở dƣới ẩn ở trong thủy. Đƣợc tƣợng này, văn chƣơng cái thế, cả đời thôg
suốt. Công danh tuy xuất ra ở Đài các, sự nghiệp cuối cùng quay về ở ẩn. Trong trụ có 2 chữ
Tị Ngọ, là mệnh bần bạc hạ lƣu vậy. Nếu năm thấy Hợi, giờ thấy Thìn, ngày tháng hội thủy,
thì Rồng xuống ẩn dƣới biển sâu. Nếu can chi có hình xung khắc phá, Rổng không thể yên
ổn. Cần ở trên ngày giờ có chữ Nhâm, tất là Rồng theo mây mà bay lên trời vậy. Tƣợng này
nếu nhƣ năm không có Hợi, dụng Tị lại xung cũng cát, nhƣng xuất thân hàn tiện, không có
nƣơng tựa tổ phụ. Sau này tất có ngƣời phụ tá lực, phấn phát công danh, chủ đảm nhận việc
kề cận vua. Vận hành Kỷ Dậu đất bại tuyệt, là tang gia bãi chức, tức là Nhâm kỵ Long Bối
cách.

Đại Lâm Long xuất gặp Thiên Hà, tứ khố thổ toàn cư Cửu Ngũ.
Đại Lâm Long, tức là Mậu Thìn vậy. Yêu cầu trong tứ trụ, nạp âm đƣợc Thiên Hà Thủy, thì
Rồng mới bay lên trời. Thêm hoàn toàn tứ khố thì bốn bể đều có đủ, cho nên mƣa biểnđƣợc
tất cả thiên hạ, tất là đấng đại nhân hàng Cửu ngũ vậy.
Mệnh Minh Thái Tổ: Mậu Thìn, Nhâm Tuất, Đinh Sửu, Đinh Mùi, chỗ này cũng có nguyên
nhân mà nói.
02-05-16, 14:44
lesoi
Trường Lưu Long phục quy Đại Hải, Ngũ hồ thủy tụ theo bầy dân.
Trƣờng Lƣu Long, tức là Nhâm Thìn vậy. Long gặp Trƣờng lƣu, địa chi đƣợc Hợi, danh viết
là Long quy Đại Hải, lại viết là Long vƣợt Thiên Môn. Diệu là ở nạp âm đƣợc Đại Hải thủy,
tứ trụ đều mang thủy, thì thuỷ ở ngũ hồ, mà còn đƣợc bề sâu, chỗ Rồng rất thích, phải có
Canh Tân để sinh, thì xuất nhập giao động, nói sao, không phải là tƣợng quý sao?
Nhƣ mệnh Vương Dương Minh: Nhâm Thìn, Tân Hợi, Quý Hợi, Quý Hợi, cũng vì mệnh
này mà lập luận.

Lục hợp có công, quyền tôn lục bộ.


Phàm trong tứ trụ có tƣợng hình xung khắc hại phá, vốn là luận hung. Đƣợc thần dắt hợp có
lực, trái lại là cát, phúc cao xa. Năm tháng dụng thành đại quý, ngày giờ dụng thành là thứ.

Tam hình đắc dụng, uy trấn tam biên.


Hình vốn là không cát, đắc dụng thì phú quý thông minh, vô dụng thì cô bần hung yều. Sao
323 | Tam mệnh thông hội

nói là đắc dụng, là tam hình có khí, nhật chủ cƣơng cƣờng, còn vô dụng thì trái lại.

Tý Ngọ là Đoan Môn, Song củng Kỳ Nghi dựa vào Ngoại Chính.
Hai vị Tý Ngọ, Chính mà không Thiên, cho nên viết là Đoan Môn. Nếu đƣợc kẹp củng không
có phá tổn, lại có lực lƣợng, ngƣời tất thông minh, phấn lập huân nghiệp. Chính Củng, nhƣ
Hợi Sửu củng Tý, Tị Mùi củng Ngọ. Ngoại Củng, nhƣ Thân Thìn củng Tý, Tuất Dần củng
Ngọ. Kỵ Không Vong khắc phá là hại.

Tị Dần là sinh địa, thập phần tú khí hợp Càn Khôn.


Tị Dần sinh có lực, có thể hợp Hợi Thân. Hợi là Càn vậy, Thân là Khôn vậy, nếu không có
xung tạp, Thân Hợi chính là nhận quý khí, tài hoa xuất chúng.
02-05-16, 19:38
lesoi
Thiên Địa bao tàng thần đắc dụng, trong tâm lộ rõ.
Hợi là Thiên, Thân là Địa, lộ ra có lực lƣợng. Nhƣ trong bát tự không thấy 2 chữ, trái phải
đƣợc thần, củng khởi 2 chữ. Kiêm có quý khí, không lạc Không Vong, cần nên lộ rõ. Hoặc
lấy Thân Hợi bao Dậu Tuất, xem thiên can thuộc vật nào, lấy hữu dụng là quý.

Phong Lôi kích liệt quý vô khuy, tính danh bay cao.
Tị là Phong môn, Mão là Lôi môn. Trong bát tự hƣ củng một vị, lại có quý nhân. Tuế vận nếu
khởi phùng xung, tất có thể phát đạt.

Tặc địa thành gia, tặc loạn gia vong thân tất tang.
Phép này lấy chi tháng là ngũ âm vậy. Trong năm ngày có thần tranh hợp là Thê, chi tháng
chìm đắm ở trong đó. Muốn ra mà không thể đƣợc, viết là Tặc địa. Lại gặp thần ở năm và
ngày, tự hình, không có rảnh mà đi hợp ta. Đƣợc chi giờ thừa cơ, cùng chi tháng là hợp. Gọi
là Tặc địa thành gia, phú quý không ít. Đại vận khử Tặc thì yên, lại thấy Tặc loạn thì hung.

Xà nhà liền chặt, mộc đa kim khuyết dụng khó thành.


Mộc vốn dựa vào kim đốn chặt để thành khí, nếu kim bị thần lƣu hợp, không thể đến khắc
mộc. Lại phải cần mộc cùng kim kề cận, thì nó có thể điêu khắc vậy. Nếu mộc thịnh kim suy,
thì thì là tựu kim, cũng không thể chặt mà thành vật hữu dụng. Giả sử dụng mộc, cùng kim
tác hợp, hai bên đều lƣỡng cƣờng, là lấy quý luận.

Thuần Dương là Địa Hộ bao Âm, binh quyền hiển hách.


Bát tự thuần Dƣơng, vốn là thiên đảng. Đặc biệt Tý Dần Thìn Ngọ Thân Tuất là dƣơng, ám
củng Sửu Mão Tị Hợi Mùi Dậu là âm. Hai tƣợng giao cảm cứu trợ nhau, thì trái lại là chính
khí của tất cả trời đất vậy. Lại phải cần tứ trụ không có Không Vong, cùng thiên can có sinh ý
là cực tốt. Tƣợng quyền này thi hành trấn giữ ở biên cƣơng, địa vị đến Công Hầu, phát phúc
không nhỏ.

Độc Hổ Thiên môn mang mộc, Đài các thanh cao.


Phàm năm tháng đƣợc một vị Dần, lại cần có giờ thấy Thiên Môn, Hổ tất hƣớng Thiên gọi
Nhật. Trong trụ lại có Mão Mùi hợp cục, mộc thịnh sinh phong, phong đi theo Hổ, sao không
vĩ đại ƣ? Nếu khiến cho hình xung khắc phá, không đƣợc Ấn thụ tài quan, thì vô dụng vậy.
Học Đƣờng phùng Dịch Mã, thì văn chƣơng cao nhƣ Bắc đẩu. Thân tọa vị trí Trƣờng Sinh
gọi là Học Đƣờng, lại đƣợc Dịch Mã giao trì, một xung một hợp. Lại đƣợc khí tƣợng cao lớn,
mang Tài Sát Quý nhân là tối quý, văn chƣơng tự nhiên xuất trần.

Nhật chủ tọa Hàm Trì, giang hồ hoa tửu.


324 | Tam mệnh thông hội

Hàm Trì còn có danh là Đào Hoa Sát. Nam nữ gặp, tất nhiên dâm loạn, đa số ngƣời là tửu
sắc, lƣu lạc giang hồ. Nếu thấy Tài Quan Quý Đức đồng cung, lại đƣợc phẩm cách thanh kỳ,
an hƣởng phú quý. Đại kỵ hình hợp, chỉ hỉ Không Vong.

Phúc đầy nên phòng có họa, hung nhiều vị tất không có cát.
Đại để dụng Ấn sinh thân, chính là phúc của ta vậy. Trong trụ vốn có Quan Sát, chuyển sinh
Ấn vƣợng, không gặp Tài Thƣơng Thực thần tiết khí là quý. Vận hành Tỉ Ấn vƣợng địa sinh
phù thái quá, xứ phúc quá đầy sao không khởi sinh hoạ? Quân tử xứ cực thịnh vậy. Trong cục
vốn có nhiều Quan Sát, tuế vận lại hành Quan Sát, là rất hung, liên tiếp gạp gian hiểm. Về sau
tất có vận chế phục thân vƣợng, là tƣợng Phủ cực Thái lai. Nhƣ ngày Giáp bị chỗ Quan Sát
vây khốn, vận thần lại hành Thân Dậu, là rất hung vậy. Thuận đi có vận Hợi Tý Ấn, nghịch
hành có vận Tị Ngọ chế, là có vật cứu, sao mà không tốt ƣ? Chỗ này nói âm dƣơng tiêu
trƣởng, họa phúc ẩn phục, thiên đạo nhân sự, là lƣu thông, nên nhìn cho kĩ.
02-05-16, 19:41
lesoi
Mã đầu đeo tiễn, sinh ở Tần mà chết ở Sở.
Sau Mã mang roi, hƣớng ở Hồ Bắc mà mộ ở Hồ Nam. Chỗ này nói Dịch Mã ở dƣới ngày giờ,
tất phải mang hợp. Gọi là Liền dây cƣơng, tụ tài phúc lớn, trợ lý hơn ngƣời. Nếu trƣớc Mã
thấy có hình xung, gọi là Đeo tiễn, tƣợng đứt dây cƣơng vậy. Nếu đến xung thuộc loại kim,
thụ khắc thuộc loại mộc, thì họa càng nặng, chủ ngƣời tha hƣơng mất mạng. Phàm thủ dụng
Dịch Mã, thuận thì năm lấy ngày giờ, nghịch thì giờ dụng nhật chủ. Mã không có rào chuồng,
thì bất chấp mọi thứ mà làm càng giữ không đƣợc. Nhƣ sau lại thêm có hình xung, Mã tất lao
nhanh. Cuối cùng không có nơi yên ổn, chủ cả đời lao khổ, bôn ba khắp nơi. Nếu thần hình
xung, có gặp tam hợp lục hợp, thì không lấy thêm roi mà luận vậy. Tính linh Hình ngủ, phần
nhiều là lý trọc lƣu thanh.

Tướng đẹp tâm ngu, cái thị thanh trung hàm trọc.
Phàm thủ dụng thần, hình xung thác loạn. Chƣa có thể liền nói trọc mà vô dụng, nên suy xét
kĩ trong đó có vật ám tàng. Nhƣ trong trọc xuất ra một điểm cô thanh, thì ngƣời tuy là chất
phác, phần nhiều tính tình thông minh, cơ mƣu khác thƣờng. Nếu dụng thần thanh kỳ đặc biệt
xác lập, không phải là hỗn tạp hình thƣơng, chƣa có thể nói là thanh vậy. Nếu trung gian có
vật ám tàng, cũng chỗ vật sử dụng có tổn thƣơng, thì cuối cùng bệnh chung không thể hết.
Cho nên tƣớng ngƣời tuy đẹp, tất nhiên thất học mà vô thành, hôn mê tửu sắc.

Một tướng gác cửa quan, quần tà tự phục.


Tướng, là thần quý trọng vậy. Quan, là nơi khẩn yếu vậy. Tà, là vật ghét ta vậy. Giả nhƣ
ngày Giáp Ất sinh ở năm tháng kim vƣợng, đều đến khắc ta. Đƣợc Bính thấu ra trên tháng,
chế Sát thành quyền, mà Sát tự phục vậy. Lại nhƣ Nhâm Quý gặp Mậu Kỷ, chi thổ loạn khắc,
thân không thể đối địch. Xứ Khẩn yếu, lại cần có Canh Tân là Ấn hóa Sát, không dám làm
loạn.

Chúng hung khắc chủ, độc lực khó thắng.


Chỗ này nói Sát trọng Thân khinh, cô độc không có trợ giúp. Bởi vì không có thần gác cửa có
thể cứu, thì không thể thắng chỗ khắc vậy, quyết là yểu tật.
02-05-16, 19:42
lesoi
Thoát chỗ bối nghịch, kỵ thấy chỗ bối nghịch, hóa thần này, hỉ thấy thần này.
Kỳ diệu của Tòng hóa, không thể vội vàng cùng tận, ắt phải dụng tâm suy xét. Nhƣ Giáp Kỷ
hóa thổ, thoát khí mộc mà theo nhà vợ. Nếu thấy Giáp Ất Dần Mão Mùi Hợi, đều là Tỉ kiên
325 | Tam mệnh thông hội

của ta. Thì có dựa vào gốc vƣợng, sao không lƣu luyến chứ? Huống chi Tỉ Nhận lại có thể
tranh hợp Tài của ta, khiến cho Giáp Kỷ không thể lấy thành, lại có oán hận ly gián vậy. Lại
nhƣ Ất Canh hóa kim, hỉ thấy kim vƣợng, mà vợ nƣơng tựa đƣợc chồng. Đinh Nhâm hóa
mộc, hỉ thấy mộc vƣợng, là hai nữ đƣợc dựa vào mẹ. Bính Tân hóa thủy, hỉ thấy thủy vƣợng,
mà Mẫu đƣợc dựa vào Tử. Mậu Quý hóa hỏa, hỉ thấy hỏa vƣợng, mà chủ đƣợc dựa vào Tài.
Rất sợ thấy Không Vong thấy Sát, Tỉ kiên tranh đố. Không thành danh quan lớn công chức,
thì là cô nhi khác họ vậy.

Dịch Mã không có dây cương, làm khách nam bắc đông tây.
Không có dây cương, là Mã không có hợp vậy. Nam bắc đông tây, là không có chỗ nào là
không đến vậy. Nhƣ nhân mệnh gặp chỗ này, tất chủ phiêu linh.

Đào Hoa đái Sát, làm ca kĩ níu kéo quan lại.


Là Đào Hoa thấy ở trên ngày giờ vậy. Không chỉ kỵ hình hợp hữu tình, càng kỵ Ngũ Sát
đồng xứ. Phàm gặp chỗ này, không dạy dỗ nhận lễ nghĩa liêm sỉ không có vậy.

Mẫu Tử có nương tựa nhau thủy chung, phu thê phải gắn bó sinh tử.
Mẫu Tử Phu Thê, là chuyên nói 2 đầu mối Thể Dụng, duy chỉ có ở ngày tháng là trọng yếu.
Giả nhƣ ngày Mậu tọa Thìn, sinh ở tháng Thân. Nhƣng thổ lấy kim là Tử, kim dƣỡng ở Thìn,
ít dựa vào Mẫu mà tự cƣờng. Thổ sinh ở Thân, già đƣợc con mà có chỗ dựa. Tƣợng này rất
hiếm, đại kỵ tuế vận phá mà thành họa. Giả nhƣ ngày Bính tọa tháng Tý, dụng Dậu kim.
Nhƣng hỏa lấy kim là vợ, Tân kim sinh ở Tý, thích hợp nhà chồng để dƣỡng thân. Hỏa đến
Dậu vong, dựa vào thê tài để mệnh sống. Tƣợng này quý dụng Tài Quan, rất sợ hình xung tán
cục.
02-05-16, 19:44
lesoi
Đôi mắt không có đồng tử, hỏa thổ nấu khô Quý thủy.
Quý thủy ở con ngƣời thuộc thận, là nền tảng toàn thân, gốc của đôi mắt. Mắt là cửa quan
ngũ hành, chỉ riêng đồng tử thuộc thủy, thủy khô thận hƣ, thì đồng tử không có chỗ dựa. Nếu
nhật can sinh ở tháng hỏa thổ, ngày giờ tọa thổ là gốc. Mà trong trụ gặp mộc hỏa nấu khô tổn
hao, không thành tòng hóa, đa số mắc bệnh đôi mắt. Nếu ở trong năm tháng giờ, tuy đƣợc khí
mùa thu. Không hành đại vận tây bắc, gặp mộc hỏa đất quá nóng, e rằng có khổ mất sáng.
Tức là thủy hơi đƣợc thông căn, cũng có tật đôi mắt.

Đại tràng có bệnh, Bính Đinh khắc tổn Canh kim.


Canh thuộc đại tràng, cần gặp thủy thổ, sợ Bính Đinh Dần Mão đắc cục không có chế. Canh
kim tuy đƣợc nối căn, lại bị hình xung khắc phá, kiêm nhập đại vận mộc hỏa. Thủy thổ ở xứ
suy, liền có tật này.

Thổ hành thấp địa mà đổ căn, Bá Ngưu có oán hận. Hỏa gặp trời viêm nóng mà được cục,
Nhan Tử không lo.
Mậu thổ thuộc tỳ, trong tứ trụ không có thông căn vị trí sinh vƣợng. Sinh gặp giờ ẩm thấp, lại
thêm thủy ngâm xứ thổ. Vận hành đất ẩm thấp, can tuế thổ khắc, thì tỳ thổ thụ thƣơng, vì vậy
có tật. Hỏa là tƣợng văn minh, sinh ở mùa hạ, tam hợp Dần Ngọ Tuất cục, hỏa càng phát
sáng. Làm phiền dùng một phần mộc giúp, không cần thấy thủy thông căn, gặp ngọn lửa hỏa.
Ngƣời sinh gặp chỗ này, vui vẻ không lo. Hỏa hành xứ cực, gặp nhiều mộc sinh, lại chủ yểu
bần, rất là bất lợi vậy.

Thủy phiếm mộc phù, chết không quan tài. Hỏa viêm thổ táo, sinh nhận cô đơn.
Mộc theo thủy chảy tràn lan, không gặp vận thổ làm đê ngăn, lại gặp đất tử tuyệt. Phùng xung
326 | Tam mệnh thông hội

cùng Sát, tất định rơi núi rơi thủy, hoành hại độc vong, đa số không tốt. Thổ do hỏa táo, vạn
vật không sinh, đầu vận nam hành, phế mà vô dụng. Đến sau tuy gặp Tài Quan, không thể
làm dụng. Dẫn đến bôn tẩu cô bần, mệnh không nhà vậy.

Thê đa lực nhược, sinh nhai hoa phấn. Mã nhược Tỉ nhiều, hình hài phiêu bạc.
Phàm dụng Tài là vợ, tối yếu là phải đắc thời đắc vị, nhật chủ lại hỉ thân cƣờng. Năm tháng
có chỗ dựa, âm dƣơng đều đƣợc chỗ, cũng biết là phối tốt. Nếu Tài đa tán loạn, hình hợp
không đồng đều, nhật chủ cô nhƣợc, không thể đảm dụng. Tất nhờ vợ hƣởng lợi để dƣỡng
thân vậy. Chỗ này thì lại nói ngƣợc lại là Tài khinh Tỉ nhiều, là vật dƣỡng thân, dụng không
thể không có. Phàm gặp Tài vƣợng thân cƣờng, cả đời an vui. Thấy Tài khinh Tỉ nhiều là
không đủ sử dụng, cuối cùng tất phiêu bạc giang hồ, đuổi theo tài mà lao khổ, sao mà an
hƣởng chứ? Phàm gặp hung thần giao hội, lấy thiện ít mà khó thành. Cát tinh cùng lâm, ác
tuy nhiều mà cũng hóa. Đạo từ ngộ lý, thần nhập tâm sinh, khổ cầu học thuộc, mà đƣợc lớn
hay bé vậy.
04-05-16, 12:42
lesoi
Lục Thần thiên

Ngũ hành diệu dụng, khó thoát tong một lý. Tiến thoái tồn vong, phải biết đạo biến thông.
Chính Quan bội Ấn, không bằng cƣỡi Mã. Nói phép dụng Quan, đại để cần kiện vƣợng thanh
cao, tối kỵ thiển bạc. Quan vƣợng cần Ấn, nhƣợc thì cần Tài, chỗ này là lý bất dịch vậy. Này
nói dụng Ấn, không bằng dụng Tài, là có một thuyết: Giả nhƣ thân vƣợng Quan khinh, thấy
nhiều Ấn thụ, thì nhật chủ càng cƣờng, mà Quan càng nhƣợc vậy. Hồ Trung Tử nói: Quan
khinh không bằng Sát khinh cho nên hỉ đất Tài vƣợng. Sinh Quan khắc Ấn, ngọn nguồn phải
đƣợc trung hòa, chỗ này đủ để phát phúc.

Thất Sát dụng Tài sao cần gặp Lộc?


Chỗ này nói Sát vƣợng thái quá, nhật chủ không có chỗ dựa. Nếu nhƣ dụng Tài sinh Sát, thì
nhật chủ càng nhƣợc, còn Sát càng vƣợng vậy. Không thể đảm nhận, không thể bỏ đi, chỉ có
thể bỏ mệnh mà đi theo, để có thể tránh hoạ xâm phạm. Vận hành đất Tài Sát vƣợng, khởi
đầu tâm không dễ đi theo. Một khi gặp tuế vận quy lộc, nhật chủ đặc biệt cƣờng, chính là
cùng khắc chiến với Sát. Lấy ít địch nhiều, có thể thắng hung sao? Có thể biết vậy.

Ấn phùng Tài là bãi chức, Tài phùng Ấn lấy Thiên Quan.


Ấn là vật chính đại thanh cao, thấy Tài thì không thể bảo vệ danh vị. Lại nhƣ nguyên dụng
Ấn thụ, không lấy Quan Sát làm chỗ dựa, vận hành đất Ấn Quan, làm quan thanh cao. Một
khi gặp đất Tài, khắc mất Ấn thụ, trụ không có Tỉ kiên để giải cứu, khó tránh bãi chức về
vƣờn. Tổn thƣơng nặng, tất chết ở đất thủy hỏa. Thân vƣợng dụng Tài có thể biết vinh hoa,
lại hành đất Tài vƣợng, chủ không thể vƣợt qua. Lại cần lƣu niên Ấn vƣợng, trợ giúp bản căn
cho ta, lại có thể tiến tƣớc thăng quan. Không lấy Tài phá Ấn luận vậy.

Mệnh nhận yểu chiết, Thực thần củng lập phùng Kiêu.
Thất Sát hại thân, vốn không có Chính Ấn để cứu giải, chỉ lấy một vị Thực thần chế Sát. Vận
đạo thanh niên, hỉ hành đất chế Sát. Nếu gặp Kiêu thần có lực, khắc Thực thần của ta, trụ
không có gặp Thiên Tài đối địch. Khó tránh Sát hại thân, là họa càng thêm mãnh liệt.

Vận đến hung nguy, Dương Nhận trọng phùng phá cục.
Chuyên nói dụng Tài không có Sát, đại kỵ Dƣơng Nhận gây họa. Nếu tuế vận trọng phùng
Dƣơng Nhận Kiếp tài phá cục, tất có khổ tang gia tù ngục. Hại vợ hại con thống khổ, mộc
hỏa binh Nhận, tất có phát sinh vậy.
327 | Tam mệnh thông hội

Tranh Chính Quan không thể không có Thương.


Quan là Lộc vậy, ai cũng mong muốn. Nếu trong trụ thấy nhiều Tỉ Nhận, lại có một vị Quan
tinh. Tất nhiên là tranh đoạt, sao thành lập mà có phúc? Không bằng vận đến Thƣơng quan,
thƣơng tận Quan tinh, thì Tỉ kiên không có tranh đoạt, mới có thể yên vậy.

Quy Thất Sát rất sợ có chế.


Chỗ này cũng lả nói Tỉ kiên vậy. Bởi vì tứ trụ thấy nhiều Tỉ kiên, tất nhiên là tranh Lộc tranh
Tài, mà tuế vận đoạt vật là họa. Nhƣ năm tháng thấu ra một vị Thất Sát, Biết sợ Tỉ kiên, thế
tất quy phục. Tuế vận một khi gặp Thực thần chế Sát, thì trụ không có thần chủ trƣơng, khiến
cho Tỉ kiên phục loạn nhƣ ban đầu. Thì tán tài phá nghiệp, chết đột ngột dƣới Thực thần
phóng túng, đoán có bằng chứng vậy.
04-05-16, 12:43
lesoi
Quan cư Sát địa, khó giữ Quan. Sát ở đất Quan, sao có thể biến thành Sát.
Quan là quý nhân thuần nhã, Sát là ác khách gian tà. Nhƣ Quan cƣ Sát đảng, thế không thể
độc lập, tất hỗn hóa mà thành Sát. Tuy Quan có phong độ thuần nhã, sao thể lấy chăng? Sát là
vật cƣờng bạo, tuy ở đất Quan tinh lễ nghĩa, cuối cùng lễ nghĩa không khỏi thay đổi. Cho nên
không thể biến Sát thành Quan vậy.

Tham Tài phôi Ấn bỏ cao khoa, Ấn phân khinh trọng.


Phàm mệnh có Ấn trọng Sát khinh, cuối cùng cũng không là quý. Phải hành vận Tài vƣợng,
khắc Ấn thái quá, bất cập sinh Sát. Sát Ấn tƣơng đình, tất có thể siêu việt. Nếu Ấn khinh
phùng Tài, thì là đại hại, nên xét kĩ Tiêu Tức.

Gặp Tỉ dụng Tài nắm bạc triệu, Tỉ được sinh phù.


Tài là vật của ta sử dụng, đƣợc nó là tốt. Trong trụ có một Thất Sát chuyên quyền, nhật chủ bị
chế, thì không rảnh mà dụng tài. Nếu đƣợc Tỉ Kiếp thấu lộ, hoặc tuế vận sinh phù. Nhật chủ
không đến nỗi suy nhƣợc, có thể địch Sát, mà Tài mới là của ta dùng vậy.

Vận đến đất vượng thân lại nhược.


Chỗ này nói Tòng Tài, Tòng Sát không thành tƣợng. Nhật chủ suy nhƣợc, không chịu bỏ
mệnh là theo Tài Sát. Nếu hành đại vận gặp đất sinh phù, tất cùng Tài Sát tranh địch. Địch
mà không thắng, lại bị Tài Sát làm hại, thì càng nhƣợc vậy. Định tất vì Tài mà mang họa, tai
bệnh đến thân.

Tài phùng xứ Kiếp họa không nhẹ.


Tài đa Thân nhƣợc, không thể đảm nhận. Hành gặp Tỉ Kiếp, phân Tài trợ khí, mà họa lại nhẹ.

Tài không có Thương, vẫn kỵ âm mưu đạo tặc.


Trong trụ dụng Tài, không có Tỉ Nhận cƣớ đoạt, thì không có tổn thƣơng. Nhƣng kỵ trong
khố có ám tàng Tỉ Nhận, hoặc bị xung hình, thì khó tránh tai hại xâm phạm vậy.

Sát không có lộ chế, nên tìm binh phục địch.


Sát là vật hung bạo vậy, tất muốn có Thực thần lộ ra chế, mới có thể là dụng. Nhƣ trong trụ
không có thần lộ ra chế phục, không thể liền nói lấy hung, cần phải thâm cầu thần trong tứ
trụ. Nhƣ có Thực thần ám phục, hoặc gặp hình xung, hoặc tựu lực binh tam hợp cũng có thể
phục địch. Đại vận hành đất chế Sát, tất chủ thành danh tiến lộc.

Trên đầu Quý nhân mang Tài Quan, cửa đầy tứ mã.
328 | Tam mệnh thông hội

Chỗ này chuyên nói năm và ngày có quý nhân hỗ hoán, không gặp Không Vong Kiếp hại, Sát
Nhận đồng cung. Ở trên mang Tài Quan, còn cƣ nơi chính vị, mang hợp lại có căn, đắc thời
tiến khí. Chính là ngƣời phú quý, chấp chƣởng binh hình, là mệnh phi thƣờng. Ngọc Tỉnh
phú nói: Tiến cung kim ngọc, trên đầu quý nhân mang Quan tinh, là Quan hay là Tài là
trọng yếu nhất vậy.

Trong cung sinh vượng tàng Vong Kiếp, anh dũng đoạt tam quân.
Trong bát tự, nhƣ có mang Vong thần Kiếp sát, đƣợc gặp đúng chân Trƣờng Sinh, cùng nạp
âm năm. Hoặc đƣợc Trƣờng sinh Lâm quan Đế vƣợng, chủ vũ lƣợc siêu quần, có anh dũng
cử đỉnh bạt sơn vậy.

Là vì cưỡi Mã vong thân, chỉ vì đắc lộc mà né tránh chức vị.


Trong trụ vốn có nhiều Tỉ Kiếp không có Tài dụng, tuế vận phùng Tài, nhật chủ chính là
dụng Thực. Tỉ Nhận tất nhiên cƣớp đoạt, nặng thì tổn mệnh tang gia, nhẹ thì từ quan bãi
chức. Nguyên dụng Quan tinh, mang Tài là quý, vận hành đất Quy Lộc, là đất Tỉ kiên vƣợng.
Tất nhiên tranh đoạt Quan, chính là nói gặp Tỉ kiên mà cạnh tranh, ở chỗ này lại mất bổng
lộc, cho nên né tránh chức vị là vậy.
04-05-16, 12:46
lesoi
Ấn lưỡng hiền giải ách, Tài đến tranh lục quốc.
Lưỡng hiền, là nhị Sát vậy. Ấn là nhân từ vậy. Phàm dụng nhật chủ không nhƣợc, Lƣỡng Sát
thấu ra thiên can, cũ là tai vả cho nhật chủ. Không có Thực cứu trợ, dẫu có cũng bị gặp chỗ
Kiêu thần là tối hung. Nếu có thể dụng Ấn hóa Sát, khiến cho hàng phục ở ta. Nhƣ vậy thì
ngƣời không chỉ có phú quý, mà còn có thể hƣởng phúc. Vừa nói Lưỡng hiền, là Quan cùng
Sát vậy. Nếu chỉ lấy Sát nói, ý là trọng ở câu dƣới Chúng Sát hỗn hành. Tài, là vật chỗ con
ngƣời muốn, vì cái này mà gây ra nhiều tai họa vậy. Nếu trong cục có Nhận phục ở trong đó,
không gặp Tài, thì không có tranh cƣớp. Nếu có Tài làm dụng, hoặc tuế thấy Tài, trêu chọc Tỉ
kiên hỗn Kiếp thành họa. Hình háo hại vợ, khó mà tránh khỏi vậy.

Chúng Sát hỗn hành, một người có thể hóa.


Nhất Sát cuồng loạn, độc lực có thể cầm. Sát vốn là đợi chế mà sau đó phục tùng, nếu thấy
nhiều Sát, lực không thể chế, chế thì tất dẫn đến làm nghịch. Cho nên nếu không dụng Ấn,
Ấn là nhân từ vậy, lấy nhân hóa sát, khiến Sát tự hàng phục là vi diệu. Hỉ đất Ấn vƣợng, là
giúp ích để hóa, không nên lại thấy chế phục, là chỗ nói tật càng quá mức, là loạn vậy. Độc
Sát cuồng loạn, thế lực có hạn, có một Thực chế, tự có thể hàng phục, huống chi Thực thần
nhiều chế là quá!

Ấn cư Sát địa, lấy đức hóa.


Sát cƣ Ấn địa, lấy đủ hình phạt. Nhƣ nhật chủ Giáp, dụng Thân là Sát, khắc ta không có chế,
cũng biết là hung vậy. Ai cũng biết thủy Ấn trƣờng sinh ở Thân, tự có thể hóa Sát, làm cho
không hung bạo. Nếu can chi nhiều Tài, là thành hạ cách. Tỉ vƣợng Tài khinh, dụng càng
đẹp. Nhƣ Ất mộc dụng Tân kim là Sát, gặp Tý cắm căn, đặc biệt cƣờng mạnh khắc ta. Tuy là
Ấn của ta, là chỗ cung Sát sinh. Nếu Canh Tân kim thấu ra, xâm hại nhật chủ, can không có
Thực thần để giải cứu. Đƣợc vƣợng Ngọ xung Tý, khử cung Sát sinh, thì Tân không có chỗ
dựa, miễn thứ hoạ khắc thân vậy.

Huynh đệ phá Tài, Tài đắc dụng. Sát Quan khi chủ, chủ phải tòng.
Nhất cục Tỉ kiên, nhật can chuyên lộc, trong trụ không thấy Tài Quan, thì không có chỗ dụng.
Nhƣng nếu Tỉ kiên thành đảng, hi vọng Không xung phá cung Tài vƣợng, mà Tài lực thành
chỗ dụng cho ta. Rất sợ điền thực xung cung, lƣu hợp Tỉ kiên. Giả sử nhƣ ngày Tân Dậu, gặp
329 | Tam mệnh thông hội

Dậu nhiều xung Mão, gặp Mão nhiều phá Ngọ, là hợp chính dụng. Quan Sát quá nhiều, nhật
chủ vô lực, tứ trụ nó lại không có căn, vận đồ lại hành Tài Sát. Không bằng bỏ mệnh tòng
Sát, thông đất Sát vƣợng, tất có thể phát phúc, đại kỵ vận thân vƣợng và Thực thần.
04-05-16, 12:47
lesoi
Nhất Mã ở chuồng, người không nên đuổi, Nhất Mã ở ngoài đồng cũng xua đuổi.
Mã, là Tài vậy. Tất Tỉ kiên là vật tranh giành. Nếu Tài thấu lộ, trong tứ trụ đặc biệt độc lập
không có chuồng rào ngăn giữ. Thí dụ nhƣ Mã ở trong chuồng, cố định không thể phân chia,
Tỉ kiên không dám tranh đuổi. Rất sợ vận bối Tài, đất tam hợp lục hợp, Tỉ kiên thừa cơ ám
cƣớp, dẫn đến họa không nhẹ. Nếu dụng Tài không thấy lộ ra, ẩn ở trong khố, là chỗ đất
ngƣời không thấy. Tỉ kiên mƣu đồ ăn cƣớp, tuy thâm tàng khoá cổng, khó mà bảo vệ không
có hoạ hoạn.

Tài lâm sinh khố phá sinh cung, kiêm phụng lưỡng gia tông tự.
Phàm mệnh lấy Ấn là mẹ, lấy Tài là cha. Tài kiên cố lấy Ấn là nhà, Ấn tất lấy Tài làm chủ.
Nhƣng Tài quý mà Ấn tự vinh, chồng bại thì vợ không có chỗ dựa. Cho nên luận căn cơ cha
mẹ của con ngƣời, tất phải lấy Tài xem là trƣớc tiên. Nếu Tài có cung trƣờng sinh, lại thấy
cục mộ khố. Nhƣng có thần phá chỗ cung sinh, không có phạm ở mộ khố. Thì là trẻ mồ côi
làm con nuôi ngƣời khác, là con bỏ cha theo mẹ vậy. Bởi vì sinh là ban đầu không rõ, đang
thu tàng ở trong khố vậy. Là bỏ thủy theo chung, cho nên biết chỗ này vậy.

Thân tọa Tỉ kiên thành Tỉ cục, phải là vài độ tân lang.


Phàm mệnh không có Thƣơng quan Thực thần, tất nhiên dụng Tài là vợ. Thê cũng thuộc cung
này, là một vị ở dƣới ngày vậy. Nhƣng bị Tỉ kiên chiếm mất lại thấy tam hợp thành cục, trong
năm tháng giờ, thấy Tài tất đoạt. Trụ nếu không có Tài, tuế vận thấy cũng là gặp hoạ, khắc
thiếp thƣơng thê, sao chỉ có 1,2 mà thôi?

Phụ Mẫu một ly một hợp, cần biết Ấn thụ lâm Tài.
Trong trụ có Tài Ấn, chính là thần làm cha mẹ, vị trí không đƣợc đồng cung. Tuy danh là cha
mẹ, thực ra là có ý khắc cƣớp, sao có thể miễn tai hoạ ly gián chứ? Nếu Ấn cùng Tài một
cung liền nhau, mà Tài Ấn đều có đƣợc chân. Sinh Lộc đồng hƣơng, cuối cùng đƣợc tụ hợp
thành gia mà không có ngăn cách vậy.
04-05-16, 12:48
lesoi
Phu thê tùy thú tùy thương, bởi vì Tỉ kiên phục Mã.
Phàm luận Tài là vợ, dụng năm Tài phùng vƣợng, hoặc có sinh trợ tiến khí, nên đƣợc một vợ.
Nếu ở dƣới Tài vốn có phục Tỉ kiên, vì bị Sát thần chế phục, không nguyện ý có cơ thể cƣớp
đoạt. Một khi gặp Tài, lại thấy Thực thần chế Sát. Thì cẩu thả đến đoạt Tài, chỗ vợ khó mà ở
lâu.

Tử vị Tử điền, cô than bá đạo, Thê cung Thê thủ, hiền tài đủ sáng.
Tử, là con là Quan Sát vậy, Tử vị là vị trí ở giờ sinh vậy. Trụ giờ có Tài, cùng dụng khí Quan
Sát sinh vƣợng. Không gặp Hình Hại Cô Hƣ, sau lúc dụng thần không mất, thì có con vậy.
Nếu Quan thất lệnh, lại có Thƣơng quan thần Thực thần là tranh đoạt, đƣờng đến trụ giờ điền
thực, trái lại là có oán than bá đạo. Thê, là vợ là Tài vậy, Thê cung, là vị trí ở chi ngày vậy,
bản cung nếu thấy thê Tài, là đƣợc lập vậy. Không gặp Tỉ Nhận, không gặp hình xung, không
có Đào Hoa ác sát. Đƣợc Thiên Nguyệt nhị Đức quý nhân cùng chỗ. Không chì là anh tài
hiền huệ, mà còn có ánh sáng chiếu đức vậy. Nhập khố Thƣơng quan, âm sinh dƣơng tử.
Bang thân Dƣơng nhận, hỉ hợp sợ xung. Thƣơng quan vốn có âm dƣơng, nên tính có sinh tử
330 | Tam mệnh thông hội

hay không. Phàm Thƣơng quan quy khố, gặp ở tuế vận, đa số là thấy tang vong hoành họa.
Ai không biết ngũ âm Thƣơng quan, trái lại chỗ này là không có linh hồn. Nhận là vật bang
thân, rất sợ thân vƣợng gặp. Đƣợc một Sát trọng, cùng Nhận tác hợp, hóa thành Quyền tinh.
Nếu thấy Quan cùng Nhận xung chiến, là thành Ác sát. Dụng nêu suy xét kỳ khinh trọng, tốt
xấu nhƣ thế nào vậy.

Quyền Nhận phục hành Quyền Nhận, đao dược vong thân.
Tài Quan lại gặp Tài Quan, là vì tham ô mà bãi chức. Quyền, là Sát vậy. Nhận, là binh khí
vậy. Thân vƣợng dụng 2 cái này, là ngƣời xuất thân từ binh hình vậy. Sát vƣợng hỉ hành đất
chế, Nhận vƣợng hỉ hành Sát địa. Nếu vốn có Sát vƣợng, lại hành đất Sát vƣợng, là chỗ kiến
công lập nghiệp, không tránh chết dƣới đao kiếm. Nhận nhiều lại gặp đất Dƣơng Nhận, tiến
lộc đƣợc xứ Tài, tất nhiên cuối cùng cũng ở chỗ ăn bã thuốc. Là do số khiến nhƣ vậy. Tài, là
bổng lộc, là quan lộc vậy. Thân cƣờng gặp 2 chỗ này, là ngƣời danh lợi siêu quần vậy. Phàm
Quan nhƣợc hỉ hành đất vƣợng, Tài vƣợng hành Ấn địa, đều là lúc thành lập phát phúc vậy.
Nếu có Ấn phùng Quan, thì vƣợt quá lộc vậy. Tài vƣợng phùng Tài, thì dƣ bổng lộc vậy.
Quân tử bổng lộc quá dƣ, tất thấy vì tham ô mà bãi chức.
04-05-16, 12:49
lesoi
Lộc đến Trường sinh vốn có Ấn, đảm nhận thanh quan. Mã hành Đế vượng trước không
có tổn thương, hoạn đồ tiến tước.
Vốn dụng Quan tinh suy nhƣợc, không thể xƣng vinh Ấn thụ. Nếu Quan gặp Trƣờng sinh, thì
thấy đặc lập thanh kỳ, mà có tình chiếu cố Ấn. Ấn vốn là vật phù thân, đã thành khép kín
dụng cả ba, ở đây tất nhiên là tiến tƣớc. Vốn dụng Thiên Chính Tài, tuy đắc vị mà thất thời,
cƣ Quan cũng không hiển hách. Tất đợi tuế vận đế vƣợng lâm quan, Tài lấy đủ dụng, chỗ này
tất chạy khoẻ. Nếu không có Tỉ Nhận Thƣơng Kiếp, chỗ này là tăng quan tiến tƣớc, lập
nghiệp dƣ tài, có đủ bằng chứng vậy.

Tài vượng thân suy phùng sinh tức chết.


Tài vƣợng thân suy, lực không thể đảm nhận, ý nếu cùng quên nhau, lại thấy chỗ thủ an
nhiên. Một khi gặp đất trƣờng sinh, cho dù ỷ mạnh mà cẩu thả đƣợc tài vị, mà họa cũng theo
đến vậy.

Nhận cường Tài bạc kiến Sát sinh Quan.


Chỗ này nói dụng Quan suy nhƣợc, mà Tài lại cũng suy yếu. Bởi vì Dƣơng Nhận Kiếp tài,
không thể sinh Quan, thì Quan không có dựa vậy. Nhƣ thấy một vị Thất Sát, hợp Nhận bỏ
Tài, lấy vật tài bệnh. Lấy đủ sinh Quan, Quan tự vƣợng vậy. Học giả xét chỗ này, lại không
thể có, sợ thấy Sát hỗn Quan vậy.
04-05-16, 15:14
lesoi
Tăng Ái phú

Giàu không giàu ở thuần túy, bần không bần ở chiến tranh. Quý không quý ở tú thực, tiện
không tiện ở phản thương.

Văn chƣơng rực rõ, Quý Mã hội ở Học Đƣờng. Tấm lòng to lớn, thủy hỏa hợp với tình tính.
Mƣu sâu lo xa, Đức tinh cƣ ở cung Trầm tĩnh. Nghệ thuật tinh vi, Đế Tọa quán thủ văn
chƣơng. Cát phúc sinh vƣợng Lộc Mã, yểu cầu đủ toàn bộ tinh thần. Khôi Cƣơng có cơ linh
biến, Ly Khảm là cửa thông minh. Quý nhân Lộc Mã nếu gặp, Kiếp Nhận Không vong cũng
331 | Tam mệnh thông hội

xa. Trƣờng sinh khả ái rƣớc lấy Quý nhân, suy bại ghét sợ gặp tiểu nhân. Tứ cung hội tụ loạn,
là ngƣời bất nhân bất nghĩa. Ngũ hành tƣơng sinh, là trung là hiếu. Ấn Lộc ở vị trí hình xung,
tâm loạn thân mang. Ngày giờ cƣ trong Quỷ khố, lo nhiều vui ít. Nhật can vƣợng mà ít tai
hoạ, Tài mệnh suy mà gặp nhiều chông gai. Y thực bôn ba, là do xứ vƣợng gặp khắc. Lợi
danh thành bại, quý địa phùng tổn thƣơng. Họa phúc cả đời, dựa vào ở ngày giờ. Một năm cát
hung, dựa vào ở khí vận. Phúc tinh có khí, mà biến động thăng thiên. Tuế khắc vận hung, mà
ngƣời tan tài tán. Đại vận nguy mà sinh bách họa, lƣu niên cát loại trừ nghìn tai ƣơng. Không
có tuyệt đến vận tuyệt, tài mệnh khuynh nguy. Cầu sinh đƣợc sinh, danh lợi xứng toại. Tam
hợp lục hợp, phùng cát nhiều hung ít. Thất Sát tứ hung, gặp thì họa thâm phúc thiển. Gia
quan tiến chức, định vì năm hội lộc. Điền sản ngày càng tăng, tất là đất hợp Tài. Tuế Quân
xung áp chủ hung tai, đại vận thụ thƣơng biết ít cát. Tuế nên sinh Vận, Vận hỉ sinh Thân. Cả
ba vị tƣơng sinh, một năm toại ý. Tài Quan đều vƣợng, ứng làm quan hiển đạt. Tài Thực đều
vinh, sao lo ở bạch ốc? Lộc nhập đất tụ sinh, có thể biết phú quý. Mã bôn đất Lộc vƣợng, có
thể nói vinh hoa. Muốn lấy giao quan lợi tức, phải biết lục hợp tƣơng phùng. Can giờ mang
Lộc triều nguyên, định chủ an nhiên nhận phúc. Tháng suy giờ vƣợng, tuổi trẻ mập phì. Bản
trọng Chủ khinh, cuối cùng thân phiêu đãng. Thói quen thủ lợi ở chợ búa, tất là vì xứ vƣợng
phùng Tài. Bỗng nhiên hiển đạt thành gia, định là trong Hình kiến Quý. Chủ Bản nắm thời,
đƣợc cõi âm phù trì. Quý Lộc có tình, vì quân tử mà hợp cát lợi. Nam thƣơng Bắc lữ, định vì
thông Mã đạo. Đông phiến Tây trì, tất là lợi vận xe chuyển. Nhật can khốn nhƣợc, Bá Ngƣu
oán than trời xanh. Lộc Mã suy vi, Nhan Tử khó tránh đoản mệnh. Hung không hung ở Nhận,
cát không cát ở can cƣờng. Mã liệt Tài vi, nam đào nữ tẩu. Thiên La Địa Võng, không họa
cũng nhiều tai. Đƣờng cùng phùng Kiếp, nguy hiểm tất phạm tự hình. Tuyệt xứ phùng Tài,
vợ khó ứng cân đối với già. Đại hao Tiểu hao, đa số là vì cờ bạc mà mất nhà. Quan phù Tử
phù, tất chủ có lúc tụng ngục. Hoặc tứ trụ lại gặp tuyệt, tam mệnh hình thƣơng khó tránh hình
phạt tù tội, cuối cùng cũng bị xăm mặt. Nếu phùng Ngũ Quỷ, sét đánh cọp vồ là không sai.
Lại gặp bầy hung sát, đoán định ác ƣơng hoành tử. Nữ nhiều dâm tiện, nam tất xƣơng cuồng.
04-05-16, 15:15
lesoi
Hoặc hỏi tính tình con người, hiền ngu thiện ác.

Trƣớc tiên suy Quý Sát vƣợng suy, mới nghiên cứu cơ xảo linh biến. Tâm cao là Khôi Cƣơng
là họa, tính thuận là Lục Hợp là cát tƣờng. Xem ngƣời phóng khoáng nhàn hạ, gặp sao Hoa
Cái Cô Hƣ. Thế hệ đƣợc nhờ thế lực bá đạo, phạm quyền Thiên Quan Kiếp Nhận. Kiếp Nhận
sinh thô tục keo kiệt, lại lộ ra cơ mƣu hiểm độc. Mƣu lƣợc hơn ngƣời ở Nhâm Quý, uy mãnh
tất Bản ở Bính Đinh. Giáp Ất thuận mà nhân từ đại lƣợng, Canh Tân suy mà quả đoán không
cứng rắn. Gặp Cô tù là không có tinh thần, phá bại ngộ chi đa sơ tiển. Hình chiến là ngu
ngoan, an tĩnh là hiền tuấn. Táo bại là hỏa thịnh, ẩn nhẫn là kim nhiều. Kim thủy nắm lệnh
mà còn tƣơng sinh, hỏa thổ phùng thời mà tƣơng trợ. Không lao tâm mà y thực tự đủ, không
phí lực mà mƣu sinh tự thành. Lại nếu có Đức thần tƣơng phù, định là quê nhà tôn sùng. Lộc
Quý củng vị, tất nhiên dƣơng danh trên đài các. Chỗ lo là phúc không phúc, chỗ sợ là thành
không thành. Phúc hay không phúc, là xứ cát gặp hung. Thành không thành, là cách cục thấy
phá. Tổn thƣơng cách thì tổn thƣơng phúc, phá cách thì rƣớc họa. Thí dụ nhƣ mầm cây gặp
mùa thu khô hạn, mà mùa đông kho thóc hƣ không. Hoa bị sƣơng mùa xuân, mà mùa hạ
không thành quả. Mƣu trí tuy có thừa, bỏ dụng thì không thành. Dẫu có cơ xoay chuyển trời
đất, mà kiến công lập nghiệp không có thành công. Sao không thấy Lệ Sinh nấu nhừ đế
nghiệp, Phạm Tăng ung thƣ sống lƣng. Uyên Minh Đông quay về, Tử Mỹ Tây không còn.
Mạnh Kha không gặp, Phùng Diễn không quay lại. Mãi Thần thiếu củi mà hành ca, Giang
Cách khổ hàn mà ngồi đọc. Bởi vì có mầm mà không nở, nở mà không có quả. Lại gặp
thƣơng bại thái quá, một phúc chẳng qua chỉ là cắt rơm hái củi. Dẫu có bách nghệ đa năng,
khó tránh tật khổ cơ hàn. Khốn ở kênh rạch, khiến cho mệnh nhƣ vậy mà thôi. Ngƣng chìm
332 | Tam mệnh thông hội

không thành, sao nhọc oán than? Muốn hỏi phú quý đều thắng, sao cho phép chứ? Không lớn
ở tƣ cơ, không ở tú thực. Đạt thánh đạt hiền, vô thời thì không có. Rất phú rất quý, từ xƣa đều
nhƣ vậy. Hoặc sinh trong Sát cục, văn cao võ hiển. Hoặc cƣ dƣới quan đái, sự nghiệp đại tài.
Nếu nhƣ chỗ này huyền diệu, làm sao suy đoán? Trƣớc tiên luận ở trong Học Đƣờng, Tam kỳ
Tứ phúc. Thứ khảo sát bên ngoài cách cục, nhất cát nhị nghi. Nhƣ Kỷ Mùi thấy Giáp Tý là
cát tƣờng, Nhâm Thìn thấy Đinh Tị là cát. Nhâm Tý Bính Ngọ, chủ ngƣời phong quang nho
nhã. Tân Dậu Bính Thân, là ngƣời tuấn tú vinh hoa. Âm dƣơng hoàn toàn dựa vào thuần mỹ,
tạo hóa tối hỉ tƣơng sinh. Khó biện Nhật Nguyệt tinh hoa, khó đo Kim đƣờng Ngọc quỹ.
Đƣợc là vinh, gặp là quý.
04-05-16, 15:15
lesoi
Nếu luận hiền ngu tối sáng, chẳng qua là tạo hóa bề trên vui vẻ.

Vật có vinh khô, làm ngƣời sao không có thành bại? Giả nhƣ Phƣợng sinh ra Trĩ, Xà hóa
thành Long. Hoa Lan không đứt ở cỏ cây, khô mộc sinh từ chỗ núi vậy. Trẻ quý già tiện, đầu
khốn sau hanh, đều là do đại vận suy vƣợng, thay đổi dẫn đến phú quý. Cách cục thuần mà
chuyển tạp, khốn đốn tàn thƣơng. Vận hành lúc già mà đắc thời, vãn cảnh ƣu du. Phòng vận
bất trắc gian nguy. Là lấy mùa có xuân có thu, tháng có tròn có khuyết. Thƣờng xem ngƣời
có phúc ấm, bản thân tang mà định buồn chán. Lại thấy ngƣời cày ruộng, một vận thông mà
rất hiển. Tƣớc lộc nhiều năm, bỗng chốc tang thành tro bụi. Đến thời vận, cùng giờ tƣơng
ngộ. Gặp sinh vƣợng, vị tất không có hung. Có tình thông, vô tình thì không thông. Có hợp là
cát, có xung là hung. Quan Ấn lâm Tuế, định biết làm quan tiến triển. Gặp vận Thực Tài, thứ
dân cũng hứa vinh xƣơng. Hoặc có ít vinh dựa vào tổ phụ, nhờ tôn trƣởng mà quý. Lại có rủ
tóc khó khổ, đến già không nơi nƣơng tựa.
Bởi do tứ trụ vƣợng suy, chỗ do đại vận tốt xấu. Sao không thấy mộc khô héo, dù có gặp mùa
xuân vẫn không vinh. Ngọn cây xanh tốt, tuy trải qua gió sƣơng mà không bại. Ngày giờ lại
kém hơn năm tháng, định không có xuống dƣới một chút. Giờ sinh hƣớng về vƣợng khí, về
già tất có phúc. Xƣa có đẽo gọt ngọc, giá trị là liên thành. Thế ngƣời có cô lập, tự thành gia
kế. Nhƣ tôi rèn luyện mà không tổn, sau năm hàn mà không héo. Tiêu Tức diệu ở biến thông,
họa phúc nên khảo sát suy vƣợng. Thứ để ngỏ hầu quân tử, cùng làm gƣơng là may mắn.
04-05-16, 15:16
lesoi
Tiêu Tức phú

( Lạc Lục Tử chú, Dục Ngô cư sĩ giải thích. )

Nguyên Tiên thiên là nhất khí, bẩm thanh trọc là tự nhiên. Được Tam Tài làm thành
tượng, truyền bốn khí để thành năm.
( Tạo hóa vốn từ sơ khai nguyên thủy, là từ chỗ sinh tam mệnh vậy. Tam mệnh lấy can làm
Lộc, gọi là Thiên Nguyên; lấy chi là mệnh, gọi là Nhân Nguyên; lấy nạp âm là thân, gọi là
Địa Nguyên. Chỗ này cổ nhân nhìn thấy tạo hóa, cho nên làm theo thiên địa và thể âm dƣơng,
phối tứ trụ mà thành bát tự. Chỗ này là nghĩa nói đầu của Lạc Lục Tử vậy. )

Lấy Can làm Lộc, Hướng Bối định kỳ bần phú; lấy Chi làm mệnh, nói thuận nghịch theo
tuần hoàn.
( Can nhƣ can mộc, chi nhƣ chi mộc. Nói chung, can dƣơng mà chi âm vậy; phân ra nói, can
chi đều có âm dƣơng vậy. Lộc thập can, gửi trong 12 địa chi, dƣơng đạo thuận hành, âm đạo
nghịch chuyển, đều từ Trƣờng Sinh mà đếm, gặp bản âm lâm quan lấy ở chỗ này. Chỗ này là
dƣơng sinh âm tử, âm sinh dƣơng tử, là lý tự nhiên vậy. Lấy Can là Lộc mà suy, thì có
333 | Tam mệnh thông hội

Hƣớng Bối. Nhƣ Giáp lộc ở Dần, gặp Sửu thì gọi là Hướng, thấy Mão thì gọi là Bối. Cho nên
trƣớc Lộc một thần là Dƣơng Nhận, sau Lộc một thần gọi là Khố Lộc. 《Kinh 》nói: Hƣớng
lộc thì Sinh, Bối Lộc thì Tử. Chỗ này gọi là lấy Hướng Bối định kỳ bần cùng phú ! Còn nói
rõ lấy Chi là mệnh, nói rõ là có thuận nghịch. Nhƣ dƣơng nam âm nữ, từ tháng sinh mà thuận
hành; âm nam dƣơng nữ, từ tháng sinh mà nghịch hành. Con ngƣời chịu nhận khí âm dƣơng
thuận nghịch, ở trong chỗ can chi, xoay vòng tròn, tuần hoàn qua lại, nhƣ vận chuyển hàn
lạnh bốn mùa mà vô cùng tận vậy. Cho nên viết, lấy chi là mệnh, nói rõ thuận nghịch xoay
thành vòng tròn. Đàm Oánh viết: Suy Can Lộc có Hƣớng Bối, nghiên cứu cát hung có nông
sâu. Bối, là nghịch, có thể định là bần; Hướng, là thuận mà biết phú. Nhƣng mà không ở một
đƣờng quỹ đạo, cũng có lúc gặp Bối Lộc mà không bần. Vì vậy, chi làm Nhân Nguyên, vận
đồ đƣợc mất, nữ đƣa nam hứng, chuyển giao tốt xấu, hội cát hội hung, định tác dụng vậy. )
04-05-16, 15:17
lesoi
Vận hành, thì một ngày 10 năm; chính là chiết trừ 3 ngày 1 năm. Tinh hưu vượng cho là
Diệu, cùng thông biến hoá cho là Huyền.
( Trƣớc tiên nói can chi, là định bát tự vậy. Hành vận là tối yếu nhất trong Tam mệnh, cho
nên đứng đầu phép này, con ngƣời dùng chỗ này. Vận hành, thì một ngày 10 năm; Chiết trừ,
chính là 3 ngày một năm. Phép này cổ nhân dùng lập vận vậy. Chiết trừ phải hiểu số thực
lịch, mệnh có tiết khí nông sâu khác nhau, có vận thì sinh thì tiết thay đổi lẫn nhau, trung gian
hoặc là hƣu hoặc là vƣợng, phải cùng bát tự phù hợp. Có Hỷ là sinh vƣợng còn Ác là hƣu bại,
có hợp hƣu bại mà sợ sinh vƣợng, thiên biến vạn hóa, không phải đạt huyền thông Tiêu Tức,
dùng hết cái kỳ diệu của tạo hóa, ai có thể cùng ở đây? Cho nên viết: Hóa mà cắt gọi là Biến,
cắt mà đƣợc gọi là Thông, là đƣợc lý lẽ Thông Biến vậy. Nghĩa cát hung tồn tại chỗ này, cho
nên có thể vi diệu là hàng đầu, là thập toàn thập mỹ. )

Kỳ cũng là khí, tương lai là tiến, thành công là thoái. Như Rắn ở bụi, như Lươn ở bùn.
( Khí, là khí ngũ hành vậy, lan truyền ở bốn mùa. Nhƣ mùa xuân mộc vƣợng, hỏa tƣớng, thổ
tử, kim tù, thủy hƣu, đón lấy lâm quan, đế vƣợng, Tương lai là tiến; lấy Bối là hƣu phế, tử
tuyệt, Thành công là thoái. Khí ngũ hành, tiến thoái xoay vòng, hành vận con ngƣời, thƣờng
cƣ một thần, tƣơng lai đã tiến, vƣợng là thoái, dụng nắm quyền là phúc, dụng không nắm
quyền là vô ích. Nếu khí ngũ hành đã qua là thoái, Rắn Lƣơn đều thuộc loại hoả, hỏa tới tù tử
là thổ, hƣu phế là tro bụi. Ba thú ở trong Tị là Rắn, là Lƣơn, là Giun, cho nên biết Rắn Lƣơn
là hoả, tới từ tù hƣu phế, thì ở bụi ở bùn là thổ tiến mà hoả thoái vậy.

Oánh Hòa thượng viết: Lƣơn, Giun là thuộc loại thủy thổ, cƣ ở bụi nhơ tất là buồn lo. Đằng
Xà là thần tro lửa, làm vui ở xứ nhơ bẩn. Phƣơng lấy loại tụ, vật phân theo bầy, chỗ muốn
thuận là cát; chỗ nghịch là hung, tức là vật có thể xem tạo hóa vậy. Hành vận con ngƣời, tuy
đồng một cung, mà khí có tiến thoái, vị trí không có khác; còn mệnh có sinh tử, thấy kỳ
không thể không tinh hƣu vƣợng, cùng thông biến vậy. Là hiểu thuyết này.)
04-05-16, 15:18
lesoi
Kỳ cũng là có, là theo không mà lập có; Kỳ cũng là không có, trời buông Tượng theo chữ.
( Chỗ này là chính khí ngũ hành rõ ràng, là theo không có mà lập có, cho nên dựa vào thiên
tƣợng ngũ tinh để làm sáng tỏ. Bởi vì, ban đầu vật truyền bá, cái nào là có? Sau Thái Cực, cái
nào là không có, có xuất phát từ cái không có, không có sinh từ chỗ có. Thành tƣợng trời,
thành hình ở đất, gặp biến hóa vậy. )

Kỳ cũng là Thường, lập Nhân lập Nghĩa; Kỳ cũng là Chuyện, có thấy có nghe.
( Ngũ hành, ở trên trời là Ngũ Tinh, ở dƣới đất là Ngũ Nhạc, ở con ngƣời là Ngũ Tạng, mà
334 | Tam mệnh thông hội

đƣợc phát triển là Ngũ Thường, đạo thƣờng đã có lâu đời. 《 Dịch 》 viết: Đạo lập trời, gọi
là âm và dƣơng; đạo lập đất, gọi là nhu và cƣơng; đạo lập con ngƣời, gọi là nhân và nghĩa.
Đạo con ngƣời, không phải nhân và nghĩa thì không thể lập vậy. 《Thư 》 viết: Nhị ngũ sự,
một là nói tƣớng mạo, hai là lời nói, ba là đối xử, bốn là nghe, năm là nhớ. Ngũ thƣờng, ngũ
sự, đều là ngũ hành biến hóa, cùng với nhân sự là tƣơng thông. Tính tình của con ngƣời thành
hay mất, biết động hay tĩnh, đều không thoát khỏi con số này. Hoặc thấy hoặc nghe, nhƣ kim
mộc thủy hỏa thổ là thấy, còn âm thanh Cung Thƣơng Giác Chuỷ Vũ là nghe; tƣớng mạo, lời
nói, nghe nhìn, suy nghĩ là thấy; còn cung kính, mƣu mô, tài ba là nghe. Bởi vì dụng ngũ
hành, rất là không thể thắng hết, không phải vì kẻ sĩ sáng suốt, ai có thể tinh xác mà âm thầm
nhớ chứ? )

Sùng là báu vật, Kỳ là quý vậy. Tướng tinh Phù Đức, Thiên Ất gia lâm; bản chủ hưu tù,
hành tàng ẫn giấu.
( Sùng, là ngƣợc lại với thấp hèn. Kỳ (lẻ), là đối với Ngẫu (chẵn). Vật đã tích lũy mà cao, cao
gọi là Sùng, ở ngũ hành, là trên sinh dƣới vậy. Vật lấy không và ngẫu là kỳ; ở ngũ hành tách
ra chính là bầy vậy. Tướng tinh, là Nguyệt tƣớng vậy. Đức, là Thiên, Nguyệt Đức vậy.
Thiên Ất, là quý thần vậy. Năm sinh là Bản, ngày sinh là Chủ, hƣu tù là nói đối xứng với sinh
vƣợng. Năm, tháng, ngày, giờ sinh mệnh con ngƣời, tứ trụ có ngũ hành, trên sinh dƣới. Có
Tam Kỳ, Ất Bính Đinh lại mang thêm Tƣớng tinh, Đức quý. Chủ Bản ở sinh vƣợng đắc địa,
chỗ gọi là cát tƣớng giao lâm, mà phúc đến thành khánh, chỗ này là mệnh rất quý. Trƣớc có
nói Sùng Kỳ là báu vật quý, sau nói Chủ Bản kị hƣu tù, thấy Sùng Kỳ là khó gặp, lấy Chủ
Bản là thiết yếu, còn nói loại phƣơng thần sát là thứ yếu. Biết mệnh trƣớc tiên là lấy ngũ
hành, sinh vƣợng là thƣợng, Tƣớng tinh Đức quý cộng thần sát là tối cát vậy. Từ viết: Nói
Sùng là lấy Chủ Bản. Phàm trong mệnh thần nắm thọ, nắm Tài, nắm họa phúc, cũng gọi là
Sùng. Kỳ là lấy Lộc Mã mà nói, phàm Tài Quan, Ấn Thực ở trong mệnh, cũng gọi là Kỳ.
Đức là Đức ở chi ngày, Thần là lục hợp vậy. Nhƣ năm Nhâm Dần, tháng Canh Tuất, ngày
Quý Mão, giờ Ất Mão, tháng 9 Tƣớng ở Mão, phù kỳ ngày sinh; ngũ hành tháng 9, kim thổ
lục hợp, Mão Tuất hợp, Ất Canh hợp, Mậu Quý hợp. Ngũ hành nhƣ vậy, đều không ở đất hƣu
bại, là quý. Nghĩa câu phú dƣờng nhƣ không phải. )
04-05-16, 15:19
lesoi
Đến như Câu Trần đắc vị, không thiếu chữ Tín để thành công; Chân Vũ đương quyền,
biết là đại tài mà phân chia thuận lợi.
( Chỗ này đƣa ra thủy thổ, còn lại để ví dụ. Lấy Câu Trần là thổ, ở ngũ thƣờng cũng là Tín.
Thần Chân Vũ chính là thủy, ở ngũ thƣờng cũng là Trí. Tín cũng là đủ để đạt đến Thánh
nhân; Trí cũng là đủ để viết ra Đạo. Dụng ngũ hành, duy nhất là chỗ này. Đắc vị, nhƣ Mậu
Kỷ sinh tháng 7, Mẫu ở đất Tử, Đương quyền, nhƣ Nhâm Quý sinh tháng 7, là Tử ở nhà
Mẫu. Hai vật nhƣ nhau, cho nên đều sinh ra ở thân vậy. Họ Từ lấy Mậu Kỷ tọa lâm Dần Mão,
cùng Hợi Mão Mùi; Nhâm Quý tọa lâm Ngọ Tị, cùng Thìn Tuất Sửu Mùi, dƣới có đủ Quan
Ấn, Lộc Mã, vƣợng tƣớng, mộ khố gọi là Đắc vị đương quyền. Dƣờng nhƣ cùng câu nghĩa là
có nghịch nhau. Không bằng chỉ lấy thổ sinh ở tứ quý, còn thủy gặp ba tháng mùa Đông là
đúng. )

Bất nhân bất nghĩa, Canh Tân cùng Giáp Ất giao soa; hoặc thị hoặc phi, vương quý cùng
Bính Đinh tương úy.
(Lời nói ở trên là Đương quyền đắc vị, thì không có Giao soa, không có Tương úy vậy. Nếu
Giáp thấy Canh, Ất thấy Tân, Bính thấy Nhâm, Đinh thấy Quý, giống nhƣ hai nữ cùng sống
chung, hai nam ở cùng chỗ, không hợp âm dƣơng, không thành hỷ khánh vậy. Canh Tân chủ
Nghĩa, Giáp Ất chủ Nhân, lấy giao nhau, cho nên nói là bất nhân bất nghĩa. Bính Đinh chủ
335 | Tam mệnh thông hội

Lễ, Nhâm Quý chủ Trí, lấy tƣơng úy, cho nên hoặc thị hoặc phi. Nếu Canh hợp ở Ất, Tân
hợp ở Bính, cƣơng nhu cùng đón nhau, gồm đủ nhân nghĩa, không phải là giao soa vậy. Nếu
Bính thấy Quý Quan, Đinh hợp Nhâm lộc, thì thành âm dƣơng tƣơng phối, là Thủy Hỏa ký
tế, không phải là tƣơng úy vậy. Hoặc lấy Giáp Thân, Ất Dậu là bất nhân, Canh Dần, Tân Mão
là bất nghĩa, bởi vì Dần Thân Canh Thân giao soa, Mão Dậu Ất Tân ám chiến; Bính gặp
Nhâm, thì Bính không phải là Nhâm; Đinh phùng Quý, thì Quý không phải là Đinh, Tý Ngọ
cùng nhƣ vậy, Tị Hợi cũng vậy. Phàm 10 gặp một ngày này, mới có thể nói. )

Cho nên bản thân tiên hiền khiêm tốn, xứ tục cầu tiên. Sùng buộng thì định bỏ quan; Quy
đạo, là thủy phủ cầu huyền.
(Nhân nghĩa trái với ở chỗ đƣợc mất, thị phi thƣờng vƣớng ở vinh khô, vì vậy thƣờng dùng
không biết, bèn không có nghĩ ngơi, cho nên nói có bản thân Tiên hiền khiêm tốn, ở xứ tục
cầu tiên, bỏ những thứ yêu thích, ít ham muốn dục vọng cá nhân. Hoặc tôn thờ để diệt hỏa
bốc cao, hoặc trở về lấy bổ ích Thận tinh, giữ lấy tinh thần bên trong, ngoại trừ dối trá xằng
bậy, đạt vật ta không có, minh sắc không cứu cánh, hẳn là vậy. )
04-05-16, 15:20
lesoi
Là biết ngũ hành thông đạo, thủ dụng nhiều cửa. Lý ở hiền nhân, loạn ở bất tài. Thành ở
diệu dụng, bại ở bất lực.
( Đạo không ở không còn, vật không ở không không hợp, ngũ hành biến hóa, thông ở đại đạo,
chỗ nào không nên, thủ dụng không là một, cho nên gọi là nhiều cửa. Nhƣ biết lấy để sữa
định, thì trƣớc tiên phải bắt tay đi tìm. Bản thân không tỉnh ngộ, sao có thể đến chỗ này? Cho
nên ngƣời có đức, có thể hiểu hết lý tính, đạt đến diệu dụng ngũ hành; Ngu là mất, cuối cùng
rồi cũng mê muội., mà không có chỗ đƣợc. Có thể để nuôi lấy phúc, không thể bại để lấy họa.
《Dịch》 viết: Ngƣời không cẩu thả, đạo không uổng đƣợc. )

Kiến bất kiến chi hình, không có thời không có; tư tưởng trừu bất trừu, liên tục muôn đời.
( Kiến bất kiến chi hình, Nhƣ Thập can Lộc ký gửi ở 12 chi, hình có thấy và không thấy
cùng nhau tồn tại ở chỗ này. Giáp lộc ở Dần, rõ ràng Dần là Kiến lộc; không thấy Dần mà
thấy Tuất, vốn lấy Ngũ Tý Độn đến Tuất thấy Giáp Tuất, trở thành Lộc Đƣờng của Giáp, chỗ
này gọi là Bất kiến lộc. Giáp lấy Tân là Quan, Tân lộc ở Dậu, Giáp đƣợc kim kê Dậu, rõ ràng
Dậu là Kiến Quan; không thấy Dậu mà thấy Mùi, lấy Thiên Quan độn Giáp nhập bầy Dê
(Mùi), ở Mùi có Tân, chỗ này gọi là Bất kiến Quan. Tư tưởng trừu bất trừu, nhƣ khí dƣơng
sinh ở Tý vƣợng ở Mão cuối cùng ở Ngọ, khí âm sinh ở Ngọ vƣợng ở Dậu cuối cùng là ở
Hợi, dƣơng sinh thì âm tử, âm biến thì dƣơng hóa, Tý Ngọ chính là âm dƣơng bắt đầu hoá
sinh, cuối cùng là vô cực vậy. Âm cực thì dƣơng sinh, dƣơng cực thì âm sinh, khí từ trong Tý
Ngọ, nói Giáp chen lấn tách ra, xuất nhập chặt chẽ, qua lại bất tận, giống nhƣ sợi tơ liên kết,
nghĩa nhƣ liên tục muôn đời. 《 Thái Huyền 》nói: Kiến bất kiến chi hình, trừu bất trừu chi
tự, là ngày dời tháng đổi, nóng đi lạnh đến, phế rồi lại hƣng, lại ngừng lại vƣợng, một rõ một
mờ, một co một duỗi, liên tục tồn tại, không có lúc nào là không có. Bởi vì âm dƣơng ngũ
hành, có thấy không thấy, có mất không mất, lý lẽ huyền diệu, là cơ phát tiết, không có gì là
không có, không lúc nào không nhƣ vậy, tự có Thiên Địa Nhân đến nay, thì nhƣ vậy, phải
tỉnh ngộ nhƣ thế nào. )

Là lấy Hà Công sợ kỳ Thất Sát, Tuyên Phụ sợ kỳ Nguyên Thần. Nga Mi trình bày theo ba
đời, kẻ sĩ hoàn toàn không nhiều; Quỷ Cốc truyền bá Cửu mệnh, xem tinh sao quy ước.
Nay muốn tập hợp nhiều nhà, có thể phát qua phiến diện, là lấy chưa giải khúc thông,
diệu là cần phải thần ngộ.
( Nguyên Thần, Thất Sát, là đứng đầu hung sát. Mệnh bẩm ngũ hành, hoạ này ai trốn? Thời
336 | Tam mệnh thông hội

xƣa thánh hiền, nhƣ Hà Thƣợng Công, rơi vào cõi tiên vậy; Văn Tuyên Vƣơng, lrất tài ba
vậy, vẫn sợ Nhị Sát, huống chi bề dƣới? Vì vậy, viết sách cứu thế, cát hung họa phúc, nói cho
mọi ngƣời lúc còn manh nha. Nga Mi tiên truyền lại ba đời, không phải không tinh vậy; Quỷ
Cốc Tử truyền bá Cửu mệnh, không phải không thông vậy. Chỉ nói kể huyền hoặc, âm u áo
diệu khó biết, cho nên nói, xem tinh sao mà quy ƣớc, không nhiều kẻ sĩ. Ba đời, là nói Thân
Lộc Mệnh vậy. Cửu mệnh, là hai cung Thân Mệnh, hai vị Lộc Mã, năm sinh, Thai, nguyệt,
ngày, giờ vậy. Lạc Lục Tử tập hợp tham khảo yếu chỉ của nhiều nhà, có bỏ qua thành kiến,
chỉ thấy phát sinh tâm đắc, giải thích nhiều nghĩa chữ “Huyền”, diệu cơ khúc thông, là ở học
giả giác ngộ mà biến thông, vì thế là tốt vậy. )
04-05-16, 15:21
lesoi
Thần xuất từ Lan Dã, Ấu mộ chân phong. Nhập diệu tứ vô huyền hồ, thần du hành không
hóa trượng. Tức là Nhất khí đã ngưng tụ, Tiêu là ngũ hành mà thông đạo.
( Thần là xƣng đối với vua. Lan Dã, là địa danh, ghi từ chỗ xuất ra. Ấu mộ chân phong, là
chí lớn vậy. Huyền hồ hóa trượng, là câu chuyện Hồ Công bỏ cháu đích tôn, ngƣời xƣa
xƣng gọi tên rất hay, ân hận bản thân không có tài năng. Bên ngoài đoạn tuyệt chỗ ham
muốn, bên trong không có chỗ suy nghĩ. Tức là Nhất khí đã ngƣng tụ, Tiêu là ngũ hành đến
chỗ thông đạo, cho nên viết bài Phú này có danh gọi là《 Tiêu Tức 》. Bởi vì tạo hóa có
Tiêu có Tức, cho nên nói nhƣ vậy. )

Càn Khôn lập loài Đực Cái, kim mộc định kỳ cương nhu; ngày đêm đổi nhau là Quân
Thần, lúc Thanh Xích là phụ tử.
( Chỗ này tạo hóa Tiêu Tức là đại quy mô. Càn thuộc dƣơng, là thiên đạo, là quân đạo, là phu
đạo; Khôn thuộc âm, là địa đạo, là thần đạo, là phụ đạo. Càn lấy Động làm thể, gọi là Ích Hộ
( mở cửa); Khôn lấy Tĩnh làm thể, gọi là Hạp Hộ (đóng cửa). Càn Khôn lập âm dƣơng, giống
đực hợp với giống cái, cả hai cấu kết nhau, vì thế ngũ hành biến hóa ở trong đó vậy. 《Dịch
》lấy Càn Khôn, đúng nghĩa nhƣ vậy. Nhân là nhu Nghĩa là cƣơng, chủ chỗ tính tình của kim
mộc. Một âm một dƣơng, cƣơng nhu đẩy nhau. Chỉ có cƣơng mà không có nhu, thì không thể
sinh biến; chỉ có nhu mà không có cƣơng, thì không thể sinh hóa. Ban ngày là cƣơng, sinh
biến để tiến, ban đêm là nhu, sinh hóa để thoái. Tích tụ cƣơng nhu mà thành biến hóa, theo
ngày đêm mà thành tiến thoái. Ban ngày là dƣơng theo tƣợng là Quân (vua); ban đêm là âm
theo tƣợng là Thần (bề tôi). Đạo ngày đêm, là kỳ có Tiêu Tức; kỳ có đƣợc Doanh (đầy) Hƣ
(trống rỗng); kỳ có phân chia âm u sáng tỏ; kỳ có số sinh tử. Một Thái (tốt) một Phủ (xấu),
một Tổn (giảm) một Ích (tăng). Bởi vì giữa nhau có chung thủy, mới cũ thay đổi lẫn nhau,
dẫn đến vinh nhục, tự đến phúc lộc, nếu không có cũng nhiều căn nguyên nhƣ vậy. Thần ngũ
hành gọi là Đế, Đông phƣơng Thanh Đế là cha; sinh phƣơng Nam Xích Đế là con. Lý lẽ
Thanh, Xích, là cha truyền đạo cho con vậy. Nói trong âm dƣơng ngũ hành, có đạo Quân
Thần, Phụ Tử, Phu Phụ tồn tại ở chỗ này. Nội dung chính là tạo hóa, là thông đạo luân lý làm
ngƣời vậy.)

Không thể chỉ tuân thủ một đườn, không thể một lý mà suy. Thời có Đông gặp viêm nhiệt,
Hạ có lúc cỏ gặp sương; loài có Âm Thử tê băng, Thần Quy túc hoả.
( Chỗ này là nói đạo âm dƣơng ngũ hành, kỳ diệu khó thông, bí ẩn khó lƣờng, không thể chỉ
tuân thủ một đƣờng, một lý mà suy. Nhƣ đông hàn hạ nhiệt, chỗ này là lý thƣờng tình, là
chính thời vậy. Nếu Đông gặp viêm nhiệt, Hạ cỏ gặp sƣơng, thì không phải thời (Thời là thời
tiết) vậy. Không phải thời kỳ mà hành lệnh, là có thể trói buộc lẽ thƣờng chăng? Thử (Chuột)
hỏa Quy (Rùa) băng, chỗ này có lý, thích hợp với loài vậy. Âm Thử tê băng, Thần Quy túc
hoả, là không phải loài vậy. Chỗ không phải loài mà ở, là có thể luận một đƣờng chăng?
Thƣờng dễ nghiên cứu, bất thƣờng thì khó cùng, tạo hóa sao dễ nói chăng? Ngƣời Trâu (tên
337 | Tam mệnh thông hội

quốc gia thời Chu, nay ở vùng huyện Trâu, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc) thổi luật, mà hàn
cốc hồi xuân; hiếu phụ hàm oan, mà tháng 6 sƣơng bay, từ xƣa đến nay ghi lại thiên tai, loại
này quá nhiều, không thể nói âm dƣơng ngũ hành không thay đổi vậy. Lông Hoả Thử, se lại
thành vải bố; mỡ băng tằm, giẫm đạp mà làm tấm thớt, chỗ này là biết thời đại vậy. 《 Thần
Dị Kinh viết: Bắc phƣơng có tầng băng vạn dặm, dầy cả trăm trƣợng, có con chuột nặng vạn
cân, lông dài hơn cả thƣớc, chỗ này ẩn giấu ở trong, chính là Âm Thử tê băng vậy. 《 Nhĩ
Nhã 》 viết: Một ngày Thần Quy, 10 ngày Hoả Quy. Quách Phác nói giúp: Trời sinh ra thần
vật, các loài Quy (con Rùa), có thể chơi với lửa, là Thần Quy túc hoả vậy. Từ Tử Bình chỉ ra
Đông Chí Nhất Dƣơng sinh, Hạ Chí Nhất Âm sinh, chính là Đông phùng viêm nhiệt, Hạ thảo
tao sương. Lấy Quý lộc ở Tý làm nhân nguyên, Bính lấy Quý làm Quan Ấn; Mậu lộc ở Tị là
nhân nguyên, Quý lấy Mậu làm Quan Ấn, là Âm Thử tên băng, Thần Quy túc hoả, e rằng
không phải nghĩa của Phú.)
04-05-16, 15:25
lesoi
Là lấy Âm Dương hãn trắc, chí vật nan cùng. Đại để tam đông ít nóng, mùa hạ dương
nhiều. Họa phúc hữu nhược kỳ tường, thuật sĩ hi kỳ bát cửu.
(Đoạn văn trên nói Đông nhiệt Hạ sƣơng, băng Thử hỏa Quy, không phải là âm dƣơng
thƣờng lý, loài vật cảm xúc lẫn nhau, cho nên nói Hãn trắc nan cùng. Chỗ này phản chiếu
phá tan đoạn văn ở trên, nói mùa có đông phùng viêm nhiệt, đại để là ba tháng mùa đông
ngày tất thiếu vậy; hạ thảo tao sƣơng, đại để mùa hạ dƣơng tất nhiều vậy. Hàn thử đã có
thƣờng kỳ, âm dƣơng có thể lén nhìn áo diệu, hoạ phúc lúc này lấy lý suy, hiển cát tƣờng lấy
loài đáp ứng. Thuật sĩ chuyên môn luận tam mệnh, ngũ hành, hành niên tuế vận, gặp vận
vƣợng tƣớng đắc vị là Thái (tốt), thoái vận hƣu tù thất vị là Phủ (xấu). Chỉ nói thông thƣờng,
khát khao có thể đạt đến đƣợc 8, 9 vậy. Nhân mệnh ứng hành niên, tuế vận, họa phúc, nếu
nhƣ cát tƣờng thay đổi, đếm vật khó tận, ép buộc thuật sĩ, trong 10 phần, chỗ này lý cũng khó
hi vọng đạt đến 8,9. Bởi vì thiên địa không có bảo toàn công lý, huống chi ở ngƣời chứ?
Cũng thông vậy. )

Hoặc nếu sinh phùng đất hưu bại, trẻ tuổi cô cùng; về già gặp đất kiến vượng, lâm tuổi
dừng lại. Nếu là đầu hung sau cát, lấy nguyên trọc mà lưu thanh; đầu cát cuối hung, loại
căn ngọt mà đời sau đắng.
(Thân tuy theo vận, tất giả vận để giúp thân, thế phải đúng thời, cũng giả thời mà thừa thế.
Sinh phùng tuế cƣờng, vận phù hợp ở xứ đất vƣợng; về già gặp năm suy, vận đúng thích hợp
ở đất vây khốn. Chính là tùy theo tiêu tức phù hợp, giống nhƣ hƣu vƣợng. Tuổi trẻ ngƣng
diệt, mà về già hƣng long, gọi là Nguyên trọc lưu thanh vậy. Tuổi trẻ kiến vƣợng mà về già
không nơi nƣơng tựa, gọi là Căn ngọt mà đời sau đắng là vậy. Nếu là đo lƣờng vận khí,
nghiên cứu kĩ căn nguyên, trƣớc xét căn cơ dầy mỏng, kiêm hiểu vận hạn thủy chung. Tuy
nói bách phát bách trúng, cũng có thể hi vọng đƣợc 8,9 phần. Đại để nhân mệnh, lập năm là
vua. Kỳ Thai, tháng, ngày, giờ, theo thứ tự trở xuống. Cho nên viết, lấy tứ trụ là Quân phụ
(vua cha), là chủ tể cát hung, mà lập kỳ Niên (năm) vậy. Hiểu bản khí vận, suy nền tảng thực
hƣ, mà thủ kỳ Nguyệt (tháng). Xem điềm an nguy, xét căn ngọt đắng, mà thủ kỳ Nhật (ngày).
Định gốc quý tiện, quyết kỳ sinh tử, mà thủ kỳ Thời (giờ). Mới phân ấu ấm (phúc ấm lúc trẻ),
nghiên cứu lập tiền, mà thủ kỳ Thai (Thai nguyên). Nguyệt quản Sơ chủ (đầu), Nhật quản
Trung chủ (giữa), Thời quản Mạt chủ (cuối), Niên là tổng quản. Cần phải gộp đủ đầu cuối,
tƣơng ứng trƣớc sau, thì phú quý lƣỡng toàn, tài lộc song hiển. Không có khác đầu cát cuối
hung, đầu hung cuối cát cậy, nhƣng mà không dễ có đƣợc vậy. Hoặc chỉ có giữa cuối hƣng
long, cũng có thể trở thành thực mệnh. )
04-05-16, 15:25
lesoi
338 | Tam mệnh thông hội

Quan hồ manh triệu, Sát dĩ kỳ nguyên, Căn tại Miêu tiên, Thực tòng Hoa hậu.
(Thuyết đàm mệnh, lấy Thai là rễ, lấy tháng là mầm, lấy ngày là hoa, lấy giờ là quả. Nghiên
cứu rễ có thể biết mầm, thấy hoa sau đó biết quả, là thánh nhân xem lấy điềm báo trƣớc, thấy
ở lúc chƣa manh nha (phát sinh), tức là xét căn nguyên, thì biết giống nòi vậy. Từ viết: Muốn
biết cát hung ở bên trong vận, trƣớc tiên xem căn nguyên thắng bại. Căn nguyên có quý, thì
vận lâm quý là tất quý; căn nguyên có tài, thì vận lâm tài mà phát tài; căn nguyên có tai, thì
vận lâm tai là sinh tai. Lời nói này cũng hiểu thông.)

Thai sinh nguyên mệnh, tam thú định tổ tông; Luật Lữ Cung Thương, Ngũ Hổ độn luận
kỳ thành bại.
(Chú: Ống luật Lữ: làm bằng trúc, dùng để hiệu chỉnh âm thanh cao thấp trong âm nhạc, sau
dùng từ 'Luật Lữ' để gọi chung về âm luật)
(Thú có 36 vị, chi xếp 12 thần. Thứ tự mà phân bố, 1 thần 3 thú. Ngƣời Tý có Chuột Dơi
Chim, ngƣời Sửu có Trâu Cua Cá Sấu, ngƣời Dần có Hổ Hồ ly Báo, ngƣời Mão có Thỏ Mèo
Chồn, ngƣời Thìn có Rồng Thuồng luồng Cá, ngƣời Tị có Rắn Lƣơn Giun, ngƣời Ngọ có
Ngựa Hƣơu Nai, ngƣời Mùi có Dê Chim Ƣng Nhạn, ngƣời Thân có Khỉ Vƣợn Tinh tinh,
ngƣời Dậu có Gà Quạ Trĩ, ngƣời Tuất có Chó Sói Sài, ngƣời Hợi có Heo Thỉ Thê (giống nhƣ
heo rừng)《 Ngưng Trùng Tử nói: Tƣợng thần tức là Thiên Lục, chủ đại phú quý; Không
phải Tƣợng thần, là Thiên Vân không lộc. Cụ thể lấy hình thần, đoán tính khí. Thai sinh
nguyên mệnh, nhƣ nói ngƣời sinh Giáp Tý, sinh tháng Quý Dậu, Thai nhập Giáp Tý, là đúng
nguyên mệnh. Lại nhƣ ngƣời sinh Ất Sửu kim, tháng sinh Kỷ Mão, Thai phùng Canh Ngọ
thổ, là thổ sinh kim. Hai thuyết hợp lại xem, ý không xa lắm. Hoặc viết: Lấy năm thủ tháng,
lấy tháng thủ Thai, xem 3 chỗ đƣợc loài, gọi là Tam Thú. Có hay không có Thôn đạm thƣơng
hình, thì có thể định xuất xứ tông môn.
Dương lục là Luật, Âm lục là Lữ, ngũ âm gọi chung là Luật Lữ. Luật Lữ hợp nhau, phân chi
định can, ngũ hành hợp là ngũ âm, là do Giáp Kỷ Cung thổ độn khởi Bính Dần, Ất Canh
Thƣơng kim độn khởi Mậu Dần, Bính Tân Vũ thủy độn khởi Canh Dần, Đinh Nhâm Giác
mộc độn khởi Nhâm Dần, Mậu Quý Chuỷ hỏa độn khởi Giáp Dần. Ngũ âm (là năm bậc âm
giai cổ xƣa: Cung, Thƣơng, Giác, Chuỷ, Vũ, cũng gọi là Hợp, Tứ, Ất, Xích, Công) khởi từ
Dần, Dần là đầu 12 tháng, đứng đầu nhị lục thì chi thủ dã. Thành bại cát hung con ngƣời, là
bắt đầu từ chỗ này. )
04-05-16, 15:26
lesoi
Không hợp có hợp, hậu học khó biết. Được một phân ba, tiền hiền không ghi.
(Đạo lập ở 2, thành ở 3, biến ở 5, mà số thiên địa, xếp đủ 10 vậy, là số chẵn mà thôi. Không
hợp có hợp, nhƣ Giáp và Kỷ hợp, trụ không thấy Kỷ mà gặp Ngọ, bởi vì trong Ngọ có Kỷ
lộc. Dần và Hợi hợp, trụ không thấy Hợi mà gặp Nhâm, bởi vì trong Hợi có Nhâm lộc. Lại
nhƣ, Dần Ngọ Tuất hợp, trụ không thấy Dần mà gặp Giáp, bởi vì trong Dần có Giáp lộc.
Được một phân ba, nhƣ Giáp gặp Kỷ là nhất hợp, gặp Ngọ là nhị hợp, gặp Hợi là tam hợp,
chỗ này chính là đƣợc một lộc mà phân ba lộc. Cùng ở trƣớc có nói Kiến bất kiến chi hình,
trừu bất trừu chi tự, lý là quán xuyên nhau vậy. Lý Hƣ Trung luận can chi hợp toàn cách: 5 vị
Niên, Nguyệt, Nhật, Thời, Thai, có thể hợp toàn can chi, nói Tý thì ở Sửu, nói Dần thì ở Hợi,
nói Giáp thì ở Kỷ, nói Ất thì ở Canh. 5 vị Can Lộc, nhƣ mang Giáp Ất Bính Đinh Mậu, tự
nhiên khởi hợp Kỷ Canh Tân Nhâm Quý. 12 chi nếu mang Dần Mão Thìn Tị Ngọ, tự nhiên
khởi hợp Mùi Thân Dậu Tuất Hợi, hoặc ở Tý Sửu Mùi có thêm Lộc Mã, thì thập can thập nhị
chi đều hợp đủ vậy. Từ viết: Không hợp có hợp tức là các loại nhƣ Hình hợp, Sửu Tý diêu Tị
cách, đƣợc một, đã thấy có Dần hình Tị, Sửu phá Tị, mà Bính Mậu bị hình phá mà xuất ra, thì
liền phân ra ba mà đƣợc, là tam hợp Tị Dậu Sửu vậy. Cổ dụng viết: Hổ sinh bôn Tị Trư Hầu
tẩu, Dương kích Trư Xà tự nhiên vinh. Giải thích nhƣ vậy cũng hiểu thông. )
339 | Tam mệnh thông hội

Niên tuy phùng ở Quan đái, còn có dư tai; đầu vận đến ở đất suy, vẫn mở ra tiên phúc.
(Niên, là Thái tuế vậy. Vận, là đại vận vậy. Niên tuy phùng ở Quan đái, vẫn còn dƣ tai gặp
bạo bại; Vận tuy đến ở đất suy, vẫn còn mang tiên phúc quan vƣợng. Chỗ này nguyên do
hành vận có thuyết 5 năm trƣớc sau, nghĩa văn hai câu qua lại là có thấy lẫn nhau. )

Đại đoạn Thiên Nguyên suy nhược, cung cát chưa đủ lấy là vinh, Trung Hạ hưng long,
quẻ hung không thể thành kỳ xấu.
(Thiên Nguyên, là thập can vậy. Can lấy sinh vƣợng là vinh, nếu suy bệnh tử mộ tuyệt, thì
thiên can suy nhƣợc, dù chỗ lâm cung phần có cát. Nhƣ đƣợc loại Tài Quan, Tƣớng tinh,
Thiên Ất, cũng chƣa đủ lấy là vinh. Trung, là địa chi vậy. Hạ, là nạp âm vậy. Trung Hạ đều
lâm đất ngũ hành hƣng vƣợng, dù bát quái phân định là hung, cũng không thể dẫn đến tai
hoạ. Từ viết: Phàm mệnh, Thiên Nguyên lâm đất Tài Quan, mà sinh ra không đắc thời, bản
khí suy nhƣợc, ngũ hành trên dƣới, hƣu vƣợng lại không cứu nhau, dù cung gặp Lộc Mã là
cát, cũng không đủ lấy là vinh. Nhƣ lấy Canh Tân sinh ở mùa xuân, vị trí khác có hỏa khắc
kim, kim thấy Dần Mão Giáp Ất là Tài, bởi vì mộc gặp hoả vƣợng hại kim, mà kim lại không
đắc lệnh, tuy cung thuộc Tài cát, mà lại phát hung họa là vậy. Trung, là Nhân nguyên. Hạ, là
chi nguyên. Nhƣ Đinh lấy Nhâm là Quan Ấn, Trung Hạ có Lộc Mã kiến vƣợng thành khánh,
tuy hỏa lâm tuyệt địa, trung hạ lại nhận quý. Thành giám viết: Lộc tuy tuyệt mà kiến quý.
Đào Chu nói: Tuyệt lộc vong Tài, không là điềm hung vậy. Hoặc lấy nhất cát tam sinh thuộc
Cửu cung, ngũ quỷ tuyệt mệnh thuộc Bát quái. Cũng hiểu. )
04-05-16, 15:27
lesoi
Nếu gặp tôn hung ti cát, cứu cũng vô công; tôn cát ti hung, phùng tai tự khỏi. Lộc có tam
hội, Tai có ngũ kỳ.
(Lập năm là Tôn, mƣợn Thai, Nguyệt, Nhật, Thời lấy thứ. Đại vận là tôn, mƣợn thời kỳ 6
tuổi, tiểu vận làm thứ. Nếu gặp bản mệnh cùng đại vận đất đức hợp ở kiến vƣợng, kỳ tuế vận,
nhật, thời hung mà không thể là hung. Đại vận cùng bản mệnh tranh chiến ở đất tử tù, kỳ tuế
vận nhật thời, cát mà không đủ là cứu. Cho nên viết vậy. Lộc có tam hội, là trƣờng sinh, đế
vƣợng, khố vậy, là đất rất cát. Tai có ngũ kỳ, là suy, bệnh, tử, bại, tuyệt, là đất rất hung. Bởi
vì nói Lộc là đối xứng với Tai, lộc không phải là can lộc, nên linh hoạt mà xem. Học giả ngày
nay, cứ đƣa ra lấy tam hợp, mà lấy kim phùng Tị Dậu Sửu, mộc cƣ Hợi Mão Mùi, hỏa gặp
Dần Ngọ Tuất, thủy gặp Thân Tý Thìn, thì cho là lộc có tam hội, không phải vậy. Từ viết:
Lấy nội ngoại tam nguyên trong bát tự, có đắc lực nhất là tôn, tức là dụng thần vậy. Dụng
thần không thể tổn thƣơng, nhƣ có tổn thƣơng, thì cho dù cát ở vị trí khác, cũng không thể
cứu. Nếu năm tháng ngày giờ, nội ngoại tam nguyên tuy có khắc chiến, nhƣng không tổn ở
tôn, tức là phùng tai tự khỏi vậy. Lại cấp thiết chỗ tiêu tức tổn thần, chủ cát hung ở đâu, hại
mệnh thì thân tai, hại thê thì thê tai, hại quan thì quan mất. Nói có lý, nhƣng chữ Tôn Ti ít
hiểu. )

Hung nhiều cát ít, loại như hào đầu Đại Quá; phúc thiển họa thâm, như hào 5 Đồng
Nhân.
(Mệnh hung nhiều cát ít, là hƣu tù vô khí, cho nên không hợp ở chỗ dụng. Có loại hào đầu
Đại Quá, là nói Hào từ, hào sơ lục, rõ ràng là mƣợn dùng, không có. Lục âm nhu, mới không
có Quá Nhân, hào đầu ở dƣới, không phải lúc đầy hứa hẹn, có thể ở ẩn mà trốn tránh, đạo
cảnh giác ngƣời cẩn thận vậy. Phu Tử viết: Thận, là tƣ thuật vậy, ngày xƣa, không có chỗ
nào mất vậy. Chính là ý này vậy. Mệnh phúc thiển họa thâm, là lấy ngũ hành tƣơng khắc mà
vô khí, cũng không nên mƣu vọng tiến dụng, thí dụ nhƣ hào 5 ở trong quẻ Đồng Nhân nói:
Hào Đồng Nhân khóc trƣớc, mà sau cƣời, đại sƣ gặp nhau khắc. 《 Tƣợng 》 viết: Trƣớc
Đồng Nhân, lấy thẳng giữa vậy. Có thể thấy đƣờng thẳng khó đi, ý là cảnh giới con ngƣời lấy
từ khắc vậy. )
340 | Tam mệnh thông hội

Nghe hỉ không hỉ, là Lục Giáp Khuy (thiếu) Doanh (đầy); lúc lo không lo, dựa vào ngũ
hành cứu trợ.
(Nghe hỉ, là nói lấy đầy. Doanh, là ích vậy. Không hỉ, là nói lấy thiếu. Khuy, là tổn vậy. Đạo
Tổn Ích, là từ Lục Giáp mà suy, hoặc lấy Không Vong là thần thiên địa hƣ thoát. Mệnh lục
dƣơng sợ ở cung dƣơng, mệnh lục âm sợ ở cung âm, tuế vận hành niên gặp Lộc Mã Quý
nhân, mà ở Không Vong, ngũ hành khuy doanh chế lẫn nhau, gọi là nghe hỉ không hỉ vậy.
Lúc lo không lo, là ngũ hành ở xứ hƣu phế phùng sinh, nhƣ mộc đƣợc Giáp Thân Quý Tị
vậy. Giả nhƣ ngƣời Mậu Thân đƣợc Đinh Dậu, hung bạo đánh ngƣời tự hình. Đinh Dậu là
hỏa tử, hóa hoả là thổ, đạo Tử truyền Mẫu, ngƣời Giáp Dần đến vận Thân, xung hình phản
ngâm, Lộc Mã đều tuyệt, là chỗ chế vƣợng kim, độn thấy Nhâm Thân là can cứu. Thần thuật
nói: Tuyệt xứ phùng phụ mẫu, biến tai thành phúc là vậy. Tôi thấy ngũ hành Lục Giáp, nói
hoặc nguyên mệnh bát tự có khuy, có doanh, có cứu, có trợ, hoặc hành vận lƣu niên có khuy,
có doanh, có cứu, có trợ, không thể chấp định. Khuy Doanh, là nói hoặc cát hoặc hung vậy.
Cứu trợ, là nói chế hung phù cát vậy.)
04-05-16, 15:28
lesoi
Bát Cô lâm ở Ngũ Mộ, Tuất Mùi đông hành; Lục Hư ở dưới Không Vong, tự Càn nam
thủ.
(Trong tuần Giáp Tý, Tuất Hợi là Không Vong, đối xung là Lục Hƣ, là Thìn Tị vậy. Lấy ví
dụ Tuất Hợi là vị trí Càn kim, ở cực Tây góc Bắc, Giáp Tuất Giáp Thân, tự thủ cung Càn, cho
nên Dần Thân Tị Hợi đất Tứ Cô, Thìn Tuất Sửu Mùi là đất Ngũ Mộ, hƣớng Tuất Mùi mà
đông hành, thuận Không Vong mà nghịch chuyển. Hoặc lấy Bát Cô, trừ Thìn Tuất Sửu Mùi
là ngũ hành mộ, còn lại thần Bát Âm, Cô Hƣ, Cô lâm ở mộ. Nhƣ ngƣời Thân Dậu, Cô Thần ở
Hợi, còn Quả Tú ở Mùi. Ngũ hành Mộ, gửi ở trong 4 khí, khí đều theo từ Nguyệt kiến mà ra.
Tuất và Mùi hành đông, là mộ của hỏa mộc, mộc sinh từ Hợi, hỏa khởi từ Dần, khí hỏa mộc,
đông hành đều thủ từ Dần, mà cuối cùng tàng ở Tuất Mùi mộ. Nhƣ ngƣời sinh Ất Sửu, lấy
Hợi là Lục Âm chính Không Vong, Hợi xung Tị là Lục Hƣ, Hợi là quẻ Càn, Tị là cung Tốn.
Tị là thần thủ nam phƣơng, cho nên nói Lục Hƣ ở dƣới Không Vong. Cô đã đông hành, Hƣ là
tây hồi, cả hai thƣờng đối nhau. Chỗ này tổng luận tên thần sát ở trong 12 chi, thuận đạo xoay
vòng, Cô Hƣ Không Vong Ngũ Mộ, là tối yếu trong nhân mệnh vậy.)

Thiên Nguyên nhất khí, định hầu bá thiên vinh; Chi làm Nhân nguyên, vận thương đồ nhi
được mất.
(Lấy Can là Lộc, cho nên Thiên Nguyên thanh tú, cát tƣớng gia lâm, ngƣời gặp là quý vậy.
Lấy chi là Mệnh, cho nên chi nguyên thuần túy, tứ trụ tỉ hòa, ngƣời gặp là phú vậy. Chỗ này
là thiên địa phân chia, can chi phân biệt vậy. Thiên Nguyên nhất khí, không phải nhƣ nhau,
nay chỗ đàm mệnh, lấy tƣợng thiên can, cho nên nói Nhất khí. Là nói chỗ Thiên can lộc vậy.
Lộc cần kèm theo Thiên Đức Quan Ấn Quý Thực, ngũ hành trong tứ trụ, kiêm đắc khí sinh
vƣợng là rất quý. Xƣa nhà Thƣơng, tƣờng lấy Nhân nguyên. Định tài vật đƣợc mất, phải xem
có khí, vô khí, phải xét tiến thần, thoái thần, cho nên đoạn văn dƣới nói: Tài mệnh hữu khí.
Tài tuyệt mệnh suy. Còn nói đối với định vận, định là quyết định, vận là lƣu chuyển, nghĩa
đều có chỗ lấy vậy. )

Nếu xem Tài mệnh hữu khí, phùng bối lộc mà không bần; nếu cũng Tài tuyệt mệnh suy,
dẫu có Kiến Lộc mà không phú.
(Sinh mệnh con ngƣời lấy Tài mệnh làm chủ, ngũ hành chỗ khắc, gọi là TÀI. Hữu khí, ;à nói
Tài và mệnh đều đƣợc ở đất ngũ hành sinh vƣợng, tuy tứ trụ bối lộc, khiến cho không có
Quan, cũng không đến nỗi bần tiện. Nếu mệnh và Tài đều vô khí, tuy đƣợc tháng Kiến Lộc,
có khiến cho tiểu quan, cũng không thể dến chỗ phú quý. Giả nhƣ Canh Dần mộc khắc Bính
341 | Tam mệnh thông hội

Tuất thổ là Tài, thổ vƣợng ở Tuất, thân mệnh nhị mộc đến đông nam, Tuất tuy bối Thân Canh
Lộc, vì Tài mệnh có khí, cho nên không bần. Lại nhƣ ngƣời sinh Giáp Thìn hoả, đƣợc Bính
Dần hỏa, lấy kim là Tài, tuyệt ở Dần, Thìn thổ đến Dần là mệnh quỷ, kiêm thông Không
Vong, là Tài tuyệt mệnh suy, tuy nguyệt kiến tọa Lộc, vì Tài mệnh vô khí, cho nên không
phú. Trƣớc có nói lấy can làm lộc, hƣớng bối định kỳ bần phú, bởi vì chỉ 2 cung Tài Mệnh,
đều nên vƣợng địa. Không những bát tự, hành vận cũng vậy. Từ nói: Vì Tài Mệnh hữu khí,
nhƣ Giáp Ất kiến tháng Tị Ngọ, Kiến Lộc bất phú, nhƣ Giáp Ất sinh tháng Dần Mão. Nên
hợp lại xem. )

Nếu là Thân vượng Quỷ tuyệt. Tuy phá mệnh mà sống thọ; Quỷ vượng Thân suy, phùng
kiến mệnh mà yểu thọ.
(Phá mệnh sống thọ, là lấy bản mệnh vƣợng cung phùng Quỷ tuyệt vậy. Nhƣ hỏa ở cung Tị
gặp thủy, mộc cƣ đất Dần phùng kim, thổ hƣớng đất Thân gặp mộc, kim quy về Hợi phùng
hỏa. Phùng kiến mệnh mà yểu thọ, là lấy bản mệnh ở đất suy mà gặp Quỷ vƣợng vậy. Vì thổ
đến trong Dần thấy mộc, hỏa quy về đất Hợi phùng thủy, kim ở đất Tị gặp hỏa, hỏa cƣ ở
Thân gặp kim, đều thủ lấy nạp âm. Lý ngũ hành thụ chế là yểu, chế vật là thọ. Xƣa nói: Kiến
mệnh chủ thọ dài, phá mệnh chủ yểu thƣơng. Cho nên Trúc Luân Kinh nói: Kiến mệnh chƣa
hẳn thọ dài, phá mệnh chƣa hẳn yểu thọ. Chỗ này là do Lạc Lục Tử tiêu tức vậy. Thiên
Nguyên luận quý, Nhân nguyên luận phú, Tài Mệnh luận bần phú, Thân Quỷ luận thọ yểu,
đều chỉ ra một lần mà nói vậy. )
04-05-16, 15:30
lesoi
Bối Lộc trục Mã, thủ đường cùng mà thê lương; Lộc Mã đồng hương, không Tam Thai
cũng Bát Tọa.
( Chú thích: Tam Thai 三台 sao Tam-thai. Sách thiên văn nói sao ấy nhƣ ngôi Tam-công 三
公, cho nên trong thƣ từ tôn ai cũng gọi là thai. Nhƣ gọi quan trên là hiến thai 憲台, gọi quan
phủ huyện là phụ thai 父台, gọi các ngƣời trên là thai tiền 台前 đều là theo cái nghĩa đó; Bát
toạ cũng vậy, ý chỉ quan lớn)
(Lộc, là tƣớc lộc vậy. Mã, là xe ngựa vậy. Nhân mệnh coi trọng Lộc Mã, cho nên trƣớc có
nói, Lộc Mã đều có thể dẫn đến phú quý. Nhƣ Lộc bối (quay lƣng) mà đi, Mã trục (xua đuổi)
mà tán, cả hai đều mất, cho nên lấy đƣờng cùng mà thê lƣơng. Bối, nhƣ âm dƣơng nghịch
nhau, không phải cái gọi là Hƣớng vậy. Trục, nhƣ rƣợt đuổi tan rã, không phải cái gọi là
Truy tìm vậy. Nhƣ ngƣời Quý Hợi gặp tháng giêng Giáp Dần, Quý lộc ở Tý, lấy Dần là bối;
Lộc Mã ở Tị, lấy Dần hình; trƣớc vì bị hình mà đuổi ngựa đi, sau vì bối mà không thể cập
lộc, Mã ở phía trƣớc, Lộc ở phía sau, đuổi ngựa về phía trƣớc, lộc lại không đến, chờ lộc ở
phía sau, ngựa lại xa dần, chỗ này đúng là xung Lộc cản Mã trái ngƣợc với Lộc Mã đồng
hƣơng. Dụng nhật can độn Lộc, can giờ độn Mã, vốn tìm Ngũ Tý độn, thì có thể biết. Giả nhƣ
ngƣời Canh Ngọ, đƣợc ngày Nhâm Thìn, giờ Đinh Mùi, thì Đinh Nhâm lấy Canh Tý độn đến
Mậu Thân, bởi vì Canh lộc Ngọ mã cùng ở trên Thân, cùng bản mệnh gặp nhau càng tốt. Lại
nhƣ ngƣời Giáp Thân, tháng Đinh Sửu, ngày Kỷ Hợi, giờ Bính Dần, giờ sinh ở trên Đế Tọa,
hội cùng Lộc Mã kiêm Giáp Thân, Kỷ Hợi, Bính Dần đều nhận ngũ hành thanh vƣợng sinh
khí, cho nên ứng gặp về già có phi thƣờng, cho nên vị trí đến Tam Công, thọ hơn 70 tuổi. Từ
nói: Lấy Lộc là Quan, Mã là Tài, kiến Thƣơng quan là Bối Lộc, kiến Tỉ Kiếp là Trục Mã.
Nhƣ ngƣời Giáp sinh mùa xuân, mùa hạ, Thiên Nguyên lại mang Bính Đinh, Giáp Ất, hoặc
Hợi Mão Mùi đồng hƣơng. Là các ngày Nhâm Ngọ, Quý Tị, ví dụ trụ có Đinh Kỷ Bính Tuất
quy phùng Sửu Tị, hợp lại cùng xem. )

Quan sùng vị hiển, định biết đất giáp lộc. Tiểu Doanh đại khuy, sợ e rằng ở đất Kiếp tài.
(Giáp lộc tức Củng lộc, nhƣ Quý Sửu đƣợc Quý Hợi vậy. Kiếp, là Kiếp Sát, nhƣ Đinh Sửu
342 | Tam mệnh thông hội

gặp năm Bính Dần, thủy lấy hoả khắc là Tài, Bính Dần là hoả tự sinh, có thể gọi là Tiểu
doanh. Ngƣời Sửu lấy Cô Kiếp ở Dần, Sửu thổ bị Dần mộc chế, là Tài hóa Quỷ, vì vậy gọi là
Đại Khuy. Tam mệnh lấy Tài vƣợng là tốt, ngƣời lấy có Tài là phúc. Nếu gặp Kiếp địa, cho
dù Lộc mệnh có 1, 2 chỗ tốt, cũng khó tránh lỗi nặng. Từ luận: Giáp lộc, nhƣ ngày Quý Sửu
giờ Quý Hợi, không thể trên bản lộc là thủ tuế hợp hóa hại nhau, càng không thể khắc phá
thiên can, xung động địa chi, là giáp quý không đƣợc, quý khí chạy mất, cho nên đất phúc tụ,
không thể tổn thƣơng; đất họa tụ, không thể không bại. Ngũ can dƣơng thấy ngũ can âm là
Kiếp tài, ngũ can âm thấy ngũ can dƣơng là Bại tài. Kiếp hung ở bại, giải thích rất hay. )
04-05-16, 19:10
lesoi
Tháng sinh mang Lộc, nhập thế tôn cư hiển hách; trọng phạm Kỳ Nghi, kín đáo ôm khí
xuất bầy.

(Vương Đình Quang giải thích: Tháng sinh mang Lộc, lấy tháng sinh là nguyên vận, mang
Thiên Lộc khí sinh vƣợng, thuận hành vận, chủ cả đời ôn hậu, là phúc nhiều nhất. Đƣa ra
tháng sinh và ngày sinh, giờ sinh thì có thể biết vậy, ngũ hành tứ trụ cùng mang lộc lẫn nhau,
kiêm nhận khí sinh vƣợng là quý.
Oánh Hòa Thượng giải thích: Mệnh mộc lộc nguyên cùng tháng sinh cùng tìm ngày sử
dụng. Nhƣ ngƣời Canh Tý, tháng Giáp Thân, nếu đƣợc ngày Ất Canh, là tiện dụng Bính Đinh
chống đỡ Giáp Thân vậy.
Từ Tử Bình giải: Ngƣời Giáp Ất, sinh mùa thu; ngƣời Bính Đinh, sinh mùa đông; tức là
chính khí Quan tinh, tháng sinh mang, thì khí phụ tử là cận lộc quý, lại cần bên trong ngày
sinh, thiên nguyên tự vƣợng, giờ sinh không ở hƣu phế, hành niên lại ở đất lộc, là tháng sinh
mang lộc.
Tôi thấy: Ngày Mậu Kỷ phùng tháng Ất Tị, ngày Nhâm gặp tháng Kỷ Hợi, ngày Quý phùng
tháng Mậu Tý, can chi mang Quan lộc, hoặc chỗ năm ngày giờ tọa chi, đƣợc tọa can tháng, ví
dụ lấy ngày Nhâm Dần gặp tháng Giáp Thìn, ngày Tân Dậu gặp tháng Tân Tị, vào làm quan
Định tôn cư hiển hách. Trọng phạm Kỳ Nghi, theo Vương Đình Quang giải thích: Ất Bính
Đinh là Tam Kỳ, Mậu Kỷ Canh Tân Nhâm Quý là Lục Nghi, thập can dụng 9, mà độn tới
Giáp thì gọi là Nghi. Nhƣ ngƣời Ất Tị, gặp tháng Tân Tị, ngày Tân là Nghi, Ất là Kỳ. Ất lấy
Tân Tị là sinh thành Quan, lại tọa Quan lộc, trƣờng sinh, Học Đƣờng, 2 Tị chính là Trọng
phạm Kỳ Nghi. Kỳ Nghi, là âm dƣơng thiên địa ngẫu hợp, khí anh tú vậy. Oánh Hòa Thƣợng
thì lấy Giáp Mậu Canh Ất Bính Đinh, làm phƣơng pháp Thiên Địa Nhị Nghi. Lý Đồng thì lấy
Tý gia Dần, đếm thuận đến năm tháng thấy bản mệnh. Tôi thì xem Độn Giáp luận Tam Kỳ
Lục Nghi, Vƣơng Đình Quang giải thích là đúng. Từ đây trờ lên là luận căn cơ quý mệnh; từ
đây trở xuống, là nói trong vận hội ngộ. Ở dƣới có nói rõ )

Âm nam dương nữ, thời xem năm xuất nhập; âm nữ dương nam, lại xem Tuế Nguyên
thần.
(Phân biệt nam nữ, nam tôn nữ ti. Dƣơng vị bản nam, âm vị bản nữ, nay nói là âm nam
dƣơng nữ, là mất thứ tự vậy. Đã mất thứ tự, thì vận là có thuận nghịch. Năm đại vận xuất
nhập, ứng gọi điều bất trắc. Dƣơng nam âm nữ, đều đắc kỳ nghi. Năm đại vận thiên biến, lại
xem loại Nguyên Thần sát, cho nên là nói cát hung, sinh ở động là vậy. Hành vận là tối yếu
của tam mệnh, Từ Tử Bình giải thích chỗ này rất rõ. Nguyên Thần, là thần lúc sinh vốn là có
cho Quan Ấn. Trƣớc có nói năm xuất nhập, chỗ này là luận Tuế Nguyên Thần, lý không có
hai. Về phần luận tiết khí thiển thâm (nông sâu), Tài Quan hƣớng bối, chỗ tiền nhân đều
không có truyền vậy. )
04-05-16, 19:12
lesoi
343 | Tam mệnh thông hội

Cùng tương phùng sinh địa, nêu thoái thân mà ẩn tránh. Hung hội cát hội, phục ngâm
phản ngâm, Âm thác Dương sai, thiên xung địa kích.
(Chỗ này nói ở trong vận chỗ gặp cát hung, họa phúc, sinh địa tƣơng phùng. Oánh Hòa
Thƣợng thì lấy bản niên trƣờng sinh bị gặp Quỷ vƣợng, nhƣ kim phùng Ất Tị hỏa, thổ gặp
Canh Thân mộc, hỏa thấy Giáp Dần thủy, mộc phùng Tân Hợi kim. Vƣơng Đình Quang thì
lấy đạo ngũ hành lần lƣợt có cha con, cha khoẻ thì con nhỏ, con cƣờng thì cha suy, con lại
cùng xứ, là con đã đến vậy, cha đã thành công, tự nên thoái lui, là biết nó sinh ta là Hƣu, là vị
trí con thay cha vậy.

《 Dịch 》nói: Chấn là trƣởng nam dụng sự, còn Càn là cha lui về Tây Bắc. Cũng là lý này.
Từ Tử Bình thì lấy ngƣời sinh Canh Tân, đến vận Thân Dậu, lấy hỏa là Quan lộc, hỏa đến
Thân Dậu là bệnh tử; lấy mộc là Tài Bạch, mộc đến Thân Dậu là tử tuyệt; Quan Tài đều
không có, tức là nói Kiến Lộc không phú vậy. Sợ không phải là nghĩa câu phú. Hành niên tuế
vận Lộc Mã, 5 xứ đều ở đất sinh vƣợng, cộng lại đều phù nguyên mệnh của ta, gọi là Cát hội;
cộng lại mà khắc nguyên mệnh của ta, gọi là Hung hội. Phục ngâm, là đại vận cùng nguyên
mệnh giống nhau, Phản ngâm, là đại vận cùng nguyên mệnh trái nghịch nhau. Lấy âm gặp
âm viết là Thác, lấy dƣơng gặp Dƣơng viết là Sai. Nhân mệnh có âm dƣơng bác tạp, vận
ngƣời có âm dƣơng giao soa, nguyên mệnh cùng vận ở đông nam, mà gặp Thái Tuế ở tây
bắc, gọi là Thiên xung. Nguyên mệnh cùng vận ở tây bắc, mà gặp Thái Tuế ở đông nam, gọi
là Địa kích. Cát hội Hung hội, là nói vận gặp phục ngâm phản ngâm, âm thác dƣơng sai,
thiên xung địa kích, trong đó cũng có cát hội, hung hội vị tất đều là hung vậy. Nhƣ mệnh
Giáp Tý kim, phục ngâm, Canh Tý thổ là cát, Mậu Tý hỏa là hung. Phản ngâm, Mậu Ngọ hỏa
là hung, Canh Ngọ thổ là cát. Tây bắc xung đông nam, chủ động thay đổi xuất nhập, là trong
xung ngoài vậy. Đông nam xung tây bắc, tuy xung mà không động, là ngoài xung trong vậy.
Gặp chỗ này, đều chủ bất ninh, trong đó cát hung cùng tồn tại. Âm Dƣơng thác sai, thì là
thuần âm thuần dƣơng, không sinh không thành, chỗ lấy nhiều Kỳ (lẻ) mà không có Ngẫu
(chẵn). Hoặc viết: Thiên xung địa kích, chính là thiên can địa chi, đại vận cùng nguyên mệnh
xung kích nhau, không phải chuyên chỉ đất ngũ hành âm dƣơng tuyệt diệt vậy. Tuế vận gặp
chỗ này, lại thêm đến phản, phục ngâm, thì có thể biết là hội hung. Tứ trụ bao gồm cả trên,
dẫu quý mà không thọ. )

Hoặc phùng Tứ Sát, Ngũ Quỷ, Lục Hại, Thất Thương, Địa Võng, Thiên La, Tam nguyên
Cửu cung, phúc đạt thành khánh, họa cũng nguy nghi, phù này cấp tốc, ức là trì trệ.
(Chỗ này nói hành vận chỗ gặp đúng thần vậy. Trƣớc Mệnh 4 thần viết là Tứ Sát, chính là
Dần Thân Tị Hợi tứ xung Kiếp Sát vậy. Trƣớc Mệnh 5 thần viết là Ngũ Quỷ, chính là ngƣời
Tý thấy Thìn, ngƣời Hợi thấy Mão vậy. Hoặc chỉ Tứ Sát là Thìn Tuất Sửu Mùi, Ngũ Quỷ là
ngũ hành gặp khắc. Lục Hại, ví dụ Dần Tị. Thất Thương, loại thần Vong Sát vậy. Hoặc lấy
Nhất Cát, Nhị Nghi, Tam Sinh, Tứ Ngao, Ngũ Quỷ, Lục Hại, Thất Thƣơng, Bát Nan, Cửu
Ách, bên trong các loại thần sát đều là tên Tam Nguyên Cửu Cung, tuế vận gặp, cho nên đa
số là hung. Nếu nguyên mệnh tam nguyên cửu cung, ngũ hành sinh vƣợng là đạt phúc, ở trên
có lấy thành cát khánh, trƣớc lấy ngũ hành là thần sát vậy. Nếu tam nguyên cửu cung, ngũ
hành tứ trụ, ở đất suy bại, tuế vận lại gặp đúng nhiều hung, chỗ nói là Họa cũng nguy nghi
vậy! Sát phù chính là cấp tốc thành tai, phúc ức chính là khánh hỉ trì trệ. Tôi lấy hai câu cùng
kiêm nói họa phúc, phù họa thì cấp tốc, ức phúc thì chậm, phù phúc thì cấp tốc, ức họa thì
chậm. Từ nói: Nguyên mệnh phạm Thìn Tuất Sửu Mùi. Đại vận lại hành đến chỗ trên, gọi là
Tứ Sát. Đại vận can là Quỷ chế, Tài khắc Quan Ấn, cùng Thái Tuế đồng gọi là Ngũ Quỷ.
Ngƣời sinh Sửu Mùi, trong trụ vốn có Sửu Mùi, đại vận thêm ở Thìn Tuất Sửu Mùi, lại gặp
Thái Tuế ở Tý Ngọ Mão Dậu, gọi là Lục Hại. Trong vận gặp Thất Sát; gọi là Thất Thƣơng,
nhƣ ngƣời Giáp Ất, dụng Canh Tân là Quan, vận ở nam phƣơng, hoặc phùng Dần Ngọ Tuất
Tị và Mùi, là Thái tuế vậy. Tứ Sát khinh, Ngũ Quỷ trọng; Lục Hại khinh, Thất Thƣơng trọng;
344 | Tam mệnh thông hội

vận phùng thì nhẹ, tuế gặp thì nặng. Địa Võng, Thiên La, nhƣ ngƣời Tuất không đƣợc thấy
Hợi, ngƣời Hợi không đƣợc thấy Tuất, gọi là Thiên La; ngƣời Thìn không thấy đƣợc Tị,
ngƣời Tị không thấy đƣợc Thìn, gọi là chân Địa Võng. Trong đó lại phân ra Hợi kiến Tuất,
Thìn kiến Tị, là càng nặng, nếu gặp, tai bệnh liên miên. Đại phàm suy đoán vận, phải xem
Thái tuế năm sinh cùng vận sinh khắc, sinh khắc đã định, sau đó tham khảo các loại thần sát,
thì cát hung không có không nghiệm vậy. )
04-05-16, 19:14
lesoi
Trải qua quý địa mà đợi thời, gặp Tỉ kiên mà cạnh tranh. Nếu tới nhân Bì Mã liệt, vẫn còn
nhờ đất Tài vượng.
(Mạnh Tử nói: Tuy có căn cơ, không bằng đợi thời. Nếu vận nhập đất quý thần, phù hợp số
đợi thời, thì có phúc khánh, tối kỵ Tỉ kiên vậy. Nhƣ Tỉ kiên cùng hành vận, tất có cạnh tranh,
nhƣợc ẩn cƣờng, nói lên xuống ở thần sát cát hung; nếu Lộc Mã khí suy, nhƣng đƣợc Lộc tài,
Mệnh tài, vƣợng tƣớng, cũng có thể phù trì. Hoặc viết: Tỉ kiên cạnh tranh, nhƣ 2 Canh đoạt 1
Đinh, 2 Bính ăn 1 Mậu, bửa chia phúc khí, nhƣ vậy thì thị phi xen lẫn nhau. Nhân Bì Mã liệt,
Bản mệnh viết: Nhân nguyên kiêm Dịch Mã, đều ở đất ngũ hành suy bại vô khí, không vì tai,
lấy Tài vƣợng. Nhƣ mệnh Mậu Ngọ hỏa, Dịch Mã ở Thân, trong Thân có kim vƣợng hỏa suy
vậy.
Từ giải thích: Trải qua quý địa mà đợi thời, nhƣ ngƣời sinh Nhâm Thìn, Quý Tị thuỷ, dụng
thổ là Quan lộc, dụng hỏa là Tài bạch, mà tháng sinh không cƣ ở mùa hạ, không ở tứ quý, tuy
trải qua quý địa, chủ yếu vẫn đợi bốn mùa, vốn có vốn không vậy. Gặp Tỉ kiên mà cạnh
tranh, nhƣ Nhâm Thìn, Quý Tị thuỷ, lại ở tháng mùa hạ, tứ quý, đƣợc thời Quan lộc, đại vận
lại ở ranh giới hỏa thổ, lại gặp Thái tuế là năm Nhâm Quý. Hợi Tý Sửu cũng vậy. Hoặc là
xung hình, hoặc là phá hại, chủ chết yểu. Nhân bì, là nhân nguyên suy kiệt vậy. Mã liệt, là
chỗ hợp thần Mã suy nhƣợc vậy. Nhƣ ngƣời sinh Giáp Ngọ, vận hành tây phƣơng, Ngọ là
nhân nguyên thuộc hỏa, hỏa đến tây phƣơng là tử tuyệt, gọi là Nhân Bì vậy. Giáp lấy Kỷ là
Tài, trong Ngọ có Kỷ thổ, Kỷ đến tây phƣơng, cũng tự suy bại, gọi là Mã Liệt vậy. Ngọ tuy
kiệt sức, vẫn dựa vào tây phƣơng kim vƣợng là Tài, thu kim chứa Nhâm Quý, cũng có thể
cùng Kỷ phá Quỷ sinh Tài, thuyết này là phù hợp. )

Hoặc là Tài vượng Lộc suy, kiến Mã sao trốn Yểm xung, tuế lâm trên không là tai, là do
năm đăng nên nhận phúc.
(Khắc gọi là Tài, Ngụ gọi là Lộc, Cưỡi gọi là Mã. Mã vốn là phù thân, Lộc là nguồn dƣỡng
mệnh. Lộc lâm quý và Thiên Quan, Mã vận Tài mà nhận phúc. Lộc Tài Dịch Mã đều kiêm
đủ, thì phú quý lƣỡng toàn; có thiên là thứ. Hoặc Thiên Lộc tuy suy, mà Thân Tài vẫn vƣợng,
kiêm gặp Dịch Mã đến cƣỡi, dẫu cho yểm phục tuế vận xung kích, vẫn không là tai hoạ.
Huống chi phía sau tuế vận, lại ở ngũ hành sinh vƣợng, hội hợp xứ phong đăng, cho nên hợp
nhận nhiều phúc vậy. Yểm là Phục ngâm, Xung là Phản ngâm vậy. Giả nhƣ sinh Quý Hợi,
gặp tuế Ất Tị, gặp lộc, thủy tuy tuyệt ở Tị, mà ngƣời lấy thủy khắc hỏa là Tài, hỏa vƣợng ở
Tị, kiêm Tị cƣỡi trên Mã, tuy Tị Hợi tƣơng xung, lâm trên phản ngâm, lấy thân Tài vƣợng,
không là tai hoạ. Nếu tuế vận không đến tƣơng xung, ở đất tam hợp, lục hợp, ngũ hành sinh
vƣợng, lại phùng đối diện gặp Mã, có thể nói đƣợc mùa niên tuế, cho nên thủ nhận đƣợc
phúc. Từ viết: Chổ này cùng ý trƣớc nhƣ nhau, mà khác lý vậy. Nhƣ ngƣời Bính Ngọ, vận
đến tây phƣơng, tuy Tài vƣợng mà Lộc suy, hạ nguyên kiến Mã là trợ, hàm nói ở trong có
Tân hợp Bính, thì không sợ yểm xung, chỗ này cùng trung hạ cùng hƣng long là không có
khác biệt. Trƣớc có nói Tài vận yểm xung, vật tụ không kỵ, chỗ này luận vị trí Tuế lâm Vận,
cũng không thể liền nói hung hoạ. Đại Tuế là chủ của tạo hóa, đứng đầu trăm sát, đến lâm là
vận, nhiều hung ít cát. Nếu trong ngoài tam nguyên, ngũ hành Quan Ấn hữu dụng, cũng có
thể lấy lợi kiến đại nhân mà thành hội cát. Tài bạch hữu dụng, cũng có thể vì chỗ tài bạch mà
ngƣời phát tài. Còn nhƣ ngày sinh là Tị Ngọ, đại vận là Canh Ngọ, tuế là Canh Ngọ, chỗ này
345 | Tam mệnh thông hội

là nói tuế vận cùng lâm, cũng là hội cát. Năm sau giao Tân Mùi, kỳ khí không khác, Quan Ấn
Tài bạch hữu dụng, nhận phúc là không sai vậy. )
05-05-16, 20:10
lesoi
Đại cát sinh phùng tiểu cát, lại thọ lâu dài; Thiên Cương vận đến Thiên Khôi, ký sinh
thêm thọ.
(Sửu là Đại cát, Mùi là Tiểu cát, nhƣ ngƣời sinh ngày Quý Mùi, hành Sửu vận, hoặc ngƣời
sinh ngày Đinh Sửu, hành Mùi vận, không đƣợc nói là phản ngâm, đều nói là sinh khí. Quý
thụ khí ở Tị mà thành hình ở Mùi, Đinh thụ khí ở Hợi mà thành hình ở Sửu, cho nên viết là
Sinh phùng, nhƣ Lục Nhâm phát dụng, Đinh khóa ở Mùi, Quý ở Sửu, cũng là ý này vậy. Sửu
Mùi là hội gặp âm dƣơng, chỗ lâm của Thiên Ất quý thần, Chủ cùng Bản gặp thì có thọ dài.
Thìn là Thiên Cƣơng, Tuất là Thiên Khôi, nhƣ ngƣời sinh Canh Tuất, hành vận Thìn, hoặc
ngƣời sinh Giáp Thìn, hành vận Tuất, không gọi là phản ngâm, Canh thụ khí ở Dần, mà thành
hình ở Thìn, Giáp thụ khí ở Thân, mà thành hình ở Tuất, đều là sinh khí.
《 Quỷ Cốc Tử 》 nói: Cƣơng trong có Ất, Khôi trong có Tân là vậy. Trƣớc có nói Sinh
phùng, sau nói nghĩa ký sinh, không khác biệt vậy.
Hoặc viết: thử hậu bát tuần, tái minh phản ngâm cát hung, vô cố tất chi nghĩa, giả nhƣ mệnh
nam Ất Sửu kim, sinh ở tháng 6, độn thấy Quý Mùi mộc, tuy bản mệnh cùng tháng sinh
tƣơng khắc, hợp chủ yểu thƣơng, Ất Sửu nạp âm lại là kim khắc Quý Mùi nạp âm mộc, lại
thọ lâu.
Ca nói: Liền đem tháng sinh dụng là Thân, trở lại lấy nạp âm làm mệnh. Thân suy khắc mệnh
là đoản thọ, mệnh lại khắc thân là trƣờng thọ vậy. Giả sử nam mệnh Mậu Thìn dƣơng, sinh ở
tháng 3, tính 5 tuổi khởi vận. Thuận hành 56, vận đến Nhâm Tuất nạp âm là thủy, đến sinh
Mậu Thìn mộc, tháng 3 Thiên Nguyệt Đức lại đều ở Nhâm, vừa ở trên Tuất vừa sinh mộc,
cho nên viết Ký sinh thêm thọ. Oánh Hòa Thượng viết: 4 tiết dƣới đây, cùng dụng chân Ấn,
mới đƣợc nói rõ. Ất Sửu kim Ấn, Quý Mùi mộc Ấn, Nhâm Thìn thủy Ấn, Giáp Tuất hỏa Ấn,
Mậu Thìn thổ Ấn. Trƣờng sinh thêm thọ, riêng Ký và Phản, trừ 5 can này, nhƣng không có
biết vậy. Bởi vì trong Sửu có Ất mộc, trong Mùi có Quý thủy, Quý thủy sinh Ất mộc, tăng
trƣởng Lộc nguyên, lại thọ kéo dài, hẳn là vậy. Trong Tuất có Giáp, trong Thìn có Nhâm,
Nhâm thủy sinh Giáp mộc, nối tiếp Bính hỏa, cho nên viết vận Thiên Cƣơng đến Thiên Khôi,
Ký sinh thêm thọ. Chủ yếu Thập can là Lộc, định nhân mệnh thọ vậy. )

Theo Khôi chống đỡ sao Thương Long, Tài tự Thiên lai; Thái xung lâm đất Ngang trụ,
nhân nguyên có hại.
(Dậu là đất Ngang trụ, theo Khôi Cƣơng vậy. Mão viết là sao Thƣơng Long, là đại xung vậy.
Chi nguyên thủ Tài, nay nói là Thiên lai, bởi vì trên Dậu có Tân, trong Mão có Ất, Tân kim
chế Ất mộc, cho nên nói Tài tự thiên lai. Lấy Dậu kim khắc Mão mộc, Ất mộc sợ chỗ Tân
kim, Lộc đã bị thƣơng, nhân nguyên bị khắc, nếu nhƣ ngƣời Dậu gặp Mão là cát, ngƣời Mão
gặp Dậu là hung. Vị liệt tôn ti, là đoán cƣơng nhu vậy. Từ viết: Thƣơng Long thuộc Thìn,
ngƣời sinh Dậu gặp Thìn, là trong Dậu có Tân kim, khắc Ất mộc ở trong Thìn là Tài, dụng
bên trong Thiên nguyên là Tài vậy. Ngƣời Mão đến vận Dậu, kim khắc mộc mà lại tƣơng
hình, chi làm nhân nguyên, cho nên viết có hại. Hại, là Thất Sát không phạm hình xung khắc
chế, cũng là thiên âm thiên dƣơng vậy. )
05-05-16, 20:11
lesoi
Kim Lộc cùng ở chính thủ, Canh trọng Tân khinh; người mộc khốn ở đất kim, Dần thâm
Mão thiển.
(Âm cực sinh dƣơng, Dƣơng cực sinh âm, lý âm dƣơng tự nhiên vậy. Dƣơng kim sinh ở Tị,
mà tử ở Tý, tuyệt ở Dần; Âm kim sinh ở Tý, mà tử ở Tị, tuyệt ở Mão. Chính tử chính sinh gọi
346 | Tam mệnh thông hội

là Trọng, thiên sinh thiên tử gọi là Khinh. Thứ là lấy Dƣơng mộc sinh ở Hợi tuyệt ở Thân,
Âm mộc sinh ở Ngọ tuyệt ở Dậu. Dƣơng mộc thì Thân thâm còn Dậu thiển, Âm mộc thì
Thân thiển mà Dậu thâm. Bởi vì Dần Mão chỉ tình của bầy mộc, Canh Tân đều thuộc bầy
kim, Thân là là đất thủy sinh, mộc viết là Khốn; Dần là cung sinh hỏa, này nói là Cùng vậy.
Có nói: Bính Tân có hợp, cho nên Tân khinh; Ất Canh có hợp, cho nên Mão thiển. )

Diệu ở chỗ biết thông biến, nói thiếu do thần; thầy mù mờ mịt với âm thanh cung đàn,
Luật Lữ hiếm khó mà hài hoà vậy.
(Phàm vận mệnh, cát hung họa phúc, nhƣ chỗ nói ở trên, phú nói rất sơ lƣợc. Diệu là ở biết
kỳ thông biến, chữ thơ phú tuy thiếu, mà diệu lý ứng nhƣ thần, nếu nhƣ không thể thông biến,
ví nhƣ thầy mù mờ mịt với âm thanh cung đàn, luật lữ hiếm khó hài hòa vậy. )

Canh Tân lâm với Giáp Ất, Quân tử cho phép cầu quan; người bắc vận ở nam phương,
mậu dịch nhận kỳ hậu lợi.
(Kim mộc có lý hợp nhau, thủy hỏa có đạo ký tế (cứu nhau), cho nên đặc biệt đƣa ra mà nói:
Canh Tân lâm với Giáp Ất, thì còn lại 8 can có thể biết vậy. Ngƣời Bắc vận ở Nam phƣơng,
thì có thể biết ở đông tây vậy. Nói Quân tử kiến tiểu nhân thì không phải, nói ngƣời bắc cần
phƣơng Hợi Tý là đúng. Giáp lấy Tân là Quan, Ất lấy Canh là Quan, nhƣ tuế vận Canh Tân,
đến lâm ngƣời Giáp Ất, cho nên viết: Quân tử có thể cầu Quan, ở tiểu nhân lại lấy là Quỷ
vậy. Hợi Tý thuỷ ở bắc phƣơng, Tị Ngọ hoả ở nam phƣơng, lấy thủy hành vận đến hỏa, ta
khắc là Tài, cho nên mua bán sẽ nhận đƣợc nhiều lợi. Hoặc nói vị trí Nhâm Quý, quẻ thuộc
Khảm, vị trí Bính Đinh, thuộc quẻ Ly, thủy quy hỏa địa, vận đến đất Tài. Không biết Nhâm
Quý là Lộc, Tị Ngọ là Mệnh, can chi không nhập nhau, nhƣ Nhâm Quý đƣợc Bính Đinh, chỉ
có thể nói Lộc Tài mà thôi, không thể nói là mua bán làm ăn vậy. Đàm mệnh phải cần nên
phân ra Lộc Mệnh Thân. )

Thấy sáng vui mà chiều khóc, là thịnh hỏa viêm dương; xem họa phúc xa chậm, nguyên
nhân nhiều là do thủy thổ.
(Chỗ này luận tính chất ngũ hành, minh họa phúc nhanh hay chậm vậy. Tính hỏa hung bạo
mà nhiều tổn thƣơng, cho nên khoan mộc mà khói bay, đẽo đá mà phát sáng, sáng vui chiều
khóc, nay đúng mai sai, hỏa do củi truyền, không biết cực điểm vậy. Thủy thổ là vật, tính
chất nhu hòa, đầu mối dẫn đến họa phúc, có ý trì hoãn, bởi là Trí và Tín vậy. Hỏa mộc tính
nhạy bén, dễ phát dễ ngừng; thủy thổ tính chậm, khó thành khó bại. )
05-05-16, 20:12
lesoi
Kim mộc không thể thành khí, nghe vui buồn khó lấy danh, giống như mộc thịnh mà hoa
nhiều hình, mây dày mà không mưa.
(Nói kim là vẫn còn mộc, kim đắc dụng mà mộc lại thành, là lấy cƣơng giúp nhu vậy. Nói
mộc là vẫn còn kim, mộc thành vật dụng mà kim đắc ý, nhân tất là có dũng vậy. Nếu có kim
không có mộc, dũng mà vô lễ thì loạn; có mộc không có kim, Canh Tân suy mà ít có nghĩa.
Kim, là khí ở tây phƣơng vậy, chủ bi thƣơng; Mộc, vật ở đông phƣơng vậy, chủ vui vẻ. Vui
mà không dâm, là mộc gặp kim vậy; bi thƣơng mà không có hại, là kim đƣợc mộc vậy. Phàm
chỗ này đều là mệnh đại nhân vậy. Nếu hiểu quay về trong thủy hỏa, dụng ở giữa kim mộc, là
do vui buồn không thể động tâm, là ngƣời phƣơng ngoài khó có danh tiếng. Nếu nhƣ thiên
âm hoặc thiên dƣơng, giống nhƣ mộc thịnh hoa dầy, thiên dƣơng gọi là tháng nóng; Mây dày
không mưa, nói thấy thiên âm (ẩm thấp). Nhân mệnh cần âm dƣơng hài hoà, thì là ứng mệnh
cách. Lại viết: Kim không thể thành khí, nhờ hỏa để nung luyện; mộc không thể thành công,
nhờ kim để đẹo gọt. Cho nên vui tất lấy bi ai làm chủ, ích tất lấy tổn là ƣu tiên. Mộc thịnh
hoa phồn, nở mà không có quả; mây dày mà không mƣa, mờ mà khó sáng. Giữa cả hai đều
khó đo lƣờng, dự tính là sinh vậy. Cho nên vƣợng mà không thể không có chế, suy mà không
347 | Tam mệnh thông hội

thể không có sinh, đƣợc xứ trung hòa, trở về thuần túy. )

Thừa hiên y miện, kim hỏa nhiều ở đâu, vị liệt thấp hèn, âm dương bất định.
(Trƣớc có luận thủy hỏa cứu lấy nhau mà thành khánh hỉ, thứ là luận kim mộc mà thành đất
quan, là mới biết quý thăng, hỏa quý giáng, mộc phải cứu nhu thành cƣơng, kim phải tổn
cƣơng ích nhu, thì dụng thành hỉ khánh. Trong đó chỉ có kim cƣơng hỏa cƣờng, không thể
không biết vậy. Kim là vật rất cứng, không phải hoả thịnh thì không thể hoá cách; hỏa là vật
rất hung bạo, không phải kim thì không lấy hiển dụng nhiều. Kim hỏa quân đình, mới là
tƣợng đúc ấn, cho nên phú nói: Thừa hiên y miện, đây là khí phách quân tử vậy, cần có kim
hỏa phải quân bình nhau. Nếu hỏa nhiều kim ít, kim nhiều hỏa ít, đều là mệnh hung bạo. Kim
vƣợng ở tây phƣơng, hỏa vƣợng ở nam phƣơng, đều là kỳ thế, thì là hình tự hình, mệnh nhƣ
vậy, tuy ngày giờ hữu dụng, cuối cùng cũng trở về vị trí thấp hèn mà thôi, là do âm dƣơng
không thể phân định vậy. Kim, là âm vậy. Hỏa, là dƣơng vậy. Âm dƣơng đã cùng nhau thiên
lệch, thì quý tiện cao thấp, không có chỗ định đúng. Huống chi có kim mà không có hỏa, có
hỏa mà không có kim, là hung đồ, cũng có thể biết vậy. Hoặc viết: Tứ trụ nhân mệnh, ngũ
hành kim hỏa nhiều là không đủ quý. Lấy kim cƣơng không thể thuận vật, hỏa hung bạo mà
khó sinh ích, là khí bất thƣờng, cho nên đạo quân tử tƣơi đẹpp, Ngƣời Canh gặp Bính, ngƣời
Tân gặp Đinh, là thuần âm thuần dƣơng, là khắc là quỷ, là âm dƣơng bất định, tuy có xuất
thân, địa vị cũng thấp kém, không thể đại hiển. Cũng dễ thông. )

Cho nên Long ngâm Hổ khiếu, phong vũ trợ kỳ cát hung; thế hỏa hưng long, cho nên
trước khói sau sáng.
(Đoạn văn trên là nói ngũ hành tƣơng khắc, hoặc không thành khí, hợp quý không quý, chỗ
này lại nói tính chất tƣơng khắc tƣơng sinh, cho nên lấy ví dụ Long Hổ khói sáng. Nếu ngũ
hành đều đƣợc chỗ, thì giống nhƣ Rồng đƣợc mƣa giáng, Hổ gầm gió sinh. Lại nhƣ hỏa
vƣợng, trƣớc là có khói, sau là có sáng. Hoặc lấy hai câu Long ngâm Hổ khiếu, là nói ngƣời
có năm cát mà tuế vận cũng cát. Nếu đầu hung sau cát là nhất định không phải. Thí dụ nhƣ
bắt đầu hỏa, trƣớc có khói sau đó sáng vậy. Bởi vì khói sinh ở hỏa mà có thể lửa sáng. Nghĩa
là khí đã có khí không thông, sao không nói hỏa ở bên ngoài mà khói ở bên trong, khói đạt
mà sinh sau, không giống nhƣ con ngƣời đầu hung sau cát. Từ giải: Long ngâm Hổ khiếu,
nên lấy Mậu Thìn, Giáp Dần, nghĩa rất rõ ràng, không phải, nếu gặp Dần và Thìn cũng là phù
hợp, trƣớc khói sau sáng, rõ ràng khí âm dƣơng thuận, có thứ tự, cùng khí là cũng không có
khác. Câu cuối không phải nghĩa của phú. )
05-05-16, 20:13
lesoi
Từng thấy trong hung có cát, cát là trước hung; trong cát có hung. Hung là điềm cát.
《 Đoạn văn ở trên, nói đem cát hung là dựa vào ẩn phục. Nhƣ luận ở trƣớc, Theo Khôi
chống đỡ sao Thương Long, Tài tự thiên lai, là cát vậy. Là Tân trong Dậu khắc Ất mộc
trong Thìn là Tài, Thìn là đất thủy, ẩn phục có thể đoạt Tân kim Quan, luận Tài nhƣng không
khuyết, mà mất quan là hung. Đại xung lâm đất Ngang trụ, Nhân nguyên có hại, là hung
vậy. Nhƣng mộc dụng kim là Quan, Dậu thì không nghịch Quan lộc, là trong hung lại cát. Ý
câu phú bắt đầu nói tới vận, thứ là nói ngũ hành, ở sau sẽ nói rõ. Lại nhƣ ngƣời hỏa, hành vận
thủy, thì là Thất Sát, là hung vậy. Hoặc dụng thủy là Quan, là cát vậy. Thủy hành Tị Ngọ vận
nam phƣơng, nhận lợi là Tài, cát vậy. Ở dƣới lại có Mậu Kỷ Thất Sát, hung vậy. Rất nhiều
nhƣ thế, ngƣời phải học chuyên sâu biến thông, là nói lấy căn bản tối trọng hàng đầu.
Đàm Oánh viết: Tƣợng cát hung, bởi vì họa phúc vẫn lẫn với nhau, là thƣờng lý âm dƣơng
vậy. Bởi thế đời có ngƣời cát hung ở cát, ngƣời hung cát ở hung, chỗ quân tử không nói vậy,
đạo cũng bình thƣờng mà thôi. Hung nếu thắng cát, cát ẩn trong hung; cát nếu thắng hung,
hung tàng trong cát. Bác tạp sinh ở Thuần túy, trung hòa xuất phát từ chiến tranh, cho nên
trong cát có hung, hung là điềm cát. )
348 | Tam mệnh thông hội

Họa tuần hướng mạt, nói phúc có thể Nghênh suy; Tài nhập đất suy, luận tai nghi kỳ
nghịch khóa. Nam nghênh nữ tống, phủ thái giao cư; âm dương nhị khí, nghịch thuận
chiết trừ.
(Chỗ này nói tai họa cát hung, do ở hành vận. Họa tuần hướng mạt: Nhƣ thấy 10 năm hung
vận, cuối đầy mà trƣớc giao cát vận, nếu lúc sinh năm tháng khí thâm, hoặc hành niên thái
tuế phù trợ, hƣớng Lộc lâm Tài, lại không cần đợi giao vận, chỉ ở chỗ hƣớng cuối, thì có thể
nghênh đón mà suy. Tài nhập đất suy: Nhân mệnh trải qua phúc địa, phƣơng giao vận bối
Lộc Tài tuyệt, nhƣng không thể liền nói hung ngôn, là luận tai ở nghịch khóa vậy. Nam
nghênh nữ tống, là dƣơng nam âm nữ, vận thuận hành vậy. Một vận 10 năm, lại phân trƣớc
sau 5 năm, phàm nhập cát vận, đƣợc tiết khí sâu, là nam đón, 5 năm trƣớc phát phúc, nữ đƣa,
5 năm sau phát phúc. Hoặc viết: Nam tƣờng đại vận, nhập năm đầu, đón tai phúc ở đâu, cho
nên nói là Nghênh. Nữ tƣờng đại vận, năm sắp xuất hiện, đƣa tai phúc ở đâu, cho nên nói là
Tống. Nam Nghênh nữ Tống, Phủ Thái giao cư, xem làm một nghĩa. Đón cát đƣa hung,
đón hung đƣa cát, là Phủ Thái giao cư vậy. Âm nam dƣơng nữ, dƣơng nam âm nữ, dựa theo
hành vận nghịch thuận chiết trừ, tức là trƣớc chiết trừ 3 tuổi = 1 năm vậy, xem trên vận mới
hay cũ có cát hung chỗ nào, nói lấy số vận.
Đàm Oánh viết: Chỗ này là luận hành vận, đều chỉ trƣờng sinh, thứ là ở đất suy, nhƣ kim
sinh ở Tị mà suy ở Tuất, nam đến Tuất thuận hành ở tử tù hƣu phế, nữ nghịch hành ở đế
vƣợng, lâm quan; nam đến Tị thuận vƣợng ở đất Thân Dậu, nữ khốn nghịch ở đất Dần Mão,
cho nên nói Họa tuần hướng mạt. Hai khí Âm Dƣơng, là nói Tiểu Vận, là khí năm vậy. Đại
vận là khí tháng vậy. Nhật can là vận, tháng là khí. Tiểu vận thì sau khi giao từ ngày sinh;
Đại vận thì luận khí mà chuyển, hai khí vận hành, từ mệnh của ta vậy. Cho nên viết Hai khí
âm dƣơng ... )
05-05-16, 20:14
lesoi
Bói bên trong kim mộc, hiển lộ ở chỗ ranh giới phương; Tiêu kỳ giữa nam bắc, sợ bất lợi ở
qua lại. Trong một tuần, ở trong năm mà hỏi can. Trong một Tuế, tìm trong tháng mà hỏi
ngày. Hướng 3 tránh 5, chỉ phương diện lấy cùng thông; đo lường cát hung, nói trong Tuế
tốt xấu.
(Chỗ này nói vận hành đông tây nam bắc, đất kim mộc thủy hỏa, có lợi, bất lợi, kiêm nói cả
trong Tuế tốt xấu vậy. Vương thị viết: Mộc hỏa kim thủy là khí bốn phƣơng chuyên nhất, tất
cả phƣơng đều chuyên chỗ ranh giới vậy. Nhƣ xuân Tân Mão, hạ Mậu Ngọ, thu Quý Dậu,
đông Bính Tý, bốn phƣơng đều tự ôm khí vƣợng, mà không thể xâm phạm nhau. Cho nên khí
ngũ hành vƣợng, thủ trọng một thần, gọi là Bạch Hổ Sát. Nhƣ mộc đông phƣơng, đến tây
phƣơng phùng kim: Hoả nam phƣơng, đến bắc địa gặp thủy, chỗ nói là Sát kỵ tứ trọng, cấm
vật lạc đƣờng, viết là Quân là Phụ, không thể cùng mất; lấy kỳ tƣơng khắc, đến tất bất lợi.
Nếu ngũ hành suy tuyệt vô khí, phùng qua lại tƣơng xung, thì lại hỗ tƣơng nhau thành phúc.
Nhƣ Ất Hợi hỏa đƣợc Quý Tị thủy, hỏa đến Tị là vƣợng, thủy đến Hợi là vƣợng, hỗ hoán
phùng vƣợng, sao qua lại tổn thƣơng? Nhâm Dần kim, là Thần không cƣờng; Canh Thân
mộc, chuyện Quân không hung, độc chiếm một góc, sao có tạo hóa? Bởi vì lộc vƣợng tự
hƣởng quý, là do hoạn nạn muốn đƣợc cứu trợ vậy.
Trong một tuần, ở trong năm mà hỏi can, là nói lấy can năm, thì lền biết chỗ Giáp ngụ, vì
vậy sinh ra cùng trong tuần vậy. Trong một Tuế, tìm trong tháng mà hỏi ngày, trong một
Tuế là có khác nhau, là mệnh âm dƣơng nam nữ vậy. Tìm ở trong tháng mà hỏi ngày, muốn
biết số ngày tiết khí, là phép để định mấy Tuế là hành đại vận vậy. Là hành vận vậy.
Nên theo hướng Tam Nguyên sinh khí, tránh Ngũ Quỷ tuyệt lộ. Là chỉ phƣơng diện sắp
xếp, âm dƣơng cùng thông, xem Lộc Mã hƣớng bối, đại vận thịnh suy, từ chỗ này để xét cát
hung. Không chỉ chiếu cố ở đó, còn có thể nói tốt xấu ở trong Tuế. Hoặc lấy Sinh khí, Phúc
đức, Thiên y là Hƣớng 3; Tuyệt thể, Du hồn, Ngũ quỷ, Tuyệt mệnh, Bản cung là tránh 5.
349 | Tam mệnh thông hội

Từ viết: Bói, chỉ lấy Khứ thanh, xem bói chỗ lúc sinh ở năm tháng. Nhƣ mộc dụng kim là
Quan, ở vận nam dƣơng mệnh, xuất ở Mùi nhập ở Thân; Vận nam âm mệnh, xuất ở Hợi nhập
ở Tuất, là hƣớng lộc lâm Tài, gặp ở ranh giới kim mộc. Nhƣ kim dụng mộc là Tài, vận nam
dƣơng mệnh, xuất ở Sửu nhập ở Dần; vận nam âm mệnh, xuất ở Tị nhập ở Thìn, là hƣớng lộc
lâm Tài, ở trong chỗ phƣơng mộc hỏa. Lại thêm Thái Tuế, Nguyệt lệnh, nói khí hậu cùng
phù. Tiêu, còn có nghĩa là tiêu chuẩn. Chính là nền tàng mệnh vậy. Nam, hƣớng về sáng tỏ
mà đi vậy. Bắc, là hƣớng về bắc mà đến vậy. Chỗ này là nói vận khí xuất nhập động tĩnh,
hoặc cát, hoặc hung, không thể bác tạp. Hoặc gặp năm giao vận, không thể xem thƣờng.
Trong một tuần, ở trong năm hỏi can, là trong tháng tìm ngày vậy. Trong một Tuế, tìm trong
tháng hỏi ngày, là trong năm tìm tháng vậy. Hƣớng 3, Tránh 5, là trong Tuế tìm chỗ phƣơng
cát lợi vậy. Phàm tọa lấy tiến thoái, hƣớng cát tị hung, không có cái nào lớn hơn chỗ này vậy.
Một tuần, là 10 ngày vậy; trong năm, là ngày sinh vậy. Phàm ở trong một tháng, ở trong một
tuần, lấy Thiên nguyên ngày sinh phối hợp mà nói, thì biết trong ngày tốt xấu, lập định ngày
sinh làm chủ vậy. Trong một Tuế, thủ nguyệt lệnh lấy sinh khắc phối hợp mà nói, thì biết
trong tháng tốt hay xấu vậy. Còn nhƣ ngƣời sinh đắc địa, cần lấy Thái Tuế là tôn trƣởng, là
trong một Tuế tìm tháng sinh mang Lộc, hoặc Quan Ấn, vốn có hay không có, là tháng mà
hỏi ngày, chính là tổng pháp xem mệnh vậy. )
05-05-16, 20:15
lesoi
Nhâm Quý là sinh thu mà đông vượng, Hợi Tý là cùng đường; Giáp Ất là hạ tử mà xuân
vinh, Dần Mão cùng một suy đoán.
(Chỗ này nói nhân mệnh có sinh vƣợng, tử tuyệt, mà chỗ gặp ở hành vận, có nên cùng không
nên, chỉ hiểu nói về ngũ hành vậy. Canh là chủ bầy kim, cho nên cƣ Thân mà sinh thủy, thủy
quy về Hợi Tý, mùa đông là vƣợng. Nhâm là gốc tụ thủy, cho nên cƣ Hợi mà sinh mộc, mộc
quy về Dần Mão, mùa xuân là vƣợng. Giáp là chủ bầy mộc, cho nên cƣ ở Dần mà sinh hỏa,
hỏa quy về Tị Ngọ, mùa hạ là vƣợng. Mậu là chủ bầy thổ, cho nên cƣ ở Tị mà sinh kim, kim
quy về Thân Dậu, mùa thu là vƣợng. Nhâm Quý, Hợi Tý là một loại thủy vậy, thủy sinh ở
Thân mà vƣợng ở Tý; Giáp Ất, Dần Mão là một loại mộc vậy, mộc vƣợng ở Mão mà tử ở
Ngọ, cho nên Nhâm Quý sinh ở thu mà vƣợng ở đông, Giáp Ất hạ tử mà xuân vinh. )

Bính Dần Đinh Mão, mùa thu nên để bảo trì; Kỷ Tị, Mậu Thìn, độ ở cung Càn mà thoát
ách.
(Chỗ này chỉ nói nạp âm vậy. Bính Dần, Đinh Mão, là Lô Trung hỏa, khí hỏa vƣợng vậy.
Đến mùa thu nên bảo trì, vì hỏa đến mùa thu là tử, huống chi hỏa khác chứ? Kỷ Tị, Mậu
Thìn, là Đại Lâm mộc, mộc thịnh vậy. Độ cung Can mà thoát ách, vì mộc đến Hợi là sinh
vậy, huống chi mộc khác chứ? Còn Bính Dần, Đinh Mão, loại hỏa, hỏa vừa khắc kim, mùa
thu bảo trì, sao vậy? Là nói thủy sinh ở mùa thu vậy. Kỷ Tị, Mậu Thìn, là loại mộc, thủy vừa
sinh ở Hợi, cung Càn thoát ách, là sao chứ? Là nói Hợi ở cung Càn kim vậy. Hiểu đạo ngũ
hành hƣu vƣợng, lý tạo hóa tự nhiên, hoặc nguyên mệnh, hoặc hành vận, hoặc lƣu tuế, đều
nân cẩn thận dùng. )

Gặp bệnh lo bệnh, phùng sinh được sinh. Vượng tướng tranh vanh, hưu tù diệt tuyệt.
Luận gia quyến, lo kỳ tử tuyệt.
(Gặp bệnh lo bệnh, là nói lấy hƣu tù diệt tuyệt. Phùng sinh được sinh, nghĩa là lấy vƣợng
tƣớng tranh vanh. Gặp bệnh lo bệnh, là nói bệnh trong ngũ hành gặp Quỷ vậy. Mộc gặp Tân
Tị kim, hỏa gặp Giáp Thân thủy, thổ gặp Canh Dần mộc, kim phùng Ất Hợi hỏa, loại nhƣ
vậy, gọi là Hưu tù diệt tuyệt. Phùng sinh đƣợc sinh, là ngũ hành xứ sinh gặp sinh vậy, nhƣ
mộc lâm Quý Hợi thủy, hỏa gặp Canh Dần mộc, thủy gặp Nhâm Thân kim, kim gặp Đinh Tị
thổ, loại nhƣ vậy, gọi là Vượng tướng tranh vanh. Hoặc gặp ở lúc sinh, hoặc gặp ở tuế vận,
lại xem đầu cuối, tùy theo tiêu tức phù hợp. Ngũ hành sinh ta là Phụ Mẫu, ta sinh là Tử Tôn;
350 | Tam mệnh thông hội

khắc ta là Quan Quỷ, ta khắc là Thê Tài, tỉ hòa là Huynh đệ, kỵ ở đất Không Vong Tử Tuyệt,
lo sợ ở đất hƣu tù suy bại, nói là tùy theo chỗ gia quyến thân thuộc gặp. Chỗ này là tổng luận
chính hành, sinh ở giữa trời đất, ngụ ở bên trong 12 chi, có trƣờng sinh, mộc dục, quan đái,
lâm quan, đế vƣợng, suy, bệnh, tử, mộ, tuyệt, thai, dƣỡng, trong đó có tứ cát, tứ hung, tứ bình
vậy. )
06-05-16, 10:38
lesoi
Mộ ở trong Quỷ, là rất nguy hiểm; Túc hạ lâm Tang, có thể thấy trước mắt.
(Mộ ở trong Quỷ, là chính hành trên đƣờng Mộ Quỷ, nhƣ kim sợ Kỷ Sửu hỏa, mộc phòng Ất
Mùi kim, thủy sầu Bính Thìn thổ. Thổ kỵ Mậu Thìn mộc, hỏa sợ Nhâm Tuất thủy, cách nhƣ
vậy, hoặc là hành ở tuế vận, chủ rất hiểm nguy. Túc hạ lâm Tang, lấy trƣớc mệnh 2 thần là
Tang Môn, nhƣ ngƣời Tân Hợi thấy Kỷ Sửu, đã nhập mộ lại còn lâm Tang Môn, chính là Túc
Hạ đều là họa. Có thể thấy trước mắt, là nói gặp hung đến nhanh vậy. Nếu Thái Tuế, các chƣ
sát, lâm đại tiểu vận, lo sợ tai họa bất trắc, phòng có tƣợng tang phục bên ngoài. )

Dựa theo Ấm xét dương họa, Tuế tinh chớ phạm ở Cô Thần; là Dương xem lấy Ấm tai,
Thiên niên kỵ phùng ở Quả Tú.
(Ngƣời Dần Mão Thìn, Tị là Cô Thần, Sửu là Quả Tú. Vị trí Dần Thìn là dƣơng, vị trí Sửu Tị
là âm, cho nên viết Dựa theo Âm xét dương họa. Tuế tinh chớ phạm ở Cô Thần, nhƣ ngƣời
Tị Ngọ Mùi, lấy Thân là Cô Thần, Thìn là Quả Tú, vị trí Mùi Tị là âm, vị trí Thân Thìn là
dƣơng, cho nên viết là Dương xem lấy Âm tai. Thiên niên kỵ phùng ở Quả Tú, Thiên Niên,
là Tiểu vận vậy. Tuế tinh, là Thái Tuế vậy. Dƣơng lấy Cô Thần làm trọng, âm lấy Quả Tú
làm trọng. Từ viết: Âm lấy dƣơng là Đối, dƣơng lấy âm là Ngẫu, nói dƣơng là không hẳn
không có âm, nói âm là không hẳn không có dƣơng, cho nên dựa vào âm có thể xét dƣơng, là
dƣơng có thể xem âm. Tuế tinh, là Thái Tuế vậy, không thể ở trên Cô Thần. Giả nhƣ ngƣời
Dần Mão Thìn, gặp Thái Tuế ở Tị, ngƣời Dần là Câu Giảo, ngƣời Mão là Tang Diếu, ngƣời
Thìn gọi là Khống Thần Sát, lại còn gọi là Yêu thần, chủ trở ngại bế tắc. Thiên Niên cũng là
Thái Tuế, không thể ở trên Quả Tú, nhƣ ngƣời Dần Mão Thìn, gặp Thái Tuế ở Sửu, ngƣời
Thìn là Câu Giảo, ngƣời Mão là Tang Điếu, ngƣời Dần gọi là Khuy Thần Sát, còn gọi là
Bách Thần Sát, chủ ngƣời trộm cƣớp, cƣỡng bức, hãm hại. Hoặc kỳ tam nguyên khắc ta, tuế
vận bất hòa, là năm ngũ hành làm hại Lộc Mã, thì là hung rất nặng. )

Trước luận nhị khí, thứ khóa duyên sinh. Phụ bệnh suy kỳ Tử lộc, Thê tai khóa lấy phu
niên.
(Ngũ hành tƣơng sinh gọi là phụ tử, kỳ là khí truyền thụ, là loại Thanh Xích vậy. Âm Dƣơng
tƣơng chế nhƣ là Phu Thê, kỳ là thần giao hợp, là các loại can chi vậy. Giả nhƣ kim là bệnh,
chắc chắn là sợ hỏa, cấp tốc cầu thủy để cứu, là do lấy kim sinh thủy là Tử, có thể khắc hỏa
vậy. Lại nhƣ kim là tai, sợ gặp hỏa vậy, lại xem hỏa hƣu vƣợng nhƣ thế nào, chỗ này là 2
phép cứu giải, rất là thiết yếu.
Từ viết: Nhị khí, là âm dƣơng vậy. Duyên sinh, là vận mệnh vậy. Trƣớc là phân biệt âm
dƣơng, sau là xem vận mệnh. Hai câu Phụ bệnh, là tƣợng rõ âm dƣơng tiến thoái vậy. Giả
nhƣ ngƣời Canh Thìn, sinh tháng 10, Canh kim bệnh ở Hợi, là Phụ bệnh vậy. Canh sinh
Nhâm là Tử, Nhâm lộc ở Hợi, là Tử có lộc vậy. Canh lấy Ất làm thê, đại vận đến Tị, Ất mộc
bệnh ở Tị, là Thê tai vậy. Nhƣ ngƣời sinh ngày Nhâm Quý, lấy Canh Tân làm Phụ, hành vận
Hợi Tý, kim bệnh tử ở Hợi Tý, chủ Phụ Mẫu có tai họa, hoặc có đại tang. Ngƣời sinh ngày
Bính Đinh, lấy Canh Tân làm thê, hành vận Dần Mão, kim tuyệt ở Dần Mão, chủ thê tai hoặc
tang vợ. Lại nhƣ ngƣời Bính Dần, đại vận đến Mậu Thân, hỏa tuy bệnh, mà Bính Dần là cha
Mậu Thân, thổ đến Thân là trƣờng sinh, tử lộc ký sinh, là cha nhận phúc ấm Tử lộc (Tử là
con, Phu là cha, Thê là vợ), tuy bệnh cũng không đến chết. Nhƣ ngƣời Đinh Mão hỏa, hành
vận đến Giáp Ngọ kim, hỏa khắc kim là Thê, kim đến Ngọ là bại, gọi là Thê tai. Đinh Mão
351 | Tam mệnh thông hội

hỏa vƣợng ở Ngọ, lại phùng Thiên Lộc, kim hỏa tƣơng đắc, âm dƣơng tƣơng hợp, tuy ngũ
hành thê tai, lấy năm Phu vƣợng mà không là hung. Bởi vì Phụ Tử là một thể tƣơng quan,
phu thê là hai thể đồng cƣ, là ngƣời cốt nhục thân nhất vậy. Cho nên xem mệnh Phu Tử, gặp
hung thần ác sát, lúc hình thƣơng phụ mẫu thê tử, thì cha bệnh tất nặng, vợ họa tất trọng. )

lesoi
Tam cung nguyên cát, họa phùng có thể kéo dài; đầu cuối đều hung, tai họa đến rất
nhanh.
(Tam cung, chính là tam nguyên Lộc, Mệnh, Thân cung trƣờng sinh. Tứ trụ cƣ ngụ là Cung,
phùng Lộc Mã Quý nhân, ngũ hành sinh vƣợng, gọi là Nguyên cát. Tuy hành niên tuế vận
phùng hung thần ác sát, sẽ gặp họa, cũng trì hoãn mà không đến nỗi chết yểu. Tam nguyên
ngũ hành vô khí, lại thêm tuế vận hung thần ác sát lâm đến, là đầu cuối đều hung, họa đến, rất
nhanh mà không thể cứu. Từ viết: Trƣớc luận âm dƣơng thủy chung, chỗ này nói nhân mệnh
cát hung. Nhƣ Thiên nguyên, Nhân nguyên, Chi nguyên trong mệnh, trong ngoài năm tháng
giờ, gặp quý lộc không không cƣ nơi hƣu bại, là căn cơ chủ bản, tam nguyên vốn là cát. Nếu
gặp hành niên thái tuế vận mệnh ở đất trái nghịch nguy hiểm, nhƣng cũng có thể suy họa đến
chậm vậy. Nếu trong ngoài tam nguyên, tuy có Lộc Mã quý khí, nhƣng trong bát tự xung
hình phá hại, không chỉ có quý mà không quý, cuối cùng là là hung mệnh. Nhƣ gặp cát vận,
thì đề phòng vì phúc sinh họa; gặp vận hung, thì họa bỗng đến rất nhanh. Cả hai nghĩa giải
thích là đồng nhất vậy. )

Trạch Mộ thụ Sát, lạc lương trần lấy thân ngâm; Tang Điếu lâm Nhân, biến cung thương
làm lộ giới.
(Trƣớc mệnh 5 thần là Trạch, sau mệnh 5 Thần là Mộ. Sát, là Kiếp Sát, Tai Sát, Tuế Sát vậy.
Trƣớc mệnh 2 thần là Tang Môn, sau mệnh 2 thần là Điếu Khách. Nhân, là Nhân nguyên
vậy. Cổ thiện ca, có âm thanh nhiễu lƣơng; Thiện xướng, là hợp ca khúc Cung Thƣơng (hai
trong ngũ âm của nhạc cổ điển Trung Quốc). Ngày nay dịch lấy là Thân ngâm sầu thán, biến
thành lộ giới bài ca đƣa tang, cho nên gọi là Tang Điếu lâm môn, Trạch Mộ thụ Sát vậy.
Hoặc là kỳ Thái Tuế, Hung Sát cùng đến, Đại, Tiểu vận hạn hình xung, tất dẫn đến hung họa,
cần phải chuẩn bị dự phòng. Hoặc hai vị trí Trạch Mộ, nếu gặp 6 tuổi hàng năm, Tang Môn,
Điếu Khách, Hoàng Phan, Báo Vĩ, Thái Âm, Đại Hao, Tƣớng Quân các chƣ ác sát nhập
Trạch, một là chủ thân ngâm, hai là chủ đau khổ, ba là chủ phân ly, bốn là chủ tang chế, chỗ
này là Tứ thanh nhập Trạch. Hoặc nói, khó miễn di cƣ tị nạn. Chỗ này là nói chỗ gặp Lƣu
niên hung sát vậy, nhân mệnh vốn có thì càng nặng. )

Can suy lưỡng trọng, đề phòng tai họa ở giữa đầu mặt; Chi chiết tam khinh, cẩn thận họa
ở bên trong tứ chi; Hạ nguyên nhất khí, chu cư khứ trụ chi kỳ.
(Can suy lưỡng trọng, can là Thiên nguyên, vốn thủ lấy tƣợng. Gặp Đức kiến quý, là cát;
phùng Sát gặp Quỷ, là hung. Thiên nguyên cả hai đều gặp thụ khắc, nhƣ sinh Giáp Tý, đƣợc
tháng Canh Ngọ, lại thêm ngày Canh Ngọ, gọi là Lưỡng trọng, là do can không thắng trọng
khắc vậy, đề phòng tai họa ở giữa đầu mặt lƣng ngực. Chi chiết tam khinh, chi giống nhƣ
đoạn tứ chi con ngƣời, ở mệnh chủ, mang tam hợp, lục hợp là cát; phùng tứ xung, tam hình là
hung. Chi thần tam hình phùng thƣơng, nhƣ ngƣời Tân Dậu, gặp tháng Canh Dần, ngày Đinh
Tị, giờ Mậu Thân, nói là Khinh, là do hình không đến với bản mệnh vậy; cẩn thận họa ở tạng
bụng, bên trong tứ chi, hoặc lấy tam hợp phùng thƣơng, cũng thông.
06-05-16, 10:39
lesoi
352 | Tam mệnh thông hội

Hạ nguyên nhất khí, là nói nạp âm vậy. Chủ tể ngũ hành, từng can kiền chi thiên biến mà
thành cát hung, tai họa bất kể tứ chi đầu mặt, cho nên nói Chu cư khứ trụ chi kỳ. Nói can suy
lƣỡng trọng, huống chi là tam? Chi chiết tam khinh, huống chi là hai? Ở chỗ này là phân biệt
khinh trọng vậy. Hoặc nói, chỗ này là luận thập can, phùng đại vận gặp ở trên can năm này,
phản khắc Thái tuế, can khắc danh là Quỷ lâm đầu, mang tật ở đầu mặt. Thập nhị chi thần,
nếu thân mệnh phùng sinh tử, vƣợng ngũ quỷ, phải có tật ở lƣng chân tứ chi, so với ở can là
khinh vậy. Lại nói khí vận 《 Đào Ẩn cư ca 》 viết: Giáp Kỷ 5 tuổi Ất Canh 4, Bính Tân 3
tuổi Đinh Nhâm 2, Mậu Quý phải suy từ một tuổi. Lại có nạp âm khí hành vận, tƣơng sinh là
phúc đức tƣơng khắc là hung, ngũ hành cung thuận đều nhƣ ý. Ngƣời Kim gặp kim phạm
hung họa, ngƣời mộc kiến mộc mƣu cầu toại ý, ngƣời thủy gặp thủy chủ diêu động, khí vận
thuận nghịch cần phải nhớ. Giả sử nam mệnh Quý Dậu, sinh tháng 3, tháng 3 là Bính Thìn,
thì theo Bính Thìn khởi 3 tuổi, Đinh Tị thổ là 2 tuổi, chỗ này 5 tuổi nạp âm là thổ, chớ không
có hình khắc. Trụ Mậu Ngọ 1 tuổi, trụ Kỷ Mùi 5 tuổi, chỗ 6 tuổi này nạp âm là hỏa, kim gặp
hỏa là hung. Trụ Canh Thân 4 tuổi, Tân Dậu 3 tuổi, chỗ này 7 tuổi nạp âm là mộc, từ 12 đến
18 tuổi, chủ mƣu cầu toại ý. Còn lại dựa theo chỗ này thứ tự mà đếm xoay vòng. Hoặc là một
cung trụ 5 tuổi, hoặc là trụ một tuổi, cho nên nói là Khứ trụ chi kỳ. Trụ đại vận ở đất vƣợngg,
nếu nhƣ có khí tƣơng chế, thì không thể là hại.

Nhân và bất nhân, lo tổn thương phạt ở Mậu Kỷ, về phần Tẩm thực thị vệ. Vật có quỷ vật,
người có người quỷ, gặp là tai, khử là phúc.
(Giáp Ất mộc ngũ thƣờng là Nhân, kim trái lại là nói Bất nhân, lấy kỳ khắc Mậu Kỷ là hung
vậy. Nhƣ Giáp kiến Mậu, Ất kiến Kỷ, dụng âm thiên dƣơng, là khắc là phạt, là cô là bối, thì
ngũ hành là Bất nhân vậy. Nếu Giáp kiến Kỷ, Ất kiến Mậu, cƣơng nhu đón nhau, cả hai đƣợc
chỗ, không có thể nói là bất nhân vậy. Trong bài Phú đƣa ra ví dụ Giáp Ất Mậu Kỷ, còn lại
các ngũ hành khác dựa theo mà tìm. Ngũ hành biến hóa, cùng nhân sự là tƣơng thông. Về
phần Tẩm thực thị vệ, đều không ngoài ở chữ Nhân mà thôi. Ngũ hành, ta khắc gọi là Tài,
khắc ta gọi là Quỷ. Ví dụ nhƣ ngƣời Tân Mão, gặp Đinh Dậu, Tân lộc ở Dậu, phùng Đinh là
Quỷ của Tân, gọi là Lộc đầu phùng Quỷ, vật có quỷ vật. Mệnh thuộc mộc, Dậu thuộc kim,
kim đến khắc mộc, gọi là Nhân nguyên thụ khắc, ngƣời có ngƣời quỷ. Trong cách cục có
loại này, vận phùng thì thành tai, khử thì thành phúc.
Hoặc viết: Quân tử sáng dậy tối nghĩ, thƣờng nên giữ gìn sức khỏe, hoặc ăn uống không điều
độ, động chuyển sinh tai, thế là trong hợp phùng quỷ, trong cát tàng hung. Tuy hoặc là chỗ
làm nhân tình, cũng đƣợc chỗ âm dƣơng chủ trì vậy. Tẩm thực, là nói điều dƣỡng cấp thiết
vậy. Thị vệ, là nói trái phải rất gần vậy. Cả hai chỗ này, rất không thể xem thƣờng. Lấy trong
vật có quỷ vật, trong ngƣời có ngƣời quỷ, thay đổi cát hung, từ gần đến xa, rất là nhanh vậy.
Ví nhƣ Mậu kiến Giáp là Bất nhân, hoặc trong năm tháng giờ thấy Canh Tân thì là Nhân. Nói
Mậu Thực Canh, Canh lại chế Giáp, hoặc thấy Kỷ cũng là Nhân, nói Kỷ hợp Giáp, có thể
Giáp là Thị vệ vậy. Mậu phùng Giáp mộc bất nhân là tai, có Canh Kỷ là Tẩm thực thị vệ, là
dụng khử thành phúc. )
06-05-16, 10:41
lesoi
Tựu trung Lỏa hình hiệp Sát, phách vãng phong đô; chỗ phạm có thương, hồn quy đại
lĩnh.
(Tựu trung, đoạn văn trên là nói Quỷ Vật và ngƣời. Chỗ gặp Tựu trung là rất quan trọng, đất
ngũ hành mộc dục, gọi là Lỏa Hình, nhƣ bản âm mộc dục, đại vận phùng là tai. Ngƣời thủy
thổ vận ở Dậu; ngƣời mộc vận ở Tý; ngƣời hỏa vận ở Mão; ngƣời kim vận ở Ngọ, Quỷ Cốc
Tử gọi là Ba lãng hạn. Hợp Sát, là Nguyên thần Thất Sát vậy, nhƣ ngƣời vận ở trên mộc
dục, hợp cùng Thái Tuế, là tai. Hoặc lúc sinh năm giờ vốn có chổ thần phạm, thì là Hồn quy
đại lĩnh, phách vãng phong đô, danh này là rất hung vậy. Hoặc nói: Hợp Sát, là Củng Thất
Sát vậy. Lỏa hình kiến Sát, rất là không cát. Ngọ là Tân Sát, Dậu là Ất Sát, Tý là Đinh Sát,
353 | Tam mệnh thông hội

Mão là Kỷ Sát. Giả nhƣ ngày Tân Tị, giờ Ất Mùi, là Lỏa Hình hiệp Sát. Còn lại loại suy theo
chỗ này. Hoặc lấy ngƣời Giáp Tý kim, gặp Tuế là Mậu Ngọ, kim lỏa hình ở Ngọ, lại thêm
Mậu Ngọ hỏa vƣợng, kẹp theo tự hình, phản ngâm Tai Sát, phá mệnh Giáp Tý. Nhƣ vậy, thì
gọi là Chỗ phạm có thương. )

Hoặc chính là Hành lai xuất nhập, phạm chống phương hung, giá thú tu doanh, lộ đăng
hoàng hắc.
(Hành lai xuất nhập, là hành động vậy. Giá thú tu doanh, chính là thì hành động tác lớn
vậy. Cát hung hối lận sinh ở động, cho nên quân tử cẩn thận chỗ này. Lạc Lục Tử ghi nhớ
đàm luận ngũ hành tam mệnh, lại nói chỗ phƣơng xuất nhập, nên tránh Tứ Ma, Ngũ Quỷ, Lục
Hại, Thất Thƣơng, Bát Nan, Cửu Ách là phƣơng hung. Nhất đức, nhị sinh là phƣơng cát. Thủ
xem từng năm thần sát Thái Tuế, hành hoàng đạo là cát, hắc đạo là hung vậy. Hoặc viết: Chỗ
này là luận vận khí con ngƣời, từ nguyên vận mà hành đến xuất nhập đất cát hung, gặp ngũ
hành tƣơng khắc tƣơng sinh, lý là có Giá thú tu doanh. Ngũ hành, ta khắc gọi là Thê, Thê ở
đất ngũ hành sinh vƣợng thì có thể cƣới, cƣới thì đƣợc trợ giúp. Khắc ta gọi là Phu, Phu ở đất
ngũ hành sinh vƣợng, thì có thể cƣới, cƣới thì thành phúc. Nói xuất ở Phu Phụ, nghĩa là có
thành giá thú vậy. Tu doanh, là nói ngũ hành tuy có chính tính, giữa cả hai có thay đổi bất
thƣờng, là lấy quân tử tu đức, Doanh sinh, là đợi thời mà lấy. Lộ đăng hoàng hắc, là chỉ
nguyên vận ở trên tháng, hành 10 năm Hắc đạo; thuận hành đến trừ mãn, thƣợng hành Hoàng
đạo. Nhƣ vận đến Hoàng đạo, phàm sự đều lợi; vận đến Hắc đạo, phàm sự đều bế tắc. Phàm
ngƣời phải làm động tác, tiến thoái hƣớng bối, nếu không vốn ở âm dƣơng, thể hợp vận khí,
cát hung đều không thể tránh khỏi. )
06-05-16, 10:41
lesoi
Tai phúc ở bên trong vị trí Tuế niên, phát giác kích dương ở ngày giờ. Ngũ thần tương
khắc, tam sinh định mệnh. Mỗi khi thấy Quý nhân Thực Lộc, không ngoài ở đất Lộc Mã;
đất nguyên trọc phục ngâm, cung phiền muộn ngưng nghĩ .
(Phàm nói cát hung ở trong Tuế, chuyên nói xem ngày giờ cùng Thái Tuế sinh khắc, hình
xung. Ngày sinh là Thê, giờ sinh là Tử. Ngày giờ cùng Thái Tuế hòa hợp, cập Tài vật hữu
dụng không có phá nhiều, dựa theo sự vật mà nói.
Nhƣ Thái Tuế cùng ngày giờ hình khắc nhau, hoặc lục hợp tam hợp trong có Nguyên thần,
Thất Sát, là hung. Cũng xem loại mà nói. Hoặc viết: Tuế niên, là nói chỉ Thái Tuế hành niên.
Phàm nhân mệnh gặp lƣu niên Tuế quân, hung thì là tai, cát thì là phúc, đều do ngũ hành kích
dƣơng trong ngày giờ, trở về ở vị trí Tuế. Ngũ thần, là ngũ hành vậy. Tam sinh, là Tam
Nguyên vậy. Phàm xem nhân mệnh, phải thâm cứu căn cơ, dụng tam nguyên định cung, lấy
ngũ hành phối hợp. Phép này lấy ngày giờ, Lộc Mã nguyên cầu 5 vị, hoặc tƣơng sinh ở bản
mệnh kiến đất vƣợng, hoặc bác khắc ở lúc sinh đất tuyệt diệt. Về phần vận hạn gia lâm, tất có
điềm cát hung. Phàm gặp ngũ hành mà tạo hóa diệt Tuyệt, Không Vong, lại gặp vận hạn hình
xung, ác tinh giao nhau, chủ nhiều lo mà ít vui, tất sẽ chết yểu, Trù trướng thân ngâm, cho
nên gọi là đất Hƣu cung. Hoặc chỉ Trù trƣớng là tên Sát, ngƣời Tý thấy Hợi, ngƣời Mão thấy
Dần, ngƣời Ngọ thấy Tị, ngƣời Dậu thấy Thân. Ngũ Thần, là chỉ Tuyệt thể, Du hồn, Ngũ quỷ,
Tuyệt mệnh, Bản cung. Tam sinh là Sinh khí, Thiên Y, Phúc Đức. Chỗ này trở lên là phép
nói Xuất Nhập, Giá Thú, Tu Doanh, không phải nói Tam Mệnh. Nói sử dụng bên trong vị trí
ngũ hành Thái Tuế, xem họa phúc, cũng cần chọn ngày cát giờ cát, là có thể dụng sự. Nòi
cũng hiểu. )

Cuồng bạo khởi ở Câu Giảo, họa bại phát ở Nguyên Vong. Trạch Mộ đồng xứ, e rằng ít
vui mà nhiều buồn lo; vạn lý hồi hoàn, chính là đất tam quy.
(Thần Sát, tinh khí ngũ hànhcủa trời đất vậy, đều có chỗ cát hung. Đàm mệnh trƣớc tiên suy
ngũ hành Cách Cục hƣu vƣợng, sau đó xét lấy Thần Sát, xem loại việc. Mệnh dƣơng lấy
354 | Tam mệnh thông hội

trƣớc 3 thần là Câu, sau 3 thần là Giảo; mệnh âm lấy trƣớc 3 thần là Giảo, sau 3 thần là Câu.
Hoặc giao lâm vận hạn, chính là Chiêu tai cuồng hoành. Nguyên thần, Vong Thần, là tên 2
Sát. Lúc sinh lại gặp hung sát, tuế vận hình tinh, đa số liên thông vì việc nƣớc, vô cớ vƣớng
vinh; lấy thêm Trạch Mộ đồng xứ ở trên Câu Giảo, Nguyên Vong, càng hung. Thí dụ sinh
Quý Hợi, trƣớc 5 thần thấy Mậu Thìn, là thủy mộ, lƣu niên tuế vận nếu lại mang Sát, ở trong
cùng xứ, gọi là Trạch Mộ đồng xứ vậy. Tam Quy, là Thìn Tuất Sửu Mùi, hay gọi là Tam
Khâu, hoặc là Ngũ Mộ. Vạn vật quy căn phục mệnh, phản bản hoàn nguyên. Phàm 4 thần
này, lấy ứng tƣợng trở về, hoặc lấy tam nguyên, ngũ hành đất quy túc là Tam Quy. Nhƣ
ngƣời Giáp Tý, gặp năm Hợi, là mộc nhất quy về lộc; gặp tháng Thân, là nhị quy thủy mệnh;
vận Tị, là tam quy thân kim, đều chỉ vị trí tam nguyên bản âm trƣờng sinh mà nói. Tuy thân
khách vạn lý trƣờng đồ, lý là có lấy trở về vậy. Từ viết: Câu Giảo không thể ở trên nguyên
mệnh, ngày giờ nhị vận, hoặc thêm hợp cùng Nguyên thần, Thất Sát, càng hung. Trạch Mộ,
nhƣ sinh Mậu Tý, gặp Thái tuế Tân Mùi, cũng cần trên ngày Mùi Tý có ngày giờ hoặc đại
vận đồng cung là nặng, chủ bất lợi ngƣời âm, tiểu khẩu gia trạch. Chỗ này nói đại vận ở giữa
12 thần, thuận nghịch hồi hoàn, ở tam nguyên bản lộc bản tài đất quy túc, gặp chỗ này, an vui
hƣởng phúc. )
06-05-16, 10:42
lesoi
Tứ Sát phụ, đa số sinh nam Ngũ Quỷ; đường Lục Hại, mệnh có chuyện Thất Thương.
(Chỗ này chuyên luận cốt nhục. Tứ Sát, là nói chỉ kiếp tai thiên địa. Hoặc lấy Tứ Âm Sát là
Thìn Tuất Sửu Mùi. Ngũ Quỷ, là ngƣời Tý thấy Thìn, Sửu thấy Mão, Dần kiến Dần, Mão
kiến Sửu, Thìn kiến Tý, Tị kiến Hợi, Ngọ kiến Tuất, Mùi kiến Dậu, Thân kiến Thân, Dậu
kiến Mùi, Tuất kiến Ngọ, Hợi kiến Tị vậy. Tam nguyên thụ thƣơng ở năm, dƣỡng tử hính là
nam Ngũ Quỷ, phản chế thụ khắc, không hòa thuận vậy. Lục Hại, nhƣ Tý xuyên Mùi vậy.
Thập nhị chi bất thuận, mệnh gặp 1, 2 lục hại. Hoặc triển chuyển hung sát cùng xung, ngƣời
nhƣ vậy, mệnh có quyết sự Thất Thƣơng vậy. Thất thương, là hại lục thân cùng bản thân
vậy. Hoặc lấy Tứ Sát, chuyên chỉ Tứ Kiếp. Ngũ hành sinh ở Tứ Mạnh. Sinh, là cha vạn vật,
ngũ hành khắc ta là Quỷ, chỗ ngƣời gặp Sinh Bại Vƣợng Tử Tuyệt là Ngũ Biến vậy. Thí dụ
Giáp Thân thủy tự sinh, là Kiếp Sát cha ngƣời mộc, còn sinh Canh Thân mộc là con, Giáp là
cha Canh, đến Thân là tuyệt, phùng Canh là Quỷ, cộng thêm Đinh Hợi, là vì lục hại Giáp
Thân, nhƣ vậy, thì mệnh có chuyện Thất Thƣơng vậy. Thất Thƣơng, cũng là tên thần sát.
Xem phú trƣớc có nói hoặc phùng Tứ Sát, Ngũ Quỷ, Lục Hại, Thất Thƣơng là thấy rõ.)

Gia quyến đồng tình thủy hỏa, tương phùng ở đất mộc dục. Trong đường cốt nhục phân
ly, Cô túc càng sợ ở Cách Giác.
(Chỗ này nói hợp đoạn văn ở trên vậy. Nhƣng Mộc dục là vị trí thứ hai của cung Trƣờng
sinh, là Tý Ngọ Mão Dậu vậy. Cô Thần, Quả Tú, đã luận ở trƣớc. Cách Giác, là Dần Thân Tị
Hợi vậy. Nhân mệnh có gặp Mộc dục tƣơng khắc, lại có Cô thần, Quả tú lâm ở vị trí Cách
Giác, nhƣ ngày Mão giờ Sửu, ngày Sửu giờ Mão vậy. Sửu, là khí ở bắc phƣơng; Mão, là thần
đông phƣơng, là vật khác nhau, Gia quyến đồng tình thủy hỏa, là nói không tƣơng hợp vậy.
Phân ly, thì càng nặng vậy. )

Cần phải hiểu Thần Sát, đo lường khinh trọng. Thân khắc Sát là nhẹ, Sát khắc thân là
càng nặng.
(Chỗ ngũ hành điều khiển, là mệnh vậy. Luận mệnh, tất trƣớc tiên phải lấy cách cục ngũ hành
tứ trụ, thứ là luận thần sát cát hung, mà có thể đo lƣờng họa phúc nặng nhẹ. Trƣớc tiên luận
ngũ hành, thấy căn cơ dầy mỏng, phân chia cách cục cao thấp, cả hai cùng khảo sát, để không
sai lầm. Ở trên có nói các tên Thần Sát nhƣ Câu Giảo, Nguyên Vong, Cô Thần, Quả Tú, Cách
Giác, Mộc Dục, Trạch Mộ, Tang Điếu, Phục Ngâm, Phản Ngâm, Tam Quy, Tứ Sát, Ngũ
Quỷ, Lục Hại, Thất Thƣơng vậy. Lộc Mã Tài Quan, Ấn thụ Thực thần, là ngũ hành sinh khắc
355 | Tam mệnh thông hội

chính lý, không thể lấy là tên thần sát. Thân, là nói chỉ can Tuế, hoặc lấy Tuế ở nạp âm mà
nói. Cát hung thần sát, hoặc đƣợc ở giữa ngày giờ, hoặc phùng ở bên trong Tuế Vận; nhƣng
lấy Sát khắc thân là trọng, thân khắc Sát là khinh. Lại phải theo ngũ hành, cách cục tứ trụ, suy
xét kỳ Tiêu Tức. )
06-05-16, 10:43
lesoi
Về phần vòng tròn Bát Quái, căn cứ di văn ở Hà Lạc . Lược chi định vi nhất đoan, nghiên
cứu trở thành vạn đầu mối.
(《 Lạc Lục Tử 》 nói: Ngũ hànhTam mệnh, không ở ngoài Cửu cung Bát Quái, vòng tròn
suy cứu, thì có rất nhiều đạo lý xuất ra từ chỗ này. Ở đây không giả thuyết, là vì di văn 《 Hà
Lạc 》 mà thành vậy. Thủy xuất nhất đoan, 《 Dịch 》 là có Thái Cực vậy. Trở thành vạn
đầu mối, biến thành 64 quẻ, 384 hào, cát hung hối lận, không chỉ có vạn đầu mối mà thôi.
Nhất đoan vạn tự, tại học giả lƣợc chi cứu chi. Hoặc viết: Lược chi định vi nhất đoan, tức là
Nguyên Nhất Khí hề Tiên thiên vậy; nghiên cứu phiên thành vạn đầu mối, tức là chỗ nói ở
trong bài phú về Ngũ hành, Tam nguyên, Vận khí, Hành niên, Lộc Mã, Quý Đức các chƣ
thần sát cát hung vậy. )

Nếu gặp Phàn An Tiễn Lộc, phùng thì Bội Ấn thừa hiên; Mã liệt Tài vi, gặp thì lưu mà
không phản.
(Sổ khởi đầu là 1 mà hết là ở 9. Là Cửu vậy. Nghiên cứu số cùng là hết, mà cực ở 9. Cửu, là
cửu dƣơng thái quá, là số cùng cực sinh hóa vậy. Lý lẽ quý tiện thành bại con ngƣời, ai cũng
từ ở số mà thôi.
Thí dụ sinh năm Quý Dậu, tháng Nhâm Tuất, ngày Đinh Hợi, giờ Canh Tý, tọa thiên can lộc,
trong tháng, ngày, giờ nạp âm là thủy thổ, đƣợc thành số tam dƣơng sinh vƣợng; sinh âm,
mệnh tam thần hội ở trên Lộc Mã Phàn An, vậy mệnh này, tất dấn thân ở quý hiển, cho nên
nói viết Nếu gặp Phàn An Tiễn Lộc. Nhƣ sinh năm Ất Dậu, tháng Đinh Hợi, ngày Kỷ Mão,
giờ Đinh Hợi, tháng Hợi tuy cƣỡi thủy Mã, gặp Đinh Hợi thổ khắc là Quỷ, ngày Mão tuy tọa
Thiên Lộc, lấy thủy thổ đều tử ở Mão, mà gặp Thân Quỷ xung phá bản mệnh, chỗ nói Lộc
Mã, trái là là lấy Quỷ tai vậy. Lộc Mã đã mất, tất dự vào Thân Tài để giúp, mà thủy lấy hỏa
Tài tự tuyệt ở Hợi, tháng ngày giờ sinh, đều lâm đất tam tài tử tuyệt, chỗ này là số ngũ hành
cùng tận vậy. Tuy có Lộc Mã Thân Tài, là chỗ quỷ vật đoạt hết, dẫu có đƣợc vận, lấy chung
số cùng tận hƣu bại, phiêu đãng không nơi trở về, cho nên viết là Mã liệt Tài vi. Hoặc viết:
Trƣớc Mã 1 thần là Phàn An, sau Mã một thần là Tiên Sách. Phàn An có vị trí, cùng Thiên
nguyên mang hợp, ngƣời đƣợc quý vậy. Cần phải lâm thêm cát tƣớng, tuế vận phù thân, lại ở
cung vƣợng tƣớng, mới có thể nói phúc. Dịch Mã vi liệt, Tài mệnh hưu tù, thì chỉ là đƣờng
oán than lao khổ, cuối cùng không có lập thành. Chỗ này lấy lâm tứ trụ, định chủ Phiêu
bồng. )
06-05-16, 10:43
lesoi
Chiếm trừ vọng bái, Giáp Ngọ lầy 4,8 là kỳ; khẩu thiệt văn thư, Kỷ Hợi cẩn thận 32. Thiện
Ác bạn nhau, diêu động thiên di; Giáp Sát Trì Khâu, thân nhân khóc tiễn.
(Chỗ này luận hành niên đại tiểu vận, đều từ ở số, số có chẵn lẽ biến hóa, cát hung sinh từ
chỗ này vậy. Ngƣời sinh Giáp Ngọ, 32, tiểu vận Đinh Dậu, kim thêm đất vƣợng, Thái tuế Ất
Sửu, bản âm đúng khố, lại phùng Dịch Mã nhập Trạch, Thiên Ất gia lâm, cho nên nói Chiếm
trừ vọng bái là hỉ. Ngƣời sinh Kỷ Hợi, 32, tiểu vận Đinh Dậu ở Điếu Khách, Thái tuế Canh
Ngọ ở đất tử, vẫn là cung Lục Ách, tam nguyên thụ khắc, cho nên có họa Khẩu thiệt văn thư.
Lại nhƣ tuế vận giao cung, nên cần hội ý; Cát hung bạn nhau, họa phúc giao công, không có
bất nhân thiên biến mà hƣng, cho nên nói Thiện Ác bạn nhau. Diêu động thiên di, là cát
hung hối lận sinh ở động vậy.
356 | Tam mệnh thông hội

Thìn Tuất Sửu Mùi, gọi là Tứ Sát, cũng là nói đất Tam Khâu, đều lấy ngũ hành Ngũ mộ. Giả
nhƣ Kỷ Tị mệnh mộc, đƣợc sinh ngày Ất Mùi, đây chính là Bản gia Tam Khâu, lại lấy thêm
Dƣơng Nhận, cho nên viết Giáp Sát trì Khâu, rất là nguy hiểm. Tự hành đến xuất nhập, là chỉ
Giáp Sát trì Khâu. Chỗ đoạn văn này, cũng đƣợc địa lý âm dƣơng , ví dụ Tam nguyên Cửu
cung, dụng lƣu niên Thái Tuế, quyết kỳ họa phúc, cũng là lý lẽ Tam Mệnh mà nay thuật
không đủ. )

Kiêm phải hiểu kỳ thao chấp, quan kỳ bỉnh trì. Luận kỳ cốt trạng dày mỏng, thành khí nhờ
ở tâm nguyên. Mộc khí thịnh mà Nhân thịnh, Canh Tân suy mà ít Nghĩa.
(Chỗ này nói tuy dụng ngũ hành định mệnh, thấy quý tiện họa phúc, lo có ngƣời hết sức đặc
biệt kiệt xuất, giống nhƣ Băng Thử Hỏa Quy, khó mà đo lƣờng, thì tam nguyên ngũ hành,
không đủ để nói hết vậy. Kiêm phải tường kỳ thao chấp bỉnh trì, cốt trạng tâm nguyên, tắc
thị kỳ sở dĩ, quan kỳ sở do, sát kỳ sở an, tâm thuật chế hành, lƣỡng đắc chi hĩ; tƣớng mạo đức
hạnh, nhìn qua lại nhau vậy. Nhân yên sấu tai? Nhân yên sấu tai! Phép này Lạc Lục Tử xem
con ngƣời, là có hợp ở cách luận của tôi vậy. Ma Y có tâm vô tƣớng, tƣớng theo tâm sinh; có
tƣớng vô tâm, tâm theo tƣớng diệt, cũng là nghĩa này. Giáp Ất mộc chủ Nhân, Bính Đinh hỏa
chủ Lễ, Mậu Kỷ thổ chủ Tín, Canh Tân kim chủ Nghĩa, Nhâm Quý thủy chủ Trí. Mộc thịnh
thì Nhân thịnh, kim suy thì Nghĩa ít, còn lại đều tƣợng sự biết khí, biết đến chiếm sự, chỗ này
lấy ngũ hành phối ngũ thƣờng, định khí lƣợng con ngƣời vậy. )

Ác diệu gia mà có hỉ, Nghĩ kỳ đại khí; phúc tinh lâm mà họa phát, Dĩ biểu người hung.
(Tu ở thân, đức mới chân, cho nên viết, Trung hiếu Nhân Nghĩa, là thuận đức vậy. Tuy lâm
chƣ sát, lại là Quyền tinh; phú quý mà kiêu, tự rƣớc sai lầm. Cho nên viết, bội ngạo vô lễ, là
nghịch đức vậy. Thiện không mất thiện báo, làm ác tự rƣớc họa. Chỗ này Lạc Lục Tử cảnh
giới vậy. Nghĩ, biểu thì hai chữ rất có ý nghĩa. Ác diệu nên gia họa, trái lại là có hỉ, quân tử
không thể không có đại khí vậy. Bởi vì ngƣời có đủ nhận thức rộng lớn, trung hiếu nhân
nghĩa, cẩn thận lễ phép, họa làm sao mà có? Cho nên viết là Nghĩ. Phúc tinh lâm nên hỉ trái
lại là có họa, là mệnh tiểu nhân là làm ngông cuồng vậy. Bất trung bất hiếu, bất nhân bất
nghĩa, bội nghịch vô lễ, họa sao mà tránh? Cho nên viết Dĩ Biểu. 《 Ngữ 》 viết: Hung nhân
hung kỳ cát, cát nhân cát kỳ hung, là chỗ này vậy. Chỗ này nhận đoạn văn ở trên Thao chấp
bỉnh trì, cốt trạng tâm nguyên, là nói: Quân tử, kiến Tiểu nhân vậy. )
06-05-16, 10:44
lesoi
Xứ định cầu động, khắc không hết mà khó chuyển; cư an hỏi nguy, có trong hung mà nói
cát.
(Chỗ này Lạc Lục Tử dạy ngƣời đạo lý cầu danh mƣu động, xu cát tị hung vậy. Thiên mệnh ở
đức, cũng phải luận khắc ta, khắc nó. Ta khắc nó thì thành Quyền, bị nó khắc thì thành Quỷ.
Là khắc là Tài, không khắc không thực. Chỗ nói xứ định cầu động, khắc không hết là khó
chuyển, hành niên tuế vận ngũ hành, đến khắc bản mệnh là Quan, không thể di động, nên yên
tĩnh mà đợi. Lại nhƣ kẻ sĩ hỏi công danh, không xung không khắc, thò khó lấy phát việt. Cƣ
an hỏi nguy, có trong hung mà nói cát. Quân tử cƣ thì xem tƣợng mà ngắm từ, động thì xem
biến là ngắm xem, là lấy từ ngày có cát không có bất lợi. Mà bắt đầu cát hung họa phúc vậy,
không phải thánh nhân, ai có thể suy xét đƣợc trƣớc lúc chƣa nảy sinh chứ? Nếu có thể xu cát
tị hung, cƣ an lo nguy, cũng để mà không có sai lầm vậy. )

Quý mà vong tiện, tai tự sinh Xa; mê mà không phản, họa theo hoặc khởi.
(Quân tử thấy mệnh trời, mà không dám cầu phúc ở trời; Tiểu nhân vô lễ với mệnh trời, mà
không biết ở lúc phúc ở bản thân. Quý mà vong tiện, mê mà không phản, không thể cƣ an
hỏi nguy, mà chuyển chỗ định cầu động, là lấy tai tự sinh Xa, họa tòng hoặc khởi, đến nỗi
vong thân bại gia mà không hối lỗi, cũng không không khốn khổ chăng? Xa, là tranh chấp
357 | Tam mệnh thông hội

cùng cực, hoặc là đam mê tửu sắc. )

Thù thường dịch cựu, xứ biến là manh nha; phúc thiện họa dâm, khác điềm cát hung.
(Động Tĩnh là then chốt của lợi hại, có lo là cánh cửa họa phúc. Nói không thể không cẩn
thận, then chốt không thể không khảo sát. Tiểu nhân không biết thiên mệnh, không thủ
thƣờng đạo, con thƣờng mạng sống của mình, thì họa dâm bắt đầu từ chỗ này vậy. Quân tử
đắc thời mà động, thất thời mà thủ, thế thiên hành đạo, lo ở khinh động, thì phúc thiện từ chỗ
này mà sinh vậy. 《 Dịch 》 viết: Cát hung hối lận, là sinh ở động vậy. Lại viết: Cát hung, là
tƣợng đƣợc mất vậy. Nhà tích thiện, tất có dƣ khánh; nhà không tích thiện, tất có dƣ tai. Lại
viết: Biết đạo tiến thoái tồn vong, duy chỉ có Thánh nhân ƣ? Chỗ này Lạc Lục Tử đại giới ở
bài cuối cùng vậy. )
Về phần Công Minh, Quý chủ, đoạn văn trên vẫn còn chƣa nhận thức đủ; Cảnh Thuần, Trọng
Thƣ, kỳ diệu là không ghi hình đối chiếu.
(Quản Công Minh, Tƣ Mã quý chủ, Quách Cảnh Thuần, Đổng Trọng Thƣ, đây là Tứ hiền tài,
tham thiên áo diệu con ngƣời, nguyên lý tính mệnh, tƣợng số cùng âm dƣơng, biết quá khứ
tƣơng lai cát hung, đoạn văn trên không nhận thức biến hóa, kỳ diệu là không ghi hình đối
chiếu, lời nói tạo hóa thâm ẩn, không dễ độ lƣợng. Lạc Lục Tử không nói danh tính, không
biết ngƣời thời nào. Xem câu phú, tự nói ra từ Lan Dã, lại xƣng cùng với Quách Cảnh Thuần,
nghi ngờ ngƣời thời Lục Triều (Ngô, Đông Tấn, Tống, Tề, Lƣơng, Trần kế tiếp nhau đều
đóng đô ở Kiến Khang, tức Nam Kinh, Trung Quốc ngày nay), gần thời kỳ nhà Lƣơng Chiêu
Minh. Chỗ ở Chiêu Minh, là Lăng Lan Dã vậy. Hoặc là nói thời Chu Linh Vƣơng Thái tử
thời nhà Tấn, là vu khống. )

Nói rõ thời vua đã qua, cái gương tiền hiền, hoặc chỉ lấy nhà Trần bàn bạc, hoặc ước chữ
mà thiết lý, còn lại nhiều hoặc ít, hai nghĩa khó tinh. Nay tham tường được mất, tu bổ biếu
tặng, là cái gương quy tâm, treo vĩnh viển nơi trong sạch, xa rơi nơi nhung lụa, ngàn hi
vọng được một.
(Phàm luận ngũ hành, không rời khỏi đạo vậy, là không xa rời thế sự vậy, cũng không xa tời
ngƣời và vật vậy. Hoặc ƣớc chữ mà thiết lý, hoặc chỉ lấy nhà Trần bàn bạc, ở trong Thần Sát
giao tham, cát hung hỗ thể, là biết thông đạo ngũ hành, nhớ vật khó cùng, trong lúc truyền bá,
sao nói ít tu bổ? Lạc Lúc Tử cuối cùng nói chỗ này, là nói làm phú, tƣờng di văn Thánh xƣa,
gƣơg soi tiền hiền đƣợc mất, chữ nhiều mà nói đơn giản, đạo diệu mà nghĩa thâm, hiển nhân
tàng dụng, là Kim chỉ nam của ngũ hành tam mệnh vậy. Hậu học tính toán chỗ này mà phát
minh, làm cho ngƣời điếc thông, mù thành sáng, trải qua trăm đời mà vô tận, tính thống nhất
không đổi. Xem đầu đến cuối, luận thông thần hợp biến, tung hoành ngang dọc, đều không
chìm ở thuật của ông ấy; nói lời cảnh giới, có nhiều phù hợp với đạo. Nếu Lạc Lục Tử, chẳng
lẽ không phải kẻ sĩ viên thành, cao thƣợng lƣu truyền vậy ƣ? )
06-05-16, 19:19
lesoi
Thông Huyền Tử biên soạn

Lạc Lục Tử chú giải Phú

Kim phùng Dần Ngọ Tuất phương cát,


Bính Mậu Tị Ngọ hỉ khánh đức.
Giáp Ất Dần Mão là Tài thần,
Nhâm Quý Nhuận Hạ là thương khắc.
(Canh dụng Đinh là Quan, Tân dụng Bính là Quan, hỉ Bính Đinh, thích Dần Ngọ Tuất. Lợi Tị
Ngọ Mùi đất hỏa vƣợng, là hƣớng lộc lâm quan. Tân Tị, Canh Ngọ là quý. Giả nhƣ Canh
Thân Tân Dậu, Canh Ngọ Tân Mùi, Canh Dần Tân Mão, Canh Tý Tân Sửu, Canh Thìn Tân
358 | Tam mệnh thông hội

Tị, Canh Tuất Tân Hợi, đây là 12 cung mệnh. Kim lại lấy hỏa là Quan, mộc là Tài. Hỏa đến
Thân Dậu Hợi Tý Sửu vô khí, mộc đến Thân Dậu Tuất Tý Sửu khí suy, là Tài mệnh vô khí,
mệnh bần tiện vậy. Nếu tháng ngày giờ sinh gặp vƣợng tƣớng, tọa đất Ngọ Tị Dần Mùi, có
thể là quý mệnh. Nếu không gặp hỏa, thì không phải là quý mệnh. Thấy Nhâm Quý Hợi Tý
thủy, là bối Quan bối Lộc, không thành khánh hỉ vậy. Đƣợc đủ Dần Ngọ Tuất, là Quan thần
nhập cục. Thiên nguyên đủ Mậu Quý, là hóa hỏa Quan cục. Địa chi đủ Tị Ngọ, là Ám Quan
cục. Lại thêm gặp mộc thần phụ trợ, là hợp với Thƣợng cục. Trụ có Nhâm Quý Hợi Thân Tý
Thìn thủy, hỉ gặp Mậu Kỷ, khắc thủy là cứu, lại là Ấn quý. Kiến Giáp Ất Dần Mão Hợi là
Tài, gọi là Tài khố. Không có hình hại, Tài khố thụ thực, có thể đoán lấy phát tài. Bối Lộc
không phùng đất Quan Ấn quý, chỉ gặp mộc vƣợng, là mệnh kinh thƣơng phát tài. )

Nhâm Quý tứ quý Tị Ngọ vinh,


Mậu Kỷ vinh Quan Tài Bính Đinh.
Giáp Ất Khúc Trực đều hung địa,
Canh Tân Ấn hiển phụ Long Lân.
(Nhâm Quý, là chân thủy vậy, hỉ Mậu Kỷ Thìn Tuất Sửu Mùi Tị Ngọ là phƣơng cát. Vì
Nhâm dụng Kỷ là Quan, Quý dụng Mậu là Quan, Tị Ngọ là đất Quan lộc. Tứ vị thổ, đều là
đất nguyên tự vƣợng. Thƣợng tuần tháng 4, tháng 5, trung thƣợng tuần tháng 6, cùng hạ tuần
tháng 3, sinh Quan hữu khí là có thể thành khánh. Thủy lấy thổ là Quan vị, nếu gặp Giáp Ất
Hợi Mão Mùi Dần mộc là phá Quan. Khắc hại nhẹ, thì quan thấp danh ít; khắc hại nặng, thì
không đƣợc quan. Đƣợc Canh Tân kim thần vƣợng tƣớng, có thể cứu trợ, trái lại là chủ quý. )

Hỏa hỉ cung Thìn Thân Hợi Tý,


Nhâm Quý quan vượng thổ cô cùng.
Mậu Kỷ thoái thần Giáp Ất tiến,
Kim tài vinh hiển lộc hưng long.
(Hỏa thấy Nhâm Quý, vì Bính dụng Quý là Quan, Đinh dụng Nhâm là Quan, là chân đạo tạo
hóa ký tế. Kiến Hợi Tý là Chính Quan vị, Đinh Hợi Bính Tý là Quý thần, Thìn Thân Hợi Tý
là lấy quý. Phùng thổ là Lục Hại, không có cứu thì bần. Lại phùng Giáp Ất vƣợng tƣớng là có
cứu, Canh Tân Tị Dậu Sửu là mệnh tài lộc vậy. )

Thổ gặp Dần Mão Mùi Hợi cục,


Giáp Ất vinh quan kim phá lộc.
Canh Tân bối Lộc thích Bính Đinh,
Nhâm Quý trong Thìn hưởng phúc bền.
(Mậu Kỷ gặp Hợi Mão Mùi là quý. Mậu tìm Ngọc Thỏ (Mão) Kỷ Trƣ đầu (Hợi) là quý mệnh.
Lại phùng đất vƣợng lộc vƣợng quan, gặp Canh Tân Tị Dậu Sửu Thân Tuất, thì phá lộc
không quý. Tháng 4, tháng 8 càng nặng. Đƣợc Bính Đinh là cứu thần. Lại nhƣ Mậu kiến
Bính, Kỷ kiến Đinh không thể không cứu, gọi là thiên Âm thiên Dƣơng. Nếu Mậu kiến Đinh,
Kỷ kiến Bính, mới là Cứu thần. Hoặc sinh tháng 7, tháng 8, hỏa tử tù vô khí, là không thể
cứu. Kiến Hợi Tý Thìn là Tài khố, chủ phát tài. Thiếu mộc một Quan, ví dụ cũng có thể thấy.
Hỉ Tị Dậu Sửu Thân Tân Canh, ghét Bính Đinh Viêm thƣợng hỏa cục. Thích Nhâm Quý Hợi
Tý là Ấn cứu trợ, Mậu Kỷ Thìn Tuất Sửu Mùi là Tài. )
06-05-16, 19:21
lesoi
Người hiền đạt hiểu rõ quyết này,
Người ngu muội đam mê chuyển thịnh.
(Phàm luận mệnh, trƣớc rõ thiên can, sau luận địa chi, cùng nạp âm là Cửu cung Tam
Nguyên. Phân ra làm Tam tài Thiên, Địa, Nhân. Luận ngũ hành tứ trụ, gặp nhất âm nhất
dƣơng gọi là Đạo, thiên âm thiên dƣơng gọi là Tật. )
359 | Tam mệnh thông hội

Mậu Kỷ Giáp Ất mộc cách đình,


Sinh vượng Quan quý Đế vương lâm.
(Mậu Kỷ nếu phùng can chi khí mộc vƣợng tƣớng, hoặc kiến Kỷ Hợi, Quý Hợi là chân Quan
tinh trƣờng sinh. Chủ địa vị cực phẩm, lại sinh tháng vƣợng, không có hình xung, là phú quý
song toàn. Là nói xem khinh trọng. )

Nhâm Quý Mậu Kỷ thổ phương vượng ,


Đại tài phân thuận tường Thượng cách.
(Nhâm Quý kiến Mậu Kỷ Thìn Tuất Sửu Mùi thổ, sinh tháng Tị Ngọ, thổ vƣợng tƣớng là
quý. )

Canh Tân đông chí Nhất Dương sinh,


Bính Đinh sinh khí phúc như lâm.
(Ngƣời sinh Canh Tân, sau tiết Đông Chí sinh Nhất Dƣơng, có hỏa ấm áp. Mộc dần dần đến
vƣợng, có thể sinh Bính Đinh hỏa, là Quan là Lộc. )

Bính đến Hạ chí Nhất Âm trường,


Hợi Tý Nhâm Quý đất Thiên Quan.
(Chỗ này nói rõ thủy hỏa có tƣợng ký tế thành công. Nhƣ mùa Hạ khí mỏng thì sớm phát. Hạ
chí Nhất Âm trƣờng, thủy dần dần vƣợng, cho nên Quan Lộc sinh vƣợng vậy. )

Người sinh Lục Giáp ở tháng Dần,


Kiến Lộc bất phú không khác biệt.
(Ngƣời sinh Lục Giáp, tháng giêng kiến Bính Dần là tháng sinh mang Lộc. Là khắc thê tuyệt
tự, mệnh bần tiện. Giáp lấy Kỷ làm vợ, dụng Tân là Quan tinh làm con, đều tuyệt ở Dần. Gọi
là đất Kim tuyệt Thổ tù, Lộc Mã thê tử đều tuyệt, không thành quý khí. Nếu dụng Bính Dần
là Thực thần có khí, phải là ngƣời Giáp kiến Canh Thân, ngƣời Ất Tân hoặc Dậu Tuất, nhƣng
ở Thất Sát, đất Quỷ vƣợng, gặp Dần sinh hỏa, Quỷ hàng phục hóa Quan là quý.)
06-05-16, 19:22
lesoi
Người Ất nhiều Tân sinh tháng Dậu,
Quỷ vượng thân suy mang tật xâm.
(Ngƣời Ất kiến Tân, là can đầu kiến Quỷ, danh là Thất Sát. Ngƣời Ất kiến Dậu, thân cƣ đất
Bạch Hổ vô khí, lại gặp Thất Sát khắc thân, sao không mang bệnh tật? Ngƣời Giáp kiến Canh
cũng nhƣ vậy, nếu ngƣời không mang bệnh tật, thì yểu thọ. )

Từ Quán Học Đường chủ khoa danh,


Nếu không Quan quý định hư danh.
(Mệnh phùng Từ Quán Học Đƣờng, Từ Quán là đất Quan Lộc trƣờng sinh, Học Đƣờng là đất
Bản Chủ trƣờng sinh. Có Quan quý, có khoa danh, lấy quý mệnh xem. Không có Quan quý,
là ngƣời hƣ danh. Trƣớc nói có Ấn, là Giáp kiến Quý Hợi Tý vậy. )

Khôi tinh nếu cũng phùng Quan vị,


Định là Thần đồng phúc ẩn quý.
(Khôi tinh, là trong tuần 10 ngày Giáp Thìn đến Quý Sửu vậy. Nếu bản mệnh gặp vị trí Quan
tinh, phùng Quan quý Học Đƣờng, thì ứng với khoa Thần đồng. Thí dụ ngƣời Quý Sửu, kiến
Mậu Thân, là cùng ở trong một tuần Giáp Thìn vậy. )

Lâm quan phùng xứ người tôn kính,


360 | Tam mệnh thông hội

Thiên Mã Tài khố là quý mệnh.


(Mệnh phùng lâm quan, nhiều ngƣời kính trọng, Thiên Mã là luận Thê Tài. Nhƣ Giáp kiến
Kỷ là vợ, là Tài, Thìn là Tài khố, có thể xem là mệnh phát tài hiển đạt. Nếu Thê Tài lâm 2
vận vƣợng tƣớng, hoặc gặp tiếp ở Thái Tuế, đa số chủ việc hôn nhân, xuất nhập, tu tạo. Giả
nhƣ ngƣời Giáp Ngọ, Kỷ thổ là vợ, là Mã, đến vận Thân Dậu Tuất. Ngọ là Nhân nguyên, đến
tây phƣơng đất hỏa tuyệt tử, Kỷ thổ tự bại, có kim vƣợng. Thổ là Tài Lộc, Nhân nguyên Tài
đều vô khí. Lại nhƣ sinh Bính Ngọ, vận đến tây phƣơng, Bính kiến Quý là Quan, Quý thủy
bại ở tây phƣơng, là Quan suy. Bính lấy Tân là Mã, là Tài, Dậu Tuất có Tân kim, kim là Tài
của Bính, Tân vƣợng là Mã. Đến Dậu kiến Mã, sợ xung bản mệnh, yểm tàng không xung ,
cũng đoán là mệnh phát tài. )
06-05-16, 19:23
lesoi
Mệnh phạm quý địa đắc hanh thông,
Mệnh suy gặp vượng không đón phúc.

(Mệnh tọa quý địa, hành hƣớng Lộc, hƣớng Tài vận, có thể nói là vinh hiển. Nguyên mệnh
phùng Quan quý vƣợng tƣớng, vận tuy hung, vị tất là họa. Nhƣ ngƣời sinh Nhâm Quý, hành
vận Tị Ngọ Mùi, là phát. Ngƣời Bắc đến vận Nam phƣơng, mậu dịch nhận lấy lợi dầy. Mệnh
gặp hƣu tù, không có Quan quý, vận hành quý địa, không thể thành khánh hỷ. Mệnh vƣợng
vốn có Quan tinh ở mệnh, vận cũng bối lộc, Thái tuế xung hại, có Quan thì dừng quan. Hành
vận Chủ Bản trƣờng sinh, cũng bãi quan mất chức. Cùng sinh địa hƣu tù là nhƣ nhau. Nhƣ
ngƣời Giáp Ất kiến Hợi, vì đất Quan bệnh, cho nên nói hƣu tù. Sinh địa tƣơng phùng, cũng
nói Quan tinh bệnh tuyệt, ngƣời làm quan, nên lui thân né tránh. Nếu nhị vận Thái tuế cùng
lâm, Tang Điếu, Khâu Mộ, Giáp Sát, chủ khóc thanh. Lỏa Hình giáp Sát tự chủ, ô hô! ).

Bát Cô Ngũ Mộ là Tăng đạo,


Phá tổ đồng bồng cô độc nhân.

(Giả nhƣ trong tuần Giáp Tý, Tuất Hợi là Không Vong, là Lục Hƣ, can thuộc Hợi Tuất. Tuất
nam hành 3 vị là Mùi, Mùi đông hành 3 vị là Thìn, Thìn bắc hành 3 vị là Sửu, Sửu tây hành 3
vị là Tuất, 4 vị trí Thìn Tuất Sửu Mùi, là Cô Quả Ngũ Mộ, đa số là ngƣời phá tổ cô độc phiêu
bồng, là mệnh Cửu Lƣu. Tam nguyên khắc hại, là mệnh cô độc. Khắc hại nếu nhẹ, hợp nhập
bỏ mệnh. Nhƣ gặp chân Cô Thần, là mệnh khắc thê hại tử. Thông Huyền Tử giải thích, chân
bản không phải của Lạc Lục Tử, là tự soạn tập, cùng Từ Tử Bình là giống nhau. )
06-05-16, 19:25
lesoi
Minh Thông phú

Đông Hải Từ Tử Bình Dịch thủy soạn, Vạn Dục Ngô giải thích

Thái cực phán thành thiên địa, Nhất Khí phân làm âm dương, lưu truyền ngũ hành, hóa
sinh vạn vật. Làm người nhận mệnh, thuận theo bần phú quý tiện, thuật sĩ biết cơ, định
cát hung họa phúc vậy.
(Chỗ này là nguyên thủy tạo hóa. )

Phàm xem mệnh, lấy nhật can làm chủ. Thống quản tam nguyên, mà phối hợp can chi bát
tự.
(Trời có bốn mùa, tạo hóa vạn vật. Nhà có tứ trụ, đều lập quy mô. Mệnh có tứ trụ, chú định
361 | Tam mệnh thông hội

vinh khô. Luận, chuyên lấy Thiên nguyên nhật thần làm chủ mệnh, chi là Địa nguyên lộc.
Chỗ tàng trong chi, là Nhân nguyên thọ. Bát tự tức là thiên can, địa chi tứ trụ tổng cộng là 8
chữ (gọi là bát tự) vậy.
《 Kế Thiện thiên 》 nói: Tứ trụ bài định, thứ phân Tam Tài, chuyên lấy Thiên nguyên nhật
can, là phối hợp can chi bát tự vậy. )

Luận vận, là thủ lấy chi tháng. Phân bốn mùa, mà đề khởi ngũ hành Tiêu Tức.
(Đại vận lấy chi tháng khởi, cho nên tháng là Đề cƣơng. Cem tiết khí chi tháng thiển thâm,
bốn mùa gặp tiết gì. Nhƣ: Xuân mộc Hạ hỏa, Thu kim Đông thủy, tứ quý thổ. Sơ khí trung
khí, tiêu trƣởng khác nhau. Chỗ hành vận, hoặc thuận hoặc nghịch, hoặc vƣợng hoặc suy.
Cùng bát tự hoặc trợ, hoặc tiết, hoặc khắc hoặc sinh giả, vốn ở chỗ này. Trƣớc tiên nói nhật
can, thứ là nói chi tháng, lấy chỗ trọng yếu của con ngƣời vậy. )

Hướng Quan vượng lấy thành công, nhập cách cục mà lấy quý, Quan Ấn Tài Thực là cát.
Ổn định thành toại là cát, Sát Thương Kiêu Bại là hung, chuyển dụng là phúc.
(Ngũ hành lâm quan, đế vƣợng, ở tứ trụ là đất bản cung thành công. Nhập cách cục thì quý,
phá cách cục thì tiện. Nhƣ Quan Ấn, Tài Thực, vốn là cát thần. Cần không bị thƣơng khắc,
xung hình, phá bại, thì là ổn định thành toại là cát, là nhập cách vậy. Sát Thƣơng, Kiêu Bại,
vốn là hung sát, nếu có chế phục, khử lƣu hợp hóa, gọi là chuyển dụng thành phúc, cũng là
nhập cách vậy. Xem ở dƣới thủ dụng loại cách cục, hỉ kỵ tự có thể thấy vậy. Tứ cát, tứ hung,
là trọng yếu nhất của cách cục, cho nên lấy để nói. Phú nói: "Nhật chủ tối nghi kiện vượng,
dụng thần bất khả tổn thương" là vậy. )
06-05-16, 19:26
lesoi
Toàn bị tàng súc ở Thìn Tuất Sửu Mùi, trường sinh trấn cư ở Dần Thân Tị Hợi. Tý Ngọ
thì thành bại nghịch nhau, Mão Dậu là nơi giao nhau xuất nhập.
(Chỗ này nói 12 chi, bao tàng thập can, đều có sinh tử thành bại, xuất nhập qua lại.
《Độc Bộ 》 nói: Thìn Tuất Sửu Mùi, là cục Tứ Khố; Dần Thân Tị Hợi, là cục Tứ Sinh; Tý
Ngọ Mão Dậu, là cục Tứ Bại.
《 Hỉ Kỵ thiên 》 nói: Tài Quan Ấn thụ có đủ, ẩn tàng tích lũy ở trong tứ quý; Quan tinh Tài
khí trƣờng sinh, là trấn cƣ ở Dần Thân Tị Hợi vậy. Hoặc lấy Tý Ngọ là trụ gốc của trời đất,
Mão Dậu là cánh cửa ra vào của Nhật Nguyệt vậy. )

Can chi có Bất kiến chi Hình, là trong không thủ có. Tiết khí tồn có dư số, hỗn xứ cầu
phân.
(Chỗ này nói chung cái vi diệu của tạo hóa. Can chi Bất kiến chi Hình, tiết khí có tồn dư số,
tức là nói trong 12 chi chỗ bao tàng nhân nguyên. Là trong không thủ có, hỗn xứ cầu phân,
nhƣ các loại cách Diêu Tị Củng Giáp. Là lấy thiên can mà thủ vật ở địa chi, tại sao không
phải trong không mà thủ có? Nhƣ Tý sơ tam đáo, phân thuộc Nhâm thủy; Sửu sơ tam khắc,
phân thuộc Quý thủy; Dần sơ tam khắc, phân thuộc Cấn thổ. Là do tiết khí tàng ở một chữ,
đều có chỗ chủ, tại sao không phải hỗn xứ mà cầu phân?
《 Phú 》 nói: Không hợp có hợp, hậu học khó biết; đƣợc một phân ba, tiền hiền không ghi.
《 Kế Thiện thiên 》 nói: "Kiến bất kiến chi Hình, vô thời không có" là vậy. )

Thiện Ác tương giao, lại hỉ hóa Ác sùng Thiện. Cát hung hỗn tạp, rất sợ hại cát thêm
hung.
(Dƣới đây chuyên nói phép xem mệnh, đoạn văn trên vốn có thủ cầu phân mà nói. Nhƣ ngày
Giáp thấy Bính Đinh bối lộc, là ác là hung. Kiến Mậu Kỷ Tài tinh, là thiện là cát. Mà Bính
Đinh hóa mộc trợ Tài, là dụng hóa Ác sùng Thiện. Sợ Ất mộc khắc hại Tài tinh, là nói hại cát
362 | Tam mệnh thông hội

thêm hung. Xem ở dƣới nói Tài Ấn giao soa, hỉ Quan Sát hóa. Quan Sát hỗn tạp, hỉ Ấn thụ
hóa. Không có Ấn hỉ Tài Mã hóa. Không có Tài Ấn, hỉ Dƣơng Nhận hợp, hoặc có Thực thần
Thƣơng quan chế. Lại nhƣ chế Sát thụ phá, Sát chế không đƣợc. Ấn hóa kiến Tài, đều là loại
phá hóa thành hung. )
06-05-16, 19:29
lesoi
Là do đắc cục triều nguyên, không phú thì quý. Phạm viên phá cục, không yểu thì bần.
(Cục, là cung tam hợp, tứ duy chính cục. Nhƣ Hợi Mão Mùi mộc cục, Thìn Tuất Sửu Mùi thổ
cục. Nhƣ Giáp Ất kiến Hợi Mão Mùi là Bản cục, Bính Đinh kiến Hợi Mão Mùi là Ấn cục.
Mậu Kỷ kiến Hợi Mão Mùi là Quan cục, Canh Tân kiến Hợi Mão Mùi là Tài cục, Nhâm Quý
kiến Hợi Mão Mùi là Thƣơng cục. Nguyên, tức là Bản nguyên, Viên miếu. Nhƣ cung Tý
triều nguyên Quý, Sửu Mùi triều nguyên Kỷ thổ. Phàm gặp Nguyên Viên, hoặc dụng là mệnh
nguyên thì thọ; là Quan Ấn thì quý; là Tài thì phú; là bối Lộc sinh Tài ích phú. Nếu đƣợc
một, không có xung khắc phá bại, thì công danh phú quý. Trái lại thì không có. Phạm Viên,
nhƣ Tý Quý, kỵ Sửu Mùi khắc phá, Ngọ xung phá, Mão hình phá. Một Tý hai Ngọ, phá hết
một nửa, đƣợc nửa phúc. Phá cục, nhƣ Thân Tý Thìn kỵ Dần Ngọ Tuất xung phá, là đại
hung. Nếu dụng tinh hƣ, thành Phi Thiên Lộc Mã cách, lại quý. Còn lại phỏng theo chỗ này
mà suy. )

Được mất đều kiêm, tiến thoái vẫn phục.


(Đƣợc hƣớng phạm phá, chỗ này tạo hóa có đƣợc có mất, có tiến có thoái. Chỗ này đƣợc là
so với mất, cƣờng tiến thì nhƣợc thoái, trung gian đều có kiêm vẫn phục, biến hóa khó lƣờng,
không có tinh tƣờng khảo sát biện luận khó mà phân vậy. Nhƣ Giáp triều Viên ở Dần, kỵ
Thân xung phá, nếu có 2 Dần 1 Thân, 2 Giáp 1 Canh, cũng không có hại, lấy Giáp có lực mà
tiến vậy. Nhƣ: Dần bị Thân xung, có Hợi có thể cứu, chữ Hợi kiên thịnh, là phúc thập toàn.
Hợi hoặc bị Mậu khắc, Tị xung thì bại. Nếu chữ Hợi nhiều, không sợ, cũng cƣờng mà tiến
vậy. Tiến thoái dựa vào nhau, một thành một bại, chỉ xem tuế vận trợ khởi bên nào, có thể
biết là phúc hay là họa. )

Thần Sát tương bán, khinh trọng giác lượng.


(Thần Sát. Phàm đều là Tài Quan, Ấn Thực, Thƣơng Sát, Nhận Bại. Trung gian hỉ kỵ khác
nhau, yêu ghét khác nhau, nhƣ ở dƣới có chỗ luận nhiều cách là vậy. Phải đo lƣờng nặng nhẹ,
lúc nào nắm thời mà trọng là dụng, lúc nào thất lệnh mà khinh là không dụng. Trọng thì lƣu,
khinh thì khử đi. Lý chỗ này cùng hai câu nói trên cùng dùng chung, nên tính toán nói rõ nhƣ
vậy. Khảo sát 《 Lạc Lục Tử phú 》, cần phải hiểu thần sát, đo lƣờng khinh trọng. Thân
khắc Sát là nhẹ, Sát khắc thân là rất nặng. Là chỉ các loại thần sát cát hung vậy. Từ Tử Bình
chuyên lấy Quan Ấn, Lộc Mã, giải thích danh tính quý tiện. Nhƣ Giáp Thân, Bính Dần, Ất
Mão, Tân Tị, Ất dụng Canh là Quan, Tân là Sát. Canh Quan ở Thân, gặp Dần xung khử,
Bính hợp Tân Sát, Ất mộc sinh vƣợng, cho nên quý. Nhƣ Giáp Dần, Đinh Mão, Quý Sửu,
Đinh Tị, là Thân khắc Sát, thân nhƣợc Tài vƣợng, lực không thể đảm nhận đƣợc Tài Quan,
cho nên yểu. Ất Sửu, Tân Tị, Đinh Tị, Kỷ Dậu, thân vƣợng Tài cũng vƣợng, có thể đảm nhận
đƣợc Tài cho nên rất giàu có. Nhƣ Giáp Tý, Tân Mùi, Ất Mão, Giáp Thân, Ất nhật dụng
Canh là Quan, lấy Tân là Sát, Canh ở bên trong Thân, sinh tháng 6, Quan vƣợng Sát suy, chỗ
này là Chính Quan đắc vị, Thất Sát thất vị, lại hỉ thân vƣợng, biến Quỷ thành Quan, cho nên
quý. Nhƣ Tân Sửu, Canh Dần, Ất Tị, Giáp Thân, là Quan suy Sát thịnh, Ất mộc vô lực, hóa
Quan thành Sát, cả đời nát rƣợu mà lạc phách, đến vận Ất Dậu năm thứ 5, ngày 19 tháng 8
năm Bính Thân chết.)
06-05-16, 19:30
lesoi
363 | Tam mệnh thông hội

Bên trong có Tạp khí Tài Quan tương kiêm, Thiên Chính lưỡng Ấn, đồng cung Lộc Mã,
hiệu là Nội ngoại Tam Kỳ.
(Chỗ này chính là chỉ Thần Sát tƣơng bán, chính là trong bát tự có Tài có Quan, có Thiên
Chính nhị Ấn, hoặc là đồng cung, hoặc ở vị trí khác, hoặc là bao tàng, hoặc là thấu xuất,
tƣơng bán kho luận cát hung, phải dùng đo lƣờng khinh hay trọng. Cho nên viết, Trong có
Tam Kỳ.
Ca viết:
Dần Ngọ Tuất Dậu là Tam Kỳ,
Thỏ Xà theo Hầu không thể đổi.
Trong Tị Dậu Sửu diệu phùng Tý ,
Mã Hầu kiến Trư sáng rực rỡ.
Thìn Tị phùng Tý tức là kỳ,
Ngọ Hợi kiến Dần là giữ quý.
Trư đến cản Thỏ Mã lấy vui,
Dần Dậu kiến Tị phù hợp hỉ.
Trư đuổi Mã mà Xà hậu viện,
Thủy Thử Mùi người hỏa Quy trì.(Chỗ này giống nhƣ Âm Thử trên băng, Thần Quy túc hoả
vậy. Xem ở Tiêu Tức phú).
( Chú thích: Trƣ là Heo Hợi, Mã là Ngựa Ngọ, Hầu Khỉ là Thân, Thỏ là Mèo Mão, Xà là Rắn
Tị, Quy là Rùa, Thử là Tý).
Lại viết:
Thần lộc bay đến liền cưỡi Mã,
Tiền bạc quan chức đều phù hợp.
Trong vượng lại được bản nguyên trợ,
Thượng cách vinh hoa đệ nhất kỳ.
Nhƣ: Kỷ Sửu, Đinh Mão, Nhâm ngọ, Quý Mão, Nhâm dụng Kỷ là Quan, Đinh là Tài, Đinh
Kỷ quy lộc ở Ngọ, là cách này vậy, cho nên là đại quý. )

Chân Quan lúc gặp mệnh cường, sớm được phong tước áo bào.
(Chỗ này là Nguyệt lệnh Chính Quan cách vậy. Bên dƣới sẽ nói rõ cách cục. Nhƣ Mậu Thân,
Giáp Dần, Kỷ Sửu, Bính Dần, là mệnh Tiến sĩ Ông Trọng Ích . )
Lƣơng Mã nguyệt thừa thì kiện, mạt thiên ngân thanh chi chức.
(Chỗ này là Nguyệt lệnh Chính Tài cách vậy. Hai cách Tài Quan, Quan thì thủ quý, Tài thì
thủ phú. Nay đều lấy quý nói, là từ nhật can lấy đƣợc can Tài ở trong tháng, không có nói chỗ
xung khắc. Phúc cùng giống nhƣ Chính Quan.
Thơ nói:
Nhật can thích thủ Tài chi tháng,
Kim ngọc gia tàng xem gấp đôi.
Lại xem thiên can Tài là quý,
Phân chia tài bạc từ trời đến.
Là vậy.
06-05-16, 19:31
lesoi
Nguyệt Ấn phụ ngày không Tài khí, là chiêu hiền bảng vàng.
(Chỗ này Nguyệt lệnh là Chính Ấn cách vậy. 《 Hỉ Kỵ thiên 》 nói: Nhật can sinh tháng
không có Thiên Tài, chính là danh Ấn thụ. Lại nói: Sinh năm tháng giờ có Ấn thụ, kỵ kiến
Tài tinh. Vận nhập đất Tài, lại nên thoái thân bãi chức. Ấn thụ sợ Tài, cần thiên can năm giờ
không có Tài mới thủ. Lại nói, tháng Ấn khó đƣợc thập toàn. Nhƣ ngày Giáp tháng Hợi thấu
ra chữ Quý, biến Thiên thành Chính mới là thập toàn, chủ gặp ân sủng đƣợc quý. Lại đƣợc
Tài của tổ phụ, nhƣng cũng khó tránh trƣớc tiên gặp sỉ nhục, hoặc là trời sinh, lấy tiện đến
364 | Tam mệnh thông hội

quý, lấy bần đến phú, từ tỳ nữ làm phu nhân, lấy lại làm quan, lấy sĩ tốt bổ túc làm tƣớng, đều
là chỗ đến Thiên Ấn vậy. Thiên Chính đều có, lại có họa nhỏ, hoặc trọng bái phụ mẫu, hoặc
là tăng tục hỗn tạp, hoặc là làm con nuôi, hoặc thiên sinh chính dƣỡng, hoặc chính sinh thiên
dƣỡng, lại kỵ Tỉ kiên tranh sủng chia ân, Dƣơng Nhận nhiều hoặc hợp khử, hoặc Ấn nhỏ, gặp
mà không ngộ, tuy hữu tiến cử, cũng không thể siêu quần xuất chúng.
《 Phú 》 nói: "Ấn vượng Quan sinh, tất đảm nhận chức cao" là vậy. )

Nhật lộc quy thời một Quan tinh, hào thanh vân đắc lộ.
(Chỗ này là Nhật quy Lộc thời cách vậy. Đại để Ấn thụ, đệ nhất tốt nhất phƣơng hành vận
Thƣơng Quan Thực Thần, Tài phát. Kỵ Quan hình xung Dƣơng Nhận. Bên trên là Chân Quan
chân Tài chân Ấn chân Lộc, đều là thập can chính khí thiên địa âm dƣơng, lý lẽ sinh khắc.
Duy chỉ có đƣợc tháng không bị phá, thì đoạn văn trên là chuẩn. Có phá hƣ, nói theo khinh
trọng. Giờ đƣợc phát phúc là khá muộn, nhƣng đều là tự cứu, có thể sáng tạo mà lập nghiệp.
Quy Lộc nhất cách, chỉ hỉ thấy ở trụ giờ (thời thƣợng), nếu chi tháng trọng kiến, danh là Kiến
Lộc bất phú. Thấy chỉ có tháng, thời thƣợng lại hỉ Tài Thực kiến Quan, là luận cách khác. )

Nguyệt lệnh Thất Sát, mà Sát Thân đều cường, nên là Hắc đầu Tể tướng.
(Chỗ này là Nguyệt lệnh Thất Sát cách vậy. Đại để Nguyệt lệnh là Sát, cần Thân Sát đều
cƣờng, mới là đại quý. Nếu Thân cƣờng Sát thiển, cần lấy Tài sinh. Sát cƣờng Thân nhƣợc,
cần lấy Ấn trợ, hoặc Dƣơng Nhận hợp, đều là quý mệnh. Nếu Ấn hợp cùng chế tinh công
nhau, thân nhƣợc tất yểu, nếu không là tàn tật. Nhƣ Quý Mão, Ất Mão, Kỷ Tị, Ất Sửu. Quý
Mão, Đinh Tị, Nhâm Dần, Giáp Thìn. Nhâm Dần, Ất Tị, Canh Dần, Bính Tý, đều là thân
cƣờng Sát vƣợng có chế, cho nên đại quý. 《 Hỉ Kỵ thiên 》 nói: Ngũ hành gặp chi tháng
Thiên Quan, trong năm giờ cũng cần có chế phục, cho nên nghiên cứu phú này vậy. )
06-05-16, 19:33
lesoi
Thời thượng Thiên Tài, mà Tài Mệnh cùng vượng, phải ra Bạch ốc Công Khanh.
(Chỗ này là Thời thƣợng Thiên Tài cách vậy. Chỉ một vị là cát, thấy hợp là không có phúc,
kỵ Tỉ kiên huynh đệ tranh đoạt, hình xung khắc hại. Nhƣ Bính Tuất, Mậu Tuất, Mậu Tý,
Nhâm Tý, Mậu khắc Quý là Chính Tài, có nhiều chữ Tý, chữ Nhâm, là Thiên Tài thấu lộ. Lại
nhƣ: Đinh Hợi, Mậu Thân, Nhâm Thân, Bính Ngọ, tuy năm có Đinh hỏa, hỉ có hợp chế, âm
hỏa lại có thể đoạt quyền dƣơng hỏa, cho nên quý. Hỉ Kỵ thiên nói: Thời thƣợng Thiên Tài,
kỵ thấycung khác. Cho nên tu bổ 《 Phú 》 không có nghĩa vậy. )

Kiến Lộc tọa Lộc, hoặc Quy Lộc, gặp Tài Quan, Ấn thụ, phú quý lại thọ.
(Kiến Lộc là lấy tháng nói, Tọa Lộc là lấy ngày nói, Quy Lộc là lấy giờ nói. Chỗ 3 Lộc cách
này bản thân kiện vƣợng, chỉ gặp Tài là phú, chỉ gặp Quan là quý, chỉ tiến Ấn là tú. Lấy kỳ
can vƣợng, lại chủ mệnh thọ, an hƣởng phúc lộc. Nếu đều có cả ba vị, cũng kỳ diệu. Nhƣ
Đinh Hợi, Kỷ Dậu, Nhâm Ngọ, Tân Hợi, là Nhật lộc quy thời, trong Ngọ cũng có Quan tinh,
lại gặp tháng Dậu, là hợp Ấn cách. )

Nguyệt Nhận, nhật Nhận cùng thời Nhận, phùng Quan Sát Vinh thần, công danh cái thế.
(Chỗ này là ba Nhận cách, cần Quan Sát, Ấn thụ chế hóa nhau. Vinh thần, là tên khác của Ấn
thụ. Có Quan Sát không có Ấn, có Sát không có Quan, đều đƣợc. Có Ấn hóa Sát càng tốt, chỉ
sợ hợp bán. Nhƣ có Quan không thể thấy Thƣơng, có Ấn không thể thấy Tài, có Sát không
thể thấy Thực Thƣơng áp chế. Hoặc chế khử, hợp khử, đều không thành chính cách. Nhƣ
Nhâm Thân, Nhâm Tý, Mậu Ngọ, Ất Mão, Nhật Nhận có Ất Mão chế phục. Nhƣ Bính Tuất,
Quý Tị, Mậu Ngọ, Đinh Tị, Nhật Nhận có Ấn thụ biến hóa, cho nên đều tốt. )
06-05-16, 19:34
365 | Tam mệnh thông hội

lesoi
Nguyệt lệnh chuyên chế Thất Sát, thân kiện ưng dương.
(《 Hỉ Kỵ thiên 》 nói: Nếu đúng giờ có Thất Sát, thấy vị tất là hung. Tháng chế can cƣờng,
Sát trái lại là quyền Ấn. Tức là giải nghĩa này vậy. Có nói: Thời thƣợng Thiên Quan thông
nguyệt khí, chủ vƣợng ƣng dƣơng. Cùng chỗ này không có khác. )

Vận Nguyên sinh phát Tam Tài, mệnh cường báo biến.
(Vận Nguyên là Nguyệt lệnh vậy. Tam Tài là Lộc Mệnh Thân vậy. Chỗ này là Nhật can bối
Lộc, tức là Thƣơng Thực cách vậy. Hỉ phùng Tài tinh, nhƣ ngày Giáp gặp tháng Tị Ngọ, cần
can đầu thấu ra chữ Mậu, ngày giờ có Sửu Tuất Mùi. Nhật chủ kiện vƣợng, hành vận đông
phƣơng, tất nhiên đại phát tài lộc, tay trắng lập nghiệp. Lại nói: Trong tháng có Chính Lộc
hội Tài nguyên, thân cƣờng báo biến. Là giải nghĩa không khác nhau. )

Năm thấy Chính Lộc, Chính Ấn, Chính Tài không phá, tất nhận phương tổ ấm truyền lại.
(Xem trọng chỗ không có phá, có phá thì không luận chỗ này. Năm là Tổ tông, cho nên nói là
nhận tổ ấm. )

Nhật tọa chân Quan, chân Quý, chân Ấn có thành, hiệu viết là Phúc thần trì thế.
(Trọng ở chỗ có thành, có thành tức là không có phá. Chân, tức là chính nghĩa. Nếu lấy thiên
lệch, là chỗ nhờ mƣợn, không phải chân chính vậy. Nhƣ các ngày Bính Tý, Đinh Hợi, Tân Tị,
Canh Ngọ, là Chân Quan. Các ngày Đinh Dậu, Quý Tị, Quý Mão, Đinh Hợi, là Chân Quý.
Các ngày Giáp Tý, Ất Hợi, là Chân Ấn, trong trụ không có phá, có trợ là phúc. )

Thiên Tài ở trong tháng, mà không có bại không có Sát, phú xuất nhân gian.
(Chỗ này là Nguyệt Lệnh Thiên Tài cách, cùng Thời thƣợng Thiên Tài là giống nhau. Sợ Tỉ
Kiếp tƣơng khắc, Thất Sát tiết khí. )

Dưới ngày có Chính Mã, mà có trợ có sinh, danh dương thiên hạ.
(Là các ngày Giáp Ngọ, Mậu Tý. Các ngày Giáp Tuất, Ất Sửu là Thiên Mã. Cùng ngày tọa
Chân Quý cách là đồng luận. Có trợ, là chi khác Tài. Có sinh, là chi khác Thực Thƣơng. )

Thân thiển tọa Sát, vận hành đất thân vượng, phát tài phát phúc.
(Tọa Sát, là các ngày Giáp Thân, Ất Dậu. Trong trụ không có thổ là thân thanh. Hành vận
Dần Mão, đại phát tài lộc. Cách này hỉ Ấn thụ, kỵ Chính Quan, Thực thần. Phạm thì không
phải là thân thanh, là mệnh hạ đẳng vậy. )
06-05-16, 19:35
lesoi
Độc chủ lâm quan, vận đến đất chủ quý, gia chức gia phong.
(Độc chủ lâm quan, là các ngày Đinh Tị, Quý Hợi, lại gặp Quý nhân xung Quan tinh là quý.
Tuế vận phùng lại Tị Hợi, bội tăng phong chức. Hoặc lấy ngày gặp Quan tinh, hành vận lại
gặp đất Quan là giải trừ, cũng hiểu. )

Thực thần sinh vượng, không có Ấn thụ hình xung, là Mẫu thực Tử lộc.
(Là Thực thần cách vậy. Nhƣ Mậu Thìn, Đinh Tị, Nhâm Thìn, Giáp Thìn, quý mà còn thọ.
Đinh Mùi, Bính Ngọ, Giáp Ngọ, Bính Dần, Thực thần hóa làm thoát cục, Đinh Thƣơng Tân
Quan, bay đến không đƣợc, cho nên là bần yểu. )

Chủ bản lâm quan, không có Quan tinh Sát bại, là Đệ tập Huynh ban.
(Là các ngày Đinh Tị, Quý Hợi, gặp tháng Dần Tuất vậy. Không có Quan Sát, Tỉ kiên, huynh
đệ. Bản thân tự vƣợng, tất đƣợc để cao ban trƣởng, hƣng gia lập nghiệp. Là sao vậy? Đinh lộc
366 | Tam mệnh thông hội

ở Ngọ, Quý lộc ở Tý, Quý Hợi là đất thủy chính vƣợng, chính là lộc nhà Nhâm vậy. Đinh Tị
là hỏa, đất lâm quan, chính là lộc nhà Bính vậy. Đƣợc cách này, nói Đinh Quý là đệ của Bính
Nhâm, còn Tị Hợi là vị trí lộc của Bính Nhâm, cho nên viết Đệ tập Huynh ban. Tất vì huynh
có triển vọng, là nhất ban cao huynh. Lại nhƣ: ngày Bính Ngọ, Nhâm Tý cũng vậy, thuần túy
càng quý. Bác tạp, là không nhập cách. Nếu có huynh đệ Tỉ kiên, can chi bác tạp, là Huynh
tinh điền thực, thì là hạ cách vậy. Hoặc Quan tinh điền thực, huynh đệ tỉ kiên tranh nhau, thân
không có chỗ dựa, lại lấy hung đoán. Nếu Quan tinh không thực, chỉ lộ thiên can, tuy là phân
tinh bửa lộc, cũng có thể lại thành. )

Đảo Thực bản cung lâm quan vượng, chính là danh thần Nhận Lộc.
(Nhƣ Canh Tý kiến Mậu Tý, năm tháng có Thiên Ấn, ở trên bản cung của ta, danh là Đảo
Thực, là quân phụ của ta vậy. Là chỗ tọa Thiên Ấn, cùng nhật can đồng cung, lâm ở đất Quan
vƣợng, thì thụ mệnh của ta, sinh phúc khí của ta. Là Thần nhận Lộc, nói gần xua ân sủng vậy.
Nhƣ Canh Tý, Mậu Tý, Canh Tý, Bính Tý, là cách này vậy. )
06-05-16, 19:36
lesoi
Thai sinh nguyên mệnh không có Tài tinh, là Xích tử thừa ân sủng.
(Chỗ này là các ngày Canh Dần, Tân Mão, Giáp Thân, Ất Dậu. Đều là Thiên nguyên bản chủ,
tự tọa tuyệt địa, là cung Thai sinh, tức là Bào Thai cách vậy. Kỳ sinh quá nhỏ, cho nên hỉ Ấn
thụ, sợ Tài khắc. Chủ thiếu niên đƣợc mời ân chủ, đại khái cùng Ấn cách là đồng luận. Nhƣ
Ất Dậu, Ất Dậu, Ất Dậu, Giáp Thân, là cách này vậy. Hỉ Kỵ Thiên nói: Ngũ hành tuyệt xứ,
tức là Thai Nguyên, ngày sinh gặp, danh viết là Thụ khí. )

Năm tháng có Chính Quan, Thất Sát hỗn gọi là người hạ tiện. Ngày giờ độc cường
chuyên chế, chức trọng quyền cao. Tháng giờ Thất Sát, Chính Quan tạp loạn thời bệnh
giao xâm. Tuế Vận xung khai hợp khử, Quan thanh danh hiển. Do sợ chế quá, tối kỵ
tranh cường.
(Hỉ Kỵ thiên nói: Tứ trụ thuần Sát có chế, định tôn cƣ nhất phẩm. Lƣợc thấy một vị Chính
Quan, Quan Sát hỗn tạp lại tiện. Loại có Khử Quan lƣu Sát, cũng có Khử Sát lƣu Quan. Lại
nói: Tứ trụ Sát vƣợng vận thuần, thân vƣợng là Quan thanh quý. Lại nói: Nguyệt lệnh tuy gần
Kiến Lộc, thiết kỵ hội Sát là hung. Quan tinh Thất Sát giao soa, lại có Hợp Sát là quý, là vậy.
Hai cách này, đều có chỗ chủ. )

Năm tháng Chính Quan, lấy Quan làm chủ, sợ có Sát hỗn. Tháng giờ Thất Sát, lấy Sát
làm chủ, sợ có Quan hỗn loạn.
(Ngày giờ độc cƣờng, tuế vận chuyên chế, xung khai hợp khử, nghĩa đoạn văn cùng thấy lẫn
nhau vậy. Chế quá thì Thất Sát không hiển, tranh cƣờng thì khó lấy khử lƣu, lý lẻ nên nói rõ
kỹ càng. Nhƣ Nhâm Tý, Giáp Thìn, Kỷ Mão, Nhâm Thân, tháng là Chính Quan, dƣới ngày
có Mão là Thất Sát, đƣợc bên trong Thân có Canh kim, hợp Sát Ất mộc ở trong Mão, là quý.
Lại nhƣ bát tự Trƣơng Thị Lang: Ngày Ất lấy Canh là Chính Quan, Canh kim ở trong Thân,
sinh gần tháng 7, Canh vƣợng Tân suy, tháng 6 Đinh hỏa vƣợng, là khử Sát lƣu Quan, cho
nên quý. Lại nhƣ: Bính Ngọ, Bính Thân, Giáp Dần, Đinh Mão, Bính Đinh tuy nhiều, không
địch nguyệt lệnh Sát, lại hành vận Quan vƣợng, thân vƣợng biến quỷ thành Quan, co nên quý.
)
06-05-16, 19:37
lesoi
Thiên Nguyên vô khí, lại cần Trung Hạ hưng long.
(Chỗ này là Ấn thụ cách vậy. Nhƣ Giáp Ất sinh ở mùa đông, là Thiên Nguyên vô khí, địa chi
có Hợi Tý thủy sinh mộc, là loại hƣng long. Lại nhƣ các ngày Đinh Hợi, Đinh Sửu, Đinh hỏa
367 | Tam mệnh thông hội

vô khí, lại có Nhâm Quý đến khắc, đƣợc Hợi Tý thành đảng, lại có thể sinh ra Giáp mộc, gọi
là Địa chi hƣng long. Hỉ thổ đến khắc là Tài, là đƣợc Tài trong Sửu, cũng là loại lợi. Cổ nhân
luận Trung Hạ, là nói lấy ngày, giờ. Nhƣ nhật can Nguyệt lệnh vô khí, nếu chỗ tọa chi cùng
giờ đắc địa, cũng là thành thực mệnh. Nếu vô khí, mà ngày giờ lại ở đất suy bại, thì cuối cùng
có thể biết là thân ngả ngửa vậy. 《 Hỉ Kỵ thiên 》 nói: Phàm thấy Thiên nguyên thái nhƣợc,
bên trong có chỗ yếu phục sinh, là vậy.)

Bản niên Thiên Quan, nên kỵ thủy chung khắc hại.


(Chỗ này là Tuế Đức cách vậy. Nhƣ ngày Giáp gặp Thái tuế Canh Thân, là trụ năm Thiên
Quan, một danh gọi là Nguyên Thần, hoặc gọi là Cô Thần, là Sát tối trọng, cả đời không thể
trừ khử, cho nên là Thủy chung khắc hại. Khắc hại, không phải chuyên chỉ Tổ phụ lục thân,
bản thân cũng có ở trong đó vậy. Nhƣ Đinh Tị, Đinh Mùi, Tân Tị, Nhâm Thìn, hỉ một Nhâm
hợp 2 Đinh là chế. Ất Mão, Bính Tý, Kỷ Mão, Đinh Mão, hỉ Đinh Bính hóa khử 3 Ất, đều
chủ quý, nếu khắc hại cuối cùng là không thể tránh khỏi. Hoặc nói: Thất Sát nhiều căn, thiết
kỵ thủy chung khắc hại. Cũng hiểu. )

Dương Nhận cực hỉ Thiên Quan, tiêu diệt họa loạn.


(Chỗ này là Dƣơng Nhận cách vậy. Đại để Dƣơng Nhận kỵ Tài, vì Nhận phá Tài, Tài sinh
Sát, Sát khắc thân. Cùng hình xung tam hợp, lục hợp, hỉ Sát chế phục. Nếu Sát tự chế, lại lấy
hung đoán. )

Kim Thần chỉ hợp chế phục, quét sạch gian hùng.
(Chỗ này là Kim Thần cách vậy. Đại để Kim Thần, không sợ quá chế, chỉ kỵ phá chế cùng
thất chế. Tuế vận cũng vậy. Ngày Giáp Kỷ đƣợc 3 giờ này, duy chỉ ngày Giáp đƣợc là chính.
)
06-05-16, 19:38
lesoi
Dương Đức Âm Quý, vượng thì vinh hiển, còn nhược có thể giữ danh.
(Dƣơng Đức, là Thiên Nguyệt nhị Đức cùng Nhật Đức. Âm Quý, là Thiên Ất quý thần cùng
Nhật Quý cách vậy. Nhƣợc tuy không bằng cƣờng, cũng tự có thể thủ. )

Thiên Cương Địa Khôi, suy thì bần hàn, còn cường thì tuyệt thế.
(Tức là Khôi Cƣơng cách vậy. Hỉ cƣờng ghét suy, kỵ Tài Quan, phải cùng tại chỗ. )

Quan khố Tài khố, xung khai thì vinh phong tước lộc, bế tắc thì bần cùng của cải.
(Chỗ này là Tạp khí Tài Quan cách vậy. Nhƣ Giáp thấy Sửu là Quan khố, thấy Thìn là Tài
khố, thấy Mùi là Bản khố, thấy Tuất là Thực khố. Quan là thƣợng, Tài là thứ, thủy khố lại
càng là thứ. Nếu khố ở trong năm tháng, quản sự rất sớm, thiếu niên khó phát. Hỉ ở dƣới ở
ngày cùng giờ, tuy phát về già, không mất là tạo hóa phú quý. Phải thấy xung hình phá hại,
để mở khóa cục, sợ có tinh sao làm bế tắc. Nhƣ Đinh dụng Thìn là Quan khố, hoặc chữ Mậu
lạm quyền, hoặc Mậu Thìn áp chế, là bế tắc vậy. Nhƣ vậy, thì Đinh không thể làm quan, trụ
cần có Giáp Tuất hoặc gặp tuế, mới cát. )

Thương quan Chính Quan, thương tận thì độc nắm quyền cao, Bán tàn thì gặp khốn khó.
(Chỗ này là Thƣơng Quan cách vậy. Bán tàn, là nói thƣơng không tận. 《 Hỉ Kỵ thiên 》
nói: Tứ trụ Thƣơng quan, vận nhập Quan hƣơng, tất phá là vậy. )

Tháng ngày Đảo xung Quan Lộc, không có Điền không có Bán, là Lộc Mã bay đến.
(Chỗ này là Phi Thiên Lộc Mã cách vậy. )
368 | Tam mệnh thông hội

Thiên Địa chế hợp Sát thần, nhưng mà không mất, mà danh lợi sậu phát.
(Thiên Địa chế hợp Sát thần, chính là thiên can địa chi, hoặc là Thực thần chế Sát, hoặc là
Dƣơng Nhận hợp Sát. Nhƣng chế hợp không nên thái quá, nhƣ 1 Sát 2 Thực 2 Dƣơng Nhận,
thì là quá mà mất vậy. Thân Sát lƣỡng đình, chế hợp không thái quá, Sát là Hung thần, cho
nên chủ mau phát.
《 Hỉ Kỵ thiên 》 nói: Thiên Quan chế phục thái quá, chính là bần nho. Chế không thể quá
vậy. )
06-05-16, 19:39
lesoi
Duy chỉ có Quan Ấn tối cần tương hội, Đức chính gia phong.
(Chỗ này là Quan Ấn cách vậy. Nhƣ ngày Giáp gặp Tân là Quan, lại có Quý là Ấn, hoặc địa
chi có chữ Dậu Tý đều đúng. Quan Ấn ở thân, một khắc một sinh. Âm dƣơng phối hợp, mà
lại tự tƣơng sinh chỗ này. Cho nên chủ là tƣớng, có tài giúp vua, là tƣớng có tài trí mƣu lƣợc.
Là chủ tể chính trị hiền lƣơng, bản thân phải cùng Quan Ấn ngang nhau, là địc vị cực phẩm
vậy. Nếu không, tùy theo lực lƣợng thăng giáng, mà nói khinh trọng. )

Có Lộc Mã cực hỉ đồng cư, Quan có thể xưng chức.


(Chỗ này là Tài Quan cách vậy. Nhƣ ngày Giáp thấy các tháng Kỷ Sửu, Kỷ Dậu cùng Nhâm
Ngọ, Quý Tị, là Lộc Mã đồng cƣ. Cùng ở trên Quan Ấn tƣơng hội, đều là Tam Kỳ cách vậy.
Lực bản thân cần phải vƣợng, hoặc gặp khí giờ có thể xƣng cách này. Lộc thân cƣờng nhƣợc
ngang nhau, luận hạ cách, thân nhƣợc khó thọ. )

Ấn thụ phùng Sát thì phát, phùng hợp thì hối, phùng Tài thì tai. Phá hợp khử Tài cũng
phát.
(Chỗ này là tổng luận Ấn thụ hỉ kỵ. Phùng Sát, gọi là Ấn dựa Sát sinh, công danh hiển đạt.
Nếu gặp hợp khử Thiên Tài, khắc khử Chính Tài, đều là hối tai. Trong trụ nhật can kiện
vƣợng, hoặc có Tỉ kiên phá hợp khử Tài, thì có thể song thu Ấn Sát, cũng chủ phát đạt,
nhƣng không thanh vậy. Thơ nói: Bỗng phùng Giáp Kỷ thêm kim cục, Bính hỏa tầm thƣờng
liền có than. Vận hành vƣợng hỏa đất sinh thân, công danh chỗ nào không ánh sáng. Là vậy.)

Kiến Lộc gặp Quan thì quý, gặp Tài thì phú. Gặp Ấn thì tú, Bại Tài phá Ấn không cát.
(Kiến Lộc là thân vƣợng. Cho nên dụng Quan, dụng Ấn, dụng Tài đều cát. Có Bại Tài,
Dƣơng Nhận, Tỉ kiên, thì thân thái vƣợng. Đều lấy đủ Kiếp Tài của ta, phân Quan của ta,
đoạt Ấn của ta. Kiến Lộc càng hỉ Ấn cùng Tài, cho nên thấy Bại Tài phá Ấn, thì thiên khô
không thành tạo hóa. Tài Ấn đều thấy hỗn tạp, không phú không tú, là mệnh không thành
vậy. )

Quan Sát lưỡng đình, hỉ là tồn, tăng là khử.


(Võ có thể khử Chính lƣu Thiên, hóa Quan thành Sát. Văn có thể khử Thiên lƣu Chính, hóa
Sát thành Quan. Vận phùng thân vƣợng tất gia phong. Tài Ấn giao soa, muốn kỳ tiến vậy, kỵ
kỳ thoái vậy. Quý có thể thấy nghĩa quên lợi, thủ Ấn bỏ Tài. Phú thì thấy lợi quên nghĩa, thủ
Tài bỏ Ấn. Tuế gặp mệnh cƣờng mà tiến tƣớc. Quan Sát không thể cùng dụng, Tài Ấn khó
lấy giao lƣu, cho nên hỉ tăng tồn bỏ, hoặc khử Sát lƣu Quan, hoặc khử Quan lƣu Sát, muốn kỵ
tiến thoái, hoặc lấy Ấn bỏ Tài, hoặc lấy Tài bỏ Ấn, đều theo kỳ có lực mà trọng dụng. Văn võ
phú quý, cũng nói suy giống nhau, vị tất ƣu tiên. Tứ cách đều lấy thân vƣợng mệnh cƣờng
làm chủ, tuế vận sinh phù là vi diệu. Thông dung luận điều hòa. Thân cùng Tài vƣợng lực
đình, đƣợc Quan Sát đến cũng có thể hóa Tài trợ Ấn, là phúc ích hậu. Thân nhƣợc không có
Quan Sát đến hóa, không chỉ không thắng Quan Sát. Mà Tài Ấn giao soa, thân chế không từ,
không có nơi nƣơng tựa, tất định bần tiện. )
369 | Tam mệnh thông hội

07-05-16, 15:57
lesoi
Thập can Bối Lộc, hỉ kiến Tài phong. Bại phùng Tỉ kiên trục Mã. Quan Sát đều có, giống
như Khử Sát lưu Quan. Ấn trợ thân cường, tất định thu công bái chức.
(Chỗ này nói Thƣơng quan cách vậy. 《 Hỉ Kỵ thiên 》 nói: Thập can Bối Lộc, năm giờ hỉ
thấy Quan tinh. Vận đến Tỉ kiên, hào viết Bối Lộc trục Mã. Là vậy. )

Ngũ hành Thực thần, cho phép cưỡi Mã thịnh, họa sinh Chính Ấn Kiêu Thần. Quan Sát
cùng đến, sai lầm dẫn đến phản hiền bại đức. Kiêu thần Ấn vượng, lập tức thấy phá bại
thương thân.
(Chỗ này nói Thực thần cách vậy. Chỗ này vì câu trên nói Bối Lộc trục Mã, cùng cực đem
Quan Sát mà chuyển thành phúc. Cho nên chƣơng này nói vì Tài dẫn đến phú, bị Quan Sát
trợ Ấn làm họa, trái lại là đại phá. Nghĩa thấy đoạn văn trên với nhau, không thể không khảo
sát tƣờng tận. Bởi vì Thực thần hỉ Tài sợ Kiêu. Quan Sát sinh Ấn, thì Kiêu càng vƣợng.
Thƣơng hỉ thấy Ấn, Thực sợ thấy Ấn, cho nên cùng nói. )

Ngày Mậu tháng Ngọ, chớ lấy Nhận xem. Năm giờ nhiều hỏa, chuyển làm Ấn thụ.
(Chỗ này là Dƣơng Nhận cùng Ấn đồng cung, hỏa nhiều thì Ấn vƣợng, cho nên có thể
chuyển nhƣợc theo cƣờng. Nhƣng Nhận trợ thân cƣờng, lại đƣợc Ấn trợ, thì văn chƣơng cao
thƣợng, có thể ẩn ác mà dƣơng thiện. Nếu có chữ Kỷ thấu ra, vẫn lấy Nhận đoán. Ấn Nhận
đều có, là ngƣời khó tránh tính độc. Có vận tốt lại thành công. Vận xấu Nhận đến, hoặc bị Tài
xung khởi, cũng hung. Hỉ Chính Quan gặp chế là vi diệu. Nhƣ Quý Hợi, Mậu Ngọ, Mậu
Ngọ, Mậu Ngọ, mệnh này chính hợp cách luận này. )
Ngày Bính tháng Sửu, không phải là Bối Lộc. Can chi kim vượng, lại lấy giúp Tài.
(Ngày Bính sinh gặp tháng Sửu, trong Sửu có Kỷ thổ, là Thƣơng quan bối Lộc, chủ bần.
Đƣợc can chi Canh Tân, kim khí vƣợng thịnh, thổ có thể sinh kim, lại lấy Tài đoán. Phải thấy
ngày Bính, hoặc Dần Ngọ Tuất hỏa cục cũng vƣợng, có thể đảm nhận Tài. Chi giờ là Sửu,
trong chi Tị Dậu hợp thấu ra Canh Tân, Bính hỏa sinh vƣợng, cũng hợp cách này. Nhƣ ngày
Bính bản thân tự vƣợng, đơn thấy tháng Sửu, không có Canh Tân thấu lộ, cùng Tị Dậu Sửu
cục, là chân Bối Lộc vậy. )
Quan tọa Nhận đầu chung bị hình, Quý áp tam hình phải chấp chính.
(Nhƣ ngày Giáp thấy tháng Tân Mão, cùng giờ Tân Mão, Quan không đắc lệnh, lại Đinh hỏa
trong Mão thƣơng khắc, tuế vận lại thấy, chắc chắn gặp hình. Nếu Quan Sát chế phục phù
hợp, tuy lấy quý luận, gặp năm Nhận thì vẫn hung, là Dƣơng Nhận đứng đầu phá hƣ tạo hóa
vậy. Quý áp Tam Hình, là trong mệnh phạm tam hình, tuy hung, nếu đƣợc một vị Thiên Ất
Quý nhân chính chiếu. Đắc thời sinh vƣợng, trái lại chủ nắm quyền hình chính, có thể chuyên
chinh phạt. Quý nhân không sinh vƣợng, cũng có thể đoán đi theo chính trị. Là Quý thần,
đứng đầu cát sát vậy. )

Đức Cái Thất Sát, tất là người an thiện. Hoa nghênh Lục Hợp, người sao không dâm
đãng ?
(Đức tức là Thiên Nguyệt Đức, là thần từ thiện vậy. Thất Sát, là Cô Thần sát vậy. Đức Cái
Thất Sát, chủ ngƣời có đạo đức, vì đạo đức mà sinh phú quý. Hoa, tức là Đào Hoa sát, là sát
dâm đãng vậy. Lục Hợp, là sát đa tình sát vậy. Hoa nghênh Lục Hợp, chủ háo sắc ca kỹ. Lại
nhƣ: Ngƣời sinh Mậu Ngọ, thấy loại Quý Sửu, là can chi giao hợp, là Cổn Lãng Đào Hoa. Tứ
trụ có Tý Ngọ Mão Dậu, là Biến dã Đào Hoa, chủ nam không môi giới mà cƣới, nữ không
môi giới mà gả. )

Cô Quả song toàn mang Quan Ấn, đương ưng trụ trì; không thì chỉ là hành đạo.
(Nhị sát Cô thần, Quả Tú, rất sợ cùng thấy một lúc, chỉ có một vị thì không luận. Ở trên
370 | Tam mệnh thông hội

mang Quan Ấn, tuy là tăng đạo cũng quý, nhƣ không có, chỉ là tăng đạo bình thƣờng mà thôi.
Nhƣ Giáp Tuất, Mậu Thìn, Canh Thìn, Bính Tý; Giáp Tuất, Mậu Thìn, Canh Thìn, Đinh
Sửu. Đều là mệnh trƣởng lão thanh cao. )

Khống Yêu Cách giác, phùng sinh vượng tất làm con nuôi; tuyệt thì cuối cùng thủ quan
sương.
(Khống thần, Yêu thần, là Cô Quả sát vậy. Giả nhƣ ngƣời Dần Mão Thìn, thấy Tị, ngƣời
Thìn gọi là Khống Thần sát, còn gọi là Yêu Thần sát. Thấy Sửu, ngƣời Dần gọi là Khuy Thần
sát, còn gọi là Truy Thần sát. Còn lại dựa theo chỗ này mà suy. Lại gặp Tuế Vận bất hòa,
Tam Nguyên hình chiến, là rất hung. )
07-05-16, 15:59
lesoi
Thôn Đạm toàn bài, gia nhân tiêu tán; Không Vong biến kiến, thân thuộc ly thương.
(Thôn Đạm, là nhị sát Không Vong, là thần khắc hại Cô Quả vậy. Cần phải sắp xếp lần lƣợt
thấy cả, mới nhƣ kinh đoán. Nếu Thực gặp Thôn Đạm, Tài Thực Quý Lộc các cách, thấy
Không Vong thì càng không cát. )

Tài Ấn cùng tổn thương, đoán kỳ tất không có trên dưới. Quan Sát đều khử, biết thiếu mất
cha mẹ.
(Hai tiết này là chuyên luận cốt nhục. )

Thuần Hao thuần Nhận giao soa, loại đoán Ngưu Dương. Thuần âm thuần dương bài
khắc, xem đường Trư Cẩu.
(Đại Hao Dƣơng Nhận, chính là thần sát hung nhất. Cô âm cô dƣơng, là can chi không điều
hòa. Hao, Nhận toàn bộ tụ giao đến trên tứ trụ, chủ rất hèn tiện, lấy đoán nhƣ loài Trâu Dê.
Thiên can đều là một Thiên, địa chi xung hình phá hại, tất là ngƣời không có chính tính, luận
lấy nhƣ loài Heo Chó. Nếu nhƣ năm tháng có các sát Dịch Mã Lục Hại, Hoa Cái Kiếp Sát,
Vong Thần, thấy thiên âm thiên dƣơng, càng hung. Nhƣ Giáp Tý, Canh Ngọ, Giáp Tý, Canh
Ngọ, Giáp dụng Tân là Quan, thấu ra Canh Sát, lại không đắc lệnh. Giáp dụng Kỷ là Tài, phát
lộc tháng Ngọ, Tý Ngọ đối xung, Tài lại không thành, đoán lấy kẻ bất nhân bất nghĩa. Nhƣ
Giáp Ngọ, Giáp Tuất, Giáp Ngọ, Giáp Tý, cùng thấy 3 Giáp, dụng Quan thì Quan không
hiển, Tài Ấn đều xung cùng không có chỗ dựa, là loại tham lam không ngán, không nhận lục
thân, ngƣời nghịch lễ bạc tình vậy. )

Suy thụ chúng Kiêu, chính là con ở sống nhờ. Tuyệt phùng trọng Thực, nên làm nghề kẻ
môi giới.
(Kiêu và Thực trái nhau, cho nên cùng đƣa ra ví dụ, thân sợ nhất là suy tuyệt vậy. Suy mà
phùng Kiêu, khó lấy Thiên Ấn; Tuyệt mà phùng Thực, khó lấy Thọ tinh; cho nên đều không
cát. Làm con ở ăn bám, vì Kiêu khó đƣợc ôm Thực. Làm nghề môi giới, vì tuy đƣợc ăn mà
ôm tiện. )

Nếu cũng thuần Quan, thuần Sát, thuần Mã, thuần Tài, thân vượng không tạp, thì Quan
cư cực phẩm.
(Phàm xem mệnh, lấy thuần túy không tạp là thƣợng, thiên khô hỗn loạn là hạ. Lại nhƣ ngày
Giáp, lấy Tân là Quan, trong trụ chỉ có loại Dậu, Tân, là dụng thuần Quan. Lấy Canh là Sát,
trong trụ chỉ có chữ Thân, Canh, gọi là Thuần Sát. Lấy Chính Tài là Mã, trong trụ chỉ có chữ
Sửu Mùi Kỷ. Lấy Thiên Tài là Tài, trong trụ chỉ có chữ Thìn Tuất Mậu, gọi là Thuần Mã,
Thuần Tài. Gặp thân vƣợng, là đại phú quý cách. Đƣợc Kiến Lộc cách, xuất thân liền là giàu
có. Dƣới ngày là thứ, dƣới giờ lại thứ hơn. Kiến Lộc gặp Chính Quan là bậc nhất, Chính Tài
là thứ, duy chỉ có Sát thì thọ không dài. Nếu tháng Dƣơng Nhận, Thuần Sát là đệ nhất, Tài
371 | Tam mệnh thông hội

cách thì đề phòng tai họa. Nhƣ Quý Mão, Ất Mão, Kỷ Tị, Ất Sửu, mệnh này chính là Thuần
Sát có thể rất thiện, cũng quý hàng cực phẩm. Nhƣ Giáp Tuất, Đinh Mão, Kỷ Tị, Ất Hợi,
Quan Sát hỗn tạp, dựa vào Giáp Kỷ hợp hóa là quý. Vì lực tạp hóa quá, không có kết cục. )
07-05-16, 16:00
lesoi
Toàn Ấn, toàn xung, toàn chế, toàn Thực, mệnh cường không có phá, thì Lộc nhận nghìn
chung.
(Toàn Ấn, nhƣ ngày Giáp thấy Tý Quý Nhâm Hợi, hoặc Chính, hoặc Thiên, không có chỗ
bác tạp. Toàn Xung, nhƣ địa chi thuần Hợi, thuần Tị, thuần Tý, thuần Ngọ, xung xuất Lộc
Mã. Hoặc Dần Thân Tị Hợi, Tý Ngọ Mão Dậu, Thìn Tuất Sửu Mùi, đều đúng. Toàn Chế nhƣ
ngày Giáp thấy các chữ Đinh hoặc Ngọ, thƣơng tận Quan tinh, hƣ không sinh xuất thổ đến là
Tài. Toàn Thực, nhƣ Giáp kiến Bính, trong trụ thuần chữ Dần, nhật chủ phải đƣợc sinh
vƣợng, Chính Khố Lâm quan. Tháng ngày giờ, đều là quý nhân vậy. Nhƣ Kỷ Mùi, Ất Hợi,
Bính Dần, Tân Mão, chỗ này toàn là Ấn bác tạp, lại có Tân Tài khắc hình, vận hành thân
vƣợng thì quý hiển. Hành thân suy, thì hãm hình. Nhƣ Tân Hợi, Kỷ Hợi, Tân Hợi, Kỷ Hợi,
tứ trụ thuần Hợi, xung xuất Bính Mậu ở trong Tị. Toàn xung là quý. )

Nhật can thái vượng vô y, nếu không là Tăng, chắc hẳn là Đạo. Thiên Nguyên suy nhược
không có cứu trợ, nếu không làm ca kỹ, thì chắc là thầy mo.
(Chỗ này là nói thái quá cùng bất cập, đều là không cát vậy. Thái quá, là Tài Quan tử tuyệt,
cho nên là cô đơn. Bất cập, là Tài Quan khó đảm nhận, cho nên chủ nghệ thuật. Thấy tạo hóa,
quý ở trung hòa vậy. Nếu có chỗ dựa có chỗ phụ trợ, thì không thể luận nhƣ vậy. 《Hỉ Kỵ
thiên 》 nói: Trong trụ Quan tinh thái vƣợng, danh là Thiên Nguyên suy nhược. Nhật can
vƣợng thậm vô y, nếu không là Tăng cũng là Đạo. )

Thân nhược có sinh tất phát, kỵ Tài Mã vì tổn thương nhau.


(Chỗ này nói thân nhƣợc dụng Ấn kỵ Tài tổn thƣơng Ấn, gọi là Tham Tài phôi Ấn, phải
phân Tài Ấn khinh trọng mà nói. 《 Hỉ Kỵ thiên 》 nói: Nhật can vô khí, giờ phùng Dƣơng
Nhận thì không hung. Là do Dƣơng Nhận kiếp Tài, trong trụ Tài đa thân nhƣợc, cho nên
không kỵ Dƣơng Nhận. Cần hợp lại luận. )

Thực thần phùng Kiêu thì yểu, hỉ Tài tinh là cứu sinh.
(Chỗ này nói Thực thần sợ Kiêu, cần có Tài chế Kiêu, là dụng thần có cứu, phải phân Tài
khinh trọng mà nói. Ấn thì kỵ Tài, Thực thì cần Tài, nghĩa đều có chỗ dụng vậy. )

Ngày Giáp Tý gặp giờ Tý, không có Canh Tân Thân Dậu Sửu ngọ, gọi là Lộc Mã phi lai.
(Chỗ này gọi là Tý diêu Tị cách vậy. )

Giờ Canh Thân gặp ngày Mậu, không có Giáp Bính Mão Dần Ngọ Đinh, danh viết là
Thực thần minh vượng.
(Chỗ này là Chuyên Thực hợp Lộc cách vậy. 《 Hỉ Kỵ thiên 》 nói: Giờ Canh Thân gặp
ngày Mậu, danh Chủng Thực can vượng; tháng phạm Giáp Bính Mão Dần, chỗ này chính là
Ngộ nhi bất ngộ. Là vậy. )
07-05-16, 16:01
lesoi
Canh Nhâm Tý xung Ngọ Lộc, thiết kỵ Bính Đinh.
(Chỗ này là Chính xung Lộc Mã cách vậy. )

Tân Quý sửu hợp Tị cung, phải sợ Tý Tị.


372 | Tam mệnh thông hội

(Chỗ này là Sửu diêu Tị cách vậy. 《 Hỉ Kỵ thiên 》 nói: Ngày Tân Quý gặp nhiều đất Sửu,
không hỉ Quan tinh. Năm giờ gặp 2 cung Tý Tị, là hƣ danh hƣ lợi vậy.)

Chỗ này đúng Bính Ngọ Đinh Tị, tối kỵ hình xung.
(Chỗ này là Đảo xung Lộc Mã cách vậy. )

Ví dụ như Nhâm Tý Quý Hợi, cũng đề phòng Điền Thực.


(Bên trên là Chính xung, Đảo xung, Diêu hợp, Thông dung, nghĩa các đoạn văn cùng thấy lẫn
nhau. Đƣa ra ví dụ Bính Đinh cùng Tị, kỵ Điền thực vậy. Ví dụ Tý, kỵ hình xung vậy. Nhƣ
Bính Tý, Canh Dần, Bính Ngọ, Quý Tị; Canh Dần, Nhâm Ngọ, Bính Ngọ, Mậu Tuất, hai
mệnh này đều hỉ có đủ Dần Ngọ Tuất. Nhƣ Tân Dậu, Quý Tị, Đinh Tị, Ất Tị; Quý Mão,
Đinh Tị, Đinh Tị, Ất Tị, hai mệnh này hỉ có chữ Tị nhiều, bất luận có hợp, không có hợp,
đều cát. Duy chỉ kỵ chữ Thìn hợp trói, thì không thể xung. Lại hỉ có đủ Tị Dậu Sửu, là Chính
Xung cách vậy. 《 Hỉ Kỵ thiên 》 nói: Nhƣợc đƣa tiễn nguyệt kiến Thƣơng quan, nhƣ xứ
hung vị tất là hung; bên trong có Chính Đảo Lộc phi, kỵ Quan tinh dcũng sợ hợp trói. Là vậy.
)

Ngày Lục Tân mà không có chữ Ngọ, được giờ Mậu Tý, Tân hợp Bính Quan là quý.
(Chỗ này là Lục Âm triều Dương cách vậy. Nhƣ: Mậu Thìn, Tân Dậu, Tân Sửu, Mậu Tý;
Mậu Thìn, Tân Dậu, Tân Dậu, Mậu Tý; Ất Sửu, Canh Thìn, Tân Dậu, Mậu Tý, là cách này
vậy. 《 Hỉ Kỵ thiên 》 nói: Ngày Lục Tân gặp giờ Mậu Tý, sợ vận Ngọ Mùi, hỉ tây phƣơng"
là vậy. )

Ngày Lục Quý mà không có can thổ, gặp giờ Giáp Dần, Dần hình Tị cách là quý nhất.
(Chỗ này là Hình Hợp cách vậy. Cách này chủ tính khí cƣơng, mà xét thấy quá nhanh. Nhƣ:
Ất Mùi, Giáp Thân, Quý Dậu, Giáp Dần, sợ Canh ở trong Thân tổn thƣơng Giáp mộc, Dần
Thân đối xung, cho nên tuy quý mà giảm nửa số, lợi dầy mà danh thấp. 《 Hỉ Kỵ thiên 》
nói: Ngày Lục Quý gặp giờ Dần, năm tháng sợ hai phƣơng Kỷ Mậu. Là vậy.)
07-05-16, 16:03
lesoi
Quý không có giờ Bính hỏa Mậu Kỷ Canh Thân, hợp một Kỷ Tài Quan.
(Chỗ này là Chuyên Ấn hợp Lộc cách vậy. Cùng xem giống nhƣ Chuyên Thực. )

Nhâm có Tý Ngọ Mão Dậu chính khí, trụ kiêm tứ quý thổ Lộc.
(Ngày Nhâm là chủ, vừa không có Quan Sát, nhƣng đƣợc Tý Ngọ Mão Dậu là Tứ Chính. Có
thể hợp xuất Thìn Tuất Sửu Mùi là Quan lộc, không cần đều hội tứ chính, nhƣng có đủ 4 chữ
là vi diệu. )

Giống như trên ngày Quý, thổ diệu chớ xâm. Có lợi hại đan xen, Quan cao thân bệnh.
Gặp là đích xác Hình Huệ, chức trọng nhà bần.
(Ngày Quý làm chủ, lại kiêm thổ Lộc kiến Tý Ngọ Mão Dậu, cùng giống ngày Nhâm, là cát
hung kèm theo nhau vậy. )

Giáp Khúc Trực, Bính Viêm thượng, Quan cao khắc thê mà bất phú. Mậu Tòng Cách,
Canh Nhuận Hạ, chức trọng con thiếu mà tự mình bần.
(Giáp kiến Hợi Mão Mùi, viết là Khúc Trực. Bính kiến Dần Ngọ Tuất, viết là Viêm thượng.
Mậu kiến Tị Dậu Sửu, viết là Tòng Cách. Canh kiến Thân Tý Thìn, viết là Nhuận hạ. Giáp
Bính kiến mộc hỏa cục, là Thái vượng, có thể tam hợp xuất toã Quan cục, cho nên là Quan
cao. Nhƣng có Dƣơng Nhận, Kiếp Tài cho nên khắc thê. Mậu Canh kiến kim thủy cục, là
373 | Tam mệnh thông hội

Thoát khí, có thể tam hợp xuất toã Quan cục, cho nên là Chức trọng. Nhƣng trong trụ vốn
không có Quan Sát, cho nên ít con. Cần phải biết 4 cách này, đều là Thiên đảng, cho nên
phúc lộc bất toàn. )

Thân phạm đất hưu tù, cùng xung Quan Quý sao oán than.
(Nhƣ ngày Tân Hợi, đã không có Quan Sát, thân lại không vƣợng, sao không thƣơng cảm?
Không biết chữ Hợi nhiều, cũng có thể xung xuất Quan Ấn ở trong Tị là quý, cho nên viết
sao khởi oán than? )

Chi tự chuyên Quan vượng, cùng đuổi Lộc tử vẫn quý.


(Chỗ này tức là các ngày Đinh Tị, Quý Hợi, Bính Ngọ, Nhâm Tý, tự tọa lâm quan, đế vƣợng.
Chi thần nhiều có thể xung xuất Quan lộc đối cung. Cùng nghĩa văn ở trên là giống nhau. )

Âm mộc độc gặp giờ Tý, không có Quan tinh, Ất trấn chỗ này khoa tối quý.
(Chỗ này là Lục Ất Thử quý cách vậy. Nghĩa văn《 Hỉ Kỵ thiên 》giống nhau. Nhƣ Giáp
Dần, Mậu Thìn, Ất Hợi, Bính Tý, tứ trụ không còn dao động cách khác, Bính Tý cũng không
diêu động, an nhiên là quý. 《 Kinh 》 nói: "Có Thần không thể diêu động" là vậy. Nhƣ Giáp
Dần, Quý Dậu, Ất Hợi, Bính Tý, nguyệt lệnh có Thiên Quan hại thân, nhờ ở dƣới ngày có
Ấn vƣợng, cũng không là mất y lộc. Nhƣ Tân Hợi, Giáp Ngọ, Ất Hợi, Bính Tý, mệnh này
quý bị Ngọ phá, 2 Hợi là Tự Hình. Bản thân vừa ở Tử địa, lại thấy tự hình, cả hai đều không
có chỗ dựa, cho nên chủ bần tiện. ))
07-05-16, 16:04
lesoi
Dương thủy điệp phùng Thìn vị, không có xung khắc, Nhâm Kỵ Long Bối là phi thường.
(Chỗ này là Nhâm Kỵ Long Bối cách vậy. Nghĩa văn《 Hỉ Kỵ thiên 》giống nhau. Nhƣ
Nhâm Thìn, Giáp Thìn, Nhâm Thìn, Nhâm Dần, Nhâm dụng Kỷ là Chính Quan, Đinh là
Chính Tài. Chữ Thìn nhiều, xung xuất Quan khố ở trong Tuất, hƣ hợp Tài Quan trong Ngọ,
Dần Ngọ Tuất tam hợp hỏa cục. Ngƣời Nhâm gặp là quý. Nhƣ Nhâm Dần, Nhâm Dần, Nhâm
Thìn, Nhâm Dần, ngƣời Nhâm thấy Bính hỏa sinh ở Dần, Tị là Tài Quan. Chữ Dần lại nhiều,
hợp khởi Ngọ Tuất là Tài Quan, cho nên thắng lợi ở danh. )

Ngày Canh toàn phùng Nhuận Hạ, kỵ phương Nhâm Quý Tị Ngọ. Giờ gặp Tý Thân, kỳ
phúc giảm nửa.
(Đây là Tỉnh Lan xoa cách vậy. Nghĩa văn《 Hỉ Kỵ thiên 》giống nhau. )

Hợp Quan, hợp Tài làm Công Khanh, phòng hưu tù khắc hại là nhục.
(Hợp Quan, nhƣ ngày Ất thấy Canh. Hợp Tài, nhƣ ngày Giáp thấy Kỷ. Là đạo Thập can biến
hóa vậy. 《 Phú 》 nói: Hóa chân, là công danh cự khanh; Hóa giả, là cô nhi dị tính. Ất
Canh hóa kim thấy thủy địa, thì hƣu khốn; kiến hỏa địa, thì khắc hại. Phàm mang hợp hoặc
độc vƣợng, không thể tự tựu. Hoặc trong hợp thấy xung phá, hoặc có một bên khắc phá, đều
là hợp không thành. Hoặc hóa ở đất hƣu tù tử tuyệt, trái với cùng hợp, tất nhiên là trì trệ bất
lợi, gọi là Hóa giả vậy. Nhƣ Kỷ kiến Giáp, kiến Kỷ gọi là đắc địa, Kỷ là khố vƣợng vậy. Nhƣ
Bính kiến Tân, kiến Tân Mão là thất địa, Bính hỏa bại ở Mão vậy. Mậu và Quý hợp, kiến
Mậu Ngọ là đắc địa, Mậu Quý hóa hỏa, Ngọ là đất hỏa vƣợng kiên cố vậy. Cũng cần Quý
thủy trƣớc là đắc địa, phƣơng hợp thoả đáng. Nếu thất địa là không đắc thời, thì tổn thọ. Bởi
vì hóa là quý vƣợng, thân nhƣợc không thể thắng, dù quý cũng mất. Bính lại cùng Tân hợp,
kiến Tân Mùi dƣơng hỏa, khí nhƣợc ở Mùi, đa số là chết yểu, hoặc vì hại sắc. Trụ có Nhâm
khắc Bính, hoặc Nhâm cƣ trên Thân là tự sinh, xung cung Dần đất hỏa sinh, chết yểu là
không nghi ngờ. Cũng có Tham hợp vong Quan, nhƣ ngày Đinh thấy 2, 3 chữ Nhâm, Đinh
374 | Tam mệnh thông hội

chỉ đơn độc còn Nhâm nhiều, một thân không thể thắng nhiều, là kẻ sĩ ô hợp, không có chỗ
vững chắc sao có thể thành công? Đinh có lực chỉ đƣợc nửa cát. Lại nhƣ, Giáp cùng Kỷ hợp,
cung Giáp mộc không có thông khí, vị trí Kỷ thổ có chính nghĩa, tuy hợp mà mất chính, cũng
luận giống nhƣ trên. Nếu Giáp Kỷ cả hai đều đắc vị, quý hiển cực cao. 《 Kinh 》 nói: Giáp
Kỷ mộc thịnh ở đất thổ, phát dƣơng nhân nghĩa phò minh quân. Bính Tân hợp, Bính vƣợng
Tân sinh, chức trấn thủ uy quyền. Ất Canh nhập kim cục, kiêm mộc tự vƣợng, văn nhân vũ
nghĩa song toàn. Mậu Quý đƣợc hỏa vƣợng, thêm thủy độc vƣợng, lễ luật trí dũng đều có.
Đinh Nhâm thủy hỏa cùng ký tế, ngƣ thủy hòa đồng; âm dƣơng can chi cùng tƣơng hợp, quân
thần khánh hội. Nghe Phƣợng hót ở đồi cao, tất ƣng truyền ở chiến trƣờng. Là vậy. Nhƣ Giáp
Thìn, Mậu Thìn, Kỷ Tị, Tân Mùi, ngày Kỷ đƣợc Giáp là Chính Quan, tháng 3 thông khí, dẫn
tới trên Mùi, là kiêm Chính Ấn, cho nên chủ nhất quán. Nhƣ Mậu Thân, Canh Thân, Quý
Hợi, Mậu Ngọ, Quý sinh tháng 7, Ấn vƣợng đất Thiên Đức, hợp Mậu là Quan, dẫn tới giờ
Ngọ đất hỏa vƣợng, lại có thể giúp Quan Mậu thổ, Quan cùng thân đều vƣợng, cho nên chủ
đại quý. )
07-05-16, 16:05
lesoi
Củng Quý, củng Lộc là làm tướng, kỵ hình xung điền thực là hung.
(Chỗ này là Củng Quý, Củng Lộc cách vậy. Nghĩa văn《 Hỉ Kỵ thiên 》nhƣ nhau. Nhƣ
Đinh Tị, Bính Ngọ, Giáp Dần, Giáp Tý, là Củng Sửu Quý. Nhƣ Nhâm Tý, Đinh Mùi, Đinh
Tị, Đinh Mùi, chi năm có chữ Tý xung xuất chữ Ngọ, cho nên đại quý. Nhƣ Quý Mão, Canh
Thân, Mậu Thìn, Mậu Ngọ, là Củng Tị Lộc. Nhƣ Tân Sửu, Tân Sửu, Giáp Dần, Giáp Tý, có
chữ Sửu là Điền thực, lại lấy Tân là Chính Quan luận. Nhƣ Kỷ Mùi, Mậu Thìn, Mậu Dần,
Mậu Ngọ, Quan Sát nhiều, chữ Dần xung Thân là xung khai, thì Củng không thành. Nhƣ
Nhâm Thìn, Mậu Thân, Kỷ Mùi, Kỷ Tị, là cách này vậy, cho nên đại quý. )

Quan Ấn ám hợp thiên địa, quý có thể biết. Phúc Đức ẩn ở trong chi, Đức càng tụ.
(Quan Ấn ám hợp, tức là Thực thần ám hợp Chính Quan, Thiên Tài ám hợp Chính Ấn. Nhƣ
Giáp dụng Tân là Quan, Bính thịnh có thể ám hợp Tân Mùi là Quan. Dụng Quý là Ấn; Mậu
vƣợng vị trí ám hợp Quý Sửu là Ấn; thêm đắc địa chi có Tý hợp Sửu. Có Ngọ hợp Mùi mới
đúng. Phúc Đức ẩn tàng, Phúc tức là Phúc tinh quý; Đức tức là Thiên Nguyệt Đức hoặc là
chỉ Phúc Đức tú khí, hoặc là chỉ Thiên Ất Quý nhân, lấy tàng ở trong chi là vi diệu. Nhƣ Giáp
Mậu Canh không thấy Sửu Mùi, nhƣng đƣợc chữ Kỷ là đúng. Kiến Kỷ ở cung Sửu Mùi càng
tốt. Trụ không có Mão Ất phá, lại sinh tháng tứ quý, Kỷ thổ đắc lệnh, chủ quý nhân kiến hỉ,
tiền trình tôn hiển. Thê hiền cùng đƣợc Thê tài. Lại nói: Ngƣời Giáp thấy Sửu, hỉ tọa Dƣơng
Nhận, là Thiên Ất đƣơng chức, kiến Mùi sinh ban đêm là đắc lực, là phúc thập toàn. Trái lại
chỗ này, luận chỉ một nửa. Tứ trụ mang đủ Giáp Mậu Canh, đƣợc Ất Sửu là tụ quý, càng
thêm phúc lực. Nếu 1 Canh, 1 Giáp, thấy chi thần có 3, 4 Sửu Mùi, là hội quý, cũng thêm
phúc lực. Nếu Bản Chủ cùng Quý nhân đều sinh vƣợng, chỉ cần một chữ, phúc tự có đủ. Hỉ
tam hợp, lục hợp, kỵ hƣu tù, Không, phá. Thơ viết: Quý nhân Đế tọa kiến sinh thành, ở đất
Quan vượng sớm thành danh. Nếu gặp hưu tù cùng phá chế; hư danh tung tích xa Tam Công.
)

Ngũ hành chính quý, sợ chi thần hình xung khắc hại. Tứ trụ cát thần, hỉ đất Quan vượng
sinh hợp.
(Ngũ hành chính quý, là Quan tinh chính khí. Nhƣ Giáp sinh tháng Dậu. Rất sợ Dậu hình
Mão xung, Đinh khắc Tuất hại, tổn thƣơng quý khí. Hoặc lấy Quý là quý thần, nhƣ Giáp kiến
Sửu, trong Sửu có Tân, lại là Chính Quan của Giáp. Trụ có Mão Ất khắc phá Sửu quý, hỉ Tị
Dậu tam hợp, Ất mộc xung khắc, Sửu không quý. Hoặc có Tý hợp Sửu cũng đƣợc. Khắc
ngăn cách mộc, nhƣ có Ất Mão, Tý Mão tƣơng hình, không thể khắc Sửu Mùi, là Thiên Ất
375 | Tam mệnh thông hội

quý. Tứ trụ cát thần, là Quan Ấn, Tài Thực, quý, loại tinh Phúc Đức là đúng. Nếu đƣợc một
tinh lâm vị trí trƣờng sinh, đế vƣợng, lâm quan, chính khố, tam hợp, lục hợp thì không có
không phú quý. Thơ viết: Nhân mệnh sinh giờ được một cường, ngày giờ hoặc lâm đất Lộc
Mã, cần xem trước sau hợp phù trợ, tất nhiên y cẩm nhập trung đường. 《 Hỉ Kỵ thiên 》
nói: Ngũ hành chính quý, kỵ cung hình xung phá hại; can chi tứ trụ, hỉ đất tam hợp, lục hợp.
Lại nói: Địa chi, thiên can nhiều hợp. Cũng nói là Thực hợp vong Quan. Cả hai nghĩa cần
hợp lại luận. )

Nếu cũng Mộc dục phùng Sát, hồn phách hướng Phong đô; Nguyên tái phạm Thương,
hồn quy Nhạc phủ.
(Chỗ này là do hình xung khắc hại mà nói. Sợ Lỏa Hình phùng Sát, lấy sinh nhẹ, mà khắc thì
nặng. Nguyên mệnh phạm, là lấy không cát. Tuế vận tái phạm, quyết chết không sai. Nhƣ
nguyên phạm Quan Sát, khử không xứng thanh, trụ không có Thực thần giải cứu, tuế vận lại
thấy thì chết. Nếu nguyên phạm phá Ấn, tái phạm lƣu niên thì chết. Phàm dụng thần có tổn
hại, đều nhƣ vậy. 4 câu này, bản văn của 《 Lạc Lục Tử 》. )
07-05-16, 16:06
lesoi
Sợ Sát phùng Sát thì yểu, lo Quan lạc Quan là vong.
(Chỗ này cũng từ ở trên mà trình bày vậy. Trong trụ vốn sợ Quan Sát, nhƣ Giáp kiến Canh
Thân là Sát, tuế vận lại thấy, trụ không có cứu giải, là yểu. Năm Sát càng nặng. Có Ấn thì
hóa, có Thực thì chế, có Nhận thì hợp, thân vƣợng thì đối địch, nếu hành vận Sát vƣợng, cũng
yểu. Lại nhƣ, ngày Giáp thấy Thìn, là số cực dƣơng, lại là Thiết Xà Quan. Nhâm thấy Sửu,
Canh kiến Tuất, Bính kiến Mùi Thân, đều là Dƣơng quan, viết là nặng. Ất kiến Thìn, Quý
kiến Sửu, Tân kiến Tuất, Đinh kiến Mùi Thân, là Âm quan, hơi nhẹ. Tứ trụ phạm lƣu niên lại
phạm, vận hành hƣu tù, là chết. Hoặc bị Thần Sát Quỷ tặc, hoặc viết danh Quan Sát rất nhiều,
không nói thẳng là Dƣơng quan Thất Sát vậy. Đã nói rõ ở trƣớc phần luận 《 Thọ yểu cùng
Tiểu Nhi Quan Sát 》. )

Dẫn hợp Quan Sát gặp thương thân, Trung Hạ diệt tuyệt là yểu thọ.
(Dẫn hợp Quan Sát, nhƣ Bính hỏa đã nhƣợc, lại thấy Tân Mùi, Bính Tân đã hợp Bính đến
Tân Quan. Vị trí Mùi, là Bính cực Dƣơng Quan (chữ Quan ở đây là cửa quan, chứ không phải
là Quan tinh), lại bị Nhâm đến khắc là chết. Hoặc là Tân Hợi Sát địa càng khẩn, lại phạm
điều hung dữ. Nhƣ Bính Tuất, Đinh Dậu, Tân Dậu, Ất Mùi, năm Nhâm Thân chết vậy.
Trung Hạ diệt tuyệt, nhƣ ngày Nhâm Tuất là tọa Tài, lại tọa Sát, chi ngày có là thọ. Hành
vận Nhâm Thìn, Nhâm Quý thủy tụ ở Thìn, khắc phá hoả thổ ở trong Tuất, không còn có thể
cứu là yểu. Danh này gọi là Đảo xung nguyên mệnh. Thổ vƣợng thì thủy vƣợng, bản thân
thổ tự sụp đổ, sau mà có cứu ? Thủy vƣợng thì hỏa diệt, cho nên nói Trung Hạ tuyệt diệt.
Trung Hạ, tức là Địa nguyên, Nhân nguyên. Là ranh giới Trung Hạ vậy. Còn lại cứ loại suy
từ chỗ này. )

Thương quan kiến Quan, họa hoạn bách đoan. Trục Mã phùng Mã, lao khổ thiên bàn.
(Chỗ này nói độc phạm chỗ kỵ, cho nên không cát. Thƣơng quan kiến Quan, duy chỉ có Tài
tinh có thể giải độc Thƣơng, khuyến khích Quan phẫn nộ, chuyển họa thành cát. Trục Mã
phùng Mã, duy chỉ có Quan Sát có thể chế Kiếp Nhận, tuy lao khổ cũng có đƣợc tài. Nếu
nhiều Tỉ kiên, là nó cƣờng ta nhƣợc, tuy là giảm hao, cũng có đƣợc tài. Không đƣợc quân
bình, một chỉ có 3, 4 phần mà thôi. )

Tài phùng Dương Nhận lấy nhiều tổn thương, Ấn thấy Thê Tài mà không phá.
(Nghĩa chỗ này cũng giống đoạn văn ở trên. Phàm mệnh, tối kỵ Dƣơng Nhận, Tài cách bị
376 | Tam mệnh thông hội

phá, Ấn cách bị đoạt, Quan cách xung nộ. Chỉ có hỉ Thất Sát chế. Âm Nhận lực là không
ngại. Ấn thấy Thê Tài, là nói Tham Tài phôi Ấn vậy. Tuế vận lại thấy, chủ phá tài thƣơng
thê, hoặc vì vợ mà dẫn đến kiện tụng. Nếu nguyên mệnh không có Tài tinh, hoặc lực Tài tinh
nhỏ, tuế vận thấy, là hơi nhẹ. Duy chỉ có Quan Sát tiến sinh khuyên giải, lại đƣợc tiến cử
thành danh. )

Thực thần gặp ít, không Tài là yểu. Thân nhược có Tài, trọng phùng Chính Ấn, cũng
hung. Chế Sát phùng Ấn, có xung thì phạt. Mệnh cường không có Quan, đơn phùng Thất
Sát càng thắng.
(《 Hỉ Kỵ thiên》 nói: Trong trụ toàn gặp Thất Sát, thân nhƣợc cực bần không có đất. Là
nghĩa này vậy. )
07-05-16, 20:07
lesoi
Tam hình đối xung phát sinh hoành họa, Dương Nhận đối hợp không đến tai ương. Mộc
dục tòng sinh không có nhà khách, hưu tù kiến Sát không chôn người.
(Mộc dục, hƣu tù, đều là thân suy vậy. Tòng sinh thì phiếm, kiến Sát thì hại. )

Kiếp Tài dưới tháng chủ vô tài, hỉ Sát không có Ấn mà có thu hoạch.
(Sát có thể chế Nhận, Ấn có thể hóa Sát. Hóa thì không thể chế Nhận, cho nên hỉ Sát mà bỏ
Ấn. )

Ám trung phá Ấn thân phá Ấn, hỉ Quan không Thực lấy gia phong.
(Tài có thể phá Ấn, Quan có thể sinh Ấn. Có Thực thì phá Quan sinh Tài, Ấn càng thụ
thƣơng, cho nên hỉ Quan mà bỏ Thực. )

Quan Sát hỗn tạp thì bệnh hoạn, huynh đệ quá nhiều thì phân tán. Hỉ Ấn không chế là có
văn, hỉ chế không Ấn là có vũ. Chế Ấn đều có, lao lục khó thành.
(Ấn có thể hóa Sát, Thực có thể chế Sát. Là có hóa thì không nên chế. Có chế thì chớ hóa.
Chế hóa quá nhiều, thì Sát vô khí, trái lại là không cát. Dƣơng Nhận toàn dựa vào Sát chế,
hoặc hóa làm Ấn thụ, nhƣ ngày Mậu tháng Ngọ. Là chế hóa chỉ dụng một, đều có thể có
thành tựu. )

Lộc Mã bối trục là cơ hàn, Tài Ấn tương phá là trói túi. Hỉ Quan mang Sát thành quyền,
thích Sát mang Quan là quý. Quan Sát đơn kiến, vụn vặt không thành.
(Bối trục Lộc Mã, Tài Ấn tƣơng phá, tu nhiều Quan Sát, mới có thể chế Tỉ Kiếp mà sinh Tài,
sinh Ấn thụ mà hóa Tài. Đơn kiến thì lực bạc nhƣợc, sao mà toại ý? )

Kiêu Ấn hỗn tạp là lấy nhục, Tài Mã quá nhiều là cướp khí. Hỉ thân vượng mà thành
phúc, kỵ vận nhược là sinh tai.
(Thiên Chính nhị Ấn hỗn tạp, Thiên Chính nhị Tài đều có. Nếu thân nhƣợc không thể sinh
song thành, cùng thụ Tài, trung gian phải phân Thiên Chính cƣờng nhƣợc. Nếu Thiên Ấn
Thiên Tài cƣờng, thân vƣợng vận cƣờng, tất nhiên phát phúc. Chính Ấn Chính Tài cũng vậy.
)

Quan Lộc khắc phá là yểu tử, Khố Mộ xung tán là không cơm. Kỵ trọng phá mà vô y, hỉ Tỉ
kiên mà có cứu.
(Quan, là Quan tinh. Lộc, là Chính Lộc. Nhƣ Giáp kiến Tân Dần, lại kiến Canh Thân, cùng Tị
cùng Ngọ, tuế vận lại thấy, là yểu. Nếu thân vƣợng, có Tỉ kiên, cũng có thể lấy vƣợng luận.
Lại nhƣ, Giáp lấy Sửu là Quan khố, phải gặp chữ Mùi xung khai, dụng Mùi không thể thấy 2
Sửu. Có Sửu không thể thấy 2 Mùi. Lại kỵ Đinh Sửu, Đinh Mùi, Đinh làm tổn thƣơng Tân
377 | Tam mệnh thông hội

Quan. Thấy Quý Mùi, Quý Sửu, Quý thủy có thể chế Đinh hỏa. Kỷ Sửu, Kỷ Mùi. Kỷ thổ có
thể sinh Tân Quan. Kỷ là Tài của Giáp, Quý là Ấn của Giáp, Bính là Thực của Giáp, can chi
sinh vƣợng không có phá là phú quý. Nếu thấy xung khắc, thì giảm nửa phần. Xung khắc quá
nặng, trái lại là bần cùng.
Bên trên đƣa lẫn lộn Tài Quan Ấn thụ, Thực thần Thƣơng quan, Quan Sát Dƣơng Nhận, Tỉ
kiên Kiêu thần. Kỵ nhau cần nhau, chế nhau hợp nhau, nói qua lại, xem chỗ dụng thần nhƣ
thế nào. Nhật can cƣờng nhƣợc nhƣ thế nào. Kinh nói: Nhật chủ tối cần kiện vượng, dụng
thần không thể tổn thương. Vì vậy nói đơn giản mà vô tận vậy. )
07-05-16, 20:08
lesoi
Kiếp Tài Dương Nhận, thiết kỵ giờ gặp. Tuế vận cùng lâm, tai ương lập tức đến. Tuế xung
Vận thì sụp, Vận khắc Tuế thì trốn tránh.
(Dƣới chỗ này là chuyên luận Tuế Vận. Tuế, là chỗ Thiên đóng, Vận, là chỗ địa chi tải. Tuế
Vận cả hai không thể xung kích nhau, nặng thì sụp đổ, nhẹ thì trốn tránh. Trong mệnh cần
nhất là trung hòa, thì Thiên Địa hanh thái, phúc lộc tự đến. Thái tuế xung Vận, họa nặng; Vận
khắc Thái tuế, thì họa nhẹ.
Khảo sát thuyết trong《 Uyên Nguyên, Uyên Hải 》, chỉ lấy Vận khắc Tuế là nặng, Tuế
khắc Vận là nhẹ, tức nghĩa là ngày phạm Tuế quân vậy. Nghiệm xét mệnh của tôi, hành vận
Đinh Tị, gặp lƣu niên Quý Hợi, Quý hại Đinh Hợi xung Tị, là Tuế xung Vận vậy. Năm này
gặp bãi quan tang mẹ, rƣớc họa thê thảm, ví dụ xem rất lợi hại vậy. )

Âm khí hết mà Dương khí đoạn, không chết mà nhận than thở. Số cực dương mà truy âm
mệnh, đợi bất trở gì?
(Giáp kiến Thìn, Bính kiến Mùi, Mậu kiến Sửu, Canh kiến Tuất, Nhâm kiến Sửu, là khí cực
dƣơng. Ất kiến Tuất, Đinh kiến Sửu Tị, Quý kiến Mùi, Tân kiến Thìn, là số cực âm. Tuế Vận
thấy càng hung. Lại nói: Ất Thìn, Đinh Mùi, Kỷ Sửu, Tân Tuất, cũng là đến truy âm phù,
trƣớc đoán số dƣơng, nếu chỉ lúc sinh, tứ trụ không có hại. Rất sợ sinh phạm, tuế vận lại thấy,
lập tức chết. Lại nói: Âm can gặp cực dƣơng, là Âm gặp Dƣơng quan; can dƣơng gặp ở cực
âm, là Dƣơng gặp Âm quan. Thân nhƣợc lực yếu đều yểu; thân vƣợng đƣợc Tỉ kiên đảng trợ,
thì vô hại. )

Ngũ hành có cứu, nên lo không lo; Bốn mùa phùng Không, nghe hỉ không hỉ.
(Là nói nhân mệnh gặp tuế vận là hung. Bên trên nói xung khắc, hết khí, là loại cực số, nhƣ
ngũ hành có cứu, thì lúc lo mà không lo. Bốn mùa phùng Không, là lƣu niên thái tuế gặp cát
thần, lại gặp Không Vong, thì nói nghe hỉ mà không hỉ. Hoặc viết: Giáp sợ Canh, đƣợc Ất có
thể cứu; xuân không có thổ, không sợ thổ làm hung, không hỉ thổ là phúc. 《 Kinh 》 nói:
Canh Tân đến hại Giáp Ất, Bính Đinh thấy trƣớc là không có nguy. Lại nói: Xuân không có
thổ, hạ không có kim, thu không có mộc, đông không có hỏa là vậy. Bên dƣới có luận 12 câu
phụ nữ, để dẫn chuyên luận phụ nữ. Cho nên không ghi nữa. )
Là lấy âm dƣơng hãn trắc, không thể một đƣờng mà suy; quý tiện khó phân, phải cầm hai đầu
mà đoán. Lƣợc cứu di văn cổ thánh, ƣớc lấy nghiên tƣờng kim hiền. Nếu tuân theo phép này
mà ngộ, giám mệnh để không mắc sai lầm.
(Chỗ này là tổng kết nghĩa của các cách ở trên. Bên trên chỉ ra nhiều cách, đều luận ở các
quyển trƣớc, cho nên khônng chú giải thêm. 《 Hỉ Kỵ thiên cùng Kế Thiện thiên 》, là theo
bài phú biến hóa mà ra, ngƣời ngày nay nếu không có hai chƣơng này, là không biết có phú
này. Cho nên ghi lại vậy. )
09-05-16, 11:03
lesoi
378 | Tam mệnh thông hội

Hỉ kỵ thiên

Tứ trụ bài định, Tam Tài thứ phân. Chuyên dĩ nhật thượng Thiên nguyên, phối hợp bát tự
can chi, chi trung hữu kiến bất kiến chi hình, vô thời bất hữu.
Phàm xem mệnh, trƣớc tiên xem tứ trụ năm tháng ngày giờ, thứ đến phân ra Thiên, Địa,
Nhân tam nguyên. Can là Thiên nguyên, Chi là Địa nguyên. Lấy bên trong chỗ tàng của địa
chi là Nhân nguyên. Năm là gốc căn bản, tháng là đề cƣơng, ngày là mệnh chủ, giờ là phân
dã. Cho nên lấy thiên nguyên nhật chủ phối hợp, lấy kỳ Quan quý, Tài Ấn, Quỷ bại, Thƣơng
tranh. Việc này luận can chi bát tự có thấy hay không thấy hiện ra. Tạo ra sinh, vƣợng, chế,
khắc, suy, tuyệt, chỉ là do bên trong sở tàng ở địa chi mà tạo ra vậy, không có thì không có
thời. Trong Tứ quý có mộ, tuyệt thuộc dƣ khí, ngũ hành hƣu vƣợng mà phối hợp với sinh tử,
hình xung khắc phá mà biến hóa vậy. Hoặc tam hợp, lục hợp là đất quý hiển, tuy có Lộc Mã,
Thê tài , Tử tôn, Phụ mẫu, Huynh đệ, đều là thấy hay không thấy hiện ra, không có thời mà
không có vậy.

Thần Sát tương bạn, khinh trọng giác lượng.


Thần là Quý nhân vậy. Sát là Thất Sát vậy. Nếu Thần Sát hỗn tạp, xem tiết khí nông hay sâu,
hoặc có khứ Quan lƣu Sát, hoặc có khứ Sát lƣu Quan, tứ trụ hoặc tuế vận cũng cần biết nặng,
nhẹ mà đo lƣờng vậy.
Nhƣ là Giờ gặp Thất Sát, thấy chƣa chắc là hung. Tháng chế can cƣờng, Thất Sát trái lại
thành quyền ấn.
Việc này là luận Thời thượng nhất vị quý cách, chỉ dụng một vị, phƣơng có thể thành quý. Vị
trí khác không cần thấy tiếp. Bắt đầu là thanh quý. Nhƣ năm tháng ở bên trên lại thấy tiếp thì
trái lại là mệnh sớm bị gian khổ. Cần có nhật can sinh vƣợng, không sợ hình thƣơng, gặp
Dƣơng Nhận là ngƣời có tính cách nặng kiên cƣờng, câu chấp, bất khuất, nhƣ trong tứ trụ gốc
có chế phục, lại cần có hành vận Quan vƣợng, tất nhiên về sau có thể phát phúc, lại không có
thể nói chuyên chế phục, quý là ở đƣợc đạo trung hòa, chính là nói Tận pháp vô dân. Giả nhƣ
[ Giáp Thân, Bính Dần, Ất Mão, Tân Tị ], mệnh này chuyên dụng nhật can vƣợng, thời
thƣợng Thiên Quan, Nguyệt thƣợng chế phục, mệnh này vốn là của Sử Di Viễn Vệ Vƣơng
vậy. [ Nhâm Tý, Canh Tuất, Mậu Tuất, Giáp Dần ], thời thƣợng Thiên Quan, Nguyệt thƣợng
chế phục, hành Bính Dần vận Đông phƣơng, tay trắng phát tài thành gia. [ Canh Tý, Mậu Tý,
Mậu Thân, Giáp Dần ], thời thƣợng Thiên Quan, Niên thƣợng chế phục, thiếu niên đăng đệ,
làm quan đến chức Thƣợng Thƣ, chính là bát tự của Lý Nhƣ Khuê vậy.
09-05-16, 11:04
lesoi
Tài Quan Ấn thụ toàn bị, tàng súc vu tứ quý chi trung.
Chỗ này luận Tạp khí Tài Quan Ấn thụ cách. Tứ Quý là Thìn Tuất Sửu Mùi vậy, chính là khí
của trời đất không thuần chính, là tạp khí vậy. Cái Thìn bên trong có dƣ khí Ất mộc, là mộ
khố của Nhâm Quý, có Mậu Kỷ là xác định địa vị, Thìn Tuất Sửu Mùi đều tùy theo chỗ khí
tàng mà nói. Bốn vị này là tích trữ ẩn chứa tạp khí, là Quan tinh, Tài khí, Lộc Mã, Ấn thụ của
ta vậy. Cần phải xem tứ trụ có thiên nguyên thấu xuất chữ nào là phúc, thứ đến phân ra tiết
khí nông sâu. Nhƣ Sát vƣợng Quan thiếu, cần có chế phục, không hỉ Tài, nếu chủ vƣợng
tƣơng xung cần có hành Tài vận Khố vƣợng, đại để là đất tụ phúc, không thể bị phá thƣơng,
nhƣ không có chỗ kỵ, thì đại phát tài.
Giả nhƣ [ Bính Tuất, Mậu Tuất, Giáp Ngọ, Kỷ Tị ], là Tạp khí Tài Quan cách. Mệnh này
dụng Tân Quan, Kỷ là Tài, trong Tuất có Tân kim dƣ khí, Mậu Kỷ thổ là Tài, là mệnh Sử
Thái Sƣ Việt Vƣơng. [ Tân Sửu, Nhâm Thìn, Bính Tuất, Ất Mùi ], bát tự này là mệnh của
Thiệu Mân. Hành Quan Ấn vận, thiếu niên sớm đăng khoa, làm quan đến Ngự Sử. [ Tân Mùi,
Tân Sửu, Canh Tuất, Canh Thìn ], bát tự này cũng có đủ Thìn Tuất Sửu Mùi, sao mà Tỉ
379 | Tam mệnh thông hội

Kiếp nhiều, lại là Thổ trọng Kim mai, hành Dậu vận thân vƣợng, là đất quay lƣng lại đuổi đi,
cho nên chỉ là ngƣời phụ trách văn thƣ, công danh không thành, cuối cùng bản thân góa vợ,
cô độc.

Quan tinh Tài khí trường sinh, trấn cư vu Dần Thân Tị Hợi.
Chỗ này là Tài Quan sinh vƣợng ở Tứ Mạnh: Dần Thân Tị Hợi, chính là ngũ hành gặp đất
Trƣờng sinh. Nhƣ [ Nhâm Thân, Tân Hợi, Kỷ Tị, Bính Dần ], mệnh này trƣớc vinh sau nhục,
Kỷ dụng Giáp là Quan, trong Hợi có Giáp mộc Trƣờng sinh, Kỷ dụng Nhâm là Tài, trong
Thân có Nhâm thủy Trƣờng sinh, Kỷ dụng Bính là Ấn thụ, trong Dần có Bính hỏa Trƣờng
sinh, trong Tị có Canh kim Trƣờng sinh, là cách cục Tứ mạnh. [ Nhâm Dần, Ất Tị, Quý Hợi,
Canh Thân ], bát tự này ban đầu hành đến vận Bính Ngọ, Đinh Mùi là vận tốt, vừa đến Dậu
Tuất Hợi, trong Tị có Bính Mậu Tài Quan tử ở Dậu, dụng thần bị tổn thƣơng, gia đình tiêu
tan, vợ con đều không còn nữa.
09-05-16, 11:05
lesoi
Canh thân thời phùng Mậu nhật, danh Thực Thần can vượng chi phương. Tuế Nguyệt
phạm Giáp Bính Dần Mão, thử nãi Ngộ nhi bất Ngộ.
Chỗ này chính là Thực thần chuyên vượng cách. Mậu lấy Canh là Thực thần, ở trong có Canh
kim Kiến Lộc, Mậu thổ dụng thủy là Tài, trong Thân có thủy Trƣờng sinh, chính là Tài
vƣợng vậy. Hoặc dụng Ất là Quan tinh, càng có thể hợp Mão trong có Ất mộc, thành Mậu thổ
quan quý khí. Nhƣ tứ trụ thấu xuất Giáp Bính Dần Mão bốn chữ, thì phá mất Thân trong có
Canh là quý khí, chỗ này chính là Ngộ nhi bất Ngộ (gặp mà không gặp) vậy. [ Bính Tý, Kỷ
Hợi, Mậu Thìn, Canh Thân ], bát tự này chính là cả đời thành nhân viên đích xác, do lộ mất
chữ Bính, nhƣng phải đọc sách nhiều lần, năm Canh Tý bắt đầu cống nạp, vận hành Giáp
Thìn thủy thổ khố ở Thìn, dụng thần nhập mộ, chết ở Bắc Kinh.

Nguyệt sinh nhật can vô Thiên Tài, nãi Ấn thụ chi danh.
Chỗ này chính là luận Ấn thụ cách, vốn là thập Can sinh Ta vậy. Là Phụ mẫu, là khí sinh Ta,
lại có thể Quan tinh hộ Ta, cho nên Ấn thụ không có lo sợ Thƣơng quan. Chủ yếu là sinh
vƣợng, kỵ tử tuyệt, nhƣ trong tứ trụ gốc có Quan tinh thì càng tốt, kỵ gặp Tài vận. Nhƣ hành
Quan vận thì phát, nếu hành đến đất Tài vƣợng là Tham Tài phôi Ấn, tai họa trăm điều, hành
vận tử tuyệt phải chết.

Nhật Lộc cư thời một Quan tinh, hào Thanh vân đắc lộ.
Chỗ này luận Quy Lộc cách, trong tứ trụ cần không có một điểm Quan tinh thì mới thành
cách này, tên gọi là Thanh vân đắc lộ. Cần nhất là nhật can sinh vƣợng, kiêm hành đến đất
Thực thần, Thƣơng Quan là có thể phát phúc.
Nhưng Quy Lộc có 6 điều kỵ:
(1) Có Xung hình,
(2) Có xảy ra hợp,
(3) Có Đảo Thực,
(4) Có Quan tinh,
(5) Có thiên can tháng, ngày giống nhau,
(6) Có thiên can năm, tháng giống nhau.
Phạm 6 điều này thì không thể lấy thành quý vậy.
Giả nhƣ: [ Giáp Tý, Bính Tý, Quý Sửu, Nhâm Tý ], mệnh này là Trƣơng Thống Lĩnh, chính
là có chữ Tý nhiều mà tụ thành phúc quy về Lộc. [ Giáp Tý, Đinh Sửu, Ất Sửu, Kỷ Mão ],
mệnh này là Thái Văn Huy, thuật sĩ đều đồng ý mệnh này nhờ đọc sách mà có công danh, sau
học nghề thầy thuốc, hành vận Tân Tị, năm Canh Tý mất Lộc, chỗ này không phải là Nhật
380 | Tam mệnh thông hội

Lộc quy thời. 《 Độc Bộ nói 》: "Ất mộc vô căn, sinh lâm sửu nguyệt. Kim đa chuyển quý,
hỏa thổ tắc chiết."
09-05-16, 11:06
lesoi
Dương thủy điệp phùng Thìn vị, thị Nhâm kỵ Long bối chi hương.
Nhƣ ngƣời sinh ngày Nhâm Thìn, gặp chữ Thìn nhiều là quý, chữ Dần nhiều là phú. Cái
Nhâm lấy Kỷ thổ là Quan tinh, Đinh hỏa là Tài tinh, Thìn Tị cùng xung Tuất trong có Quan
khố, cho nên quý vậy. Chữ Dần nhiều, có thể hợp Ngọ trong có Tài, cho nên phú vậy. [ Bính
Tý, Giáp Ngọ, Nhâm Thìn, Giáp Thìn ], mệnh này cả đời viên thành, thuật sĩ thấy rõ là thiếu
niên sớm thuận lợi trong thi cử, đều lấy là Nhâm kỵ long bối cách, đồng ý là có thể kham nổi
làm quan. Tôi ( tác giả) thì lấy Tài cách xem, vận Mùi Dậu Tuất vận chƣa tốt, đến đây quả
quyết là mất lộc, mà không có con cháu nối dõi.

Âm mộc độc ngộ Tý thời, vi Lục Ất Thử quý chi địa.


Cách này là rất sợ chữ Ngọ xung giờ Bính Tý, chữ Tý nhiều là tốt, gọi là Tụ quý vậy. Hoặc
trong tứ trụ có chữ Canh, chữ Tân, chữ Dậu, chữ Sửu bên trong đều có Canh Tân kim, thì
giảm điểm số, Tuế quân, Đại vận cũng vậy. Nhƣ Nguyệt bên trong có Quan tinh, thì không
dụng cách này. Nếu trong tứ trụ gốc không có Quan tinh, phƣơng dụng cách này. [Đinh Mão,
Nhâm Tý, Ất Tị, Bính Tý ], chỗ này đều là dựa vào bát tự, thuật sĩ gọi là Lục Ất Thử quý,
đồng ý có công danh, hành Thân vận phục vụ rất đƣợc ở Bắc Kinh, đến Mùi vận thì công việc
bị đình lại. Chỗ này tốt nhất là lấy Ấn xem.

Canh nhật toàn phùng Nhuận hạ, kỵ Nhâm Quý Tị Ngọ chi phương. Thời ngộ Tý Thân,
kỳ phúc giảm bán.
Việc này luận là Tỉnh lan xoa cách. Chỗ này là ngày Canh Thân, Canh Thìn, Canh Tý, ba
Canh mà thủy cục là quý. Sao vậy? Cái Canh dụng Đinh làm Quan mà Tý xung Ngọ, Canh
dụng mộc là Tài mà Thân xung Dần, Tuất trong có Mậu thổ là Ấn của Canh mà có Thìn
xung, lại có Thìn Tuất là Tài Ấn, cho nên lấy Thân Tý Thìn là Tam xoa (ba cái xiên ngang)
đến xung Dần Ngọ Tuất là Tài Quan Ấn thụ. Nhƣ trong tứ trụ dụng Thân Tý Thìn đủ là quý,
không chỉ có Canh kim, đƣợc tam Canh đủ thì càng tốt, hoặc Mậu Tý, Bính Thìn cũng không
ngại. Hỉ hành Đông phƣơng Tài địa, Bắc phƣơng Thƣơng Quan, Nam phƣơng hỏa địa không
thành quý, việc này chính là phƣơng Nhâm Quý Tị Ngọ vậy.
Giả nhƣ: [ Canh Tý, Canh Thìn, Canh Thân, Đinh Sửu ], mệnh này là Vƣơng Đô Thống
Chế, Đinh Sửu xuất ra bên cạnh, đƣợc 14 quan dƣới cấp; [ Canh Thân, Mậu Tý, Canh Thìn,
Bính Tuất ], bát tự này cả đời cũng quá vâng chịu, sau nói hầu hạ cha, riêng sau đó cũng phát
tài một chút mà không quý. Sao vậy? vì sinh Giang Nam thì làm cây Quất, sinh Giang Bắc thì
làm cây Gai, là do đất nơi sinh ra vậy.
09-05-16, 11:07
lesoi
Nhược phùng Thương quan nguyệt kiến, như hung xử vị tất giai hung.
Việc này luận Thương Quan cách. Phép coi Thƣơng Quan ắt phải cần thương tận, mà không
thành họa. Tứ trụ nhƣ gốc có Quan tinh, thì thƣơng tổn càng nặng, gốc không có Quan tinh,
thƣơng tổn thì nhẹ. Nhƣ tam hợp, hội khởi Sát cùng Thƣơng quan, cùng với vận hành đất
Thƣơng Quan, thì họa không thể nói vậy. Cho nên, Thƣơng Quan kiến Quan, là họa trăm
điều. Nhƣ can năm gánh nhận sinh mệnh, có Thƣơng Quan, Thất Sát là họa rất nặng, gọi là
Phúc cơ thụ thương, cuối cùng không có thể trừ khứ, nếu Nguyệt Thời thƣợng thấy đất
Thƣơng Quan, có thể phát phúc. Nhƣ mệnh Nữ nhân có Thƣơng Quan thì chủ khắc phu, nếu
thấy hợp nhiều thì là Ti tiện, không làm kỷ nữ cũng là dâm loạn, không phải nô tỳ thì là sƣ ni.
Sao vậy? Thƣơng quan là thƣơng phu. Nếu trong tứ trụ có Tài đến hợp khứ, không phải là
381 | Tam mệnh thông hội

phụ nữ hiền lành vậy. [ Kỷ Mão, Quý Dậu, Mậu Dần, Canh Thân ], địa chi lục xung, lấy
Mậu nhật, giờ Canh Thân là cách không thành, chỉ tốt là lấy Thƣơng Quan xem, hành Nam
phƣơng vận, thi cử bình thƣờng không có lợi, khắc vợ không có con cháu, Kỷ vận thì tốt.

Nội hữu Chính Đảo Lộc phi, kỵ Quan tinh diệc hiềm ky bán.
Bên trong có Chính đảo Lộc phi; chính là Đinh Tị đƣợc nhiều chữ Tị. Tị xung xuất Hợi trong
có Nhâm thủy là Quan tinh, chính là Chính Phi thiên Lộc Mã cách vậy. Nếu Tân nhật đƣợc
chữ Hợi nhiều, Hợi xung xuất Tị trong có Bính hỏa là Quan tinh, chính là Đảo phi thiên Lộc
Mã vậy. Bên trong nếu có Nhâm Quý Thìn Tị, đều là Quan tinh bị trói buộc chân vậy, thì bị
giảm điểm số, Tuế Vận cũng luận nhƣ vậy. Nhâm Thìn, Tân Hợi, Quý Hợi, Quý Hợi, bát tự
của Đô Đƣờng Vƣơng, là Đảo phi thiên lộc mã cách. Mậu Dần, Quý Hợi, Quý Hợi, Quý
Hợi, bát tự này chính là ngƣời ăn mày, lộ xuất chữ Mậu là Quan tinh, vì thế thành hạ mệnh
vậy.

Lục Quý nhật, thời phùng Dần vị, tuế nguyệt phạ Mậu Kỷ nhị phương,
Chỗ này luận Hình Hợp cách. Lấy ngày Lục Quý làm chủ tinh, dụng Mậu thổ là chính khí
Quan tinh, hỉ gặp giờ Giáp Dần, dụng Tị trong có Mậu thổ, Quý nhật đắc Quan tinh, nhƣ
Canh Dần hình thể không thành, suy ra giờ Giáp Dần, vốn là hành vận cùng Phi thiên lộc mã
giống nhau. Sợ trong tứ trụ có chữ Mậu chữ Kỷ, lại sợ Canh Dần đả thƣơng chữ Giáp hình
phá con, kỵ chữ Thân, kỹ càng mà suy ra. Giả nhƣ Quý Dậu, Tân Dậu, Quý Mão, Giáp Dần,
mệnh này là Lâu Tham Chính. Kỷ Mão, Ất Hợi, Quý Mùi, Giáp Dần, bát tự này có Niên
thƣợng lộ xuất chữ Kỷ, cho nên công danh lận đận, liên tục khoa thi hỏng.
09-05-16, 11:08
lesoi
Giáp Tý nhật tái ngộ Tý thời, úy Canh Tân Thân Dậu Sửu Ngọ.
Chỗ này luận là Tý Diêu Tị cách. Giáp dụng Tân Quan. Tân lộc ở Dậu, hai chữ là Ấn thụ của
Giáp mộc, hợp xa Tị trong có Bính Mậu, hợp động Dậu trong có Tân, là Quan của Giáp. Mộc
hỉ tháng là Nhâm Quý Hợi Tý, kỵ Canh Tân Thân Dậu, chính là kim đến tổn thƣơng Giáp
mộc, Ngọ đến xung Tý, Tý Sửu hợp trói buộc, thì không thể khứ hợp xa vậy. Giả nhƣ Canh
Thân, Giáp Tuất, Giáp Tý, Giáp Tý, mệnh này chính là La Ngự Sử, tuy nhiên là Diêu Tị,
nhƣng mà Niên thƣợng có Canh Thân, xung khắc Giáp vận, hành Mậu Dần, Dần hình Tị, trái
lại thành họa, năm Ất Sửu bãi quan. Quý Sửu, Kỷ Mùi, Giáp Tý, Giáp Tý, bát tự này chính
là một ngƣời thích đánh bạc. Gia nghiệp làm sạch, bên trong sợ Canh Tân Thân Dậu Sửu
Ngọ, chỗ này chi năm chính lộ xuất chữ Sửu, hành Đông phƣơng gặp đất Lộc bại, cho nên
bần cùng.

Tân Quý nhật đa phùng Sửu địa, bất hỉ Quan tinh. Tuế thời phùng Tý Tị nhị cung, hư lợi
hư danh.
Chỗ này luận là Sửu diêu Tị cách. Chỉ có hai ngày Tân Sửu, Quý Sửu có thể dụng, nhƣng
trong tứ trụ cần không có một điểm Quan tinh, phƣơng dụng cách này. Cái Tân dụng Bính
Quan, Quý dụng Mậu Quan. Bính Mậu lộc ở Tị. Duy chỉ có Sửu thì có thể Diêu Tị, Bính Mậu
lộc xuất ra vậy. Không thích hợp Điền Thực vị trí Tị, chữ Tý hợp trói buộc không thể xa
đƣợc, nhƣ Thân Dậu đƣợc một chữ là đẹp. Giả nhƣ Ất Sửu, Kỷ Sửu, Quý Sửu, Quý Sửu,
chính là mệnh của Diệp Thị Lang. Lại có Đinh Sửu, Quý Sửu, Tân Sửu, Kỷ Sửu, mệnh này
của Vƣơng Thông Phán vậy. Quý Sửu, Ất Sửu, Quý Sửu, Quý Hợi, bát tự này tay trắng phát
tài thành gia, chính là Sửu diêu Tị cách chân chính vậy.

Củng Lộc Củng Quý, Điền thực tắc hung.


Chỗ này luận Củng Quý Củng Lộc hai cách, chính là hai vị trí hƣ không là đất Củng quý lộc,
tứ trụ không thể chiếm mất cung Quý Lộc, thì Điền thực không dung nạp vật, chỉ vì Quan
382 | Tam mệnh thông hội

tinh vinh hiển vậy. Kỳ Lộc Quý là so với vật dụng hƣng thịnh, nếu trống rỗng thì có thể chứa
đựng đƣợc vật, chính là Quý Lộc hiển vinh. Kinh nói: Quan sùng lộc hiển, xác định là đất
Giáp lộc. Lại kỵ tổn thƣơng mất ngày giờ, đều là không tạo điều kiện để dung nạp vật. Giả
nhƣ Đinh Tị, Bính Ngọ, Giáp Dần, Giáp Tý, mệnh này là Vƣơng Lang Trung, chỗ này là hai
Giáp đến xen lẫn Sửu là quý khí bên trong, Sửu trong có Quý thủy là dƣ khí, Tân kim mộ
khố, Kỷ thổ thừa vƣợng chính là Tài của Giáp mộc, cho nên không thành quý, về sau vận
hành Tân Sửu loại trừ thông phán, nhập vận Canh Tý, Canh kim khắc Giáp mộc, lại là tháng
Ngọ, xung phá Giáp Tý, Thiên Trung Sát tức là Không Vong, không đƣợc xen lẫn quý, làm
mất quý nhân, phá hủy một ngày. Canh Tuất, Mậu Tý, Nhâm Thìn, Nhâm Dần, mệnh này
chính là mang theo vật quý báu, 11 tuổi hành Canh Dần đƣợc cất lên, 19 tuổi năm Mậu Thìn
đƣợc Thám Hoa, hành Tân Mão vận điền thực tốt.

lesoi
Thời thượng Thiên Tài, biệt cung kỵ kiến.
Chỗ này luận Thời thượng Thiên Tài cách, lại có tên là Thời Mã cách, cùng với Thời Thượng
Thiên Quan là giống nhau, dụng Thời thƣợng Thiên nguyên, cùng chi bên trong Nhân
nguyên, chỉ cần Thời thƣợng có một vị thì mới thành quý, nếu có vị khác thì nhiều Tiện, khó
lấy Thiên Tài mà luận, cần có thân vƣợng, không có khắc phá, nếu Tài vƣợng lập tức phát
liền. Giả nhƣ Đinh Dậu, Kỷ Dậu, Mậu Tý, Nhâm Tý, là mệnh Thiệu Thống Chế vậy. Đinh
Sửu, Kỷ Dậu, Đinh Sửu, Tân Hợi, bát tự này là Thời thượng Thiên Tài, chi tháng lại là Dậu
Sửu hội cục, nói là thấy kỵ cung khác vậy, cho nên gia nghiệp bị phá hết.

Lục Tân nhật phùng Mậu Tý, hiềm Ngọ vị vận hỉ tây phương.
Chỗ này luận là Lục âm triều dương cách, Tân kim đến Hợi là đất Lục Âm, mà đƣợc giờ Tý,
cho nên viết là Lục Âm hết một xứ Nhất dƣơng sinh, cho nên nói là Lục âm triều dương
cách, chính là nói Âm hết thì Dƣơng đến. Tân dụng Bính Quan, Quý là Thọ tinh, chỉ cần có
một vị trí chữ Tý, nếu nhiều thì không phải, hỉ can Mậu, Mậu đến hợp Quý, động Tị trong ám
tàng Bính, Bính là Tân là Quan tinh. Trong Tứ trụ kỵ thấy Ngọ xung phá Tý lộc. Tây phƣơng
chính là kim vƣợng địa, cho nên là hỉ vậy, Đông phƣơng đất Tài khí là thứ yếu, không nên
hành Nam phƣơng đất hỏa, Bắc phƣơng đất thủy Thƣơng Quan vậy.
Giả nhƣ Mậu Thìn, Canh Thân, Tân Mão, Mậu Tý, mệnh này là Tất Phủ Ngộ, vận hành Tây
phƣơng. Lại nhƣ Kỷ Mùi, Tân Mùi, Tân Mùi, Mậu Tý, mệnh này là Vƣơng Quận Ngọc, vận
hành Đông phƣơng. Giáp Dần, Giáp Tuất, Tân Mão, Mậu Tý, mệnh này là Nhất Sinh Viên,
thuật sĩ đều lấy là Lục Ấm triều dương cách mà suy ra, hành Đông phƣơng vận phá gia, kiểm
tra tuổi hỏi bổ sung lại, đến xem lại lấy Tham Tài phá Ấn mà luận.
09-05-16, 11:09
lesoi
Ngũ hành ngộ nguyệt chi Thiên Quan, tuế thời trung diệc nghi chế phục. Loại vi khứ
Quan lưu Sát, diệc hữu khứ Sát lưu Quan, tứ trụ thuần tạp hữu chế, định cư nhất phẩm
chi tôn. Lược kiến nhất vị Chính Quan, Quan Sát hỗn tạp phản tiện.
Chỗ này luận Thiên Quan, tức Thất Sát, nhƣ trong tứ trụ hoàn toàn không có một điểm Quan
tinh, dụng Thất Sát là Thiên Quan. Nếu có Chính Quan, thì là Thất Sát là quỷ, chính là ngƣời
hay tranh đoạt vậy, cho nên mới nói là hình thấy hay không. Cần nhất là Nhật can sinh
vƣợng, cho nên hỉ thân vƣợng, sợ xung, hỉ Dƣơng Nhận, chỉ cần có chế phục, không thích
hợp tứ trụ thấy Chính Quan, có Huynh thì không hiển Đệ vậy. Hoặc trong tứ trụ phạm Tuế
Vận, hoặc là khứ Quan lƣu Sát sao vậy? là có thể đƣợc chế phục vậy. Nếu Quan Sát hỗn tạp,
không thành thanh phúc, nếu chỉ có Thiên Quan Thất Sát là quý. Thất Sát là tiểu nhân, mà
tiểu nhân thì nhiều hung bạo, không sợ kỵ chính là có thể lao động lấy để dƣỡng ngƣời quân
383 | Tam mệnh thông hội

tử vậy. Đúng là không chỉ có không thuật lấy khống chế thì không thể thuần phục mà thành
dụng vậy. Nếu trong tứ trụ gốc không có chế phục, cần hành vận chế phục. Trong Tứ trụ gốc
có chế phục cần hành đến đất Sát vƣợng; nếu có chế phục lại hành vận có chế phục nữa thì
gọi là Tận pháp vô dân vậy.
Giả nhƣ Kỷ Mùi, Ất Hợi, Bính Dần, Tân Mão, mệnh này Vƣơng Chƣơng Minh, chỗ này
tháng là Thiên Quan bị chế phục ở Niên thƣợng, lại gồm cả Nhật tọa Trƣờng sinh, lại vừa có
mộc tam hợp, nhật chủ phùng quý, cho nên phát lộc, về sau gặp nhục hình không có áo quan
tài để chôn, chỉ có hành vận ban đầu Nhâm Thân là khởi phúc.
Ất Dậu, Ất Dậu, Ất Dậu, Ất Dậu, hai ngƣời phụ nữ , bát tự giống nhau, một ngƣời thì cực
quý, một ngƣời thì cực bần mà thọ, là sao vậy? Bởi vì mệnh phụ nữ, quý tiện là theo chồng
vậy. Ất Dậu, Tân Tị, Ất Mão, Tân Tị, mệnh này là Chu Cử Nhân, hành vận Mậu Dần, Ất
Mão trúng khoa thi, hành Đinh Sửu, Tị Dậu Sửu hội kim cục, chính là Sát trọng, năm Nhâm
Tuất mất lộc.

Mậu nhật Ngọ nguyệt, vật tác Nhận khán, thời tuế hỏa đa, khước vi Ấn thụ.
Chỗ này luận Dương Nhận, không phải là Dƣơng là Dê, Chó mà Dƣơng chính là âm dƣơng.
Trƣớc một vị là Lộc, là chỉ có Dƣơng nói là có Nhận, Âm thì là không phải. Nhƣ Bính Mậu
lộc ở Tị, Ngọ là Dƣơng Nhận vậy. Ngày Mậu đƣợc tháng Ngọ, đến Ngọ không thành Nhận.
Nhận không thành Nhận là sao vậy? Chính là Âm hỏa sinh Dƣơng thổ, gọi là Nguyệt sinh
Nhật can, nếu can năm, can giờ lại thấy hỏa, thì chính là Ấn thụ cách.
09-05-16, 11:10
lesoi
Nguyệt lệnh tuy phùng Kiến Lộc, thiết kỵ hội Sát vi hung.
Nói chung trong mệnh lấy Tài Quan là quý. Nhƣ trong tứ trụ có lấy hợp, lấy Tham hợp vong
Quan, lại bao gồm cả hội khởi Thất Sát, trái lại là hung triệu. Mà nhƣ Giáp nhật dụng Dậu
nguyệt, là Quan tinh chính khí. Nhƣ năm giờ là Tý Thìn, thì hội khởi Thân trong có Canh là
Thất Sát, chính là quỷ tặc của Giáp vậy, cho nên là hung.

Quan tinh Thất Sát giao soa, khước dĩ hợp Sát vi quý.
Quan tinh chính là thần quý khí. Thuần mà không tạp chính là thanh phúc, tạp mà không
thuần liền phá tạo hóa, trong chi có hợp xuất Thất Sát là cát triệu, Kinh nói: Hợp Quan tinh
không thành quý, hợp Thất Sát không thành hung, chính là ngũ hành dựa vào cứu trợ, mà nhƣ
ngày Giáp đƣợc giờ Mão, trong Mão có Ất, có thể hợp chữ Canh, là Thiên Quan của Giáp,
vốn là hợp Sát vậy. Nhƣ nam tử đƣợc khí trung hòa, cùng ngƣời đều hợp quý. Nữ nhân đƣợc,
phát sinh nhiều tâm ý không đủ, tuy là đẹp nhƣng tính hay vui với ái tình, chủ khắc phu phá
tử vậy. Nhƣ ngày Canh, tứ trụ thấy Bính là Sát, thì có Thân Thìn hợp khởi Tý là thủy cục đến
cứu, Bính hóa thành Quan, thì là cát.

Trụ trung Quan tinh thái vượng, thiên nguyên doanh nhược chi danh.
Đại để con ngƣời sinh ra lấy Tài Quan Lộc là quý, lấy khí trung hòa là phúc hậu, bè lũ với khí
thiên lệch là phúc bạc. Nhƣ Quan tinh thái vƣợng, Thiên nguyên thân nhƣợc, lại hành về đất
Quan vƣợng, trái lại là thành họa. Mà nhƣ ngày Giáp Ất, Thiên nguyên dụng Canh Tân Thân
Dậu Tị Sửu là Quan quý, trong tứ trụ Quan tinh đã nhiều, gốc có chế phục thì tốt. Bản thân
nhƣợc, dù là hành vận có chế phục chính là có thể phát phúc. Nhƣ hành đến đất Quan vƣợng,
chính là tạo hóa thái quá, họa hại phá tài không thể nói hết, vận số cũng vậy. Tân Tị, Canh
Tý, Bính Tý, Quý Tị, bát tự này có Quan vƣợng, hành vận Bính Thân, Bính lâm Thân là vị
trí Sát trọng, năm Giáp Tý, tháng 10 mất lộc.
09-05-16, 11:11
lesoi
384 | Tam mệnh thông hội

Nhật can vượng thậm vô y, nhược bất vi tăng tức đạo.


Chỗ này luận Thời vượng, bản chủ đắc địa, chính là đất Thời vƣợng vậy. Là ngƣời không
nhiễm bệnh trầm kha, về già răng chắc biến thành màu đen, thể cốt mạnh mẽ, tuổi thọ quá số,
cách này đa số là xuất tục mà né tránh địa vị, chí hƣớng vƣợt lên cao, mộ đạo tu thiện, chính
là nhật can quá vƣợng. Nhƣ sinh ngày Canh, tháng giờ ở Thân, hoặc vận lại về Tây phƣơng,
Canh lấy hỏa là Quan tinh, hỏa đến Tây phƣơng mà tử, Canh lấy mộc là Tài, mộc đến Tây
phƣơng mà tuyệt, đã Tài Quan Lộc Mã đều không có thì đƣờng công danh muốn sao mà sắp
bày, cho nên là không có chỗ dựa, cái gọi là mệnh hại xa toàn thân vậy. Giả nhƣ Ất Mão,
Bính Tý, Bính Ngọ, Quý Tị, mệnh này là Kỳ chân nhân, nhật can vƣợng ở Đông phƣơng,
Nam phƣơng vận vậy.

Ấn thụ sinh nguyệt, tuế thời kỵ kiến Tài tinh, vận nhập Tài hương, khước nghi thối thân tị
vị.
Chỗ này luận Nguyệt sinh nhật can, chính là gọi tên Ấn thụ. Ấn thụ thì hỉ Quan tinh, mà sợ
Tài khí, nếu thiên can là Tài, chính là Phá Ấn vậy, Ấn thụ chính là khí gốc sinh Ta, cần phải
có gốc kiên cố. Nhƣ hành Tài vận cần phải lui thân tránh chức vị, nếu không tất nhiên sẽ bị
mất chức mà đi bộ vậy. Giả nhƣ Canh Tuất, Giáp Thân, Quý Sửu, Đinh Tị, mệnh này Nguyệt
trung chính khí, Canh kim Ấn thụ, bản chủ là tạp khí, không hợp Tị trong có Bính hỏa, thành
tái Quý, kỳ thủy là thấy tài là Tham tài phá Ấn. Cả đời vất vã, cho nên viết: Ấn thụ ở đất hình
khắc, cho nên thân bị loạn li mà mạng vong vậy. Đại vận sau hành đến Kỷ Sửu, lƣu niên Bính
Dần, tháng tƣ phá gia, sao vậy? Gốc có Ấn có Thƣơng là Sát, Tuế Vận lại hành Thƣơng vận
khí, Canh nhập mộ vậy. Bính Dần, Bính Thân, Quý Sửu, Ất Mão, bát tự này có nhật can Quý
thủy, lấy trong Thân có Canh kim là Ấn thụ, Bính hỏa là Tài khắc Canh kim, Ấn thụ bị
thƣơng, Hợi vận lập tức bị bệnh lạc huyết mà chết. Cái Ất mộc là Thọ tinh, Ất tử ở Hợi, kim
chủ Phế, bị bệnh huyết mà chết.
09-05-16, 11:11
lesoi
Kiếp Tài Dương Nhận, thiết kỵ thời phùng. Tuế vận tịnh lâm, tai ương lập chí.
Kiếp Nhận chính là Thiên nguyên ở trên Nhật, là phân tranh tài lộc, vốn là Tỉ kiên vậy.
Dƣơng Nhận, là Nhật can gặp trƣớc Lộc một vị trí, mà nhƣ Lộc Mã, Giáp lộc ở Dần, Giáp
dụng Kỷ thổ là Tài, thấy Mão là Nhận, Nhận đến xâm chiếm cƣớp đoạt bản thân vậy. Giả nhƣ
ngày Mậu Ngọ cùng tháng là tƣơng đồng, 2,3 chữ Ngọ Mậu, cộng hƣởng xâm chiếm cƣớp
đoạt Quý thủy là Tài, cho nên viết là Kiếp Tài. Lấy Mậu lộc ở Tị trƣớc Thìn một vị, thấy
Ngọ, Ngọ có Kỷ thổ khắc Quý thủy, chỗ này gọi là Kiếp tài, Dƣơng Nhận. Cho nên là chủ
phá tài tán nghiệp, thoát ly gia đình mất đất, ban ơn mà phản oán, tâm tính bạo ngƣợc, tiến
thoái đơn lẻ, trời sinh lấy vợ thứ làm chính, mang tật bệnh phù thủng, tính tình dũng cảm,
tham lam, chí nguyện to lớn, tâm hƣớng lên cao, thƣơng hại không đủ. Nếu đại vận, lƣu niên
gặp, cạnh tranh nhân tài, nếu không tật bệnh thì cũng liên lụy vợ con vậy.
Giả nhƣ Quý Mùi, Ất Mão, Giáp Tý, Kỷ Tị, mệnh này là Nhạc Phi, chỗ này là Kiếp tài,
Dƣơng Nhận, hành vận Tân Hợi, lƣu niên Tân Dậu, 39 tuổi, hợp khởi Tân Hợi, tai họa khởi ở
nơi ngục thất mà vong thân. Mậu Dần, Ất Mão, Giáp Tuất, Giáp Tý, bát tự này có tổ nghiệp,
có tử tức, không có huynh đệ, phụ mẫu mất sớm. Bản thân trƣớc mắt là khởi phát, hành Kỷ
Mùi, năm Giáp Tý, do có sự tình mà phá tài, mất lộc. Mậu Dần, Kỷ Mão, Giáp Tý, Giáp Tý,
bát tự này có tổ nghiệp, có nhiều anh trai, không có tử tức, phụ mẫu cũng mất sớm, vận Đinh
Tị, năm Quý Mão, bị huynh đả thƣơng thành tật mà chết, sao vậy? Cái Xuân Mộc không có
kim, tuế vận lại thấy Mão vậy.

Nhật can Bối lộc, tuế thời hỉ kiến Tài tinh. Vận chí Tỉ kiên, hào nhật Bối lộc Trục mã.
Lộc là hƣớng thuận, Bối là nghịch, mà nhƣ Giáp đƣợc Dần là Lộc, nếu gặp Kỷ Bính là Bối
Lộc. Kinh nói: Bối lộc là không có vậy. Chủ trƣớc là sáng, sau là mờ, hỉ Tài tinh, Mậu Kỷ thổ
385 | Tam mệnh thông hội

trợ giúp thân, hỏa đến Hợi là vô khí, Tỉ kiên thấy Giáp thì phân tài, Kinh nói: Mã là ở vị trí
Tài, là Giáp thấy Dần là xứ sinh vƣợng; Giáp dụng thổ là Tài, dụng kim là Quan, thổ đến Dần
là Bệnh, kim đến Dần là tuyệt, chính là Lộc Mã không phù thân. Phú nói: Mã xếp vào vị trí
Tài suy thì cần phải thoái thân mà tránh né địa vị. Chẳng phải nói là lấy đƣờng cùng mà gặp
thê lƣơng.
09-05-16, 11:12
lesoi
Ngũ hành chính quý, kỵ hình xung khắc phá chi Quan.
Chỗ này luận chính khí Quan tinh. Đề cƣơng là trọng yếu, can năm, giờ cần phải có Tài khí,
chính là quý nhân vậy. Kỵ thần hình xung khắc phá mất.

Tứ trụ can chi, hỉ tam hợp lục hợp chi địa.


Phàm can chi có Tam hợp, Lục hợp, chính là thiên địa âm dƣơng vạn vật, đều có cảm ứng
tƣơng hợp. Nhƣng đƣợc cƣơng nhu tƣơng chế, hai phía tƣơng đối do đó có gia quyến, thê
thiếp, quý ở trọng đại nhân, gần nhƣ là tƣợng bề trên. Hợp Tài là Quan lộc cùng nhau tƣơng
tòng, xá hình là tƣơng chế hình Sát vậy.

Nhật can vô khí, thời phùng Dương Nhận bất vi hung.


Mà nhƣ ngày Giáp Thân, gặp giờ Mão là Nhận, chỗ này là Thân trong có Canh kim có thể
khắc Mão trong có Ất mộc là Tài, là Mã, là Thê, cần phải gặp Nhận thì không thành hung
vậy. Giáp Ngọ, Đinh Mão, Mậu Tý, Mậu Ngọ, bát tự này có Mậu thổ sinh mùa Xuân thì
nhƣợc vậy, hỉ có giờ Ngọ là Nhận, lấy kỳ bang trợ thân. Gốc có phúc nghiệp, hành Nam
phƣơng Ấn vận, sang thêm đại nghiệp. Nhƣng mà Quan Sát hỗn tạp, thi rớt sau bẩm chịu, nạp
đủ khứ lấy quốc tử sinh chung.

Quan Sát lưỡng đình, hỉ giả tồn chi, tăng giả khí chi.
Giáp dụng Tân Dậu là Quan tinh, lại thấy Thân Canh, tại sao quyết? Lại thấy tam hợp cùng
hỗn, Giáp Ất dụng Canh Tân là quan quý, mà có Tị có Sửu, là Quan Sát hỗn tạp, tuy hành
vận chế phục, hoặc khứ Sát dụng Quan, hoặc khứ Quan dụng Sát, phƣơng thành phát phúc.
Nhƣ mệnh hỗn tạp, năm càng ở đất vƣợng hỗn Quan Sát, kỳ họa không thể thuật lại.

Địa chi thiên can hợp đa, biến vân Tham hợp vong Quan.
Mà nhƣ Giáp dụng Tân là Quan, mà có Bính, thấy Canh là Sát mà có Ất. Ất dụng Canh là
Quan, mà Tân là Sát, lại có Bính cùng can chi nhiều hợp, chỗ này là Dương Quan Âm Sát,
chính là tạo hóa tất nhiên vậy. Nếu tứ trụ có hợp, vốn là nói Tham hợp vong Quan. Kinh nói:
Hợp tinh Quan không thành quý, hợp Thất Sát không thành hung, vốn là Ngũ hành có cứu trợ
vậy.

Tứ trụ Sát vượng vận thuần, thân vượng vi Quan thanh quý.
Chỗ này Thất Sát tức là Thiên Quan vậy, hỉ chế phục, tứ trụ bên trong lấy Sát là Quan. Mà
nhƣ Giáp kỵ Canh là Sát, mà Giáp sinh ở đất Dần, chính là thân vƣợng, Giáp ám tàng bao
Bính trƣờng sinh, thì không sợ kim thành Sát, lấy Sát hóa thành Quan tinh, thì Giáp Canh các
chữ có thế lực đặc biệt vƣợng, mà hành thuần vƣợng vận, chính thành quý cực phẩm.

Phàm kiến thiên nguyên thái nhược, nội hữu nhược xứ phục sinh.
Chỗ này luận Nhật chủ tự tọa Quan Sát, chính là xứ Nhân nguyên nhƣợc phục sinh, chính là
Thai Sinh nguyên mệnh. Mà nhƣ Giáp Thai ở Thân, Thân trong có Canh kim là Thiên Quan,
Nhâm thủy là Ấn thụ, thụ khí tƣơng cảm, khí sinh Thai nguyên. Đƣợc Nhâm thủy Trƣờng
Sinh, Dậu ở trên ngôi Mộc Dục, Tuất ở trên ngôi Quan Đái, Hợi ở trên ngôi Lâm Quan, nhƣ
386 | Tam mệnh thông hội

ngƣời mà tính ngày nhất định sinh mộc, cách này chỉ cần vận Quan tinh vƣợng, phƣơng có
thể phát phúc, không phù hợp gặp xung phá hình khắc.
09-05-16, 11:13
lesoi
Trụ trung Thất Sát toàn chương, thân vượng cực bần vô cứu.
Thƣơng Quan chính là lộc của Thất Sát. Bại Tài chính là Mã của Thất Sát, Thiên Quan chính
là thân của Thất Sát, tứ trụ nếu có, thân vƣợng kiến Lộc, thì không thành phú vậy.

Vô Sát nữ nhân chi mệnh, nhất quý khả tác lương nhân.
Đại để xem nam mệnh, cùng nữ mệnh không giống nhau, nữ mệnh không lấy Quan tinh,
không lấy Tài tinh, không lấy Quý nhân, không lấy tam hợp, lục hợp, không cần Bại Mã sinh
vƣợng chiến bại dữ dội, không cần can chi cƣơng cƣờng Dƣơng Nhận, không cần Tỉ kiên,
chính là thấy nhƣ thế, sao lại biết là quý tiện vậy? Đáp viết: Nữ nhân hoàn toàn dựa vào
chồng , chồng phú quý thì vợ cũng phú quý, chồng bần tiện thì vợ cũng bần tiện, chính là lý
lẽ Thiên Địa âm dƣơng vậy. Phàm mệnh nữ nhân, đại hỉ là cần an tĩnh thanh quý, vƣợng phu
vƣợng tử là tốt. Nếu tuyệt khí cùng hình xung phá hại thì không tốt, nếu nữ mệnh có một quý
cùng kẹp thêm quý nhất định thành vợ quý nhân vậy.

Quý chúng hợp đa, định thị ni sư xướng tỳ.


Quý tức là Quan Sát vậy. Quan là chính phu, Sát là thiên phu. Hợp là địa chi ám hợp, tam
hợp lục hợp, tâm nhiều không đủ, tuy sinh chất tốt mà tính vui tƣ tình, không phải là vợ hiền
vậy.

Thiên quan thời ngộ chế phục thái quá nãi thị bần nho.
Thiên Quan là mệnh chủ có nhân tính thông minh, cƣơng cƣờng ngạo vật. Nếu trong tứ trụ
nhiều chế phục, chính là Tẫn pháp vô dân vậy. Khí trung hòa là phúc hậu, bè đảng thiên lệch
là phúc bạc. Giả nhƣ Bính Ngọ, Giáp Ngọ, Quý Hợi, Ất Mão, chỗ này chính là mệnh tú tài
tiền chim Nhạn, nguyệt thƣợng Thiên Quan, do đó thƣơng tàn, mắt mù thọt đủ, lại có văn
chƣơng tú khí, cuối cùng là thân bần cùng vậy.

Tứ trụ Thương Quan, vận nhập Quan hương tất phá.


Chỗ này luận Thƣơng Quan, tứ trụ có Quan tinh, vận nhập đất Quan phá vỡ nhẹ, cần phải rõ
khinh trọng. Giả nhƣ Quý Mùi, Quý Hợi, Tân Mùi, Quý Tị, mệnh này là Ngũ Đô Thừa, Tân
lấy Bính là Quan, Tị trong có Bính, trong tháng có Nhâm thủy, thì phá kỳ Quan tinh vậy.

Ngũ hành tuyệt xứ, tức thị Thai Nguyên, sinh nhật phùng chi, danh viết Thụ khí.
Lý Thị Lang mệnh, tức là Thai Nguyên phùng sinh, danh viết Thụ khí. Thi viết "Ngũ hành
tuyệt xứ là Thai Nguyên, ngày sinh gặp thì hoàn toàn phú quý. Nếu có gốc địa chi đến để trợ
giúp, định là áo mũ vinh quang, xe sớm cưỡi", lý lẽ đo lƣờng có thể lấy biết tinh vi thâm thúy
huyền diệu, tính chất đo lƣờng có thể biết lý lẽ sinh tử. Giáp Thìn, Nhâm Thân, Bính Tý, Kỷ
Sửu, ngày Bính Tý chính là ngày bào thai, chi hội thủy cục, hỉ Giáp mộc sinh, Kỷ thổ chế,
nhất giao vận Giáp Tuất, Giáp Tý thi khoa cử đậu.
10-05-16, 14:57
lesoi
Kế Thiện thiên

Nhân bẩm thiên địa, mệnh chúc âm dương, sinh cư phúc tái chi gian, tẫn tại ngũ hành chi
nội. Dục tri quý tiện, tiên quan nguyệt lệnh cập đề cương.
387 | Tam mệnh thông hội

(Tức là, Con ngƣời vâng chịu bởi trời đất, sinh mệnh thuộc âm dƣơng, sinh ra nơi phủ đầy
trong khoảng không gian nhất định, ở bên trong đều có ngũ hành. Muốn biết quý tiện, trƣớc
tiên xem Nguyệt lệnh bằng đề cƣơng).
Giải thích Thơ ca: Đề cƣơng tức là Nguyệt lệnh, đầu tiên xem khí hậu nông sâu mà định cát
hung. Quan Ấn cùng Tài thần, kỵ Kiếp xung hình, suy ra vận gặp cát thì là đoán cát, gặp
hung thì là luận hung, sinh ở tiết khí thuộc thần nào, quý tiện bần phú đều do định mệnh mà
ra.

Thứ đoạn cát hung, chuyên dụng nhật can chủ bản. Tam nguyên yếu thành cách cục, tứ
trụ hỉ kiến Tài Quan. Dụng thần bất khả tổn thương, nhật chủ tối nghi kiện vượng.
(Thứ đoán cát hung, chuyên dụng Nhật can vốn là chủ. Tam nguyên cần thành cách cục, tứ
trụ hỉ thấy Tài Quan. Dụng thần không thể tổn thƣơng, nhật chủ cần nhất là mạnh mẽ, thịnh
vƣợng) .
Thơ ca giải thích : Chuyên lấy nhật can làm chủ, thứ xem Ấn thụ, Tài Quan. Giáp Tý sinh ở
tháng Dậu, trong đó phải tƣờng tận Quan Lộc. Dần Ngọ Tuất ngại Bính Đinh, lại không ƣa có
Tỉ Kiếp, Thƣơng Quan phá Ấn, trái lại là hạ tiện, không có Kiếp Tài vận. Thìn Tuất Sửu Mùi,
tổ tiên để lại tài của, có Mậu Kỷ thì danh đăng kim bảng.
Lại nói: Muốn hỏi Tam Nguyên là sao? Là Thiên thời, Địa lợi, Nhân hòa. Ví nhƣ ngày sinh
Giáp Tý, thiên can Giáp, địa có Quý là tổ tiên của ngƣời, có Ấn thụ Tài Quan là chân thực có
thể mừng. Nếu có chỗ này lại không có Thƣơng, làm cho thân ở bàn của hƣơng trời tọa nơi
nội các. Lấy dụng Chính Quan làm ví dụ, sợ lấy Kiếp phá Thƣơng Quan. Một vị Chính Tài là
tốt, Tài nhiều sinh Sát là tai ƣơng. Tỉ kiên vận hành mất vƣợng, gặp chỗ này nếu là Nam thì
hiến dâng tài năng tốt; thân suy mà gặp Tài vận họa khó đảm nhận.

Niên thương nhật can, danh vi Chủ Bản bất hòa.


( Trụ năm gây tổn thƣơng cho nhậtcan, gọi là Chủ và gốc bất hòa)
Thơ ca giải thích: Năm gặp Thất Sát khắc nhật chủ, tổ tông không có lực mà làm mất đi một
nhánh trong gia tộc. Nếu còn tháng ngày cùng giờ Quy Lộc gặp Tài thì chết yểu không còn
nữa.
Sát vƣợng vận gặp là thành họa, Ấn sinh nhiều phúc là tốt đẹp. Tỉ kiên vƣợng vận đoán
không nghi ngờ, chỉ là đơn độc với tấm lều tranh.
10-05-16, 14:58
lesoi
Tuế nguyệt thời trung, đại phạ Sát Quan hỗn tạp.
( Năm tháng giờ, sợ nhất là có Quan Sát hỗn tạp)
Thơ ca giải thích: Phàm đại đa số Tài Quan Ấn Thực, đều dựa vào tháng sinh mà dụng. Thấy
Tài lấy Tài mà đoán, gặp Quan lấy Quan mà luận.
Gặp Ấn lấy Ấn mà luận, liền suy ra khí nông hay sâu. Tử tuyệt bại suy đều cân đo tính toán,
năm sinh tháng vận, quý nhiều gốc nhiều, tổ tiên phát sinh mà cầu lấy quý.

Thủ dụng bằng vu sinh nguyệt, đương thôi cứu vu thiển thâm. Phát giác tại vu viết thì, yếu
tiêu tường vu cường nhược. Quan tinh chính khí, kỵ kiến hình xung.
( Lấy dụng đều ở tháng sinh, cần nghiên cứu suy ra ở nông sâu. Phát hiện nằm ở mùa, cần
xem kỹ càng ở cƣờng nhƣợc. Quan tinh chính khí, kỵ thấy hình xung).
Thơ ca giải thích : Quan tinh, chính Ấn không hỗn tạp, Tài nhiều không gặp Thƣơng Thực.
Còn nhƣ Ất Mão thấy tháng giờ là Canh Thìn, gặp Tuất xung mà tổn hại; Giáp sinh tháng Tị
Dậu Sửu, lại gặp Ngọ Mùi hỏa cục, nhƣ còn Quan vƣợng gặp xung, can có Ấn là cát dụng.

Thời thượng Thiên Tài, phạ phùng huynh đệ, sinh khí Ấn thụ, lợi Quan vận úy nhập Tài
hương.
388 | Tam mệnh thông hội

( Can giờ Thiên Tài sợ gặp Tỉ Kiếp, sinh khí Ấn thụ lợi gặp Quan tinh mà sợ nhập vào đất
Tài)
Thơ ca giải thích : năm tháng giờ đến sinh ngày, gọi là Ấn thụ sinh thân. Vận hành Quan Ấn
khởi đầu gặp quý trọng, Tài vƣợng vận gặp thì xung phá Ấn.
Ấn vƣợng không có chế thì cô đơn mà không thuận lợi, nếu Quan Ấn ngang nhau thì xuất sắc
hơn ngƣời. Vƣợng Tài phá Ấn thì mệnh nói là kết thúc, còn đƣợc Quan vận là quý mệnh.

Thất Sát Thiên Quan hỉ chế phục, bất nghi thái quá.
( Thất Sát, Thiên Quan hỉ có chế phục, nhƣng không nên thái quá)
Thơ ca giải thích: Không có chế nói là Thất Sát, Thất Sát có chế nói là Thiên Quan. Có chế
có Sát thì là tốt, một chế một phục là thƣợng sách.
Chế quá thì bần hàn ngu xuẩn, hỉ hành đến đất Thất Sát. Thân vƣợng không có chế vƣợng
thân cƣờng, lại cần vận hành hƣớng về Sát.

Thương quan phục hành Quan vận, bất trắc tai lai, Dương Nhận xung hợp Tuế quân, bột
nhiên họa chí.
( Thƣơng Quan lại hành Quan vận thì tai họa đến bất ngờ, Dƣơng Nhận xung hợp với Tuế
Quân thì đột nhiên họa đến).
Thơ ca giải thích : Luận kỹ càng Thƣơng Quan hỉ kỵ, kỵ là không cùng đến với Quan. Tuế
Quân, Nguyệt kiến, Nhật thần nghi kỵ nhất là hình hại.
Ứng nhƣ gặp phải kẻ thù, phẩn nộ sinh ra chém giết khó mà cƣỡng lại.
10-05-16, 14:59
lesoi
Như phùng thử giả, tất sinh tai họa, nghi tinh nghiên hỉ kỵ.
(Nhƣ gặp cách này thì nhất định sinh ra tai họa, cần phải nghiên cứu tinh tƣờng hỉ kỵ)
Thơ ca giải thích: Nhƣ ngày Giáp Tý, giờ Đinh Mão, chính là gặp Dƣơng Nhận. Tuế vận Tân
Dậu nếu cùng gặp nhau thì Đinh phá Tân, Dậu xung Mão mà vô dụng.
Sinh ngày Bính giờ Giáp Tý, năm gặp Mậu hết hỗ trợ. Giáp có thể phá Mậu, Mậu Tý xung,
chế thì trái lại là dụng tốt.

Phú nhi thả quý, định nhân Tài vượng sinh Quan.
( Phú mà còn quý, xác định dựa vào Tài vƣợng sinh Quan)
Thơ ca giải thích: Loại trừ nạn hồng thủy thì phú mà lại quý, xác định dựa vào Tài vƣợng
sinh Quan. Thân cƣờng Tài tích lũy phúc nhƣ núi, không lộ Tài Quan đoán là quý.
Tài vƣợng không có Quan cũng tốt, Tài thần chồng chất mà lộ ra thì hay rong chơi, không ổn
định. Nếu lại là chủ suy nhƣợc không có thể sinh, thì định là phú gia bần hán ( nhà thì giàu
mà ngƣời thì nghèo).

Phi yêu tắc bần, tất thị thân suy ngộ Quỷ.
( Không yểu thì bần, nhất định là thân suy nhƣợc mà gặp quỷ)
Thơ ca giải thích: Giáp sinh Canh kim là Thu vƣợng, thân suy gặp chế cũng khó mà gánh
nổi. Giờ gặp Dần Mão cần phòng chết yểu, sao biết là mộc tuyệt kim vƣợng? nói không có tật
họa nặng thì cũng là cô khổ, sớm cũng phát sinh mà chết yểu. Nhận Thực cần Ấn, họa khƣớc
từ mà suy ra là ngƣời quý hiển hào kiệt đạt d8ến trí thức.

Lục Nhâm sinh lâm Ngọ vị, hào Nhật Lộc Mã đồng hương.
( Lục Nhâm sinh ở vị trí Ngọ nói là ngày gặp Lộc Mã đồng hƣơng)
Thơ ca giải thích: Ngày Nhâm sinh ở Ngọ, Ngọ có Đinh Kỷ là Tài Quan. Lại gặp Dần Ngọ
Tuất đến mà xem kỹ, hỉ nhất là hình xung Quan Sát vƣợng.
389 | Tam mệnh thông hội

Lại sợ Tài Quan hiển lộ, Khôi thƣơng Tuế Vận là tai ƣơng. Chính Quan là Lộc Mã Tài
hƣơng, tháng, giờ, vận là Ngọ cũng một dạng.
10-05-16, 14:59
lesoi
Quý nhật tọa hướng Tị Quan, nãi thị Tài Quan song mỹ.
( Ngày Quý tọa hƣớng Tị có Quan tinh chính là Tài Quan song mỹ)
Thơ ca giải thích: Ngày Quý sinh ở Tị, Tài Quan phúc lộc nhƣ thế nào? Tị tàng Bính Mậu là
đứng đầu, Bính là Tài thần, Quan ở Tị.
Tháng, giờ, vận cùng đảo xung hình, nhiều bần tiện không nghi ngờ. Tuế Vận Quan Sát lộ
phân rõ, giảm phúc mà lấy gian khổ, cực nhọc vậy.

Tài đa thân nhược, chính thị phú ốc bần nhân.


( Tài nhiều mà thân suy nhƣợc chính là Nhà thì giàu mà ngƣời thì nghèo)
Thơ ca giải thích: Tài thần mà thấy có 2 hay 3 vị, thân suy phúc thiếu mà nhận nhiều khó
khăn. Đoán trƣớc thì giaù có nhiều trân châu, về sau thì phá hại gia đình giống nhƣ túi rỗng
mà kêu to vậy.
Nhật chủ nhƣợc mà gặp Ấn trợ giúp, bắt đầu hơi thấy có sự giàu sang. Chính Tài thừa vƣợng
là dựa vào vợ mà hƣng thịnh, chịu sự mê hoa mà không biết.

Dĩ Sát hóa quyền, định tác hàn môn chi quý khách.
( Lấy sát hóa thành quyền, xác định là thƣợng khách trong gia đình bần hàn)
Thơ ca giải thích: Ngày Quý tháng gặp Quý Sửu, thiên can có hai khí liền kề giống nhau.
Mặc dù gặp Sát mà bản thân kiên cố, Tý Sửu hợp Sát là vũ chức. Không cùng với can chi
năm là Sát, gọi là thân và Sát quân bình. Nhƣ vậy chỗ này là phú quý song toàn, hiển tổ danh
dƣơng phúc lộc bền vững.
Lại nói: Gặp Sát nên hợp cùng xem Ấn, Ấn thụ hóa Sát thành quyền. Sát nhiều cần Thực chế
là trƣớc tiên, về sau giàu có nhƣng nhất định trƣớc đó không thuận lợi.
Ngày Giáp thấy Canh Thân là Sát, hỉ gặp mộc vƣợng Đông hành. Bính Đinh Dần Ngọ hỏa
táo khô, lại bị chế quá, trái lại là hạ tiện.
10-05-16, 15:00
lesoi
Đăng khoa giáp đệ, Quan tinh lâm vô phá chi cung.
( Bƣớc lên khoa Giáp, cung Quan tinh không nên bị phá hại)
Thơ ca giải thích: Sinh ngày Bính có Quan ở tháng Sửu, Tài Quan quy lộc danh truyền. Vật
trong Khố hỉ đƣợc xung, ngoài trụ cũng hỉ có vận hình xung.
Đến kỳ gặp xung thì quý, vị trí đăng khoa đến Tri huyện. Nhƣ còn bên trong trụ có hình
xung, tiếp tục ở vận lại gặp nữa thì không tốt.

Nạp túc tấu danh, Tài khố cư sinh vượng chi địa.
( Nạp thóc mà lấy danh tiếng, là đất Tài khố ở nơi sinh vƣợng)
Thơ ca giải thích: Ngày Đinh Tị, tháng Kỷ Sửu, giờ gặp Tân Sửu là Tài đủ. Can năm Ất Mão
trợ thân kiên cố, có Tị hỏa xuất ra để nung luyện.
Sao quản lý Tài đa quy khố, là hai sao thổ kim kết duyên. Phân rõ phải nạp thóc cho triều
đình thì kẻ sĩ sẽ danh đăng kim bảng.
Lại nói: Ngày Canh sinh ở tháng Mùi, trong Mùi có Ất mộc là Tài. Tài tinh quy khố cần xung
khai, nếu không thì không có nhảy qua đƣợc cửa hồng phúc quang vinh.

Quan tinh thái vượng, kinh lâm vượng xứ tất khuynh.


( Quan tinh quá vƣợng, sợ đến đất vƣợng nhất định bị ngã)
390 | Tam mệnh thông hội

Thơ ca giải thích: Trong trụ có Quan tinh thái vƣợng, thân cƣờng trái lại là kỳ thánh phúc.
Chủ vƣợng phƣơng luận không có xung, vận hành Tài địa thì gia đình giàu có.
Thân suy nếu hành Tài địa, hóa quỷ trái lại nhất định gặp nguy cơ là sụp đổ. Nếu nhƣ đúng
Ấn thụ hỉ dựa vào Tài, cha mất sớm mà không có của để lại lâu dài.

Ấn thụ bị thương, thảng nhược vinh hoa bất cửu.


( Ấn thụ bị tổn thƣơng, nếu nhƣ vinh hoa thì cũng không lâu bền)
Thơ ca giải thích: Lục Giáp sinh gặp Quý địa, sợ nhất là có Mậu Kỷ đến xâm hại. Nhƣ trụ
Tài mà bên ngoài vận gặp thoái tàng, thì tránh đƣợc tai họa hình phạt.
Vận không thấy Tài là tốt, trong trụ Tài khí vận may hơn ngƣời. Đọc sách biết nhiều sự việc,
danh tiếng đề cao nơi Hổ bảng.

Hữu Quan hữu Ấn, vô phá tác lang miếu chi tài.
( Có Quan, có Ấn, không có phá hại đảm nhận tài năng nơi Lang Miếu)
Thơ ca giải thích: Có Ấn gặp ở trên, đẹp nhất là gặp Quan Sát là tốt lành. Vẫn dựa vào phân
ra Quan Sát không kiên cố, thì phú quý danh đăng kim bảng.
Kỵ nhất có Tài tinh phá Ấn, lại sợ có Thƣơng Thực phá Quan. Vận hành đúng nơi có Thực
thì có nhà tan cửa nát mà hủy hại.

Vô Ấn vô Quan, hữu cách nãi tác triêu đình đại dụng.


( Không có Ấn, không có Quan, có cách chính là đƣợc triều đình trọng dụng)
Thơ ca giải thích: Bên trong mệnh không có Quan không có Ấn, cần phải xem có cách là kỳ.
Nhâm Kỵ Long Bối cùng phi thiên, Diêu Tị, Triều Dƣơng các cách, Đảo xung, Thực Thƣơng
tạp khí. Khôi cƣơng, Nhật Lộc cƣ thời, Kim Thần , Thử Quý, Tỉnh Lan xoa, lại không có phá,
hóa sinh thành quý.
10-05-16, 15:01
lesoi
Danh tiêu kim bảng, tu hoàn thân vượng phùng quan. Đắc tá thánh quân, quý tại xung
Quan phùng hợp.
( Dang vàng, kim bảng, cần còn có thân vƣợng gặp Quan. Đƣợc phò tá thành quân, quý hiển
ở xung Quan gặp hợp)
Thơ ca giải thích: Nhật chủ cao cƣờng xem xét lý lẽ, nhận lấy Quan tinh có khí. Nếu gặp Tài
Ấn trợ giúp căn cơ, không có phá hại thì hài lòng nơi văn trƣờng.
Thƣơng Thực, Kiếp Tài không gặp, Tài Quan vƣợng khí nắm quyền uy. Bƣớc lên mà lấy Hổ
bảng Phƣợng Hoàng trì mà làm quan.
Lại nói: Hợi xung Tị, tàng Bính là Quan Lộc. Bính Đinh thấu xuất thì gặp tai ƣơng, trái lại
Bính gặp Thìn thì phải buộc chân.
Quý Hợi Tị tàng Bính Mậu, là địa vị Quan lộc hiên ngang. Không gặp đất Dần Mậu Tị, xác
định địa vị mang dây thao mà làm khanh tƣớng.

Phi cách phi cục, kiến chi yên đắc vi kỳ. Thân nhược ngộ Quan, đắc hậu đồ nhiên phí lực.
( Không phải cách, không phải cục, thấy thì sao đƣợc thành kỳ. Thân suy nhƣợc mà gặp
Quan, đƣợc mà về sau chỉ là uổng phí mà tốn hao sức lực)
Thơ ca giải thích: Không phải cách, không phải cục thì xét kỹ tƣờng tận, chỉ dựa vào phá tổn,
thƣơng hại tinh thần. Thân nhƣợc, Quan nhiều thì trƣớc tiên là quý mà về sau là bần, tốn
nhiều công sức là tinh thần quang vinh.
Thân nếu nhƣ ở Quan thì khó phát, vận hành thân vƣợng thì Tài vinh. Quan tinh mà có 1,2
điểm nhƣợc thì không sao, ngang nhau thì nói là quý mệnh.

Tiểu nhân mệnh nội, diệc hữu Chính Ấn Quan tinh, quân tử cách trung, dã phạm Thất
391 | Tam mệnh thông hội

Sát, Dương Nhận.


( Trong mệnh kẻ tiểu nhân, cũng có Chính Ấn, Quan tinh, trong cách quân tử cũng phạm
Thất Sát, Dƣơng Nhận)
Thơ ca giải thích: Kẻ tiểu nhân có Chính Quan, Chính Ấn mà gặp thƣơng khắc, hình xung.
Ác nhiều thiện ít thì trái lại là hung, có thể suy ra là hay bị gièm pha mà luận.
Ngƣời Quân tử có Dƣơng Nhận, Thất Sát, thiện nhiều mà ác ít gặp nhau. Sát tinh hỉ Nhận mà
giúp đỡ, chế Sát mà có thân cƣờng thì là mệnh quý.

Vi nhân hảo sát, Dương Nhận tất phạm vu Thiên Quan.


( Là ngƣời háo sát, có Dƣơng Nhận nhất định phạm ở Thiên Quan)
Thơ ca giải thích: Dƣơng Nhận nếu gặp Thất Sát, chủ là ngƣời tâm độc ác mà hại dân, uổng
phí phú quý không lâu dài, là tƣợng khí kiêu căng, thanh cao. Ngày Giáp thấy Canh là Sát, có
Mão đến là Nhận hiển nhiên. Nếu gặp Ấn thì tốt cho cầu danh, gặp Sát cũng xem Nhận.
10-05-16, 15:02
lesoi
Tố thực từ tâm, Ấn thụ toại phùng vu Thiên Dức.
( Ăn chay mà tâm tính hiền lành, Ấn thụ toại nguyện gặp ở Thiên Đức)
Thơ ca giải thích: Đa số Ấn vƣợng trọng nặng, có Thiên Nguyệt Đức mà trợ cát. Nhân Nghĩa
Lễ Trí Tín luôn luôn tồn tại, hảo thiện mà giúp ngƣời, lợi vật. Phú quý hơn ngƣời, sản sinh
tâm tính từ thiện, bái đạo mà cúng Phật, có chung mà có thủy. Sự tình suy tính cẩn thận, Tài
vƣợng thì thành ngƣời phản phúc.

Sinh bình thiểu bệnh, nhật chủ cao cường. Nhất thế an nhiên, Tài mệnh hữu khí.
( Nhật chủ cao cƣờng thì cả đời ít bệnh. Tài mệnh có khí, một đời bình yên)
Thơ ca giải thích: Dần Mão chuyên sợ đất bị khắc chiến, tuổi thọ nhƣ hạc đoán là ít gặp tai
ƣơng, phát đầy phúc giống nhƣ biển đầy. Giáp sinh Thìn Tuất Sửu Mùi, tài mệnh vinh xƣơng
mà yên ổn. Tài Quan Ấn thụ vƣợng là tốt, tâm địa khoan hồng, phƣơng có thể một chút tốt
đẹp.

Quan hình bất phạm, Ấn thụ Thiên Dức đồng cung. Thiểu nhạc đa ưu, cái nhân nhật chủ
thân nhược.
( Quan hình không phạm, Ấn thụ có Thiên Đức giống nhƣ Quan. Vui mừng thì ít mà nhiều
ƣu sầu, là bởi vì nhật chủ thân nhƣợc)
Thơ ca giải thích: Ấn thụ hỉ gặp Thiên Đức, cả đời phúc lộc thanh hƣơng. Nhƣ ngày Ất,
tháng Dậu là Sát cƣơng cƣờng, lại sợ có Kỷ Sửu kim vƣợng.
Nếu hoàn toàn không có chế thì giấc mơ hoàn toàn thất bại, khổ cực, ƣu sầu mà gặp hình
tang. Nếu nhƣ nhật chủ suy nhƣợc, nhất định là ngƣời bất lƣơng.

Thân cường Sát thiển, giả Sát vi quyền.


( Thân cƣờng Sát ít, Lấy Sát thành quyền)
Thơ ca giải thích: Hóa Sát thành quyền có thể đạt, nhƣ Giáp sinh ở đất Dần Mão. Mộc gặp
hành Hợi Mão Tuất Mùi, sao sợ Canh kim thành bè đảng.
Ất sinh tháng Tị Dậu Sửu, hỉ gặp Hỏa cục là ngang nhau. Nếu gặp Hợi Mão Mùi thì sinh ra
tai ƣơng, xử thế khó khăn mà nghèo nàn.
10-05-16, 15:03
lesoi
Sát trọng thân khinh, chung thân hữu tổn.
( Sát nặng mà thân nhẹ, cuối cùng gặp nhiều tổn hại)
Thơ ca giải thích: Âm không sinh ở Ất Dậu, giờ gặp Tân Tị thì ít cát lợi. Thân nhẹ mà Sát
392 | Tam mệnh thông hội

nặng thì đảm nhận khó nhất, lại sợ vận hành hƣớng Sát.
Dù có phú quý hay tật bệnh, hoặc không có bệnh tật thì phú quý cũng sớm mất mạng. Nhƣ
thể cây cối còn non nớt mà gặp sƣơng, sợi bông cây Liễu gặp gió thổi mà phất phơ vậy.

Suy tắc biến Quan vi Quỷ, vượng tắc hóa Quỷ vi Quan.
( Suy thì biến Quan thành Quý, vƣợng thì hóa Quý thành Quan)
Thơ ca giải thích: Nhật chủ đến phát sinh suy nhƣợc, Quan nhiều thì hóa Quỷ là tai ƣơng.
Nếu gặp chủ vƣợng Sát đến hàng phục thì biến Quỷ thành quan hiển đạt.
Quan nhiều nhất định khó nhận nỗi, Sát trọng không có chế thì thành mệnh yểu thọ. Thân
suy, thân vƣợng cần phải nghiên cứu kỹ càng, chhì có hỉ hóa Sát là thƣợng cách.

Nguyệt sinh nhật can vận hành bất hỉ Tài hương. Nhật chủ vô y, khước hỉ vận hành Tài
địa.
Thơ ca giải thích: Nguyệt sinh nhật can là Ấn, không nên gặp Tài vận phá hại gây tổn
thƣơng. Nhƣ Giáp sinh Hợi Tý, Ấn không bị xung, có Tị Ngọ Thìn Tuất Sửu Mùi là tổn hại,
nhật chủ sinh vƣợng thái quá nếu không có cách cục gặp Ấn, thì cũng hiểu là Thân vƣợng mà
vô y ( không có chỗ dựa), vận hỉ đất Tài gặp nhiều phúc trọng.

Thời quy Nhật Lộc, sinh bình bất hỉ Quan tinh.


( Nhật lộc quy về giờ, cả đời không mừng gặp Quan tinh)
Thơ ca giải thích: Nhật Lộc ở giờ sinh là tốt nhất, năm tháng sợ có Sát Quan tinh cƣơng
cƣờng, vì có Quan chế Lộc, lộc gặp khó khăn, nhƣng thấy Quan tinh là cách tốt, tháng, vận hỉ
ở đất Tài, không có quan chức mà lộ danh cao. Bên trong Thiên can thấy Quan tinh, vận hỉ có
Thực Thƣơng thì rất là phúc.

Âm nhược triều dương, thiết kỵ Bính Đinh Ly vị.


( Âm nếu hƣớng về dƣơng, kỵ nhất là vị trí Bính Đinh, Ly hỏa)
Thơ ca giải thích: Lục Tân giờ gặp Mậu Tý, nói là ngày âm khứ mất hƣớng dƣơng. Vận hành
về đất phƣơng Tây, chỉ một lần hành động mà bƣớc lên bảng vàng.
Vẫn kỵ vị trí Bính Đinh cung Ly, sợ nhất Quan Sát cùng nhau gây tổn thƣơng. Năm, giờ rất
sợ ngôi sao ẩn tàng chỗ này, chỉ là lữ khách mua bán mà thôi.
10-05-16, 15:04
lesoi
Thái tuế nãi chúng sát chi chủ, nhập mệnh vị tất vi ương. Nhược phùng chiến đấu chi
hương, tất chủ hình vu bản mệnh.
( Thái Tuế là chủ nhiều Sát, nhập mệnh không nhất định là gặp tai ƣơng. Nếu gặp đất khắc
chiến, nhất định chủ hình thƣơng ở bản mệnh).
Thơ ca giải thích: Tuế chính là tƣợng vua của loài ngƣời, không thể thấy liền lấy hung mà
nói. Ngày sinh gặp Dƣơng Nhận khắc lƣu niên, không có chết thì cũng gặp hình phạt, tai nạn
không nhẹ.
Xung phá Tuế Quân là họa, ứng nhƣ thần phạm lệnh với Vua. Cũng nhƣ cha con gặp nhau ở
đất Thái ( là nƣớc chƣ hầu thuộc nhà Chu), giống nhƣ Lục Quốc chiếm lấy nƣớc Tần.

Tuế thương nhật can, hữu họa tất khinh. Nhật phạm Tuế quân, tai ương tất trọng.
( Năm tổn thƣơng nhật can có họa tất nhẹ. Ngày phạm Tuế Quân thì tai ƣơng tất là nặng).
Thơ ca giải thích: Tuế ( năm) thƣơng nhật ( ngày) giống nhƣ cha giận con, họa thì nhẹ mà có
thể tha thứ. Ngày mà phạm Tuế nhƣ con giận cha, ở dƣới mà phạm ở trên thì làm sao mà
dung thứ.
Nhật can ví nhƣ bề tôi, Thái Tuế thì nhƣ là vua, là cha. Hung vận tai nạn trùng với Tuế lại
gặp nhau. Trụ hung lƣu niên nhất định là chết.
393 | Tam mệnh thông hội

Ngũ hành hữu cứu, kỳ niên phản tất vi tường, tứ trụ vô tình, cố luận danh vi Khắc Tuế.
Thơ ca giải thích: Ngày Giáp chủ đến gặp Mậu, gọi là Nhật phạm Tuế Quân. Có trụ Canh
Tân chế phúc không nhẹ, nếu trụ không có Canh vận không thuận lợi.
Nhật chủ Canh Tân đối với Giáp, là Tuế làm tổn thƣơng nhật can bỏ bớt bệnh. Thực thần, Ấn
thụ chế rõ ràng, không có chế thì tai nạn không phải hợp lại cùng với hình.
Canh Tân đến làm tổn thƣơng Giáp Ất, phía trƣớc thấy có Bính Đinh thì không có nguy. Bính
Đinh trái lại khắc canh tân. Gặp Nhâm Quý thì không sợ.
Mậu Kỷ lo sầu gặp Giáp Ất, can đầu cần dụng Canh Tân. Nhâm Quý lo buồn gặp Mậu Kỷ,
mừng có Giáp Ất đến giải cứu.
Nhâm đến khắc Bính, cần dụng Mậu khứ để đƣơng đầu. Quý khứ thƣơng Đinh, lại hỉ có Kỷ
đến tƣơng chế.
10-05-16, 15:04
lesoi
Canh đắc Nhâm nam chế Bính, phản tác trường niên. Giáp dĩ Ất muội thê Canh, hung vi
cát triệu.
( Canh đƣợc con trai Nhâm chế Bính, trái lại lấy trƣờng thọ. Giáp lấy Ất muội gả làm vợ
Canh, hung biến thành cát ).
Thơ ca giải thích: Canh đƣợc con Nhâm chế Bính, là con đến cứu mẹ không có bệnh. Giáp
đƣợc Ất muội kết duyên với Canh, trở thành thân thiết mà hung lại thành cát khánh.
Xƣa nói có lòng trở thành yêu quý, quả nhiên không có ý hại ngƣời. Ham vui mà hỉ Hợp Sát
vong Hình, phúc vƣợng mà đảm nhận của cải nổi tiếng.

Thiên nguyên tuy vượng, nhược vô y ỷ thị thường nhân, nhật chủ thái nhu, túng ngộ Tài
Quan vi Hàn sĩ.
( Thiên can tuy là vƣợng, nếu không có chỗ dựa thì là ngƣời bình thƣờng, nhật chủ quá nhƣợ,
mà gặp Tài Quan thì là kẻ hàn sĩ).
Thơ ca giải thích: Thiên can Nhật chủ quá vƣợng, năm tháng giờ có Ấn, Tài, Quan. Tam tài
không hiển lộ, chủ là ngƣời bần hàn, là tăng đạo, cô đơn hiện ra.
Nhật can nhu, kim sinh vƣợng, Tài Quan nhiều trái lại sinh ra tai ƣơng. Gánh nhận không lấy
gian khổ học tập, sớm cơ khổ, tƣớng mạo gầy ốm mà trong túi thì trống không.

Nữ nhân vô Sát, đái Nhị Đức thụ quốc gia chi phong.
( Nữ nhân không có sát, mang Nhị Đức thì đƣợc nƣớc nhà phong tƣớc)
Thơ ca giải thích: Nữ lấy Quan làm Phu tinh, không nên có Thất Sát tranh giành. Không có
Quan, Thất Sát là Phu cung, không hỉ có Quan tinh tƣơng hỗn.
Tài Quan Ấn thụ mang đủ, thì Phu vinh Thê quý danh môn. Thứ hai nếu thấy Thiên Nguyệt
Đức cùng gặp, nắm chức vụ mà đƣợc vua ban thƣởng bổng lộc.

Nam mệnh thân cường, ngộ Tam Kỳ vi nhất phẩm chi quý.
( Mệnh nam có thân cƣờng, gặp Tam kỳ thì một lúc thành quý mệnh)
Thơ ca giải thích: Nhật chủ cao cƣờng thì phú quý, có Tài Quan Ấn thụ đều đủ. Giáp gặp Tân
Kỷ Quý thành duyên phận, Ất Mậu Canh Nhâm có thể thấy.
Ngày Bính gặp Quý Tân Ất, ngày Đinh gặp Nhâm Canh Giáp thì biến đổi thăng chức. Mậu hỉ
có Quý Ất Đinh, Kỷ hỉ có Nhâm Giáp Bính tam nguyên.
Canh Tân Nhâm Quý thì theo ví dụ ở trƣớc, không có phá hại thì danh đăng kim điện.
10-05-16, 15:05
lesoi
394 | Tam mệnh thông hội

Giáp phùng Kỷ nhi sinh vượng, định hoài trung chính chi tâm.
( Giáp gặp Kỷ mà sinh vƣợng, xác định tƣ tƣởng trong lòng là chân chính)
Thơ ca giải thích: Giáp gặp Kỷ thổ là hợp ở trong vƣợng, phú quý vinh hoa nhất định đo
lƣờng. Luôn luôn trong lòng chân chính mà đƣợc lòng ngƣời, luông gặp quý nhân đợi mong
muốn.
Giáp thuộc phƣơng Đông khí sinh mộc, chủ về Nhân. Thổ thuộc trung ƣơng khí thổ dày, chủ
về Tín, Giáp Kỷ hợp hóa thổ, mà trong tứ trụ lại mang sinh vƣợng, thì là ngƣời trung hậu, là
ngƣời chính trực vậy.

Đinh ngộ Nhâm nhi thái quá, tất phạm dâm ngoa chi loạn.
( Đinh gặp Nhâm mà thái quá, nhất định phạm lỗi dâm loạn)
Thơ ca giải thích: Ất sinh Lục Giáp, tƣ tƣởng luôn tồn tại tính nhân nghĩa, trung lƣơng. Ngày
giờ Giáp Kỷ là Tài Quan, hóa hợp mà thành nhà cửa hƣng thịnh, tiền của dồi dào.
Ngày Đinh gặp Nhâm quá nhiều, hóa Quan thành Quỷ là tai ƣơng. Trong trụ có 2 hoặc 3 thì
đúng là vừa dâm đãng, kỷ nữ, trọng xuôi theo đàn ông ở cánh cửa hát ca đàn xƣớng.

Bính lâm Thân vị, phùng dương thủy, nan hoạch duyên niên.
( Bính đến vị trí Thân, là gặp dƣơng thủy, khó mà kéo dài)
Thơ ca giải thích: ngày Bính sinh ở vị trí Thân, Thân là trƣờng sinh của thủy là khai thông.
Nhâm Thân, Nhâm Tý cùng Thìn ở bên trong, là Thất Sát cƣơng cƣờng thì gặp họa nặng.
Nhâm Ngọ, Nhâm Dần, Nhâm Tuất, là kỳ họa nhẹ mà vô dụng. Sát nhiều mà thân nhƣợc
định thành hung, cẩn thận mà nghiên cứu kỹ lý lẽ giống nhau.
10-05-16, 15:06
lesoi
Kỷ nhập Hợi cung, âm mộc kiến chung vi tổn thọ.
( Kỷ nhập Hợi cung, thấy âm mộc thì cuối cùng là tổn thọ)
Thơ ca giải thích: Ngƣời sinh ngày Kỷ Hợi, tại họa nếu gặp Ất mộc giao tranh. Đặc biệt biết
Hợi có Giáp mộc ở trƣờng sinh, không có chế thì mệnh gặp nhiều lận đận, trắc trở mà dẫn
đến chết yểu.
Ất Tị, Ất sửu, Ất Dậu, hung thần trong lấy sự che đậy mà đánh mất ân huệ. Ất Mùi, Ất Hợi,
Ất Mão, không chết cũng bần hàn, trục trặc không thuận lợi.

Canh trị Dần nhi ngộ Bính, sinh vượng vô nguy.


( Canh gặp Dần mà gặp Bính, sinh vƣợng không có nguy hiểm)
Thơ ca giải thích: Giả nhƣ nhật chủ Canh Dần, sinh ở Bính hỏa là Sát cƣơng kiện. Dần đƣợc
trở về cung Cấn thổ là cát tƣờng, lấy Sát hóa quyền là tốt.
Ngày Canh sinh ở Thân là Quy Lộc, đƣợc vƣợng khí cao cƣờng. Trái lại mang Bính hỏa hóa
thành Quan, thấy lâm nguy mà không có việc gì.

Ất ngộ Tị nhi kiến Tân, thân suy hữu họa. Ất phùng Canh vượng, trường tồn nhân nghĩa
chi phong.
( Ất gặp Tị mà thấy Tân, thân suy thì mang họa. Ất gặp Canh vƣợng, là cảnh tƣợng trƣờng
sinh nhân nghĩa)
Thơ ca giải thích : Ất mộc đến sinh ở vị trí Tị, thân suy thì có họa, thân vƣợng thì may mắn
tốt lành. Bính Tân, Canh Ất kết đôi thành chim Loan Phƣợng Hoàng, xử thế không có bằng
phúc thọ.
Âm thủy gặp đất Canh, đoán gió xuân mà danh tiếng lẫy lừng bốn biển. Ở trên hòa ở dƣới
thuận, thân thể cƣờng tráng, thông suốt hơn ngƣời, ít bệnh.

Bính hợp Tân sinh, trấn chưởng uy quyền chi chức.


395 | Tam mệnh thông hội

( Bính hợp Tân sinh, trấn giữ nắm chức vụ uy quyền)


Thơ ca giải thích: Bính hợp Tân sinh mùa Hạ, năm tháng giờ thấy Tân nhiều. Rồng giấu kín
mà Hổ Báo xâm lƣợc, chí hƣớng là tiêu điều, lại sợ hình thƣơng khắc phá.
Ngày Tân thấy Bính đƣợc hợp, gặp sinh gặp lộc là trung hòa. Vận hành Quan vƣợng phúc
cao nhƣ Thạch Sùng, danh tiếng lấy lừng bốn biển.
10-05-16, 15:07
lesoi
Mộc trọng phùng hỏa vị, minh vi khí tán chi văn.
( Mộc nặng gặp vị trí hỏa, văn nói ghi nhớ là khí tán)
Thơ ca giải thích: Một mộc mà gặp hỏa trùng điệp, sinh mùa Hạ lại gặp Bính Đinh. Hỏa có
thể tiết khí mộc, lấy sự việc không thành mà nghèo khó bao vây.
Chi hỉ có Dần Ngọ Tuất Tị, Mậu Kỷ tài thông. Hỏa mộc hóa không có hung, phúc lộc an
nhàn, gia đình thông suốt.

Độc thủy tam phạm Canh Tân, hào nhật thể toàn chi tượng.
( Một thủy mà phạm ba Canh Tân, nói là tƣợng nhật chủ đầy đủ)
Thơ ca giải thích: Nhâm Quý hai Canh Tân, hỉ sinh đúng năm ngày giờ. Quý sinh Tân thấu
lại gặp Canh, trong năm ngày giờ cùng dùng.
Không có đạo, Ấn không có nhiều, một Kiêu một chính là không hung. Cho nên nói là sự
việc vui mừng, chƣ hầu bá tánh đều đƣợc hƣởng bổng lộc.

Thủy quy Đông vượng, sinh bình nhạc tự vô ưu.


( Thủy quy về Đông vƣợng, cả đời vui vẽ không ƣu phiền)
Thơ ca giải thích: năm Quý Hợi tháng Giáp Tý, giờ Quý Hợi, Nhâm Tý là chân. Tháng giờ
có Thƣơng Kiếp vận trình phƣơng Nam, hỉ nhất là Thực Tài Quan Ấn.
Sát Quan xứ vƣợng trái lại là không tốt, hình phạt ví nhƣ chứng bệnh đủ điều.
Quý Hợi, Giáp Tý, Quý Hợi, Nhâm Tý là mệnh của Lão Bành.

Mộc hướng xuân sinh, xử thế an nhiên hữu thọ.


( Mộc hƣớng về Xuân sinh trƣởng, xử thế bình yên mà có thọ)
Thơ ca giải thích: Giáp Ất sinh ở mùa Xuân, trụ gặp Dần Mão trọng nặng. tính cách ôn hòa,
lƣơng thiện, định là tƣ tƣởng hiền lành, là ngƣời sắp xếp sử sách cho triều đình.
Tài Thực Ấn Quan đều vƣợng xứ, hỏa vƣợng trái lại là nghèo mà yểu mệnh. Có thể nghiên
cứu phƣơng pháp tinh thông giống nhƣ đạo Trung Dung, luận mệnh cần biết biến thông.

Kim nhược ngộ hỏa viêm chi địa, huyết tật vô nghi.
( Kim nếu gặp đất hỏa viêm, huyết bệnh không nghi ngờ)
Thơ ca giải thích: Ngày Canh sinh nơi hỏa địa, trụ gặp Bính Đinh lần nữa. Nếu còn có Dần
Ngọ Tuất đủ thông, không bệnh cũng đề phòng tật nặng.
Nam thì chủ bệnh điên, bệnh lao trong ngƣời, Nữ thì bệnh sản hậu, máu huyết bị khô. Nếu
không có chế phục ở năm, giờ, cấp bách thì có thể vào nhà mồ.

Thổ hư phùng mộc vượng chi hương, tỳ thương định luận.


( Thổ hƣ gặp mộc vƣợng, tỳ vị bị tổn thƣơng)
Thơ ca giải thích: Năm Giáp Tý, tháng Đinh Mão, ngày Kỷ Sửu, giờ Ất Hợi. Năm tháng giờ
lộ mộc quanh quẩn một chỗ, mắc bệnh sốt rét làm hại.
Vận hành Khảm địa chết yểu, năm gặp mộc địa xác định tai nạn. Tây Nam phƣơng có thể
phát sinh tiền tài, về sau càng tốt đẹp.
Giáp Tý, Đinh Mão, Kỷ Sửu, Ất Hợi. Mệnh Ninh Tử.
396 | Tam mệnh thông hội

10-05-16, 15:08
lesoi
Kim ngộ Cấn nhi ngộ thổ, hào viết Hoàn Hồn.
( Kim gặp Cấn mà gặp thổ, gọi là Hoàn hồn)
Thơ ca giải thích: Canh kim sinh Dần gặp hỏa, gặp đúng Cấn thổ thành cát tƣờng. Nhật can
Mậu nếu cùng gặp, bắt thang trèo cây Quế mà gặp vua.
Trọng thấy Bính Đinh là tƣơng khắc, nhất định lấy yểu thọ, bần hàn. Không thấy Bính Đinh
gặp Mậu Kỷ, trông nom gia đình giàu có, thóc lúa nghìn kho.

Thủy nhập Tốn nhi kiến kim, danh vi Bất Tuyệt.


( Thủy nhập cung Tốn mà thấy kim, tên là Bất tuyệt)
Thơ ca giải thích: Nhâm Quý sinh nơi Tị địa, gốc là phú quý mà xem. Trụ sợ Mậu Kỷ lấy tai
ƣơng, khởi gặp Canh kim là tối cao.
Nhâm thủy thụ khí ở Tị, thủy đƣợc mẫu mà trƣờng sinh. Mà có thể sinh thủy, cho nên nói
thủy nhập cung Tốn.

Thổ lâm Mão vị, vị trung niên tất định hôi tâm. Kim ngộ hỏa hương, tuy thiểu tráng tất
nhiên tỏa chí.
( Thổ đến vị trí Mão, chƣa trung niên mà đã nản chí. Kim gặp đất hỏa, dù thanh niên nhất
định ghi lấy thất bại)
Thơ ca giải thích: Ngày Kỷ , tháng gạp chỗ Mão, thân cƣờng có chế là quý nhân. Sát nhiều
không có chế mà bản thân khinh thì tật khổ mà trong tƣ tƣởng là bất chính.
Canh Tân tính nhu mà Sát vƣợng, thiếu niên chí nguyện thất bại, không thành. Lấy thành tính
khô mà gây nên hình phạt, vƣợng có chế thì đảm nhận là quý mệnh.

Kim mộc giao soa hình chiến, nhân nghĩa câu vô. Thủy hỏa đệ hỗ tương thương, thị phi
nhật hữu.
( Kim mộc giao nhau mà hình chiến, nhân nghĩa đều không có. Thủy hỏa lần lƣợt cùng nhau
thƣơng hại, nhật chủ không phải là đầy đủ)
Thơ ca giải thích: Giáp Ất Canh Tân trái phải, Ất gặp bên trái, phải gặp Canh Tân. Canh Tân
Thân Dậu là vƣợng thần, tính tình yên ổn mà thủy chung.
Lại nói về Quan Sát hỗn tạp, cho nên là không có nhân không có nghĩa. Tài hƣơng phát phúc
càng lao tâm, hồ chứa nƣớc đọng tiền của có thể tốt đẹp.

Mộc tòng thủy dưỡng, thủy nhi mộc tắc phiêu lưu.
( Mộc đƣợc thủy dƣỡng, thủy mà cùng mộc thì trôi nổi)
Thơ ca giải thích: Giáp Ất sinh nơi đất Tý, nhƣng gặp 1,2 vì thì thành kỳ. Nhâm Quý Hợi Tý
can chi trùng điệp, thì mộc trôi nổi không có chỗ dựa.
Năm Tân Hợi, tháng Canh Tý, Giáp Thân, Ất Sửu có chi kết giao. Năm gặp Đinh Dậu, vận
Thân theo thủy mà đắm chìm, Mân Ngô Cát chết.

Kim lại thổ sinh, thổ hậu nhi kim tao mai một.
( Kim đến thổ sinh trƣởng, thổ dày mà kim bị chôn vùi)
Thơ ca giải thích: Ngày Canh Tân gặp Mậu Kỷ, Thin Tuất Sửu Mùi đều đủ. Nếu gặp hỏa thổ
can chi trùng điệp, thì Thổ trọng mai Kim không có khí.
Dù có kim châu vạn hộc, khó mà trèo cành Nguyệt Quế gặp thần tiên. Nghiên cứu đạo mệnh
lý hết sức tinh vi.

Thị dĩ ngũ hành bất khả thiên cách, vụ bẩm trung hòa chi khí. Canh năng tuyệt lự vọng
tư, giám mệnh vô soa vô ngoa hĩ.
397 | Tam mệnh thông hội

( Ngũ hành vốn là không thể chấp nhất ở nơi Cách, sự việc vốn là ở khí trung hòa. Lại có thể
cắt đứt suy nghĩ ngông cuồng xằng bậy, xem mệnh không có sơ qua, không có nói ngoa vậy)
Thơ ca giải thích: Xem mệnh trƣớc tiên xem nhật chủ, thứ đến nghiên cứu kỹ chi của năm,
tháng, giờ. Khử, lƣu, cƣờng, nhƣợc ung dung phối hợp, khinh trọng, nông sâu quan sát lý lẽ
kỹ càng.
Đoạn nói khí trung hòa, tham khảo thêm vận trình đảm nhận hƣớng về hay quay lƣng. Tam
Tài, Thiên Chính phát sinh khi nào, đều ẩn tàng trong Nguyệt lệnh.

(Hết quyển 11)

lesoi
Quyển 12
Quyển 12:

Chân Bảo phú

(Binh bộ Thượng Thư Vạn Kỳ thời Minh biên soạn –Vạn Dân Anh tiên sinh hiệu là Dục
Ngô sơn nhân chú giải)

Quan tinh đới Nhận không khắc phá, nắm đại quyền binh hình; Tài Ấn giúp nhau không có
hình xung, quý đăng Hoàng các Tam Công.
( Chính Quan cách. Dƣơng Nhận ở cùng Tài Ấn giúp nhau, có Thƣơng quan thì khắc, có hình
xung thì phạm. Không Ấn, không Nhận, chỉ có Tài tinh giúp nhau, cũng cát. Tuế cũng vậy. )

Tài Quan sinh vượng phùng Ấn thụ, bái hoạch viên hiến phủ chi tôn; tam hợp Ấn Tài hội cục
toàn, quý đăng Chư Hầu Ngũ Mã.
( Tài Quan sinh vƣợng cách. Trụ có Thiên, Chính Ấn, lại có tam hợp Ấn cục, hoặc Tài cục, là
cát. )

Thương quan phùng Kiếp Nhận, kiêm lẫn nhau lộ ở giờ; Nếu Ấn thụ tương phù, đăng Long
môn lúc tuổi trẻ.
( Thƣơng Quan cách. Thân nhƣợc hỷ Nhận Ấn giúp đỡ nhau, thì cát. )

Thương quan đắc Thực thần phụ trợ nặng, nói lấy bức tranh lầu tía Ngụy tướng công; tuế
vận kị chế phục hình xung, lại tiếp tục có Thương quan mà họa đến.
( Thƣơng quan gặp Thực thần trùng điệp phù nhau, cát. Chỗ kị hình xung cùng chế phục thái
quá. Phục hành vận Thƣơng quan, họa đến bất trắc. Trong trụ không có Quan, hỷ hành lúc
Quan vận; không có Ấn, hỷ hành vận Ấn thụ, chủ dời quan. Tuế vận giống vậy. )

Tài giúp Thất Sát, uy quyền độc áp vạn người; nếu Ấn tương phù, đoán định quan cư cực
phẩm.
( Thất Sát cách. Hỷ Tài sinh trợ, lại đƣợc Ấn hóa, rất tốt. Duy chỉ có Sát, cho nên có chủ
quyền; đƣợc Ấn, cho nên làm quan cực phẩm. )

Tháng đã hội cùng Sát Nhận, tên tuổi sánh Hoắc Quang thời nhà hán; Năm giờ lại mang Tài
Ấn. Địa vị cao xếp hàng Đặng Võ Trung hưng.
( Thất Sát, Kiếp Nhận cùng ở nguyệt lệnh, năm và giờ có Tài, có Ấn, là tối quý. Nghĩa giống
đoạn văn ở trên, nhƣng chỗ này lại kiêm nói Nhận vậy. )
398 | Tam mệnh thông hội

Sát thất thời mà Ấn vô khí, thêm chủ vượng mà đảm nhận thường lưu.
( Thất Sát, Ấn thụ, nếu không đƣơng lệnh nắm quyền, còn nhật can tự vƣợng, dụng thần rất
bé, chỉ có chức hƣ thanh lãnh đạm. Tuế vận hành Tài Sát, thì cát. )
11-05-16, 08:51
lesoi
Ấn nắm lệnh mà Sát tương phù, lại thấy Tài làm quan Hàn Uyển.
(Ấn thụ cách. Phải nắm quyền nguyệt lệnh, chi ngày lại đắc trọng sinh khí vƣợng, không thấy
hình xung phá hại. Chỉ đƣợc một Tài, một Sát là hay, không nên thái quá. Tài Ấn lƣỡng đình
chỉ là thƣờng lƣu vậy. 《 Phú 》 lại nói: Ấn thụ trọng phùng, Quan cƣ Hàn Uyển là vậy. )

Thiên Tài thời thượng kiến Quan, sớm đăng tên bảng vàng; lại được Thực thần phụ giúp,
thiếu niên gần với thượng giới.
( Thời thƣợng Thiên Tài cách. Năm tháng có Quan tinh, lại có Thực trợ giúp, câu trên rất
chuẩn. Kị Tỉ Kiếp, phùng Tỉ, thì trăm không toại một. )

Phúc Đức kiến Tài mà ẩn Quan, quan cư cực phẩm; trụ vận phùng Ấn mà không có thổ, chỗ
đến dưới cô hình.
( Phúc đức. Ví dụ nhƣ ngày Nhâm Quý, sinh ở 3 tháng mùa đông. Hỷ Tài Quan trợ giúp
nhau, can chi tác hợp, hoặc đắc hỏa cục, cùng Thìn Tuất Sửu Mùi, nhƣng chỉ có một chữ mới
tốt. Nếu không có Tài Quan, mà gặp Ấn thụ, không hành Tài Quan, mà hành Ấn thụ cùng vận
bắc phƣơng, là hình thê khắc tử, là mệnh cô quả bần tiện vậy. )

Lục Nhâm xu Cấn, thấu Tài Ấn là tuyệt diệu; Quan Sát tương xâm, lại bần cùng mà còn hạ
tiện.
( Ngày Lục Nhâm gặp giờ Nhâm Dần, là Xu Cấn cách vậy. Năm tháng lại thấy Dần, thiên
can thấu Đinh Tân là vi diệu, phú quý song toàn. Tối kị Quan Sát, hoặc thấy ở hành vận, cốt
nhục lục thân phân tán, là ngƣời bần bạc nô tỳ vậy. )

Lục Giáp xu Càn, hỷ Tài Ấn mà vị trọng danh cao; tuế vận xung hình, cùng Sát Quan mà tai
hưng họa đến.
( Ngày Giáp gặp giờ Ất Hợi, là Xu Càn cách vậy. Năm tháng lại thấy Hợi, lại gặp Tài tinh,
trùng gặp Ấn thụ sinh thân, Chính Quan tự nhiên xuất hiện, lại hành đất Tài vƣợng, là cát. Kị
chữ Tị hình xung, Quan Sát khắc phá, Giáp Ất Kiếp đoạt. Tuế vận cũng vậy. )

Tài túc điệp phùng đắc Ấn sinh, thiếu niên thụ phúc.
(Tức là trƣớc Tài sau Ấn, trái lại thành phúc, không thể thấy Tài phá Ấn là sợ. )

Đảo xung đới Ấn gặp Tài Thực, tuổi trẻ thành danh.
( Đảo xung Lộc Mã cách. Chính là các ngày Bính Ngọ, Đinh Tị, Tân Hợi, Quý Hợi, trụ có
Thiên Ấn, lại hành vận Tài Thực, là quý. Kị điền thực, Quan Sát không tốt. 《 Phú 》 nói:
"Đảo xung đới Ấn, tuổi trẻ thành danh, Tài Thực phụ nhau, thân gần thềm son" là vậy. )

Tuế Đức phù can, hỷ Tài tinh mà sợ chế phục; ở vận Ấn tinh, hội Dương Nhận mà nắm binh
hình.
( Can năm Thất Sát gọi là Tuế Đức, không nên thấy trùng, tối hỷ Tài tinh cùng Ấn thụ,
Dƣơng Nhận không thể chế phục, tuế vận giống vậy. Nhƣ Giáp Thân, Kỷ Tị, Mậu Tý, Quý
Hợi, Tuế Đức không có chế, giờ có Thất Sát đắc dụng, có Ấn hóa Sát trợ thân, có Nhận hợp
Sát phù thân, cho nên đại quý. )
11-05-16, 08:52
399 | Tam mệnh thông hội

lesoi
Nhị Đức phối Quan, Vương Lăng làm tường nhà Hán.
( Nhƣ ngày Tân sinh tháng 9, lấy Bính là Thiên, Nguyệt nhị Đức, lại là Chính Quan, hỷ Tài
tinh trợ giúp, kị Thƣơng quan khắc chế. 《 Phú 》 lại nói: "Bình bang quốc, Thống lục sư,
dựa vào Quan biến thành Nhị Đức" là vậy. Nhƣ Ất Hợi, Bính Tuất, Tân Sửu, Mậu Tý là hợp
cách. Quan lại biến thành Đức, chỗ làm quan là vô họa; Tài biến thành Đức, đắc thiện trung
tài bạch; Ấn biến Đức, chủ nhận tài sản của tổ phụ để lại mà vô họa; nhật can biến Đức, thì
chủ bản thân. )

Tài tinh Tú Đức, Tạ An lập đại công nhà Tấn.


( Nhƣ Mậu Kỷ, lấy Giáp Ất làm Quan, Nhâm Quý làm Tài, Nhị Đức thấu can, là thần Tú
Đức. Không có Canh Tân chế phục, không bị Tỉ Kiếp tranh đoạt, là đại quý. Lại nhƣ, ví dụ
ngày Ất lấy Canh làm Quan, sinh tháng Tị Dậu Sửu. Bính Đinh dụng Canh Tân là Tài, sinh
tháng Tị Dậu Sửu. 《Phú》 lại nói: "Vua Thương phù Hán, bởi vì Tài Quan mà thành vinh
Tú Đức" là vậy. Hoặc lấy Tú Đức làm Phúc Đức tú khí, lại thêm Tài Quan càng hay. )

Thương quan nhiều mà kiến Quan, đá ngu sinh ngọc; vốn có Quan mà thấy tiếp tục, tai họa
liên miên.
( Thƣơng quan cách, yêu cầu trong trụ thấy trùng Thƣơng quan, nhƣ có một vị Chính Quan,
là quý. Không có Quan hỷ hành Quan vận. Thƣơng quan nhƣ đá, Chính Quan nhƣ vƣơng,
nếu có Quan, tiếp hành Quan vận, thì họa. )

Thương quan như mang Sát Nhận, xuất tướng làm tướng vào Công Hầu.
( Thƣơng quan làm chủ, trụ mang Sát Nhận, lại đƣợc Ấn thụ, đƣơng thời đắc lệnh, có tình lợi
ích cho nhau, không bị hình xung, là cách cực đỉnh. 《 Phú 》 lại nói: "Thương quan đới
Nhận, có Ấn đầy đủ, là đảm nhận một binh phù" là vậy. )

Đức tú nếu trợ Thương quan, nắm binh quyền mà phục trọng hình.
( Chỗ này lại kiêm nói Đức Tú, đều lấy Thƣơng quan cách làm chủ. ).

Địa chi đủ Tý Ngọ Mão Dậu, thành đại cách mà văn võ kinh bang.
( Có đủ Tứ Trọng, phải xem thiên can thế nào, phải thành đại cách mới tốt. )

Trụ đủ Tị Hợi Dần Thân, thêm kỳ nghi mà chấn chủ uy quyền.


( Trụ đủ Tứ Mạnh, phải xem thiên can thế nào, lại đƣợc kỳ nghi là vi diệu. )

Mộc sinh tháng Mão, giờ hội Ngọ mà chấn động ly minh; vận đến tây nam, làm quan cực
phẩm.
( Chỗ này là Mộc Hỏa thông minh cách vậy. )
11-05-16, 08:53
lesoi
Thực gặp Ấn nhiều lại thấy cướp xung, tuổi thọ tất yểu.
( Đây là chỗ kỵ của Thực cách. )

Trụ thịnh Thực thần vận Tài hương, công danh có chuẩn.
( Chỗ này là chỗ hỷ của Thực cách. )

Triều dương đới Ấn Tư Mã túc, thanh tỏa hoàng môn; trụ không Tài Ấn, chức cư dân mục.
Tuế vận rất sợ điền thực.
400 | Tam mệnh thông hội

( Lục Âm triều Dƣơng cách. Hỷ Ấn thụ, Tài tinh, nhập cách ở trong năm tháng, mà không có
Tài Ấn thì giảm nửa phần. Vận hành Tài Ấn, quan cƣ chuyển vận, kị xung hình điền thực. Lại
nói: Triều Dƣơng mang Ấn, thanh triều đạt sĩ; Tài tinh trợ giúp, vinh không nhỏ, tức nhận
quốc phong. Trụ không có Ấn Tài, phần đa là cƣ mục, chức thủ Tri Châu. )

Thử Quý đới Thực tư Ấn diệu, vi viên phiên tỉnh; trụ có Quan Sát, bần cùng hạ tiện, vận đồ
không hỷ hình xung.
( Lục Ất Thử Quý cách. Hỷ Thực thần trọng kiến, cùng Ấn thụ là cát. Kị Quan Sát xung hình
hại. )

Tý Sửu diêu hợp Tị cung, trụ Ấn Tài mà làm cực bảo; tuế vận nếu không có phụ tá, đăng ti
chức mà tọa hàn chiên.
( Hai cách Tý Sửu Diêu Tị. Yêu cầu trụ có Tài Ấn, tất quý. Không có thì không phải. Vận
gặp Tài Ấn, cũng phát. 《 Phú 》 lại nói: "Tý Sửu diêu hợp Tị cung, đƣợc Tài Ấn mà thành
chí bảo" là vậy. )

Luận đạo thụ bang, hỷ Tài Quan tự lộc mà tự vượng.


( Ví dụ nhƣ ngày Giáp lấy Tân làm Quan, đƣợc Dậu là Kiến Lộc, Kỷ thổ là Tài, trƣờng sinh ở
Dậu. Nhập tƣợng, là đại quý. Kị hình xung Thƣơng quan vận, tuế cũng vậy. Nhƣ Ngô Nhạc
Thƣợng thƣ: Giáp Tý, Quý Dậu, Giáp Thìn, Giáp Tý. Là hợp cách, mất năm Canh Ngọ, cuộc
đời chính khí quân tử. )

Điều nguyên tán hóa, bởi vì Tam Kỳ tự vượng mà tự sinh.


( Chính Quan, Chính Ấn, Chính Tài là Tam Kỳ. Ngày Ất lấy Canh làm Chính Quan, đƣợc
chữ Tị trƣờng sinh; Nhâm là Chính Ấn, sinh ở Thân; Mậu là Chính Tài, sinh ở Thân, là nhập
tƣợng, đại quý. Nhƣ Đàm Luận Thƣợng thƣ: Canh Thìn, Giáp Thân, Đinh Mùi, Bính Ngọ,
Tài Quan Ấn đều vƣợng. Hồ Tông Hiến Thƣợng thƣ: Nhâm Thân, Tân Hợi, Đinh Dậu,
Nhâm Dần, Tài Quan kiến Lộc Ấn trƣờng sinh, Đinh hỏa tự sinh ở Dậu, là đất quý thần, lại
thành tƣợng hóa mộc. Cho nên uy chế tứ tỉnh, quan cƣ nhất phẩm. )
11-05-16, 08:56
lesoi
Lan Xoa đắc Ấn lộc tương trợ, quan cư phụ bật a hành; hỏa kiếp kiêm tuế vận bất hòa, lại
lấy bần cùng mà hạ tiện.
( Cách này trong trụ có Lộc thần, Thiên, Chính Ấn, thiên can đƣợc Tài Ấn là vi diệu. Nếu
thấy hỏa thần, Kiếp Nhận thái trọng, tuế vận bất hòa, là bần tiện. )

Lộc phùng Tài Ấn, thanh niên cập đệ đăng khoa; tuế vận hình xung, gặp Quan Sát là không
hay.
( Quy Lộc cách. Trong năm tháng giờ có Ấn, có Tài, địa chi tam hợp là vi diệu. Vận hành đất
Tài Ấn, cát. Kị hình xung, phá hại, Quan Sát phá cách. )

Kim thủy thanh trong bị thương, văn chương hiển đạt mà tuổi thọ khó dài.
( Trong trụ có kim cục Tị Dậu Sửu, thủy cục Thân Tý Thìn, đủ hai cục, viết là Kim bạch
Thủy thanh. Nhƣng bị thiên can Bính Đinh Mậu Kỷ hỗn khắc, thì tốt mà không thọ. 《 Phú
》 nói: "Kim thủy thanh trong bị thương, Nhan Tử tú mà không thực" là vậy. )

Mộc hỏa suy thịnh không bình, công danh thặng đặng mà yểu chiết là không sai.
( Ngày Ất sinh mùa hạ, trong trụ nhiều Bính Đinh Ngọ Tị hỏa, là công danh thặng đặng, văn
danh là Khí tán. Trụ không có Tài Ấn, thì tan thành tro bụi, khắc tử thƣơng thê, hoặc là tàn tật
401 | Tam mệnh thông hội

. Đƣợc Kiếp Nhận bang trợ, Nhâm Quý sinh phù, Mậu Kỷ giúp ích, công danh tuy có, cũng
nhỏ mà thôi. )

Vân Long phong Hổ nếu theo nhau, định làm đại khí thánh triều.
( Vân Long phong Hổ, nhƣ Giáp Ất sinh 3 tháng mùa xuân, hoặc tháng Hợi Mão Mùi, là sao
Thanh Long, thiên can phải có Nhâm Quý thủy, gọi là Vân Long tƣơng tòng. Hoặc Canh
Thân, Tân Dậu, nếu gặp một chữ, là thần Bạch Hổ tây phƣơng, thích gặp Hợi Mão Mùi gặp
hợp chữ Tị là Tốn phong, thì quý. Nếu thấy điền thực, lại không có vân vũ (mây mƣa), gọi là
Hạn Long; có dƣơng mà không có âm, là có vua mà không có thần, cƣơng nhu không cứu
nhau, trái lại là kẻ tầm thƣờng vậy. Hoặc lấy Thìn là Long, Dần là Hổ, Nhâm là Vân, Tị là
Phong, cục đủ Dần Thìn Tị Nhâm, là đại quý. )

Phi Lộc Đảo xung kiêm Ấn thụ, tất là danh công chiêu đại.
( Phi thiên Lộc Mã Đảo Xung cách, hỷ Ấn Tài. Kị Chính Quan, Thất Sát xung hình, điền
thực. Nếu hành Ấn Tài cùng đất tam hợp, cũng cát. )

Thân tuy vượng mà Quan lộc là khinh, Mã là giảng kinh nghệ ở thao trướng.
(Nhƣ ngày Giáp Dần, dụng Tân làm Quan cùng sinh 3 tháng mùa đông, hoặc tháng 4, 5, dụng
thần đã cạn, lại không có Tài tinh trợ giúp, là mệnh dừng đức sƣ. Nhƣ sinh mùa hạ, mà Tài
tinh trợ giúp, danh tựa Đào Chu. Nếu khắc đƣợc chế phục, hỏa trọng thì không phải.)

Cách không thanh mà dụng thần hưu phế, Tiêu Tào khởi đao bút ở tây Tần.
( Nghĩa giống nhƣ trên. )

Giáp Ất nếu nhập Càn cung, hội mặt Thìn Long. Tất quý.
( Hai chữ Giáp Ất thấu nhiều ở can đầu, địa chi thấy Hợi, lại đƣợc chữ Thìn. Danh là Lục
Giáp xu Càn cách, cát. Nhƣ tứ trụ nhập tƣợng, chủ đại quý. )

Kim Thần như phùng Nhâm Quý, đắc Tị Ngọ là tốt.


( Ngƣời sinh ngày Giáp Ất, đƣợc Nhâm Quý Ấn sinh phù, chi mang Tị Ngọ. Là Thủy Hỏa ký
tế, tƣợng Rồng đƣợc bay cao, nói thi công làm mƣa.)

Canh gặp Nhâm Quý tọa Sát Án, mà Chu Du vị trọng.


( Sinh ngày Lục Canh, trong trụ nhiều Nhâm Quý, thân tọa Thất Sát, Ấn thụ, chủ đại quý.
Nhƣ Hà Thượng thư: Nhâm Tý, Quý Sửu, Canh Ngọ, Bính Tý. Mệnh của tôi (tức mệnh của
Vạn Dân Anh cƣ sĩ hiệu Dục Ngô sơn nhân thời nhà Minh) là: Nhâm Ngọ, Quý Sửu, Canh
Dần, Bính Tuất (tức sinh ngày 14/1/1763 DL, giờ Tuất nhằm ngày 1 tháng 12 năm Nhâm
Ngọ âm lịch). Đều hợp cách này).
11-05-16, 08:58
lesoi
Quy Xà trì kiếm kiêm Kim Nhận, nhi cổ phục danh cao.
( Sinh ngày Nhâm Quý, trong trụ nhiều Bính hỏa, hoặc là nhị cục Dần Ngọ Tuất, Thân Tý
Thìn. Thủy thuộc Quy, Hỏa thuộc Xà, tƣợng danh là Quy xà Trì Kiếm. Trụ không có kim, thì
không ra thanh kiếm. )

Canh Tân trọng mà giờ thấy Tị Hợi, là Hổ khiếu sinh phong. Được Mậu Kỷ theo giúp, quan
cư cực phẩm.
(Nhật chủ Canh Tân, lại thấy can Canh Tân, trong năm tháng giờ gặp một Tị là Tốn phong;
hoặc đƣợc Hợi cũng đƣợc. Hỉ Giáp Ất Hợi Mão Mùi, vận hành đông nam, quyền cao lộc
trọng. Hành bắc phƣơng, phú. Nhập tây, họa khó lƣờng. )
402 | Tam mệnh thông hội

Nhất khí tương sinh, xưng Ngũ hành thuận Thực, địa vị gần Tam Thai.
(1. Sao Thai: Tam Thai 三台 sao Tam-Thai. Sách thiên văn nói sao ấy nhƣ ngôi Tam-Công
三公, cho nên trong thƣ từ tôn ai cũng gọi là Thai. Nhƣ gọi quan trên là Hiến Thai 憲台, gọi
Quan Phủ huyện là Phụ Thai 父台, gọi các ngƣời trên là Thai Tiền 台前 đều là theo cái nghĩa
đó. 2. Thai Cát 台吉 tên tƣớc quan, bên Mông-cổ chia ra bốn thứ để phong các con em nhà
vua.)
( Nhất Khí tương sinh, tức Giáp sinh Bính, Bính sinh Mậu, Mậu sinh Canh, là ngũ hành
thuận thực. Thêm địa chi hỗ ích, đại quý. Hoặc lấy Thiên Nguyên nhất khí giải thích, là
không phải. )

Kim Thần đới Nhận, gặp hỏa địa sáng rực, quan cư Nội Các.
( Kim Thần cách. Trong trụ có Dƣơng Nhận, lại hành hỏa hƣơng, đại quý. )

Thời thượng Thiên Quan, hỷ Kiếp Nhận Ấn Tài, mà ở năm tháng.


( Thời thƣợng Thiên Quan cách. Trong năm tháng giờ, có Tài giúp Ấn hóa, Nhận phù thân
cƣờng, chủ quyền Phong Hiến. )

Phụ truyền tử đạo kiêm văn võ, tương tương nhi hiển triều đình.
( Sinh ngày Ất, phùng giờ Nhâm Ngọ, là đúng. Ất thuộc đông phƣơng thần Thanh Đế, Ngọ
thuộc nam phƣơng thần Đại Đế. Ất là cha, Ngọ là con, gặp trên can Nhâm thủy, lại sinh Ất
mộc, là nhà cha truyền đạo cho con, Thanh Xích nối tiếp nhau là vi diệu. Nhập cách này, một
đời cao công, áp đảo nghìn quan. Không hợp thủy thịnh, Ất mộc bị phù phiếm. Trƣớc có nói
Mộc sinh tháng Mão, hội giờ Ngọ là Chấn động Ly minh, vận đến tây nam làm quan cƣ cực
phẩm vậy. )
11-05-16, 08:59
lesoi
Thương quan thấu còn Chính Quan ẩn, gặp Sát Ấn mà vị trọng quyền cao.
( Thƣơng quan thấu ở can năm tháng giờ, Chính Quan ẩn ở bên trong trụ địa chi, có đủ Tài
Ấn Thất Sát, là đại quý. )

Địa thiên giao mà cảm âm dương, đắc Mậu Kỷ là Tam Thai Bát Tọa.
( Ngày giờ đƣợc Hợi là Càn thiên, năm tháng đƣợc Thân là Khôn địa, mà can thấu Mậu Kỷ là
Địa ở trên Thiên, ý có âm dƣơng giao cảm, trong dƣơng ngoài âm, thấy thuận tƣợng. Nhập
cách này, là đại quý. )

Mộc thịnh kim phồn, đắc ly minh mà công trung chính trực.
( Mộc dựa kim gọt, phồn thì kim quá nhiều, cần có hỏa chế kim. Công trung chính tại, là nói
bởi vì kim mộc vậy. )

Kim bạch thủy thanh, gặp trường sinh mà thông minh xuất chúng.
( Ngày Canh Tân, sinh ở tháng Thân Tý Thìn, địa chi tọa Tị, trụ có Nhâm Quý, không có hỏa
thổ bác tạp, chủ thông minh có văn học. )

Hỏa minh mộc tú, phùng thổ hiện nhi tảo cổ ngao đầu.
( Sinh ngày Giáp Ất, trong trụ có Tị ở chữ Bính Đinh Dần Tuất, đặc biệt sinh ở mùa xuân.
Nếu địa chi có Ngọ Tuất Hợi Mão Mùi, đều đƣợc một chữ, cũng đƣợc, không câu nệ phải
sinh ngày Giáp Ất. )
403 | Tam mệnh thông hội

Thủy mộc sinh ở mùa xuân, gặp thổ kim mà lấy địa vị Công Hầu.
( Thủy kiến thổ, mộc kiến kim, là Quan. Thủy kiến Kim Ấn, Mùi kiến thổ Tài, mùa xuân thì
mộc vƣợng thủy hƣu, Tài giúp qua lại, cho nên quý. )

Kim phùng hỏa luyện, tuổi trẻ làm quan; Mộc được kim cắt, tuổi trẻ thành danh.
( Lời nói này là Ngũ hành cứu giúp lẫn nhau vậy. )
11-05-16, 09:08
lesoi
Kim đa thất hỏa, tính địa hung ngoan;
Mộc thịnh vô kim, oán công danh không thành.
Thổ trọng mà không có mộc khai thông, khốn khổ bôn ba;
Thủy thịnh mà không có thổ chế phục, người phá gia dâm đãng.
Hỏa thịnh mà không có thủy cứu, là bạo phu chết mà không hối hận.
Mộc suy hỏa thịnh thành bụi bay, công danh chậm mà khó tránh chết yểu;
Kim bạch thủy thanh bị Kiêu hại, văn chương tú mà tuổi thọ không dài.
( Ở đây nói chung ngũ hành, thiên đảng không có chế hóa, đều không cát. )

Kim bạch thủy thanh, thoát Kiêu thần mà văn chương ích hiển.
( Cùng ở trƣớc nói: "Kim bạch thủy thanh, gặp trƣờng sinh mà thông minh xuất chúng" xem
lẫn nhau. )

Sát Quan lưỡng lộ, gặp Nhị Đức mà tước vị sùng cao.
( Nhị Đức, là Thiên, Nguyệt nhị đức vậy. Sát Quan lƣỡng lộ cho nên hỗn tạp, đƣợc chỗ này
giải trừ, cho nên quý. )

Tài tư Thất Sát, tử nghi ti tương cầm quyền cao.


( Trong trụ Tài vƣợng Thất Sát, Sát sinh Ấn, lại đắc địa trƣờng sinh, nhật can vƣợng, cách
cục thuần, đại quý. )

Kim Thần đới Sát, khấu đại khí chuẩn thiện Miếu đường.
( Kim Thần trọng phạm, năm tháng giờ lại gặp Thất Sát, đại quý. Kị hình xung. )

Tuế Đức phùng Tài Sát Tài căn, sớm đăng hiển sĩ; lại thêm Ấn Nhận không có đố hợp, đến
dự cao khoa.
( Cùng trƣớc đây có nói: "Tuế Đức phù Can, hỷ Tài tinh mà sợ chế phục; Ấn tinh ở vận hội
Dƣơng Nhận, mà nắm binh hình." Nghĩa là giống nhau. )

Tuế Đức phùng Tài, thiếu niên thỉnh mời; Tuế Đức đới Nhận, tuổi trẻ thành danh.
( Tuế Đức là Sát trọng, cho nên nhiều lần nói. Thỉnh mời, trẻ mà thành danh, sớm đạt cao
khoa mà đăng hiển sĩ. Lấy năm quản tuổi trẻ, là do Sát chủ uy phong vậy. Giả nhƣ ngày Giáp
thấy năm Canh gọi là Tuế Đức, trong trụ phải có Mậu Kỷ giúp Sát, Tị Dậu Sửu là Sát căn
mang Nhận, hỷ hành Ấn thụ, kị Chính Quan là thần đố hợp. )

Tháng Thất Sát mà năm giờ mang Thực, hiệu là Hiến phủ phong sương.
( Thực thần chế Sát, lý là tất nhiên vậy. )

Tháng Sát Ấn mà giờ Thương quan, nhận hậu sủng Phượng các Long lâu.
( Nguyệt lệnh có Sát, Ấn, can chi năm đƣợc chỗ này là cực diệu. Nếu giờ thấu Thƣơng quan,
là vợ của Ấn, lấy Sát chế, cho nên chủ đại quý. )
404 | Tam mệnh thông hội

Ngày Bính hỏa mà giờ nhập Hợi cung, đẹp tựa mặt trời mà văn minh tứ hải.
( Ngày Lục Bính, mà giờ đƣợc Kỷ Hợi, Hợi thuộc Can là thiên, hỏa ở trên trời, không có chỗ
nào là không chiếu sáng. Mệnh có tƣợng này, từ nhỏ đến già, vị cao đại hiển, đảm nhận nắm
binh hình. Trên phò thiên tử, dƣới thuận tứ thời, ngoại phủ tứ di. Chỗ kị hình xung, phá hại,
có cứu là cát. 《 Phú 》 nói: "Dương hỏa giờ phùng cung Hợi, văn minh quang chiếu khắp tứ
hải" là vậy. )
11-05-16, 09:10
lesoi
Can dương huỳnh mà giờ gặp Kỷ Sửu, xuất hồ địa mà chiếu diệu sơn xuyên.
( Ngày Bính gặp giờ Kỷ Sửu, là tƣợng mặt trời hiện ra trên mặt đất. Thuận mà dựa vào ở
thiên, đứa đại minh. Nhƣ an quốc khang hầu, đƣợc ban cho nhiều, mệnh gặp chỗ này, là cánh
tay đắc lực giúp nƣớc an dân. Nhƣ mệnh Diêu Lai Trạng nguyên: Mậu Thân, Mậu Ngọ, Bính
Thìn, Kỷ Sửu, là hợp cách. 《 Phú 》 lại nói: "Lục Bính giờ lâm Kỷ Sửu, mặt trời ở trên mặt
đất là cực hiển" đúng vậy. )

Giờ Tân Hợi mà ngày phùng Đinh, là giờ Tam Kỳ mà sớm được khoa danh.
( Ngày Lục Đinh thấy giờ Tân Hợi, Tân là Thiên Tài, trong Hợi có Giáp mộc Chính Ấn,
Nhâm thủy Chính Quan, gọi là Thời thƣợng Tam Kỳ. Tất chủ thiếu niên đăng khoa. Phú quý
trƣờng cửu. 《 Phú 》 lại nói: "Âm hỏa giờ Hợi, phú quý du du" là đúng vậy. )

Tháng kiến Thân mà năm giờ gặp Tý, là Khôn Khảm thuận mà tương tương khả kỳ.
( Muốn biết phú quý, trƣớc tiên xem Nguyệt lệnh, là Đề cƣơng. Tháng là Thân thuộc Khôn là
Địa, chi năm là Tý cƣ Khảm là thủy, là quẻ Địa Thủy Sƣ, thủy không ở ngoài địa, binh không
ở ngoài dân. Đƣợc tƣợng này, là đại quý. Giờ Tý cũng vậy, chi ngày Tý thì không phải. )

Giờ Ly năm Tốn ngày âm kim, thấu Giáp Ất là địa vị Tam Thai.
( Ngƣời sinh giờ Ngọ, chi năm gặp chữ Tị, ngày đƣợc Tân kim làm chủ, kim dụng cùng mộc
là Tài, Ly hỏa là Quan, tƣợng danh viết là Nội được kỳ thuận mà Ngoại được cao minh. Nhu
tiến mà đi lên, đắc trung mà ứng hồ cƣơng. Nếu Tốn cƣ nguyệt lệnh, thi không phải, nhập
cách là đại quý. )

Mộc tú hỏa minh xuân nắm lệnh, nhập tượng này đoạt khôi bảng nhãn.
( Trọng sinh ở mùa xuân. Trƣớc đây có nói nghĩa: "Hỏa minh mộc tú, phùng thổ hiện mà sớm
chiêm ngao đầu". )

Thực thần đới Nhận kết cục, mà địa vị đến Tam Công. (Là ba chức quan cao nhất thời phong
kiến gồm: Thái Sƣ, Thái Phó, Thái Bảo)
( Nhƣ ngày Giáp Thực là Bính, cần hỏa cục; ngày Kỷ Thực là Tân, cần kim cục. Chỉ đƣợc
một chữ, lại thêm có Nhận trợ giúp, là đại quý. )

Thực thần đới Nhận tọa Quan, mà huân cao nhất phẩm.
( Nhật chủ tọa dƣới Quan tinh, trong năm tháng giờ có Nhận Thực xuất hiện, là đại quý. Chỗ
sợ có Thiên Ấn xung hình, nếu hành hai vận Tài Quan, đột nhiên bỗng phát. )
11-05-16, 09:11
lesoi
Quan tinh đới Nhận, Ban Siêu vạn lý phong hầu; năm tháng được giờ, Chu Bột đặc nhiên
làm tướng.
( Cách chính tinh, dụng thần phải nắm thời. Trụ có Kiếp Nhận là Chính Quan Thê Tài, là
cƣơng nhu cứu nhau, lại đƣợc Tài tinh là quý. Quan tinh, Kiếp Nhận cùng hiện ở trên thiên
405 | Tam mệnh thông hội

can, càng quý. 《 Phú 》 lại nói: "Quan tinh đới Nhận, quý không thể nói. Năm tháng thấu
lộ, Chu Bột đặc nhiên nhập tƣớng" là đúng vậy. Đắc thời, là lấy Quan tinh thừa vƣợng mà
nói; Đới Nhận, là nói lấy can chi không câu nệ; Thấu lộ, là nói nhằm thẳng chỗ trọng vậy.
Nhận là hung sát, mang Quan Thực, đều lấy quyền quý xem. Nhƣ Lý Bang Trân Đô hiến:
Quý Dậu, Kỷ Mùi, Nhâm Tý, Canh Tý, là hợp cách. )

Tài Quan song mỹ, thấu Tài Ấn, mà tôn cư Thai Tỉnh; đến vận Tỉ kiên, thêm hình xung, quyết
ôm giữ gốc cây.
( Ngày Quý Tị, tọa hƣớng tháng 4; ngày Nhâm Ngọ, tọa hƣớng tháng Ngọ, thiên can thấu Tài
Ấn, là quý. Không hợp ở vận bắc phƣơng, lại sợ hình xung. Nên cân nhắc. )

Tài Quan sinh vượng, thiên can thấu lộ là vi kỳ, mà đến đai thắt lưng vàng.
( Tứ trụ có Tài tinh vƣợng, bất tất Chính Quan thấu, Tài tự sinh Quan, tuyệt kỳ. Hoặc Tài
Quan lƣỡng thấu, cƣ đất sinh vƣợng, đều là đại quý. )

Tài vượng sinh Quan, Ấn Nhận tương phù vi diệu, là Tam Thai Bát Tọa.
(Trong trụ có Tài tinh vƣợng đắc lệnh, lại có Ấn Kiếp phù trì, đại quý. Chớ nên tiếp hành vận
Tài tinh).

Can Thực thần ma giờ cưỡi Lộc Mã, tuổi trẻ đề vinh danh Hổ bảng.
( Ngày Canh kiến giờ Nhâm Ngọ, ngày Tân kiến giờ Quý Tị, là đúng. )

Thấu Ấn thụ mà cách được Tài Quan, tuổi trẻ đảm nhận trấn thủ biên cương.
( Tài Quan cách, cần năm và giờ thấu Ấn là vi diệu. )

Nhật can kiện vượng, mà Ấn Nhận tương phù, Cung Thắng tử tiết tận nhà Hán.
(《 Phú 》 lại nói: Sát vƣợng mà đƣợc Ấn Nhận phù trợ, Cung Thắng tử tiết ở Tây Hán, là tứ
trụ thuần Sát. Hoặc là Quan tinh tòng Sát, đƣợc Ấn Nhận thấu xuất thiên can, chính là lƣơng
thần trung tiết vậy. Trƣớc có nói Nhật can vƣợng mà Ấn Nhận thấu tƣơng phù thì thái quá,
chỗ này đƣợc xứ tốt sao? Lúc này lấy hậu là chính. Suy xét Cung Thắng, quân chỗ nhà Hán
mà có thể tử tiết, hẳn phải là do ngũ hành thái quá mà tổn thƣơng chăng?)
11-05-16, 09:12
lesoi
Quan tinh đới Nhận, còn Ấn thụ đới Sát, là Doanh Châu Huyền linh Bộ Đại Đường.Đảm
nhận Tam Công, ở Sát Nhận nắm quyền, đều gặp trường sinh, lại được Tài giúp, hàng cực
quý.
( Nhƣ Giáp dụng Canh là Sát, Ất dụng Tân là Sát, trụ có Tý Tị, thì Sát ở trƣờng sinh. Giáp
kiến Ất, Ất kiến Giáp là Nhận, trụ có Hợi Ngọ là Nhận trƣờng sinh. Lại đƣợc Tài giúp, Sát
Ấn hóa Nhận, là cực quý. )

Ti yếu xu, đứng đầu Nhung Chính, vì Kiếp đới Ấn để giúp Quan.
( Nguyệt lệnh thời thƣợng Chính Quan, cần Dƣơng Nhận giúp. Nhƣ Giáp dụng Tân là Quan,
có chữ Ất giúp Quan là đáng vậy. )

Duỗi, cong hay bị đè áp, lý oan khiên, là vì Tài sinh Sát mà trợ Ấn.
( Tứ trụ có Thất Sát trùng điệp, lại đƣợc Tài Quan trợ giúp, thì Sát đắc thế, phục sinh ở Ấn
vậy. )

Tiến nói thẳng, mà xu kim khuyết, là vì Sát Nhận lưỡng lộ ở thiên can.
406 | Tam mệnh thông hội

( Đây là Sát cách. Mà Sát Nhận cùng hiện ở trong năm tháng giờ. )

Cư Hàn Uyển mà nắm đại quyền, là Chính Quan quy Lộc ở tứ trụ.
( Quy Lộc, là Chính Quan. Nhƣ Bính dụng Quý là Quan, có chữ Tý, thì Quý cƣ Tý Lộc, sinh
ở 3 tháng mùa đông, là vi diệu. 《 Phú 》 lại nói: "Mệnh nắm ti luân, chức đến Ngọc Dường,
là do Quý Lộc mà được thanh kỳ, là vậy. )

Năm Chính Ấn mà tháng Chính Quan, đàm nhận cư ở Quốc giám Hàn Lâm.
( Chính Quan hỷ hiện ở trong Nguyệt lệnh, Chính Ấn cần lộ ở trên tuế nguyên (năm). Không
thấy thần xung khắc, đoạn văn trên là chuẩn. )

Cách thanh kỳ mà giờ đắc lệnh, xướng danh Hồng lư Ngọc điện.
( Cách cục thuần hòa không tạp, dụng thần đắc lệnh có khí, không có hình xung, phá hại, là
tạo đại quý. 《 Phú 》 lại nói: "Cách thanh cục chính, là Ngọc điện lưu truyền" vậy. )

Bình Bang quốc, Thống Lục sư, dựa Quan tinh biến thành Thiên Đức.
(Đã giải thích ở trƣớc.)

Lý âm dương, đăng Tể phụ, bởi vì Lộc Mã lại kem theo Trường sinh.
( Chính Tài, Chính Quan, đều có Trƣờng sinh. Đƣợc Nhận sinh Thực, Thực sinh Tài, Tài sinh
Quan, Quan sinh Ấn, Ấn sinh thân, hay là có chu lƣu không dừng, tất chủ đại quý. 《 Phú 》
lại nói: Tài Quan có căn, nắm quyền điều hòa điều lý. Có bang trợ, là Trƣờng sinh vậy. Tài
Quan trƣờng sinh lại có quý trƣờng sinh, là nói chỗ cƣ đất trƣờng sinh, không cần giải thích
Nhận Thực tƣơng sinh. )
11-05-16, 09:13
lesoi
Cách cục thuần hòa, mà Nhật can tự nhược, lãm tuyền thạch mà hảo u tê.
( Dụng thần tuy đắc thời, nhật chủ suy không thắng, là một ngƣời ở ẩn. Gặp vận phù thân,
cũng phát. )

Cách cục bạc nhược mà dụng thần nhỏ bé, dẫu có tư sinh, vẫn chỉ là chức nhỏ.
( Nếu nhƣ chỗ dụng thần, không đắc thời lệnh, dẫu có đƣợc chữ giúp ích, bất quá cũng là
quan nhỏ. So với cách cục thuần hòa ở trên là khác nhau. Thổ trọng mà chi thần tải dày, sợ
Nguyên Vũ mà hỷ Thanh Long)

Cách cục cẩu phùng, tất ưng đại quý.


(Nhƣ ngày Mậu Kỷ, trong trụ lại trùng chữ Mậu Kỷ, hoặc đƣợc một chữ Thân ở địa chi, là
đạo thuần nhu thuận. Phú hình có phƣơng định, đại đức hợp không có cƣơng khôn vậy. Gặp
tƣợng này, đại quý. Kị Nhâm Quý, hỷ Giáp Ất. Vận cũng giống nhƣ vậy.)

Mộc thịnh mà thổ dày phùng huỳnh, thuận đông phương mà hành Khôn địa; Trụ vận thuận
hòa, định hiển công danh.
( Thiên ở nhất khí Giáp Ất, địa chi trùng điệp Mậu Kỷ, lại đƣợc một chữ Dần Ngọ Tuất,
thuận đông phƣơng, là mộc đắc địa vậy; Hành Khôn địa, là thổ đắc vị vậy. Nhƣ vậy, thì mộc
càng thịnh mà thổ càng dày vậy. Ứng trên dƣới 49 tuổi. )

Thổ đa mà cư trên Khôn Cấn, thì thiên đạo cứu dưới mà quang minh.
( Can Mậu Kỷ cƣ ở năm tháng, giờ, địa chi lại có căn, đƣợc đề cƣơng ở Dần. Thổ là Khôn, là
Địa, Dần là Cấn, là Sơn, chỉ có ở trong mà thuận ở ngoài, nghĩa là nhún nhƣờng vậy; núi chí
407 | Tam mệnh thông hội

cao mà địa chí thấp, là khuất mà dừng ở dƣới. Chỉ tƣợng này là phú quý hanh thông. )

Nhận phùng Lộc Mã Tam Kỳ, đắc lệnh thấu Tài, là quý Công Hầu nhất phẩm. Trụ hội hai
cục thủy hỏa, lộ kim tàng thổ, là tượng Quy Xà trì Kiếm.
( Ở trƣớc có nói tƣợng "Quy Xà trì kiếm kiêm kim đao, nhi cống phục danh cao" vậy.)

Tài tinh biến Đức mà tọa Sát, Lý Tịnh kiêm văn võ toàn tài.
( Nhƣ ngày Bính Thân lấy Tân kim là Chính Tài, cần sinh ở trong tháng 4, tự tọa Thân trong
có Nhâm thủy là Sát. Kỷ Mão lấy Nhâm thủy là Chính Tài, cần sinh tháng Thân Tý Thìn, là
loại Thiên, Nguyệt nhị Đức. Cả hai đều biến thành Đức Tú, lại thêm Tài tinh biến Đức gặp
sinh vƣợng, không có Kiếp đoạt. Võ thì diệt trừ cƣờng bạo, Văn thì tạc thổ phân cỏ. 《 Phú
》 còn nói: "Tài tinh biến Đức, đăng cao trở thành cánh tay đắc lực giúp nƣớc vậy).
11-05-16, 09:14
lesoi
Sát Nhận được Ấn để giúp nhau, hiểu biết mà giúp cho triều đình.
( Sát sinh Ấn, Nhận hợp Sát, đủ là đại quý. )

Thương đới Tài Ấn, kiêm sinh vượng, mà làm rường cột.
( Nghĩa là Thƣơng quan, dụng Tài, dụng Ấn vậy. Cần Tài Ấn sinh vƣợng, mới vi diệu.)

Trụ đều hỏa thổ, phùng mộc khí mà vì nước vì dân.


( Hỏa sinh thổ là Thực Thƣơng, mộc là Ấn của hỏa, là Quan của thổ, cho nên nói vậy).

Vương Tăng khôi chúng sĩ, bởi vì Quan Ấn đới Thực lấy tương phù. Diệp Chính chiếm ngao
đầu, là nhờ Ấn tinh tự Quan mà tự lộc. Thân vượng không có Tài Quan phụ trợ, không nghệ
thuật cũng là tăng đạo. Nữ nhân phạm thuần Nhị Đức, được nhận ân sủng triều đình.

(Tôi xem bài《 Phú 》này, không ngoài Tử Bình, nhƣng nặng về Thất Sát, Dƣơng Nhận,
Thƣơng quan, Thực thần, mà Tài Quan, Ấn thụ phụ giúp cùng thủ. Thành cách, hợp cục, tác
đảng, chế hóa, biến Đức, đều lấy đại quyền đại quý, Vạn Công tai nghe mắt thấy, cho nên lấy
phép Tử Bình mà phổ biến. Vạn Công cũng là kẻ sĩ hiểu biết vậy. )
11-05-16, 19:17
lesoi
Nguyên Lý phú

(Từ Đại Thăng sáng tác - Vạn Dục Ngô giải thích)

Nguyên Nhất khí, sinh Ngũ hành, thống lĩnh Tam Tài, tất cả vạn vật. Phát Càn Khôn diệu
dụng, mấu chốt phân tách âm dương. Phát triển ở bốn phương, phân kỳ quý tiện, trong đó có
đạo bát tự. Nhất định vinh khô, là lấy hiểu rõ sinh khắc chế hóa, thanh trọc quý tiện, thọ yểu
hiền ngu.
(Chỗ này là nguyên thủy của tạo hóa. )

Kim dựa thổ sinh, thổ đa kim mai. Thổ dựa hỏa sinh. Hỏa đa thổ khét. Hỏa dựa mộc sinh,
mộc đa hỏa đốt. Mộc dựa thủy sinh, thủy đa mộc phiêu. Thủy dựa kim sinh, kim đa thủy trọc.
Kim có thể sinh thủy, thủy đa kim trầm. Thủy có thể sinh mộc, mộc thịnh thủy rút lại. Mộc có
thể sinh hỏa, hỏa đa mộc chát. Hỏa có thể sinh thổ, thổ đa mờ hỏa. Thổ có thể sinh kim, kim
đa thổ biến. Kim có thể khắc mộc, mộc kiên kim khuyết. Mộc có thể khắc thổ, thổ nặng mộc
gãy. Thổ có thể khắc thủy, thủy đa thổ lưu. Thủy có thể khắc hỏa, hỏa viêm thủy nhiệt. Hỏa
408 | Tam mệnh thông hội

có thể khắc kim, kim đa hỏa tắt. Kim suy gặp hỏa, tất thấy nung chảy. Hỏa nhược phùng
thủy, tất là dập tắt Thủy nhược gặp thổ, tất là bế tắc. Thổ suy gặp mộc, tất gặp khuynh hãm.
Mộc nhược phùng kim, tất là bị chặt gãy.
(Bên trên là thái quá cùng bất cập, đều có hại. Nhƣ ngũ hành tứ trụ thấy chỗ này, phải có
trung hòa vậy. )

Cường kim đắc thủy, phương giảm sắc bén. Cường thủy đắc mộc, phương tiết khí thế. Cường
mộc đắc hỏa, phương hóa ngu đần. Cường hỏa đắc thổ, phương ngọn lửa dừng. Cường thổ
đắc kim, phương chế kỳ hại.
(Bên trên là nói ngũ hành khắc chế, phải đƣợc trung hòa, còn thái quá hay bất cập, sẽ biến đổi
vậy. )

Lý quán nhân hòa hay là ở kỳ ẩn tàng, khảo sát kỳ hiển lộ vậy. Kỳ là thể vậy, thâm khắc có
thể biến thông. Nghiên cứu nguyên kỳ tinh vi thì kỳ là dụng vậy. Luận kỳ khinh trọng, vốn có
vốn không, hợp đến lẽ trời, cát hung động tĩnh. Phân định cuộc đời, xấu tốt tròn khuyết.
(Bên trên là thông luận can chi, âm dƣơng trong sinh khắc chế hóa, thể ẩn dụng hiển, khinh
trọng hữu vô, mà cát hung động tĩnh, không ở chỗ tròn hay khuyết, đều sinh từ chỗ này vậy.
Hay là ở chỗ biết biến thông, nguyên cứu tỉ mĩ, từ hiển mà ẩn, nên để ý chỗ này, sẽ nói rõ ở
phía dƣới. )

Sát không có Nhận không có uy, Nhận không có Sát không hiển.
(Sát là vật khắc Ta, Nhận là Kiếp của Ta, trong mệnh là tối hung. Nói lấy Sát Nhận, là biết
chỗ trọng yếu vậy. 《 Phú 》 nói: Nhận là binh khí, không có Sát khó bảo tồn. Sát là quân
lệnh, không có Nhận thì không tuân theo. Nhận Sát cùng hiển, uy trấn Càn Khôn là vậy. Từ
Đại Thăng lấy căn cứ ở hai chƣơng 《 Hỉ Kỵ 》(Kế Thiện 》, nhân mệnh không đủ để hết
tận. Cho nên lại soạn ra bài phú này, là để bổ túc cái chƣa đủ vậy. )
11-05-16, 19:19
lesoi
Sát Nhận song hiển quân đình, địa vị đến Vương Hầu. Nhận Sát khinh trọng, không có chế
thân là quan nhỏ.
(Nói Sát Nhận ngang nhau, là cực quý. Không cân bằng nhau, là cực tiện. Nhận Sát ngang
nhau hay không, mà quý tiện lẫn nhau là nhƣ vậy. )

Cả đời phú mà còn quý, là Sát trọng Thân nhu. Nửa đường bỗng chết hoặc nguy, vận phù can
vượng.
(Sát Nhận đã không bằng nhau, không bằng Tòng Sát. Có tòng, tất là Sát trọng thân nhu, sau
đó có thể tòng. Nếu không, thì không thể tòng vậy. Đã Tòng Sát, chỉ lấy Sát luận, không thể
lại gặp thân vƣợng đối địch nhau, đối địch thì lại sinh họa mà thôi. )

Chỗ thân thủ tăng đạo, dụng Sát lại khinh. Chức bị gián trừ, Thiên Quan đắc địa.
(Thất Sát là Cực tinh, lại còn là Cô tinh. Thân Sát lƣỡng cƣờng, Thất Sát có chế, thân nhƣợc
tòng Sát, thì đều quý. Sát nhiều là can gián quan. Nếu thân vƣợng Sát khinh, thêm nhập thanh
kỳ, tất thủ làm tăng đạo mà thôi. )

Sao biết đại quý, dụng Tài mà không dụng Quan. Nắm quyền, là dụng Sát mà không dụng Ấn.
Ấn dựa vào Sát sinh, Quan nhờ Tài vượng.
(Dụng Tài không dụng Quan, là Tài sinh Quan vậy. Dụng Sát không dụng Ấn, là Sát sinh Ấn
vậy. Cho nên nói Ấn dựa Sát sinh, Quan nhờ Tài vƣợng, không phải là không dụng Ấn dụng
Quan, mà chuyên dụng Tài Sát. Là Quan Ấn ở trong đó vậy. Ấn dựa vào hai câu, vốn là nối
409 | Tam mệnh thông hội

tiếp 4 câu ở trên, tự sáng chế. )

Ngũ hành tiêu tức, có thể biết nguyên lý; hiểu rõ tứ trụ, có thể thấy dụng thần. Thực cư trước,
Sát cư sau, công danh lưỡng toàn. Dậu phá Mão, Mão phá Ngọ, Tài Quan song mỹ.
(Bát tự con ngƣời, hoàn toàn xem vào dụng thần. Nhƣ ở trên dụng Sát, dụng Nhận, dụng Tài,
mà không dụng Quan, dụng Ấn, là lý lẽ rất sâu xa, là thông tin ở con ngƣời mà thôi. Luận Sát
nên mời Nhận, không có Nhận thì cần có chế, Sát cƣờng có chế, đều là phƣơng luận. Sát chủ
danh, Thực chủ lợi, cho nên viết là Công danh lƣỡng toàn. Dậu phá Mão, Mão phá Ngọ, cũng
là ý Thực trƣớc Sát sau. Dậu lấy Mão là Tài, Ngọ là Sát. Tài Sát đều có, cho nên là Tài Quan
song mỹ. Chỗ Sát lấy phá nhau, là lấy tƣơng khắc vậy, tất là tứ chính phá nhau. )

Hưởng phúc, ngũ hành quy lộc; mi thọ, bát tự tương đình.
(Nói ra chỗ này ở trong mệnh là rất trọng yếu. Muốn quy lộc, muốn tƣơng đình, không thể
cùng bè đảng thiên về tử tuyệt. Hƣởng phúc thuộc quy lộc, mi thọ thuộc tƣơng đình, nghĩa
đều có chỗ lấy vậy. )

Hối hỏa vô quang ở Giá Sắc, đạo mộc đa khốn ở Bính Đinh.
(Chỗ này trở xuống, chính là nói không quy lộc, không tƣơng đình, cho nên không đƣợc
hƣởng phúc, thọ. Thổ yểm hỏa quang, thổ dựa mộc làm khai thông, mộc vốn sinh hỏa. Hỏa
nhiều thì trái lại cƣớp khí, gặp không trung hòa. )

Hỏa hư hữu diễm.


(Hỏa sợ mờ tối, hƣ thì có ngọn lửa không mờ. )
11-05-16, 19:21
lesoi
Kim thực vô thanh.
(Kim cần hỏa, không có hỏa luyện thì không thành khí. Thực, làm sao mà phát thanh? )
Thủy phiếm mộc phù là Hoạt mộc, Thổ trọng kim mai là Dƣơng kim. Thủy thịnh thì nguy,
hỏa minh thì diệt.
(Chổ này lại nói tỉ mĩ về ngũ hành không cân bằng, mà có gặp khác âm dƣơng. Ngũ hành
không thể thái quá, nhƣ thủy phiếm thì mộc phù, ở Ất mộc thì sợ, còn Giáp mộc thì không.
Thổ trọng kim mai, ở Canh kim thì sợ, Tân kim thì không. Lấy Ất mộc tử ở Hợi, Giáp mộc
sinh ở Hợi. Canh kim là kim xuất thổ, cho nên sinh ở Tị. Tân kim là kim mang thủy, cho nên
sinh ở Tý. Thủy thịnh thì phiếm lạm, cho nên nguy. Hỏa minh thì hết căn, cho nên tắt. )

Dương kim đắc luyện thái quá, biến cách bôn ba. Âm mộc quy viên thất lệnh, cuối cùng là
thân nhược.
(Kim thực không thanh, luyện quá thì biến cách; Quy Lộc hƣởng phúc, thất lệnh thân nhƣợc,
cần phải trung hòa. Dƣơng kim, thổ trọng thì chôn vùi, sợ nung luyện quá đáng, là không có
thổ vậy. Âm mộc, thất lệnh là suy nhƣợc, cho dù là quy viên, cũng tổn thọ vậy. Chỗ này nói
câu trên Hoạt mộc, còn nói dƣơng kim, lại không thể không có thủy thổ sinh dƣỡng vậy. )

Thổ hậu mà che lửa không phát sáng, thủy thịnh thì mộc phiêu vô định.
(Ngũ hành bất khả thái thịnh, bát tự cần phải trung hòa. Thổ hậu, tức ý là làm mờ ánh sáng
ngọn lửa; thủy thịnh, tức là nói thủy phiếm mộc phù. Hai câu ngũ hành, cho nên đã tổng kết,
đều quy về chỗ trung hòa mà thôi. )

Thổ ngăn thủy chảy toàn phúc thọ, thủy không thổ ngăn tất thương tàn.
(Dƣới đây nói ngũ hành mất trung hòa, mà ngũ hành có cứu, cũng lấy cát luận; không có cứu
trợ thì hung. Nhƣ thủy chảy mà có thổ ngăn, thì lộc thọ lƣỡng toàn. Còn lại cứ suy ra từ chỗ
410 | Tam mệnh thông hội

này. )

Mộc thịnh nhiều Nhân, thổ bạc ít Tín.


(Thủy vƣợng cƣ viên phải có Trí, kim Kiên chủ Nghĩa lại có tài. Kim thủy thông minh mà
háo sắc, thủy thổ hỗn tạp tất đa ngu. Chỗ này nói tính khí ngũ hành thái quá, giữa cũng đều
có chỗ thịnh, thiên lệch là hại vậy. Ngũ hành phân chia bốn mùa, ngũ thƣờng phối với ngũ
hành, là lý tự nhiên vậy. Hoặc thịnh, hoặc suy, hoặc vƣợng, hoặc nhiều, hoặc hỗn tạp. Còn
Nhân Nghĩa Trí Tín, thông minh ngu dốt, cũng đều theo nhƣ vậy mà thôi. )

Sống thọ được ở trung hòa, yểu thọ tang ma ở thiên khô.
(Chỗ này nói nhân mệnh phải chịu trung hòa, tức là nghĩa trƣớc đã nói bát tự đình quân mi
thọ. Nếu thái quá bất cập, mất ở thiên khô, làm sao mà hƣởng thọ chứ? )

Thìn Tuất khắc chế cùng xung, tất phạm hình danh. Tý Mão tương hình môn hộ, hoàn toàn
không có lễ đức.
(Từ đây trở xuống bắt đầu nói đến địa chi tƣơng xung, tƣơng hình. Thìn Tuất là Khôi Cƣơng
cùng xung, tất phải hung; Tý Mão là mẫu tử tƣơng hình, tất loạn. Xung hình là rất quan trọng.
Còn lại đều nhẹ. Dần Thân Tị Hợi là cục Tứ Sinh, dẫu có khắc chế, hình xung cũng không có
hại lớn. )
11-05-16, 19:22
lesoi
Bỏ Ấn tựu Tài phân Thiên Chính.
(Là nói trƣớc đây, đại quý, là dụng Tài mà không dụng Ấn. Tài có Thiên Chính, Ấn cũng có
Thiên Chính. Chính Ấn thấy Tài là có họa, Thiên Tài thấy Ấn thì không ngại. Chính Tài
không thích thấy Ấn, Thiên Tài không kỵ thấy Ấn. Lý lẽ đều giống nhau vậy. )

Bỏ can Tòng Sát luận cương nhu.


(Trƣớc có nói, nắm quyền, là dụng Sát mà không dụng Ấn. Sát có cƣơng nhu, bỏ thiên can
mà theo địa chi. Dƣơng cƣơng âm nhu, kim thủy thổ có thể tòng, còn mộc hỏa thì không thể
tòng. Rõ lý lẽ có thể tòng hoặc không thể tòng, thì sau đó biết Ấn có thể dụng hay không thể
dụng vậy. )
Thương quan không Tài có thể dựa, tuy xảo tất bần. Thực thần chế Sát phùng Kiêu, khôg bần
thì yểu.
(Thƣơng quan, Thực thần là đồng loại, Thƣơng quan thì bác quan, trong mệnh là tối kỵ. Có
Tài cũng tốt, là do lấy Thƣơng sinh Tài, Tài sinh Quan vậy. Vô thời thì lấy bần đoán. Thực
thần chế Sát, trong mệnh rất sợ phùng Kiêu, lấy Kiêu đoạt Thực, Sát không có chế thì khắc
thân cho nên yểu. )

Nam đa Dương Nhận tất trọng hôn, nữ phạm Thương quan nên tái giá.
(Dƣơng Nhận phùng Sát tƣơng đình, chò nên là chủ quý, nhiều thì thƣơng khắc vợ. Nam lấy
Tài làm vợ, Nhận là khắc chế, cho nên nói trọng hôn. Thƣơng quan có Tài có thể dựa vào,
cho nên là chủ quý, nữ thì thƣơng hại chồng. Nữ lấy Quan làm chồng, Thƣơng là khắc chế,
cho nên nói tái giá. )

Bần tiện, đều bởi vì xứ Quan gặp Thương. Cô quả, là bởi vì Tài thần bị Kiếp.
(Quan là Lộc, có Lộc sao lo bần tiện? Thân vƣợng đƣợc quan bé, lại hành vận Thƣơng quan,
gọi là Bối Lộc thì không có Quan vậy. Bình an không bần tiện? Tài là vợ, có vợ sao lo cô
độc? Tài ít gặp thân vƣợng, lại hành vận Kiếp Tài, gọi là Bại Mã, thì không có vợ, nên sẽ cô
quả. Tài Quan, trong nhân mệnh là tối trọng yếu vậy! )
411 | Tam mệnh thông hội

Tài lâm vượng địa nhân đa phúc, Quan ngộ trường sinh mệnh tất vinh.
(Trƣớc có nói, Thực Thƣơng sinh Tài là vƣợng, ở đây thì nói thẳng Tài lâm vƣợng địa. Nhƣ
Giáp dụng Mậu Kỷ là Tài, cƣ đất Tị Ngọ là vƣợng. Trƣớc có nói Tài vƣợng sinh Quan, ở đây
thì nói thẳng Quan ngộ Trƣờng sinh. Nhƣ Giáp dụng Canh Tân là Quan, cƣ đất Tị Tý là
trƣờng sinh. Cả hai tất phải cần thân vƣợng, mới là có phúc vinh quý. )

Khử Sát lưu Quan mới luận phúc, khử Quan lưu Sát không là hèn.
(Nhân mệnh rất sợ Quan Sát hỗn tạp, dụng Quan chỉ dụng Quan, dụng Sát chỉ dụng Sát. Cho
nên có khử lƣu, mới có thể nói quý. Nhƣ Thƣơng quan, Dƣơng Nhận, nhân mệnh gặp nhiều
là không cát. Dụng khử Quan lƣu Sát, khử Sát lƣu Quan, đều lấy phúc luận. )
11-05-16, 19:24
lesoi
Sao biết gặp Chính Quan, lại hết bổng lộc. Phùng Thất Sát, lại có thanh danh.
(Chính Quan Thất Sát, là phân ra quân tử tiểu nhân vậy. Quân tử sao không bằng tiểu nhân?
Chính Quan tuy đƣợc thuần túy, Thất Sát một khi có chế phục, liền phát quý có thanh danh.
Nếu Chính Quan thuần túy, phát phúc lâu bền, sao so với Thất Sát? Chỗ này là nói thiên
trọng vậy. )

Phùng Thương quan mà lại thấy chồng, là Tài mệnh có khí. Gặp Kiêu thần mà tang con,
phúc khí không có chỗ dựa.
(Nữ mệnh rất sợ Thƣơng quan, có thì hại chồng, lý cũng dễ hiểu. Trong có Thƣơng mà lại
thấy chồng, chính là Tài mệnh có khí, bởi vì Thƣơng quan sinh Tài, Tài sinh Quan tinh, là
chồng vậy. Nữ mệnh lấy Thực thần làm con, gặp Kiêu đoạt Thực, tuy sinh con mà không tồn
tại. Nữ dựa vào con mà lấy phúc, đã không có con, thì làm sao mà nói có phúc? Nữ mệnh
xem trọng hai sao Phu và Tử tinh, cho nên nói là Thƣơng quan, Thực thần làm con. )

Thiên can Sát hiển, không có chế là tiện. Địa chi ẩn Tài, là ám sinh.
(Nhân mệnh lấy Sát làm trọng, trƣớc đây có nói chuyên lấy Sát, phải hợp với Nhận, phải có
Thực chế, phải tòng Sát. Nhƣ không có hợp, không chế, không tòng, thiên can hiển lộ Sát thì
thành ra vô tình, cho nên là bần tiện. Nhân mệnh lấy Tài là phúc, trƣớc có nói chuyên về Tài,
cần có Thƣơng sinh, cần xung phá, cần có Thực vƣợng. Nhƣng Tài không thích lộ mà cần
phải tàng ở trong địa chi, có ám vật để sinh, thì chủ phong hậu, cho nên là rất đặc biệt. )

Ba Tuất xung Thìn họa không nhẹ.


(Khôi Cƣơng rất sợ tƣơng xung, là không cát. Nếu khố Tài Quan là cùng chỗ, thì không kỵ.
Nhƣ 3 Tuất 1 Thìn, nhật chủ là Giáp Thìn là tham tài mà sinh họa, lấy Địa Võng xung Thiên
La, cho nên nói kỵ. )

Lưỡng Can bất tạp lợi danh tề.


(Lƣỡng can khó mà không tạp, cho nên chủ lợi danh đều có, nhƣng không thể liền nói quý.
Hoặc là Tài Sát, hoặc là Quan Ấn, hoặc là Sát Nhận, hoặc là ngũ hành thành tƣợng, thêm
nhập cách cục, mới lấy quý luận. )

Bính Tý Tân Mão tương hình, hoang dâm cổn lãng.


(Bính Tân hợp, Tý Mão hình, là can hợp chi hình. Bính Tân tƣợng thủy, Tý Mão tƣợng vô lễ.
Cho nên chủ hoang dâm cổn lãng, nên nói là cực dâm vậy. Nữ mệnh càng kỵ. )

Tý Ngọ Mão Dậu toàn bị, hôn mê tửu sắc.


(Ở trên nói Tý Mão, ở đây cùng luận Ngọ Dậu, là cục Tứ Bại, gọi là Biến Dã Đào hoa Sát. Tứ
trụ có đủ là nhiều quý, nhƣng chủ hôn mê tửu sắc. Nữ mệnh càng kỵ. )
412 | Tam mệnh thông hội

11-05-16, 19:25
lesoi
Vì Tài rước họa, tham thực mang tật. Cháu nam làm con cháu, nghĩa nữ làm vợ.
(Ở trên có nói Tài cần phải phục tàng mới tốt, nhƣng Tài là chỗ nhiều tranh đoạt, cho nên có
Dƣơng Nhận Kiếp Tài, sẽ vì tài mà rƣớc họa, thấy Tài không thể chuyên nhất vậy. Đoạn trên
nói Thực thần chế Sát là rất hay, nhƣng mà Thực là chỗ ngƣời tham lam, cho nên có Kiêu
thần đoạt Thực, thì ngƣời do ham ăn mà sinh bệnh tật, là thấy miếng ăn không thể chia vậy.
Nam lấy Quan Sát làm con, nhƣ Dƣơng Nhận Kiếp tài Quan Sát là đối phƣơng dụng, là anh
em có con còn ta thì không có con, cho nên lấy cháu nam làm dụng. Lấy Thiên Chính Tài làm
vợ, nhƣ trong trụ không có Tài chính vị, mà sống nhờ cung khác, là cƣới chỗ con gái nuôi
ngƣời khác, cho nên lấy nghĩa nữ làm vợ. )

Ngày giờ tương xung Mão Dậu, mới sinh tất chỗ di dời. Tạo hóa vì gặp Tuất Hợi, cả đời chỉ
kính tin thần thánh.
(Chỗ này lại đƣa ra Mão Dậu ở trong địa chi, cửa ra vào của Nhật Nguyệt, nếu ngày giờ gặp,
chủ di dời bất định. Tuất Hợi là Thiên Môn, Nhật Nguyệt di chuyển, phần đa là chỉ kính tin
thần thánh, hoặc là tăng đạo vậy. )

Âm khắc âm, dương khắc dương, tài thần hữu dụng. Quan vô quan, quỷ vô quỷ, thái vượng
khuynh nguy.
(Nhân mệnh lấy Tài Quan làm trọng, cho nên lại đƣa ra nói. Ngƣời đều biết Chính Tài là
dụng, mà không biết âm có thể khắc âm, dƣơng có thể khắc dƣơng. Thiên Tài thắng hơn
Chính Tài, tạo hóa lại là đắc dụng. Quan không thể không có, Quan nhiều lại thành không
quan, là không cát. Sát không thể có, Sát nhiều phải theo quỷ, trái lại không là hại. Đều là vì
thái vƣợng, thân suy không thể đối địch, là đạo khuynh nguy vậy. )

Đắc cục thất viên, bình sinh bất toại. Quy viên đắc cục, tuổi trẻ hiên ngang.
(Đắc cục, là tam hợp cục vậy. Quy viên, là can quy lộc vậy. Chỗ này nói, nhân mệnh phải
thành cục sinh vƣợng, là xu thế phúc. Nếu đắc cục thất viên, tuy là thiên can loại tƣợng mà
địa chi tam hợp, lại là đất nhật can hƣu tù tử tuyệt, cả đời cũng không thành. Nếu đắc cục, lại
còn quy viên, nhƣ ngũ tinh thăng điện nhập viên, là vị trí đắc địa đắc thời vậy. Quyết là tuổi
trẻ phát phúc. Các cách Khúc Trực Nhuận Hạ, gọi là Đắc cục Quy viên. )

Mệnh gặp Kiêu thần, mà cùng kinh doanh giàu có. Long tàng Hợi Mão, kinh thương lợi lộ
nhung tơ. Tài Quan đều bại là tử, Thực thần phùng Kiêu là hung.
(Kiêu thần vốn là ghê tởm, tiểu nhân đƣợc hữu dụng, gọi là cùng kinh doanh giàu có. Nhƣ
Giáp dụng Bính hỏa là Thực, Bính có thể sinh Mậu thổ là Tài của Giáp, Nhâm thủy lại là
Kiêu thần của Giáp mộc, bị Mậu ép buộc, Bính hỏa dựa vào Giáp mộc, đổi lại tƣơng sinh,
cho nên là đạo Chủ Khách vậy. Cũng tự có làm thƣơng nhân kinh doanh, gọi là Long tàng
Hợi Mão. Dần là Thanh Long, Tị là Thái Thƣờng, Hợi Mão Mùi mộc cục. Bát tự Long tàng
Hợi Mão Mùi là dụng thần hoặc là dụng Tài, đều chủ lợi về kinh thƣơng tơ tằm. Tài Quan là
Lộc Mã, là khẩn yếu nhất của con ngƣời. Nếu đều ở đất bại tuyệt, hoặc hành vận lại đến bại
tuyệt, dụng thần tổn khí, sao yên mà không chết? Thực thần, là Tƣớc tinh con ngƣời, sinh Tài
chế Sát, là khẩn yếu ở trong mệnh. Phùng Kiêu đoạt Thực, Sát không có chỗ chế, Tài không
có chỗ sinh, sao yên mà không hung? )
11-05-16, 19:26
lesoi
Mệnh gặp Đinh Tị Cô Loan, thông minh thi nữ; ngày phạm lỏa hình mộc dục, là trọc lạm
hoang dâm.
(Chỗ này luận nữ mệnh, nam cũng nhƣ vậy. Cô Loan là các ngày Giáp Dần, Đinh Tị, Mậu
413 | Tam mệnh thông hội

Thân, Tân Hợi, tọa đất Tứ Sinh cho nên đa số là thông minh. Lỏa hình mộc dục, tức là đất Tứ
Bại Tý Ngọ Mão Dậu vậy. Tháng giờ phạm không ngại, chỉ sợ nhật can tự tọa. Nhƣ các ngày
Giáp Tý, Canh Ngọ, Đinh Mão, Quý Dậu. Thân tọa Đào Hoa sát, lại gặp kèm theo hợp, cho
nên là Trọc lạm Hoang dâm. )

Đinh phùng ngày Mão gặp Kỷ thổ, là người tham ăn. Hợi là Tướng thần gặp Dậu kim, là
Khách tửu thực.
(Can Đinh sinh Mão mộc là Kiêu, nếu gặp Kỷ là Thực, cho nên là tham thực, hoặc vì tham ăn
sinh bệnh họa. Hợi là Đăng Minh, Dậu thêm thủy là Tửu, ngƣời sinh ngày Dậu gặp Hợi, tất
chủ thích uống rƣợu. Lại mang hình xung, chủ lạc phách hoặc chết vì rƣợu. )

Quy lộc đắc tài nhi hoạch phúc, vô tài quy lộc tất tu bần.
(Thân vƣợng Quy lộc, cho nên dụng Tài, không có Tài mà chuyên lộc, Quy lộc là vô dụng.
Đƣợc Thƣơng quan, Thực thần sinh tháng Tài, là cát. Lại sợ thấy Quan Sát, là cƣớp khí Tài. )

Tài Ấn hỗn tạp, cuối cùng thụ khốn; Thiên Chính thác loạn, tất dẫn đến tổn thương thân.
(Tham Tài phôi Ấn, cho nên kỵ hỗn tạp. Nếu Tài trƣớc Ấn sau, trái lại là thành phúc, không
luận chỗ này. Quan Nhận hỗn tạp, có khử lƣu, cũng cát. Nếu thác loạn, thì tổn thƣơng thân
thành hung. Nữ có Thiên Chính thác loạn, thì rất không cát. Chọn vợ cần phải biết chỗ này.
Hoặc viết: Thiên Chính, là Thiên Chính Tài, nói Thiên Chính Ấn, chỉ ở thƣơng thân khó
thông. )

Thái tuế kỵ phùng chiến đấu, Dương Nhận không hỉ hình xung.
(Chỗ này luận nhật can cùng Tuế quân tƣơng phạm họa phúc. Nếu ngày phạm Tuế quân, lấy
tuế là dụng thần thì không có lỗi. Nhƣ ngày Lục Nhâm, lấy Bính Đinh là Tài, trong trụ vốn có
căn, tuy phạm Thái tuế, nhƣng lại là cát. Thân vƣợng là hung, nhƣợc thì không ngại. Ngày
cùng vận đều phạm, phƣơng chủ đại hung. Ngũ hành có cứu, cũng giảm nửa phần. Rất sợ
thiên xung địa kích, nên xét tính tình âm dƣơng, chân lý nguyên vật. Ví nhƣ ngƣời Lục Ất,
tuế vận thấu Kỷ, Hoạt mộc khắc Hoạt thổ, lại có sinh ý, tài nguyên có gấp bội. Ngƣời sinh
Lục Giáp, phùng tuế vận Mậu thổ, là Tử mộc khắc Tử thổ, thì không cát, nặng thì tang thân.
Dƣơng Nhận cách, không hỉ tuế vận hình xung, không thể phạm tiểu nhân. Nhƣ bát tự đã có
Dƣơng Nhận, nhiều Sát chế phục, hành tuế vận Dƣơng Nhận, cũng hung. Gốc có Tài, càng
nặng. Kèm theo Thƣơng xung hình chiến đấu, chủ họa xảy ra bất trắc. 《 Kinh 》 nói: Dƣơng
Nhận xung hợp Tuế quân, bột sát gây họa, là vậy. Độc cử chiến đấu Thái tuế, độc cử hình
xung Dƣơng Nhận, là lời nói chỉ ra tối trọng vậy. )

Canh phùng Bính nhiễu, đa hữu bất nhân. Quý tòng Mậu hợp, già trẻ vô tình.
(Chỗ này nói tính tình con ngƣời, lòng ngƣời. Kim hỏa tƣơng hình, cho nên có bệnh này, mà
còn chủ ngƣời cƣơng bạo. Quý là Thiếu âm, Mậu là Lão dƣơng, Quý Mậu tuy hợp hóa là hợp
vô tình, cho nên nói đến già trẻ. Nam mệnh có ngày Mậu thấy Quý, nên cƣới vợ thiếu niên.
Nữ có ngày Quý thấy Mậu, tất lấy chồng già. )
11-05-16, 19:27
lesoi
Không tòng không hóa, làm quan trì trệ. Đắc hóa đắc tòng, làm quan hiển đạt công danh.
(Không thông khí tháng, giờ không co chỗ quay về, lại phạm Cô Thần, là không tòng không
hóa vậy. Nếu thông khí tháng, giờ có chỗ về, thì lấy tòng hóa luận. Phu vƣợng, tòng phu hóa,
thê vƣợng, tòng thê hóa. Hành tàng con ngƣời không chỉ khởi một chuyện mà lập, cả đời
không đổi, cho nên thành cách tòng hóa thì có đủ phú quý vậy. Trƣớc luận tòng hóa, sau luận
Tài Quan. Tòng, lấy thiên can tòng địa chi, nhƣ ngày Ất sinh tháng 8, địa chi trọng kim, thì là
lấy kim luận vậy. )
414 | Tam mệnh thông hội

Hóa hành lộc vượng là Sinh, hóa quy lộc tuyệt là Tử.
(Chỗ này nói đến Đắc hóa, Đắc tòng, phải đƣợc lộc vƣợng, không nên tử tuyệt. Bởi vì tạo hóa
hóa thành, bản cục hành lộc vƣợng. Nhƣ Đinh Nhâm hóa mộc, nguyệt lệnh là mùa xuân, hoặc
phƣơng vận đông nam là Sinh. Hành đất kim, hoặc giờ gặp đất Thân Dậu, là Tử. )

Sinh địa tương phùng, tráng niên bất lộc. Thời quy bại địa, lão hậu vô chung.
(Sinh địa tƣơng phùng, là mệnh có lấy trƣờng sinh, lâm quan, lại gặp ở hành vận. Nhƣ Canh
Tân lâm quan, đế vƣợng ở Thân Dậu, dụng Bính Đinh là Quan, dụng Giáp Ất là Tài. Hỏa đến
vận Thân Dậu, là bệnh tử, là Canh Tân không có quan vậy. Mộc đến vận Thân Dậu, là tử
tuyệt, là Canh Tân không có Tài vậy. Tài Quan đều bại, dụng thần phá thƣơng, dù thanh niên
cũng mất lộc. Giờ là kết quả, Giờ ngƣời sinh, tuyệt đối không thể sinh ở đất ngũ hành bại địa.
Kim bại ở Ngọ, mộc bại ở Tý, thủy thổ bại ở Dậu, hỏa bại ở Mão. Giờ là cuối đời, nếu ở đất
bại địa, chủ về già trì trệ, phá bại không có kết quả. )

Đinh tọa Dậu kim, gặp Bính Tân là tuyệt tự; Tài lâm Sát vị, cha chết không quay về nhà.
(Bính dụng Nhâm làm con, Nhâm bại ở Dậu, Tân dụng Bính là con, mà tử ở Dậu. Giờ là Tử
tức cung, vừa bại còn tử, sao hữu dụng chứ? Nhƣ hữu dụng, thì cha tất mất lộc. Nhân mệnh
lấy Tài làm cha, Tài Sát cùng Quan, thì làm khó cha. Nhƣ Canh Tân dụng Giáp là cha, năm
tháng giờ thấy Giáp Thân, tọa Sát cung, tuế vận Sát vƣợng, chủ cha chết tha hƣơng. Hoặc nói
Sát, Kiếp sát. Tài tọa Kiếp Sát thêm chỗ của cha,《 Phú 》 nghĩa chuẩn cũng thông. )

Bát tự can chi đồng loại, tuế vận hội Sát đa hung.
(Can chi đồng loại, nhƣ là Giáp Dần, Ất Mão, Bính Ngọ, Đinh Mùi, Canh Thân, Tân Dậu,
Nhâm Tý, Quý Sửu, Mậu Ngọ, Kỷ Mùi, Mậu Tuất, Kỷ Sửu vậy. Hành vận hội Sát, tất chủ
mất lộc. Là lấy cƣờng, cùng Sát tƣơng tranh, là do Sát cạnh tranh khắc thân vậy. )

Nếu có thể nhìn kĩ nói chơi, quý tiện vạn lần không mất một.
(Tôi thấy chú thích xƣa, phân tích rách nát, có mất ý nghĩa của《 Phú 》. Cho nên sơ lƣợc
chú thích ở dƣới, để rõ ý nói của tác giả. )
12-05-16, 10:53
lesoi
Nguyên Cơ phú

Thái Cực phán thành thiên địa, nhất khí phân chia âm dương.
Nhật can là chủ, chuyên luận Tài Quan. Chi tháng thủ cách, là phân quý tiện. Có cách không
chính là bại, không có cách có dụng là thành. Có Quan chớ tìm cách cục, hcó cách không
thích Quan tinh. Quan Ấn Tài Thực, không phá thì cao thanh. Sát Thƣơng Kiêu Nhận, dụng
là tối cát. Thiện Ác tƣơng giao, hỉ khử ác mà sùng thiện. Cát hung hỗn tạp, kỵ hại cát mà
hƣớng hung. Có Quan có Sát, cần thân vƣợng chế Sát là diệu kỳ. Có Sát có Ấn, sợ Tài hƣng
trợ Sát làm họa. Thân cƣờng Sát thiển, vận Sát không ngại. Sát trọng thân khinh, đất có chế là
phúc. Thân vƣợng Ấn nhiều, hỉ hành Tài địa. Tài đa thân nhƣợc, sợ nhập Tài hƣơng. Nam
phùng Tỉ Kiếp Thƣơng quan, khắc thê hại tử. Nữ phạm Thƣơng quan Thiên Ấn, tang tử hình
phu. Nhỏ mất song thân, vì Tài tinh thái trọng. Là ngƣời cô khắc, thân vƣợng vô y. Năm xung
nguyệt lệnh, ly tổ thành gia. Ngày bị Đề xung, là lấy vợ kế. Ngày giờ đối xung, thƣơng thê
khắc tử. Ngày thông khí tháng, đƣợc tổ an thân. Là lấy: Mộc quy Xuân trƣờng gặp Canh Tân,
trái lại thành quyền. Hỏa cƣ mùa hạ thấy Nhâm Quý, có là phúc hậu. Thổ phùng Thìn Tuất
Sửu Mùi, mộc trọng thành danh. Kim sinh Thân Dậu Tị Sửu, đất hỏa phát phúc. Thủy cƣ Hợi
415 | Tam mệnh thông hội

Tý, Mậu Kỷ khó xâm. Thân tọa hƣu tù, cả đời vô cứu. Thân vƣợng hỉ hành Lộc Mã, thân
nhƣợc kỵ thấy Tài Quan. Đắc thời đều lấy vƣợng luận, thất lệnh lại lấy suy xem. Tứ trụ vô
căn, đắc thời là vƣợng. Nhật can vô khí, gặp Kiếp là cƣờng.

Thân nhược hỉ Ấn, chủ vượng cần Quan.


Giáp Ất sinh thu kim thấu lộ, thủy mộc hỏa vận vinh xƣơng. Bính Đinh đông giáng thủy chảy
tràn, hỏa thổ mộc phƣơng quý hiển. Mậu Kỷ sinh xuân, tây nam phƣơng có cứu. Canh Tân
sinh mùa hạ, thủy thổ vận không ngại. Nhâm Quý phùng ở thổ vƣợng, gặp vận kim mộc là
vinh.

Thân nhược có Ấn, Sát vượng không ngại.


Thân cƣờng Sát thiển, dụng Tài cũng đƣợc. Thân cƣờng dụng Tài nên có Sát, thân nhƣợc
dụng Ấn nên khử Tài. Thƣơng quan thân nhƣợc không có Ấn, chỗ dựa ở đâu? Thân vƣợng vô
Tài, làm sao phát phúc? Thân vƣợng là dụng Tài, thân nhƣợc là dụng Ấn. Dụng Tài khử Ấn,
dụng Ấn khử Tài, mới là phát phúc. Chính là chỗ nói Hỉ là tồn, Tăng là khử vậy.

Tài đa thân nhược, vận thân vượng là lấy vinh.


Thân vƣợng Tài suy, đất Tài vƣợng mà phát phúc. Trọng phạm Quan tinh, chỉ nên chế phục.
Thực thần trùng điệp, phải kỵ đất Quan. Ngu kim không hỏa, đại dụng bất thành. Cƣờng mộc
không kim, thanh danh khó lấy. Mộc đa gặp thổ Tài bạch dày. Hỏa diễm phùng thủy Quan
tƣớc vinh. Có Quan có Ấn, không phá là vinh. Không Ấn không Quan, có cách thủ quý.
Dƣơng Nhận không sợ Thiên Quan, Kim Thần rất cần chế phục. Tạp khí Tài Quan, hình xung
thì phát. Quan Tài thái thịnh, xứ vƣợng tất khuynh. Thân thái vƣợng, hỉ kiến Tài Quan. Chủ
thái nhu, không nên thấy Lộc Mã. Vƣợng Quan vƣợng Ấn cùng vƣợng Tài, nhập mộ là có
họa. Thƣơng quan Thực thần hợp thân vƣợng, gặp Khố hƣng tai.

Vận quý thủ ở chi, tuế trọng hướng tìm ở can.


Ấn nhiều, hành Tài là phát, Tài vƣợng gặp Tỉ không ngại. Cách thanh cục chính, phú quý
vinh hoa. Ấn vƣợng Quan sáng, thanh danh đặc đạt. Hợp Quan không lấy là quý, hợp Sát chớ
lấy hung suy. Đào Hoa mang Sát hỉ dâm bôn, Hoa Cái trọng phùng nhiều khắc bạc. Cả đời
không phát, do bát tự hƣu tù. Cả đời không có quyền, thân suy gặp Quỷ. Thân vƣợng thì nên
tiết nên thƣơng, thân suy thì hỉ phù hỉ trợ. Nói bẩm khí trung hòa, chớ nên thái quá bất cập.
Nếu theo phép này mà suy, họa phúc nghiệm nhƣ thần.
12-05-16, 10:56
lesoi
Kim Thanh Ngọc Chấn phú

(Huyền Hư đạo nhân sáng tác – Vạn Dân Anh tiên sinh chú giải)

Nhận mệnh là khác nhau, giống như nhận hình dạng. Trắc lý khó mà tinh thông, hơn đo trắc
biển cả. Âm cực dương sinh, hiểu biết nắm chắc thực hư; trời cao đất thấp, đỉnh cao che chở
vô biên. Hoặc thăng cao thành dãi Ngân Hà, mà không phải có chỗ riêng tư. Hoặc rơi xuống
thành vực sâu, mà không phải có chỗ xấu. Khí số định ở Thái sơ, bồi đắp ví như các loài cây
cỏ. Diệu quyết không quyết ở nhiều lời, đến như con người sự việc ở chỗ tốt xấu. Ví như các
loại tòng hóa, cách phán vượng suy, chiếu phục củng diêu, cục phân minh ám.
(Thấy Loại thuộc phải vƣợng, Tòng Hóa phải suy. Hai chỗ Chiếu Phục, đều thủ cục ở Minh
(rõ). Hai chỗ Diêu Củng, là thủ cục ở không thấy hình, cho nên gọi là Ám (ẩn). )

Luận dụng thần, luận nhật chủ, đều có chỗ thích hợp. Thủ Địa mạch, thủ Thiên nguyên, đều
là một đạo.
416 | Tam mệnh thông hội

(Chỗ này đƣa ra đàm luận tạo hóa không phải đồng nhất vậy. Hoặc viết: 6 câu này, ý là nói rõ
lấy bát cách. Nghĩa lý cũng thông. )

Du tâm ở Khử Lưu Thư Phối, ý quyết ở hỉ kỵ yêu ghét.


(Chỗ này quy ƣớc thuật tạo hóa không có nhiều vậy. Bên trong diệu lý, thì không thể một lúc
nói hết. Nhƣ luận dụng thần, dụng nhật can, thủ địa mạch, thủ thiên nguyên, hỉ kỵ yêu ghét,
vạn lần khác nhau. Nếu không khử lƣu thƣ phối, sao thành tạo hóa mà phân chia quý tiện,
đàm luận tính mệnh mà quyết sinh tử? Cho nên cần phải xét rõ, chuyên khảo sát ý quyết vậy.
)

Cũng có nguyên trọc mà lưu thanh, sao không có căn ngọt mà đời sau khổ.
(Nhƣ thủy, sinh ở tháng thổ, nguyên bản là trọc. Vận hành tây bắc, thổ hóa kim, kim hóa
thủy, lƣu cũng không thanh sao? Nhƣ chỗ này, trƣớc chủ hung, sau chủ cát. 《 Hồng Phạm
》 viết: Giá Sắc lấy ngọt, Viêm Thƣợng lấy đắng, mộc sinh tháng thổ, hành nam phƣơng, căn
ngọt ngọn đắng. Nói vậy, tuy Thƣơng quan có thể sinh Tài, nhƣng mộc không chạy hƣớng
nam, làm sao đảm nhận? Hoặc âm điệu hai câu nói này nói chung hiểu rõ ngũ hành vận
mệnh, không chỉ chuyên nói thủy, hỏa. Cũng thông. Lạc Lục Tử có nói đầu hung sau cát, đầu
cát cuối hung, chỉ là ví dụ. Chỗ này lý là nói thẳng mà thôi. )

Uyên ương liền cánh thấy khắp nơi, tất cả đời thành công.
(Nhƣ Bính Tuất, Tân Sửu, Đinh Tị, Nhâm Dần. Bính Tân hợp, Đinh Nhâm hợp, Dần Tuất
hợp, Sửu Tị hợp, nhƣ đôi uyên ƣơng liền cánh cùng bay vậy. Nhâm thủy ở trụ, Bính Tân lại
hóa thủy, tƣợng là giang hồ, tình có thể trụ lại lâu dài vậy. Hoặc viết: Uyên ƣơng liền cánh,
chỉ thủ cả hai tƣơng hợp, tức là Đức hợp Song Ƣơng cách vậy. )
12-05-16, 10:58
lesoi
Hồ Điệp song phi phùng viên hữu, mới là đúng chỗ.
(Nhƣ Tân Mùi, Mậu Tuất, Tân Mùi, Mậu Tuất, Mùi là mộc khố, Mậu Tuất nạp âm lại là
Bình Địa mộc, đúng chỗ gọi là Viên, cho nên hợp cách mà quý. Nếu không có một điểm thủy
khí, sao ngƣời không phải là hƣ danh ứng lợi chứ? )

Hái tinh kim ở cát thanh Hoàng Thích, chớ lợi khí ở sai tiết bàn căn.
(Ngày Giáp Ngọ thấy giờ Kỷ Tị, ngày Ất Mùi thấy giờ Mậu Dần. Bởi vì Giáp Ngọ Ất Mùi
nạp âm là Sa Trung kim, mà Mậu Dần là Thanh Sa, Kỷ Tị là Hoàng Thích vậy. Giáp Ất lúc
sinh tháng Mão là mộc vƣợng, trụ mang Nhâm Thân Quý Dậu là Kiếm Phong kim, đúng hợp
cách này. Kim khác thì không phải. )

Ta sinh, sao nếu sinh ta là an. Khắc ta, cũng như ta khắc là hiển.
(Chỗ này nói Thƣơng quan không bằng Ấn thụ, dụng Sát không bằng dụng Tài vậy. Bởi vì
Thƣơng quan, Thất sát, tuy có đại quý, nhƣ có nhiều thì thành họa, chẳng nhƣ thuần dụng Tài
Ấn, là hƣởng phúc tự nhiên vậy. Hoặc nói dụng Tài thì tự dừng ở phú, không nói Tài vƣợng
sinh Quan sao? Cho nên dụng Tài là ức chế ngƣời, dụng Quan Sát là bị ngƣời ức chế. )

Như phùng Ký tế Vị tế, Hưu nên hợp xung. Hưu là chỗ không nương tựa.
(Nhƣ Nhâm Tý, Bính Ngọ, Nhâm Tý, Bính Ngọ, là cách Ký tế vậy. Nhƣ Đinh Mão, Bính
Ngọ, Bính Tuất, Giáp Ngọ, là cách Vị tế vậy. Cả hai đều đại quý. Nhƣ lấy mắt tục mà xem,
thì trƣớc một mệnh ngại ở xung hợp, sau một mệnh sợ chỗ không có nƣơng tựa vậy. Hoặc lấy
Vị tế, lấy hỏa ở trên thủy ở dƣới, trong trụ thái vƣợng là giải, tức là cách tụ hội tinh thần vậy.
)
417 | Tam mệnh thông hội

Bên trong có ba chính ba thiên, bất tất sinh phù, bất tất thấu lộ.
(Lục Nhâm sinh tháng 4, trong Tị có Mậu là Thiên Quan, Bính là Thiên Tài, kim trƣờng sinh
là Thiên Ấn, cho nên gọi là 3 thiên. Quý sinh tháng Tị thì là Chính Quan Chính Tài, Chính
Ấn, là 3 chính vậy. Thủy tuy tuyệt ở Tị, kim trƣờng sinh thì thủy không chung tuyệt, bất tất
phải lấy sinh phù vậy. Hấp tụ thì khí chuyên, phát tán, bất tất phải lấy thấu lộ vậy. Hoặc lấy
sinh phù là chỉ nói Tài Quan Ấn, nếu nhật can suy nhƣợc, thì không thể không sinh phù vậy. )

Con đường chạy đi mà mất mạng, bởi vì tú khí nhiều loạn. Ngồi tù mà mất mạng, chỉ vì Tỉ
kiên tranh đấu.
(Nhƣ 1 Giáp 3 Dần, 1 Bính 3 Tuất, 1 Tân 3 Bính, Lộc Khố Quan tinh quá nhiều, không có tú
khí. Nhƣ 3 Nhâm 1 Hợi, 3 Canh 1 Sửu, 3 Kỷ 1 Ngọ, tú khí chịu không nỗi phân đoạt vậy.
Còn lại cứ loại suy từ chỗ này. )

Nhận trọng Quan khinh, nghiệp đồ tể ở phố phường. Mã bì Ấn phá, lộng đao bút ở công
đường.
(Quan tinh mang Nhận, vốn là cát. Quan Sát thất thời, mà Nhận dụng sự, cho nên chỗ này là
tiện vậy. Phàm gặp cách này, đoán là mua bán giết mổ không sai. Nhƣ Dần Ngọ Tuất Mã cƣ
ở Thân, có hình xung phá hại thì gọi là Mã bì. Giáp mộc lấy Nhâm Quý là Ấn, không có
Canh Tân sinh, mà có Mậu Kỷ phá hƣ, là quan nhỏ vậy. Hoặc nói: Mã là chỉ Tài; Bì, là bệnh
vậy; Tài lâm bệnh địa, gọi là Mã bì. Khảo sát Lạc Lục Tử chú thích Mã bì, Vƣơng Đình
Quang đã nói ở trƣớc là đúng. )

Tam Kỳ tái phạm Tuất Thìn, là thợ gọt đẽo may vá.
(Địa Tam Kỳ: Giáp Mậu Canh. Thiên Tam Kỳ: Ất Bính Đinh. Nhân Tam Kỳ: Tân Nhâm
Quý. Đƣợc can Tam Kỳ, địa chi có Thìn Tuất tƣơng xung, là tạo quý lại thành tiện. Gặp chỗ
này, có thể đoán là thợ mộc, cùng thợ cắt quần áo vậy. Gặp Dần Thìn thì không phải, hoặc có
Tuất hợp, có Thìn hợp, đều phân ra hai cục. Là Thủy Hỏa ký tế, cũng không phải vậy. )

Tứ trụ ưu tiên vị trí quy lộc, người cảnh phúc hưởng thọ.
(Nhƣ Bính Dần, Giáp Ngọ, Ất Tị, Kỷ Mão. Bính lộc cƣ ở Tị, Giáp lộc cƣ Dần, Ất lộc cƣ
Mão, Kỷ lộc cƣ Ngọ, thiên can đều có chỗ quy lộc, ngƣời này cả đời phú mà còn thọ. Ý nói ở
trong 《 Tiêu Tức phú 》"Hưởng phúc ngũ hành quy lộc, mi thọ bát tự quân đình". )
12-05-16, 11:00
lesoi
Mộc suy hỏa vượng phục hành tây, tuổi thọ yểu chiết.
(Nhƣ ngày Giáp Ngọ, sinh tháng 4, tháng 5, mộc không chạy hƣớng nam, lại thấy kim khảm
phạt, là chết yểu. Hành vận đông bắc thì không phải. )

Thủy lạnh kim hàn kiêm củng bắc, thân thế phù trầm.
(Kim thủy Thƣơng Quan, chỉ có hợp vận hành đông nam, cát. Giáp mùa xuân Ất mùa thu,
thiên lệch thích hợp Quan Sát trùng điệp.
(Giáp sinh mùa xuân, mộc vƣợng nhờ có kim đẽo gọt, mới thành khí. Ất sinh mùa thu, hoặc
hóa hoặc sát, đều cát. Là lấy thích hợp nhiều Sát. Giả nhƣ Giáp sinh mùa thu mà thụ khắc
nặng, tất chủ đại hung. Ất sinh mùa xuân mà nhiều Sát, cũng không thích hợp. )

Bính hỏa tháng Mão, khó giúp Ấn thụ sinh phù.


(Thấp mộc không sinh không hỏa sáng, lý là tất nhiên vậy. Ất Mão Quý Mão càng nặng,
Đinh Mão là thứ. )
418 | Tam mệnh thông hội

Thủy nhiều mà không chế, sinh bệnh ở bàng quang. Kim nhiều mà không hóa, tật ở chỗ lời
nói.
(Thủy thuộc tinh, thủy mất đê phòng mà không có thổ chế, thì ngƣời dâm, thủy nhiều thì phù
phiếm vậy. Kim thuộc thanh, kim quá kiên cƣơng mà không có hỏa hóa, thì ngƣời khàn
giọng, kim thực không thanh vậy. )

Tài Quan song mỹ, thấu lộ cực vinh [ có nói khác là gặp Ấn cực vinh ]; hỏa mộc thông minh,
thấy thổ là quý.
(Tài Quan song mỹ, là sinh các tháng Thìn Tuất Sửu Mùi, hoặc các ngày Nhâm Ngọ Quý Tị.
Cho nên thích hợp Tài Quan, thấu thiên can là vi diệu. Mộc hỏa thông minh, cần sinh mùa
xuân là tối cát. Là do thổ nhờ hỏa bồi mộc, cho nên cần thấy mới quý. )

Nhâm xu Cấn, Giáp xu Càn, cần lấy Tài Ấn trợ phúc. Tý diêu Tị, Sửu diêu Tị, cũng lấy Tài
Ấn mới thành.
(Bốn cách trên, đều nhờ Tài Ấn phụ tá, mới đại quý. Không nên kiến Quan Sát. )

Tam Kỳ phục dưới chi Tuế, còn trẻ vào Hàn Lâm. Tam Kỳ ở giữa vị trí giờ, về già về chốn
Đài các.
(Nhƣ nhật chủ Lục Giáp, thấy năm Kỷ Sửu là đúng, Tân kim, Quý thủy, Kỷ thổ ở trong Kỷ
Sửu là tam kỳ Tài Quan Ấn vậy. Nhƣ ngày Lục Đinh, thấy giờ Tân Hợi, Nhâm thủy ở trong
Hợi là Quan, Giáp mộc là Ấn, Tân kim lại là Tài vậy, gặp thì chẳng phải cƣ ở cực phẩm sao?
Nói Tam Kỳ là nhất vậy. Mà quý có chỉa ra già trẻ, lấy năm là trẻ giờ là lúc về già, năm là
gần giờ là chậm vậy. )

Quan tinh đắc lệnh, chế phục chư hung. Quý nhân phù thân; giải thoát bách ách.
(Lời nói này là trong mệnh có Quan tinh quý thần, không kỵ hung thần ác sát, là do tà không
thắng chính vậy. Cần đắc lệnh phù thân, mới chuẩn câu 《 phú 》 . Nếu Quan thất lệnh thụ
thƣơng, quý nhân tán mạn sinh giận, thì không phải. )

Sát Nhận lưỡng hiện can đầu, định nhận gửi trách nhiệm. Một khi gặp hình xung tuế vận, e
rằng gặp nguy bất trắc.
(Sát Nhận, là Quyền tinh, tối kỵ hình xung. )

Bính lâm Tý Thân, Mậu đương đầu mà quý như Vương Tạ. Tân kỵ Dương Thỏ, Ất thấu xuất
mà phú sánh Đào Chu.
(Quý, là nói Thực thần sinh vƣợng. Phú, là nói Tài tinh Lộc Khố. )

Tháng 8 Quan tinh thấy Tý Thìn, đến hợp ám Sát.


(Giả nhƣ: Giáp sinh tháng Dậu là Chính Quan, dƣới chi năm và giờ có Tý Thìn thì sẽ xuất
thân kim, là vì Quan Sát hỗn tạp vậy. )

Tam xuân Bính hỏa phùng Hầu Thử, hóa làm Chính Quan.
(Bính hỏa Thìn thổ, vốn là Thực thần, có Tý Thân hội thành thủy cục, không là Quan sao?
Hai câu này, gọi là Bất kiến chi Hình. )

Kim thủy là thông minh, có thổ lại thành ngu hèn.


(Thổ có thể làm thủy đục, chôn kim vậy. )
12-05-16, 11:02
lesoi
419 | Tam mệnh thông hội

Kiêu Thực tuy bần yểu, đắc Tài bỗng biến hanh thông.
(Thực thần chính là Tài nguyên, còn gọi là Thọ tinh, có Kiêu Ấn phá, là bần yểu không sai.
Một khi hành Tài địa, từng bƣớc khử Kiêu thần, trong hung lại cát. Mệnh này, đa số đi theo
ngƣời khác mà làm giàu. )

Lục Ất Thử quý, thích thấy Thực thần. Lục Âm triều Dương, ngại gì Kiên Kiếp. Kim thần
mang Sát nhập Đài các, Thiên Quan mang Nhận cư phủ Hiến.
(Kim Thần Dƣơng Nhận đều là Ác tinh, hỉ Quan Sát chế phục, nhân mệnh gặp, là tƣợng trừ
gian khử ác, cho nên đoán cƣ ở chức này. )

Mậu thổ điệp lâm cung Dần, thiện Tài mà không hỉ Ấn.
(Mậu Dần tuy tọa Sát, đất Thực trƣờng sinh vậy, thấy hỏa chớ chấp Sát Ấn, vì hỏa chƣng cất
cháy thổ. Hỉ Tài, vì Tài sinh Thiên Quan, thì quan có khí vậy. )

Nhâm thủy tọa dưới dương thổ, thấu Sát chớ thấu Quan.
(Thủy nhiều nhờ thổ ngăn, cũng xấu hỗn tạp vậy. )

Thiên Tài kiến Quan kiêm Thực thần, vinh hoa có chuẩn. Thân chủ dụng thần hoặc nhập mộ,
tiến thủ vô duyên. Mộc hỏa tương chiếu, trong lòng vạn hộc châu ngọc. Kim thủy tương hàm,
bút hạ thiên thiên cẩm tú.
(Cách này thấy ở trƣớc, lại đƣa ra, rõ ràng là tài hoa trác việt. )

Tam hình mất hợp, phá tướng thương thân. Lục hại gặp nhiều, cô ân phụ nghĩa.
(Phàm tam hình, nếu có hợp thì không thành hình. Nhƣ ngƣời tranh đấu mà có hòa giải, nếu
không khó tránh hoạ này. Mang nhiều lục hại, là ngƣời lấy ân làm oán. Là kẻ vong ân phụ
nghĩa. )

Không Vong lại tổn ở thê tử, Cách Giác làm khó ở huynh đệ.
(Không Vong, nhƣ trong tuần Giáp Tý không có Tuất Hợi. Cách Giác, nhƣ Sửu Dần, là
phƣơng vị Cách Giác vậy, ngày giờ thấy là nặng. )

Nhâm kỵ Long bối mang Nhận, loại ô hoạch Mạnh bí. Canh tọa Tuất nhiều hỏa, là Hình Hầu
Ung tử.
(Thìn có đƣợc Long, là vật dƣơng cƣơng vậy. Lại gặp Dƣơng Nhận, lữ lực hơn ngƣời vậy.
Kinh nói: Thìn nhiều là háo đấu. Tuất là hỏa khố, tọa dƣới ngày Canh, lại trải qua hỏa nung
luyện thái quá, là rất vô tình vậy. Huống chi trong đó có tàng lâu kim cẩu, chỗ này là vật có
đủ gian xảo. Kinh nói: Tuất nhiều thích kiện tụng. Hình Hầu Ung tử, ở thời Xuân Thu, tranh
giành lấy ruộng đất vậy.)

Mùi thơm đầy đường, phú mà hay lễ.


(Thiên can năm, tháng, ngày, giờ, thấy bốn vị địa chi là chỉ trích con ngƣời vậy. Nhƣ Nhâm
Thân, Tân Hợi, Kỷ Tị, Bính Dần. Nhâm lấy Tị là quý, Tân lấy Dần là quý, Kỷ lấy Thân là
quý, Bính lấy Hợi là quý vậy. )

Một câu hòa khí, lấy vui quên lo.


(Tổng cộng năm tháng ngày giờ đều ở trong một tuần, nhƣ Giáp Tý, Nhâm Thân, Kỷ Tị, Quý
Dậu, đều ở trong một tuần Giáp Tý vậy. )

Quy Lộc thích Tài tinh, kiến Quan thì tổn thọ.
(Tài là nguồn dƣỡng mệnh, Quy Lộc cách, thân vƣợng rất thích Tài. Trực kỵ Quan tinh, là do
420 | Tam mệnh thông hội

cƣớp Tài khí vậy. )

Chính Quan đắc thời lệnh, có Ấn không bằng Tài.


(Quan Ấn kiên cố hay là ở lƣỡng toàn, nếu không có Tài tinh, thì Quan mất sức sống, Ấn
cũng có lợi gì? )

Tòng cách phục xuất ở Tam Kỳ, tâm huyết mãi đến nghìn năm vẫn không mờ.
(Nhật can Canh Tân, địa chi Tị Dậu Sửu, hoặc đủ Thân Dậu Tuất, là tƣợng Tòng Cách. Ngày
Canh can đầu lại có Giáp Mậu, ngày Tân can đầu lại có Nhâm Quý, thân chết lúc thờ miếng
ăn có muôn đời vậy. Sao lại nói vậy chứ? Nói kim là dụng cũng Cƣơng, cũng vừa là chất kiên
cố. Cƣơng, là phát sinh nghĩa khí, Cố là đạo có lâu bền. Ngƣời nắm chính nghĩa, lúc sống là
trung thần, chết thì tất là minh thần vậy. Lý này cũng luận là ngƣời có trí thức vĩ đại vậy. )

Khúc Trực kiêm giúp ở Ấn thụ, tiếng nhân truyền mãi không dừng.
(Khúc Trực, là tƣợng mộc vậy. Nhật chủ Giáp Ất, nếu địa chi thấy Dần Mão Thìn, hoặc đủ
Hợi Mão Mùi là đúng. Lại gặp Ấn thụ tƣơng sinh, là ngƣời tất có lòng nhân tâm nhân văn
vậy. Lấy lý suy, là nhân ái, tâm của trời đất sinh vạn vật, ở mùa xuân, ngũ hành là mộc. là
mộc, là vật có sức sống. Mà ngƣời nhân ái, đức thật hiếu sinh. Lại gặp Ấn thụ, thì sinh sinh
mà không ngừng vậy. Đƣợc chỗ này, nhƣ đầm đƣợc quần sinh, bố ân thứ dân. Cho nên viết
tiếng nhân truyền mãi không dừng. )

Địa thiên thái cố, tư nhân đĩnh sinh; vân lôi tụ thì kinh luân hiển thiết.
(Chỗ này chỉ hai cách ở trên của con ngƣời, Sinh cũng vừa có chỗ tự mà không hƣ sinh; Xuất
cũng tất có chỗ làm mà không có cẩu thả xuất vậy. Hoặc nói: Địa Thiên thái, chính là Mậu
Thân thấy Tân Hợi. Vân Lôi tụ, là Nhâm Tý thấy Ất Mão. Tức là hai cách trong Diệu Tuyển:
Địa Thiên giao thái, Lôi Vũ nghênh xuân.)
12-05-16, 11:06
lesoi
Kim Đỉnh Thần Bí phú

Tác giả: Vạn Dân Anh

Ngƣời sinh có mệnh, đƣợc mất bỗng nhiên mất; Phú quý bần tiện, vậy có thể thành một khối.
Ánh hồng đầy nhà, ngũ hành đều tụ ở đất quý; khí tốt đầy nhà, tứ trụ cùng hội tụ ở đất phúc.
Trƣớc nghèo sau giàu, giờ sinh gặp Lộc Mã đồng hƣơng; Đầu cát cuối hung, ngày giờ phạm
đất Không, phá. Cả đời nhấp nhô, nền mỏng mỏng, cùng hung vận giao tạp; cả đời vinh hoa,
mệnh cao lại gặp vận tốt tới liên tục.
Cƣờng kim gặp hỏa mới thành khí, quyết định là siêu quần; Vƣợng hỏa đƣợc thủy gọi là Ký
tế, tất nhiên là xuất chúng. Mộc cần kim mà không dày đặc, thủy dựa vào thổ mà không tán.
Mậu Kỷ thấy Dần Mão, đắc vị ở Câu Trần; Nhâm Quý tọa Tị Ngọ, nắm quyền ở Nguyên Vũ.
Quý thần nhập mệnh gặp Kỳ Nghi, tất là công khanh; Hoa Cái lâm giờ gặp Cô Quả, định là
Tăng đạo. Bái tƣớng Ngọc Đƣờng, hoả viêm viêm tú ở cung Ly; Kim khuyết triều nguyên,
thủy dƣơng dƣơng đức ở cung Khảm. Trùng gặp vị trí thủy, đoán là thần tiên sông nƣớc; Tái
phạm thuần dƣơng, định làm đệ tử cửa Phật. Gặp trƣờng sinh mà thông minh trí tuệ, gặp tử
bại mà ngu xuẩn đần độn. Khó nhờ cha mẹ, năm tháng đều hãm Không Vong; vợ con dễ phụ,
ngày giờ cùng lâm Cô Quả. Mão Dậu sinh gặp khắc chiến, bại cửa nhà mà gặp nhiều họa; Tý
Ngọ hoàn toàn ở tử mộ, làm khách ở tha hƣơng. Tý Ngọ rất sợ Tị Hợi, Mão Dậu rất kị Dần
Thân. Trạch Mộ bị Sát, phá nhiều cửa nhà.
Giờ lạc Thiên Trung ít con, can đầu gặp hợp là nhiều vợ. Trong năm vô khí, lúc nhỏ thất lạc
nguồn cội; trong tháng gặp Không, cửa nhà tiêu xơ không tồn tại. Ngày lâm vị trí tuyệt, dù vợ
421 | Tam mệnh thông hội

khỏe mạnh cũng gặp nhiều ly tan; giờ ở trong mộ, con cháu có lúc cũng bất thuận. Hợp đất tú
quý, đƣợc thiên thời là vinh. Ngũ hành vô khí là bần, tứ trụ có Thƣơng là tiện. Âm dƣơng
thuần nhất là cô đơn, can chi hình hại là bệnh tật. Dụng thần hƣu tù, khó cầu phú quý; Tú khí
thiển bạc, đa số là nghệ thuật. Hình khắc hỗ kiến, thân vƣợng định làm quân đội; Thìn Tuất
cộng thêm có giảm, đoán là quan cai ngục. Kim thủy nhàn rỗi, ngƣời tinh thần sa sút thanh
bần; Dịch Mã xung kích, là khách lao nhanh vào con đƣờng hồng trần.
Khôi Cƣơng trọng phạm, sinh ở gia đình làm nghề đồ tể; Dậu Tuất trọng phùng, thân làm kẻ
nô bộc. Trong trụ Tý Ngọ vây quanh, địa vị nơi tỉnh thành; Can chi trong mệnh nhất khí, quý
đến vƣơng hầu. Một khối thuần dƣơng độc khắc mệnh, không chết cũng tổn thƣơng; Cục đầy
Ấn thụ đều sinh thân, không quý cũng phú. Năm tháng cùng Thƣơng, cha mẹ vợ con khó
thành; năm giờ cùng Thƣơng, xƣa nói khó giữ đƣợc con thừa tự. Năm xung ngày thì cha mẹ
vƣợng, thê thiếp khó tồn tại; giờ xung năm thì con cháu vƣợng, cha mẹ tổn hại. Phá mệnh,
thiếu mất cha mẹ; Phá tháng, trƣởng khắc anh em; Phá ngày, một thân cô độc; Phá giờ, về già
không có hậu; Phá Thai, là mẹ cô độc. Chỗ này thì luận sơ lƣợc, cần phải suy xét tinh tế.
Trƣớc nói Quan quý, khác hẳn thƣờng lƣu. Giáp Mậu Canh dẫn đến Sửu Mùi, Quý thần có
khí; Ất Bính Đinh xuất từ Dậu Hợi, là Thiên Ất gia lâm. Kỷ gặp cung Khảm, Ất đến cung
Khôn. Lục Tân hỉ ở Dần Ngọ. Nhâm Quý hợp ở Tị Mão, chỗ này gọi là Ám trung đắc quý.
12-05-16, 11:07
lesoi
Lại xem Quan Ấn nhƣợc cƣờng. Giáp phùng nơi Dậu, Ất đến phƣơng Thân. Bính đƣợc cung
Tý tất hiển, Đinh gia trên Hợi là vinh xƣơng. Mậu thấy Mão mà có thể tú, Kỷ lâm Cấn mà
dƣơng thanh. đã gần tốt mà còn vang danh. Canh đến cung Ly đắc khí, Tân lâm cung Tốn là
an nhiên. Đầu Nhâm ở trên Ngọ là Ký tế, Quý hƣớng Tị trong có Tài Quan. Đây là Chính
Quan, Chính Ấn. Xem thêm Lộc Mã triều nguyên, nếu không có hình xung, khắc phá, tất lấy
cái đỉnh, là thần tiên.
Thứ luận Tài phú nguồn dƣỡng mệnh. Trƣớc tiên xem Tài mệnh hữu khí, thứ xem Lộc Mã
không bần. Mộc lâm tứ quý, hƣớng lộc tự nhiên sung túc; thủy đến trên Ngọ Tài vƣợng, tất
định hƣng phong. Thổ phùng Nhuận Hạ, kim gặp Khúc Trực, hỏa gặp Kim cục. Tam hợp
phùng Lộc Khố, Thực thần, ngũ hành gặp Thiên Trù Tài khí. Tứ trụ không có tổn thƣơng,
ngày giờ đắc địa. Thân vƣợng hữu khí, phùng Tài hóa làm Quan tinh; thân suy thất thời, Tài
đa trở thành bần bạc. Nếu cƣ Sát địa, đa số là hung đồ.
Ngƣời có 4 loại nghiệp khác nhau, đó là: Công chức, Quân đội, kinh thƣơng, nghệ thuật, đều
có chỗ làm căn cứ.
+ Mệnh làm Công chức: Đa số mang khắc hình, đông tây chiến đấu, nam bắc xung kích.
Trƣờng sinh xứ phá, tử tuyệt xứ sinh khởi. Ngũ hành thác tạp, tƣợng không thuần nhất. Đảo
Thực phùng Tài, giáp quý gặp phá. Tài Ấn tƣơng hình, dẫn dụng vô khí. Tú gặp mang Quỷ,
quý khí tổn thƣơng. Can chi trọng hội Đề Võng, Huyền Châm, mệnh loại này thì không tách
rời công môn. Đến nhƣ mang Quan lộc mà có thể nhận phúc, gặp quý thần mà có thể tiến bộ,
thì lại có xuất quan hiển đạt vậy.
+ Mệnh làm Quân đội: Cùng giống nhƣ quan lại. Trong cục Sát trọng mà can chi không
giống nhau, trong tƣợng quý khinh mà chủ bản phá thƣơng. Giáp thấy Mão, Bính lâm 3 Đinh;
Tân hƣớng Hợi địa, Nhâm cƣ xứ 2 Quý. Ất Đinh phùng Xà, Mậu Kỷ bôn Mã. Đây chính là
Huyền Châm Dƣơng Nhận, lại phạm khắc phá hình xung. Lại mang phúc khí, trong hung có
cát. Huyền Châm gặp cát Sát tƣơng phù, Dƣơng Nhận có quý thần tƣơng trợ. Do từ binh
nghiệp mà có quyền lộc, từ binh sĩ mà nhận chức quyền cao. Nhƣng lấy Sát là trọng, thì
không thể vu khống chỗ này vậy.
+ Xem mệnh kinh thương: Dựa vào chỗ nào? Ngày giờ cùng Tý Ngọ, tam nguyên đều là
Dần Thân. Trƣớc Mã không có bí, trên Kiếp phùng Tài. Hoặc Thiên Tài mà thân vƣợng, lại
hành Tài vận. Hoặc có lục hợp hội Tài, lại tọa đất Mã. Ngƣời Nhâm vận nam, ngƣời Bính vận
bắc, là ngƣời mua bán kinh doanh; ngƣời Giáp hành tây, ngƣời Canh hành đông, có đẳng cấp
422 | Tam mệnh thông hội

kinh doanh hay không. Giáp Ất cƣ Khảm phạm Nhâm Quý, khó tránh bèo dạt phƣơng xa;
Nguyên Vũ gặp Hợi không có Mậu Kỷ, tất là rong rũi bên ngoài. Về phần đắc lợi hay không
đắc lợi, thì chuyên luận Tài có vƣợng hay không vƣợng mà quyết vậy.
+ Xem mệnh làm nghề nghệ thuật: Lại không phải nghề kinh thƣơng. Mệnh gặp Đức Tú
phạm hình xung, đƣờng nhỏ đáng xem; giờ phùng Học Đƣờng thấy Không Vong, đa số là đê
tiện. Ất Canh hóa kim ở Khảm Cấn, Đinh Nhâm hóa mộc ở Đoài Càn. Tân Bính lâm ở tháng
tứ quý, Mậu Quý cƣ ở cung Khảm. Đây chính là tú mà không tú, hóa mà không thành; cách
cục phá tổn, Lộc Mã bất toàn. Nguyên nói đến thiên phú thông minh, đa số ngƣời sinh ra gặp
Học Đƣờng. Về phần thành tựu đạm bạc, chính là mệnh không có căn cơ (Nghĩa là, nhƣ
ngƣời thủy không có kim, ngƣời hỏa không có mộc). Nếu tứ trụ không chiếu cố lẫn nhau, ngũ
hành lại tải tƣợng vô khí, Thiên Ất nhàn mạn, Hoa Cái điệp phùng, không làm kẻ phiêu bồng
tìm chỗ ở ẩn, tất là ngƣời nghệ nghiệp cửu lƣu ( Cửu lƣu: là 9 học phái từ Tiên Tần đến Hán
Sơ, Trung quốc). (Thiên Ất nhàn mạn, nhƣ Giáp Mậu Canh, Nửa năm đầu lấy Mùi là Quý
nhân không nhàn. Nửa năm cuối là lấy Sửu là Quý nhân không nhàn, xem thêm ở môn Lục
Nhâm).
12-05-16, 11:08
lesoi
+ Xem mệnh làm Tăng đạo: Lại không phải là ngƣời làm nghệ thuật. Ngũ hành ở đất vô khí,
thập can lâm đất tử mộ. Năm tháng tận phùng Cô Quả, ngày giờ toàn thấy Nguyên thần.
Phạm nhiều Không Vong, trọng bồi Hoa Cái. Thê tử suy tuyệt, là Thân vượng vô y. Hỏa
thịnh mà thân tâm thiền định, thủy nhiều mà tự do an nhàn. Nếu mệnh hợp quý cách mà tử
tuyệt, tâm vui với hƣ thanh; mệnh không có quý khí nhi sinh vƣợng, tính thích thiền môn.
Trên tháng ngũ hành điềm hòa, đạo hạnh cao khiết mà giáo môn tăng trọng; ngũ hành trụ giờ
an tĩnh, phụ trợ hành quả. Mà số chúng đồ nhiều. Trụ tháng có đƣợc phúc thần trợ giúp, thì
giỏi cùng pháp niệm mà khen ngợi đồng y. Trụ ngày hình xung mang Sát, thì cầu hoá vô
duyên, mà lại đi phiêu lƣu bốn phƣơng. Thấy Sát Ấn, thì nắm quyền phục chúng, gặp Tang
Điếu thì khổ hạnh tổn thân. Hoa Cái, kẹp quý cùng Tam Kỳ, tuy nói là Cát Sát; tự tử, tự
tuyệt, tự sinh vƣợng, thì không có cát trợ. Nếu sinh vƣợng thái quá mà kiêm mang can quỷ,
thì tâm không quên danh lợi; gặp khắc hại quá mức, mà lại gặp hung sát, thì khó miễn lễ
phàm tục. Hàm Trì là sao tửu sắc, phạm thì đam mê không kiểm soát; Dƣơng Nhận là vật
hung ác, gặp thì là đồ tài lợi. Tuế vận thấy Tang Điếu phản phục, ở ngƣời phàm tục thì hung,
còn tăng đạo thì cát. Nguyên mệnh gặp Cô Quả, Vong Kiếp, ở thƣờng nhân thì có trở ngại,
còn tăng đạo thì vô hại. Cổ ca nói: Hai loại phụ mẫu thấy Cô tinh, bốn mùa lộc cũng không
có. Thìn Tuất Sửu Mùi đƣợc gia lâm, đa số là đạo sĩ cùng tăng đồ. Lại nói: Tam hợp sinh giờ
Thìn Tuất, định là tăng đạo không sai. Nếu có Hoa Cái cùng lâm mô, áo túi to lớn định tử y.
Phàm luận tăng đạo, lại lấy chỗ này là đúng chất vậy.
Lại có trước bần sau phú, trước phú sau bần, cả hai cách biệt, hoàn toàn xem ở tháng, ngày.
Ngày giờ sinh vƣợng là tụ phúc, về già vinh hoa; nguyệt lệnh có khí tích trữ Tài, tuổi trẻ phú
quý. Nếu tháng cát mà dẫn dụng nhiều khinh, trƣớc phú sau bần; nhật cƣờng mà bản căn bất
lợi, trƣớc bần sau phú. Sinh ra thụ ấm, năm tháng ở xứ Tài phú; cuối chủ cô hàn, ngày giờ
phạm đất Không phá. Năm tháng phùng Tài vô khí, lúc trẻ khốn cùng; ngày giờ gặp tự có
khí, về già hân hoan. Tứ trụ suy vi, cả đời bất toại; Bối Lộc trục Mã, cả đời thê lƣơng. Nếu
nói can đầu lộ Tài, trong chi không tàng, đất Thƣơng Kiếp Thực, Lộc Mã hƣ phù. Thân
vƣợng Ấn trợ, cả đời phá bại không tụ tài. Tài đa thân nhƣợc, bên ngoài thì có dƣ còn bên
trong thì không đủ. Hoặc tứ trụ vốn không có Tài Quan, gặp tuế vận bỗng nhiên phát tài.
Mệnh chỗ này, là hữu danh vô thực.
Lại có mệnh bỏ đất xa quê. Đóng cửa rời nhà: Chính là năm khắc tháng cùng nhau chế
phục, ngày xung giờ ở nơi Tý Ngọ. Tứ Sát nếu xung thân mệnh, định phải ly biệt tha hƣơng;
Tam hạn lại dụng tử tuyệt, khó tránh phiêu bạc xứ ngoài. Trùng trùng quỷ hại, nhiều lần hình
423 | Tam mệnh thông hội

Không. Vận xấu thời trái nghịch, ly biệt hàng xóm mà bôn ba đƣờng trình. Mệnh kém ngày
suy, từ biệt thân thích mà lui tới trên đƣờng.
12-05-16, 11:09
lesoi
Lại luận huynh đệ cùng với thê tử. Nhƣ mệnh mộc xuân giáng đến Dần Hợi Mão, tất nhiều
anh em; nếu sinh tây nam, tất ít. Mệnh kim sinh mùa thu lâm Tị Thân Dậu, anh em tràn đầy;
nếu gặp đất đông, không có chỗ nƣơng tựa. Thuỷ cƣ Nhuận Hạ gặp Càn Khảm, đồng khí đa
vinh. Thìn Tuất qua lại thì phóng khoáng. Hỏa hƣớng viêm thƣợng cƣ cung Ly Tốn, là liền
cành cộng mỹ. Đến ở Dậu Hợi, là điêu tàn. Thổ lâm tứ quý, chú bác thành hàng. Nếu luận
đắc lực hay không đắc lực, tam nguyên không lạc Không Vong, tứ trụ không phạm Cô Quả.
Thanh Long tác tử, đừng cƣới vợ Bạch Hổ; Hỏa Đức thành nam, chớ cƣới vợ Hợi Tý. Thủy
sinh con cháu, mẫu kị trung ƣơng. Năm hợp ngày giờ phạm Mậu Quý, quyết chủ 3 vợ; Giáp
phùng 2 Kỷ đến Tị Ngọ, không chỉ hai vợ. Bính phùng trọng Tân cƣ Dậu Tý, đa số là thƣơng
yêu thiếp; Canh cùng Ất hợp sinh Mão Ngọ, định có vợ bé; Nhâm phùng trọng Đinh ở Tị
Dậu, trùng hôn chia phòng. Dƣơng hợp Âm thịnh lập hai vợ, Dƣơng hợp Âm suy vợ tái giá.
Lại có con nhiều mà vinh quý, cũng có con ít mà ngu đần. Lý nói là sao? Phải luận thật kĩ.
Kim cƣ cung Ly phùng viêm hỏa, con cháu đầy nhà; hỏa lâm cung Khảm gặp thuận dƣới, đời
sau hƣng vƣợng. Mộc phùng Canh Tân đến Tị Thân, thổ sinh Giáp Ất kiến Dần Mão. Thủy
lâm tứ quý, hỷ kiến Mậu Kỷ. Ngày giờ sinh phùng không có khắc chế, tử tôn nhiều vinh;
Quan Sát trọng phùng kiến Tài sinh, con cháu tất quý. Nếu nói ngày lâm suy mộ tử bại, nam
nữ phải tổn thƣơng; giờ phạm Không Vong có khắc, con cháu tất ít. Mộc là đời sau, kị phùng
phƣơng Thân Ngọ; hỏa nếu là trai, chớ gặp đất Dậu Hợi. Kim là vị trí con, sợ thấy Khảm
Dần; thủy làm trai quan, kị thấy Mão Tị; thổ là con cháu, sợ lâm Chấn Đông. Nam thủ chỗ
khắc là con, nữ thủ can sinh làm con. Tứ trụ quy về nơi bại tuyệt, ngũ hành đều ở Thƣơng
quan. Tuy có can chi ám hợp, cũng phải lấy con nuôi làm con kế thừa. Dù có thiên xuất, cũng
khó định họ. Xƣa có nói nhờ vợ an con, lý này rất sâu sắc. Mộc mà thấy Quỷ, đƣợc bắc
phƣơng, Khảm thì tồn tại nữ nhiều. Thủy tử gặp Sát, dựa vào tây phƣơng Đoài vợ có nuôi
dƣỡng; thủy chế hỏa là nam, nhờ Thanh Long làm nhũ mẫu; Mộc tổn thổ Nhi, tìm Chu Tƣớc
làm mẹ kế. Ngũ hành có tổn, phải nhờ tƣơng sinh. Tứ trụ tuy khắc, phần đa cũng vô hại. Nếu
không tiếc mẫu an Tử. Sao có thể con cháu không thiếu?
Về phần luận nữ mệnh, rất sợ hình phu. Ngày sinh mộc xà, khó thành hôn phối; Kỷ dụng
kim kê, định là phụ nữ mất chồng. Thổ là vị hôn phu, Dần Mão có nhiều ít. Mộc làm hôn kỳ,
cung Ly phải hại. Tái phạm Cô Loan càng nặng, lại phạm Bát Chuyên nói thế nào?
Về phần làm phụ nữ thanh khiết, sinh mà không phạm hợp quý;nếu muốn tính cách kiên
trinh, trƣờng mà không gặp Sát Thƣơng. Đinh Nhâm vô khí, tất phạm xƣớng dâm; Mậu Quý
hƣu tù, phần đa là trọc loạn. Tứ trụ hợp Lộc, tam nguyên thuần nhất. Ngày giờ có hợp, có
chồng mà không bỏ tƣ tình; Đào Hoa Kiếp Sát, ngũ hành cƣ Mộ. Tài lộc mộc dục, nghịch
chồng mà trở thành ám ƣớc. Âm gặp can dƣơng nhiều hợp, không làm xƣớng cũng là kỹ; Tỉ
Kiếp phân tranh thân nhƣợc, không làm thiếp cũng làm nô tỳ.
Lại có ngũ hành thất vị, tứ trụ hƣu tù. Thập can trên dƣới giao chiến, vận hành vô khí Không
Vong, Tam Nguyên ở trong mộc dục, ngũ hành cƣ xứ tử mộ, sinh làm nô tỳ, đem ai oán thán?
Lúc có mệnh phạm Đảo Thực mà không có Thực, có thể cùng ngƣời khác làm phúc; Thiên
Tài gặp Tỉ mà thân vƣợng, ngọt thì làm giàu còn khô thì làm hầu tớ. Đàn ông bỏ nhà, gửi rễ
khác họ: Kim cƣ kim vị gặp Mão Dần, mộc đếu xứ mộc gặp Sửu Mùi. Ngày giờ phạm gặp
Nguyệt Quỷ phá môn. Bính Dần biệt tổ tông nhập mộ. Khôi Cƣơng lâm mệnh kiến Hoa Cái,
cả đời nhờ vợ mà sống; Sửu Mùi trọng phạm, gặp Quả Tú, nửa đời theo vợ vào nhà. Tứ trụ
qua lại hữu tình, dắt nhau thành hôn. Tam nguyên trọng phạm âm hợp, không môi giới mà
làm vợ. Dƣơng suy âm vƣợng, nữ thì lấy con trai khác họ làm con. Mệnh phối thành hôn,
trƣớc xem hƣu bại khắc trệ, sau xem tƣơng sinh, đa số là gọi rễ về nhà. Chi nhiều khắc trệ,
định biết ngƣời mạo hiểm trên dƣới vô sinh, một cửa sao có thể giữ vững? Thân nhƣ hiển hóa
424 | Tam mệnh thông hội

tự vô khí, bản tính hoàn toàn suy nhƣợc; nếu là Giả hợp thành tƣợng khác, là cô nhi dị tính,
cả đời khốn khó, sao có thể đƣợc của tổ tông? Nếu nhƣ hƣng vƣợng, vì cầm khác nhà cha mẹ.
12-05-16, 11:09
lesoi
Lạc Dịch phú

Tham khảo cơ không có tạo hóa, trắc diệu lý ngũ hành. Phán đoán nhân mệnh đƣợc mất,
quyết một đời vinh khô. Phép là thủ ở nhật can, luận hƣng suy ở chi tháng. Giáp Ất thuộc
mộc, tối hỉ sinh mùa xuân. Nhâm Quý thuộc thủy, thiên vƣợng ở mùa đông. Bính Đinh hỏa
sáng tỏ ở mùa hạ, Canh Tân kim sắc nhọn ở mùa thu. Mậu Kỷ hai can thổ, vƣợng ở thời kỳ tứ
quý.
Ngày là bản thân, phải xét cƣờng nhƣợc. Năm là chủ bản, nên suy xét tƣờng tận. Can năm là
cha chi là mẹ, nhật can là bản thân còn chi là vợ. Can tháng là huynh còn chilà đệ, chi giờ là
con gái còn can là con trai.
Sát sau khắc năm, cha mẹ sớm mất. Trƣớc Sát sau khắc, tử tức tất suy. Mã nhập cung Thê, tất
đƣợc vợ có tài năng trong gia đình. Sát lâm cung Tử tức, tất con trai gây ra bội nghịch. Lộc
nhập cung Thê, ăn lộc vợ. Ấn lâm Tử tức cung, nhận vinh con cái. Kiêu cƣ Tổ vị, là cơ phá
tổ. Tháng Tài Quan vƣợng, đƣợc của cải của cha. Chỗ kỵ Tài thƣơng Lộc bạc, tối sợ Quỷ
vƣợng thân suy. Thấy Thực thần chiếm, ngƣời vật béo phì. Kiêu Ấn trọng sinh, của cải Tổ
tiên phiêu đãng.
Hàm Trì Tài lộ chủ dâm túng xa xỉ. Hung sát hợp năm đề phòng Tỉ Nhận. Đào Hoa trọng
mang hợp thần, loại hạng ăn chơi. Dịch Mã nếu gặp vật xung, chiều ở Sở sáng ở Tần. Kim
hỏa giao tranh, đoán không lễ nghĩa. Ấn Tài đều mất, thiếu tổn cha mẹ. Đào Hoa hội Lộc, tửu
sắc vong thân. Tài vƣợng Kiêu suy, vì Tài tang mệnh. Thân lâm năm mộc dục, e gặp thủy
ách. Chủ nhập đất tranh đấu, tất gặp hỏa thƣơng.
Tài sinh Quan, dùng của cầu quan. Tài phôi Ấn, tham tài mất chức. Tài vƣợng sinh Quan, tự
thân vinh hiển. Tài sinh Sát đảng, tuổi trẻ chết yểu.
Độc Sát xung phá phế ngƣời nhàn rỗi, chƣ Sát phùng chu đƣờng hung ngoan. Thiên can
nhiều Sát, gặp can năm phải chết yểu. Địa chi nhiều Quỷ, gặp chi năm tất kiến hung tai. Tài
sinh Quan, Quan sinh Ấn, Ấn sinh thân, phú quý song toàn. Thƣơng đảng Tài, Tài đảng Sát,
Sát khắc thân, hung cùng lƣỡng bức.
Dậu Dần hình hại, kế hại hôn nhân. Tị Mão phong lôi, quá nóng tính. Sát Quan hỗn gặp, là
cửu lƣu kỹ nghệ. Tài Lộc tọa Mã, là khách kinh thƣơng. Mã lạc Không Vong, dời nhà phiêu
bạc. Lộc gặp xung phá, cánh bèo ly hƣơng. Âm nhiều lợi ở nữ nhân, dƣơng thịnh lợi cho nam
tử. Âm thịnh hơn dƣơng, nữ chủ hƣng gia. Dƣơng thịnh hơn âm, nam đang xây phủ. Thuần
dƣơng nam tất cô quả, thuần âm nữ tất khốn cùng.
Năm sinh Quan quý, hóa hung sát mà uy danh vạn cổ. Bào Thai lâm ngày, gặp Ấn thụ mà lộc
hƣởng ngàn chung. Nhất khí là căn, biểu thị tú xuất quần anh. Lƣỡng can không tạp, ngƣời tài
đức nỗi danh xuất chúng. Mộc tú hỏa minh, thông minh tuấn tú. Thủy thâm thổ dầy, làm tàu
bè lớn vƣợt sông. Mệnh nguyên sinh Sát phùng thân vƣợng, tất chủ gia quyền. Lâm quan tuế
gặp quý nhân, ăn bổng lộc trọng. Thƣơng quan rất cẩn khử quan tận, chế Sát không bằng hóa
Sát cao. Nếu nhƣ hóa thần nhƣợc, chế thần cƣờng, thi ân không đủ mà có oán. Hóa thần
vƣợng, chế thần suy, tài năng lâm sự không quyết đoán. Có Sát không có Ấn khiếm khuyết
văn chƣơng, có Ấn không có Sát thiếu uy phong. Sát Ấn lƣỡng toàn, văn võ đều kiêm. Vận
suy phát mà vận vƣợng dừng, vận vƣợng phát mà vận suy chết. Chỗ này là Xuân Thu luân
phiên, thiên vận hồi quyển, lý lẻ muôn đời là không đổi vậy.
12-05-16, 11:10
lesoi
425 | Tam mệnh thông hội

Kim Ngọc phú

Sƣu tầm bát tự, chuyên luận Tài Quan. Thứ nghiên cứu ngũ hành, phải tìm khí hậu. Luận Tài
Quan hƣớng bối trọng khinh, khảo sát khí hậu thiển thâm sinh tử.
Nó đến khắc ta là Quan Quỷ, thân vƣợng tất có quyền. Ta đi khắc nói là Thê Tài, can cƣờng
thì phú.
Năm tổn thƣơng Nhật chủ, là cha và con bất hoà. Giờ khắc Nhật thần, là mệnh con không
tuân ở cha. Năm khắc ngày, là trên có thể phạm dƣới. Ngày khắc năm, dƣới đi phạm trên.
Nếu đƣợc có vật chế nhật can, thì có thể hóa ác thành cát.
Bản Chủ lại cần phùng Hỉ thần, thì biến hung thành cát.
Hỉ thần khánh hội, nên biết tài sản hƣng long.
Tứ trụ vô tình, định kiến họa đoan cùng lấy.
Hoặc thấy Bản Chủ tƣơng xung, tam hình trùng điệp. Tuế Vận khinh xâm, tất gây ra tai hoạ.
Ngũ hành thuần túy nhập cách, phong thanh đài các.
Thân cƣờng lại gặp Thất Sát, trấn thủ đô thành.
Không có Tài Quan mà có cách cục, là Thanh vân đắc lộ. Không có cách cục mà có Tài
Quan, hoàng giáp thành danh. Tài Quan cách Cục đều tổn, không bần hàn thì công danh cũng
gian truân.
Nhật can cùng nguyệt lệnh đều cƣờng, không vì nghèo tất là ngƣời ẩn dật.
Bính Đinh tọa Nam Ly mà không có chế, là bất tuân lễ pháp, kẻ hung bạo.
Nhâm Quý gặp Mậu Kỷ tƣơng ứng, là ôm lấy tài đức, ngƣời thông tuệ.
Tân phùng Ất mộc ở mộ Nam, tuy phú mà bất nhân.
Bính phùng Tân kim trấn ở bắc, tuy bần mà có đức.
Năm tháng giờ có Thiên Ấn, cát hung không này sinh. Đại vận Tuế quân phùng Thọ tinh, tai
ƣơng lập tức đến.
Lúc nhỏ mất sữa, Thực thần phùng cung hình khắc. Thanh niên tranh vanh, vị trí Tài Quan cƣ
thuần túy.
Ngày dƣơng Thực thần đắc địa không có xung tổn, là ám hợp Quan tinh.
Ngày âm Thực thần không có phá suy cần phải phù hợp, thì thân cận Ấn thụ.
Thiên Tài có thể lợi ích là sống thọ. Dƣơng Nhận thiện đoạt Tài hóa Quỷ. Tài tinh có phá,
phá tổ mà đi tha hƣơng. Ấn thụ bị thƣơng, mất tổ nghiệp xa rời đất tổ.
Nhân mệnh lấy Quý thần là phúc, gặp khắc hãm thì hung họa không cát tƣờng, ngũ hành hội
sao hung là hoạ, hỉ hợp Sát cùng Thực thần là quý.
Mệnh suy Sát vƣợng, gặp Thiên Xá nhị Đức là cát tƣờng. Thân nhƣợc Tài phong, hỉ Dƣơng
Nhận Huynh đệ để trợ.
Nguyệt lệnh gặp Thực thần kiện vƣợng, thích ẩm thực mà tƣ chất sung túc.
Tứ trụ có cát tinh tƣơng phù, mang kim tích ngọc. Ngũ hành không có hung sát xâm phạm,
thanh danh hiển dƣơng.
Dần Thân Tị Hợi trùng điệp phạm, có tâm thông minh phát sinh. Tý Ngọ Mão Dậu trọng
phùng, dẫn đến đam mê hoang dâm tửu sắc.
Đào Hoa mang Sát, tâm ý xƣơng cuồng. Nhị Đức phùng Ấn, đức tính nhân từ. Thực thần
nhiều, mà thích tham ăn ẩm thực.
Chính Quan vƣợng, mà tiếp nhận mƣu lƣợc. Kiêu thần hƣng thịnh, tuổi trẻ chết yểu. Tƣớc
tinh vƣợng, lão thọ di cao.
12-05-16, 11:11
lesoi
Muốn biết nữ mệnh khó kết hôn, vận nhập vị trí bối phu.
Muốn biết nam nhi cƣới sớm, định là vận hợp đất Tài.
Tử khắc trùng trùng, Sát không có Quan suy Thƣơng Thực trọng.
Thƣơng thê trùng điệp, Tài khinh thân vƣợng Tỉ Kiếp nhiều. Nếu không nhƣ vậy, định là
426 | Tam mệnh thông hội

hình xung vị trí thê thiếp.


Ám hội Tài tinh, nhiều thê thiếp. Hƣ hƣớng Tài vị, chủ nhiều vợ.
Tài tinh nhập mộ, tất định hình thê. Chi dƣới phục Tài, thƣơng yêu thiếp hơn vợ. Thê tinh rõ
ràng, muốn cầu kiều mộc.
Đại vận lƣu niên, tam hợp đất Tài, tất chủ cát triệu hồng loan. Hoặc Quan lâm Tài bại, tài sản
suy tàn, thƣơng thê tổn thiếp, hôn phối khó thành.
Thê tinh nói vị trí ở cung nào, yêu cầu đích xác. Quan Lộc cƣ vị trí Thiên Trù, phải xét căn
nguyên. Cách cục có thuần túy, bỗng gặp ác vật tƣơng xung, cũng chủ tử vong. Có Tài Lộc
suy bạc, hoặc phùng tuế vận vƣợng tƣớng, cũng bỗng nhiên phát. Nhật cầu thăng hợp, Thực
thần vƣợng xứ Kiếp tài nhiều, sinh ra bần yểu, Tài Thực đắc địa Kiêu Ấn trọng. Quan nhƣợc
Sát cƣờng, không có chế thì yểu.
Nhật suy Tài trọng, đảng Sát là nghèo. Lại xem tuế vận, hung ở đâu cát ở đâu. Dần Thân Tị
Hợi dựa vào lẫn nhau, không di chuyển tất phải tha hƣơng.
Càn Khôn Cấn Tốn gặp qua lại lẫn nhau, cùng đuổi nhau tâm không chủ định.
Trong trụ nếu phùng Hoa Cái, gặp Nhị Đức là ngƣời thanh quý.
Quan tinh Thất Sát hoặc lạc Không Vong, ở cửu lƣu nhậm chức hƣ nhàn. Ngũ hành khắc
chiến, không hại nhật chủ thì không có hoạ.
Tuế vận cùng lâm, nếu tổn dụng thần tất có họa. Tài tinh nhập mộ, một chút hình xung tất
phát. Thƣơng quan thƣơng tận, hoặc thấy Quan tinh thì hung.
Có 18 cách, nên theo Thiện Ác mà suy tìm. Nói chung hệ ngũ hành, đều thủ suy vƣợng tiêu
tức. Thân vƣợng sao nhọc Ấn thụ, can suy không hỉ Tài Quan. Trung hòa là phúc, thiên đảng
là họa. Nếu thấy Quý thần triều củng, Lộc Mã phi thiên, Diêu hợp hƣ cách. Không đƣợc hình
xung gặp hợp, đều kỵ Thất Sát Quan tinh, đều sợ hợp trói, Điền thực là hung. Bỗng nhiên đến
vận Quan hƣơng, nên thoái thân mà né tránh chức vị.
Mã Bì phá Quan, khốn thủ đƣờng cùng. Lộc vƣợng Tài phong, làm quan cao ngất. Nhƣ lâm
xứ hỉ lấy phải họa, là do tam hợp còn ẩn hung tinh. Hoặc phùng xứ hung mà lại cát tƣờng,
chính là Cửu cung mà lộ cát diệu.
Muốn biết chức phẩm cao thấp, phải tìm vận thần hƣớng bối. Thanh kỳ trắc tuổi trẻ thành
danh, khuyết tì thì về già đắc địa. Đƣờng mới hanh thông, quyền cao tƣớc hiển. Đồ trình trục
trặc, là lộc bạc quan thấp.
Suy tìm vị trí tử tức, trƣớc xem Thê cung. Tử tuyệt thì đa số khó tồn. Thái vƣợng là tìm kiếm
cửa khác. Tử tinh hiển lộ, tử tức tất nhiều. Hình hại Tử tức cung, nam nữ khó đƣợc.
Nếu hỏi huynh đệ nhiều ít, tinh tế chọn can chi tứ trụ. Nguyệt lệnh tuy cƣờng, lại xem vận
thần hƣớng bối. Tử tuyệt hình thƣơng, anh em mất thứ tự. Tƣơng sinh khánh hội, anh em kết
vinh.
Huynh đệ thân vƣợng, phụ mẫu có suy. Tài bạch nhiều cung, sớm có tang mẹ. Nếu thấy Quan
Quỷ xuất ra, mẹ lại có thọ. Nhƣ phùng thoát khí xếp nối tiếp, cha vẫn có thọ. Nhâm lâm ở
Ngọ, Quý tọa Tị. Nắm trung hòa là Lộc Mã đồng hƣơng, thoái hƣu tù cũng là Thai Nguyên
tuyệt địa. Bính lâm ở Thân, Canh tọa ở Dần, Kỷ nhập Tốn Càn, Ất lâm Song Nữ. Kim ngồi
hỏa vị, Giáp tọa Khôn cung, danh viết hƣu tù, rất sợ khắc chế. Thất Sát kỵ phùng nói tang ma
hồn phách, Thọ tinh vui gặp viết là Hoàn Hồn. Thiên mệnh có thi hành, trí lực khó xuất; bộ
phận tiếp nối tạo hóa, âm đức có thể đoạt. Bần hàn hết tận, có thể khiến cho nhà nghèo xuất
công khanh. Xa xỉ thái quá, vẫn khiến giàu sang sinh nghèo đói.
Gia sản hao phí, định sinh con trai chẳng ra gì. Kết hôn tự hình, tất cƣới thê thiếp không thọ.
Tứ cung bối lộc, không thể vọng cầu. Quan tƣớng không thành, lúc Tài gặp phí. Bát tự không
có Tài, cần phải an phận. Vƣợt ngoài nếu tham, tất gậy ra hung sự. Y! Cam bần nuôi vụng,
vốn không có Tài cung hiến. Vổ bụng thổi tiêu, sao Ngũ Viên tỏa chí! Chẳng lẽ là mệnh vậy,
chỉ cần thuận mà thôi.
12-05-16, 11:12
lesoi
427 | Tam mệnh thông hội

Kinh Thần luận

Ngũ hành sinh vƣợng, là ngƣời vinh quý trong triều đình.
Tứ trụ hƣu tù, là khách ở ẩn thanh tu.
Quỷ vƣợng thân suy, thiếu niên khó mà vinh hoa.
Lộc phá Thân hình, tuổi trẻ không nơi nƣơng tựa.
Nam ít nữ nhiều, chỉ vì Âm thần thái trọng.
Nam nhiều nữ ít, định là có lệch Thuần Dƣơng.
Nghịch khắc Huyền Châm, là thế hệ bị tù tội, khắc mặt đánh sắt.
Khôi Cƣơng Sát Nhận, thân dễ bƣớc vào đƣờng quân ngũ.
Quan gặp Vong Kiếp kiêm Thất Sát, là đảm nhận võ tƣớng.
Quý điền Tài Ấn gặp Nhị Đức, xứng làm trung thần.
Tài xung Lộc phá, mua bán giết mổ gia súc.
Lộc vƣợng thân cƣờng, khách quý nhà giàu có.
Cô thần gặp Hoa Cái, đạo sĩ tăng ni.
Kiếp Sát gặp Khôi Cƣơng, thầy mo thuật sĩ.
Hàm Trì tọa vƣợng mang Nhận, vì sắc vong thân.
Dịch Mã lâm hình mang Lộc, vì môi giới làm giàu.
Mệnh trƣờng phú quý, bởi vì Thiên Đức gặp Trƣờng Sinh.
Y thực sung túc, chính là Tài tinh không có khắc phá.
Nhật cƣ chuyên lộc, chắc chắn là địa chi hoàn toàn hội quý.
Chi là Nhận can là Quan, tháng giờ thấy Quan tất hiển danh.
Mậu Ngọ, Mậu Ngọ, quý nhân hóa Nhận sinh thân.
Củng Lộc, củng Quý, họa là lúc Tuế đến Điền Thực.
Tài đa hiển lộ, có bại có thành.
Tài thiếu ám tàng, tiền nát quán mục.
Tuổi trẻ không con, đều là do ngày giờ hình thân.
Về già thêm con, vì biết giờ đƣợc Nhật Quý.
Bính ở Thân, Canh ở Dần, Giáp ở Tị, là chân quý nhân.
Giáp Tý, Kỷ Tị, Nhâm Thìn, chuyên nghề y bốc.
Ngày phùng Nhận Sát, vợ tất chết khi sinh đẻ.
Giờ gặp Cô Hƣ, sinh con không ra gì.
Trong chi Tý Mão phùng một quý, phú mà không bần.
Can chi hình hợp mang Hàm Trì, làm ca kĩ đón khách trƣớc cửa.
Trụ giờ Thiên Quan có chế, về sau con cái anh kỳ.
Trong trụ có Tài vƣợng sinh Quan, tuổi trẻ làm quan.
Hàm Trì, Hoa Cái, tháng giờ phạm nhau là chủ mồ côi.
Điếu Khách, Tang Môn, tuế vận cùng lâm phƣơng tang phục.
Thủy nhiều thì thế hệ phiếm lạm, lâm chuyện không thành.
Thổ nhiều là kẻ ngu trọc, hóa sinh lấy phúc.
Mã nhiều thì quanh năm bôn tẩu.
Lộc nhiều thì công việc khó ngừng.
Hình nhiều thì chung thân có tàn tật.
Phá nhiều thì cả đời khổ hận.
12-05-16, 11:13
lesoi
Mã nhiều Lộc ít, là thề hệ bôn ba quỷ trá.
Tài vƣợng thân cƣờng, lè kẻ sĩ trung lƣơng hiển hách.
Hàm Trì mang hợp gặp Quỷ tặc, tán gia hại ngƣời.
428 | Tam mệnh thông hội

Kiếp Vong Sát Nhận hội Thƣơng quan, hung ngoan rƣớc họa.
Thiên Tài thân vƣợng, ngƣời truy cầu làm con buôn.
Lục hợp hội Tài, thế hệ kinh doanh hƣng thịnh.
Củng Ấn củng Quý, là khách chốn tam đảo ngọc giai kim điện.
Củng Lộc củng Tài, vạn khoảnh tang điền sánh Chu Lý.
Có Ấn không có Quan, mệnh kiến hƣởng thành thanh cao.
Kim thần thông thủy, là kẻ bần hàn mang tật.
Ngu si vô tri, đều là do tiết khí hại thân.
Biết võ biết văn, Thiên Đức quý nhân sinh Ấn.
Phong lƣu phá đãng, Ấn nhiều can nhƣợc tọa Hàm Trì.
Áo dài khăn đóng, do hai sao Cô Quả lâm Hoa Cái.
Đầy bàn Dƣơng Nhận, quyết định phân thây.
Ngày giờ đều có Không, vợ con bất lực.
Can chi trọng phạm còn thêm Quan, cố tật triền thân.
Một chữ Thiên Ất gặp Trƣờng sinh, lợi danh đều có.
Lƣng gù chân thọt, chỉ vì Sát thần gặp Khúc Cƣớc.
Nho Chu tàn tật, bởi vì Quỷ vƣợng ngày suy nhƣợc.
Chi vƣợng can suy nhà kiên cố, Chi suy can vƣợng ngoài hƣ hoa.
Tứ trụ liên châu, Quan Ấn trợ tôn cƣ nhất phẩm.
Ngũ hành liền nhau, Tài Lộc hƣởng giàu nghìn chung.
Thân nếu cƣơng cƣờng, không sợ quỷ đến khắc ta.
Nhật can nhu nhƣợc, hỉ phùng Tỉ Kiếp tƣơng phù.
Thân nhƣợc Thực nhiều là yểu thọ.
Kim thần mang hỏa thì quý.
Khảng khái là Thiên Tài, Kiếp Nhận.
Keo kiệt là Chính Quan, Chính Tài.
Thất Sát không có chế, chính là kẻ hung ác.
Thƣơng quan Hàm Trì, định làm khách trên đƣờng.
Phàm thấy nhật can thái nhƣợc, trong có chỗ nhƣợc phục sinh.
Nếu thấy vƣợng tƣớng tƣơng sinh, cũng có khắc phá ở trong vƣợng.
12-05-16, 11:13
lesoi
Tinh Vi luận

Phàm xem nhân mệnh, chuyên luận lục cách.


Phùng Quan xem Tài, kiến Tài là phú quý.
Phùng Sát xem Ấn, gặp Ấn lấy vinh hoa.
Phùng Ấn xem Quan mà gặp Quan, 10 có 7 phần quý.
Phùng Tài kỵ Sát mà có Sát, 10 có 9 phần là bần.
Quan hỉ lộ, lộ thì thanh cao.
Tài nên ẩn tàng, tàng thì phong hậu.
Quan Sát hỗn tạp, thân nhƣợc thì bần. Quan Sát tƣơng đình, hợp Sát là quý.
Năm tháng có Quan tinh, tuổi trẻ làm quan.
Ngày giờ có Chính Quý, về già thành danh.
Bào Thai phùng Ấn thụ, Lộc hƣởng nghìn chung.
Tài khí phùng Trƣờng Sinh, điền phì vạn khoảnh.
Thu Đông Quan tinh phòng Nhận Thƣơng, hoàn toàn thấy Nguyên Vũ (Huyền Vũ là giữ
hƣớng bắc, còn gọi là Nguyên Vũ) quý không sai.
Tháng chạp âm lịch có Thƣơng quan hỉ kiến Quan, phá Ấn thƣơng trọng họa mà chết.
Tài vƣợng sinh Quan, là quý ít mà nhiều phú.
429 | Tam mệnh thông hội

Thƣơng quan kiến Tài, Quan vừa cao mà Tài sung túc.
Không có tổn thƣơng thì không quý, có bệnh mới là quý.
Tuy đầu là dụng, nhƣng cuối khử đi thì mới phúc. Lý kỳ diệu ở chỗ này, không cần tìm bên
ngoài.
Nhƣ hỏa viêm thủy thiếu gặp Canh Tân, đừng lấy thân vƣợng Quan khinh mà thủ.
Hoặc thổ trọng mộc tuyệt phùng Nhâm Quý, khó lấy Quan vƣợng thân khinh mà quyết.
Tài khinh chớ gặp Kiếp địa, Ấn nhiều tối diệu Tài hƣơng.
Tài vƣợng sinh Quan, vì hối lộ lấy quan.
Sát tinh chế Nhận, cƣớp báu vật ghi danh.
Thân vƣợng có thể thủ Thiên Tài, tất đƣợc tài phú.
Chủ kiện Chính Tài bị Kiếp, lần lƣợt thấy thê tai.
Kiếp tài Dƣơng Nhận nhập Quan Sát, làm thần đài các.
Quy Lộc xung Thực phùng Nhận Thƣơng, quý nơi Lang Miếu.
Thân vƣợng có Sát phùng Ấn thụ, đoán là quan quyền.
Chủ nhƣợc phùng Ấn kiến Tài tinh, làm kẻ tầm thƣờng.
Dƣơng Nhận, có Thiên Quan chế, xứng chức nắm binh hình.
Chính Quan, Chính Ấn không tổn thƣơng, thủ lệnh làm quan quản dân.
Tài vƣợng giá sắc, làm quan cấp lƣơng.
12-05-16, 11:14
lesoi
Phi Lộc triều Dƣơng, chức vị cận vua.
Càn Khôn vốn là thanh khí, vinh quan kiến quốc.
Tý Ngọ là cực tôn, làm quan hoàng môn.
Ngày Quý giờ Quý kiêm Sửu Hợi, khôi danh cập đệ nhập Hàn Lâm.
Ngày Nhâm giờ Nhâm gặp Dần Thìn, cao tƣớc thừa ân đăng Ngự Các.
Nhật Đức kiến Khôi Cƣơng, dù là cát cũng chỉ là kẻ sĩ bần hàn.
Khôi Cƣơng gặp Tài Quan, ngƣời đảm nhận y lộc đắc địa.
Thƣơng quan kiến Quan, diệu là gặp đất Tài Ấn.
Tài tinh phá Ấn, quý hành đất Tỉ Kiếp.
Mệnh trọng Tài, vận phùng Sát, rất cát tƣờng.
Mệnh trọng Sát, vận phùng Tài, hung có thể quyết.
Giáp Ất nhập vận tây phƣơng, thân vƣợng thì có thể hứa lấy công danh.
Nhâm Quý kinh lộ ở đất nam, chủ kiến có đƣờng Tài Lộc.
Kiếp Sát không nên hành đất vƣợng, Thực thần tối diệu đất Thiên Tài.
Nữ mệnh Thƣơng quan, đƣợc Quy Lộc là cực cát.
Nam tạo Dƣơng Nhận, thân nhƣợc gặp là tối kỳ.
Kim thần, Kiến Lộc, Lan Xoa, nữ mệnh gặp là tối kỵ.
Dƣơng Nhận, Thƣơng quan, Thất Sát, nam tử gặp là đƣợc quyền.
Kim thần nhập hỏa phùng Sát Nhận, quý là không sai.
Sát trọng có Ấn phùng Thực Thƣơng, vinh là có chuẩn.
Chính Quan, Chính Ấn, quan cƣ không hiển.
Dƣơng Nhận, Thất Sát, làm quan nắm hiển danh.
Thân vƣợng vô y, làm kẻ tăng đạo.
Đào Hoa cổn lãng, làm kẻ xƣớng tỳ.
Kim nhƣợc hỏa cƣờng, giống nhƣ thổ mộc tiêu dong.
Thổ nhiều thủy ít, làm công may vá.
Mây nhiễu Ngũ Hồ, đầu vinh sau nhục tất thân bần.
Biến dã Đào Hoa, cả đời phong lƣu tửu sắc.
Vong thần, Củng Sát, làm tặc đạo.
Tú khí thất thời, làm kẻ sĩ thanh bần.
430 | Tam mệnh thông hội

Ấn vƣợng thân cƣờng đa số thích tửu, Đinh Nhâm đố hóa phạm dâm ngoa.
Thân Ấn đều vƣợng, cả đời ít bệnh.
Thiên Nguyệt Đức trợ, xử thế không có tai.
Thực thần sinh vƣợng, tự thắng Tài Quan, quý hơn Tài Sát.
Có bỏ mệnh tựu Tài, tựu Sát, tựu Quan là có dƣ phú quý.
Vô y chuyên vƣợng tuyệt Thực, tuyệt Tài, tuyệt Quan là bần cùng vô hạn . Thân nhƣợc bỏ
mệnh phải không có căn, làm quan đồ tể.
Can suy thân hóa đƣợc thời kỳ, địa vị cận thiên đình.
Nam mệnh loại thuộc Tòng Hóa, Chiếu phản Quỷ phục, nên suy xét cho tinh tƣờng. Nữ mệnh
thuần hòa thanh quý, trọc lạm xƣớng dâm, nên xét cho kĩ vậy.
12-05-16, 11:18
lesoi
Nguyên Diệu luận

Thƣờng nghe phân Nhị Khí để định Tam Tài, truyền bốn mùa mà thành vạn vật. Nhân mệnh:
Vinh khô đƣợc mất, đều ở hết trong ngũ hành sinh khắc. Phú quý vinh hoa, không vƣợt ra
ngoài bát tự trung hòa. Trƣớc tiên xem Tiết khí thiển thâm (nông sâu). Thứ xem Tài Quan
hƣớng bối. Phàm trong nhân mệnh, thực ra khó mà có đủ Tài Quan, còn lại xem trong cách,
chỉ cần Hƣ Yêu Lộc Mã. Tiên hiền đó lấy thành công thức, hậu học phải biết biến thông.
Thái quá mà không có khắc chế, là bần tiện. Bất cập mà mất sinh phù, là hình yểu.
Nên hƣớng mà vận bối, quyết là bần tiện. Nên bối mà vận hƣớng, định là khốn cùng. Hỉ sinh
mà phùng sinh, quý có thể biết. Thích khắc mà đƣợc khắc, cát không thể nói.
Mộc thịnh phùng kim, đoán làm trụ cột tài năng. Thủy nhiều gặp thổ, diệu là có công thành
đê ngăn. Hỏa luyện thu kim, nung luyện thành khí kiếm sắc nhọn. Mộc khai thông thổ, bồi
thành mùa giá sắc. Hỏa viêm có thủy, danh đều là Ký tế. Thủy ít kim nhiều, hào viết tƣợng
Thể Toàn.
Hợi Mão Mùi phùng ở Giáp Ất, phú quý không sai. Dần Ngọ Tuất phùng ở Bính Đinh, vinh
hoa có chuẩn.
Canh Tân cục toàn Tị Dậu Sửu, vị trọng quyền cao. Nhâm Quý cách đƣợc Thân Tý Thìn, Lộc
cao Tài dƣ. Mậu Kỷ cục toàn tứ quý, vinh quan Chƣ Tào. Lại gặp Đức Tú Tam Kỳ, danh
dƣơng tứ nhạc.
Phƣơng mộc có đủ Dần Mão Thìn, tự có công danh. Kim đƣợc đất Thân Dậu Tuất, phú quý
không sai. Thủy quy nguyên Hợi Tý Sửu, lợi danh đều có; hỏa lâm đất Tị Ngọ Mùi, ngƣời
hiển đạt.
Mộc vƣợng cần hỏa cùng chiếu sáng, vây thu có thí nghiệm. Kim kiên thích thủy bao hàm,
văn học kham khoa. Dụng hỏa sầu thủy, dụng mộc sợ kim. Xuân mộc trùng trùng, là dừng
nơi thái vƣợng vô y. Hạ hỏa viêm viêm, chớ lấy có áp chế thái táo. Thu kim bén nhọn là tối
kỳ. Đông thủy uông dƣơng chuyên khả mỹ.
Sinh ta phù ta là kỵ, có công khắc ta chế ta. Ngũ hành có phối, viết là Hóa, viết là Trì, nhật
hòa. Tứ trụ vô tình, là loạn, là thƣơng, là họa.
Trong Hợp phùng xung chiến, nhƣ an ninh mà gặp loạn lạc. Tử địa phùng sinh, nếu phủ cực
lại lấy thế thịnh. Một trì một loạn, trong trụ cổn lãng hình xung. Chợt vƣợng chợt suy, mệnh
lý giao hoành phá hại. Lƣu Trách không đỗ giáp, chỉ vì năm văn học suy. Lý Quảng không
làm quan, bởi vì ngƣời cƣờng Mã bại.
Muốn biết cả đời quý tiện, nên suy tinh Khoa Giáp. Muốn hỏi chức phận cao thấpp, xem xét
vị trí Tài Quan. Cầu quan không thành, xung thƣơng mệnh quý liền đăng khoa. Công danh đã
thành, phúc không thể lâm thƣơng lấy phá. Khôi thắng Quan, thì chung thân không đậu quan.
Quan thắng Ấn, mà nhổ nƣớc miếng thành danh. Mộc tƣớng hỏa minh, thế hệ này cần đăng
giáp đệ.
431 | Tam mệnh thông hội

12-05-16, 11:19
lesoi
Kim hàn thủy lạnh, cuối cùng là bần hàn. Thai Nguyên Nhật chủ, Đề cƣơng Ấn vƣợng đoạt
khôi nguyên. Tụ quý ở năm, cao tọa Ngọc Đƣờng vinh Hàn Uyển.
Bệnh là Khôi tinh, khử bệnh mới có thể thành tựu. Văn là giáp thủ, Quan đến mới thấy thăng
quan.
Nguyên Vũ cách mà nhiều Tỉ Kiếp, Thái Ất Ngọc Đƣờng chân giáp đệ.
Chu Tƣớc phú mà Thực thần vƣợng, năm Quan tuế Ấn định đăng khoa.
Tỉ kiên nhiều thấy Quan Sát, Ấn là Khôi tinh, hợp tuế xung quan cập đệ.
Quan Sát trọng gặp Ấn Thƣơng, chính là có khoa giáp, năm Thực tuế Ấn là đề danh. Mộc
khôi nếu lâm năm tháng vƣợng, chính là Trạng nguyên.
Hỏa tú nhƣ gặp can Tuế viêm, thuộc loại giáp bảng Trạng Nguyên.
Số khoa bất cập, chỉ vì Tài phá Văn thƣ.
Nhất cử thành danh, chính là Khôi tinh mang giáp.
Ngũ hành tiêu trƣởng, đều vì quỷ lấy thành công.
Tứ trụ hƣng long, nếu không có bệnh là không quý. Tuy dụng là Quỷ bệnh, cuối cùng đƣợc
khử là phúc. Lại tìm năm tam hợp Lộc Mã, phải xem năm Thiên Ất Ngọc đƣờng.
Bính Đinh sinh ở mùa đông, quý ở Mậu Kỷ trên đầu. Canh Tân sinh ở mùa hạ, diệu ở Nhâm
Quý đắc cục. Giáp Ất sinh mùa thu, quý cần Nguyên Vũ. Canh Tân sinh mùa hạ, diệu dụng ở
Câu Trần. Bính Đinh thủy nhiều sợ bắc địa, phùng Mậu Kỷ lại lấy quý suy. Canh Tân hỏa
thịnh sợ nam phƣơng, gặp Mậu Kỷ là lấy quý đoán. Giáp Ất sinh mùa thu thấu Bính Đinh,
chớ lấy Thƣơng xem. Mậu Kỷ sinh mùa hạ lộ Canh Tân, nến lấy quý luận.
Hỏa mang nhiều thủy, quý hành mộc vận. Thổ phùng mộc vƣợng, vinh nhập hỏa hƣơng.
Canh phùng thủy trọng, thủy lạnh kim hàn, tối hỉ viêm nhiệt. Mậu gặp Dậu nhiều, thân suy
khí thoát, rất thích Huỳnh Hoàng (hoả).
Bất cập cần sinh phù, thái quá cần cƣớp khắc. Thanh Long toàn tòng cách kim, vừa bần vừa
tiện. Bạch Hổ bị thuỷ Nhuận Hạ, viết phú viết vinh. Xuân nhiều mộc mà ít thủy, bổ nạp làm
tăng. Hạ hỏa viêm mà kim suy, nói trâm cài trên nón. Câu Trần cục toàn Nhuận Hạ, làm kẻ
bôn ba. Chu Tƣớc tam hợp Nguyên Vũ, kẻ khốn nhƣợc. Kim kiên hỏa nhƣợc, ngƣời hành
thƣơng mua bán. Thổ bại thủy ngƣng, khách tha hƣơng phá tổ. Kim sinh mùa thu thổ trùng
điệp, bần không có tấc sắt. Hỏa sinh mùa hạ thiên kim trùng điệp, phú có nghìn chung. Xuân
mộc chuyên gặp nhiều thủy, làm kẻ bần tiện. Đông thủy độc phùng kim thịnh, thế hệ hàn
nhƣợc.
Thìn Tuất Sửu Mùi gặp hình xung, không có ngƣời nào là không phát.
Tý Ngọ Mão Dậu mang hình hợp, phạm đa dâm.
Hạ kim điệp hỏa, thu thủy trọng kim, quá thiên đảng thì không bần cũng tiện. Xuân kim
nhiều hỏa, đông thủy thịnh kim, không có chế phục thì không yểu cũng bần. Thu mộc vô căn
tòng phúc vợ, lộc quý sùng cao. Hạ kim thất địa phối phu vinh, công danh hiển đạt. Hỏa
hƣớng xuân lâm phùng mộc vƣợng, nên đi cầu danh. Thổ lâm quý địa thấy nhiều kim, có
kham làm quan. Giáp Ất mùa hạ vinh thổ tinh hậu, nửa công danh hỉ đủ điền trang. Bính
Đinh đông thịnh thủy nguyên thanh, tƣớc lộc toàn hân vinh cẩm tú.
Chuyên Lộc mang Thực Thƣơng, cầm quyền ngoài song cửa. Dƣơng Nhận nhập Quan Sát,
uy trấn biên cƣơng. Củng Lộc, củng Quý, Giáp Khâu, tƣớc lộc phong dụ. Đảo xung, Diêu
Hợp, Lan Xoa, công danh hiển đạt.
Nhâm xu Cấn và Giáp xu Càn, là quan thanh danh. Tân triều Dƣơng cùng Ất Thử quý, làm
quan văn học. Cục toàn Phong (Tị là phong) Hổ (Dần là Hổ), đấng tài lƣơng. Trụ gặp Vân
Long, đức đại nhân. Tứ khố toàn bị Long (Long là Thìn) biến hóa, phùng Đại Hải là tôn đấng
Cửu Ngũ. Tam Kỳ cục tú Phƣợng đằng vân, gặp Thiên Môn ( là Hợi) làm quan đài các.
Vƣợng Tài Quan phú quý, Ám Lộc Mã lấy vinh hoa. Nhập cách là lấy quý mà suy, phá cục là
432 | Tam mệnh thông hội

đoán không có quý. Nghiên cứu một lý mà xét trăm đƣờng, rõ vài câu nói mà thông vạn loại.
Hậu học quân tử, nên xét chỗ này.
12-05-16, 11:19
lesoi
Minh Tân tiên sinh Cốt Tủy ca

Muốn biết ngũ hành sinh tử quyết,


Dễ dàng sao nói cùng phàm.
Ngũ tinh chỉ dựa ở là hạn,
Tử Bình chuyên lấy trong vận quyết.
Sinh biết phú quý hỏi tiền trình,
Giờ chết không tƣờng làm sao đoán?
Cách cục chỉ lấy dụng thần suy,
Dụng không thụ thƣơng ngƣời bất diệt.
Vận hành trƣớc phân 12 cung,
Xem ở cung nào chịu tiết nào.
Tài Quan Ấn thụ cùng Thực thần,
Phải biết khinh trọng thẩm phân minh.
Quan tinh sợ hành Thất Sát vận,
Thiên Quan càng sợ Chính Quan lâm.
Quan Sát hỗn hành phải suy xét,
Khử Sát lƣu Quan tử tế bình.

Lƣu Quan khử Sát chớ phùng Sát,


Lƣu Sát hội Quan Quan chớ gặp.
Quan Sát thụ thƣơng ngƣời tuyệt tự,
Lại xem Tài cách định tiền trình.
Ngày giờ Thiên Chính hỏi Tài đâu,
Lại sợ can đầu mang Sát đến.
Sát vận trọng phùng ngƣời thọ yểu,
Nào ngờ Thiên Chính đúng là tai?
Tự chuyên Thiên Chính đều là phúc,
Huynh đệ cùng chia là mối họa.
Vận đến Chính Tài tất cạnh tranh,
Đều cần Thiên Chính lƣỡng phân suy.
Có Tài Quan vận là vinh phát,
Quan vận Tài hƣơng là phúc thai.
Chỉ sợ nhật nguyên nơi tự nhƣợc,
Tài đa sinh Quỷ cản thân suy.
lesoi
Tài đa thân nhƣợc hành Tài vận,
Xứ này mới biết nhập tuyền đài.
Quan không thụ thƣơng Tài không động,
Thọ sơn cao Tủng sao có sụp?

Đệ nhất khó suy đất Ấn thụ,


Vận hành thân vƣợng tất vinh xƣơng.
Quan hƣơng hội hợp phùng Quan chức,
433 | Tam mệnh thông hội

Tử địa nên biết là tai ƣơng.


Nếu nhƣ phùng Tài đến hại Ấn,
Treo cổ rơi sông chết trong ác.
Quan cƣ đảm nhận ở đất tử,
Trù tính gặp đây ở bên đƣờng.
Ấn không phùng Tài ngƣời bất tử,
Từng cái nhƣ trƣớc suy tế tƣờng.
Tài Quan Ấn thụ phân rõ nói,
Lại có Thực thần không dễ quyết.

Thực thần hữu khí thắng Tài Quan,


Chỉ sợ tàn thƣơng trƣớc sau tiệt.
Đảo Thực vận gặp lại hại năm,
Phải biết sớm gặp ở tuyền đài.
Cách trƣớc dạy ngƣời nói đoản trƣờng,
Cách sau lại cũng tiệt trƣớc lộ.
Lại phân khinh trọng tử tế suy,
Rất sợ Tài Quan lâm tử tuyệt.
Thƣơng quan vận mệnh lại phùng Quan,
Là đoán lƣu dời họa bách đoan.
Nhật quý Nhật đức phùng xung chiến,
Mệnh này nguy vong có lập xem.
Phi thiên Củng Lộc sợ Điền thực,
Lại xem trói thần đến phạm can.
Nếu theo chƣơng Hỉ Kỵ mà đoán,
Cách cục phùng Thƣơng lấy yểu xem.
12-05-16, 11:20
lesoi
Cách sau sinh tử điềm không khác,
Đệ nhất Tài Quan là yếu khẩn.
Vận hành nếu không gặp Tài Quan,
Đã gặp Tài Quan trẻ yểu thọ.
Hỏi thọ phải biết hỏi Dụng thần,
Dụng thần thụ chế định khắc thân.
Thụ thƣơng chớ lấy liền là họa,
Phải dạy khinh trọng nhận lấy chân.
Dụng thần kiện vƣợng định không ngại,
Vận nếu gặp Thƣơng Thực trì trệ.
Từ chức lui quan cứ thế nói,
Vong gia bại nghiệp tổn cháu con.
Lục thân quyến thuộc còn liên luỵ,
Lễ phục thân tang bách sự lâm.
Dựa cái gì biết là có thọ?
Nhìn thẳng trên vận tử tế suy.

Nhật can cùng vận nhƣ phùng Sát,


Phùng Sát phùng hình họa đến xâm.
Ngoại địch vẫn còn phòng nội địch,
Ngoài ra chia cung tìm bên ngoài.
Nội phùng ngoại địch là tai trọng,
434 | Tam mệnh thông hội

Ngoại phùng nội địch là họa xâm.


Mậu Kỷ thổ cần phân tứ quý,
Tạp khí trung gian khó lại dễ.
Cận niên phân định gặp số phân,
Thụ chế thụ thƣơng theo khí Tuế.
Chỉ định cát hung trong vận này,
Năm nào tháng nào tai ƣơng đến.
Tý vận tuế phùng Thìn Tý quý,
Khắc ứng Thái tuế cùng nơi tháng.
Dần vận Bính Thân gặp giống năm,
Tị Bính cùng nhau loại họa phúc.
12-05-16, 11:20
lesoi
Mão vận Ất mộc sợ tƣơng phùng,
Trong Tị Mậu Canh Bính tạp hội.
Ngọ vận đến năm Ngọ Mậu hung,
Gặp năm Sửu Mùi là phải sợ.
Thân cung Canh Hợi chớ tƣơng phùng,
Dậu phùng Tân Sửu đều là kỵ.
Hợi vận Nhâm Giáp sợ Thân Quan,
Chỉ là 8 cung bao tứ quý.
Tứ quý từ đầu hỗn bát cung,
Nói chung xoay tròn nhƣ chỉ thị.
Không biết chỗ nào là vô cùng,
Can chi phối hợp cùng một vị.
Liền phân khinh trọng định hung tai,
Vận trọng Tuế khinh cùng hợp luận.
Cát hung đồng nhất tuế theo vận,
Đây là thiên kim bí không truyền.
Tôi vì tế thế viết kính tặng,
Nói ngƣời chớ có mà khinh khi.
12-05-16, 11:21
lesoi
Sưu Tủy ca

Tạo hóa trƣớc tiên xem Nhật chủ,


Sau nắm Đề cƣơng phân thứ tự.
Tứ trụ chuyên nhất luận Tài Quan,
Thân vƣợng Tài Quan nhiều phú quý.

Nhƣ còn thân vƣợng Tài Quan tổn,


Chỉ là sớm cầu chiều kiếm con.
Tài Quan vƣợng khi Nhật chủ vƣợng,
Áo bào đeo vàng có ngờ đâu?

Tài Quan vƣợng mà Nhật chủ nhƣợc,


Vận hành thân vƣợng là hàng đầu.
Nhật chủ vƣợng mà Tài Quan nhƣợc,
435 | Tam mệnh thông hội

Vận nhập Tài Quan giữ lợi danh.

Nhật chủ tọa dƣới có Tài Quan,


Nguyệt lệnh tƣơng phùng quý không khó.
Nói chung Tài Quan là khẩn yếu,
Tuổi trẻ phú quý lộc trèo cao.

Tài Quan suy bạc thân thái vƣợng,


Thái vƣợng vô y chịu cô hàn.
Lại có Ấn đến Tỉ Kiếp trợ,
Thƣơng thê khắc tử có thể xem.

Quan Sát thái trọng thân lại cƣờng,


Vừa gặp chế phục là hiền lƣơng.
Sát Quan củng Ấn quý không nhỏ,
Uy danh hiển hách định chấn dƣơng.

Sinh cƣ mùa hạ nhiều hỏa thổ,


Lợi phùng thủy cứu quý trung hòa.
Thủy hỏa nguyên lai cần Ký tế,
Quản giáo lợi danh trấn sơn hà.

Hỏa nhiệt viêm viêm nhƣ không thủy,


Vận hành đất thủy cũng là hay.
Thế thủy thao thao nếu không thổ,
Vận nhập đất thổ thật đáng vui.
12-05-16, 11:21
lesoi
Đông phƣơng nhiều mộc cần tây vận,
Tây phƣơng kim vƣợng thích đông hành.
Ngũ hành cứu nhau thành tạo hóa,
Nhân mệnh gặp đây phúc không khinh.

Tam Khâu Ngũ Mộ sợ kiến trọng,


Cốt nhục tham thƣơng tổn lục thân.
Đề cƣơng hình xung khắc phụ mẫu,
Ngày giờ đối xung thê tử khó.

Tỉ Kiếp Thƣơng quan nếu tái vƣợng,


Không những thƣơng thê lại tổn nhi.
Dẫu có một con cũng bất hiếu,
Hoặc là xin nuôi cũng không nghi.

Thân vƣợng Tỉ kiên tọa Dịch Mã,


Huynh đệ phiêu bồng tự nhiên tốt.
Bát tự Dịch Mã cùng tranh chạy,
Thân vinh lao khổ khắp đông tây.

Nếu đƣợc thân nhàn tâm bất định,


Động thì phong lƣu Tĩnh thì sầu.
436 | Tam mệnh thông hội

Nếu là Tài tinh tọa Dịch Mã,


Thê hiền không có không ung dung.

Tài tinh nhập khố chủ tụ tài,


Cẩn thủ giữ của không làm ngƣời.
Vợ con bủn xỉn thƣờng không trợ,
Chỉ sợ ám tàng Dƣơng Nhận giận.

Quan Sát trùng trùng không mang Tài,


Vợ có hỗ trợ không hài hòa.
Vô lễ bất kính cha mẹ chồng,
Tƣớc đoạt quyền chồng bài trong mệnh.

Quan tinh nếu cũng phùng sinh vƣợng,


Lại đƣợc trƣờng sinh vƣợng ở giờ.
Con cái thông minh lại tuấn tú,
Từng ngƣời con cháu đƣợc áo quan.

Nhật chủ Thất Sát mang Kiêu Thực,


Thê chủ hƣ thai hoặc đẻ non.
Kinh mạch không điều thành huyết tật,
Lại xem hành vận nhƣ thế nào.

Nam tử Kiêu Thực trùng trùng thấy,


Thân nhƣợc đa số ứng bệnh lao.
Nữ nhân Kiêu Thực là không cát,
Đẻ khó kinh ngƣời bệnh cũng nguy.

Nữ mệnh Quan vƣợng kiêm Tài vƣợng,


Vẫy gọi hiền phu lại có lợi.
Nếu nhƣ Tài Quan đều bị tổn,
Thƣơng phu khắc tử có ngờ gì.
12-05-16, 11:22
lesoi
Ấn thụ sinh thân thân càng vƣợng,
Là ngƣời hình khắc chủ bần cô.
Nếu gặp Quan hiển Tài lại hiển,
Cũng là vƣợt bƣớc quý nhân phù.

Nữ mệnh nếu cũng Thƣơng quan vƣợng,


Tọa dƣới Thƣơng quan sẽ mắng chống.
Sớm tối thì thào miệng không dứt,
Cuối cùng trăm năm hình vẫn khô.

Ất Tị Tân Mùi cùng Canh Ngọ,


Nhật can mang theo là rất cát.
Lại xem tứ trụ nhƣ thế nào,
Định chủ chồng hiền mình cũng quý.

Bính Đinh Tý Sửu thành tình xuân,


437 | Tam mệnh thông hội

Ngƣời sinh ngày này định bất đồng.


Giáp Ngọ Giáp Thân cùng Ất Dậu,
Tọa dƣới Tài Quan phú quý vinh.

Đinh Hợi Mậu Tý cùng Canh Dần,


Nhật chủ gặp đây phúc không khinh.
Tân Mão BÍNH thân cùng Đinh Dậu,
Tài Quan nội ẩn hiển thanh danh.

Kỷ Hợi Giáp Thân kiến Canh Tuất,


Ấn thụ Tài Quan ám lý tàng.
Lại gặp Bính Thìn đến Nhâm Tuất,
Tứ trụ phù Ấn không tầm thƣờng.
12-05-16, 11:23
lesoi
Giáp Tý Bính Dần cùng Đinh Mão,
Kỷ Tị Nhâm Thìn cùng Quý Tị.
Nếu là thân cùng nguyệt lệnh cƣờng,
Hƣ danh hƣ lợi lại phiêu bồng.

Tân Hợi Canh Thân cùng Kỷ Sửu,


Tọa dƣới Tài Quan cũng không có.
Thê cung Tử nữ là hƣ hoa,
Đông tây nam bắc là cửa nhà.

Giáp Dần Mậu Tuất cùng Canh Tý,


Nữ khắc trƣợng phu nam khắc con.
Kỷ Tị Bính Ngọ cùng Đinh Mùi,
Trùng trùng Nhâm Tý chủ cô cùng.

Tân Dậu Ất Mão cùng Mậu Ngọ,


Can chi đồng loại vợ không đủ.
Kỷ Mùi Canh Thân cùng Quý Hợi,
Nguyệt lệnh lại vƣợng thành họa hại.

Nhật chủ Tài Quan Ấn thụ đủ,


Tháng giờ phù hợp phúc triền miên.
Can chi đồng loại cùng thân vƣợng,
Khắc tử hình thê phá tổ điền.

Cùng đem tứ trụ phân cƣờng nhƣợc,


Chớ nắm âm dƣơng chỉ một lời.
Đây là ngũ hành chân diệu quyết,
Không gặp kẻ hiền chớ có truyền.
12-05-16, 11:23
lesoi
Chú giải 《 Thiên Nguyên phú 》

Tam tài tức định, ngũ khí hỗn đồng, phân chi nghịch thuận, hiền giả giai thông.
438 | Tam mệnh thông hội

Chú thích: Tam Tài là thiên can, địa chi và tàng can. Ngũ khí là khí kim mộc thủy hỏa thổ.
Hỗn đồng ở trong, là lấy dƣơng thuận âm nghịch mà phân, cuối cùng là có thể luận mệnh.

Giáp đắc Quý nhi tư vinh, y thực tự nhiên phong túc.


Chú thích: Giáp dƣơng mộc vô căn, nếu không có thủy thì khô mục vậy. Quý thủy, là âm
thủy vậy. Là giống nhƣ mạch nƣớc chảy ở trong khe đá mà ra, không trôi không nổi. Giáp
mộc dựa vào để sinh thân, mới đƣợc tƣơi tốt. Quý thủy là mẹ Giáp mộc, là mẫu tử cùng
nƣơng tựa nhau, thì ăn mặc tất nhiên sẽ dồi dào. Nhƣ Giáp mộc sinh ở mùa Xuân, tất nhiên là
nhận vƣợng, sinh ở mùa Đông, thì Quý thủy vƣợng có thể sinh thân, cho nên nói là phúc vậy.

Ất bạn Nhâm nhi hoạch phúc, thiên tứ lộc vị cao sùng.


Chú thích: Ất âm mộc có căn, dựa vào Nhâm thủy để nuôi dƣỡng. Nhâm thủy, là dƣơng thủy
vậy. Ví nhƣ thủy ở Giang Hải ( sông lớn), gốc không thể tổn hại căn. Tuy nhiều nhƣng không
chìm ngập, không thể chảy bềnh bồng, giống nhƣ cây cối đƣợc mƣa liên tục, cho nên viết là
Thiên tứ lộc vị cao sùng (trời ban bổng lộc và chức quyền).

Bính Ất giao hội, bình sinh phúc thọ siêu quần, xuất thế thâm thành tài nghiệp.
Chú thích: Bính, là dƣơng hỏa vậy. Ất, là âm mộc vậy. Âm mộc sinh dƣơng hỏa, là tƣơng
sinh vậy. Ất là mẹ Bính. Bính là tƣợng Thái Dƣơng, ở trên trời mà mặt trời, ở đạo làm ngƣời
là vua, là cha, là chồng, chủ cƣơng nghị bất khuất, có dạng văn minh. Lại đƣợc Ất mộc sinh,
thì gọi là Giao hội (gặp nhau). Đạt đƣợc ánh sáng rực rỡ, cho nên đƣợc tƣợng Siêu quần (ƣu
việt) , mà sống thọ.

Mậu Ấn Đinh hề, tự Hổ cư sơn cốc chi uy.


Chú thích: Mậu là dƣơng thổ, dựa vào Đinh hỏa để sinh. Đinh tức là mẹ Mậu, mẹ là Ấn thụ,
mà thổ không có chính vị, ký sinh ở hỏa, nhận khí vƣợng ở bốn mùa, phƣơng Thìn Tuất Sửu
Mùi. Cho nên lấy thổ là Sơn cốc, nếu Hổ ở giữa sơn cốc, tất nhiên là có uy.

Kỷ giao Bính hề, tượng long đắc phong vân chi thế.
Chú thích: Dƣơng hỏa sinh âm thổ, giống nhƣ tƣợng cha sinh con gái. Bính là cha Kỷ, là nói
ví nhƣ đƣợc sự che chỡ của cha mẹ, giống nhƣ Rồng đƣợc thế lực của gió mây, tự nhiên đảm
nhận vậy, là phú quý vậy.

Canh phùng Kỷ thổ, quan lộc hữu dư.


Chú thích: Canh kim lấy Kỷ thổ làm mẹ. Ngƣời sinh kim, gặp hỏa địa, thì thân bại vậy. Phải
có thổ để sinh, thì là phúc vậy. Nếu đến vận thổ cũng đƣợc, nhƣng nếu thổ quá nhiều, thì
chôn kim vậy, là không có phúc. Ngũ hành lấy trung hòa là chủ.

Tân đáo Mậu hương, y thực tự túc.


Chú thích: Tân kim gặp đất Mậu thổ, là đƣợc cha mẹ trợ giúp, là chỗ đƣợc. Mà kim dựa vào
thổ sinh, giống nhƣ ngày Tân gặp đất Mậu, mệnh cục gốc không có Ấn thụ, bỗng nhiên gặp
đất Ấn, nhƣ gặp đƣợc cha mẹ, thì khoan khoái vậy, là chủ có cơm áo đầy đủ. Nhƣng nếu tứ
trụ nhiều thổ, thì không nên lại hành đến thổ vận, gọi là Thổ đa kim mai (tức là thổ nhiều thì
kim bị chôn vùi vậy).
12-05-16, 11:25
lesoi
Nhâm thủy đắc hội, phúc thọ vô cương.
Chú thích: Nhâm thủy dựa vào Tân kim là mẹ, nghĩa là đƣợc sinh sinh bất tuyệt, giống nhƣ
Nhâm thủy sinh vào mùa Hạ, thì không có căn vậy. Nếu gặp Tân sinh, gọi là phúc thọ vô
cương.
439 | Tam mệnh thông hội

Quý Canh tương phùng, thiên nhiêu phó mã.


Chú thích: Quý thủy lấy Canh kim làm mẹ, nhƣ lấy can ngày là Quý, tứ trụ có Canh kim là
Ấn. Nhƣ không có Bính hỏa khắc thƣơng, thì chủ là ngƣời phó mã phú hậu (giàu có nhiều
ngựa và nô tỳ). Trong trụ không có Ấn Canh kim, mà gặp phƣơng Ấn thụ Canh vận, cũng có
thể lấy vinh vậy.

Thanh cao phù ấn, tu tri quan miện dĩ thừa hiên.


Chú thích: Phù ấn, là sao Quan Ấn, thì gọi là sao Đƣờng Phù, Quốc Ấn, sinh mệnh mà gặp,
chủ có địa vị mũ quan xe đón. Không phải là vua, thì là địa vị vƣơng hầu. Lấy can năm khởi
cung Lộc, đếm thuận tám vị gọi là Đƣờng Phù, chín vị gọi là Quốc Ấn. Nhƣ ngƣời sinh Bính
Mậu, Bính Mậu lộc ở vị trí "Tị", từ vị trí "Tị" đếm thuận đến tám vị là "Tý" gọi là Đƣờng
Phù; đến đến chín vị là "Sửu" gọi là Quốc Ấn, chỗ hai sao này gọi là Quý.

Như biểu dưới đây:

THẦN SÁT CAN NĂM


GIÁP ẤT BÍNH ĐINH MẬU KỶ CANH TÂN NHÂM QUÝ
Đường Phù Dậu Tuất Tý Sửu Tý Sửu Mão Thìn Ngọ Mùi
Quốc Ấn Tuất Hợi Sửu Dần Sửu Dần Thìn Tị Mùi Thân
12-05-16, 11:26
lesoi
Xung phá lộc tinh, ứng hiển uy quyền nhi giải thụ.
Chú thích: Lộc tinh, là Quan lộc vậy. Dụng là Quan, không thể xung. Dụng là Lộc, không thể
phá. Phá và xung, cả hai đều là hại, dù có uy quyền, gặp thì bản thân nên né tránh địa vị vậy.
Nhƣ Giáp dụng Tân là Quan, Quan bị Đinh hỏa khắc phá, thì gọi là hại quan.

Dương mộc Giáp phùng Canh bại, chi sao bất đắc vô thương.
Chú thích: Giáp là dƣơng mộc, gặp Canh kim, thị bị khắc gọt, thân không thể tránh bị tổn
thƣơng, tức là Canh kim khắc Giáp mộc, lấy thân mệnh làm ví dụ, chủ gân cốt bị bệnh đau
nhức, khó mà nhận phúc. Chỉ có hành vận đất hỏa chế Canh, có thể nói là vận may vậy.

Âm mộc, Ất ngộ Tân kim, hành diệp tự nhiên hữu tổn.


Chú thích: Tân kim, là kim ở cát bùn, chỉ có thể tổn thƣơng cành là mà thôi, không thể hại
thân thể vậy. Chính là do âm khắc âm, nhƣ Ất mộc chủ có khí, tọa ở vƣợng địa, thì không có
sợ vậy.

Viêm viêm Bính hỏa, ngộ Nhâm nhi hách hách vô quang.
Chú thích: Bính hỏa, là dƣơng hỏa. Tƣợng là mặt trời, tƣợng treo lơ lững ở trên trời, chiếu
sáng thật rõ ràng. Nhâm thủy, là dƣơng thủy, là Giang hải ( sông biển). Bính hỏa gặp hội cục
( tam hợp, tam hội ) thì có tổn hại. Nếu không hội cục, thì vô hại vậy.

Thước thước âm Đinh, phùng Quý nhi minh huy tự ám.


Chú thích: Âm hỏa gặp âm thủy, Đinh hỏa là thước thước tinh quang (sao sáng nhấp nháy),
tƣợng lơ lững ở trên trời, Quý thủy ở dƣới đất gọi là Tuyền thủy ( nƣớc khe suối). Thủy hỏa
tƣơng khắc, chủ con mắt, có bệnh trong tim.

Mậu cư Giáp vị, duy lại Canh phương năng cát.


Chú thích: Mậu thổ gặp Giáp mộc khắc, chủ bệnh tỳ vị. Mậu, là dƣơng thổ, là đất ở tƣờng
440 | Tam mệnh thông hội

thành, là bờ đê phòng, gặp Giáp dƣơng mộc khắc, thì có họa sụp đổ. Nhƣ đƣợc Canh dƣơng
kim chế Giáp mộc, thì có thể cứu nguy, nói là cát vậy.
12-05-16, 11:27
lesoi
Kỷ tọa Ất hương, tri thị can đầu hữu quỷ.
Chú thích: Âm can khắc âm can, gọi là Quỷ vậ. Nhƣ nhật chủ Kỷ thổ, lâm vị trí Mão, chính
là Quỷ tọa ở dƣới. Lại hành vận Dần Mão, lại gặp Giáp Ất, đất tƣơng khắc, thân vƣợng thì
gặp Quan là phúc; thân nhƣợc thì gặp Quỷ là họa, là tổn thất hoặc là bần.

Canh Phùng bính chiến, thế tự khuynh nguy, Tân bị Đinh xâm, khắc phạt thành hại.
Chú thích: Canh kim gặp Bính hỏa khắc, chủ bệnh gân, phổi. Canh Tân kim, bị Bính Đinh
hỏa khắc, thì không thể là phúc, cần đƣợc Nhâm Quý thủy, chế Bính Đinh hỏa, giúp cho quân
bình, có thể thành phú quý.

Nhâm ưu Mậu chí, kiển khí nan thông, Quý phạ Kỷ lâm, trì hối kinh hoàng.
Chú thích: Nhâm Quý là thủy, rất ƣa nhuận hạ, nhƣ gặp Mậu Kỷ thổ là trì trệ không thông,
chủ không thể nhận phúc. Thổ nếu quá nhiều, thì là bần tiện. Còn nấu thủy quá nhiều, thì là
chảy bừa bãi tràn lan. Duy thủy không có thổ, thì chảy mà không dừng lại, dựa vào thổ ngăn
mà phòng thủ. Thổ ngăn thủy chảy, hoàn toàn phúc thọ.

Can quỷ đới lộc vượng, phù trì cánh phá.


Chú thích: Thân nhƣợc, nhật can thụ khắc, gọi là Can quỷ. Nếu gặp lộc vƣợng, thì có thể phù
trì. Nếu có phá bại, là phúc thì ít, là họa càng nhiều. Chủ hoặc là phú hoặc là bần, là mệnh
tiến thoái vô thƣờng.

Chi thần vô cát thần, họa giai nan miễn.


Chú thích: Chi thần, là Nhân nguyên vậy. Tức là thần tàng can địa chi, cần có cát thần tƣơng
trợ, có thể thành phúc. Nếu thần tàng chi tƣơng khắc, gặp họa hoạn thì khó tránh vậy. Nhƣ
Giáp mộc sinh ở tháng Tý, cung Tý tàng Quý thủy là Ấn, thì là tốt vậy. Nếu nhƣ trong trụ
năm ngày giờ có Kỷ thổ, vƣợng khắc Quý thủy, thì là cát thần bị tổn, thì họa khó miễn.

Thực đường phúc thọ sùng cao, giai ngôn giáp đáo Bính hương.
Chú thích: Thực Đƣờng chủ ngƣời giàu có phúc hậu. Giáp đến Bính, là đất Thực thần. Giáp
mộc sinh Bính hỏa, Bính là con của Giáp vậy, Giáp giống nhƣ cha của Bính. Giáp lộc Thực
Bính, giống nhƣ con cái nuôi dƣỡng cha, cho nên viết nhật can Giáp gặp Bính, là phúc thọ
sùng cao.
12-05-16, 11:29
lesoi
Triều tỉnh văn quý ưu thăng, cái vi Ất cư Đinh xá.
Chú thích: Ất mộc sinh Đinh hỏa, Ất đến đất Đinh, cũng là chỗ ở của Thực thần, giống nhƣ
cha nuôi cho con ăn, là cát vậy.

Quan lộc tịnh điệp, Bính thực Mậu nhi thành công.
Chú thích: Bính hỏa sinh Mậu thổ, cũng là đất Thực thần, nói Bính hỏa nuôi Thực Mậu thổ,
là cát.

Cốc mạch doanh thương, Đinh đạm Kỷ nhi hữu vượng.


Chú thích: Đinh hỏa là lộc Thực Kỷ, chủ cát.
441 | Tam mệnh thông hội

Yếu đắc phong túc, vô quá Mậu đắc phùng Canh.


Chú thích: Mậu thổ là lộc Thực Canh kim.

Dục vấn cao thiên, toàn lại Kỷ gia Tân địa.


Chú thích: Kỷ thổ là lộc Thực Tân kim vậy.

Mãn đường kim ngọc, Canh lộc hữu Nhâm. Quảng trí điền viên, Tân năng thực Quý.
Chú thích: Canh kim là lộc Thực Nhâm thủy, Tân kim là lộc Thực quý thủy, đều là nói nuôi
dƣỡng cho con ăn vậy.

Nhâm Thực Giáp nhi hữu vượng, chúng phúc như ma. Quý hướng Ất nhi sinh thành, nhập
thực liệt đỉnh.
Chú thích: Nhâm thủy là lộc Thực Giáp mộc, Quý thủy là lộc Thực Ất mộc, đều là lộc can
can sinh thành.

Can chi kiến Thực thần, như phụ đắc tử chi dưỡng, tất nhiên hưởng phúc an thọ, nhi vô sở
hại dã.
Ngũ hành ký phế, đắc cứu trợ dĩ tai khinh.
Chú thích: Tứ trụ ngũ hành, gặp đất hƣu tù tử tuyệt, nhƣ nếu trong trụ có một phƣơng ở
trƣờng sinh, đế vƣợng, thì có phần tƣơng trợ, có họa thì cũng nhẹ vậy.

Tứ trụ Quan Ấn, vô tổn hoại nhi lộc trọng.


Chú thích: Can đầu tứ trụ có Quan tinh, Ấn tinh, không có khắc, chủ ngƣời cả đời lộc trọng,
nhƣng chỉ sợ gặp vận khắc hại. Phạm tiểu vận, lƣu niên khắc phá, chủ một năm gặp bất lợi,
thì không lâu dài vậy.

Giáp phùng Đinh nhi thành diễm, tư tài luy tuế đa hủ. Ất ngộ Bính nhi hóa hôi, kim ngọc tự
tiêu nan tụ.
Chú thích: Giáp mộc sinh Đinh hỏa, Ất mộc sinh Bính hỏa, luận là Thƣơng quan cƣớp khí.
Thƣơng quan, là ta sinh con vậy. Là ngƣời kiêu ngạo, không tuân theo quy củ, làm tiêu hao
tài vật của cha mẹ, nhìn ngƣời không bằng mình. Thƣơng hỷ Quan Tài, thì vinh; không có
Tài thì bần.
12-05-16, 11:30
lesoi
Thiên nguyên chính bại, Bính kiến Kỷ nhi thương tàn. Can lộc toàn khinh, Đinh trị Mậu nhi
suy nhược.
Chú thích: Bính hỏa thấy Kỷ thổ, Đinh hỏa thấy Mậu thổ, gọi là Hỏa thổ Thƣơng quan là hại.

Mậu nhược phùng Tân, tu trượng cát sát dĩ phù trì. Kỷ nghi thâu Canh, thực lại ngũ hành chi
cứu trợ.
Chú thích: Mậu thổ gặp Tân kim, Kỷ thổ thấy Canh kim, gọi là Thổ kim Thƣơng quan. Thổ
kim đều thấy cả hai thì trái lại là thành hỉ, dựa vào Tài Ấn để trợ thì là phúc, kị có Quan.

Canh trung kiến Quý, đãng tán tư tài.


Chú thích: Canh kim sinh Quý thủy, thì có họa làm sạch tiền tài. Cần đƣợc thổ để ngăn, mới
là phát phúc; không có thổ ngăn, thì thành tản mạn. Chủ ngƣời lƣu đãng dâm dục phá gia
đình.

Tân lộc ngộ Nhâm, dong tiêu phúc lộc.


Chú thích: Tân kim sinh Nhâm thủy, gọi là Thƣơng quan, là Kim thủy Thƣơng quan. Chủ
442 | Tam mệnh thông hội

ngƣời thanh tú yêu thích ca nhạc, cực kỳ thông minh nhƣng dâm dật vô độ. Gặp thổ ngăn thì
thành phúc; không có thổ ngăn, là hạ cách.

Niên thiếu phùng tai, Nhâm Thương Ất vận.


Chú thích: Nhâm thủy sinh Ất mộc, là Thƣơng quan. Lại hành vận Thƣơng quan, chủ có họa.

Tổ tài tùy phế, Quý bị Giáp xâm.


Chú thích: Quý thủy sinh Giáp mộc, là Thƣơng quan. Trong trụ có chế thì cát, không có chế
thì hung.

Y thực nan cầu, ấu tuế thường phùng ngũ quỷ.


Chú thích: Nhật can nhƣợc, thấy Thất Sát, gọi là Quỷ. Gọi là Âm Quỷ hại thân, là âm thầm
không ngờ. Nếu là thân vƣợng, thì hóa Quỷ thành Quan, thì có thể sinh thân thành phúc. Gặp
Ngũ Quỷ, là Âm Sát vậy, hại ngƣời không ít.

Tuần muộn hưu tường, trường niên nguyên trị tam hình.
Chú thích: Tam Hình: Dần Tị Thân, Tuất Sửu Mùi, Tý Mão chi hình. Địa nguyên nếu gặp, là
bất lợi vậy.

Họa lai nan miễn, lộc bản phùng suy. Nhược ngộ bại thần, tư sinh hưu cữu.
Chú thích: Quan là gốc Lộc, có Quan mà không có Lộc, thì gọi là Giả Quan, dù có vinh mà
không quý. Có Lộc mà không có Quan, thì không có chỗ thi hành. Quan Lộc nếu hành đến
đất suy tuyệt, khó miễn họa không rời vậy. Bại thần, là thần phá bại. Trong mệnh nếu gặp,
chủ cả đời gặp bất lợi.
12-05-16, 11:32
lesoi
Huống phu Giáp tăng Ất hướng, phùng chi tự kỷ đa tai. Ất bị Giáp lâm, phản dữ nhân vi trợ.
Chú thích: Giáp thấy Ất, gọi là Bại tài, Dƣơng Nhận, chủ khắc cha và vợ. Có gia sản, thì anh
em tranh giành mà phân chia. Không có gia sản, thì khởi mầm tai họa, anh em không nhìn
nhau. Ất thấy Giáp là anh trai, gọi là Kiếp tài, Trục Mã, khắc vợ, thân nhƣợc thì trợ thân, gặp
Tài mà cƣớp. Tức là can dƣơng thấy chi âm cùng một ngũ hành, gọi là Bại tài; can âm thấy
chi dƣơng cùng một ngũ hành, gọi là Kiếp tài.

Nhâm hành Quý ách, Bính tối thâu Đinh, Tân kị Canh phương, Đinh hiềm ám nội.
Chú thích: Chỗ này đều là họa Bại tài, Kiếp tài vậy.

Mậu đồng Kỷ hề, đa sinh tỳ vị chi tật.


Chú thích: Mậu Kỷ thổ, ở trên thân thể con ngƣời là tỳ vị, nếu mà gặp mộc khắc, thì có bệnh
tổn thƣơng tỳ vị.

Kỷ cộng Mậu hề, phản hữu bôn ba chi sự.


Chú thích: Kỷ là đệ, Mậu là huynh, mỗi ngƣời tự lập, thì không tổn thƣơng hòa khí. Nếu nhƣ
anh em cùng chỗ, tất có biến bên trong, trái lại là chủ bôn ba lao khổ, yên ổn mà có đƣợc vui
mừng chăng?

Nhu năng chế cương, đa nhân Tân dữ Canh kỳ, đại trọng chi dư, nãi thị Tân cư Canh địa.
Chú thích: Canh dƣơng là kim cƣơng, Tân âm là kim nhu vậy. Canh dƣơng kim, là khí thanh
kiếm, cho nên nói là Cƣơng, có thể sát hại vạn vật. Tân là âm kim, là chất trang sức giống
nhƣ vòng đeo tay, dây chuyền, cho nên nói là Nhu, vật dùng làm mỹ quan. Dƣơng cƣơng mà
âm nhu, đƣợc hỗ tƣơng giúp nhau, là phúc, tƣơng chế là lộc.
443 | Tam mệnh thông hội

Quý trung ẩn Bính, Nhâm Ngọ ngộ chi đa thương.


Chú thích: Quý lấy Bính là Tài, chỗ đƣợc sử dụng, nếu gặp Nhâm Ngọ, lại tổn thƣơng Bính.
Nhâm là anh trai của Quý, lại cƣớp Bính Tài, cho nên viết là Đa thương (nhiều tổn thƣơng).
Trong Ngọ cũng có Bính, huống chi Can lại có Nhâm, gặp Nhâm lại tổn Bính, cũng là cƣớp
Bính Tài. Lấy ngày Quý làm chủ, tứ trụ có Bính, lại gặp Nhâm Ngọ, thì chủ gặp nhiều tổn
hại.

Nhâm nội tàng Đinh, Quý thủy phiên nhiên tự bại.


Chú thích: Đinh và Nhâm hợp, có tình nghĩa vợ chồng. Nhâm là anh trai, Quý là em trai, nhƣ
gặp Quý thủy khắc Đinh hỏa, chính là em trai đoạt vợ, thì là thƣơng bại vậy, trái lại là thành
đại họa.

Dương giả nhược vi ám tổn, bình sinh duy ác khinh sinh.


Chú thích: Dƣơng là cƣơng vậy, có lòng quả cảm cƣơng nghị. Nếu gặp ám tổn, còn có lá ở
trên thân sao?

Âm vị tức viết Bại thần, xứ thế vưu tiện ức tắc.


Chú thích: Âm là nhu vậy. Là vật nữ nhân yêu thích. Nếu mệnh nam mà thuần âm, cũng thiếu
cƣơng trợ. Thế bị bao vây, cũng là chí khí bị ứ tắc. Nếu đƣợc ngũ âm tụ cục, có thể nói là phú
quý.
12-05-16, 11:33
lesoi
Giáp kiến Tân nhi hóa Quan, cương nhu tương tể.
Chú thích: Giáp lấy Tân là Quan, Giáp cƣơng Tân nhu, là âm dƣơng tƣơng tế, mà không phải
là tƣơng khắc.

Ất kiến Canh nhi vi phúc, huynh đệ đồng hương.


Chú thích: Ất thấy Canh hợp, Canh kim khắc Ất mộc, là Chính Quan, mà thành có phúc,
giống nhƣ cùng là anh em, mà hòa thuận vậy.

Thủy hỏa ký tế, khước ngôn bính đối quý hương.


Chú thích: Quý thủy khắc Bính hỏa. Bính là Thái Dƣơng, ở trên trời, Quý thủy ở dƣới đất,
trên dƣới cách xa nhau, sao có thể là tƣơng khắc? Còn Tý Ngọ đối xung nhau, chính là đƣợc
tƣợng Ký Tế, cuối cùng là dấu hiệu cát.

Ý khí tương thừa, nãi thị Đinh quy Nhâm xá.


Chú thích: Đinh và Nhâm vốn là tƣơng hợp, dƣơng thủy không thể khắc âm hỏa vậy. Cho nên
cùng ở một nhà, hợp nhau mà vui vậy.

Mậu lâm Ất vị, đắc mộc nhi sinh thành.


Chú thích: Mộc dựa vào thổ để dƣỡng vậy, lại đƣợc tƣợng thành rừng; thổ dựa vào mộc để
tiết thổ khí, cả hai đều đƣợc mà sinh thành. Mậu thổ lâm Ất mộc, thành tƣơng sinh vậy.

Kỷ hướng Giáp hương, âm ngộ dương nhi khả quý.


Chú thích: Giáp là dƣơng mộc, Kỷ là âm thổ, âm dƣơng tƣơng phối, Giáp Kỷ hợp, Giáp lấy
Kỷ là Tài, lấy thê tài mà hƣởng thụ, là quý vậy.

Bạch Hổ thông đạo, Canh gia Đinh lâm, Thái Âm đắc lộ, Tân quy Bính xá.
Chú thích: Canh Tân kim gọi là Bạch Hổ, cộng thêm Đinh hỏa khắc Canh kim, đƣợc phối
444 | Tam mệnh thông hội

đạo âm dƣơng. Lấy nhu mà tế cƣơng, không có tƣơng hại vậy. Tân là Thái Âm, gặp Bính
hợp, thì gọi là chính nghĩa.

Nhâm vu Kỷ hề, viễn phiếm hồng ba.


Chú thích: Nhâm là thủy Giang Hải ( nƣớc ở biển, sông), Kỷ là thổ Bình địa ( đất đồng bằng),
Nhâm thủy ở trên Kỷ âm thổ, thì thành hồng ba viễn phiếm (sóng lớn tràn lan), không có chỗ
dừng lại, cần có Mậu dƣơng thổ để ngăn lại, liền bít dòng chảy.

Quý hỷ Mậu hề, trừng lan phiêu miểu.


Chú thích: Quý và Mậu hợp đƣợc thành chính nghĩa, là phúc vậy. Không có sóng to chảy tràn
lan, cho nên Quý hỷ Mậu vậy.

Dương ngộ âm nhi hóa hợp, âm đắc dương nhi thành khí.
Chú thích: Tòng hóa, là âm dƣơng tƣơng hợp tƣơng đắc.

Hựu hữu Giáp Kỷ tương phùng, hóa thổ vi phúc, tắc phu phụ hà xương.
Chú thích: Giáp Kỷ hợp hóa thổ, nhật can Giáp lấy Kỷ thổ là Tài, giống nhƣ con ngƣời lấy
thân Tài để theo vợ, có thể là phúc, hoàn toàn đƣợc đạo vợ chồng.
12-05-16, 11:35
lesoi
Ất Canh các hợp, thành kim đắc vị, tắc đông tây loại hóa.
Chú thích: Ất Canh hợp hóa thành kim. Đắc vị, vị trí ở tháng Thân Dậu, hoặc địa chi hoàn
toàn có đủ Thân Dậu Tuất, hoặc Tị Dậu Sửu Tuất, tháng Tị.

Bính Tân hóa thủy, trí hiển tắc tất chủ văn chương.
Chú thích: Bính Tân hợp hóa thủy, chủ trí tuệ hiển lộ nhiều tài năng.

Đinh Nhâm vi mộc, thông minh tắc cận thiện đa nhân.


Chú thích: Đinh Nhâm hợp hóa mộc, chi tháng là Dần Mão, hoặc địa chi Hợi Mão Mùi, hoặc
Hợi Dần Mão Thìn, Mùi, tháng Thìn, có thể hóa. Chủ thông minh, vui vẽ, hiền lành, là ngƣời
giàu lòng nhân ái.

Mậu Quý đắc hóa, lộc vị sùng cao, nhị giả tương phùng, tam tài khả lập.
Chú thích: Mậu Quý hợp hóa hỏa, sinh sinh bất tuyệt, hóa hóa vô cùng, là bổng lộc và chức
quyền cao quý.

Dương ngộ dương nhi hóa quan, đáo vượng phương quan sùng vị hiển.
Chú thích: Nói một âm một dƣơng hợp hóa là hỷ thần, ở vƣợng địa thì là quý vậy, là quan cao
vinh hiển.

Dương đắc âm nhi thành phối, lâm hữu khí tài vượng thê hiền.
Chú thích: Dƣơng là nam. Âm là nữ. Âm dƣơng tƣơng hợp, gọi là tình vợ chồng. Nếu có khí,
chủ tài vƣợng, vợ hiền. Nếu gặp đất hƣu tù tử tuyệt, chủ tán tài thƣơng thê.

Thị dĩ bình sinh bất túc, Giáp vi Nhâm thương, xứ thế đa trì, Ất nhân Quý khắc.
Chú thích: Giáp mộc dựa vào thủy để sinh. Nhƣng Giáp là dƣơng mộc, là trụ cột vậy, không
phải rễ của cây cỏ. Nhâm, là dƣơng thủy. Thủy đa mộc phù, e sợ có bị trôi dạt mất, cho nên
viết Bình sinh bất túc (cả đời không đủ). Ất là âm mộc, là rễ cây cỏ, chỉ cần ở dƣơng địa,
không thích hợp ở xứ âm, Quý là âm thủy, cho nên viết Xứ thế đa nghịch ( xử thế nhiều phản
nghịch).
445 | Tam mệnh thông hội

Dương tự bại hề, Bính vi Giáp thương. Âm bất minh hề, Dậu duyên Ất chế.
Chú thích: Chỗ này là nói mẹ bị chế ở ngƣời, thì không thể giúp cho con cái. Bính hỏa dựa
vào Giáp mộc sinh, để thành quang minh chiếu vật. Thế nhƣng Giáp mộc bị chế do Canh kim
khắc, thì không thể sinh hỏa. Đồng lý, Ất mộc bị chế bởi Tân kim, thì không thể trợ lực cho
Đinh.

Thượng chi lăng hạ hề, Mậu tao Bính thực. Ti khủng khi tôn hề, Kỷ thương Đinh viêm.
Chú thích: Mậu gặp Bính, gọi là Thiên Ấn. Kỷ gặp Đinh, cũng gọi là Thiên Ấn. Không có
chế, gọi là Đảo Thực.

Dương lộc liệu lệ hề, Mậu thổ hối chi. Tân lộc ti bạc hề, Kỷ âm phá chi.
Chú thích: Chỗ này là nói chất Canh Tân là kim, bởi vì Mậu Kỷ thổ nhiều, mà chôn vùi chất
đẹp, không thể hiển đạt vậy.

Thất chi vu trí, giai nhân Canh họa vu Nhâm. Tang chi vu quyền, mỗi phùng Tân thương vu
Quý.
Chú thích: Chỗ này nói thủy Nhâm Quý, vị bị chỗ Canh Tân quấy nhiễu, giống nhƣ một mẹ
mà nhiều ngƣời, chăm sóc một con thì trái lại là hại. Cho nên quyền trí mất không còn, không
đƣợc chuyên nhất.

Giáp Ất thường hãn Mậu Kỷ, nãi vi sinh Bính chi tài. Bính Đinh vưu hỷ Canh Tân, Thực thị
sinh Mậu chi phúc.
Chú thích: Giáp Ất mộc, lấy Mậu Kỷ thổ là Tài. Bính Đinh hỏa, lấy Canh Tân kim là Tài.
Chính là lý lẽ sinh thành, cho nên an hƣởng vậy.

Câu Trần đắc địa, Mậu quy Nhâm hương. Âm thổ phùng Tài, Kỷ gia Quý vị.
Chú thích: Câu Trần, là Mậu Kỷ thổ vậy, lấy Thìn Tuất Sửu Mùi mà đắc địa. Mậu là dƣơng
thổ, lấy Nhâm dƣơng thủy là Thiên Tài. Kỷ là âm thổ, lấy Quý thủy là Thiên Tài.

Canh Tân Dần Mão, diệc nhiên nhi phúc thọ.


Chú thích: Dần Mão, là đất mộc vƣợng. Canh Tân lấy Giáp Ất là Tài, tất nhiên là phúc thọ.

Nhâm Quý Bính Đinh, hỷ vĩnh dĩ vô ngu.


Chú thích: Nhâm Quý thủy, lấy Bính Đinh hỏa là Tài. Tất nhiên cũng đƣợc sử dụng, sao mà
lo lắng chứ?

Đương tri ngã hại bỉ cát, bỉ hại ngã hung. Tự thâm dĩ trực nhi ngôn chi, tiêu tường vi khả hĩ.
Chú thích: Ta khắc là Tài địa. Nó khắc ta, gọi là Sát vậy.
12-05-16, 11:42
lesoi
Riêng 2 bài Tứ Ngôn độc bộ, các bạn tham khảo ở link dƣới:
http://tubinhdieudung.net/showthread...=6408#post6408
Và bài Ngũ ngôn độc bộ, các bạn xem link dƣới:
http://tubinhdieudung.net/showthread...=6428#post6428

Vì trong tác phẩm TMTH không có chú giải kĩ càng để hiểu, cho nên mƣợn các bài trên do
Hoàng Đại Lục bình chú để các bạn tham khảo khỏi tốn thời gian viết lại.

( HẾT)
446 | Tam mệnh thông hội

 lesoi
Tứ Ngôn Độc Bộ bình chú
Tứ Ngôn Độc Bộ bình chú

Tác giả: Hoàng Đại Lục


Sưu tầm và biên dịch: LeSoi

(http://blog.sina.com.cn/s/blog_4d4f37290102ee7v.html)

( Tập một )

《 Tứ Ngôn độc bộ 》 một bài văn không biết ai biên soạn và ở thời kì nào, thảo luận hết sức
tinh vi kĩ càng, lời giải hết sức độc đáo, đối với giới mệnh học ảnh hƣởng rất lớn, đƣợc đông
đảo những ngƣời yêu thích Tử Bình rất ái mộ. Rất nhiều mệnh sƣ giang hồ khảo sát thành bí
quyết gối đầu, quả thật tiến lên bậc thềm của Tử Bình chuyên nhất cần phải đọc sách gốc. Tác
giả xem kĩ càng bài văn này hơn 10 lần, gặt hái đƣợc rất nhiều ích lợi, tuy cảm thấy không
thiếu khuyết điểm, nhƣng khuyết điểm không che đƣợc nhiều ƣu điểm nổi bật, vẫn không mất
làm thành một viên ngọc tỏa sáng giành đƣợc mục đích là báu vật của môn Tử Bình. Trở
thành chỗ sử dụng cho kẻ hậu học tách khỏi sai lầm khi luận mệnh theo lối "Bình hành dụng
thần", bƣớc vào Tử Bình chính đạo, đặc biệt tác phẩm đƣợc bình chú nhƣ sau:

Chính văn:
Tiên thiên hà xứ,
Hậu thiên hà xứ,
Yếu tri lai xứ,
Tiện tri khử xứ.

Đại lục bình chú:


Vận mệnh con ngƣời, đã đƣợc định trƣớc ở Tiên thiên, mở ra ở Hậu thiên. Nhƣng Tiên thiên
đến từ nơi nào? Hậu thiên lại đi từ đâu? Nếu nhƣ chúng ta đã biết chỗ đến, thì chúng ta sẽ
biết chỗ đi. Con ngƣời, tất cả đều từ bên trong khe hở của tảng đá đi ra, và là tế bào sao chép
lại đi ra từ thế hệ tổ tiên ông bà, mỗi ngƣờì chúng ta cũng chỉ là xuất phát từ một chủng tộc
lâu đời đƣợc di truyền lại nhƣ nối từng đoạn mắt xích của một sợi dây xích một cách trật tự ,
hơn nữa phần nhiều là do quyết định ở trên đoạn mắc xích đó xuống dƣới tất cả từng đoạn
mắc xích. Khoa học hiện đại đã chứng minh là đúng, quá trình thai nhi phát dục là một hình
ảnh nhỏ ghi lại lịch sử tiến hóa của loài ngƣời, thuyết minh các thời kì tổ tiên này cũng không
có cách chúng ta là quá xa, gien di truyền của họ đã lƣu lại tồn tại vào bên trong mỗi tế bào
thân thể của chúng ta. Mật mã DNA bí ẩn khó lƣờng đã đƣợc xác định qua phần mềm máy vi
tính, thông qua trình tự thao tác trên máy vi tính sẽ kiểm soát đúng một lúc hành vi suy nghĩ
của chúng ta. Khi chúng ta còn theo trong bụng mẹ đến khoảnh khoắc bắt đầu khóc oa oa khi
chào đời, vận mệnh đã bắt đầu mở ra là giai đoạn Hậu thiên.

Nguyên nhân chính là vận mệnh đã có định trƣớc giới tính của Tiên thiên, có thể dự đoán
trƣớc giới tính rồi mới có Hậu thiên. Tất cả sự vật không thể dự đoán là không có quy luật.
Có biết nơi đến, thì mới có thể biết đƣợc lối đi. Vật có đầu có cuối, sự việc ắt có thủy có
chung, biết trƣớc biết sau, thì gần với đạo vậy. Học thuật Tử bình chính là đọc mà giải thích
gien di truyền Tiên thiên, dự đoán hƣớng đi của vận mệnh Hậu thiên là kỹ thuật độc đáo và
thần kì hạng nhất. Ở ngày sinh trong Bát tự, trụ năm là cung Tổ tiên ông bà, trụ tháng là cung
447 | Tam mệnh thông hội

Phụ Mẫu, trụ ngày là cung Phu Thê, trụ giờ là cung Tử tức. Cho nên trụ năm trụ tháng là đại
biểu nơi đến của Tiên thiên, trụ ngày trụ giờ là đại biểu nơi đi của Hậu thiên. Muốn biết đƣợc
tiền đồ của bản thân cùng con cháu, thì trƣớc hết cần phải xem Tiên thiên ở cung Tổ tông,
Phụ mẫu đã mang đến cho bạn đƣợc những điều gì, bạn có thể thừa kế đƣợc những điều gì.
Là làm quan hay là kinh thƣơng, là nghề văn hay là nghề võ, là thành thật hay là giả dối, là
nho nhã hay là thô tục, là làm biếng hay là siêng năng, … tất cả chỗ này đều dựa theo trụ
năm, trụ tháng trong cung Tổ tông, Phụ Mẫu thì tìm đƣợc nguồn gốc. Thấy rõ cội nguồn, thì
dễ dàng thấy rõ chỗ đi của trụ ngày và trụ giờ. Nguồn gốc có Tài Quan Ấn Thực, trụ ngày giờ
có phụ tá, thì có thể kế thừa cái trƣớc mà sáng tạo ra cái mới, mà từ đó phát huy. Nguồn gốc
có Sát Thƣơng Kiêu Nhận, trụ ngày giờ có ức chế ràng buộc, thì có thể Hàng Long phục Hổ,
vƣợt hẳn mọi ngƣời. Tách mệnh vận ra mà luận, thì Mệnh là Tiên thiên nơi đến, Vận là Hậu
thiên nơi đi. Mệnh giống nhƣ mầm của cây, Vận giống nhƣ tiết khí bốn mùa thay đổi. Đã biết
loại hình cùng phẩm chất mầm giống, thì đã biết lúc thời tiết khai hoa kết quả, cũng đã biết
cuối cùng nó có thể trở thành vật liệu gì, có khả năng có tác dụng gì.
 20-10-13, 12:42
lesoi
Chính văn:
Tứ trụ bài định,
Tam tài thứ phân,
Nhật can vi chủ,
Phối hợp nguyên thần.

Đại lục bình chú:


Sau khi sắp xếp bát tự tứ trụ theo năm tháng ngày giờ, cần phải phân ra Tam Tài để luận
mệnh, vậy Tam Tài là cái gì? Tức là Thiên Địa Nhân. Thiên can là đại biểu khí lƣu hành ở
trên trời, là Thiên Nguyên; Địa chi là đại biểu khí lƣu hành ở dƣới đất, là Địa Nguyên; Can
tàng thì đại biểu khí lƣu hành ở giữa trời đất, là Nhân Nguyên.
Vậy lấy cái gì là đại biểu cho bản thân mệnh chủ? Lấy Nhật can. Cho nên viết "Dĩ nhật vi
chủ" .

Chú ý! Chỗ này nói "Dĩ nhật vi chủ" là khác với Lý Hƣ Trung lấy trụ năm làm chủ mà nói.
Lý Hƣ Trung thời nhà Đƣờng đã sáng tạo thuật nạp âm ngũ hành để đoán mệnh, lấy trụ năm
nạp âm ngũ hành đại biểu cho mệnh chủ. Thí dụ nhƣ ngƣời sinh năm 1980, có can chi là
Canh Thân, nạp âm ngũ hành là Thạch Lựu Mộc, thì luận là mệnh mộc, còn lại ba trụ tháng,
ngày và giờ thì là bao quanh trụ năm mệnh mộc để luận sinh khắc. Hiện tại còn có không ít
mệnh sƣ "Manh phái" vẫn tiếp tục kéo dài sử dụng phép này. Cho nên quan Khâm Thiên
Giám hai triều Minh Thanh chính là do chỗ Qua Thừa Khoa tiên sinh hiệu đính thành 《 Tử
Bình Uyên Hải đại toàn 》trong có chỉ ra rằng: "Thế chi đàm tam mệnh giả giai cổ pháp,
vãng vãng đa dĩ niên vi chủ, dĩ thai nguyên, nạp âm, tiểu vận vi luận, tắc khả tri vạn ức phú
quý tương đồng giả, mậu hĩ! Cố tử bình chi pháp, chuyên dĩ sinh nhật thiên nguyên vi chủ..."
( Thế hệ bàn về Tam mệnh đều xuất phát từ phƣơng pháp ở sách xƣa, phần đa thƣờng lấy trụ
năm làm chủ, lấy Thai Nguyên, nạp âm, tiểu vận để luận, thì cũng biết hàng tỉ ngƣời phú quý
là giống nhau, là sai lầm rồi! Cho nên phép Tử Bình chuyên lấy Thiên nguyên ngày sinh làm
chủ, …), có thể thấy, ý tứ của thuyết Tử Bình là lấy "Nhật can vi chủ", là vì đã cùng phƣơng
pháp của Lý Hƣ Trung "Dĩ niên vi chủ" để tách ra phân biệt, cũng không phải là chỗ lý giải
của Nhậm Thiết Tiều, Từ Nhạc Ngô luận loại "Bình hành dụng thần" ( cân bằng dụng thần)
nhƣ vậy, giải thích 7 chữ đều phải quấn quanh Nhật nguyên, Nhật nguyên nhƣợc thì phải phù,
Nhật nguyên cƣờng thì phải ức, muốn tìm một cái có thể phù ức chỗ Nhật nguyên gọi là
"Bình hành dụng thần" mà ra. Tác giả《 Thần Phong thông khảo 》ở trong đoạn văn "Tự
448 | Tam mệnh thông hội

tự" giải thích rất rõ ràng : "Nguyệt lệnh vi dụng thần, tuế thời vi phụ tá. Hu! Mệnh thư chi tác,
chí thử tận hĩ. Cái ngũ tinh chi thuyết, chỉ thị dĩ sinh niên vi chủ, nguyệt dữ nhật thời hoặc di
yên; hoặc dĩ nạp âm vi chủ, can dữ chi hoặc di yên. Thục nhược tử bình chi lý, độc đắc kỳ
trung..." ( Nguyệt lệnh là dụng thần, trụ năm, giờ là phụ tá. Làm mệnh thự, đến chỗ này là hết
vậy ( tiếng than thở). Cái thuyết Ngũ Tinh, chỉ là lấy năm sinh làm chủ, tháng cùng ngày giờ
có lẽ quên chỗ này; hoặc lấy nạp âm làm chủ, can và chi có lẽ lại quên đi. Ai thuận theo lý lẽ
Tử Bình, chỉ một mình đƣợc trong đó …), ông ấy chỉ rõ ra lấy năm sinh nạp âm làm chủ luận
mệnh là phƣơng pháp thiếu khuyết, phép nói của Tử Bình thì là lấy "Nguyệt lệnh vi dụng
thần, tuế thời vi phụ tá" . Nói cách khác là, trụ năm và giờ không phải chỉ là phụ tá Nhật
nguyên, mà là phụ tá Nguyệt lệnh dụng thần! "Nguyên thần" tức là Thời thần, "Phối hợp
nguyên thần" chính là ý tứ lấy Thời thần ( canh giờ) phối hợp với nguyệt lệnh dụng thần.
Điểm trực tiếp giải thích, là phối hợp Nhật nguyên cùng Nguyệt lệnh cấu thành cách cục. Là
toàn bộ xoay quanh Nguyệt lệnh!
 20-10-13, 12:45
lesoi
Chính văn:
Thần Sát tương bạn,
Khinh trọng giảo lượng,
Tiên quan nguyệt lệnh,
Luận cách suy tường.

Đại lục bình chú:


Xem mệnh, trƣớc tiên theo khởi từ nơi nào chứ? Là theo Nguyệt lệnh. Theo Nguyệt lệnh để
xem cái gì chứ? Là xem dụng thần.
《 Kế Thiện thiên 》nói: "Thủ dụng bằng vu sinh nguyệt, đương suy cứu vu thâm thiển.
Phát giác tại vu nhật thời, yếu tiêu tường vu cường nhược" ( Thủ dụng dựa vào tháng sinh,
phải nghiên cứu suy ra ở nông hay sâu. Phát hiện ở chỗ ngày và giờ, cần phải hiểu rõ nơi
cƣờng nhƣợc). Ý nghĩ chính là dụng thần phải theo Nguyệt lệnh mà lấy, vƣợng suy phải dựa
vào thời tiết tháng mà đoán.
Tại sao phải theo Nguyệt lệnh lấy dụng thần chứ? Là do Nguyệt lệnh là cùng Phụ mẫu, tất cả
con ngƣời đều là do cha mẹ sinh ra, cho nên cung Phụ Mẫu mang theo thông tin di truyền của
Tiên thiên. Xem mệnh trƣớc tiên phải xem cha mẹ của bạn đã di truyền lại cho bạn cái gì,
hoặc là nói giúp bạn cần phải nhớ cách đối nhân xử thế, tạo nên sự nghiệp, trƣớc phải xem
trong gia đình có điều gì có thể cho bạn chỗ sử dụng. Giả sử nhƣ tổ tông, phụ mẫu của bạn
đang là đại quan, thì bạn liền có ngay bộ óc làm chính trị, theo chính trị đó là con đƣờng tắt
nhất; tổ tông, phụ mẫu của bạn đã phát tài lớn rồi, thì bạn liền có thủ đoạn kiếm tiền, đƣờng
kinh thƣơng liền là của tốt nhất; tổ tông, phụ mẫu của bạn là diễn viên điện ảnh, thì bạn liền
có tế bào nghệ thuật, theo nghệ thuật thì có chỗ đệm mà nằm ….
Chỗ dụng thần này tất cả đều là tốt hay sao? Là không phải. Dụng thần là tuyển chọn theo ở
trong Thập thần, mà Thập thần thì có tốt có xấu, Tài Quan Ấn Thực là tứ cát thần, đơn giản
gọi là Thần; Sát Thƣơng Kiêu Nhận là tứ hung thần, đơn giản gọi là Sát. Tập quán ngƣời xƣa
thƣờng lấy chỗ tốt mà gọi là Thần, chỗ hung gọi là Sát, nhƣ Thổ địa là Thần, Thái tuế là Sát ,
… cho nên viết "Thần Sát tương bạn" .

《 Hỉ Kị thiên 》 giải thích câu "Thần sát tương bạn" viết: "Thần là Quý nhân vậy, còn Sát
là Thất Sát vậy. Nếu Thần Sát hỗn tạp, thì xem tiết khí nông hay sâu, hoặc là khử Quan lƣu
Sát, hoặc là hợp Sát lƣu Quan". Ý là Tƣớng thần là làm Chính Quan, Sát là làm Thất Sát, tính
toán khinh hay trọng ( nhẹ hay nặng) mà quyết định lấy hay bỏ. Nhƣng cần phải xem rõ chữ
ở trên ở dƣới là có liên quan với nhau, cũng không nên quá xem nặng vấn đề Quan Sát hỗn
449 | Tam mệnh thông hội

tạp, mà chính là ở đề cƣơng xác lập tính chất vĩ mô xem mà trình bày và phân tích, cho nên
hiểu hai chữ "Thần Sát" cũng không phải là chuyên nhất chỉ nói có Quan Sát.

Do đó, lý thuyết "Thần Sát" này là chỉ cát thần hung thần trong Nguyệt lệnh, không phải giản
dị nhƣ nói loại Cô thần, Quả tú, Thiên ất quý nhân.
 20-10-13, 12:48
lesoi
Cát thần, hung thần thƣờng ở cùng nơi trong Nguyệt lệnh, chúng ta cần phải lấy dụng thần
nhƣ thế nào chứ? Là cần phải lấy vật nắm lệnh cƣờng vƣợng.

Làm sao biết vật nào nắm lệnh, vật nào không nắm lệnh chứ?
+ Thứ nhất là, dựa vào ở trong 《 Uyên Hải tử bình 》 chỗ "Tiết khí ca" xem Thần ti sự (
Thần nắm quyền điều khiển sự việc), tức là "Khán mệnh tiên tu khán nhật chủ, bát tự thủy
năng cứu áo lý, giả như tử thượng thập nhật nhâm, trung tuần hạ tuần phương thị quý; sửu
cung cửu nhật quý chi dư, trừ khử tam tân giai thuộc kỷ..." ( Xem mệnh trƣớc tiên cần phải
xem Nhật chủ, mới có thể nghiên cứu lý lẽ sâu xa của bát tự , ví nhƣ chữ Tý thì 10 ngày đầu
Nhâm điều khiển, 20 ngày sau thì Quý điều khiển; cung Sửu thì 9 ngày là Quý, trừ đi 3 ngày
là Tân, còn lại là Kỷ điều khiển sự việc …). Ý tức là: tháng Tý thƣợng tuần là Nhâm thủy
nắm lệnh điều khiển sự việc, đắc khí sâu, mà Quý thủy đắc khí nông; trung, hạ tuần thì là
Quý thủy nắm lệnh điều khiển sự việc, đắc khí sâu, mà Nhâm thủy đắc khí nông. Cho nên câu
ở dƣới tiếp theo nói "Khinh trọng giảo lượng", ý tức là cần phải đo lƣờng dụng thần này đắc
khí nông sâu, nặng nhẹ, lấy khí sâu mà nặng, khí nông mà nhẹ.
+ Thứ hai là, xem Nguyệt lệnh thấu can, bởi vì thấu can giống nhƣ can chi nhận lộ ra bên
ngoài, cũng là biểu hiện một loại đắc khí sâu vậy.
+ Thứ ba là, xem nhiều hay ít, nhiều là nặng, ít là khinh.

《 Uyên Hải Tử Bình • Luận Tạp Khí 》nói: "Khán mệnh tu thẩm khinh trọng, dĩ thủ họa
phúc, tiên luận trọng giả, hậu luận khinh giả, bách phát bách trung hĩ, kỳ tha đương dĩ thử
loại chi" ( Xem mệnh cần xem xét nặng nhẹ, để lấy họa phúc, trƣớc luận nặng, sau luận nhẹ,
việc ấy cần lấy loại này, cả trăm đều trúng). Có thể thấy, ở lúc luận loại dụng thần Tài Quan,
trƣớc tiên cần luận nặng, sau mới luận nhẹ, chỗ này cũng là một quy tắc thủ dụng trong Tử
Bình.

Sau khi áp dụng lấy dụng thần, từng bước ở dưới phải xem như thế nào chứ?
Lại là "Luận cách suy tường", tức là phải xem kĩ càng tinh tế mà suy luận dụng thần cùng với
tƣớng, hỉ thần chỗ cấu thành các loại cách cục. Cát thần thì cần phải thuận mà phù, hung thần
cần phải nghịch mà chế, dụng thần hiều mới cần giảm, dụng thần tạp cần thanh trừ, chỗ này
chữ phù ức dụng thần cùng với thanh lọc, ức chế cách cục đó là Tƣớng thần cùng Hỉ thần.
Các loại tổ hợp Dụng, Tƣớng, Hỉ thần liền cấu thành các loại cách cục. Thành cách, thành
cục không quý cũng phú, phá cách phá cục thì không yểu cũng bần. Cách cao thì phú quý ở
mức độ cao, cách thấp thì phú quý ở mức độ thấp. Đời ngƣời thọ yểu, cùng thông, cát hung,
họa phúc chẳng có cái nào không từ cách cục thành bại, hỉ kị này mà suy ra đƣợc, cho nên 《
Uyên Hải Tử Bình • Bảo Pháp 》nói: "Phàm xem số Tử Bình, lấy cách không vững, 10 có 9
là sai".

Chú ý: Lý lẽ về chữ "Cách" này là bao quát tất cả chỗ gọi là "Cách", "Cục", "Tượng" .
 20-10-13, 12:51
lesoi
450 | Tam mệnh thông hội

Chính văn:
Dĩ Nguyệt vi chủ,
Chuyên luận Tài Quan,
Phân kỳ quý tiện,
Diệu pháp đa đoan.

Đại lục bình chú:


Thủ dụng định cách cần phải lấy Nguyệt lệnh làm chủ, 《 Bảo pháp chi nhất 》 viết: "Phàm
cách dụng nguyệt lệnh đề cương, vật vu bàng cầu niên nhật thời vi cách. Kim nhân đa bất tri
kỳ pháp, vu thử bách phát bách thất" ( Phàm cách dụng Nguyệt lệnh đề cƣơng, yêu cầu vật ở
bên cạnh năm, ngày, giờ là Cách. Ngƣời thời nay phần đa không hiểu phép này, do vậy cả
trăm đều sai cả trăm). 《 Tử Bình Chân Thuyên 》cũng nói: "Bát tự dụng thần, chuyên cầu
nguyệt lệnh" . Có thể thấy, Tử Bình thủ dụng định cách phải lấy Nguyệt làm chủ, không thể
lấy năm, ngày, giờ để thủ dụng định cách.

Lấy dụng thần lại cần phải lấy Tài Quan là chủ, là như thế nào chứ?
Là do Quan là danh, Tài là lợi, cả ngày con ngƣời đi sớm về tối ham muốn xấu xa, vất vã bề
bộn không phải là do từ hai chữ này hay sao? Gọi là "Danh cương lợi tỏa, sáo tận thế gian
nhân" ( Danh lợi trói buộc, hết sức buộc chặt ngƣời thế gian). Huống hồ Quan lại là đại biểu
trƣợng phu của giới nữ, tính nam và nữ, Tài thì đại biểu thê tử của giới nam, do vậy lấy chỗ
hai chữ Tài Quan này để bao quát hết sự nghiệp cùng hôn nhân của đời ngƣời, cho nên mà Tử
Bình phải chuyên luận Tài Quan. Không có Tài chỗ đại biểu để ăn, tiền bạc cùng lợi nhuận,
chúng ta liền không có phƣơng pháp sinh tồn. Không có Quan chỗ đại biểu cho danh dự, địa
vị, pháp luật, chế độ cùng trật tự, chúng ta liền không thể thành hình thức sống của con
ngƣời. Ai đã xúc phạm Quan chỗ đại biểu cho sự vật, ngƣời đó sẽ bị quần thể coi nhƣ là
ngoại tộc mà gặp phải sự bài xích cùng bị đả kích.

Căn cứ Nguyệt lệnh loại dụng thần Tài Quan, chúng ta liền có thể suy đoán ra xu hƣớng sự
nghiệp cả đời, cũng do từ chỗ này mà tiến tới một bƣớc suy đoán ra phú quý, bần tiện cả đời.
Cụ thể là suy đoán nhƣ thế nào chứ? Là lấy cách cục thành bại, cao thấp mà luận, cách cục có
nhiều loại, các phép luận đều không giống nhau.
 20-10-13, 12:58
lesoi
Chính văn:
Độc tắc dịch thủ,
Loạn tắc nan minh,
Khử lưu thư phối,
Luận cách yếu tinh.

Đại lục bình chú:


Nguyệt lệnh chỗ tàng ẩn dụng thần cũng có nhiều hoặc có ít, nhƣ bốn chi Tý Ngọ Mão Dậu
can tàng tƣơng đối là rất ít, ngoại trừ Ngọ ở trong tàng có hai can Đinh Kỷ, ba chi còn lại đều
chỉ tàng ẩn một can. Mà chi loại nhƣ Dần Thân Tị Hợi Thìn Tuất Sửu Mùi thì đều có tàng
chứa ba can. Chi tháng tàng can ít thì dễ dàng tuyển lấy dụng thần, nhiều thì liền so sánh cho
nên khó tuyển lấy, do đó viết "Độc tắc dịch thủ, loạn tắc nan minh" .
Chú ý! Chỗ này đã giải thích ở đoạn văn phía trƣớc chƣa hề nói rõ một vấn đề trọng đại, tức
là: Chỉ lấy can tàng trong Nguyệt lệnh điều khiển sự vật làm dụng thần vậy, hay là lấy
Nguyệt lệnh thấu can làm dụng thần? Nếu nhƣ chỉ lấy can tàng trong Nguyệt lệnh điều khiển
sự việc làm dụng, nhƣ thế sẽ không còn ở độc nhất thì dễ lấy, nhiều thì rõ ràng vấn đề là khó
451 | Tam mệnh thông hội

lấy. Bởi vì can tàng lại nhiều cũng chỉ có ba can, xem "Tiết khí ca" tra một lúc đã không phải
lấy xác định dụng thần ƣ? Có cái gì chỗ "Nan minh" chứ? Để xem, "Loạn tắc nan minh" này
chỉ ra chỉ có thể là Nguyệt lệnh thấu can, bởi vì chỉ có ở tình huống Nguyệt lệnh nhiều can
tàng thấu từ ở dƣới mới xuất hiện một vấn đề "Loạn tắc nan minh" này. Tức là nhƣ Giáp mộc
sinh tháng Tuất, ba can Mậu Tân Đinh cùng thấu, vậy lấy dụng nhƣ thế nào chứ? Nếu nhƣ chỉ
lấy thần ti sự ( thần điều khiển sự việc) làm dụng, vậy tội gì phải hao tổn tâm trí? Tại sao ti sự
là phải lấy sao? Nhƣng nếu chỉ lấy thấu can thủ dụng thần, nhƣ vậy lúc ở ba can này đều cùng
thấu, thì lấy cái nào đây? Chỗ này mới là vấn đề hết sức khó khăn.
Bởi vậy, câu dƣới mới nói "Khử lưu thư phối, luận cách yếu tinh" . Ý tức là ở dƣới tình
huống có nhiều can cùng thấu, khử ai lƣu ai, lấy ai thì phải cùng phối hợp với Nguyệt lệnh,
khả năng cấu thành cách cục nhƣ thế nào, chỗ này cần phải cẩn thận cân nhắc chuẩn xác để
minh chứng, dù sao cũng không thể qua loa đại khái, tùy tiện, nếu nhƣ lấy cách cục sai, thì
không thể suy đoán phú quý, bần tiện cùng cát hung, họa phúc chính xác. 《 Nguyệt Đàm
phú 》nói: "Cách hữu khả thủ bất khả thủ, dụng hữu đương khử bất đương khử" ( cách có
thể lấy có thể không lấy, dụng có nên khử hay không nên khử), giải thích cũng chính là vấn
đề này. Do vậy, chúng ta liền hiểu, Nguyệt lệnh thủ dụng định cách cần lấy thấu can làm chủ,
chỗ này nhất định quản lý can ti sự mà không hiểu phƣơng pháp thủ dụng biến thông là có
làm trái với Tử Bình mệnh lý, thực tế bắt đầu ứng dụng là tự nhiên cũng là không có ánh sáng
thần kì.

Ví dụ nhƣ một nam mệnh, sinh ở giờ Tý ban đêm, ngày 19, tháng 12, năm 1959 niên nông
lịch, bát tự là: Kỷ Hợi/ Đinh Sửu/ Giáp Thìn/ Bính Tý. Năm này tháng 12, ngày 8, là giao
tiết Tiểu Hàn, cách ngày sinh mệnh chủ là 11 ngày, "Tiết khí ca" nói: "Sửu cung cửu nhật
Quý chi dư, trừ khử Tam Tân giai thuộc Kỷ", có thể hiểu đúng lúc gặp Tân kim Chính Quan ti
sự. Nếu nhƣ lấy chỗ Chính Quan này làm dụng, đại vận lại đến Tây phƣơng Quan Sát vƣợng
địa, nhƣ thế mệnh chủ liền gặp bƣớc vào đƣờng quan lộ, không đến nỗi phải đi làm thuê ở Xí
nghiệp. Thế nhƣng, mệnh chủ sau khi tốt nghiệp sơ trung liền theo vận chuyển cho một hộ cá
thể, cùng với chữ "Quan" là không kề bên. Tại sao mệnh là Quan tinh làm dụng lại có ngƣời
lấy kỹ năng kinh thƣơng chứ? Nguyên nhân là do ở Nguyệt lệnh không thấu Quan tinh mà
thấu Tài tinh, Quan tinh không thể cùng Ấn tinh cấu thành cách cục, chỗ cấu thành cách cục
chỉ có thể là Tài hỉ Thực sinh cách. Hỉ Thực, thì hỉ lấy nghề nghiệp kỹ năng để cầu Tài.

Lại nhƣ mệnh Hoắc Anh Đông, sinh ở giờ Tị, ngày 25, tháng 3, năm 1923 nông lịch, bát tự
là: Quý Hợi/ Đinh Tị/ Quý Mùi/ Đinh Tị. trong Nguyệt lệnh có đủ cả 3 thần Tài Quan Ấn,
làm sao mà thủ dụng chứ? Năm này tháng 3, ngày 21, là giao tiết Lập Hạ, cách ngày sinh
mệnh chủ là 4 ngày, "Tiết khí ca" nói: "Sơ hạ cửu nhật sinh canh kim", có thể hiểu đúng gặp
Canh kim Ấn tinh ti sự. Nếu nhƣ lấy Ấn tinh này làm dụng, mệnh chủ liền không gặp cảnh
đọc sách là rất ít nhƣng lại là ngƣời phát tài rất lớn. Rất hiển nhiên, phải lấy Đinh hỏa thấu
can Tài tinh làm dụng, thời niên thiếu hành đến mộc vận tiết Tỉ sinh Tài, cách thành Tòng
Tài, sau đó trung niên đến vận thủy kim thì luận dụng Tài hỉ Tỉ cách, cho nên có thể một
đƣờng phát tài lớn.
 20-10-13, 13:00
lesoi
Chính văn:
Nhật chủ cao cường,
Nguyệt đề đắc lệnh,
Dụng Tài vi vật,
Biểu Thực vi chính.
452 | Tam mệnh thông hội

Đại lục bình chú:


Nếu nhƣ nguyệt lệnh dụng Tài, tốt nhất là Tài tinh cần phải thông căn thấu can, bởi vì can chi
là một loại quan hệ trong ngoài, can nhƣ thân cây, chi nhƣ rễ cây, có can vô căn thì biểu hiện
ở bên ngoài là trống rỗng, có chi mà không có can thò không thể biểu lộ, cho nên can chi là
một thể thống nhất, dựa vào nhau mà tồn tại. Nếu nhƣ chỗ dụng thần ở trong Nguyệt lệnh mộ
khố, thì vẫn còn một chút có thể hình xung, đả khai mộ khố, mới có thể khiến cho dụng thần
đắc dụng. Bởi vậy, 《Thi quyết Tạp khí Tài Quan》nói: "Tạp khí tài quan tại nguyệt cung,
thiên can thấu lộ thủy vi phong, tài đa quan vượng nghi xung phá, khước kị can chi áp phục
trọng" ( Tạp khí Tài Quan ở cung tháng, thiên can thấu lộ mới là phong phú, tài nhiều Quan
vƣợng cần xung phá, nhƣng kị can chi bị chế phục nặng).
Đƣơng nhiên, mấy câu nói đó còn có một ý tứ khác, tức là Nguyệt lệnh dụng Tài, còn phải
cần có Nhật chủ kiện vƣợng, nếu ở Nguyệt đề đắc lệnh, nhƣ vậy mới có thể đảm nhận gánh
vác Tài tinh, nếu không liền gặp chỗ hình thành gọi là "Tài đa thân nhược, phú ốc bần nhân"
kết cục. Nhƣng mà, kiến giải này có phần còn thiên lệch, dễ dàng cùng với đọan văn ở dƣới
nói là "Dụng hỏa sầu thủy, dụng mộc sầu kim" phát sinh xung đột. Nếu nhƣ chỗ dụng Tài là
hỏa, nhƣ vậy nhất định Nhật chủ là thủy, mà thủy lại cần ở "Nguyệt đề đắc lệnh" mà nói cao
cƣờng, không phải đúng lúc là dụng hỏa mà chỗ sầu là thủy sao? 《 Tử Bình toát yếu 》nói
: "Dụng chi vi tài bất khả kiếp", Sao có thể nhƣợng cho Kiếp Tài đắc lệnh mà cao cƣờng
đƣợc chứ?
 20-10-13, 13:02
lesoi
Ví dụ nhƣ một nữ mệnh: Canh Tý/ Canh Thìn/ Tân Mùi/ Ất Mùi. Tài tinh nắm lệnh thấu can,
Ấn Tỉ rất nặng, còn có hai Tài khố, chấp nhận là mệnh thân vƣợng, Tài vƣợng chăng? Thế
nhƣng, mệnh chủ ở trong vận Kỷ Mão cả phụ mẫu đều chết, dựa vào quốc gia cứu trợ mà
sống qua ngày. Sau khi tốt nghiệp Tiểu học làm công nhân bình thƣờng. Sau vận Đinh Sửu
do thời gian bệnh phổi kéo dài mà chết ở nhà, đến già cũng không thể nào thoát khỏi cảnh
khốn cùng.

Và một nam mệnh: Nhâm Dần/ Giáp Thìn/ Tân Mão/ Mậu Tuất. Cùng với nữ mệnh Canh Tý
là gần giống nhau, đúng với mệnh thuộc ở Tài đa thân nhƣợc, nhƣng mà mệnh chủ lại ôm bản
văn bằng lớn làm Tổng Giám đốc Công ty Hóa thạch, trong vận Tây phƣơng tài phát hàng
vạn. Tuy nhiên nói, mệnh này đến Tây phƣơng kim vận cũng là thân Tài đều vƣợng, phát tài
ở trong lẽ phải, nhƣng mệnh Canh Tý nữ mệnh đến vận thủy mộc cũng là thân Tài đều vƣợng
đó, tại sao lại nghèo khổ phải không ra dáng chứ? Giả nhƣ nói ngƣới ấy thân nhƣợc, sao vận
Đinh Sửu lại chuyển sang vƣợng, tại sao lại bị nghèo khốn cùng bệnh tật áp bức? Thực ra,
không phải là vấn đề thân vƣợng hay thân nhƣợc, mà là vấn đề kết cấu của cách cục. Nữ
mệnh có Tỉ Kiếp thấu can, dụng Tài gặp Kiếp, cách cục có tổn hại, trừ phi đến vận Quan Sát
chế Kiếp hộ Tài có lực, nếu không bệnh cách cục khó khử, mệnh chủ là quyết định song
không gặp phát tài. Nam mệnh lại không giống vậy, Tài cách phối Ấn, cách chính cục thanh,
tự nhiên học nghiệp có thành, sự nghiệp thuận lợi. Lại thêm Tài tinh dụng thần nhiều, lại cần
đến Tỉ Kiếp vận thừa để giảm bớt Tài, cho nên đến vận Tỉ Kiếp đại phát không ngừng.

Lại nhƣ mệnh Vương Lực: Tân Mão/ Canh Dần/ Tân Sửu/ Đinh Dậu. Có hai Tài tinh nặng,
Tỉ Kiếp lại nhiều, nhƣng mệnh chủ đến vận Bính Tuất do sắp đặt hơn thua một cách tỉ mĩ mà
một lần hành động buôn bán ở Hà Nam đã thành danh, đƣợc gọi là "Ngƣời Trung Quốc có kế
hoạch quan hệ giao tiếp hàng đầu" . Tại sao mệnh dụng Tài bị Kiếp mà có thể một lúc phát ra
tiếng vang cả bầu trời vậy? Là do bát tự đại vận có Bính Đinh Quan Sát chế Kiếp, khiến cho
Tài cách chiếm đƣợc chỗ phát huy. Về sau lại đến vận Tây phƣơng Tỉ Kiếp, Đinh hỏa chế
Kiếp lực yếu, sự nghiệp liền dần dần có chiều hƣớng suy thoái là vậy.
453 | Tam mệnh thông hội

Ví dụ thực tế chứng minh: Tài cách tốt nhất là phối Ấn, mà không nên gặp Tỉ Kiếp cao
cƣờng, nếu nhƣ Kiếp vƣợng đoạt Tài thì tổn cách hoặc phá cách, trừ phi đại vận có cách giải
cứu, nếu không thì liền không có thể nói là phú quý. Chỉ có ở dụng thần Tài tinh là quá nhiều,
nhƣ đoạn văn ở trên mệnh của Hoắc Anh Đông, mới hỉ Tỉ Kiếp để lấy bớt dụng thần Tài quá
nhiều. Gọi là "Tài đa nhược phùng kiếp, gia vượng nhân ân phú" là vậy. Nếu nhƣ là chỉ có
đơn độc Tài mà thấy Tỉ Kiếp cƣơng cƣờng, trừ phi có Quan Sát chế Kiếp hoặc ngoại trừ loại
cấu thành chuyên vƣợng cách, thì tất nhiên không thể phát phúc.
 20-10-13, 13:04
lesoi
Chính văn:
Niên căn vi bản,
Nguyệt lệnh vi trung,
Nhật sinh bách khắc,
Thời vượng thời không.

Đại lục bình chú:


Phàm năm là Tổ tông, tháng là Phụ Mẫu, ngày là Phu Thê, giờ là Tử Tức, nhƣ vậy bát tự tựa
nhƣ giống một cây ăn quả, năm là gốc, tháng là mầm, ngày là hoa, giờ là quả. Giống nhƣ năm
tháng có Tài Quan Ấn thụ, là trƣớc tiên mầm gốc có khí, nhƣng sau đó dụng thần đắc thời
thần ( canh giờ) phối hợp, thì khai hoa kết quả vậy. Mệnh thƣ gọi là "Căn tại miêu tiên, thực
tại hoa hậu" , tức là ý này.
Ngũ hành đích vƣợng suy quyết định bởi hai vị trí tháng và giờ, nghĩa là đắc lệnh ở vị trí
tháng, đắc địa ở vị trí giờ. Phàm xem dụng thần đều cần dẫn quy về thời thƣợng để xem xét,
nguyệt lệnh dụng thần cƣờng vƣợng, cần có giờ để tiết chế. Nguyệt lệnh dụng thần thất lợi,
cần giờ để cứu hộ. Một ngày có 12 giờ, một giờ có 8 khắc (mƣời lăm phút bằng một khắc),
mỗi ngày có 100 khắc. Xem ở lúc ngũ hành vƣợng suy, cần chú ý ở chi giờ là nằm ở trạng
thái sinh vƣợng hoặc là tử tuyệt hoặc là ở trạng thái lạc không vong. 《 Tích Thiên tủy 》 【
Nguyên chú 】 nói: "Ngƣời sinh giờ Tý, trƣớc 3 khắc, phân ra 7/10 là Nhâm thủy dụng sự;
sau 3 khắc, phân ra 7/10 Quý thủy dụng sự". Ý là, luận giờ cần phải tiến hành song song lệnh
tháng cùng với lệnh giờ mà dụng sự, để định ngũ hành vƣợng suy. Cho nên các sách về sau
của 《 Tam Mệnh thông hội 》 đều lấy giờ thủ cách luận mệnh. Có thể thấy cổ nhân rất
trọng là giờ sinh theo ngũ hành vƣợng suy.
Chỗ này là thảo luận chữ "Không" thông thƣờng là chỉ Tuần Không, lấy 2 trụ năm và ngày
suy đoán, tức là trong tuần Giáp Tuất thì Thân Dậu là Không, trong tuần Giáp Tý thì Tuất
Hợi là Không ... thông thƣờng mệnh thƣ đều đem Tuần Không đƣợc xem là tƣơng đƣơng
trọng yếu, cho rằng can chi Tuần không thì hƣ, giả nhƣ Tài Quan tuần không thì cả hai ắc
danh lợi đều hƣ, Viên Thiên Cƣơng nói: "Không vong vi hại tối sầu nhân, tài trí anh hùng
ngộ nhất thân. Chỉ khả vi tăng tịnh học thuật, đôi kim tích ngọc diệc tu bần." Ngoài ra, còn
có các phép nhƣ: "Tam không trí phát", "Tứ không yểu thọ". Duy chỉ có một quyển sách《
Tử Bình chân thuyên 》 mang Tuần Không để phổ biến là Thần Sát, gọi là hết thảy tinh
thần Thần Sát đều không ảnh hƣởng đến cách cục thành bại, cao thấp. Nhƣ vậy, Tuần Không
là không ảnh hƣởng đến phú quý cùng lục thân chăng?
Mời xem ví dụ thực tế:
Nữ mệnh 1: Tân Mão/ Tân Mão/ Canh Ngọ/ Tân Tị. Phu cung Quan tinh lạc Không, mệnh
chủ là Phó Thị trƣởng, chồng là chủ nhiệm đại biểu Quốc Hội nhân dân toàn quốc.
Nữ mệnh 2: Tân Dậu/ Canh Tý/ Mậu Tý/ Quý Hợi. Tháng và ngày có 2 Tý thủy Tài lạc
Không, mệnh chủ là nhà đại phú, phu thê cùng sống đến già.
Nữ mệnh 3: Mậu Tý/ Mậu Ngọ/ Giáp Thìn/ Tân Mùi. Trụ giờ Tài Quan đều lạc Không,
454 | Tam mệnh thông hội

mệnh chủ là Bộ trƣởng một bộ ở Trung Ƣơng.


Nam mệnh 1: Giáp Tý/ Giáp Tuất/ Giáp Tý/ Đinh Mão. Nguyệt lệnh Tuất thổ Tài lạc Không,
mệnh chủ sáng lập Công tý Gia tộc, phát tài hàng vạn ức.
Nam mệnh 2: Đinh Mùi/ Nhâm Tý/ Mậu Tuất/ Giáp Dần. Trụ giờ Dần mộc Sát lạc Không,
nhƣng mà mệnh chủ sinh ra 9 đứa con, trong đó có 5 là Bác Sĩ.
Nam mệnh 3: Nhâm Thân/ Kỷ Dậu/ Ất Hợi/ Giáp Thân. Bốn chi Sát Ấn hoàn toàn lạc
Không, nhƣng mà mệnh chủ là Bác sĩ Y học, ở Mỹ quốc thành lập Y Viện, thu nhập rất dồi
dào, con cái có 1 trai 4 gái, vợ chồng mệnh chủ sống rất thọ.
 20-10-13, 13:06
lesoi
Chính văn:
Can dữ chi đồng,
Tổn tài thương thê,
Nguyệt chi niên đồng,
Phá hình tổ cơ.

Đại lục bình chú:


Nguyên văn ý tứ là, nhƣ gặp can chi nhật trụ là ngũ hành giống nhau, nhƣ loại Giáp Dần, Ất
Mão, thì dễ tổn tài, thƣơng thê. Là tại sao vậy? Bởi vì chi ngày là cung Thê, mà Tỉ Kiếp là
khắc Tài, Tỉ Kiếp chiếm cứ cung Thê, liền giống nhƣ có cƣờng đạo tiến vào trong nhà, sớm
muộn gì đối với thê tài cũng gặp bất lợi. Chi tháng hoặc chi năm cùng ngũ hành nhật nguyên
giống nhau, tức là năm tháng cùng là Tỉ Kiếp, dễ dàng phá tổn tổ nghiệp.
Giải thích nhƣ vậy là không toàn diện. Tỉ Kiếp tất nhiên là phá hỏng mọi vật, nhƣng cũng
không phải là tất cả đều xấu mà không có chuyện tốt, chỉ cần có chế, liền có thể thành chỗ sử
dụng cho ta. Cọp, Sƣ Tử hung ác đều có thể thuần hóa thành diễn viên xiếc, mà tại sao Tỉ
Kiếp lại không thể thuần hóa thành công cụ tranh công đoạt lợi nhỉ? Bất kể là chi ngày còn là
chi năm, tháng có Kiếp Tài, chỉ cần có Quan Sát chế phục, liền có thể khiến cho không hình
phá tổ nghiệp, không tổn tài, thƣơng thê.
Nam mệnh 1: Ất Sửu/ Tân Tị/ Giáp Dần/ Nhâm Thân. Can chi ngày giống nhau, nhƣng mệnh
chủ trƣớc đó đảm nhận Cục trƣởng phân Cục cảnh sát một huyện, sau đƣợc vợ rất giỏi nội
trợ, đƣờng kinh thƣơng phát tài thiên vạn. Sinh ra 3 trai, 1 gái, vợ chồng sống với nhau đến
già. Chỗ này là do có tam hình cƣỡng chế Tỉ Kiếp.
Nam mệnh 2: Canh Ngọ/ Nhâm Ngọ/ Bính Ngọ/ Đinh Dậu. Năm tháng ngày có ba Nhận, can
chi trụ ngày giống nhau, chỉ vì đại vận Tây Bắc, kim thủy có lực chế Dƣơng Nhận, cho nên
mệnh chủ tổ nghiệp không có suy, đã từng du học ở Mỹ quốc lấy học vị Thạc sĩ, sau đó liên
tiếp đảm nhận Cục trƣởng Cảnh cục cấp huyện, thị. Hôn nhân ổn định, sinh ra 3 trai, 1 gái.
Nam mệnh 3: Nhâm Ngọ/ Bính Ngọ/ Bính Ngọ/ Đinh Dậu. Cùng với tạo Canh Ngọ gần
giống nhau, thiên can thiếu một chữ Canh, Nhâm thủy liền khó chế Dƣơng Nhận, hơi có sản
nghiệp để lại nhƣng cũng dần phá hao hết tận, trong vận Kỷ Dậu mệnh chủ mở Công Ty phát
tài hàng thiên vạn, nhƣng mà vợ đánh bạc làm mất đi hơn 1000 vạn tệ, do vậy mà ly hôn, chỗ
này mới ứng với câu nói "Tổn tài thương thê" .
Nam mệnh 4: Quý Hợi/ Quý Hợi/ Nhâm Tý/ Tân Hợi. Can chi năm, tháng, ngày giống nhau,
nhƣng mà thành chuyên vƣợng cách, Tỉ Kiếp không phải là kị vậy. Trong vận Tây phƣơng,
Ấn tinh đắc địa, cha của mệnh chủ phát tài làm giàu. Sau 30 tuổi vận chuyển Canh Thân, mặc
dù Trung Cộng trấn áp hàng loạt nhà tƣ bản địa chủ, nhƣng gia đình mệnh chủ vẫn đƣợc
phong là "Khai minh địa chủ", "Hồng sắc tư bản gia" mà may mắn thoát khỏi cảnh khó khăn.
Sau 40 tuổi vận chuyển Kỷ Mùi, phá mất chuyên vƣợng cách, mệnh chủ mới gặp liên tiếp bị
phê phán cùng lăng nhục mà tự sát.
 20-10-13, 13:07
455 | Tam mệnh thông hội

lesoi
Chính văn:
Nguyệt lệnh kiến lộc,
Bất trụ tổ ốc,
Nhất kiến tài quan,
Tự nhiên phát phúc.

Đại lục bình chú:


Tiếp theo đoạn văn ở trên, tác giả tiến thêm một bƣớc trình bày thêm Nguyệt lệnh là cách cục
Tỉ Kiếp. Nguyệt lệnh không có các vật có thể dụng là Tài Quan Ấn Thực, chỉ có Tỉ Kiếp, liền
thành không có dụng thần. Nguyệt lệnh không có dụng thần thì biểu thị ở trong nhà không có
cái gì để có thể kế thừa, cho nên nói : "Nguyệt lệnh kiến lộc, bất trụ tổ ốc" . Nhƣng nếu có Tài
Quan, đặc biệt là Quan tinh có thể chế Tỉ Kiếp, vậy có thể kế thừa tổ nghiệp cùng phát dƣơng
quang đại.

Nhƣ mệnh Hoàng Đế Gia Tĩnh nhà Minh: Đinh Mão/ Kỷ Dậu/ Tân Tị/ Kỷ Hợi. Nguyệt lệnh
Kiến Lộc, nhƣng vì địa chi có Tài Quan, đại vận lại là Đông Nam Tài Quan vƣợng địa, cho
nên mệnh chủ có thể kế thừa tổ nghiệp, làm vua 45 năm.

Lại nhƣ mệnh Hoàng đế Càn Long nhà Thanh: Tân Mão/ Đinh Dậu/ Canh Ngọ/ Bính Tý.
Nguyệt lệnh Dƣơng Nhận, cũng do địa chi có Tài Quan, đại vận là đất Tài Quan vƣợng địa,
cho nên khiến mệnh chủ không chỉ có thể kế thừa tổ nghiệp, mà còn có thể phát dƣơng quang
đại, làm hƣng thịnh Thanh triều.

Một nữ mệnh khác: Quý Mùi/ Mậu Ngọ/ Đinh Dậu/ Canh Tuất. Nguyệt lệnh Kiến Lộc, địa
chi có Tài mà không có Quan, thiên can Mậu Quý hợp hỏa, Quý thủy hóa hƣ, không thể chế
Kiếp, bởi vậy cha dù có kinh thƣơng phát tài vô số, có nhiều bất động sản, nhƣng do mệnh
chủ sau khi sinh ra vài năm, Trung Cộng liền mang thân phụ ra từ hình, toàn bộ tài sản bị tịch
thu hết, mệnh chủ không có một chút kế thừa tổ nghiệp, ứng với câu nói "Bất trụ tổ ốc" .
 20-10-13, 13:10
lesoi
Chính văn:
Dụng hỏa sầu thủy,
Dụng mộc sầu kim,
Khinh trọng năng phân,
Họa phúc tự chân.

Đại lục bình chú:


Nguyệt lệnh dụng hỏa thì sầu thủy khắc, nguyệt lệnh dụng mộc thì sầu kim khắc, lời nói này
làm cho ngƣời ta rất nghi ngờ, cát thần phạm khắc còn nói là đƣợc quá khứ, chẳng lẽ hung
thần cũng sợ khắc ƣ? Nếu nhƣ chúng ta không biết lịch sử dụng thần phát triển, sẽ giải thích
lời này là không hợp lý, bởi vì đoạn văn sau nói "Quan sát trọng phùng, chế phục hữu công",
chỗ này nếu nhƣ Quan Sát là hỏa, sẽ không phải sầu lo bị thủy chế phục chăng?

Nhƣng mà nếu nhƣ chúng ta nghiên cứu kĩ lịch sử dụng thần phát triển, sẽ phát hiện chỗ Tử
Bình nói về dụng thần ngay từ đầu vẻn vẹn chỉ có cát thần là các loại Tài Quan Ấn Thực,
cũng không bao gồm hung thần các loại nhƣ Sát Thƣơng Kiêu Kiếp. Ví nhƣ ở 《 Kế Thiện
thiên 》nói: "Dụng thần bất khả tổn thương, nhật chủ tối nghi kiện vượng. Như nguyệt lệnh
hữu quan bất khả thương, hữu tài bất khả kiếp, hữu ấn bất khả phá, phàm trụ trung hữu dụng
456 | Tam mệnh thông hội

chi tự, bất khả tổn hại dã." ( Dụng thần không thể tổn thƣơng, nhật chủ cần phải kiện vƣợng.
Nhƣ Nguyệt lệnh có Quan không thể có Thƣơng, có Tài không thể có Kiếp, có Ấn không thể
phá hại, phàm trong trụ có chữ dụng, thì không thể tổn hại vậy). Chỗ này không luận Nguyệt
lệnh là Thất Sát, Thƣơng Quan thì vấn đề là không cần khắc chế, mà là nói thẳng "Dụng thần
bất khả tổn thương" .《 Cốt Tủy ca 》cũng nói: "Cách cục chỉ dĩ dụng thần suy, dụng thần
bất thương nhân bất diệt." (Cách cục chỉ lấy dụng thần mà suy ra, dụng thần không làm tổn
hại thì bất diệt).《 Tử Bình bát tự toát yếu pháp 》càng nhắm vào mỗi dụng thần lần lƣợt
nói rằng: "Dụng chi vi quan bất khả thương, dụng chi vi tài bất khả kiếp, dụng chi vi ấn bất
khả phá, dụng chi thực thần bất khả đoạt, dụng chi vi lộc bất khả xung. Nhược hữu thất sát tu
yếu chế, chế phục thái quá phản vi hung. Nhược ngộ thương quan tu yếu tĩnh, thử thời tử
bình vạn pháp tông." ( Dụng là Quan thì không thể tổn thƣơng, dụng là Tài thì không thể
Kiếp, dụng là Ấn thì không thể phá, dụng Thực thần thì không thể đoạt, dụng là Lộc thì
không thể xung. Nếu có Thất Sát cần phải chế phục, chế phục thái quá trái lại thành hung.
Nếu gặp Thƣơng Quan cần phải tĩnh, chỗ này là tôn chỉ của Tử Bình vạn pháp).

Chú ý! Chỗ này khi nói Tài Quan Ấn Thực đếu lấy một chữ "Dụng" mở đầu, chỉ nói đến
Thất Sát, Thƣơng Quan, lại không có nói đến chữ Dụng. Có thể thấy, Tử Bình là không lấy
Thất Sát, Thƣơng Quan loại hung thần làm dụng thần, bởi vậy mới nói một lời vắn tắt: "Dụng
thần bất khả tổn thương" . Cũng chính bởi vì Tử Bình vừa nói đến Thất Sát, Thƣơng Quan,
liền nói "Cần phải chế", "Cần phải tĩnh", 《 Tử Bình chân thuyên 》 mới tiến vào một bƣớc
mang dụng thần phân ra thành hai loại cát thần cùng hung thần, đối với cát thần thì thuận mà
dụng, đối với hung thần thì nghịch mà dụng ( vậy ý tứ là Tử Bình đối với loại Thất Sát,
Thƣơng Quan "Cần phải chế", "Cần phải tĩnh" ).
 20-10-13, 13:12
lesoi
Đã hiểu rõ dụng thần Tử Bình bản nghĩa, chúng ta mới có thể hiểu rõ ý tứ chân chính là
"Dụng hỏa sầu thủy, dụng mộc sầu kim" , thực ra lời nói này lại là "Dụng chi vi quan bất khả
thương, dụng chi vi tài bất khả kiếp, dụng chi vi ấn bất khả phá, dụng chi vi thực bất khả
đoạt" là lời nói chọn lọc. Nếu nhƣ chúng ta mạng Thất Sát, Thƣơng Quan vậy cùng một lúc
nói đều là dụng thần, nhƣ vậy, hỏa này nếu nhƣ là Thất Sát, mộc này nếu nhƣ là Thƣơng
Quan, chúng ta cũng không phải lo sầu có thủy hoặc có kim, ngƣợc lại cần phải có thủy đến
chế hỏa, kim đến chế mộc, ngoại trừ các loại Tòng Sát cách, Tòng Tài cách là cách cục đặc
thù.
Tuy nhiên cát thần cần phải bảo hộ tính thuận dụng, hung thần cần phải tính nghịch dụng
khống chế, nhƣng mà cũng cần phân ra nặng nhẹ, nhiều ít, nếu không thì không thể suy đoán
cát hung họa phúc chuẩn xác. Cát thần nhiều cũng không dụng, ba vị hòa thƣợng không thể
uống chung một bát nƣớc, Quan nhiều là Sát, Tài nhiều là hại, Ấn nhiều là Kiêu, Thực nhiều
là Thƣơng, độc Quan cai quản vạn dân, độc Tài chấp chƣởng thiên kim, độc Thực thắng Tài
Quan, độc Ấn vào Hàn lâm. Nhiều thì hỗn tạp, nhất là Quan Sát hỗn tạp, là cùng phá cách,
khiến cho mọi ngƣời không bần thì yểu, cho nên ngoại trừ các loại cách cục Tòng Sát, Tòng
Tài, hóa khí, cần phải ức chế để giảm bớt, làm cho cách cục thanh thuần. Hung thần ít cũng
không thể chế phục thái quá, Thất Sát chế quá thì thƣơng tàn, Thƣơng quan chế quá thì bần
hàn, Kiêu thần chế quá thì ngu muội, Kiếp Nhận chế quá thì cuồng điên, cho nên Tử Bình
viết: "Chế phục thái quá phản vi hung" .

Nam mệnh 1: Nhâm Thân/ Bính Ngọ/ Tân Hợi/ Kỷ Sửu. Một Quan bị thƣơng phá, cả đời gặp
nghèo khó lẫn bệnh tật, không thành sự nghiệp.
Nam mệnh 2: Tân Mùi/ Canh Dần/ Đinh Mùi/ Mậu Thân. Một Ấn bị Tài phá hoại, 6 tuổi
năm Đinh Sửu cha bị đao trảm chết.
457 | Tam mệnh thông hội

Nam mệnh 3: Ất Tị/ Quý Mùi/ Quý Tị/ Canh Thân. Một Thực bị Ấn đoạt, 28 tuổi vận Tân Tị,
năm Quý Dậu chết yểu.
Nam mệnh 4: Canh Tuất/ Ất Dậu/ Tân Dậu/ Ất Mùi. Một Tài bị Kiếp tổn hại, tính cách bị tai
họa ở Tiên thiên lúc nhỏ bệnh tê liệt, tàn tật cả hai chân.
Nam mệnh 5: Mậu Thân/ Nhâm Tuất/ Tân Dậu/ Mậu Tuất. Độc Thƣơng bị chế thái quá, thuở
thơ ấu bị bệnh viêm màng não trở thành ngƣời mất trí.
Nam mệnh 6: Quý Tị/ Đinh Tị/ Bính Thìn/ Quý Tị. Nguyệt Kiếp dụng Quan, vận Quý Sửu,
năm Tân Mùi chế Kiếp thái quá, do phi cơ hỏng mà trở thành ngƣời tàn phế.
Nữ mệnh 1: Tân Dậu/ Ất Mùi/ Kỷ Dậu/ Canh Ngọ. Một Sát bị chế thái quá, 4 tuổi năm Ất
Sửu bị bệnh co giật kinh phong lúc nhỏ mà mất trí.
Nữ mệnh 2: Bính Ngọ/ Canh Dần/ Giáp Tý/ Bính Dần. Một Sát bị chế thái quá, vận Đinh
Hợi, sau khi bị bệnh cuồng điên mà không sống nỗi.

Hết Tập một.

( Còn tiếp)
 21-10-13, 16:02
lesoi
《 Tứ Ngôn độc bộ 》 bình chú
Tác giả: Hoàng Đại Lục
( Tập hai )

Chính văn:
Ngũ hành sinh vượng,
Bất lự hưu tù,
Đông tây nam bắc,
Số tận phương hưu.

Đại lục bình chú:


Thông thƣờng ở dƣới tình huống, ngũ hành ai đó nếu nhƣ chỉ có Nguyệt lệnh ở trạng thái
trƣờng sinh hoặc đế vƣợng, thì lại sợ đại vận hành đến đất tử tuyệt, gọi là "Sinh phạ tử nhi tử
phạ sinh" (Sinh sợ tử và tử sợ sinh) vậy. Nhƣng nếu nhƣ ngũ hành ai đó ở hai nơi tháng và
giờ cùng sinh vƣợng, có căn có gốc, lại không sợ ở đại vận đến đất hƣu tù, bất luận là vận
Đông Nam hoặc vận Tây Bắc đều không đủ lo lắng. Tất nhiên, lúc này chỉ là lấy ngũ hành
lực cƣờng nhƣợc mạnh yếu mà nói, không thể dụng đến trực tiếp suy đoán cát hung họa phúc,
cần phải suy đoán cát hung họa phúc, vẫn nhất định phải dựa vào bát tự cách cục hỉ, kị mà
luận. Nếu là kị, cừu thần sinh vƣợng không có chế, thì tất nhiên phải luận hung. Mặc dù là
tƣớng, hỉ thần sinh vƣợng, hoặc nhiều hoặc tạp, cũng không thể luận cát.

Chính văn:
Dần thân tị hợi,
Tứ sinh chi cục,
Dụng vật thân cường,
Ngộ chi phát phúc.

Đại lục bình chú:


Ở Nguyệt lệnh là Dần Thân Tị Hợi, là 4 ngũ hành ở đất trƣờng sinh, cho nên viết "Tứ sinh chi
cục" . Dụng thần ở nơi đất trƣờng sinh, là biểu hiển sức sống vƣợng thịnh, nếu nhƣ đắc dụng,
tức phát phúc không nhỏ. Cho nên 《 Ngũ hành nguyên lý tiêu tức phú 》nói: "Tài phùng
458 | Tam mệnh thông hội

vượng địa nhân đa phú, quan ngộ trường sinh mệnh tất vinh" (Tài gặp đất vƣợng ngƣời nhiều
phú, Quan gặp đất trƣờng sinh mệnh tất vinh),《 U vi luận 》nói: "Ấn thụ phùng sinh, mẫu
đương hiền quý; thiên tài quy lộc, phụ tất tranh vanh; quan tinh nhập lộc vượng chi hương,
tử đương vinh hiển; thất sát ngộ trường sinh chi địa, nữ chiêu quý phu" ( Ấn thụ gặp sinh, mẹ
đƣơng nhiên hiền quý; Thiên Tài quy Lộc, cha tất tài hoa xuất chúng; Quan tinh vào đất Lộc,
Vƣợng, con cái tất vinh hiển; Thất Sát gặp đất trƣờng sinh, nữ gặp chồng có địa vị). Lời nói
này rất rõ, dụng thần đến đất sinh vƣợng, thành cách thì cao, phát phúc tất lớn. Lục thân đến
đất sinh vƣợng, thì lục thân tƣơng ứng cũng có thể phát phúc.
Ngoài ra, còn có một thuyết, nhƣ mệnh có đủ 4 chữ Dần Thân Tị Hợi, ngƣời tất thông minh
xuất chúng, phú quý siêu quần. Nhƣ 《 Kim Ngọc phú 》nói: "Dần thân tị hợi điệp kiến,
hữu thông minh sinh phát chi tâm." 《 Vạn thượng thư Quỳnh Ki tam bàn phú 》nói:
"Dần thân tị hợi kiêm toàn, vị chí tam công chi liệt." Loại này không luận cách cục thành bại,
phép nói chỉ lấy tứ sinh luận quý, đã làm trái với Tử Bình mệnh lý lại còn cấm không có mở
ra ví dụ thực tế để kiểm nghiệm lại loại tà thuyết.

Ví dụ nhƣ mệnh diễn viên thanh niên Chu Khiết: Mậu Thân/ Quý Hợi/ Quý Tị/ Giáp Dần, lại
thuộc mệnh bao gồm đủ Dần Thân Tị Hợi, thế nhƣng mệnh chủ không có một điểm quan khí
quý, diễn xuất vừa mới nổi danh vì dùng ma túy mà chết yểu lúc tuổi còn thanh xuân.

Mệnh Ngoại tổ phụ của Mao Trạch Đông là Văn Cẩm Huân: Tân Tị/ Bính Thân/ Đinh
Hợi/ Nhâm Dần. Bao gồm đủ một dạng Dần Thân Tị Hợi, nhƣng mệnh chủ từ lúc sinh ra chỉ
là một nông phu cấy cày ở vùng quê.

Một mệnh nam trẻ con: Mậu Dần/ Quý Hợi/ Tân Tị/ Bính Thân, vừa ra đời đƣợc 1 tháng liền
bị bệnh viêm phổi mà chết yểu.
 21-10-13, 16:05
lesoi
Bởi vậy, ngũ hành lâm trƣờng sinh chỉ là một loại có biểu hiện sinh khí, nhƣng không nhất
định liền hiển quý.
Vấn đề là , chỗ dụng thần lâm ở đất trƣờng sinh, nhƣ thế nào mới có thể là chỗ ta sử dụng
chứ?
Chỗ lời văn nói: "Dụng vật thân cường, ngộ chi phát phúc", ý tức là ngay lúc đó vật ở trƣờng
sinh, cần phải có nhật nguyên thân cƣờng, gặp thì mới có thể phát phúc. Chỗ này cùng với
"Thân cường tài năng đảm tài quan" là một ý.

Vậy cách nói chỗ này đúng không? Không đúng! Bởi vì Tử Bình 《 Tạp Luận khẩu quyết
》nói: "Nhập cách giả phi phú tức quý, bất nhập cách giả phi bần tức yểu" ( Nhập cách thì
không phú cũng quý, không nhập cách thì không bần cũng yểu), còn 《 Tử Bình chân
thuyên 》 thì nói: "Yếu nhi ngôn chi, phàm toàn cục chi cách, lại thử nhất tự nhi thành giả,
quân vị chi tương dã. Thương dụng thậm vu thương thân, thương tương thậm vu thương
dụng" ( Muốn nói, phàm đủ cách cục, nhở một chữ này mà thành, đều là Tƣớng vậy. Tổn
thƣơng dụng nặng hơn tổn thƣơng thân, tổn thƣơng tƣớng nặng hợn tổn thƣơng dụng). Ý tứ là
nhƣ thế nào vậy?

Vì phú quý, bần tiện, cát hung, họa phúc, hoàn toàn là do ở cách cục cao thấp, thành hay bại;
còn thành cách hay bại cách lại hoàn toàn là do ở một chữ Tƣớng thần, thƣơng hại dụng thần
quan trọng còn hơn thƣơng hại nhật nguyên, thƣơng hại tƣớng thần thì lại còn hơn thƣơng hại
dụng thần. Nói cách khác, đối với cách cục mà nói, thì tƣớng thần cùng dụng thần mới là
quan trọng nhất, là hai mấu chốt quan trọng đứng hàng đầu so với mọi vật khác. Trong hai
459 | Tam mệnh thông hội

loại này, lại lấy Tƣớng thần càng quan trọng hơn. Một Tƣớng thần bị tổn thƣơng, cả cách cục
bị phá. Đổi lại câu nói, xem dụng thần có hay không có thể có chỗ sử dụng cho ta, không ở
Nhật nguyên cƣờng nhƣợc, mà ở tại tƣớng thần ra sao, chỉ cần tƣớng thần cùng nguyệt lệnh
cấu thành cách cục, mệnh chủ liền có thể phát phúc. Nếu không có tƣớng thần, không luận
Nhật nguyên là cƣờng hay là nhƣợc, cũng không thể cấu thành cách cục, cũng tức là vật
không thể dụng ở nguyệt lệnh. Bởi vậy, 《 Uyên Hải tử bình • Bảo Pháp 》 chỉ nói: "Phùng
quan khán tài, phùng tài khán sát, phùng sát khán ấn, phùng ấn khán quan" (Gặp Quan xem
Tài, gặp Tài xem Sát, gặp Sát xem Ấn, gặp Ấn xem Quan), áo diệu là chỉ ở tại xem khán
Tƣớng thần mà không xem ở Nhật nguyên vậy.
Mệnh Vương Tông Mộc: Quý Mùi/ Giáp Dần/ Tân Dậu/ Kỷ Sửu. Nguyệt lệnh là Tài, gặp
Tài xem Sát, không có Sát xem Ấn, kị Sát thì 10 có 9 là nghèo, phối Ấn thì 5 có 4 là có địa
vị. Xem đại vận nghịch hành đất thủy kim, không có Sát phá cách, có Ấn Tỉ trợ cách, thêm
Quan tinh ở tháng trƣờng sinh, Tài tinh ở tháng đắc lộc, tất nhiên phụ tử đều quý. Thực tế,
mệnh chủ là xuất thân Tiến sĩ làm Thƣợng thƣ Bộ Hình, sinh ra bốn con trai thì có ba con là
Tiến sĩ đều làm quan, đều là vinh quý.

Mệnh Trần Đăng Kính: Đinh Dậu/ Nhâm Dần/ Tân Sửu/ Quý Tị. Tài cách thấu Sát thì kị
Sát, tuy có Thực Thƣơng khử Sát tồn Tài, nhƣng vận thứ ba khởi là Kỷ Mậu Đinh Bính Ất
Giáp, một đƣờng chế Thực hộ Sát, Sát tinh không thể khử hết, lấy Sát yêu (mời) Thực chế
cách luận thì lại sợ có chế Sát quá nặng, cho nên cuối cùng mệnh chủ cả đời chỉ là Đại học
hàm thụ, chỉ sinh đƣợc một con, cũng không quý. Cùng với mệnh Vƣơng Tông Mộc là gần
giống nhau, nhƣng kém hơn hẳn một đoạn lớn, mệnh này có địa chi tam hợp kim cục, đại vận
cũng là đất thủy kim, tất nhiên không phải là do thân cƣờng hay thân nhƣợc.

Nam mệnh 1: Ất Mùi/ Mậu Dần/ Tân Dậu/ Quý Tị. Cũng thuộc cách cục Tài cách phối Ấn,
tíếc là Mậu Quý hợp mà hóa Sát, mà Sát không có chế hóa, thì là kị Sát vậy. Kị Sát thì 10 có
9 là nghèo khổ. Cho nên mệnh chủ 14 tuổi tức là do bệnh mà dẫn đến cả hai mắt đều mù lòa,
sau khi trƣởng thành lấy đoán mệnh làm nghề mƣu sinh. Chỉ sinh đƣợc một nữ.
Nam mệnh 2: Mậu Thân/ Quý Hợi/ Kỷ Dậu/ Nhâm Thân. Trong Nguyệt lệnh có Giáp mộc
Quan tinh ở trƣờng sinh, nhƣng Quan không có Ấn hóa, không thành cách cục, nhƣ vậy thì
lấy Quan là kị. Tuy nhiên có Thân Hợi tƣơng xuyên, dựa vào chỗ khử Quan, nhƣng có Tài
tinh tiết Thƣơng sinh Quan, khử Quan không hết, thì khí không quý. Tuế vận lại gặp Quan
tinh tiết Tài liền phá cách, liền có tai họa vào lao ngục. Sự thực, mệnh chủ sinh ra ở nông gia
bần khốn, 17 tuổi vận Ất Sửu, năm Ất Sửu tức là do cƣớp mà mang tội bị phán hình 4 năm tù,
27 tuổi vận Bính Dần, năm Ất Hợi, lại do trộm cƣớp mà tiếp tục bị tội giam tù 4 năm.
Nam mệnh 3: Mậu Tý/ Quý Hợi/ Kỷ Hợi/ Nhâm Thân. Tòng Sát cách, Tài tinh tọa Lộc, cho
nên cha là thƣ ký Địa ủy, mệnh chủ cùng năm dƣơng quang xán lạn. Thẳng đến vận Ất Sửu
gặp lƣu niên hỏa thổ, phá mất Tòng Sát cách, cha bị đánh ghép tội vào Tẩu Tƣ phái (Tẩu tư
phái là: phái chủ trƣơng đi theo con đƣờng tƣ bản chủ nghĩa), cả nhà mệnh chủ mới đi vào
cảnh gian khó. Sau đó hành Đông phƣơng vận Tòng Sát, cha đƣợc trở lại bình thƣờng, mệnh
chủ có phần ổn định công tác, sự nghiệp coi nhƣ không trở ngại.
Gần giống với tạo Mậu Thân, cùng một dạng thân nhƣợc vô căn, một dạng Nguyệt lệnh là
Thiên Tài tọa Lộc, tại sao tạo Mậu Thân có phụ thân lại là lão nông bần khốn chứ? Bởi vì hai
mệnh trong Nguyệt lệnh đều có Giáp mộc Quan tinh, tạo Mậu Thân khử Quan không hết, còn
tạo Mậu Tý này chỉ do thiếu một Thân một Dậu, lại còn do Thân Tý hợp thủy, đúng với chân
Tòng Sát, cách cục liền cao hơn nhiều. Có thể thấy, tất cả đều cần lấy cách cục hỉ kị mà luận,
không thể chỉ bằng vào Tài tinh tọa Lộc liền luận là cha gặp phú quý. Lộc, vƣợng nhƣ vậy,
trƣờng sinh cũng nhƣ vậy.
 21-10-13, 16:09
lesoi
460 | Tam mệnh thông hội

Chính văn:
Tý ngọ mão dậu,
Tứ bại chi cục,
Nam phạm hưng suy,
Nữ phạm cô độc.

Đại lục bình chú:


Tý Ngọ Mão Dậu là ngũ hành ở bại địa, nhƣ mộc bại ở Tý, hỏa bại ở Mão …, cho nên gọi là
cục tứ bại. Lời nói này phàm là mệnh phạm cục tứ bại này, nam mệnh thì hƣng suy, thì là phú
quý không lâu dài, nữ mệnh thì hôn nhân và con cháu xem nhƣ không tốt, gặp cô độc đến già.
Tựa nhƣ là không luận nam nữ, mệnh có đủ Tý Ngọ Mão Dậu đều là không tốt.

Nhƣng 《 Vạn thượng thư Quỳnh Ki Tam bàn phú 》lại nói: "Tý Ngọ Mão Dậu giai bị,
chức phong nhất phẩm chi quan"( Tý Ngọ Mão Dậu đều có đủ, làm quan tới chức Nhất
phẩm).

《 Chân Bảo phú 》nói: "Tý ngọ mão dậu, bát chuyên chi tượng, văn vi nhất phẩm, khốt
bang chỉ quốc, vũ tắc phân mao, quải ấn thành công"( Tý Ngọ Mão Dậu, là tƣợng Bát
chuyên, văn là nhất phẩm, là ngƣời chăm chỉ phò quốc; võ thì phân ra kẻ sĩ, mang Ấn thành
công).

Có mệnh thƣ thậm chí còn nói: "Tý ngọ mão dậu tứ xung đắc thời, vi đế vương chi mệnh" .
Không trách đƣợc Nhậm Thiết Tiều chú thích 《 Tích Thiên Tủy 》nói: "Địa chi Tý Ngọ
Mão Dậu, lại phối hợp Khảm Ly Chấn Đoài, chi toàn là tứ chính, khí quán tám phƣơng...
Mão Dậu là Chấn Đoài, chủ ngƣời rất chân chính nhân nghĩa, Tý Ngọ là Khảm Ly, chủ tể khí
trời đất ..." Giống nhƣ mệnh phạm cục tứ bại đều là mệnh đế vƣơng chủ tể thiên hạ.

《 Nhai Tuyền Nữ mệnh phú 》thì có phân ra nói: "Tý Ngọ Mão Dậu là Đào Hoa, Quan
đới Đào Hoa chủ phúc lộc, Sát mang Đào Hoa là bần mà tiện, là xƣớng ca kĩ nữ đi khắp chân
trời.". Ý tứ là Tý Ngọ Mão Dậu là bốn chỗ Đào Hoa, nếu nhƣ là Quan tinh đến, thì là mệnh
phúc lộc, nhƣng nếu là Thất Sát đến, đó chính là Biến địa Đào Hoa thì mệnh phong lƣu,
phóng đãng, nữ mệnh phạm thì phần đa là ca kĩ.
 21-10-13, 16:12
lesoi
Bắt đầu khảo cứu, lời nói kể trên đều không đáng tin cậy. Bởi vì, lời nói này đều không có
lấy cách cục hỉ kị mà luận, chỉ lấy bốn chữ Tý Ngọ Mão Dậu để luận mệnh thì chỉ có thể là
đoán mò mù lòa. Tôi nói không tin, mời xem ví dụ thực tế để chứng minh:

Mệnh Càn Long đại đế: Tân Mão/ Đinh Dậu/ Canh Ngọ/ Bính Tý. Mệnh này tựa nhƣ ứng
nghiệm là giải đoán câu này "Tý Ngọ Mão Dậu tứ xung đắc thời, là mệnh Đế vƣơng". Nhƣng
ông ấy ở ngôi vị là 61 năm, thọ tới 89 tuổi, tại sao không có ứng nghiệm lời giải đoán câu
"Nam phạm hưng suy" này chứ? Là do bát tự có Bính Tân hợp, cấu thành Dƣơng Nhận dụng
Sát cách, đồng thời lại khử mất đi Quan Sát hỗn tạp là bệnh cục, lại càng là có hỉ, Bính Tân
hợp còn có thể giải trừ Tý Ngọ xung cùng Mão Dậu xung, làm cho căn Ngọ hỏa Quan Sát
không động ở xa, thêm đại vận trƣớc Nam sau Đông, một đƣờng hỏa mộc, Quan Sát thủy
chung hành ở đất sinh vƣợng, cách thành mà cao, cho nên mệnh chủ phúc lộc thọ đều đủ cả,
xƣng là "Thập toàn lão nhân" .

Mệnh Trình Nghiễn Thu: Quý Mão/ Giáp Tý/ Giáp Ngọ/ Quý Dậu. Cũng là mệnh có Tý
461 | Tam mệnh thông hội

Ngọ Mão Dậu đầy đủ, có thể mệnh chủ không có con đƣờng làm quan, mà là trở thành Tứ đại
danh ở thủ đô Bắc Kinh, đứng đầu biểu diễn nghệ thuật gia. Mệnh thƣ lại nói: "Tý Ngọ Mão
Dậu toàn bị, tửu sắc hoang dâm." Nhƣng mà, mệnh chủ từ năm 20 tuổi lấy ngƣời cùng tuổi
họ Canh vẫn là ngƣời vợ trinh khiết sáng nhƣ ngọc, hai ngƣời một mực tôn trọng nhau, cùng
sống đến già, cũng không có tai tiếng, đã từng dạy nhạc công đƣợc mọi ngƣời tán dƣơng
khen ngợi xƣng: "Trình tứ gia vô khả thiêu dịch, nhất sinh vô nhị sắc" (Trình tứ gia không
thể bắt bẻ, cả đời không có hai sắc). Là tại sao chứ? Bởi vì mệnh cục có Ngọ phá Dậu, không
thành quý cách, đến vận thủy kim trái lại mà hỉ Thực Thƣơng thổ tú, cho nên mới 6 tuổi đã
bắt đầu học hát kịch. Mệnh cục lấy Thê cung Ngọ hỏa làm hỉ, lại đƣợc Mão mộc tiết Ấn sinh
phù, nơi khác lại không thấy Tài tinh cùng Thê cung gắn bó cấu kết, cho nên mệnh chủ tâm
không có làm chuyện phiếm, dụng tình chuyên nhất.

Nam mệnh 1: Tân Mão/ Đinh Dậu/ Giáp Tý/ Canh Ngọ. Một dạng phạm cục tứ bại, chỉ là do
Tý Ngọ Mão Dậu nhất xung, căn Đinh hỏa thì động ở xa, khó lấy để chế Sát, căn Quan Sát bị
xung thì tổn hại lớn đến cách cục, cho nên mệnh chủ chỉ là một công nhân Xí nghiệp bình
thƣờng. Lại còn, mệnh chủ có Biến địa Đào Hoa cũng không phải loại chơi bời trai gái, đánh
bạc, phiêu đãng.

Nam mệnh 2: Nhâm Tý/ Kỷ Dậu/ Ất Mão/ Nhâm Ngọ. Tý Ngọ Mão Dậu đều đủ. Nhƣng
mệnh chủ không có địa hàng Tam công, mà là loại nhập vào đội ngũ Lƣơng Sơn Bạc thời
xƣa, phần đa là ngồi vào lao ngục. Là tại sao mà gặp loại này chứ? Là bởi vì mệnh cục không
có chữ giải xung, Nguyệt lệnh gặp xung thì phá cách, lại hành vận Nam phƣơng hỏa, Nhâm
Tý Ấn tinh ở trạng thái chỗ thủy cuối cùng lại bị Tài tinh xung khắc, mệnh thƣ nói: "Tham
Tài hoại Ấn, khởi thị lương nhân?" cho nên anh ta gặp chỗ không đƣợc tốt.

Nữ mệnh 1: Mậu Tý/ Tân Dậu/ Đinh Mão/ Bính Ngọ. 《 Nữ mệnh phú 》 nói: "Tý Ngọ
phùng Mão Dậu, định thị tùy nhân tẩu." Ý tứ là nữ phạm cục tứ bại, không phải là loại nhân
vật Đỗ Thập Nƣơng, thì cũng là Phan Kim Liên. Thế nhƣng, mệnh chủ này chỉ có một lần
cƣới xin, theo việc không có bại hoại môn phong. Nếu chỉ bằng Tý Ngọ Mão Dậu bốn Đào
Hoa mà đoán, thì cùng với hiện thực là không phù hợp. Nếu nhƣ lấy cách cục luận, mệnh này
là Tài cách phối Ấn, kị Sát tiết Tài, chỗ may mắn là Tý thủy bị Mậu thổ cái đầu hợp khắc,
khử Sát tồn Tài, cách chính, cục thanh, đại vận lại là Nam phƣơng hỏa địa, Sát tinh vô khí,
không thể phá cách, mà phu cung Mão mộc là tƣớng thần, cho nên mệnh chủ trái lại đƣợc
trƣợng phu trợ lực, phú mà kiêm quý, hôn nhân ổn định, không phạm cô độc.
 21-10-13, 16:17
lesoi
Chính văn:
Thìn tuất sửu Mùi,
Tứ thổ chi thần,
Nhân nguyên tam dụng,
Thấu vượng vi chân.

Đại lục bình chú:


Đoạn này lời nói là đúng, cho nên Thìn Tuất Sửu Mùi là tứ thổ là đúng nguyệt lệnh, bên trong
tàng khí không thuần, giống nhau đều cùng có ba can, cho nên gọi là Tạp khí. Đụng đến
tháng có loại tạp khí này thì lấy dụng thần lại cần phải lấy vƣợng thấu mà làm dụng.
Nhƣng mà, lời nói này cũng không đƣợc đầy đủ. Trong Dần Thân Tị Hợi cũng tất cả đều tàng
ba can, hai can, tại sao lại không phải là tạp khí chứ? Trong Ngọ cũng có tàng hai can, chẳng
lẽ cũng rất thuần ƣ? Có lí do gì mà nói tháng Dần Thân Tị Hợi Ngọ lại không lấy vƣợng thấu
mà làm dụng chứ? Làm sao chỉ có mỗi tháng Thìn Tuất Sửu Mùi mới lấy vƣợng thấu là làm
462 | Tam mệnh thông hội

dụng chứ?
Thực tế, Tử Bình nói tháng tạp khí cần phải lấy thấu can làm dụng là nguyên nhân duy nhất,
vì có 4 tháng đều là mộ khố! Bởi vì dụng thần bị đóng lại tàng ở trong mộ khố không thể đắc
dụng, cho nên yêu cầu đối với mộ khố cần tiến hành hình xung phá hại, vì yêu cầu mộ khố
mở ra để lấy dụng thần.

《 Uyên Hải Tử Bình • Luận Tạp khí 》nói: "Tạp khí giả, cái vị thần tuất sửu Mùi chi vị
dã... Đãn khố trung vật giai bế tắc, tu đãi hữu thược dĩ khai kỳ cục, phương ngôn phát phúc.
Sở ngôn khai cục thược giả hà vật dã? Nãi hình xung phá hại nhĩ." ( Tạp khí là vị trí Thìn
Tuất Sửu Mùi vậy … nhƣng mà trong khố vật đều bế tắc, cục cần phải đợi có chìa khóa để
mở, mới nói phát phúc. Chỗ nói chìa khóa để mở cục là cái gì vậy? Chính là hình xung, phá
hại vậy). Ý tức là nói 4 mộ khố Thìn Tuất Sửu Mùi, nếu nhƣ loại dụng thần là Tài Quan bị
tàng ẩn, nếu không thấu can, không gặp hình xung, Tài Quan liền không thể đƣợc dùng, chỉ
có dụng thần thấu lộ, hoặc là mộ khố bị khai mở, dụng thần mới có thể đắc dụng.

《 Tam Mệnh thông hội • Luận Tạp khí cổ ca 》nói: "Nguyệt lệnh đề cương bất khả xung,
thập xung cửu mệnh giai vi hung, duy hữu tài quan phùng mộ khố, vận hành đáo thử phản
thành công" ( Nguyệt lệnh đề cƣơng không thể xung, 10 xung thì 9 đều là hung, duy chỉ có
Tài Quan gặp mộ khố, vận hành đến nơi này trái lại là thành công). Là tại sao đề cƣơng gặp
xung lại có 10 thì 9 lại hung chứ? Bởi vì đề cƣơng là hạt nhân của cách cục, xung phá đề
cƣơng thƣờng là gặp xung phá cách cục, cho nên mới nói 10 là có 9 hung, duy nhất không
hung là vì Nguyệt lệnh là mộ khố, lại còn dụng thần tàng ở trong mộ khố không có thấu lộ
xuất ra, gặp một xung hình mộ khố liền mở ra, dụng thần đắc dụng, trái lại mà có thể khiến
cho mệnh chủ phát phúc.

Bởi vậy, Tử Bình nói tháng tạp khí cần lấy thấu can làm dụng, không phải nghĩa gốc bởi vì
khí tạp, mà là bởi vì dụng thần tàng ở trong mộ khố, nhất định cần thấu can hoặc gặp xung
hình thì mới có tác dụng. Thực ra, tháng Dần Thân Tị Hợi Ngọ đều thuộc các tháng tạp khí,
chỉ là dụng thần không có tàng ở trong mộ khố, Nguyệt lệnh bản khí tàng can tức là khiến nó
không thấu, cũng là lộ ra ở bên ngoài, không ảnh hƣởng đến thủ dụng định cách. Đƣơng
nhiên, nếu nhƣ có thấu can, thì cũng cần lấy thấu can làm dụng.
Là tại sao vậy? Là bởi vì thấu can không chỉ là một loại biểu hiện có lực, mà còn là đại biểu
địa chi, giống nhƣ xuất đầu lộ diện đại biểu pháp nhân của một Công ty vậy.
 21-10-13, 16:19
lesoi
《 Tử Bình chân thuyên 》là chỗ Tử Bình sâu sắc nhất, phƣơng pháp thủ dụng định cách
thì đều là lấy nguyệt lệnh thấu can làm tôn chỉ, chứ không có luận là tháng Thìn Tuất Sửu
Mùi, hay là tháng Dần Thân Tị Hợi Ngọ. "Luận dụng thần biến hóa" nói: "Dụng thần ký chủ
nguyệt lệnh hĩ, nhiên nguyệt lệnh sở tàng bất nhất, nhi dụng thần toại hữu biến hóa. Như
thập nhị chi trung, trừ tử ngọ mão dậu ngoại, dư giai hữu tàng, bất tất tứ khố dã... Cố nhược
đinh sinh hợi nguyệt, bản vi chính quan, chi toàn mão Mùi, tắc hóa vi ấn. Kỷ sinh thân
nguyệt, bản thuộc thương quan, tàng canh thấu nhâm, tắc hóa vi tài. Phàm thử chi loại giai
dụng thần biến hóa dã" ( Dụng thần vừa là chủ nguyệt lệnh, nhƣng nguyệt lệnh chỗ tàng
không chỉ có một, mà dụng thần còn có biến hóa. Nhƣ trong 12 chi, ngoại trừ Tý Ngọ Mão
Dậu, còn lại đều có tàng ẩn, không kể tứ khố vậy … Cho nên nếu Đinh sinh tháng Hợi, gốc là
Chính Quan, chi đủ Mão Mùi, thì hóa thành Ấn. Kỷ sinh tháng Thân, gốc thuộc Thƣơng
quan, tàng Canh thấu Nhâm, thì hóa thành Tài. Phàm chỗ này là loại dụng thần biến hóa vậy).
Chỗ này rõ ràng chỉ ra cho biết, nguyệt lệnh dụng thần do gặp thấu can hoặc gặp hợp mà biến
hóa, không chỉ có 4 tháng tạp khí, các tháng còn lại đều tàng ẩn từ 2 đến 3 can đều phân ra
463 | Tam mệnh thông hội

một dạng. Ví nhƣ ngày Đinh sinh tháng Hợi, dụng thần vốn là Nhâm thủy Chính Quan,
nhƣng nếu có hai chữ Mão Mùi, Hợi Mão Mùi tam hợp thành Ấn, dụng thần Chính Quan liền
biến thành Ấn tinh. Lại nhƣ ngày Kỷ sinh tháng Thân, dụng thần vốn là Canh kim Thƣơng
quan, nhƣng nếu thấu xuất Nhâm thủy, lại lấy Nhâm thủy làm dụng, dụng thần Thƣơng Quan
lại biến thành Chính Tài. Ở các loại tình huống này đều thuộc về dụng thần biến hóa.

Mệnh Tống Khánh Linh: Nhâm Thìn/ Quý Sửu/ Giáp Tý/ Ất Hợi. Nguyệt lệnh Sửu thổ,
thấu xuất Ấn tinh, tức lấy Ấn tinh là dụng, cách luận Ấn dựa vào Quan sinh. Tân kim Quan
tinh tàng ở trong Sửu khố, vốn là Thìn Sửu phá, khai phá Quan khố, tiếc là Tý Sửu hợp, lại
làm cho khố bị đóng lại, là tƣợng thành trƣớc có hôn nhân mà sau đó tang chồng phải thủ tiết.
17 tuổi vào vận Tân Hợi, Quan tinh thấu xuất, 20 tuổi năm Quý Sửu, Sửu thổ nhập vào phu
cung, mệnh chủ sau khi tốt nghiệp Đại học đến quan hệ với Bí Thƣ Tôn Trung Sơn, sau hai
năm chính thức thành hôn. 27 tuổi chuyển đến vận Canh Tuất, Sát tinh thấu xuất, mệnh chủ
hôn nhân ổn định, mà còn đảm nhậm Bộ trƣởng Phụ nữ. 33 tuổi năm Ất Sửu, đại vận ở Tuất,
Sửu Thìn phá, Thìn Tuất xung, thủy khố mở ra, thủy lớn kim chìm, chồng bệnh chết. Về sau
dù đến vận Quan Sát, chỉ là do Sửu khố không mở, Quan Sát không thấu, mệnh chủ cũng
chƣa có tái hôn.

Nữ mệnh 1: Mậu Tuất/ Kỷ Mùi/ Mậu Tuất/ Bính Thìn. Tháng Mùi Ất mộc Phu tinh nhập
mộ, ngày và giờ có Thìn Tuất xung, năm và tháng Mùi Tuất hình, hình khai Quan khố, cách
thành Nguyệt Kiếp dụng Quan. Đại vận Đông phƣơng, Quan tinh đắc địa, tuy nhiên Kiếp
nặng Quan nhẹ, cách cục không cao, nhƣng mệnh chủ từ sau khi 25 tuổi năm Quý Hợi kết
hôn, tới nay chƣa xảy ra tình trạng gì, vợ chồng đều làm ăn buôn bán nhỏ lẽ, sinh ra 3 nữ 1
nam, gia cảnh bình thƣờng. Có thể thấy, mệnh chỗ này có Tài Quan nhập mộ gặp hình xung,
xác thực không thể tìm lấy gặp hình xung mà luận.
Nữ mệnh 2: Kỷ Mùi/ Mậu Thìn/ Mậu Tuất/ Đinh Tị. Nguyệt lệnh Ất mộc Quan tinh ở Thìn
không phải nhập mộ, ngƣợc lại e ngại hình xung. Mệnh cục Thìn Tuất nhất xung, tổn hại phu
tinh, phá Nguyệt Kiếp dụng Quan cách. Mệnh chủ 20 tuổi năm Mão thành hôn, 26 tuổi vận
Tân Mùi năm Ất Dậu có tang chồng, cuối cùng về sau gặp cảnh cơ khổ đến già.
Nam mệnh 1: Ất Sửu/ Quý Mùi/ Bính Tuất/ Nhâm Thìn. Nguyệt lệnh thấu ra Ấn tinh, lại gặp
hình xung thì phá mất Ấn cách, mộc là thần kinh, cho nên mệnh chủ là ngƣời mất trí, xuất
thân ở gia đình bình thƣờng.
Nam mệnh 2: Quý Sửu/ Kỷ Mùi/ Bính Thìn/ Mậu Tuất. Nguyệt lệnh Ấn tinh không thấu,
Sửu Mùi xung khai Ấn khố, cách thành Thƣơng quan phối Ấn. Mệnh chủ sinh ra ở gia đình
quan chức. Nhận học vị Bác sĩ Pháp học. Đông phƣơng trong Ấn vận làm quan tới Thiếu
tƣớng trƣởng khoa Cục Ngoại sự Quân ủy Trung ƣơng.

(còn tiếp)
 23-10-13, 01:06
lesoi
(tiếp theo tập 2)

Chính văn:
Tiến khí thoái khí,
Mệnh vật tương tranh,
Tiến khí bất tử,
Thoái khí bất sinh.

Đại lục bình chú:


Ngũ hành vƣợng suy là do đắc căn cùng đắc khí cũng không phải để quyết định. Đắc khí
464 | Tam mệnh thông hội

cũng không phải lấy quyết định ở Nguyệt lệnh. Nhƣ mộc ở Hợi là trƣờng sinh, trong Hợi có
gốc mộc, là đã đắc căn lại đắc khí, ở Tý là đất mộc dục, thì chỉ đắc khí mà chƣa đắc căn, ở
Sửu là đất quan đới, cũng chỉ là đắc khí mà chƣa đắc căn. Mộc ở Hợi là trƣờng sinh, trƣớc
khi sinh ra, tất nhiên có một quá trình thai nghén rồi sinh dƣỡng, gọi là Tiến khí, tức là mộc ở
Tuất. Mộc ở Thìn tuy là suy, nhƣng trong Thìn có thủy mộc, suy mà có lực, không phải là
đúng suy. Mộc ở Tị thì hoàn toàn mất đi căn khí, gọi là Thoái khí, mới là đúng suy. Ngay lúc
ngũ hành ở nơi trạng thái tiến khí , dù có vô căn, nhƣng ở ngay lúc đầu Xuân là mầm mống
thực vật, giúp cho hạt giống tiếp thụ ánh sáng cùng với mƣa và sƣơng mà sinh rễ nảy chồi,
cho nên viết là Tiến khí bất tử. Ngũ hành lúc ở nơi trạng thái thoái khí, giống nhƣ sau mùa
Thu lá vàng khô cháy, dù có bón phân tƣới nƣớc, cũng không thể hồi xanh chuyển vƣợng,
cho nên viết là Thoái khí bất sinh. Vạn vật mừng sinh mà ghét tử, cho nên viết là Mệnh vật
tương tranh.

Mệnh Lê Nguyên Hồng: Giáp Tý/ Giáp Tuất/ Đinh Tị/ Giáp Thần. Nguyệt lệnh Tuất thổ
tàng can không thấu, tức là lấy bản khí Mậu thổ làm dụng, cách thành Thƣơng quan phối Ấn.
Giáp mộc ở tháng Tuất tuy là vô căn, nhƣng là tiến khí, tử mà không tử, gặp sinh liền khởi.
Hỉ vận đến đất thủy mộc, đƣợc chỗ thích hợp, cho nên mệnh chủ học nghiệp có thành, đƣờng
quan lộ sáng tỏ, nhậm chức 2 đời tổng thống Dân quốc.

Mệnh Từ Càn: Giáp Thìn/ Giáp Tuất/ Bính Ngọ/ Kỷ Sửu. Trùng điệp Thƣơng quan, hỉ gặp
hai Ấn khắc chế, tuy nhiên cuối Thu mộc rụng, nhƣng Giáp mộc ở tháng Tuất là tiến khí, gặp
sinh mà khởi, cách thành Thƣơng quan phối Ấn. Trong vận Đông phƣơng, Ấn tinh đắc địa,
mệnh chủ nhận chức Quan Bố chính ở Sơn tây.

Nam mệnh 1: Giáp Thìn/ Giáp Tuất/ Bính Thân/ Mậu Tuất. So với mệnh Từ Càn kém không
có mấy, chỉ khác ở chi ngày có một chữ. Mệnh chủ sau khí tốt nghiệp chuyên môn sƣ phạm,
một lúc thẳng tiến nhận chức giáo sƣ Trung học. Vận Mậu Dần, sau khi vợ đánh bạc thua mất
hơn 10 vạn, tính đánh bạc vẫn không thay đổi, tiếp tục lấy mệnh ra đánh cuộc, và bị thua
luôn, mệnh chủ chỉ còn biết là bỏ vợ. Ai ngờ vợ lại phản kháng, nói rằng anh ta ăn hối lộ
phạm pháp, kết quả mệnh chủ buộc phải mất luôn cả công việc. Tại sao mệnh anh ta chỉ có
thay đổi một chữ Thân kim mà danh vọng thì không thể nhƣ cái hình bóng của Từ Càn vậy?
Bởi vì Tài tinh căn sâu, liền có thể hồi khắc tuế vận gặp đến Ấn tinh, do đó phá hoại cách cục
Thƣơng quan phối Ấn, cho nên, mệnh chủ lại gặp mất đi rất nhiều cơ hội thăng thiên, không
thể phát quý. Lại cũng do Thê cung Tài hoại Ấn, cho nên là do vợ phá hoại sự việc.

Nam mệnh 2: Nhâm Tý/ Ất Tị/ Bính Dần/ Nhâm Thìn. Sát Ấn đều thấu, cách luậnẤn dựa
vào Sát sinh. Tiếc là Ấn tinh sinh ở tháng Tị là thoái khí, tuy có Sát sinh mà khó lấy sinh
khởi. Mệnh chủ xuất thân ở một nông gia bần khốn, từ nhỏ tới lớn đều không thích đọc sách,
mới mƣời mấy tuổi liền liên can tới việc trộm cắp. Vận Mậu Thân, năm Quý Dậu, là tham
Tài hoại Ấn, do tội cƣỡng gian mà bị xử lấy cực hình.

Nam mệnh 3: Nhâm Thìn/ Ất Tị/ Bính Ngọ/ Kỷ Hợi. Cũng là Sát Ấn đều thấu thành Ấn dựa
Sát sinh cách. Do Ất mộc thoái khí, cách cục cực thấp, cho nên mệnh chủ không có đi học, cả
đời lại ở vùng địa đầu biên cƣơng mà đánh nhau, cuộc sống quá ƣ là bần khốn. Tốt ở Ấn tinh
vô căn, đến vận Tây phƣơng kim liền Tài tinh không thể phá Ấn, cho nên, mệnh chủ do cố
thủ bổn phận, không đến nỗi làm ngƣời tà đạo.
 23-10-13, 01:08
lesoi
Chính văn:
Tài Quan nhập khố,
465 | Tam mệnh thông hội

Bất xung bất phát,


Tứ trụ chi can,
Hỉ hành tương hợp.

Đại lục bình chú:


Chỗ này là nói Tài Quan nhập khố, cũng không phải là chỉ có Nguyệt lệnh, nhƣng mà phàm
tất cả vật nhập khố, không mở khai mộ khố, mọi vật bên trong đều không thể xuất ra. Cho
nên nói, Tài Quan nhập khố, không xung không phát. Nhƣng cách nói này là có phần không
đúng, là vì vật ở trong khố không nhất định cần phải xung hình, cũng đƣợc thấu can. Lại nói,
Tài Quan nhập khố, gặp đến xung hình cũng không nhất định lại phát, tất cả còn phải xem ở
cách cục thành bại. Mặt sau hai câu lại nói, ở dƣới tình huống giống nhau, can chi tứ trụ đều
là hỉ hợp kị xung.
Ví nhƣ 《 Uyên Hải Tử Bình • Vận thông thi quyết 》chƣơng mở đầu có nói: "Tam hội Tài
Quan được thời vận, lụa là hương lý gặp ngày cưới." 《 Yêu Tƣờng phú 》nói: " Can chi Tứ
trụ, hỉ đất tam hợp, lục hợp." 《 Ái Tăng phú 》 nói: "Tam hợp, lục hợp, gặp thì cát nhiều
họa ít." Tựa nhƣ là tuế vận chỉ cần gặp phải tam hợp, lục hợp, lại là lúc tam hợp Tài Quan
cục, thì đều là việc tốt. Thực ra, can chi gặp hợp, có cát có hung, không thể sơ lƣợc mà luận.
Muốn luận đoán cát hung chuẩn xác, thì nhất định cần xem cách cục hỉ kị mà luận, hợp khử
hung thần luận kị, hợp khử cát thần luận hung, hợp bán kị thần luận cát, hợp bán tƣớng hỉ
thần luận hung, hợp động hỉ thần luận cát, hợp khởi kị thần luận hung, hợp mà cách thanh thì
luận cát, hợp mà phá cách thì luận hung.

Nam mệnh1: Nhâm Thìn/ Đinh Mùi/ Tân Mùi/ Kỷ Hợi. Tháng ngày đều là Tài khố, thiên can
Đinh Nhâm hợp Tài, cách thành dụng Tài phối Ấn. Vận Canh Tuất xung Thìn, cùng hình
khai Tài khố, mệnh chủ kinh doanh nhiều lần gặp khó khăn, không thể phát tài. Sau khi vào
vận Hợi, mệnh chủ làm đốc công thầu khoán, bắt đầu đại phát, tới nay đã là phú hào có ức
vạn. Lại tại sao nói là mệnh Tài khố gặp hình xung là không phát, không gặp hình xung thì
trái lại là đại phát chứ? Bởi vì mệnh cục có Tài tinh đã thấu, lại gặp xung hình thì thổ đa mộc
chiết, dĩ nhiên khó lấy phát tài.

Nam mệnh 2: Mậu Thìn/ Kỷ Mùi/ Tân Dậu/ Nhâm Thìn. Ấn nhiều ấn vƣợng, lấy Thực
Thƣơng tiết tú làm cách, tuế vận hỉ Tỉ kiếp. Vận Canh Thân, mệnh chủ nhở đƣợc phúc ấm
của cha mẹ, cuộc sống đƣợc nhận gấm vóc, lụa là cùng châu báu. Vận Tân Dậu, mệnh chủ
đánh bạc phát tài lớn, mà danh dƣơng tứ hải. Vận Nhâm Tuất hình khai nguyệt lệnh Tài khố,
mệnh chủ một đƣờng bại địa, về sau càng lâm vào cảnh tù tội mà không phát khởi. Tại sao lại
hình khai Tài khố trái lại là không phát chứ? Bởi vì mệnh cục Tỉ kiếp có cƣờng căn, Tài xuất
ra thì bị thụ chế vậy.

Nam mệnh 3: Quý Mão/ Quý Hợi/ Quý Dậu/ Ất Mão. Hợi Mão hợp, hóa Kiếp thành Thƣơng,
lấy Dậu kim chế, cách thành Thƣơng quan phối Ấn. Vận Tân Dậu 18 tuổi năm Tân Dậu, tuế
vận cùng đến, mệnh chủ bị quân đội kiểm tra mà nhập ngũ. 22 tuổi năm Ất Sửu, Dậu Sửu
hợp, mệnh chủ thành hôn. 25 tuổi năm Mậu Thìn, cùng trụ ngày thiên hợp địa hợp, mệnh chủ
ly hôn. Tại làm sao mà thiên hợp địa hợp ở tuế vận, mệnh chủ gặp ly hôn chứ? Là do Mậu
Quý hợp xuất thê tinh ra, mà 3 Quý tranh hợp 1 Mậu, vợ vƣợt qua quy cũ. Lại thêm Thìn Dậu
hợp mà cùng Mão mộc xung chiến, mộc vƣợng kim khuyết, Ấn tinh thụ thƣơng, cho nên ly
dị.

Nam mệnh 4: Bính Thân/ Đinh Dậu/ Giáp Thìn/ Kỷ Tị. Vận Tân Sửu, năm Đinh Sửu, Tị Dậu
Sửu tam hợp Quan cục, mệnh chủ bị ngƣời gạt mất 5000 nguyên, tức giận đến mức phải nhảy
lầu, bởi vì tiền của là do nhiều năm tích góp lại. Tại sao tam hợp Quan cục sự việc lại không
466 | Tam mệnh thông hội

tốt chứ? Bởi vì Quan nhiều thành Sát, Bính Đinh hỏa lấy Tị làm gốc muốn chế Sát, sao không
biết một lúc hợp Tị Dậu Sửu, Thực Thƣơng bè đảng Sát mà tiết Tài để công thân, Thực
Thƣơng là tiền vốn, do đó mệnh chủ đầu tƣ gặp sai sót mà phá tài.

Nữ mệnh 1: Canh Thìn/ Mậu Tuất/ Canh Thìn/ Bính Tuất. Nguyệt lệnh Đinh hỏa phu tinh
nhập mộ, Thìn Tuất xung mà xuất mộ, mệnh chủ gặp hôn nhân tốt ƣ? Không gặp. Bởi vì bát
tự có Kiêu Ấn rất nặng, thổ nhiều hỏa tắt, xung có xuất ra cũng vô dụng. Thực tế, mệnh này
trƣớc 38 tuổi liên tục để tang 8 chồng, ngƣời gặp ngƣời sợ, thẳng đến đại vận Ngọ hỏa, Quan
tinh đắc địa, chỗ mệnh chủ gặp đƣợc ngƣời chồng thứ 9 mới an nhiên vô hại.

Nữ mệnh 2: Đinh Mùi/ Nhâm Tý/ Canh Thân/ Ất Dậu. Bát tự Đinh Nhâm hợp, Ất Canh hợp,
Thân Tý hợp, tuế vận gặp vận Ất Mão, năm Ất Hợi, Hợi Mão Mùi tam hợp Tài cục, là có
việc tốt ƣ? Không phải, mệnh chủ năm này bị tai nạn xe cộ mà tang thân, năm gần 28 tuổi.
Thân cƣờng gặp tam hợp Tài cục tuế vận không phát tài cũng đành, tại sao lại còn có đại họa
sát thân chứ? Bởi vì Tài tinh tiết Thực sinh Quan, nhƣng đồng thời Mão mộc lại hợp khắc
Mùi thổ Ấn tinh, nhƣ vậy thì Quan tinh không có chế hóa, phá mất cách cục. Lại thêm tam
hợp mộc cục xung Dậu kim là Dƣơng Nhận, Tài Quan đều hao tổn, cho nên có họa tử nạn.
 23-10-13, 01:11
lesoi
Chính văn:
Đề cương hữu dụng,
Tối phạ hình xung,
Xung vận tắc cát,
Xung dụng tắc hung.

Đại lục bình chú:


Nguyệt lệnh đề cƣơng là chỗ đất ở của dụng thần, là hạt nhân đầu mối then chốt của cách cục,
Nguyệt lệnh bị phá thì cách cục cũng theo đó mà bị phá, cách cục vừa bị phá, nhẹ thì nghèo
hèn, bệnh tật, hình tang, nặng thì không chết cũng tàn tật, cho nên đề cƣơng rất sợ hình xung.
Trƣớc tiên là mệnh cục, nếu nhƣ đề cƣơng bị xung phá, đa số là mệnh nghèo, chết yểu. Tiếp
theo là đại vận, xung phá đề cƣơng thì hung họa lập tức đến. Tiếp nữa là lƣu niên, dƣới tình
huống giống nhau, cách cục nếu thành, đại vận không quay lƣng, thì không sợ lƣu niên hình
xung đề cƣơng, trừ phi lƣu niên cùng với kị, cừu thần hợp nhất thành thế lực lớn mạnh, đủ để
xung phá đề cƣơng.

Gọi là "Xung vận tắc cát, xung dụng tắc hung" ý là , có ngƣời lý giải là xung cùng quan hệ
giống nhƣ bị xung, thực ra không phải vậy, bất luận là xung hay là bị xung, cuối cùng đều
vẫn phải lấy lực lƣợng quyết định thắng bại, vƣợng cƣờng xung suy nhƣợc, thì suy nhƣợc
làm xung khởi vƣợng cƣờng. Nên đại vận xung nguyệt đề, giống nhƣ nguyệt lệnh đƣợc tả
hữu hộ vệ mà vững nhƣ thành đồng, đại vận có cái đầu, tiệt cƣớc hoặc có một quân đội chiến
đấu hăng hái mà lực yếu, thì đại vận không thể phá cách, gọi là dụng xung vận, lấy cát luận.
Trái lại, nếu nhƣ là nguyệt lệnh hoặc có cái đầu, tiệt cƣớc hoặc có một quân đội chiến đấu
hăng hái, đại vận cùng mệnh cục hoặc lƣu niên tập kết thành trận chiến dữ dội, thì tất có thể
xung phá đề cƣơng, gọi là vận xung dụng, lấy hung luận.

Đại vận xung đề cƣơng, mỗi ngƣời chúng ta ai cũng có ở lúc khoảng 50 tuổi đến 60 tuổi đều
có một bƣớc đại vận nhƣ vậy, nhƣng ai ở trong bƣớc đại vận này đều phải gặp có đại nạn sinh
tử chứ?
Không phải vậy, dƣới đây có 5 tình huống thì không có đại nạn:
(1) Dụng xung Vận;
467 | Tam mệnh thông hội

(2) Nguyệt lệnh dụng thần nhập khố không thấu, gặp đại vận xung hình xuất khố;
(3) Không sử dụng nguyệt lệnh dụng thần, hoặc mệnh có hai cách, thì không sợ xung đề
cƣơng phá cách;
(4) Đại vận cùng mệnh cục hình thành hợp cục có lợi, giải trừ nguy hiểm xung đề cƣơng phá
cách;
(5) Đƣợc lƣu niên tới giải cứu.

Mời xem ví dụ thực tế:


Mệnh Vương Thế Trinh: Bính Tuất/ Canh Tý/ Giáp Thân/ Tân Mùi. Thiên can là Sát cần
Thực chế cách, địa chi là Ấn dựa Sát sinh cách. 56 tuổi vào vận Bính Ngọ, cùng với đề cƣơng
là thiên khắc địa xung, 62 tuổi năm Mậu Tý, Thân Tý hợp mà xung Ngọ, gọi là xung vận, lấy
cát luận, mệnh chủ trong 1 năm 2 lần chuyển biến, từ chức Phó Đô Ngự Sử thăng lên Binh
Bộ Thị Lang, lại thăng lên Hình Bộ Thƣợng Thƣ. 64 tuổi năm Canh Dần, Dần Ngọ Tuất tam
hợp hỏa cục xung nguyệt lệnh, gọi là xung dụng, thì lấy hung luận, mệnh chủ ở năm này bị
bệnh chết.
 23-10-13, 01:12
lesoi
Mệnh Vu Khiêm: Mậu Dần/ Đinh Tị/ Quý Mão/ Nhâm Tuất. Tòng Sát cách. Trung niên đến
vận Canh Thân, Tân Dậu, hợp Tài thành Ấn, biến thành Ấn dựa Sát sinh cách, mệnh chủ
đƣờng quan lộ huy hoàng, từ thất phẩm lên hàng tam phẩm, nhận chức quan tuần phủ Hà
Nam. 56 tuổi vào vận Quý Hợi, cùng đề cƣơng là thiên khắc địa xung, Mậu Quý hợp hỏa,
Hợi Mão hợp mộc lại sinh hỏa, vẫn lấy Tòng Sát cách luận. Bất lợi 59 tuổi gặp năm Đinh
Sửu, Tị Sửu củng kim, phá mất Tòng Sát cách, nhƣng do Ấn tinh không thấu mà khó lấy kết
thành Ấn dựa Sát sinh cách, cho nên mệnh chủ đã mƣu đồ phản nghịch bị tội xử tử.

Mệnh Chu Tất Đại: Bính Ngọ/ Bính Thân/ Kỷ Mão/ Kỷ Tị. Thƣơng quan phối Ấn cách. 59
tuổi vào vận Nhâm Dần, cùng với đề cƣơng thiên khắc địa xung, chỉ vì Dần Ngọ hợp mà chế
Thƣơng quan, không tổn hại cách cục, cho nên mệnh chủ có hỉ mà không có lo sầu, 60 tuổi
năm Ất Tị thăng chức Sứ mật vụ ở trung ƣơng, 62 tuổi năm Đinh Mùi lại hựu thăng quan
thành Quang Lộc đại phu, đƣợc Thừa Tƣớng, 64 tuổi năm Kỷ Dậu lại thăng chức là Tả Thừa
tƣớng, phong làm Quốc Công. Thẳng đến 70 tuổi thăng quan Văn Điện Đại học sĩ, lấy Ích
Quốc Công về hƣu.

Mệnh Hoàng Quang Thăng: Bính Dần/ Canh Dần/ Ất Dậu/ Đinh Sửu. Nguyệt lệnh thấu
Thƣơng, Dậu Sửu hợp thành Sát, cấu thành Thực Thƣơng chế Sát. 60 tuổi vào vận Bính
Thân, cùng đề cƣơng thiên khắc địa xung, 61 tuổi năm Đinh Mão xung dậu kim, chế Sát quá
nặng, mệnh chủ lấy chức Hình Bộ Thƣợng Thƣ cáo lão về hƣu. 65 tuổi năm Tân Mùi, vào đại
vận Thân, lƣu niên thấu Sát, tăng cƣờng lực cho Sát tinh, mệnh chủ tái nhậm chức Hình Bộ
Thƣợng thƣ. 66 tuổi năm Nhâm Thân, lƣỡng Thân xung lƣỡng Dần, mệnh chủ lại xin đƣợc về
hƣu hồi gia, sau thọ đến 80 tuổi. Tại sao đều giống nhau là xung khắc đề cƣơng, mệnh chủ
chỉ là mỗi việc xin về hƣu, không có đại tai đại nạn chứ? Bởi vì đề cƣơng vƣợng cƣờng, lấy
hợp lại mộc hỏa, Thân kim không đủ để xung phá đề cƣơng, nhƣng hoặc nhiều hoặc ít đối với
đề cƣơng có tổn hại ở mức độ nhất định, cho nên là họa không lớn.

Mệnh Lý Bằng: Mậu Thìn/ Quý Hợi/ Ất Hợi/Bính Tuất. Khí Ấn tựu Tài cách. 52 tuổi vào
vận Kỷ Tị, cùng đề cƣơng thiên khắc địa xung, Tị hỏa là hỉ thần, nếu bị xung mất thì tất
nhiên có họa. Tra lƣu niên lúc sau 57 tuổi, lần lƣợt là Ất Sửu, Bính Dần, Đinh Mão, Mậu
Thìn, Kỷ Tị, toàn là mộc hỏa thổ, không phải là thổ chế phục thủy, lại là mộc hóa tiết thủy,
hợi thủy cuối cùng không thể xung hại Tị hỏa. Duy chỉ có năm Kỷ Tị, hai Tị xung hai Hợi,
nguy cơ lộ rõ, nhƣng thiên can mệnh cục tuế vận có ba thổ chế phục Hợi thủy, trong Tị có
468 | Tam mệnh thông hội

Mậu thổ cũng tƣơng đối có lực, có khả năng bảo vệ Tị hỏa, do đó Hợi thủy không còn có khả
năng xung hại Tị hỏa, cho nên "Lục tứ dân vận" rất lớn cũng không có thể mang theo anh ta
là vị trí Thủ tƣớng để ầm ầm hạ xuống dƣới. Chỗ này hoàn toàn là nhờ chỗ có lƣu niên giải
cứu cách gây nên.
 23-10-13, 01:13
lesoi
Chính văn:
Tam giả thấu lộ,
Nhật can yếu cường,
Ký căn hữu lực,
Phúc lộc vinh xương.

Đại lục bình chú:


Văn bản ở trên có hai chữ "Tam giả" là "Tam kỳ", xem ý nghĩa trên dƣới của đoạn văn, chính
là nói nguyệt lệnh, chƣa nói đến cách cục cụ thể, tác giả không phải bỗng nhiên luận đến
cùng với nguyệt lệnh không có chỗ quan hệ gọi là "Tam kỳ cách", mà là nối tiếp đoạn văn ở
trên để thảo luận nguyệt lệnh, do vậy, nguyên văn tất nhiền là "Tam giả", tức là chỗ chi tháng
tàng ba can. Nếu nhƣ chi tháng ba can cùng thấu, thì đề cƣơng nhất định năng, do vậy yêu
cầu "Nhật can yếu cường, ký căn hữu lực" (Nhật can nếu cƣờng, nhờ căn có lực), mới có thể
đảm nhận khởi dụng thần loại Tài Quan, nhận đƣợc phúc lộc.
Gọi là "Tam kỳ", tức là Tam Kỳ quý nhân, là một loại Thần Sát. Trên trời (Thiên can = Thiên
nguyên) có tam kỳ là Giáp Mậu Canh, dƣới đất (địa chi = địa nguyên) tam kỳ có Ất Bính
Đinh, ngƣời ( nhân nguyên = can tàng trong địa chi) đƣợc tam kỳ là Nhâm Quý Tân.

Thí dụ nhƣ Nhật can là Giáp, can tháng là Mậu, can năm là Canh, địa chi có Tuất Hợi là
Thiên Môn, tức là thiên can có Tam Kỳ quý nhân. Có thuyết là: "Nhân mệnh trị thử tam kỳ
quý, tam nguyên cập đệ quan quần anh. Bất tác bồng lai tam đảo khách, dã ứng kim điện
ngọc giai hành" (Sinh mệnh gặp Tam kỳ quý nhân, ba đời đỗ đạt đứng đầu quần hùng.
Không làm khách của Bồng lai Tam đảo, thì cũng đƣợc bƣớc lên bậc thềm của cung vàng
điện ngọc) .

Thực sự nhƣ vậy ƣ? Chúng ta đừng ngại đi tìm hiểu một vài mệnh thực tế để xem::
Nam mệnh 1: Canh Tuất/ Mậu Dần/ Giáp Dần/ Giáp Tuất. Mệnh này mù chữ, là lão nông
bần khốn.
Nam mệnh 2: Canh Tý/ Mậu Dần/ Giáp Tuất/ Giáp Tuất. Mệnh văn hóa bậc Trung chuyên,
là kỹ sƣ nông nghiệp bình thƣờng.
Nam mệnh 3: Canh Tuất/ Mậu Dần/ Giáp Dần/ Ất Hợi. Mệnh văn hóa bậc Cao trung, chuyên
nhất làm thuê.
Nam mệnh 4: Canh Tý/ Mậu Dần/ Giáp Tuất/ Ất Hợi. Mệnh văn hóa bậc Cao trung, gia tộc
lao động bình thƣờng.
Nam mệnh 5: Canh Tuất/ Mậu Dần/ Giáp Ngọ/ Bính Dần. Mệnh Tiền Nhƣợc Canh, Tiến sĩ,
làm quan chức Lâm Giang Tri phủ, trung niên ngồi tù 37 năm.

Trên là tƣờng thuật năm mệnh, mệnh Tam Kỳ thực ra thì không chỉ có nói rằng là loại này
không lấy phƣơng pháp cách cục để luận mệnh, là không thể đáng tin.
 23-10-13, 01:17
lesoi
《 Uyên Hải Tử Bình • Kế Thiện thiên 》nói: "Nam mệnh thân cường, ngộ tam kỳ vi nhất
phẩm chi tôn" ( Nam mệnh thân cƣờng, gặp Tam Kỳ là địa vị Nhất phẩm).
469 | Tam mệnh thông hội

Nguyên chú là: "Bí quyết nói, nhật chủ cao cƣờng, phú quý, Tài Quan Ấn thụ đều đủ, Giáp
gặp Tân Kỷ Quý là đúng, Ất gặp Mậu Canh Nhâm có thể thấy, Bính gặp Quý Tân Ất là hiển
lộ, Đinh gặp Nhâm Canh Giáp là thăng chức, Mậu hỉ Quý Ất Đinh, Kỷ gặp Nhâm Giáp Bính
là Tam Kỳ, Canh Tân Nhâm Quý ví dụ, trƣớc theo không phá, danh phát ở nơi cung điện".
Có thể thấy, Tử Bình chỗ Kế Thiện thiên luận Tam Kỳ, thực ra Tam Kỳ là Tài Quan Ấn,
không phải là các loại Giáp Mậu Canh, Ất Bính Đinh. Tất nhiên, tức là mệnh gặp Tài Quan
Ấn là Tam Kỳ, cũng không đã không phải thân cƣờng thì không thể, Lại không thể đều là địa
vị nhất phẩm.

Trƣớc tiên, theo cách lý luận ở trên mà nói, trong Thập thần là chế hóa lẫn nhau, Ấn hóa
Quan Sát, Quan Sát hóa Tài, Tài hóa Thực Thƣơng, Thực Thƣơng hóa Tỉ Kiếp, Tỉ Kiếp chế
Tài, Tài chế Ấn, Ấn chế Thực Thƣơng, Thực Thƣơng chế Quan Sát, Quan Sát lại chế Tỉ
Kiếp, đã nhƣ vậy, nguyệt lệnh dụng thần thấu xuất, thì chỉ cần cùng với Tƣớng thần chế hóa
thành cách là đƣợc, cùng với Nhật can cƣờng nhƣợc không có quan hệ trực tiếp. Ví nhƣ ba
Tài Sát Ấn cùng thấu, chỉ cần Sát Ấn không có gây trở ngại cho nhau, Ấn có thể hóa Sát sinh
thân tức là đƣợc, Nhật can bất tất phải cƣờng. Ngoài ra, nếu là vấn đề Dụng, Tƣớng thần
thanh thuần hỗn tạp, nhƣ Quan Sát hỗn tạp, không luận nhật can cƣờng nhƣợc đều lấy phá
cách mà luận, nhất định phải đƣợc khử Quan lƣu Sát hoặc khử Sát lƣu Quan, mới có thể
thành cách. Lại nhƣ chế hóa cùng có, cũng thuộc phá cách, cùng với Nhật nguyên cƣờng
nhƣợc là không quan hệ. Lại nhƣ dụng thần nhiều, thì cần phải ức chế, Quan nhiều không
quý, cần có Thực Thƣơng ức chế; Tài nhiều là không có Tài, thì cần có Tỉ Kiếp ức chế; Ấn
nhiều là vô phúc, cần Tài tinh ức chế …, chỗ này cũng đều cùng với Nhật can cƣờng nhƣợc
là không có quan hệ trực tiếp. Cho nên, 《 Tinh Vi thiên 》ở chƣơng mở đầu nói: "Phàm xem
nhân mệnh, chuyên luận cách cục. Gặp Quan xem Tài, thấy Tài mà phú quý; Gặp Sát xem
Ấn, có Ấn lấy vinh hoa; Gặp Ấn xem Quan mà gặp Quan, 10 có 7 là có địa vị; Gặp Tài kị Sát
mà có Sát, 10 có 9 là nghèo".

Lý này tại sao nói xem mệnh trƣớc tiên cần xem Nhật chủ cƣờng nhƣợc, mà là nói thẳng cần
"Chuyên luận cách cục" chứ? Tại sao không nói gặp Quan xem bản thân, gặp Sát xem Nhật
nguyên chứ?
Rất là hiển nhiên, Nhật nguyên cƣờng nhƣợc cùng cách cục thành bại không có quan hệ trực
tiếp, cần phải xem cách cục, lại chỉ cần xem tổ hợp dụng thần cùng tƣớng, hỉ thần là hiểu.
 23-10-13, 01:19
lesoi
Mệnh Đỗ Nguyệt Sênh: Mậu Tý/ Canh Thân/ Ất Sửu/ Nhâm Ngọ. Nguyệt lệnh Tài Quan Ấn
cả ba đều thấu, nhƣng can năm Mậu thổ cái đầu khắc Tý thủy, thời thuơ ấu Ấn tinh bị tổn hại,
rõ ràng là mệnh chủ sớm gặp tang cha mẹ, học nghiệp không thành. Nhƣng bát tự có can giờ
Ấn thấu thành cách, thì rõ ràng là mệnh chủ sau trung niên sự nghiệp gặp phải một lúc thành
tựu. Kết hợp xem đại vận, trung niên là Giáp Tý vận, Giáp mộc có thể khử Mậu thổ hộ Ấn
cứu cách, khử Tài đắc Tài, tất nhiên là danh lợi đại phát. Thực tế, mệnh chủ 3 năm tang mẹ, 5
năm tang cha, chỉ đến học đƣờng vài tháng. Từ nhỏ đã từng bán trái cây mà sống. Sau vận
Quý Hợi, sự nghiệp mệnh chủ dần dần có thế lực, vận Giáp Tý nhảy lên đỉnh cao, thành
ngƣời đứng đầu số 1 số 2 ở đất Thƣợng Hải, đồng thời anh ta còn đảm nhận Viện Hành chính
Tham nghị (Đời nhà Minh, dƣới quan bố chánh, quan thông chánh, có chức quan tham nghị.
Nhà Thanh, dƣới quan thông chánh cũng là quan tham nghị. Thời kỳ dân quốc, tham nghị
thƣờng là chức vị nhàn tản), chức vụ Bộ Tổng Tƣ lệnh Thiếu tƣớng Tham nghị, phú quý song
toàn. Ngẫm lại xem, mệnh này Nhật can Ất mộc hƣ phù vô căn, ở vận Giáp Tý cũng không
có căn, lại không phải là tòng cách, tại sao mệnh chủ có dạng phúc lộc vinh xƣơng chứ?

Mệnh Mao Thuận Sinh: Canh Ngọ/ Bính Tuất/ Giáp Thân/ Mậu Thìn. Nguyệt lệnh Sát
470 | Tam mệnh thông hội

Thực Tài cả ba đều thấu, nhật nguyên thất lệnh, lại không có cƣờng căn, lại còn không có Ấn
sinh, nhƣng do Thực thần chế Sát cấu thành cách cục, chỉ cần Thực thần đến vƣợng địa, liền
có thể phát phúc. Trong vận Canh Dần, Dần Ngọ Tuất tam hợp Thực thần cục, chế Sát mà
sinh Tài, mệnh chủ làm lƣơng thực cùng làm ăn mua bán thịt heo, dần dần đại phát, về sau
mua 22 mẫu đất tốt, bản thân còn làm ra "Mao nghĩa thuận đƣờng" lƣu thông tiền phiếu, trở
thành giàu nhất ở địa phƣơng.

Mệnh Tôn Hóa Long: Giáp Thìn/ Bính Dần/ Tân Hợi/ Mậu Tý. Nguyệt thấu Tài Quan Ấn
tam kỳ, nhật nguyên vô căn, vô khí. Đến vận Mậu Thìn, Kỷ Tị, Canh Ngọ, Ấn tinh đắc địa có
thể hóa Quan sinh thân, về sau mệnh chủ đƣợc Tiến sĩ, làm quan tới Phó sứ Án sá, đặc trách
giám sát ở Sơn Tây. Làm quan 30 năm.

Mệnh nam: Kỷ Sửu/ Bính Dần/ Canh Dần/ Giáp Thân. Cũng là nguyệt lệnh Tài Quan Ấn
đều thấu, cùng với mệnh Tôn Hóa Long gần giống nhau, mệnh này nhật nguyên có Sửu Thân
là căn, Ấn tinh cũng có lực, nhƣng mệnh chủ này chỉ là Phó cục trƣởng Cục Ti pháp một
Huyện, làm quan thất phẩm, mức độ phú quý kèm theo quan tứ phẩm đặc trách giám sát ở
Sơn Tây, còn kém xa một đoạn. Tại sao Nhật nguyên có cƣờng căn mà không bằng không có
căn chứ? Nguyên nhân là do Sát cần Ấn hóa, Sát nặng Ấn nhẹ thì cách cao, mà mệnh Kỷ Sửu
có Ấn tinh tƣơng đối nặng, lại đến Tây phƣơng kim vận Sát tinh lại càng nhẹ, cách cục liền
thấp hơn so với mệnh của họ Tôn từ 2-3 bậc, cho nên không bằng họ Tôn. Cho nên đây
không phải là vấn đề nhật nguyên cƣờng nhƣợc, mà vấn đề là giữa Sát cùng với Ấn.

Hết tập 2

(còn tiếp)
 24-10-13, 23:40
lesoi
( Tập ba )

Chính văn:
Thập can hóa thần,
Hữu ảnh vô hình,
Vô trung sinh hữu,
Phúc lộc nan bằng.

Đại lục bình chú:


"Thập can hóa thần" tức Giáp Kỷ hóa thổ, Ất Canh hóa kim, Bính Tân hóa thủy, Đinh Nhâm
hóa mộc, Mậu Quý hóa hỏa. Ý tứ của bản văn chỗ này là Thập can hóa thần là “Hữu ảnh vô
hình” ( có ảnh mà không có hình), "Vô trung sinh hữu” (trong không có sinh xuất hiện), khó
lấy làm bằng chứng mà suy đoán phúc lộc. Nói cách khác, hóa khí cách có thể không luận.
Cho nên, tác giả về sau để xuống dƣới có mấy câu, đoạn văn ở dƣới liền không luận tiếp cùng
với hóa khí cách.
Chẳng lẽ Thập can hợp hóa lại theo “Hữu ảnh vô hình”, “vô trung sinh hữu”, thật sự cũng
không thể suy đoán phúc lộc ƣ? Chỗ này không có hợp với quan điểm của Tử Bình.
Tử Bình 《 Hỉ Kị thiên 》nói: "Hữu kiến bất kiến chi hình, vô thời bất hữu" (Hình có thấy
hoặc không thấy, không có thời thì không có).
《 Uyên Hải Tử Bình 》thì có các loại nhƣ "Đảo xung cách", "Tỉnh lan cách", "Triều dương
cách" , đều là cách cục Hữu ảnh vô hình, Vô trung sinh hữu, nhƣng đều là có thể lấy dựa vào
vô hình mà suy đoán ra phúc lộc.
471 | Tam mệnh thông hội

《 Thần Phong thông khảo • Thập Can tòng hóa định quyết 》 thì chỉ ra rất rõ là : "Phàm
khán bát tự, tiên minh tòng hóa vi bản. Tòng hóa bất thành, phương luận tài quan. Tài quan
vô thủ, phương luận cách cục. Phi cách phi cục, vô túc luận hĩ. Nhược nhân mệnh tòng hóa
thành cách cục, tất vi phú quý chi mệnh. Phú vân: hỏa hư hữu diễm, mộc thịnh đa nhân, đắc
tòng đắc hóa, định hiển thanh danh chi sĩ, cố dã" (Phàm xem bát tự, trƣớc tiên cần phải rõ
bản chất của tòng hóa. Tòng hóa không thành, mới luận Tài Quan. Không có Tài Quan, mới
luận cách cục. Không cách, không cục, không đủ luận vậy. Nếu nhƣ mệnh tòng hóa thành
cách cục, nhất định là mệnh phú quý. Phú nói: Hỏa hƣ có sáng, mộc thịnh thì giàu lòng nhân
ái, đƣợc tòng, đƣợc hóa, định là quan hiển lộ thanh danh, là vậy). Ý tức là xem bát tự trƣớc
tiên cần phải xem tòng hóa cách, tòng hóa cách không thành, mới luận Tài Quan chính cách.
Chính cách không lấy đƣợc, mới luận ngoại cách. Mệnh không nhập cách, thì không đủ để
luận. Chỉ cần bát tự tòng hóa thành cách, nhất định là ngƣời phú quý. Cho dù bát tự sợ hỏa
nhiều mà ánh sáng quá mãnh liệt, hoặc là mộc thịnh mà dừng lại không có tiết, nhƣng nếu có
thể cấu thành tòng hóa cách, thì tất nhiên là làm quan công danh hiển đạt.

Một thuyết hóa khí cách phúc lộc khó có bằng chứng, một thuyết hóa khí cách phú quý là tất
nhiên, chúng ta tin cái nào chứ? Xem kết quả thực tế sau:

Nữ mệnh 1: Đinh Tị/ Quý Mão/ Quý Dậu/ Mậu Ngọ. Thiên can Mậu Quan không có Ấn hóa,
không thể cấu thành Quan Ấn cách. May mắn ở Mậu Quý gần kề, tháng ở Mão mà giờ ở
Ngọ, có thể cấu thành Mậu Quý hóa hỏa cách. Trong Bính Ngọ hỏa vận, khắc khử Dậu kim
Ấn tinh, hóa hỏa thành công, mệnh chủ mua bán kinh doanh đồ trang phục, phát tài gần 1000
vạn. Nếu nhƣ lấy thân nhƣợc hỉ Ấn luận, thì tất nhiên giải đoán sai lầm.
 24-10-13, 23:42
lesoi
Nữ mệnh 2: Đinh Mùi/ Nhâm Tý/ Đinh Mão/ Quý Mão. Mệnh này nếu lấy theo cách thông
thƣờng là luận Quan Ấn cách, thì Quan không có Tài sinh, đại vận lại là Đông phƣơng Quan
tinh ở đất tử tuyệt, Ấn nặng Quan nhẹ, là có thể nói quả quyết là không có phú quý. Nhƣng
Đinh Nhâm hợp mộc, lấy hóa khí cách xem, thì vận Đông phƣơng là chỗ thích hợp, bản thân
mệnh chủ có một phen thành tựu. Thực tế, mệnh chủ ở trong vận Đông phƣơng buôn bán
rƣợu, phát tài hơn 100 vạn.

Nam mệnh 1: Bính Ngọ/ Đinh Dậu/ Tân Mùi/ Bính Thân. Nếu nhƣ lấy Nguyệt Kiếp dụng
Quan cách luận, thì đại vận là Bắc phƣơng thủy địa, Quan Sát gặp tử tuyệt, tất nhiên là không
thể phú quý. Nhƣng mà, mệnh chủ ở hai vận Canh Tý, Tân Sửu 20 năm, kinh thƣơng thành
công, phát tài tính ra cả 100 triệu. Tại sao mệnh chủ có thể ở vận Quan Sát gặp tử tuyệt mà
đại phát tài chứ? Nguyên nhân chỉ có một, đó là bát tự cấu thành Bính Tân hóa thủy cách, lấy
Quan Sát là bệnh, đại vận thủy thổ có thể khử bệnh cách cục, do đó mời có gặp kết quả này.

Nam mệnh 2: Đinh Mùi/ Tân Hợi/ Bính Tý/ Đinh Dậu. Mệnh này Tài Quan quá nặng, nếu
lấy thân nhƣợc hỉ Ấn Tỉ mà luận, thì mệnh chủ kị hành Tây phƣơng kim vận mà hỉ hành Nam
phƣơng hỏa vận. Nhƣng mà sự thực là, mệnh chủ ở trong vận Tây phƣơng kim Sát kẻ địch lại
lập công, làm quan tới chức Thiếu tƣớng. Vào vận Nam phƣơng gặp năm Kỷ Sửu tức là chiến
bại bị bắt, sau này toàn bộ vận lý Nam phƣơng mệnh chủ đều trải qua ở trong nhà giam. Tại
sao lại nhƣ vậy chứ? Bởi vì mệnh cục kim thủy đắc thế, cấu thành Bính Tân hóa thủy cách.
Vận Kỷ Dậu, Mậu Thân, thiên can Mậu Kỷ thổ tiết hỏa sinh kim, địa chi Thân Dậu kim tiết
thổ sinh thủy, khử mất hóa thủy cách là bệnh của cách cục, cho nên mệnh chủ mới có vũ chức
xuất chúng. Nam phƣơng vận phá mất hóa thủy cách, cho nên thân hãm vào nhà lao.

Nam mệnh 3: Quý Tị/ Kỷ Mùi/ Đinh Mão/ Nhâm Dần. Bát tự có Quan Sát vô căn, không
472 | Tam mệnh thông hội

thấy Tài tinh, đại vận lại nghịch hành Đông phƣơng Thực Thƣơng vƣợng địa, loại mệnh này
chẳng lẽ gặp phú quý ƣ? Theo lẽ thƣờng là không gặp. Nhƣng vì Mão Mùi hợp mộc, Đinh
Nhâm hợp mộc, cấu thành Đinh Nhâm hóa mộc cách, cho nên mà mệnh chủ ở trong vận Mậu
Ngọ, Đinh Tị, Bính Thìn không có chỗ biểu hiện, ở trong vận Ất Mão mộc vận trở thành chủ
doanh nghiệp nỗi tiếng ở địa phƣơng, tài phát tính ra hơn 100 vạn.

Tƣờng thuật 5 mệnh kể trên, hóa khí cách vẫn còn tồn tại, chỉ cần hợp hóa thành công, vận
hành không trở mặt, đều là mệnh hoặc phú hoặc quý. Hóa thần không phải là Hữu ảnh vô
hình, Vô trung sinh hữu , mà là hai loại ngũ hành sau khi hợp hóa mà thành vật, giống nhƣ
trong sinh hoạt hiện tại hàng loạt sản phẩm hợp thành một dạng sản phẩm phổ biến mà tồn tại
chân thực.
 24-10-13, 23:43
lesoi
Chính văn:
Thập ác đại bại,
Cách trung sở kị,
Nhược ngộ tài quan,
Phản thành phú quý.

Đại lục bình chú:


"Thập ác đại bại" là một loại Thần Sát. Phàm bát tự có trụ ngày là Giáp Thìn, Ất Tị, Nhâm
Thân, Bính Thân, Đinh Hợi, Canh Thìn, Mậu Tuất, Quý Hợi, Tân Tị, Ất Sửu ở 1 trong 10
ngày này, là phạm thần sát "Thập ác đại bại". Tại sao ngƣời sinh ra trong 10 ngày này từ
trong bụng mẹ bỗng chốc liền dính vào loại hung thần ác sát chứ? Cổ nhân giải thích nói, là
bởi vì ngƣời sinh ra trong 10 ngày này Lộc gặp phỉa Tuần Không, thí dụ nhƣ ngƣời sinh ngày
Giáp Thìn, Ất Tị, Giáp Lộc ở Dần, Ất Lộc ở Mão, mà trong tuần Giáp Thìn thì Dần Mão là
Không vong, cho nên ngƣời sinh ngày Giáp Thìn, Ất Tị liền gặp "Lộc nhập Không Vong".
Tác giả cho rằng loại "Lộc" này là đại biểu quan lộc, y lộc, một khi gặp Tuần Không, liền
thuộc về mệnh không mang hai chữ y lộc là mệnh bần tiện, mà tuyệt đối không thể tránh
khỏi, cho nên lấy tên là "Thập ác đại bại" . Tất nhiên, tác giả lại cho rằng, nếu nhƣ loại thần
sát này gặp hai chữ Tài Quan, thì trái lại trở thành phú quý, lại đƣợc thần sát rất tốt.
Vấn đề là, hai chữ "Tài quan" này tác giả là chỉ Nguyệt lệnh là hai cách Tài Quan, hay là chỉ
bản thân ngày hôm đó do mang Tài Quan? Nếu nhƣ là vế thứ hai, nhƣ vậy, 10 ngày kể trên
thì có 5 ngày là Giáp Thìn, Ất Tị, Bính Thân, Canh Thìn, Ất Sửu là mang Tài tinh, còn 2
ngày Đinh Hợi, Tân Tị lại mang Quan tinh, là rất rõ ràng, tác giả chỉ rõ không phải loại tình
huống này, mà là chỉ rõ tình huống nguyệt lệnh là Tài Quan.

Loại thần sát này thật ra có thể sợ như vậy ư? Nếu nhƣ nguyệt lệnh không gặp Tài Quan,
thì mệnh thật là ngày "Thập ác đại bại" ƣ? Mời xem ví dụ thực tế:

Mệnh họ Vương chuyên kinh doanh địa sản: Giáp Thìn/ Bính Dần/ Giáp Thìn/ Bính Dần.
Nguyệt lệnh không có Tài Quan, phạm ngày "Thập ác đại bại", nhƣng mệnh chủ nghề nghiệp
là kinh doanh địa sản, phát tài đếm khoảng 10 triệu. Tƣợng loại này là "Thập ác đại bại" chỉ
sợ là rất nhiều ngƣời hoang tƣởng đều suy nghĩ là có.
 24-10-13, 23:45
lesoi
Mệnh Tôn Thừa Tông: Quý Hợi/ Giáp Dần/ Giáp Thìn/ Nhâm Thân. Nguyệt lệnh không có
Tài Quan, phạm ngày "Thập ác đại bại", nhƣng mà mệnh chủ 41 tuổi năm Giáp Thìn là bảng
nhãn cao trung, làm quan ở Hàn lâm. Về sau làm quan tới Binh Bộ Thƣợng thƣ kiêm Đông
473 | Tam mệnh thông hội

các Đại học sĩ.

Mệnh Lưu Nghiêu Khanh: Quý Tị/ Tân Dậu/ Canh Thìn/ Giáp Thân. Nguyệt lệnh không có
Tài Quan, phạm ngày "Thập ác đại bại", thế nhƣng, mệnh chủ lại ở 32 tuổi năm Ất Sửu đƣợc
Tiến sĩ, nhận chức Ngự Sử tới giám sát đƣờng Vân Nam, vừa có thanh danh, vừa có hiếu.

Mệnh Từ Hi: Ất Mùi/ Đinh Hợi/ Ất Sửu/ Kỷ Mão. Nguyệt lệnh không có Tài Quan, phạm
ngày "Thập ác đại bại", nhƣng mà mệnh chủ chính là không có bảng hiệu đứng sau rèm
Hoàng Đế, danh vọng của mệnh nữ này trở thành Phƣợng Hoàng e rằng đều hoan hỉ loại
"Thập ác đại bại" sao?

Mệnh nam: Đinh Hợi/ Mậu Thân/ Ất Sửu/ Nhâm Ngọ. Nguyệt lệnh dù có Tài Quan, nhật
nguyên cũng là phạm "Thập ác đại bại", nhƣng mệnh chủ lúc 6 tuổi đã vì bệnh tê liệt, sau
thành tàn tật. Sau khi 16 tuổi một mực lang bạt ở bên ngoài, đến già cũng không đến nỗi làm
mang tiếng cho họ hàng, cả nhà đều không thành đạt. Tại sao chỗ này mang "Thập ác đại
bại" mệnh có Tài Quan lại không có chút nào là gặp phú quý chứ? Không phải, là do nguyên
nhân khác, là do Đinh Nhâm hợp nhất, phá mất Quan Ấn cách, lại thêm đại vận nghịch hành,
Ấn tinh lại hành đất tử tuyệt, cách không thành, cho nên mới có sự việc không thành.

Có thể thấy, "Thập ác đại bại" cũng không có chỗ tên gọi biểu thị kinh khủng nhƣ vậy, nó chỉ
là một loại thần sát bình thƣờng. Giống nhƣ chỗ 《 Tử Bình Chân Thuyên 》nói, thần sát
cũng không ảnh hƣởng tới ngũ hành vƣợng suy, cƣờng nhƣợc, cũng không ảnh hƣởng tới
cách cục thành bại, cao thấp. Do vậy, chúng ta không thể sử dụng thần sát để suy đoán nhân
mệnh phú quý hay bần tiện. Mệnh phạm"Thập ác đại bại" , không nên sợ hãi, cũng không
nên vui mừng, nhất thiết đều phải xem cách cục thành bại hay cao thấp mà nói. Mệnh mang
"Thập ác đại bại" mà ngƣời bần tiện, nhất định là do bát tự không thành cách cục; mệnh
mang "Thập ác đại bại" mà ngƣời phú quý, nhất định là do bát tự thành cách, thành cục, cả
hai đều cùng không có liên quan tới ngày "Thập ác đại bại" .
 24-10-13, 23:47
lesoi
Chính văn:
Cách cách suy tường,
Dĩ sát vi trọng,
Hóa sát vi quyền,
Hà sầu tổn dụng.

Đại lục giải thích:


Cách cục có nhiều loại, có đôi khi một bát tự lại có 2 cách, 3 cách, vậy trong đó loại cách cục
nào quan trọng nhất chứ? Là Sát Quan cách. Sát Quan cách cùng lúc tồn tại, thì lại lấy Sát
cách làm trọng. Tại sao chứ? Bởi vì Thất Sát là vật công thân, mệnh mang Thất Sát, thì giống
nhƣ nằm bên cạnh mãnh hổ, nếu đầu tiên không lấy chế phục, thì có lúc mà mệnh khó giữ
đƣợc, thì sao mà có tâm trí để suy nghĩ nói chuyện danh lợi hôn nhân chứ? Cho nên “Cách
cách suy tường”, là cần phải lấy Sát cách làm trọng là đầu tiên. Thứ đến là Chính Quan cách,
bởi vì Chính Quan là đại biểu cho danh dự, địa vị, quyền lực, chế độ cùng luật pháp. Chỉ cần
mỗi con ngƣời sinh hoạt ở trong quần thể xã hội, dù ở bất cứ nơi nào thì cũng cùng ảnh
hƣởng bởi sự quản thúc của nhà nƣớc. Xúc phạm ở chỗ Quan đại biểu cho sự vật, thì phải gặp
đến sự công kích của quần thể xã hội, nhẹ thì chịu xã hội cƣỡng bức, nặng thị phải bị quần
thể tƣớc đoạt tài sản, có khi đến cả sinh mệnh. Bởi vậy, Chính Quan tính quan trọng chỉ đứng
sau ở Thất Sát.
474 | Tam mệnh thông hội

Cho nên 《 Uyên Hải Tử Bình • Bảo pháp nhị 》có nói: "Phàm cách đương dĩ Sát Quan
ngôn chi." 《 Tam Mệnh thông hội • Luận Chính Quan 》nói: "Hựu viết quan tinh bất tất
chuyên nê vu nguyệt lệnh chi thần, hoặc nguyệt can, hoặc niên nhật thời chi can, chỉ nhất xứ
hữu, bất tằng tổn thương, giai khả thủ dụng" ( Lại nói Quan tinh không nên chấp nê ở thần
nguyệt lệnh, hoặc can tháng, hoặc can năm , ngày, giờ, chỉ một nơi có, không bị tổn thƣơng,
đều có thể lấy làm dụng). Ý là muốn nói, phàm bát tự chỉ cần có Sát Quan thành cách, bất kể
đúng hay không đúng là nguyệt lệnh dụng thần, đều cần phải trƣớc tiên lấy Sát Quan cách
này. Chỉ cần năm, ngày, giờ có Sát Quan thành cách, thì không sợ tổn hại nguyệt lệnh dụng
thần, ý chỗ này cũng là "Hóa sát vi quyền, hà sầu tổn dụng" .
Có mệnh sƣ ôm lấy quyết định nguyệt lệnh dụng thần mà không hiểu biến thông, một mặt
bám chặc lấy ở thiên can nắm quyền ti sự , hoặc chỗ vấn đề gọi là "Bình hành", "Điều hậu",
"Thông quan" để lấy "Dụng thần", không hiểu đạo “Cách cách suy tường” lấy Sát Quan là
phƣơng pháp đầu tiên để thủ cách, dạng này sẽ tồn tại xuất hiện một loại bát tự ở trên mà suy
đoán sai lầm.

Nhƣ mệnh Ngô Đại Đình, sinh vào ngày 8, tháng 12, năm 1824, giờ Thìn, mệnh thức là :
Giáp Thân/ Đinh Sửu/ Bính Dần/ Nhâm Thìn. 《 Tam Mệnh thông hội • Nhân Nguyên dụng
sự ca 》nói: "Sửu cung cửu nhật quý chi dư, trừ khử tam tân giai thuộc kỷ." Ý tức là tháng
Sửu trƣớc 9 ngày là Quý thủy dụng sự, tiếp theo 3 ngày là Tân kim dụng sự, còn lại 18 ngày
là Kỷ thổ dụng sự. Tra 《 Vạn niên lịch 》có thể biết, năm này ngày 17, tháng 11 âm lịch là
giao tiết Tiểu Hàn, tới tháng 12, ngày 8, cộng lại là 21 ngày, gặp lúc Kỷ thổ dụng sự, cũng
tức là Thƣơng Quan dụng sự. Nếu nhƣ chúng ta chấp nhất lấy Kỷ thổ Thƣơng quan làm dụng
thần, nhƣ vậy, có thể lấy cách cục chỉ có Thƣơng quan phối Ấn cách. Xem lý thuyết, mệnh
chủ nếu đến Đông Bắc phƣơng thủy mộc vận mới có thể phát phúc. Nhƣng mà, mệnh chủ lại
ở Tị vận, 42 tuổi năm Ất Sửu phụng chỉ phép vua tới trông coi nghề làm muối ở Phúc Kiến,
chính thức bƣớc vào con đƣờng làm quan. Vào vận Nhâm Ngọ lúc 43 tuổi năm Bính Dần
thăng chức Tuần phủ Đài Loan,cùng đƣợc phong tƣớc Nhị phẩm. Mệnh chủ ở trong vận
Nhâm Ngọ một đƣờng đảm đƣơng chức quyền, thẳng đến 53 tuổi vào vận Quý sau đó qua
đời. Thử nghĩ, Ngọ vận chính là Ấn tinh tử địa, Dần Ngọ hợp mà hóa Ấn thành Kiếp, mệnh
chủ tại sao có thể có địa vị là Tuần phủ Đài Loan chứ? Chỗ này là dụng Thƣơng quan luận
cách mà thật sự là không có phép giải thíc. Thực ra, mệnh này tháng thấu Nhâm Sát, tuy có
thể dụng Giáp Ấn hóa Sát, cũng có thể lấy Đinh hỏa hợp Sát, vận Nhâm Ngọ chính là Đinh
hỏa đất đắc Lộc, hợp Sát có lực, cho nên mà mệnh chủ mới có thể giữ địa vị làm quan lớn
trấn giữ ở biên cƣơng.
 24-10-13, 23:49
lesoi
Lại nhƣ Từ Nhạc Ngô chỗ《 Tử Bình túy ngôn • Yểu thương mệnh 》đƣa ra ví dụ một
nam mệnh: Đinh Dậu/ Nhâm Dần/ Giáp Dần/ Ất Sửu.
Từ thị giải thích nói: "Sách nói rằng, hỏa mộc thiết kị mai căn. Giáp Dần, là hoạt mộc vậy.
Sinh ở đầu mùa Xuân, mộc còn non mừng có hỏa ấm là vinh, kị kim đến là địch làm tổn
thƣơng. Năm và giờ có Dậu Sửu hội cục, may mắn đƣợc Đinh hỏa xuất can để cứu. Cho nên
sinh ở gia đình phú quý. Không nhƣ Đinh Nhâm hợp khử dụng thần, vận hành Tân Sửu, lúc
nhỏ nhiều bệnh. Vận Canh Tý, năm Canh Thân chết, là do mộc bị kim thƣơng vậy". Ý của
ông ấy là, mệnh này mộc còn non cho nên kị kim mà hỉ hỏa, may mắn có Đinh hỏa khắc Dậu
kim, mới có thể sinh ở gia đình phú quý. Vận Canh Tý năm Canh Thân chết yểu, là do mộc bị
kim khắc phá hại. Thực ra, nếu xem theo cách này thì 10 phần đều sai lầm. Tử bình thủ cách,
không luận điều hậu, chỉ lấy Quan Sát cùng với nguyệt lệnh thần ti sự làm dụng định cách.
Mệnh này nguyệt lệnh thấu ra Đinh hỏa, tức là dụng thần, ý là không do ở điều hậu vậy. Đinh
Nhâm hợp mà hóa mộc, dụng thần hóa hƣ, không thể lập thành cách. Lại xem năm và giờ có
475 | Tam mệnh thông hội

Dậu Sửu hợp Sát chế Kiếp, cách thành Nguyệt Kiếp dụng Sát cách.
Ở đoạn văn phía trên của《 Tứ Ngôn độc bộ 》có nói: "Nguyệt lệnh kiến lộc, bất trụ tổ ốc,
nhất kiến tài quan, tự nhiên phát phúc." Ý tức là Nguyệt lệnh là Tỉ Kiếp thì không có dụng
thần, cho nên mà khó có đƣợc di nghiệp tổ tông. Nhƣng mà có thấy Tài Quan chế Kiếp, tức
có thể hƣởng phúc tổ tông. Mệnh này chính là do có chi năm là Dậu Quan chế Kiếp, cho nên
mà mới sinh ở gia đình phú quý. Lý này là Đinh Nhâm hợp, vừa đúng lúc do Nhâm thủy hợp
Đinh thành mộc, Đinh hỏa không thể khắc chế Dậu kim, thì mới đƣợc lấy bảo toàn Nguyệt
Kiếp dụng Sát cách. Nhƣng mà Từ thị lại nói trƣớc là "Không như Đinh Nhâm hợp khử dụng
thần", tiếp theo lại tự mâu thuẫn với chỗ nói : "May mắn được Đinh hỏa xuất ra can để cứu
giúp", tựa nhƣ là Nhâm thủy cũng không có hợp khử mất cái gọi là "Dụng thần" Đinh hỏa
vậy. Tới vận Tân Sửu tại sao mệnh chủ"Lúc nhỏ nhiều bệnh", không phải là nguyên nhân
do"Đinh nhâm hợp khử dụng thần", mà là Đinh Nhâm hợp mộc hình thành Tỉ Kiếp kháng lại
thế Quan tinh, ở cách có tổn hại, do đó nhiều bệnh. Mệnh chủ ở vận Canh Tý năm Canh Thân
chết yểu, cũng khôn gphải do "Mộc bị kim thương", mà là kim bị chìm ở đất thủy, Thân Tý
hợp thủy, tƣớng thần do bị hóa hƣ. Là kim bị thủy mộc tổn hại, mà không phải là mộc bị kim
hại.

Mệnh Trần Hữu Niên: Tân Mão/ Canh Dần/ Giáp Tý/ Giáp Tuất. Xem phƣơng pháp Từ thị
luận mệnh, mệnh này cũng thuộc mộc non hỉ hỏa kị kim. Nhƣng mà, mệnh chủ 31 tuổi năm
Nhâm Tuất đƣợc Tiến sĩ, nhậm chức chủ sự Hình Bộ. Vận Bính Tuất, 42 tuổi năm Quý Dậu
do phải gặp tổn thất ở triều đình tranh giành, không nói rõ thất bại mà dẫn đến bệnh phải từ
chức. Thẳng đến vận Ất Dậu, 53 tuổi, năm Ất Dậu phục hồi lại chức, một đƣờng quan chức
liên tiếp thăng lên, tới 62 tuổi năm Quý Tị nhậm chứ Lại Bộ thƣợng thƣ. Sự thực chứng
minh, Từ thị nói mộc non hỉ hỏa kị kim là không đủ để tin, bởi vì mệnh này cũng không phải
do ở vận hỏa vƣợng mà là ở vận kim vƣợng, thăng chức liên tục. Lấy Tử Bình cách cục luận,
mệnh này thì thuộc ở tiêu chuẩn Nguyệt Kiếp dụng Sát cách. Kiếp nặng Sát nhẹ, hỉ ở đất Sát
vƣợng, do đó đắc ý ở Tây phƣơng vận. Có thể thấy, luận mệnh cần lấy cách cục làm chủ, lấy
Sát Quan là ƣu tiên đứng đầu, không cần suy nghĩ nói đến mộc nộn ( non) hỉ hỏa kị kim gì cả.
 24-10-13, 23:51
lesoi
Chính văn:
Sát bất ly Ấn,
Ấn bất ly Sát,
Sát Ấn tương sinh,
Công danh hiển đạt.

Đại lục bình chú:


Thất Sát vi hung thần, tốt ở tấn công thân, tất cần có chế hóa. Thất Sát không có chế, nhẹ thì
không quý, nặng thì không yểu cũng bần. Sát là nghề võ, Ấn là văn hoa, lấy Ấn hóa Sát, thì
có thể hóa cƣơng thành nhu, hóa ác thành thiện, khiến cho ngƣời có cả văn lẫn võ, công danh
hiển đạt. Có Sát không có Ấn thiếu tài văn chƣơng, có Ấn mà không có Sát thì thiếu uy
phong. Bởi vậy, Thất Sát hỉ nhất là có Ấn hóa, cho nên viết Sát bất ly Ấn, Ấn bất ly Sát. Tuy
nhiên, ngoại trừ lấy Ấn hóa Sát, vẫn còn có lấy Thực Thƣơng chế Sát, lấy Kiếp Nhận hợp
Sát, nhƣng mà hóa Sát là lấy đức báo oán, hóa địch thành bạn bè; còn chế Sát là Giáng long
phục hổ, là chỗ ta sử dụng; hợp Sát thì là mƣợn hắn để kiềm chế đối thủ, đều không thể thu
kết quả hóa Sát hoàn mỹ. Cho nên mệnh thƣ có nói một thuyết là: "Hợp Sát bất như chế Sát,
chế Sát bất như hóa Sát".

Nam mệnh 1: Mậu Tý/ Giáp Tý/ Mậu Tý/ Giáp Dần. Can thấu hai Sát, không có Ấn hóa
Thực chế, nếu lấy Tòng Sát cách luận, thì đại vận là Ất Sửu, Bính Dần, Đinh Mão, Mậu Thìn,
476 | Tam mệnh thông hội

Kỷ Tị, một mạch không phải là hỏa tức là thổ, Tòng Sát cách cũng không thành. Cho nên
mệnh chủ cả đời bần khốn dị thƣờng, bà già con nít đều là bị bệnh tâm thần.

Nam mệnh 2: Bính Dần/ Canh Dần/ Canh Tuất/ Bính Tuất. Nguyệt lệnh thấu Sát, gặp Sát
xem Ấn, chỉ có chi giờ là Tuất Ấn có thể lấy hóa Sát, can năm Bính Sát không có chế, là
mệnh không yểu cũng bần. Vận đầu Tân Mão, Nhâm Thìn, Quý Tị, có Tân kim hợp Sát,
Nhâm Quý thủy chế Sát, mệnh chủ một mạch thuận lợi toại nguyện, học nghiệp có thành.
Vận Giáp Ngọ, Sát đến vƣợng địa, can Thất Sát không có chế mà lại công thân, mệnh chủ đôi
mắt bị mù, theo chỗ này liền ở trong hắc ám vô tận đuổi quãng đời còn lại.

Nam mệnh 3: Bính Tuất/ Tân Mão/ Canh Dần/ Tân Tị. Bát tự một khối Tài Sát, lấy chi năm
Tuất có Ấn hóa Sát, thì Mão mộc khắc Tuất thổ, phá hoại Ấn tinh, phá Sát Ấn cách, không có
quý khí vậy. Chỉ có lấy Tân Kiếp hợp Sát, nhƣng mà gặp đại vận Nam phƣơng, Tân kim thất
địa, không có lực hợp Sát, cách cục quá thấp. Mệnh chủ sau khi tốt nghiệp tiểu học thì lang
bạt giang hồ, ở trọn trong vận Nam phƣơng không có gì pha lẫn để giúp danh đƣờng, kinh
thƣơng thì lấy mắc nợ vốn không còn, hôn nhân thì lấy kết thúc ly dị. Sau vào vận Tây
phƣơng, Tân kim đắc địa, hợp Sát có lực, mệnh chủ kinh doanh buôn bán các loại bất động
sản mà phát tài.

Nam mệnh 4: Nhâm Ngọ/ Nhâm Dần/ Canh Tuất/ Nhâm Ngọ. Địa chi tam hội Sát cục, chỉ là
do Sát không thấu can, lại còn có Nhâm thủy chế Sát, cho nên Tuất thổ không thể hóa hỏa, có
thể hóa Sát ở địa chi, lại kiêm dụng thiên can Thực Thƣơng chế Sát. Sơ vận Quý Mão, Giáp
Thìn, xung khắc Tuất Ấn, mệnh chủ xuất thân bần khốn, 18 tuổi năm Canh Tý phụ thân cùng
chị gái bị chết đói do ở tội ác trong khi vận động "Đại dược tiến". Sau vận Ất Tị, Sát vƣợng
sinh Ấn, mệnh chủ dần dần quật khởi, từ Giáo sƣ Phổ thông thăng tới Bí thƣ Huyện ủy. Vận
Bính Ngọ, Sát đến vƣợng địa, Sát Ấn tƣơng sinh, mệnh chủ làm quan thăng Bí Thƣ Đảng ủy
tự trị một Châu, tiến đến thăng lên làm phó Bí thƣ Tỉnh ủy một tỉnh. Vận Đinh Mùi năm Mậu
Dần, mệnh chủ làm quan tới Bí thƣ Tỉnh ủy. Đúng nhƣ chỗ gọi là "Sát Ấn tương sinh, công
danh hiển đạt" vậy.
 24-10-13, 23:52
lesoi
Chính văn:
Quan Sát trọng phùng,
Chế phục hữu công,
Như hành vượng địa,
Ngộ chi bất hung.

Đại lục bình chú:


Tử Bình luận mệnh, quý ở cách cục thanh thuần, tiện ở hỗn tạp. Cho nên 《 Tam Mệnh
thông hội • Luận Thiên Quan 》nói: "Ngũ hành gặp chi tháng là Thiên Quan, chỉ có một vị
ở địa chi, phần đa thì không tốt. Tứ trụ thuần Sát có chế, định ở địa vị Nhất phẩm, sơ lƣợc
thấy một vị Chính Quan, Quan Sát hỗn tạp trái lại là tiện." Ngoại trừ các loại Tòng Sát, Hóa
Khí là cách cục đặc thù, thông thƣờng cách cục bình thƣờng thì không nên có Chính Thiên
hỗn tạp, trong đó đặc biệt Quan Sát hỗn tạp là đại kị. Cho nên gặp phải Quan Sát nặng mà
hỗn tạp, hỉ nhất là có chữ thanh cách, hoặc Thực Thƣơng, hoặc Kiếp Nhận, hoặc khử Sát lƣu
Quan, hoặc khử Quan lƣu Sát, mệnh đều có thể phát phúc. Sát Quan hỗn tạp chỉ cần có chế,
thị không sợ hành đất Sát vƣợng, Sát càng vƣợng thì thành tựu càng lớn. Nếu là Sát Quan hỗn
tạp không có chữ thanh cách, lại hành đến đất Sát vƣợng, thì họa hoạn rất nặng, cách cái chết
là không xa vậy.
477 | Tam mệnh thông hội

Nữ mệnh 1: Quý Hợi/ Nhâm Tý/ Đinh Sửu/ Nhâm Dần. Can đầu một khối Quan Sát hỗn tạp,
tuy nhiên sớm vận là Giáp Dần, Ất Mão là ấn vận, có thể đủ hóa Sát sinh thân, nhƣng mà
Quan Sát hỗn tạp là bệnh khó khử, cho nên mệnh chủ xuất thân là bần hàn, chƣa tốt nghiệp sơ
trung đã bƣớc chân vào xã hội, cho tới nay vẫn làm nữ bồi bàn ( kẻ hầu bàn làm kĩ nữ, xƣớng
ca, mua vui cho khách).

Nữ mệnh 2: Quý Dậu/ Nhâm Tuất/ Đinh Tị/ Quý Mão. Can đầu cũng là một khối Quan Sát,
hỉ Đinh Nhâm hợp nhất, khử Quan lƣu Sát, cách cục thì thanh. Cho nên mệnh chủ sau khi kết
hôn nhất tâm theo chồng dạy con, không hề tai tiếng, chồng họ Thái rất nhân từ, làm quan tới
chức Mật sứ ở trung ƣơng, mệnh chủ đƣợc phong làm Quảng Bình Quận phu nhân.

Nữ mệnh 3: Ất Dậu/ Quý Mùi/ Đinh Dậu/ Nhâm Dần. Nguyệt lệnh thấu Ấn, cách thành Ấn
dựa Sát sinh. Đinh Nhâm hợp, khử Quan lƣu Sát, cách chính cục thanh. Mệnh chủ sau khi tốt
nghiệp cao trung, thì trƣớc sau đều đảm nhận Xã trƣởng, rồi Phó trƣởng Huyện, Phó bí thƣ
Huyện ủy, thẳng đốn vận Đinh Hợi lúc 38 tuổi năm Quý Hợi đất Sát vƣợng, thăng nhậm Phó
trƣởng tự trị một Châu ( cấp bậc chính Sở). Hôn nhân bình ổn, sự nghiệp đắc ý.

Nữ mệnh 4: Ất Mùi/ Tân Tị/ Mậu Tuất/ Giáp Dần. Quan Sát tƣơng phùng, nhƣng mà có Tân
kim khử Quan lƣu Sát, ở cách là không có tổn hại. Chỗ tiếc là, đại vận trƣớc Nam sau Tây, là
Sát tinh ở đất tử tuyệt, cho nên mệnh chủ dù có hôn nhân ổn định, nhƣng sinh hoạt lại rất khó
khăn. Bản thân mệnh chủ là Đội trƣởng Đội phụ nữ Sinh sản, chồng làm phó bí thƣ chi bộ
Đội Sinh sản, vợ chồng cả đời lao động không ngừng, thu nhập lại rất thấp.
 24-10-13, 23:55
lesoi
Chính văn:
Thời Sát vô căn,
Sát vượng thủ quý,
Thời Sát đa căn,
Sát vượng bất lợi.

Đại lục bình chú:


Gọi là "Thời Sát" tức là trong Tử Bình có "Thời thượng nhất vị quý cách", hay gọi là "Thời
thượng nhất vị Độc Sát cách" . 《 Uyên Hải Tử Bình 》nói: "Nói Nhất vị quý là, chỉ có can
giờ thấy một vị mới là quý, hoặc nếu năm, tháng, ngày lại có, trái lại là ngƣời khổ cực lao
dịch vậy. Nhƣ trụ giờ có một vị Thất Sát, bản thân cần phải tự vƣợng, mà ba nơi thì có nhiều
chế phục, thì hành vận Thất Sát vƣợng, hoặc tam hợp đắc địa thì mới phát. Nếu không có chế
phục, thì cần phải hành vận chế phục mới phát. Hoặc gặp Sát vƣợng mà không có chế, thì họa
phát sinh vậy". Ý là rất rõ ràng, lại là Thời thượng nhất vị độc Sát cũng cần chế phục, mệnh
cục có chế phục thì cần phải hành đến đất Sát vƣợng, hoặc có vận tam hợp Sát cục, nếu mệnh
cục không có chế phục, thì cần phải hành đến vận chế phục. Sợ nhất là Sát nhiều, Sát vƣợng,
lại không có chế phục, thì họa hoạn cùng phát sinh vậy. Nhƣng mà 《 Tứ Ngôn độc bộ 》 lý
lẽ chỗ này ý lại cũng không nói đến chế phục, chỉ nói Nhất vị độc Sát đến vận Sát vƣợng thì
quý, phần đa Sát đến đất Sát vƣợng thì không có lợi.
Chẳng lẽ Nhất vị Độc Sát không có chế phục cũng không thể phát quý ƣ? Chẳng lẽ phần đa
Sát có chế phục cũng bất lợi ƣ? Chúng ta hãy xem ví dụ thực tế:
Chỗ《 Uyên Hải Tử Bình 》đƣa ra Mệnh Chiêm Thừa Tướng: Nhâm Ngọ/ Canh Tuất/
Giáp Ngọ/ Canh Ngọ. Mệnh này có trụ năm, giờ đều là Sát, nhƣng thiên can có Nhâm thủy
hóa, địa chi có Ngọ hỏa chế, đại vận Đông phƣơng là Thực Thƣơng vƣợng địa, thì chế Sát có
478 | Tam mệnh thông hội

lực, cho nên mệnh chủ có thể địa vị là Thừa tƣớng.


Mệnh Sử Ngụy Vương: Giáp Thân/ Bính Dần/ Ất Mão/ Tân Tị. Tân Sát có Thân Tị hai căn,
nhƣng có Bính Tị hỏa chế Sát.
Mệnh Lý Thừa tướng: Kỷ Tị/ Đinh Mão/ Bính Ngọ/ Nhâm Thìn. Tuy chỉ có Thời thượng
nhất vị độc Sát, nhƣng có Kỷ thổ chế Sát, Đinh hỏa hợp Sát.
Mệnh Trịnh Thượng thư : Canh Dần/ Nhâm Ngọ/ Mậu Dần/ Giáp Dần. Thời Sát có ba Dần
là căn, nhƣng nguyệt lệnh có Ngọ hỏa hóa Sát.
Mệnh Du Thị Lang: Nhâm Thân/ Quý Sửu/ Kỷ Sửu/ Ất Hợi. Thời thượng nhất vị độc Sát,
nhƣng chi ngày là khố của Thực Thƣơng, là Ôm Thực mà chế Sát.
Mệnh Lưu Đô Thống: Đinh Hợi/ Ất Mùi/ Ất Tị/ Tân Tị. Tân Sát có hai Tị là căn, nhƣng can
năm có Đinh Tị hỏa chế Sát.
Mệnh Tống Thượng Thư: Canh Thìn/ Bính Tuất/ Mậu Tuất/ Giáp Dần. Thời thượng nhất vị
độc Sát, nhƣng có nguyệt lệnh Bính hỏa hóa Sát.
Mệnh Phạm Thượng Thư: Tân Tị/ Tân Sửu/ Kỷ Mão/ Ất Hợi. Thời Sát có Mão Hợi hai căn,
nhƣng trụ năm tháng có Tân kim chế Sát.

Theo các ví dụ mệnh tƣờng thuật kể ở trên, thời Sát không có luận là căn nhiều hay căn ít,
đều cần phải có chế phục mới có thể thành cách. Nếu nhƣ không có chế phục thì sao? Chúng
ta lại xem tiếp các ví dụ sau:

Nam mệnh 1: Mậu Tuất/ Kỷ Mùi/ Ất Mão/ Ất Dậu. Thời thượng nhất vị độc Sát, không có
chế hóa, vận đến Tây phƣơng đất Sát vƣợng, mệnh chủ không có đi học, không có công việc
ổn định, sinh hoạt bình thƣờng, không có quý khí, lại còn có con chẳng ra gì.
Nam mệnh 2: Bính Thìn/ Mậu Tuất/ Ất Mão/ Ất Dậu. Thời thượng độc Sát, có căn ở Tuất
Dậu, nhƣng không có chế hóa, không thể nhập cách, cho nên mệnh chủ là kẻ nhân sĩ chôn vùi
trí tuệ.
Nam mệnh 3: Mậu Tý/ Kỷ Mùi/ Giáp Tý/ Canh Ngọ. Thời Sát vô căn, vận hành Tây phƣơng
kim địa Sát vƣợng, mệnh chủ lúc còn nhỏ bệnh hoạn về viêm phổi nghiêm trọng, cả đời
không hết bệnh. Vận Canh Thân, năm Giáp Ngọ, 6 tuổi có tang mẹ. Mệnh chủ học nghiệp
không thành, cuối cùng bản thân chỉ làm nghề nông. Vận Giáp Tý sinh hoạt kham khổ không
nói hết. Tại sao mệnh Thời Sát vô căn đến đất Sát vƣợng mà không quý trái lại là tiện chứ?
Nguyên nhân là do ở Tý Ngọ xung, lại thêm đại vận đến phƣơng Tây, Ngọ hỏa đến đất tử địa,
Canh Sát không có chế mà phá cách vậy. Canh kim phá cách, cho nên bệnh phổi khó khỏi.
Nam mệnh 4: Bính Thân/ Giáp Ngọ/ Ất Mão/ Ất Dậu. Thời Sát có hai căn Thân Dậu, nhƣng
có nguyệt lệnh Ngọ hỏa chế phục, chỉ tiếc là mở bƣớc đại vận là Ất Mùi, Ngọ Mùi hợp thì
Thất Sát không có chế, mộc hỏa đều bị thƣơng, khiến cho mệnh chủ đôi mắt bị mù. Sau vận
hành Tây phƣơng, Ngọ hỏa tử địa, không có lực chế Sát, mệnh chủ cùng ngƣời vợ mù lòa lấy
nghề xoa bóp để mƣu sinh, sinh hoạt 10 phần là bần khốn, không có con.
Nam mệnh 5: Nhâm Ngọ/ Ất Tị/ Canh Tuất/ Tân Tị. Thời Sát đều có căn ở trụ năm, tháng,
ngày, chỗ mệnh chủ gọi là "Tân khổ lao dịch chi nhân" ( ngƣời lao động vất vả) ƣ? Không
phải vậy. Mệnh chủ là cây Dƣơng thụ của xóm làng, sau khi tốt nghiệp trƣờng quân đội của
Hoàng gia, đã thông qua nhiều lần đảm nhận chức vụ quan trọng trong quân giới, sau đó đảm
nhận chức Tổng trƣởng Hải quân, Chủ tịch chính phủ Tỉnh Phúc kiến. Tại sao mệnh Thời Sát
đa căn cũng có thể đại quý nhƣ vậy chứ? Bởi vì can có Nhâm chế, chi có Tuất hóa, chỉ cần
Thất Sát có chế hóa, thì Sát càng nặng mà thành cách càng cao, quý khí càng lớn.

Từ 5 ví dụ ở trên cho thấy, Thời Sát không luận căn nhiều hay ít, đều cần phải có chế phục,
mới có thể thành cách. Có chế không sợ Sát nặng căn nhiều, vẫn phú quý xuất chúng. Chỉ sợ
Thất Sát không có chế, không có luận thân cƣờng hay thân nhƣợc, đều thuộc mệnh phá cách.
Do đó, 《 Tam Mệnh thông hội • Thời thượng nhất vị quý 》nói: "Thời phùng thất sát
479 | Tam mệnh thông hội

bản vô nhi, thử lý nhân gian tử tế suy, tuế nguyệt thời trung như hữu chế, định tri hữu tử quý
nhi kỳ" ( Giờ gặp Thất Sát vốn không nhỏ, lý này ngƣời đời cần cân nhắc mà suy, trong năm
tháng giờ có chế, mà còn xác định là có con quý). Thử nghĩ, Thất Sát vốn là đại biểu con cái,
tại sao nói "Thời thượng thất sát bản vô nhi" chứ? Tại sao lại nói "Tuế nguyệt thời trung như
hữu chế", thì tất nhiên sẽ sinh quý tử chứ? Đạo lý là rất rõ ràng, thì là không có luận thân
cƣờng hay thân nhƣợc, Thời Sát đều là cần có chế, không có chế thì phá cách, cũng không có
con cái, có chế thì thành cách, nên sinh quý tử. Tất nhiên, không thể đem Thất Sát chế thái
quá, nếu không có con cũng không quý vậy.
 24-10-13, 23:57
lesoi
Chính văn:
Bát nguyệt Quan tinh,
Đại kị Mão Đinh,
Đinh Mão khắc phá,
Hữu tình vô tình.

Đại lục bình chú:


Lý này lấy Giáp mộc sinh ở tháng Dậu làm ví dụ, thuyết minh cách Chính Quan, gặp xung
khắc thì phá cách. Gọi là "Dụng chi chính quan bất khả thương" đƣợc. Dậu kim Quan tinh
một là sợ Mão xung, hai là sợ Đinh hỏa Thƣơng quan khắc, Quan cách vốn là có tình quý
cách, nếu gặp xung khắc thì biến thành vô tình mà phá cách vậy. 《 Uyên Hải Tử Bình •
Chính Quan thi quyết 》nói: "Chính khí quan tinh nguyệt thượng suy, vô xung vô phá tối vi
kỳ, trung niên tuế vận lai tương trợ, tương tương công hầu tổng khả vi" ( Suy từ can tháng
chính khí Quan tinh, không xung không phá đứng đầu hiếm có, trung niên Tuế Vận đến
tƣơng trợ, có thể đứng đầu bậc Công Hầu). Ý tức là nguyệt lệnh Quan tinh không phá mà
thành cách, thì thành quý mệnh, phá thì không quý vậy.
Lý này vấn đề là có chi tiết, cho dù Dậu kim Quan tinh ở địa chi, Đinh hỏa Thƣơng quan ở
thiên can, thì cần xem đƣờng sinh khắc bình thƣờng, thiên can là Đinh hỏa Thƣơng không tới
địa chi Dậu kim, trừ phi là Đinh Dậu loại tổ hợp cùng trụ. Nhƣng mà đã từng có ở sách cổ, cổ
nhân nói Đinh hỏa, không nhất định đều là chỉ có thiên can, rất nhiều lúc cũng bao quát cả ở
địa chi. Ví nhƣ địa chi có Ngọ hỏa, tuy nhiên thiên can không thấu Đinh hỏa, nhƣng mà trong
Ngọ có Đinh hỏa cũng có thể lấy thƣơng khắc Dậu kim Quan tinh vậy. Thậm chí nhƣ Tuất
thổ, gặp Đinh hỏa cũng có thể thông qua Tuất hại Dậu mà thƣơng khắc Dậu kim Quan tinh.
Tất nhiên, nếu nhƣ địa chi không có Thƣơng quan khắc Quan, cũng không phải Đinh Dậu
loại tổ hợp cùng trụ, nhƣ vậy, Đinh hỏa không thể trực tiếp thƣơng khắc địa chi Dậu kim
đƣợc, nói cách khác chỉ cần đƣờng sinh khắc có ngăn trở, hoặc có chữ giải cứu Dậu kim,
Đinh hỏa liền không thể Thƣơng hại Quan mà phá cách.

Một nam mệnh: Quý Mão/ Tân Dậu/ Giáp Tý/ Kỷ Tị. Mão xung Dậu, nhƣng đƣợc Tị Dậu
hợp mà giải xung, Quan Ấn cách không bị phá. Mệnh chủ sau khi tốt nghiệp đại học thì nhậm
chức ở phòng làm việc quản lý thành phố của chính phủ. Vận Đinh Tị dù có thấu xuất Đinh
hỏa Thƣơng quan, nhƣng có Quý thủy hộ Quan, đƣờng quan lộ mệnh chủ bình thản, không
trải qua nguy hiểm, 41 tuổi năm Giáp Thân thăng quan cấp chính xứ.
Một nữ mệnh: Giáp Thìn/ Quý Dậu/ Giáp Tuất/ Đinh Mão. Tháng 8 Quan tinh, đều thấy
Mão Đinh, có đúng hay không liền phá cách chứ? Không có. Bởi vì Mão Tuất hợp, giải cứu
Mão Dậu xung cùng Dậu Tuất hại. Đinh hỏa ở can giờ không thể trực tiếp khắc Dậu kim.
Cho nên, mệnh chủ sau khi tốt nghiệp trung chuyên liền công tác ở Xí nghiệp quốc doanh,
vận Ngọ năm Bính Tý từ Xí nghiệp quốc doanh điều chuyển về phòng ban chính phủ. 34 tuổi
gặp năm Mậu Dần, Dần Ngọ Tuất tam hợp Thƣơng quan cục khắc Quan, Mậu Quý hợp mà
480 | Tam mệnh thông hội

tổn hại Ấn, phá mất Quan Ấn cách, mệnh chủ bị xung đột với thủ trƣởng mà từ chức, lại còn
tách sống riêng với chồng, sau đó ly dị.
Mệnh Hoàng Dĩ Lâm: Đinh Tị/ Kỷ Dậu/ Giáp Tý/ Mậu Thìn. Mặc dù năm thấu Đinh hỏa
Thƣơng quan, chỉ vì Đinh hỏa sinh Kỷ thổ chuyển thành sinh Dậu kim, liền không khắc Quan
tinh, cách thành Quan Ấn tƣơng sinh. Cho nên địa vị mệnh chủ là Vũ Xƣơng Tri phủ.
Mệnh Lưu Tư Vấn: Kỷ Mão/ Bính Tý/ Bính Ngọ/ Canh Dần. Nguyệt lệnh Chính Quan, may
mắn có Dần Ngọ hợp mà không xung Tý, can năm Thƣơng quan không thể trực tiếp khắc phá
nguyệt lệnh Quan tinh, thành Quan Ấn cách. Tây phƣơng vận Tài vƣợng sinh Quan, về sau
mệnh chủ đƣợc Tiến sĩ, một đƣờng Quan vận hanh thông, nhiều năm nhậm chức Ngự sử bên
phải thủ đô Nam Kinh. Canh vận năm Quý Mùi lúc 64 tuổi thăng quan Hộ Bộ Thƣợng thƣ.

Có thể thấy rằng, tháng 8 Quan tinh, tuy kị Mão Đinh, nếu có cứu ứng, quý cách không tổn
hại. Còn có, cho dù là bát tự phá mất Quan cách, chỉ cần có thể cấu thành khử Quan hội tụ
Thực cách, cũng vẫn còn hữu tình, chỉ là phú mà không quý thôi. Chỉ có loại khử Quan Ấn
mà không hết, mà bát tự Quan Ấn cách lại không thể thành lập, mới là cách đúng vô tình.
 24-10-13, 23:58
lesoi
Nam mệnh 1: Bính Tuất/ Ất Mùi/ Mậu Thân/ Canh Thân. Vốn là Quan Ấn cách, chỉ vì Mùi
Tuất hình, Ất Canh hợp, phá mất Quan Ấn cách, tốt ở đại vận Tây Bắc, Ấn tinh vô khí mà
không thể khởi dụng, cách thành khử Quan tựu Thực. Cho nên mệnh chủ ở trong vận Canh
Tý, Tân Sửu tạo ra đƣợc cơ nghiệp, đại phát vài trăm vạn, giàu có một phƣơng.

Nam mệnh 2: Giáp Thìn/ Mậu Thìn/ Quý Mão/ Quý Hợi. Quan không có Ấn hóa, lại có
Thƣơng khắc, là khí Quan tựu Thực cách. Vận Canh Ngọ, Tân Mùi, Ấn tinh chế Thƣơng hóa
Quan, cách biến thành Quan Ấn tƣơng sinh. Mệnh chủ sau khi tốt nghiệp cao trung làm việc
tại Công ti Y Dƣợc ở huyện, không có chỗ biểu hiện. Vào vận Nhâm Thân, Thƣơng quan khử
Quan, mệnh chủ từ chức tự mở ra hiệu thuốc, đến 10 năm, mỗi năm thu nhập hơn 10 vạn.

Nam mệnh 3: Tân Mùi/ Canh Tý/ Bính Tuất/ Giáp Ngọ. Nguyệt lệnh Quan tinh, Ấn tinh cao
thấu ở can giờ, không thể trực tiếp hóa Quan sinh thân, Quan Ấn cách không thành lập. Mùi
thổ Thƣơng quan khắc khử Tý Quan, cấu thành khử Quan tựu Thực. Mệnh chủ học đƣợc y
thuật tổ truyền, tự mở phòng thuốc, hành nghề y cứu thế, về sau Nam phƣơng Thực Thƣơng
vƣợng địa, trở thành danh y một phƣơng, đông khách nhƣ chợ, mỗi ngày nhận điều trị không
hết việc.

Nam mệnh 4: Quý Mão/ Giáp Tý/ Bính Tuất/ Kỷ Sửu. Năm tháng có Quan Ấn tƣơng sinh,
tiếc là Tý Sửu hợp, Giáp Kỷ hợp, Quan Ấn đều tổn hại, phá mất Quan Ấn cách. Lại do đại
vận nghịch hành Tây phƣơng kim địa, Quan đƣợc Tài sinh, khử Quan không hết, cách không
thành, cho nên mệnh chủ học nghiệp không thành, là lão nông nghèo khổ, trung niên có tang
vợ, về già thì cô đơn.

Và một nữ mệnh: Quý Mão/ Giáp Tý/ Bính Tuất/ Giáp Ngọ. Cũng gần giống với mệnh nam
ở trên, chỉ khác trụ giờ, không có Thƣơng quan hợp phá Quan Ấn, thành lập Quan Ấn cách.
Tuy nhiên đại vận Đông Nam, Quan tinh không vƣợng, nhƣng mệnh chủ cũng có thể có địa
vị là Sở trƣởng Tòa Án một Huyện.

(Hết)
481 | Tam mệnh thông hội

 thiếu bá
Ngũ ngôn độc bộ bình chú
Hữu bệnh phƣơng vi quý,
vô thƣơng bất thị kỳ,
cách trung nhƣ khử bệnh,
Tài Lộc lƣỡng tƣơng tùy.

Dần Mão đa kim Sửu,


bần phú cao đê tẩu,
Nam địa phạ phùng Thân,
Bắc phƣơng hƣu kiến Dậu.

Kiến Lộc sinh đề nguyệt,


Tài Quan hỷ thấu thiên,
bất nghi thân tái vƣợng,
duy hỷ mậu tài nguyên.

Thổ hậu đa phùng hỏa,


quy kim vƣợng ngộ thu,
đông thiên thủy mộc phiếm,
danh lợi tổng hƣ phù.

Giáp Ất sinh cƣ Mão,


kim đa phản cát tƣờng,
bất nghi trọng kiến Sát,
hỏa địa đắc y lƣơng.

Hỏa kỵ tây phƣơng Dậu,


kim trầm phạ thủy hƣơng,
mộc thần hƣu kiến Ngọ,
thủy đáo cung Mão thƣơng.

Thổ túc hƣu hành Hợi,


Lâm Quan tại cung Tị,
Nam phƣơng căn hữu vƣợng,
Tây bắc mạc tƣơng phùng.

Âm nhật triều dƣơng cách,


vô căn nguyệt kiến Thìn,
Tây phƣơng hoàn hữu quý,
duy phạ hỏa lai xâm.

Ất mộc sinh cƣ Dậu,


mạc phùng toàn Tỵ Sửu,
phú quý Khảm Ly cung,
bần cùng Khôn đoài thủ.

Hữu Sát chỉ luận Sát,


vô Sát phƣơng luận dụng,
chỉ yếu khử Sát tinh,
482 | Tam mệnh thông hội

bất phạ đề cƣơng trọng.

Giáp Ất nhƣợc phùng Thân,


Sát Ấn ám tƣơng sinh,
mộc vƣợng kim phùng vƣợng,
quan bào tất quải Thân.

Bính hỏa phạ trọng phùng,


Bắc phƣơng phản hữu công,
tuy nhiên nghi kiến thủy,
do khủng đối đề xung.

Bát nguyệt Quan tinh vƣợng,


Giáp phùng thu khí thâm,
Tài Quan kiêm hữu trợ,
danh lợi tự nhiên hanh.

Khúc trực sinh xuân nguyệt,


Canh Tân can thƣợng phùng,
nam ly suy phú quý,
Khảm địa khƣớc do hung.

Giáp Ất sinh tam nguyệt,


Canh Tân Tuất Mùi tồn,
Sửu cung Nhâm Quý vị,
hà lự kiến vô căn.

Mộc mậu nghi kim hỏa,


Thân Suy quỷ tác quan,
thời phân tây dữ bắc,
khinh trọng biện Đông nam.

Thời thƣợng bào thai cách,


nguyệt phùng Ấn thụ thông,
Sát Quan hành vận trợ,
chức vị chí tam công.

Nhị Tí bất xung Ngọ,


nhị Dần bất xung Thân,
nhị Ngọ bất xung Tí,
nhị Thân bất xung Dần.

Đắc nhất phân tam cách,


Tài Quan Ấn thụ toàn,
vận trung phùng khắc phá,
nhất mệnh tang hoàng tuyền.

Tiến khí tử bất tử,


thối khí sinh bất sinh,
chung niên vô phát vƣợng,
483 | Tam mệnh thông hội

do kỵ thiếu niên hình.

Thời thƣợng Thiên Tài cách,


Can đầu kỵ Tỉ Kiên,
nguyệt sinh phùng chủ vƣợng,
quý khí phúc trọng thiêm.

Thời thƣợng nhất vị Quý,


tàng tại chi trung thị,
nhật chủ yếu cƣơng cƣờng,
danh lợi phƣơng hữu khí.

Vận hành thập tái số,


thƣợng hạ ngũ niên phân,
tiên khán lƣu niên tuế,
thâm tri vãng lai tuần.
 20-08-12, 10:50
tuhynhan
Trên trang blog của mình, Hoàng Đại Lục đang bình chú bài phú nổi tiếng này. Hiện nay (lúc
gửi post này) thì ông Hoàng đang viết phần đầu, đã bình chú đƣợc vài đoạn trong bài.

Ngũ ngôn độc bộ bình chú (http://blog.sina.com.cn/s/blog_4d4f37290102e8ad.html )

Kimtubinh.net sẽ chuyển ngữ phục vụ bạn đọc quan tâm.


 21-08-12, 17:31
tuhynhan
Ngũ Ngôn Độc Bộ bình chú

Tác giả: Hoàng Đại Lục

Hoàng Đại Lục bình chú:

Ở nƣớc ta, từ xƣa đến nay lƣu truyền nhiều phƣơng pháp đoán mệnh, trong đó thịnh hành
nhất là thuật Tử Bình. Tử Bình sở dĩ ngàn năm không bị thay thế bởi vì thứ nhất là nó có hệ
thống phƣơng pháp luận hoàn chỉnh, độ ứng nghiệm rất cao; hai là vì ngƣời nghiên cứu rất
đông đảo cung cấp nhiều phú văn mệnh lý để tham khảo, ví dự nhƣ: Kế Thiện Thiên, Hỷ Kị
Thiên, Định cách cục quyết, Lục Thần thiên, Kính Vị Luận (1), Kim Bất Hoán cốt tủy ca, Tử
Bình toát yếu ca, Tứ Ngôn Độc Bộ, Ngũ Ngôn Độc Bộ (2), v.v..., những phú văn này phụ trợ
rất tốt cho giáo trình của ngƣời học Tử bình.

Trong nhiều mệnh lý phú văn, Ngũ Ngôn Độc Bộ (tác giả khuyết danh) có thể nói nổi bật
nhất, khí thái mạch văn nhƣ thác đổ còn phƣơng thức trình tự nhƣ mở đƣờng dẫn lối, trong đó
trình bày mệnh lý Tử bình với tính chất tinh, thô đều có, vừa đơn giản dễ hiểu vừa tóm tắt
khái quát, vừa hợp giới thanh tao trí thức vừa dễ hiểu với tầng lớp thông thƣờng khác, cho
nên ảnh hƣởng rất lớn đối với giới Tử Bình.

Song, ngƣời đọc vẫn mờ mịt, ngƣời thực sự đọc mà hiểu rõ thì rất ít, ngƣợc lại, phần lớn
484 | Tam mệnh thông hội

ngƣời yêu thích Tử bình đều mất phƣơng hƣớng y nhƣ đọc các tác phẩm mệnh lý lầm lạc của
Nhậm Thiết Tiều, Dƣ Xuân Đài, Từ Nhạc Ngô. Hai mƣơi năm trƣớc, ngƣời viết từng đƣợc
dạy sai lầm to lớn về cái gọi là "Cân bằng dụng thần" và "Điều hậu dụng thần", làm mất 10
năm lòng vòng, lẩn quẩn về lý luận này. Sau khi trải qua vô số khó khăn và thất vọng mới
hoàn toàn tỉnh ngộ, từ từ quay về chính đạo Tử Bình, mà Ngũ Ngôn Độc Bộ chính là yếu tố
có tác dụng rất lớn làm tỉnh ngộ. Để hậu học không mê đƣờng lạc lối nhƣ trên, ngƣời viết
đem những chú giải của mình về Ngũ Ngôn Độc Bộ ra công bố, tin hay không, xin hai chữ
tùy duyên.

Chính văn:

Hữu bệnh phương vi quý


vô thương bất thị kỳ
cách trung nhược khử bệnh
tài lộc hỷ tương tùy.

(có bệnh mới quý,


không bị tổn thương thì không có gì đặc sắc,
trong cách cục mà khử được bệnh,
tiền của, bổng lộc và may mắn luôn bên mình)

Đại Lục bình chú:

Đoạn phú này mở đầu không rào trƣớc đón sau, nêu rõ vấn đề cốt lõi, đánh thẳng vào vấn đề
quan trọng nhất, trọng yếu nhất của mệnh lý, trực tiếp đƣa ra lời giải đáp đối với hai vấn đề to
lớn là làm thế nào để xem phú quý bần tiện và suy đoán cát hung họa phúc, đồng thời đƣa ra
quan điểm luận mệnh phần lớn ngƣợc với thƣờng lý, xƣa nay chƣa hề biết tới "Hữu bệnh
phƣơng vi quý, vô thƣơng bất thị kỳ".

Phần đông học giả mệnh lý đều tin rằng ngũ hành Bát tự quý tại cân bằng và lƣu thông, tựa
nhƣ lý thuyết khoa Trung Y: "thất hành tắc bệnh, bất thông tắc thống, hữu bệnh hữu thống tự
nhiên tựu bất hảo" (mất cân bằng thì bệnh, không lƣu thông thì đau, có bệnh, đau đớn đƣơng
nhiên không tốt). Thực ra, lời này là có phần thiên vị, bởi vì cân bằng và mất cân bằng là một
cặp mâu thuẫn, cũng là quan hệ tƣơng hỗ một âm một dƣơng, tầm quan trọng nhƣ nhau, tại
sao ta chỉ nhấn mạnh tính cân bằng? Ta thƣờng nói "ăn ngon do tiệm, hay ho do trí tuệ", "thất
bại là mẹ thành công", " muốn cơ thể trẻ nhỏ ổn định, thƣờng thƣờng phải cho nó chịu ba
phần đói và lạnh", đây không phải đang nói đến điểm tốt của thuyết mất cân bằng hay sao?
Không té ngã sao biết đi, không xuống nƣớc sao biết bơi, không nhiễm vi khuẩn sao hình
thành miễn dịch, "văn chƣơng thƣờng ghen số mệnh hanh thông” (3), có uất giận mới xuất
hồn thơ, trong xấu ắt hẳn có điểm tốt. Cân bằng là trang thái tĩnh, mất cân bằng là trạng thái
động, nƣớc yên thì không chảy, vật bằng phẳng thì bất động thôi mà.

Sinh mệnh một khi đã sinh ra thì luôn luôn trong trạng thái động, chƣa từng vƣợt quá trạng
thái cân bằng thực sự. Bên trong cơ thể tồn tại tính mất cân bằng bẩm sinh, mà chính sự mất
cân bằng này mới là yếu tố then chốt quyết định cá tính khác nhau. Có ngƣời cá tính mạnh
mẽ, có ngƣời nhu nhƣợc, có ngƣời nhanh nhẹn, có ngƣời chậm chạp, có ngƣời bƣớng, có
ngƣời hiền, có ngƣời giỏi biểu đạt bằng lời nói, có ngƣời thạo ngôn ngữ tứ chi, có ngƣời tinh
485 | Tam mệnh thông hội

thông lý số, có ngƣời sở trƣờng tƣởng tƣợng, có ngƣời sở hữu nhiều nhạc cụ, có ngƣời yêu
thích sự vật thần bí, Thành Long không thích đọc sách, Dƣơng Lan (4) không thích đánh
đấm, Lâm Chí Linh (5) không chơi cử tạ, Dƣơng Lệ Bình (6) không nấu ăn, Lý Bạch không
rƣợu không thành thơ, Cổ Long (7) không sắc khó động bút, v.v..., nếu những ngƣời này tất
cả đều cân bằng, khiến Lý Bạch không uống rƣợu, Lý Quỳ tận lực theo nghiệp học hành,
Thành Long tài giỏi nhƣ Trần Cảnh Nhuận (8), Dƣơng Lan có khả năng đóng phim võ thuật,
trình diễn tạp kỹ nhƣ Lý Liên Kiệt, vậy những ngƣời này sẽ không thích những thứ vốn dĩ
năng khiếu của họ, và sẽ không có thành tựu dựa trên năng khiếu đó, rất có thể ngay cả sức
khỏe hay cơ thể của họ cũng không đƣợc nhƣ vốn dĩ phải có. Chỉ có sự mất cân bằng của yếu
tố cơ thể mới đƣa đến sự khác biệt về thể chất, tính cách, sở thích, năng lực ghi nhớ, sức
tƣởng tƣợng, khả năng tính toán và lý luận, v.v... Có khác biệt của các mặt vừa kể cuối cùng
mới dẫn đến sự khác biệt thành tựu trong sự nghiệp. Ngƣời đạt thành tựu lớn, không một ai
không đem tinh lực sở hữu dồn vào một hai yếu tố đang mất cân bằng nghiêm trọng nào đó.

Bởi vậy, mệnh cách Bát tự phải có bệnh có thƣơng tích mới tốt, vô bệnh vô thƣơng dĩ nhiên
cân bằng, nhƣng lại thành tầm thƣờng. Phải rực rỡ mới gọi là lạ, không chỉ phải có bệnh
thƣơng tích, mà còn cần lâm trọng bệnh, bị trọng thƣơng! Cùng bác sĩ nhƣ nhau, ngƣời trị hết
đau đầu không cho là giỏi, còn ngƣời trị khỏi bệnh hiểm nghèo, khởi tử hồi sinh mới là danh
y quốc gia. Cùng ra tay nhƣ nhau, nhƣng đánh bại mầm bệnh tựa nhƣ Củng Hán Lâm (9)
không cho là hảo hán, đả bại thú dữ nhƣ Thái Sâm mới là anh hùng. Vàng thử lửa, gian nan
thử sức, nƣớc loạn mới biết tôi trung, thiên hạ đại loạn mới sinh anh hùng.

Đƣơng nhiên, có bệnh phải có chế, vô chế thì phá cách, phá cách không nghèo cũng yểu. Cho
nên viết: "Cách trung nhƣợc khử bệnh, tài lộc hỷ tƣơng tùy." Chú ý! chữ "cách" này hết sức
quan trọng, ngàn vạn lần không thể mơ hồ bỏ qua. "Cách" này là chỉ cách cục cấu thành
nguyệt lệnh dụng thần, chữ "bệnh" là chỉ bệnh của cách cục, không phải bệnh bát tự hay nhật
nguyên. Rất nhiều mệnh lý học giả đều ít chú ý đến chữ "cách" này, mà sai lầm cho là Nhật
nguyên và Tài Quan cần phải cân bằng, rồi suy diễn mất cân bằng là bệnh, hàn noãn (sƣởi
ấm), táo thấp (hanh khô) cũng cần cân bằng, mất cân bằng cũng là bệnh. Bởi vậy, cả thảy tám
chữ thì họ tìm ra đƣợc một hoặc vài chữ làm cân bằng toàn cục, đem các tên này gọi thành
"Cân bằng dụng thần" và "Điều hậu dụng thần". Nếu thật sự nhƣ vậy, thì Tử Bình Chân
Thuyên đã không viết "Bát tự dụng thần, chuyên cầu nguyệt lệnh", Ngũ Ngôn Độc Bộ cũng
sẽ không nói "Cách trung nhƣợc khử bệnh", mà sẽ nói "Bát tự nhƣợc khử bệnh" hoặc "Ngũ
hành nhƣợc khử bệnh" hoặc "Nhật nguyên nhƣợc khử bệnh". Tác giả sở dĩ nói đến hai chữ
"cách trung" bởi vì ở Tử Bình đều là lấy thành bại cao thấp của cách cục để luận, cho nên
"Uyên Hải Tử Bình - phần Bảo pháp chi nhị" mới nói: "Thông thƣờng xem số Tử Bình, chọn
cách không chắc, mƣời phần sai hết chín.", phú quý bần tiện, cát hung họa phúc, tất cả đều là
"cách trung", không có ngoại lệ. Chỉ có xem chuẩn đƣợc thành bại cao thấp của cách cục mới
có thể định chuẩn xác mức độ phú quý bần tiện, chỉ có tìm đúng "bệnh" của "cách trung" mới
có thể đoán đúng cát hung họa phúc. Mà cái gọi là "bệnh" của "cách trung" là chỉ vấn đề tổ
hợp và thuần tạp của Dụng thần và Tƣớng thần, của Cừu thần và Hỉ thần, v.v... và vấn đề ở
đây không phải là vấn đề cân bằng giữa Nhật nguyên và Tài Quan. Dù cho là Dụng, Tƣớng,
Hỉ, hay Kị thần cũng không cần phải cân bằng, mà chỉ cần bảo vệ trạng thái "bệnh trọng hữu
chế" mới là trạng thái tốt nhất.

Có điều, ý nghĩa chữ "cách" này cũng có vài loại: cách là chỉ ngoại cách, mà có khi cách là
chỉ chính cách, cục chỉ ngoại cách, cách là cách mà cục là cục, cần phân biệt rõ. Nhƣng xem
"Uyên Hải Tử Bình", trong đó chỉ ghi "Nội thập bát cách" và "Ngoại thập bát cách", không
486 | Tam mệnh thông hội

phân tách giữa cách và cục. Ngũ Ngôn Độc Bộ chỉ dùng một chữ "cách" để bao quát hết nội
cách và ngoại cách, cũng không phân nhỏ ra cách và cục. Bởi vậy, chúng ta có thể đem cách
và cục gọi chung là "cách" .

Lý Thiết Bút giải thích:

Bốn câu đầu khai thông nguồn gốc luận mệnh của hệ thống Bát tự mệnh lý học, đó là "bệnh
dƣợc nguyên lý". Thế bệnh là gì, dƣợc là gì? Ta đều biết rằng một bát tự tuyệt đối không hề
có chuyện "trung hòa thực sự" (vô bệnh), hầu hết đều có bệnh: Nhật chủ cường, nhật chủ
nhược, mệnh cục hàn thấp, mệnh cục viêm nhiệt, ...(hữu bệnh), tất cả đều là Bệnh của Bát
tự. Thực ra thì bát tự có bệnh là hiện tƣợng hết sức bình thƣờng, nếu giả sử một bát tự hoàn
toàn cân bằng, không nóng, không lạnh, không cƣờng không nhƣợc thì khi gặp đại vận, lƣu
niên xảy ra việc kết hợp hình xung hại hợp với kết cấu bát tự thì sự mất trung hòa, mất cân
bằng sẽ xảy ra, đƣơng sự lập tức gặp hung hiểm chứ không có gì tốt đẹp. Quá hiển nhiên, một
bát tự cân bằng hoàn toàn thì trong đời tai họa sẽ xảy ra liên miên. Cho nên Ngũ ngôn độc bộ
mới mở đầu bằng câu: "hữu bệnh phương vi quý, vô thương bất thị kỳ."
 21-08-12, 17:36
tuhynhan
Ví dụ:

Nam mệnh 1: Đinh Mão / Quý Mão / Tân Dậu / Canh Dần

Nam mệnh 2: Quý Mão / Ất Mão / Tân Dậu / Kỷ Hợi

Hai mệnh cục khi lấy "cân bằng dụng thần" để luận thì hai ngƣời đều sinh ngày Tân Dậu
trong tháng Mão, mệnh 1 có một Canh kim giúp thân, mệnh 2 thì có một Kỷ thổ sinh thân,
Thân vƣợng Thân nhƣợc hơn kém không bao nhiêu, cho dù là cao thủ luận theo "cân bằng
dụng thần" cũng khó phân cao thấp của hai mệnh. Vậy hai mệnh sẽ có kết quả giống nhau?
Khác nhau to lớn! Mệnh 1 là một nông dân nghèo khó, vãn niên khi đi vận thổ kim thì vợ
mất, tang con, đến nay vẫn còn trong diện "Ngũ bảo hộ" (10). Còn mệnh 2 hoàn toàn trái
ngƣợc, ông ta là đại gia có tài sản lên đến hàng tỷ đồng (NDT), giờ chói lọi nhƣ mặt trời trên
cao vậy. Nguyên nhân ở đâu? Ở cách cục.

- Mệnh nông dân niên can thấu Sát lại có gốc tại chi giờ, muốn khử Quý thủy cũng không
đƣợc, nếu dùng Thực Thƣơng chế Sát để luận thì Quý thủy lại sinh Mão mộc đóng ở bên
dƣới, chuyển thành sinh Đinh hỏa, điều này phá đi cách cục.

- Mệnh đại gia vì không có Quan Sát, là cách cục thuần chính dụng Tài phối Ấn hỷ Tỉ, cho
nên vừa gặp Ấn Tỉ vận tức thì đại phát không ngừng. Đây là hai mệnh luận theo cái gọi là
"cân bằng dụng thần" để giải thích đƣợc rõ ràng ƣ? Có khả năng dùng Thân vƣợng Thân
nhƣợc suy đoán kết quả thật sự đƣợc à? Dám chắc là không thể. Tức có thể thấy đƣợc, đó là
luận mệnh theo cách cục Tử Bình mới là chính đạo.

--

Chú thích:

(1) Kính và Vị là tên hai con sông, sông Kính rất trong, ngƣợc lại sông Vị rất đục, Kính Vị là
487 | Tam mệnh thông hội

ý nói đến "trong đục" tức là ẩn dụ của "thanh trọc", một nguyên lý cơ bản của Tử Bình thuật.

(2) Tên gọi Tứ ngôn độc bộ, Ngũ ngôn độc bộ. “Độc bộ” ngoài ý nghĩa là vƣợt bực còn có
nghĩa là bƣớc thong thả một bƣớc thì đọc lên 4 chữ (tứ ngôn) hoặc 5 chữ (ngũ ngôn). Thực tế
Ngũ ngôn độc bộ mỗi câu là 5 chữ hết sức súc tích, ngắn gọn và tuân thủ quy luật bằng trắc.

(3) Một câu thơ của Lý Bạch, nguyên văn "văn chƣơng tăng mệnh đạt", nghĩa là văn chƣơng
thƣờng ghen ghét số mệnh hanh thông (thơ và số phận nhà thơ thƣờng ngƣợc nhau).

(4) Dƣơng Lan, một ngƣời dẫn chƣơng trình truyền hình xuất sắc, đƣợc mệnh danh là "Oprah
Winfrey của Trung Hoa".

(5) Lâm Chí Linh, siêu mẫu kiêm diễn viên Đài Loan.

(6) Dƣơng Lệ Bình, một trong những nghệ sĩ múa nổi tiếng nhất TQ, từng đóng trong phim
Anh hùng xa điêu, vai Mai Siêu Phong.

(7) Cổ Long, nhà văn Đài Loan viết tiểu thuyết võ hiệp rất nổi tiếng.

(8) Trần Cảnh Nhuận (1933-1996), nhà toán học nổi tiếng TQ, huy chƣơng Chern (Trần)
đƣợc lập ra để vinh danh ông, một giải thƣởng trao cho những nhà toán học có thành tựu
đóng góp cả cuộc đời cho ngành toán.

(9) Củng Hán Lâm, diễn viên kịch nói Trung Quốc nổi tiếng.

(10) Ngũ bảo hộ, là chính sách của nhà nƣớc TQ áp dụng đối với ngƣời già, ngƣời tàn tật, trẻ
vị thành niên,... sống neo đơn, không nơi nƣơng tựa, không có khả năng lao động, không
ngƣời phụng dƣỡng,... ở khu vực nông thôn.
 21-08-12, 18:40
dnts
Cảm ơn lão Đại! hehe, giờ khoái nhất là món thi phú :41:

Phần bình của Hoàng đại ca "Hữu bệnh phương vi quý, vô thương bất thị kỳ, cách trung
nhược khử bệnh, tài lộc hỷ tương tùy" haynhƣng chữ "Cách" nên hiểu rộng hơn, tách biệt
vƣợng nhƣợc ra thì chỉ còn thuận nghịch dụng...

2 ví dụ dƣới của Hoàng đại ca càng khắc họa thêm cho sự phân biệt Cách cục và Vƣợng
nhƣợc, mà không phải là "hữu bệnh phƣơng quý" hay "khử bệnh tài lộc hỷ tƣơng tùy"

Trích dẫn:

Gửi bởi Đăng


Ví dụ:

Nam mệnh 1: Đinh Mão / Quý Mão / Tân Dậu / Canh Dần

Nam mệnh 2: Quý Mão / Ất Mão / Tân Dậu / Kỷ Hợi

Trụ 1 hoàn toàn phá cách, Thực sinh Tài sinh Sát, lại thấu Canh kiếp tài. Bệnh thần có mà
không đƣợc khử.
488 | Tam mệnh thông hội

Trụ 2 thì thành cách, Thực sinh Tài cách phối ấn. Bệnh thần không có!?

Dù sao 2 trụ này đều là thân nhƣợc, phát mạnh bền thì cũng phải đợi đến vận Tây phƣơng, tứ
trụ 2 vận Canh tuất - Kỷ dậu - mậu thân quả là nhƣ "Rồng gặp nƣớc"...:4:
 21-08-12, 22:39
kimcuong
Bác Hoàng Đại Lục này khéo làm cho mọi ngƣời lại mong tìm "bệnh" của tứ trụ để trở thành
cao quý! :)

Không phải thuyết "cân bằng tứ trụ" là dở, mà do ngƣời hiểu không thấu. Bởi vì lúc nào cũng
phải có cầu thăng bằng các lực của tứ trụ; ý cuối cùng là nếu tứ trụ có "bệnh", gọi là bị "phá
cách", mà đƣợc chữa trị kịp thời thì tất là tứ trụ thăng bằng trở lại.

Xƣa nay chúng ta hiểu lầm thăng bằng tứ trụ là chia ngũ hành ra nhƣ cái bánh có 5 phần bằng
nhau. Không phải thế. Dƣới nhiều dạng biến hóa của ngũ hành, ngoại trừ số lƣợng nhìn có
thể đếm đƣợc nhƣ 1 Nhâm, 2 Canh, 1 Dần ..v.v.... còn phải biết mùa sinh, cách cục, đấy là
chất lƣợng, không hề có tứ trụ nào cân bằng cả. Tùy vào việc mất thăng bằng nhƣ thế nào mà
tìm xem có cách gì làm cho tứ trụ trở lại cân thế nhau. Một là có ngay trong tám chữ của tứ
trụ, hai là ở đại vận, ba là ở nơi sinh sống (phong thủy).

Vậy thì không nhất thiết muốn "cao quí" thì tứ trụ phải có bệnh! Đừng hiểu lầm. Thì thật tế
có những tài danh nổi trội mà ta biết đƣợc, không phải là họ có bệnh không có thuốc mà làm
nên việc. Quả thật, hiểu nôm na sự đời ta cũng thấy, ngƣời bịnh không uống thuốc làm sao
mà khỏi bịnh? Cho dù có tố chất là nhà thơ, cảm mạo đơn giản thì còn làm thơ đƣợc, nhƣng
bịnh tật triền miên, làm sao sáng tác đƣợc thơ?

Theo tôi, "cân bằng tứ trụ" và "điều hậu tứ trụ" có nguyên lý của chúng để giúp ta hiểu đƣợc
tứ trụ, miễn là ta không hiểu lầm phƣơng pháp của chúng. Có thể dùng phƣơng pháp này hay
phƣơng pháp khác, chỉ là cách trình bày vấn đề. Không phải lúc nào cũng viết ra đủ các
phƣơng pháp về 1 vấn đề là tốt nhất. Thí dụ, sau khi xét tứ trụ, có thể thấy nói về
"vƣợng/nhƣợc" là đủ, thì ta nói về Vƣợng hay Nhƣợc; nếu thấy phải nói rõ về Cách Cục thì ta
nói nhiều về điểm này, hoặc có khi gặp tứ trụ chỉ cần nói tới "điều hậu" là rõ ràng rồi, ngƣời
phân tích có thể không cần dài dòng sang lối trình bày nào khác.

Mạch văn của các mệnh lý gia (giỏi) nếu ta đọc hoài thì sẽ quen lối trình bày của họ là vì thế.
Lúc đầu sẽ tƣởng họ chỉ dùng 1 lý luận, nhƣng thực tế họ đã kinh qua nhiều pháp và quen
dùng cách của họ mà thôi. Theo tôi thì rất nên thoáng ở suy nghĩ này mà thực tế không làm
cho chính ta bị động, vì lại hoang mang chẳng biết phƣơng pháp nào hay, phƣơng pháp nào
dở.

2 thí dụ trên đều là Tài cách, đấy là cơ bản. Cả 2 đều sinh tiết Kinh Trập. Cả 2 đều là Tân
Dậu. Nhƣng Tài cách của 2 ngƣời khác nhau, và cả 2 đều có bịnh nhƣ nhau. Chính là ngũ
hành của Tài (mộc) đều quá trọng (mùa sinh là mộc vƣợng, lại thêm Mão quá nhiều).

Điều hậu: không cần xét đến, vì không phải sinh tháng hè hoặc tháng đông

Vượng/Nhược: Cả hai đều là Tân tuyệt ở Mão. 1 ngƣời có Ấn lộ, 1 ngƣời có Kiếp lộ. Xem
chừng nhƣ đã giải thành "thân không quá nhƣợc"? Nhƣng Kiếp lộ mà lại hủy Ấn (Canh Dần);
Ấn lộ mà chẳng có gốc (Kỉ Hợi). Vậy nhƣợc vẫn hoàn nhƣợc.
489 | Tam mệnh thông hội

Cân bằng: Mộc vƣợng thì thƣờng là đắc Kim, tức là cần có chế ngự để không bị trì trệ quá
mức. Tài nhiều thân nhƣợc là tiền đề của cả 2 tứ trụ này. Thế thì xét Kim ra sao? Kim tức là
nhật chủ; nhật chủ đã luận nhƣợc thì cán cân lực lƣợng giữa Mộc và Kim không có. Phải có
cứu ứng làm cho 2 thế lực này ngang nhau trở lại, không có trong trụ thì tìm ở đại vận. Cả hai
tuy cùng là âm nam nên cùng hƣớng đi của vận: Thủy (sau Dần, là đến Sửu, Tí, Hợi) sang
Kim (Tuất, Dậu, Thân). Nhƣng thiên can khác nhau! Nhƣ vận Hợi, 1 ngƣời là Tân Hợi, ngƣòi
kia là Kỉ Hợi. Xét can chi xung khắc thì rõ có cân bằng hay không.

Cách cục: Đều là Tài cách. Tài thích sinh Quan Sát, nhƣng ngƣời thì khuyết hẳn Quan Sát,
ngƣời thì có Sát lại thấu Thƣơng khử mất (Quí khắc Đinh). Tài không sinh Sát thì khắc Ấn;
Ấn không lộ thì không khắc (nam mệnh 2), lại có Kiếp lộ, khả dĩ ngang hòa hơn nam mệnh 1.
Ngƣời nghèo hèn hơn thì cách cục bị phá, chờ đến đại vận Kim thì lại gặp Hỏa thiên can quá
vƣợng (Bính thân, Đinh dậu)! Trong khi ngƣời giầu có hơn đƣợc vận Kỉ Dậu, Mậu Thân, rõ
ràng là có khác nhau.

So sánh 2 tứ trụ ở nhiều khía cạnh nhƣ thế, ai muốn xét phƣơng diện nào thì trình bày về
phƣơng diện đó, miễn là không cần đả phá 1 phƣơng pháp nào cả, thậm chí cho thấy tóm
đƣợc tất cả các pháp quy về 1 mối mới chính là diệu pháp.
 22-08-12, 09:28
tuhynhan
Lại như mệnh Tạ Đông Mẫn(11) :

Bính Ngọ / Tân Sửu / Giáp Thân / Bính Dần

Nhật nguyên chỉ có một Dần mộc ở chi giờ, tứ trụ đầy Sát, Thƣơng, nên thân suy nhƣợc
không phải nghi ngờ. Phải hành vận nào mới tốt đây? Thuở thiếu niên, hành vận Đông
phƣơng giúp thân ắt hẳn hảo vận chứ nhỉ? Thế nhƣng, mệnh chủ thuở đó do cha làm ăn thất
bại, theo nghiệp sáng tác để mƣu sinh, về sau tuy thi đậu vào Đại học Đông Ngô, sau khi tốt
nghiệp ở lại trƣờng giảng dạy nhƣng sự nghiệp bình thƣờng không có gì đặc sắc. Sau 60 tuổi,
khi hành vận Mậu Thân Kỷ Dậu, là đất tử tuyệt của nhật nguyên, gặp thêm cả Tài Sát nữa,
chẳng phải là vận nát nhƣ cháo sao? Thế nhƣng, mệnh chủ ngay trong hai đại vận này thăng
quan nhậm chức Chủ tịch tỉnh Đài Loan, Phó Tổng thống trong Chính phủ Đài Loan.

Còn như một nam mệnh khác:

Tân Sửu / Tân Sửu / Giáp Dần / Ất Hợi

Niên nguyệt là Quan tinh, thời là Kiếp Ấn, mà Nhật nguyên vẫn tọa Lộc, ắt phải thuộc loại
bát tự tốt Thân Sát lƣỡng đình, ít nhất so với mệnh Tạ Đông Mẫn thì điều kiện thân vƣợng
Quan vƣợng càng phù hợp hơn. Song, Mệnh chủ học hành thất bại, sự nghiệp không thành
công, vài lần ở tù, vận Mậu Tuất năm Canh Ngọ bị phán xử hình phạt tử hình hoãn thi hành
án trong hai năm. Vận Đinh Dậu, năm Ất Hợi bị thƣơng nặng trong trại giam, thiếu chút nữa
chết trong tù. Thử nghĩ, hai mệnh này có thể sử dụng "cân bằng dụng thần" để luận giải đƣợc
không? Dám chắc không thể. Chỉ có thể dùng cách cục Tử Bình mới có thể giải thích đƣợc.

- Mệnh Tạ Đông Mẫn dù Quan sát khá mạnh, Nhật nguyên gốc yếu, nhƣng có Thực Thƣơng
chế Sát, tức cấu thành một cách tốt là Sát yêu Thực chế (Sát mời Thực chế). Xem mệnh cục,
Quan sát mặc dù đƣơng lệnh, nhƣng Dần Ngọ hợp hỏa còn có lƣỡng Bính thấu can, lực cũng
không nhỏ, cơ bản là Sát Thực cân bằng. Cho nên thời thiếu, trung niên hành vận mộc hỏa
490 | Tam mệnh thông hội

chỉ gặp sự tốt đẹp nhỏ nhoi mà không có may mắn lớn. Lúc tuổi già hành vận thổ kim, lực
Quan Sát tăng vọt, lực Thực Thƣơng giảm mạnh, gốc Nhật nguyên hoàn toàn không có, bệnh
của cách cục tăng thêm, nhƣng chỉ cần một ít Thực Thƣơng không tệ là có khả năng kiềm chế
Quan Sát cƣờng đại, đó là kỳ tích của lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh; từ đó khiến
Mệnh chủ đạt tới tột đỉnh sự nghiệp.

- Tứ trụ Tân Sửu dù Thân Sát lƣỡng đình, nhƣng Dần Hợi hợp, Ấn lại không thấu can, không
thể cấu thành cách cục Sát Ấn tƣơng sinh, thuộc bát tự phá cách. Lại hành vận Tài Sát vƣợng
địa, Quan Sát sẽ công thân, cho nên vi phạm pháp luật dính tù tội triền miên, sống không
bằng chết.

--
Chú thích:

(11) Tạ Đông Mẫn, đây là cựu Phó tổng thống của Đài Loan, đừng nhầm với diễn viên Hồng
Kông Tạ Đông Mẫn đóng trong phim Bằng Chứng Thép.
 22-08-12, 12:35
kimcuong
Cám ơn Đăng rất nhiều, chúng ta lại có dịp kiểm nghiệm và học hỏi thêm qua suy luận.

Trích dẫn:

Còn như một nam mệnh khác:


Tân Sửu / Tân Sửu / Giáp Dần / Ất Hợi
Song, Mệnh chủ học hành thất bại, sự nghiệp không thành công, vài lần ở tù, vận Mậu Tuất
năm Canh Thân bị phán xử hình phạt tử hình hoãn thi hành án trong hai năm. Vận Đinh
Dậu, năm Ất Hợi bị thƣơng nặng trong trại giam, thiếu chút nữa chết trong tù.

Câu in đậm trong [quote] có thể nhầm, vận Mậu Tuất chỉ có năm Canh Ngọ (nếu sinh
16.1.1962) và hợp với chi tiết "vận đinh dậu, năm ất hợi". Nếu lùi lại 60 năm (sinh
31.1.1902) thì có vận Mậu Tuất, đầu vận Canh Ngọ, cuối vận Canh Thìn.

Bạn nào sử dụng biểu đồ ngũ hành sẽ thấy chiều lên xuống của ngũ hành rõ hơn, qua đó có
thể nhận ra nhanh sự khác biệt của 2 tứ trụ cách nhau 60 năm, vì Can Chi của lƣu niên hoàn
toàn khác nhau. Vì thế, chỉ nhìn 8 chữ và đại vận hoàn toàn giống nhau không thể nào thấy
đƣợc sự khác biệt này. Ngoài ra, vì thời lệnh tiết khí của năm 1962 khác với 1902, nên đại
vận bắt đầu tuổi cũng khác nhau, 1 đằng là 4 tuổi, 1 đằng là 9 tuổi.
 22-08-12, 17:17
tuhynhan
Đã sửa lại đúng nhƣ chị KC phát hiện.
 22-08-12, 17:18
tuhynhan
Chính văn:

Dần mão đa kim sửu


bần phú cao đê tẩu
491 | Tam mệnh thông hội

nam địa phạ phùng thân


bắc phương hưu kiến dậu.

(Dần Mão nhiều kim sửu,


giàu - nghèo - cao - thấp là do vận hạn,
đi về phương Nam sợ gặp Thân,
đi về phương Bắc đừng thấy Dậu)

Đại Lục bình chú:

Tác giả Ngũ ngôn độc bộ sau khi đề xuất dùng cách cục làm cƣơng lĩnh luận mệnh, liền bắt
đầu lấy Giáp Ất mộc nhật nguyên làm thí dụ để luận mệnh từ nhiều góc độ. Ngày Giáp sinh
tại tháng Dần Mão là Nguyệt Kiếp cách. Nguyệt Kiếp không thể làm dụng, hơn nữa nó là
hung thần cần phải chế hóa. Nếu bát tự nhiều kim (bao gồm Sửu vốn tàng chứa kim) thì
Nguyệt Kiếp có chế, có thể cấu thành Nguyệt Kiếp dụng Quan cách.

- Đại vận nếu thuận hành, trƣớc tiên đi về Đông phƣơng thì Kiếp trọng Quan khinh, đa phần
là nghèo khổ, sau đó đến gặp Nam phƣơng vận là tử địa Tỉ Kiếp, hơn nữa Tị Ngọ hỏa có thể
hóa Kiếp thành Thực Thƣơng, cách biến thành Thực Thƣơng chế Sát, cho nên có thể phát
giàu có.

- Đại vận nếu nghịch hành, nhập vận Bắc phƣơng trƣớc thì Tỉ Kiếp làm càn, phần nhiều chủ
bần khốn, sau đó vào vận Tây phƣơng thì là Quan sát vƣợng địa, Tỉ Kiếp thụ chế cũng có thể
làm giàu.

Bất luận Đại vận thuận nghịch, đa số đều là mệnh "tiên bần hậu phú", cho nên mới nói: "bần
phú cao đê tẩu". Trƣờng hợp sinh tháng Dần thuận hành, sợ gặp vận Thân xung đề cƣơng
(lệnh tháng) phá cách; sinh tháng Mão nghịch hành thì lại sợ gặp vận Dậu xung đề cƣơng phá
cách, nên cho rằng: "Nam địa sợ gặp Thân, Bắc phương đừng thấy Dậu". Thân Dậu này đều
là phƣơng Tây, vì sao nói thành Nam địa và Bắc phƣơng? Ý của nó là chỉ đại vận hành theo
hƣớng Nam hoặc hƣớng Bắc.

Ví dụ:

Mệnh Vệ Lập Hoàng (1897-1960) (12):

Đinh Dậu / Nhâm Dần / Ất Tị / Ất Dậu

Thiên can Đinh Nhâm hợp mộc, Tỉ Kiếp đƣơng lệnh làm càn, may mắn có Tị Dậu hợp Sát
chế Kiếp, cấu thành tổ hợp "dần mão đa kim sửu", Nguyệt Kiếp dụng Sát cách. Thời trẻ hành
vận là Sát tinh tử địa, học hành không toại ý, 15 tuổi vào quân đội. Vào đại vận Mậu Tuất,
sinh vƣợng Tài Sát, mệnh chủ thăng tiến rất nhanh, chức vị đến Tỉnh trƣởng tỉnh Hà Nam,
Tổng tƣ lệnh tập đoàn quân. Về già vẫn đảm nhiệm chức Phó chủ tịch Ủy ban quốc phòng
CHND Trung Hoa. Thân vận phá đề cƣơng, bệnh mất, chính là "Bắc địa sợ gặp Thân".

Một nữ mệnh:
492 | Tam mệnh thông hội

Đinh Mùi / Nhâm Dần / Ất Sửu / Đinh Sửu

Cũng là thiên can Đinh Nhâm hợp mộc, Tỉ Kiếp hoành hành, mừng đƣợc chi ngày giờ tọa
Sửu Sát, khắc chế nguyệt lệnh Dần mộc Tỉ Kiếp, thành cách Nguyệt Kiếp dụng Sát. Thời trẻ
hành vận Đông phƣơng mộc, Kiếp Nhận khó chế, mệnh chủ khổ cực đủ điều, trăm phƣơng kế
đều thất bại. Sau khi kết hôn vào năm Canh Ngọ - đại vận Ất Tị, theo chồng buôn bán làm ăn,
cuộc sống dần dần chuyển biến tốt đẹp, vận Bính Ngọ gia cảnh đạt tiểu phú. Đây là điều phú
văn đã nói "dần mão đa kim sửu, giàu nghèo lên xuống là do vận hạn".

Thần Phong Thông Khảo có ghi nhận mệnh của Lưu Nhị Khánh đạo nhân:

Kỷ Dậu / Bính Dần / Giáp Tý / Ất Sửu

Cũng là mệnh "dần mão đa kim sửu", nhƣng mệnh chủ lại là một đạo nhân hết sức điên rồ,
đáng ghét, "Bắc phương vận cơm áo tương đối tốt, nhập Tây phương vận tay chân bại liệt,
trông giữ lều tranh tại bến đò, Dậu vận thì mất". Tại sao mệnh ông ta không tồn tại cái "bần
phú cao đê tẩu"? Tại vì nguyệt lệnh lộ ra Bính hỏa Thực thần và Kỷ thổ Tài tinh, cấu thành
Thực Thƣơng sinh Tài cách, nhƣng Kỷ thổ Tài tinh lại chuyển sinh cho Dậu kim Thất Sát
đóng bên dƣới, đây là cái phá cách cục, đã không thể cấu thành Nguyệt Kiếp dụng Sát cách,
và Thực Thƣơng sinh Tài cách cũng hỏng, cho nên một việc cũng không thành. Bắc phƣơng
vận, kim chìm trong thủy, khử bệnh của cách, cho nên cơm áo tƣơng đối tốt. Tây phƣơng vận
Kị thần cƣớp càn cho nên bại liệt tay chân. Dậu vận Kị thần nắm quyền giữa đƣờng, đây gọi
là "Bắc phƣơng đừng thấy Dậu", nên chết ở vận này.

Lại có một nam mệnh:

Kỷ Dậu / Bính Dần / Giáp Tuất / Tân Mùi

Cùng loại với mệnh Lƣu Nhị Khánh, cũng là Dậu kim Quan tinh phá Thực Thƣơng sinh Tài
cách. Mệnh chủ ở vận Giáp Tý, năm Ất Sửu, mặc dù cũng trong vận thủy Sát tinh tử tuyệt,
chỉ vì Tý Sửu hợp thổ, Dậu Sửu hợp kim, Quan Sát phá cách nghiêm trọng mà khiến phạm
tội hiếp dâm, bị xử 16 năm tù giam.

--

Chú thích:

(12) Vệ Lập Hoàng, tự là Huy San, hoặc Tuấn Nhƣ, còn có biệt danh là Vệ Bách Thắng, một
trong những Tƣ lệnh tài năng nhất của quân đội Trung Hoa dân quốc (Đài Loan). Sau do cãi
lệnh Tƣởng Giới Thạch không chịu rút quân mà thất trận ở mặt trận Đông Bắc nên bị Tƣởng
giam lỏng ở Nam Kinh; đến 1949 trốn đƣợc sang Hồng Kông khi Tƣởng thất thủ Nam Kinh,
đoạn tuyệt với chính quyền Đài Loan, ở đây Vệ có bỏ vốn kinh doanh nhƣng thất bại nặng
nề. Năm 1955 thì chạy sang đại lục, tham gia chính quyền nhân dân Trung Hoa, từng giữ
nhiều chức vụ cao trong quân đội, quốc hội, đƣợc Chu Ân Lai phong tặng bốn chữ "Khởi
nghĩa tƣớng lĩnh".
493 | Tam mệnh thông hội

Ngày 17/01/1960, vào lúc 00:40", mất tại Bắc Kinh do bệnh tim phổi (xơ vữa động mạch
vành và viêm phổi).
 24-08-12, 18:25
tuhynhan
Chính văn:

Kiến lộc sinh đề nguyệt


Tài Quan hỷ thấu thiên
Bất nghi thân tái vượng
Duy hỷ mậu Tài nguyên.

Đại Lục bình chú:

Ở đây mang tính tổng kết điều đã nói, là chỉ cần nhật nguyên sinh ở tháng Tỉ Kiên thì lấy
Kiến Lộc cách để luận. Loại Bát tự này ƣa hai chữ Tài Quan thấu can hữu lực, để chế phục Tỉ
Kiếp. Chỉ cần Đại vận không gặp Tỉ Kiếp vƣợng địa, và hành vận ở đất Tài vƣợng thì tất
nhiên phú quý.

Ví dụ:

Mệnh Đỗ Thế Thành (13):

Canh Dần / Mậu Dần / Ất Mùi / Bính Tuất

Nguyệt lệnh là Kiếp tài, có Tài Quan thấu ra thiên can, hay hơn chính là thời can lại thấu
Thƣơng Quan, nhƣ thế thành ra Thƣơng sinh Tài, Tài sinh Quan, Quan chế Kiếp, cấu thành
thƣợng cách Thực Thƣơng sinh Tài mà hỷ Quan. Cho nên mệnh chủ quan lộ hanh thông, làm
quan đến Phó tỉnh trƣởng tỉnh Sơn Đông , Bí thƣ Thành ủy Thanh Đảo, mà còn tham lam
kiếm bộn tiền. Về già hành vận Giáp Thân, thiên khắc địa xung đề cƣơng, Tài Quan cách cục
đều bị phá, cho nên âm mƣu bị phát giác, bị tuyên án tù chung thân, chính là ứng nghiệm
"Nam địa sợ gặp Thân".

Còn mệnh của Quảng Đông - Nam Thiên Vương Trần Tế Đường (14):

Canh Dần / Mậu Dần / Giáp Tý / Bính Dần

Mệnh này và mệnh của Đỗ Thế Thành hầu nhƣ giống nhau, do nhật chi là Tý, lúc tuổi già
hành vận Thân nên Thân Tý hợp và không xung đề cƣơng (tham hợp quên xung), cho nên
phú quý đến già.

Một nam mệnh:

Ất Mùi / Mậu Dần / Ất Mão / Canh Thìn

Nguyệt lệnh kiến Lộc, Tài Quan thấu thiên can, nhƣng không phải là mệnh tốt. Tại sao? Bởi
494 | Tam mệnh thông hội

vì một Canh không hợp hai Ất, thành ra niên can Tỉ Kiên dễ bị phá bởi Tài tinh thấu ở nguyệt
lệnh, cách cục bị hỏng. Thêm nữa, đại vận nghịch hành, cho nên cuộc sống mệnh chủ ít danh
tiếng, tiền bạc kém, của cải chƣa đầy đã vơi, gia kế vừa lên lại xuống, đến già vẫn chỉ là một
ngƣời sống cuộc sống thanh bần. Điều may mắn là Canh kim Quan tinh có khả năng năng
kiềm chân nhật nguyên Tỉ Kiếp, chủ tuổi già tốt hơn, cho nên sinh đƣợc bốn ngƣời con đều
có tài.

Còn mệnh Triệu Nhữ Khiêm (15):

Ất Mão / Mậu Dần / Giáp Dần / Tân Mùi

Xem sơ thấy là bát tự phá cách do thời can Quan tinh không thể khắc chế niên can Kiếp
Nhận, mà chẳng biết thời trụ và niên trụ Mão Mùi cùng hợp, Tân kim liền có thể khắc chế
niên can Kiếp Nhận để hộ Tài, thành cách dụng Tài hỷ Quan. Cho nên mệnh chủ năm 16 tuổi
Tân Mão trúng cử nhân, 18 tuổi Quý Tị nhậm chức Tri huyện, kim vận làm quan đến chính
khanh (16).

Một nam mệnh khác:

Canh Tý / Mậu Dần / Ất Sửu / Kỷ Mão

Thân vƣợng Tài vƣợng Quan vƣợng, trung niên đại vận lại hành vận Nam phƣơng là đất Tài
tƣơi tốt, tựa hồ là mệnh đại phú đại quý. Nhƣng mệnh chủ chỉ là một Chủ nhiệm Trung tâm
khoa học kỹ thuật lâm nghiệp huyện, cấp bậc thấp nhất của chức tƣớc quan trƣờng. Mệnh này
Tài tinh không bị Kiếp phá cách, vì sao không thể đại quý? Nguyên nhân ở chổ, Canh kim
Quan tinh sinh Tý thủy, cấu thành Quan Ấn cách, tiếc là đại vận đông nam là đất tử tuyệt của
Quan Ấn, cho nên quý khí rất nhỏ. Có thể thấy đƣợc, sai đi một chữ cách cục sẽ khác đi, mức
độ phú khác liền, điều này không thể dùng phép luận Thân vƣợng Thân nhƣợc mà có thể giải
thích rõ ràng đƣợc.
--

Chú thích:

(13) Đỗ Thế Thành, ngƣời đã từng giữ các chức vụ Phó tỉnh trƣởng, Phó Bí thƣ, Tỉnh trƣởng
rồi Phó Bí thƣ tỉnh Sơn Đông kiêm Bí thƣ thành phố Thanh Đảo. Thậm chí, Đỗ Thế Thành
còn đƣợc bầu là Ủy viên dự khuyết Trung ƣơng năm 2002. Đỗ Thế Thành bị bắt, mất chức và
bị tuyên án tù chung thân vào ngày 24-12-2006 do cáo buộc tham nhũng 62,6 triệu nhân dân
tệ. Vụ án của ông Đỗ này rất nổi tiếng vì có liên quan đến một ngƣời đẹp gốc Việt là Lý Vi.

(14) Trần Tế Đường (1890-1954), một viên tƣớng Quốc dân đảng và quân phiệt Trung Hoa
Dân Quốc. Trong Thế chiến 2, ông giữ các chức ủy viên trong Chính phủ Quốc dân, Ủy ban
Quốc phòng Tối cao và Ủy ban Chiến lƣợc, cũng nhƣ Bộ trƣởng Nông Lâm trong nội các.
Ông đƣợc bổ nhiệm làm Chủ tịch đảo Hải Nam (thuộc Quảng Đông) sau chiến tranh. Ông
chạy sang Đài Loan vào tháng 4 năm 1950, khi Hải Nam rơi vào tay quân Cộng sản, đƣợc bổ
nhiệm làm Cố vấn chiến lƣợc phủ Tổng thống. Ông mất ngày 3 tháng 11, 1954 tại Đài Loan.

(15) Triệu Nhữ Khiêm (1515-1589), ngƣời đất Thông Hải, tỉnh Vân Nam. Từ 16 tuổi đã đậu
495 | Tam mệnh thông hội

cử nhân vào khoa thi năm Tân Mão (1531), nên đƣợc gọi là “Thần đồng”. Năm 18 tuổi đã là
Tri huyện Phú Thuận, Tứ Xuyên, kiêm luôn Huyện sự huyện Tử Đồng (Miên Dƣơng, Tứ
Xuyên). Thời làm quan trẻ của ông có một câu chuyện quan thanh liêm. Sau vài năm nhậm
chức Tri huyện, có một vụ án xảy ra tại địa phƣơng, số là con gái của một ngƣời bán nƣớc La
Dụng Tân là Lan Anh bị con trai của một quan lớn lừa vào tƣ dinh ép làm thiếp, Lan Anh
không chịu nên bị đánh bằng trƣợng đến chết, xác bị vùi trong hoa viên. La Dụng Tân kêu
oan cho con gái, bất chấp quan lớn này hối lộ, mua chuộc, Triệu Nhữ Khiêm vẫn thụ lý vụ
án, thậm chí ông còn cải trang vi hành tìm bằng chứng, sau khi có đƣợc chứng cứ thuyết phục
liền bắt hung thủ quy án, kết tội chết. Nhân dân lấy đó làm cảm kích hết mực vì trừ hại cho
bá tánh. Nhƣng cũng vì “đắc tội” với quan lớn nên ông phải từ chức hồi hƣơng. Trƣớc lúc trở
về, dân chúng đƣa tiễn rất xa, lại quyên góp cả trăm lạng gửi ông nhƣng ông không nhận, chỉ
nhận La Dụng Tân vì hoàn cảnh đang bơ vơ làm tùy tùng. Ông về quê mở lớp học học, xây
cầu,…

(16) Chính khanh, chức quan đại thần chấp chính và là chỉ huy tối cao trong quân đội phong
kiến. Trong đoạn này Hoàng Đại Lục nhầm thành năm Tân Mùi và năm Quý Dậu.
 24-08-12, 18:35
tuhynhan
"Tình sử" Lý Vi

Liên minh tham nhũng

Mối quan hệ với Lý Gia Đình tan rã, năm 2002, Lý Vi chuyển hướng hoạt động sang tỉnh
Sơn Đông với sự trợ lực của quan lớn Đỗ Thế Thành là bí thư thành ủy TP Thanh Đảo
lúc bấy giờ. Lý Vi nghiễm nhiên trở thành người tình của quan họ Đỗ.

Giao dịch trong biệt thự

Câu chuyện Lý Vi sở hữu hai tòa biệt thự đƣợc xếp vào hàng di chỉ văn hóa cấp tỉnh trong
khu Bát Đạt Quan (Thanh Đảo) vẫn là đề tài gây chú ý ở Trung Quốc đến nay.

Đây là một khu nhà ở nổi tiếng của quan chức trƣớc năm 1949 và hiện là một trong những
nơi điều dƣỡng cao cấp của lãnh đạo cấp tỉnh, nếu là thƣờng dân dễ mấy ai có thể đƣợc đặt
chân đến nhƣng ngƣời đẹp Lý Vi thì có quyền sử dụng đến hai căn do có chiếc ô Đỗ Thế
Thành quá to.

http://nld.vcmedia.vn/Images/Uploade...quantham23.jpg
Đỗ Thế Thành - Ảnh. CNS Photo

Hai căn biệt thự trên, một kiến trúc theo kiểu Pháp với diện tích hơn 700m2 tọa lạc ở số 1
Sơn Hải Quan và một có diện tích hơn 400m2 ở số 2 Trạm Sơn Tam. Cả hai căn biệt thự này
đều là nơi Lý Vi đặt trụ sở làm việc, nhƣng thực chất là thực hiện mọi giao dịch đút lót hối lộ
cho Đỗ Thế Thành.

Theo nguyên tắc, hai căn biệt thự trên không đƣợc chuyển nhƣợng cho tƣ nhân, nhƣng dƣới
496 | Tam mệnh thông hội

sức ép của Đỗ Thế Thành năm 2002 cơ quan chủ quản của khu Bát Đạt Quan đã bán cho Lý
Vi với giá 7,5 triệu nhân dân tệ. Với phƣơng thức “chia cho”, họ Đỗ đã nhanh chóng giúp Lý
Vi có đƣợc giấy tờ chủ quyền hợp pháp hai căn biệt thự trên.

Khách thƣờng đến viếng thăm hai căn biệt thự của Lý Vi là Đỗ Thế Thành, không chỉ bốn lần
ông ta nhận hối lộ tại đây mà còn viện cớ bệnh lƣu lại đây và ở căn biệt thự số 33 thuộc khu
Sơn trang tiến sĩ ở Hạ Môn.

Dù lƣu lại ở đâu Đỗ Thế Thành cũng đƣợc ngƣời đẹp Lý Vi đón tiếp rất nồng nhiệt. Ngoài ra
khách quý của hai căn biệt thự này là Trần Đồng Hải, nguyên tổng giám đốc Công ty dầu khí
Sinopec, đi cùng nhiều thƣơng gia giàu sụ trong và ngoài ngành xăng dầu.

Lý Vi từng nói thẳng vì cảm tạ Đỗ Thế Thành đã tận tình giúp đỡ công việc kinh doanh của
bà ở Thanh Đảo và để đƣợc ông Đỗ tiếp tục che chở cho sự nghiệp phát triển ở đây, từ năm
2003 đến trƣớc tết 2006 Lý đã bốn lần đút lót cho Đỗ tổng cộng 1,7 triệu nhân dân tệ, cả bốn
lần giao dịch này đều diễn ra trong hai căn biệt thự trên.

Thâu tóm bất động sản

Biệt thự đã nắm trong tay nhƣng ngƣời đẹp Lý Vi vẫn chƣa chịu dừng tham vọng bƣớc vào
giới kinh doanh bất động sản.

Tết năm 2002 khi Đỗ Thế Thành ghé thăm căn biệt thự số 2 đƣờng Trạm Sơn Tam, Lý Vi đã
rót mật vào tai quan Đỗ xin đƣợc quyền ƣu tiên khai thác khu đất Thái Bình Giác vào hạng
mục nhà ở, một doi đất ven biển đẹp nhất Thanh Đảo.

http://nld.vcmedia.vn/Images/Uploade...quan-tham3.jpg
Lý Gia Đình, quan tham đầu tiên trong hệ thống “đại lý quyền lực”
của Lý Vi đã phải nhận án tử hình - Ảnh: ynxxb.cn

Thái Bình Giác vốn dĩ thuộc khu bảo tồn Bát Đạt Quan, ban đầu Ủy ban nhân dân Thanh Đảo
không đồng ý cải tạo thành hạng mục khai thác nhà ở. Lúc đó Đỗ Thế Thành với cƣơng vị là
bí thƣ thành ủy đã phê bình “Ủy ban cũng nên suy nghĩ đến phát triển kinh tế, tăng nguồn thu
thuế cho Thanh Đảo”.

Lời giáo huấn của bí thƣ Đỗ đã phát huy tác dụng khi ngày 8-4-2002 tổng thƣ ký chính phủ
Khƣơng Tuấn Sơn đƣợc ủy thác bàn bạc với Lý Vi về hạng mục trên.

Đến tháng 5-2002 hai bên đã tiến hành ký hợp đồng khung khai thác khu Thái Bình Giác.
Ban đầu dự án trên đƣợc giao cho Tập đoàn Thủ Sáng đứng danh nghĩa khai thác, đây là tập
đoàn mà Lý Vi đã sử dụng mối quan hệ với một số quan chức để mua một chân danh nghĩa ở
đây, trong số quan chức đó có Lƣu Chí Hoa, phó chủ tịch thành phố Bắc Kinh.

Nhƣng rất bất ngờ khi cuối cùng hạng mục đầu tƣ khai thác Thái Bình Giác lại hoàn toàn
thuộc về Công ty TNHH kinh doanh nhà đất Nghị Sáng do Lý Vi đứng tên.

Khi bị một số ngƣời trong bộ máy chính quyền chất vấn, Đỗ Thế Thành trả lời nƣớc đôi: “Bất
luận là Thủ Sáng hay Nghị Sáng, quan trọng là hạng mục đƣợc khởi động”.

Năm 2003 Lý Vi giành đƣợc quyền khai thác 61.800 m2 đất ở khu Thái Bình Giác, nhƣng
497 | Tam mệnh thông hội

thực tế Lý không khai thác khu đất này mà sau đó chuyển nhƣợng lại cho Tập đoàn Thủ Sáng
và Tập đoàn xây dựng thành thị Thanh Đảo để hƣởng số tiền 84 triệu nhân dân tệ.

Cùng lúc, Đỗ Thế Thành chỉ thị khởi động dự án nhà máy xử lý nƣớc ô nhiễm trên sông ở
thôn Lý, với tổng vốn đầu tƣ lên đến 300 triệu nhân dân tệ, đây là dự án xử lý nƣớc lớn nhất
Thanh Đảo lúc bấy giờ. Dự án này do Tập đoàn Thủ Sáng và Công ty TNHH đầu tƣ khai thác
Thanh Đảo hợp tác thực hiện.

Ngƣời trong Tập đoàn Thủ Sáng cho biết năm 2002 Lý Vi đã gặp Đỗ Thế Thành để xin cho
Thủ Sáng đƣợc có phần trong dự án trên, ông Đỗ cũng đã dùng thế lực để ƣu tiên cho ngƣời
tình Lý Vi và nhận đƣợc khoản phí trả ơn là 10,8 triệu nhân dân tệ.

Đỗ Thế Thành ngày càng công khai mối quan hệ với ngƣời đẹp Lý Vi khi tháng 6-2002, ông
đã đem Lý giới thiệu với Vƣơng Ngọc Hoa, chủ nhiệm ủy ban quản lý khu phong cảnh Lao
Sơn, một khu phong cảnh nổi tiếng của Thanh Đảo.

Không lâu sau công ty của Lý Vi dù không cần chứng minh tài chính cũng giành đƣợc gói
thầu công trình sửa sang khu phong cảnh trên và thu về ít nhất 43,9 triệu nhân dân tệ.

Tháng 10-2006, Lý Vi vì bị nghi ngờ có hành vi trốn thuế đã bị cơ quan công an bắt giữ điều
tra, khi ấy Trần Đồng Hải cũng đã ra mặt điều tra.

Nguồn tin nội bộ còn cho biết thêm hành vi trốn thuế của Lý Vi hình thành từ năm 2004, khi
đó Đỗ Thế Thành chủ trì một hội nghị và giành ƣu tiên một khu đất rộng 1.000 mẫu cho Lý
Vi khai thác. Kết quả điều tra cho biết Lý đã trốn thuế khoảng 130 triệu nhân dân tệ.

Dƣới sự trợ lực của ngƣời tình Đỗ Thế Thành, ngƣời đẹp Lý Vi còn giành đƣợc quyền khai
thác nhiều hạng mục ở Thanh Đảo và biến nơi này thành cứ địa của bà ta, hay nói khác hơn là
biến thành “nữ vƣơng đất đai” ở thành phố này cho đến khi Đỗ Thế Thành bị bắt, mất chức
và bị kêu án tù chung thân vào ngày 24-12-2006 do cáo buộc tham nhũng 62,6 triệu nhân dân
tệ thì liên minh tham nhũng trên mới tan rã.

Theo Mỹ Loan (Tuổi Trẻ)


 24-08-12, 18:37
tuhynhan
Trần Tế Đường

Sinh 23 tháng 1, 1890 – 3 tháng 11, 1954, là một viên tƣớng Quốc dân đảng và quân phiệt
thời Trung Hoa Dân Quốc.

http://upload.wikimedia.org/wikipedi...en_Jitang2.jpg

Ông sinh ra trong một gia đình Hakka tại Phòng Thành, Quảng Tây. Ông gia nhập Đồng
minh hội năm 1908 và bắt đầu phục vụ trong quân đội Quảng Đông năm 1920, từ tiểu đoàn
trƣởng lên đến lữ đoàn trƣởng. Ông đƣợc bổ nhiệm Tƣ lệnh Sƣ đoàn 11 thuộc Quân đoàn 4
năm 1925, đóng tại Khâm Châu, Quảng Tây năm 1926, ở lại phƣơng Nam trong Chiến tranh
Bắc phạt. Năm 1928, ông trở thành Tƣ lệnh Lộ quân 4.

Ngoài chức vụ quân sự, Trần cũng kiểm soát tỉnh Quảng Đông. Từ năm 1929-1936, ông có
498 | Tam mệnh thông hội

nhiều đóng góp quan trọng với sự phát triển và hiện đại hóa trong tỉnh. Ông cho lát gạch các
vỉa hè trong thành phố và xây dựng nhiều trung tâm thƣơng mại, nhà máy, cũng nhƣ cây cầu
hiện đại đầu tiên bắc qua sông Châu Giang. Ông cũng giám sát việc thiết lập hệ thống trƣờng
công lập, với các trƣờng trung tiểu học hiện đại cũng nhƣ các học viện danh tiếng (bao gồm
Đại học Tôn Trung Sơn). Nhân dân trong tỉnh coi thời kỳ này là thời kỳ hoàng kim của
Quảng Đông và gọi ông là Nam Thiên Vƣơng (南天王).

Trở thành Chủ tịch Chính phủ tỉnh Quảng Đông năm 1931, ông chống lại Tƣởng Giới Thạch
sau vụ bắt rồi thả Hồ Hán Dân và liên minh với các tƣớng lĩnh Tân Quế hệ; một cuộc nội
chiến có thể đã nổ ra nếu không có Sự biến 18 tháng 9 tại Thẩm Dƣơng, khiến 2 bên liên kết
lại. Từ năm 1931-1936, ông là Tổng tƣ lệnh Tập đoàn quân 1.

Trong chiến dịch bao vây Khu Xô viết Giang Tây lần thứ 5 của Tƣởng Giới Thạch, Tƣởng bổ
nhiệm Trần Kế Đƣờng làm Tổng tƣ lệnh mặt trận phía nam, chỉ huy hơn 300,000 quân,
chiếm 30% trong tổng số 1 triệu quân Quốc dân đảng đƣợc huy động vào chiến dịch. Nhiệm
vụ của Trần là khóa chặt biên giới phía nam căn cứ địa cộng sản, không cho quân cộng sản
trốn về hƣớng nam. Tuy nhiên, nghi ngờ ý định thực sự của Tƣởng là thôn tính lãnh thổ của
mình, nhƣ Tƣởng đã làm với các sứ quân Phúc Kiến trƣớc đó, Trần không chịu ra sức trong
chiến dịch. Dù nói là huy động 300,000 quân trên giấy tờ, Trần chỉ điều có 180,000 quân, và
khi họ triển khai xong thì Hồng quân đã đi qua vùng này từ lâu.

Trần còn bí mật thỏa thuận với phe cộng sản là sẽ đảm bảo cho Hồng quân đi qua lãnh thổ
của mình càng nhanh càng tốt, và lực lƣợng của Trần sẽ không gây khó khăn gì. Thỏa thuận
này đảm bảo quân cộng sản nhanh chóng rời khỏi lãnh địa của Trần, và lực lƣợng của Trần sẽ
chiếm lấy những vùng mà quân cộng sản đi qua, nhờ đó tránh đƣợc việc Tƣởng mƣợn cớ đƣa
quân vào lãnh địa của Trần để thừa cơ đảo chính. Thỏa thuận thành công mỹ mãn, cả Trần và
phe cộng sản đều hƣởng lợi.

Tháng 5 năm 1936, chỗ dựa chính trị của Trần là Hồ Hán Dân qua đời. Tƣởng muốn làm suy
yếu thế lực của Trần nên đề nghị Quảng Đông chấm dứt tình trạng độc lập. Trần lập tức phản
ứng bằng cách liên kêt với Tân Quế hệ để lật đổ Tƣởng, lấy cớ ông ta bất lực trong việc
chống Nhật. Sau hàng tháng vận động chính trị, hối lộ, các vụ đào ngũ, và đàm phán liên
miên, Sự biến Lƣỡng Quảng chấm dứt khi Trần từ chức vào tháng 7 và chạy sang Hồng
Kông. Phe Quảng Tây cũng từ bỏ âm mƣu vào tháng 9. Vụ này đƣợc xem là tiền đề cho Sự
biến Tây An vào tháng 12, dẫn đến việc Tƣởng bị bắt cóc.

Trong Thế chiến II, ông giữ các chức ủy viên trong Chính phủ Quốc dân, Ủy ban Quốc
phòng Tối cao và Ủy ban Chiến lƣợc, cũng nhƣ Bộ trƣởng Nông Lâm trong nội các. Ông
đƣợc bổ nhiệm làm Chủ tịch đảo Hải Nam (thuộc Quảng Đông) sau chiến tranh. Ông chạy
sang Đài Loan vào tháng 4 năm 1950, khi Hải Nam rơi vào tay quân Cộng sản, đƣợc bổ
nhiệm làm Cố vấn chiến lƣợc phủ Tổng thống. Ông mất ngày 3 tháng 11, 1954 tại Đài Loan.
 25-08-12, 10:16
sonthuy
Cảm ơn Đăng đã dịch thuật cho anh em hiểu thêm các cách luận giải của các vị Tiền Bối.
Luận Tử Bình đúng là rất đa dạng.
499 | Tam mệnh thông hội

 25-08-12, 10:45
sonthuy
Trích dẫn:

Gửi bởi Đăng


Lại như mệnh Tạ Đông Mẫn(11) :

Bính Ngọ / Tân Sửu / Giáp Thân / Bính Dần

Nhật nguyên chỉ có một Dần mộc ở chi giờ, tứ trụ đầy Sát, Thƣơng, nên thân suy nhƣợc
không phải nghi ngờ. Phải hành vận nào mới tốt đây? Thuở thiếu niên, hành vận Đông
phƣơng giúp thân ắt hẳn hảo vận chứ nhỉ? Thế nhƣng, mệnh chủ thuở đó do cha làm ăn thất
bại, theo nghiệp sáng tác để mƣu sinh, về sau tuy thi đậu vào Đại học Đông Ngô, sau khi tốt
nghiệp ở lại trƣờng giảng dạy nhƣng sự nghiệp bình thƣờng không có gì đặc sắc. Sau 60 tuổi,
khi hành vận Mậu Thân Kỷ Dậu, là đất tử tuyệt của nhật nguyên, gặp thêm cả Tài Sát nữa,
chẳng phải là vận nát nhƣ cháo sao? Thế nhƣng, mệnh chủ ngay trong hai đại vận này thăng
quan nhậm chức Chủ tịch tỉnh Đài Loan, Phó Tổng thống trong Chính phủ Đài Loan.

Không vong Trụ năm, Sửu Ngọ hại cho thấy thiếu thời không thể tốt đẹp đƣợc dù là Mộc vận
trợ Thân.
Binh Tân-Hợp chế Quan, về hậu vận có Dần -Thân xung mất Lộc lẽ ra là xấu nhƣng cung
Mệnh là Dần (Lộc) cộng thêm Thƣơng thực mạnh nên chế đƣợc Sát, chế đƣợc Quan Sát là có
quyền hành, vận Thân Dậu là thời thế để Mệnh này quật khởi.
 26-08-12, 11:55
kimcuong
Đăng vừa dịch bài lại chú thích thêm rất kĩ lƣỡng, nên chúng ta có thêm nhiều thông tin để
kiểm nghiệm hơn. Rất cám ơn bạn.

Bát tự của Triệu Nhữ Khiêm lại có chỗ nhầm lẫn ở giải đoán lƣu niên (lỗi này rất phổ biến vì
HĐL không kiểm lại lịch kĩ lƣỡng).

Trích dẫn:

Còn mệnh Triệu Nhữ Khiêm (15):


Ất Mão / Mậu Dần / Giáp Dần / Tân Mùi
Xem sơ thấy là bát tự phá cách do thời can Quan tinh không thể khắc chế niên can Kiếp
Nhận, mà chẳng biết thời trụ và niên trụ Mão Mùi cùng hợp, Tân kim liền có thể khắc chế
niên can Kiếp Nhận để hộ Tài, thành cách dụng Tài hỷ Quan. Cho nên mệnh chủ năm 16 tuổi
Tân Mão trúng cử nhân, 18 tuổi Quý Tị nhậm chức Tri huyện, kim vận làm quan đến chính
khanh (16).

Vận: Đinh Sửu, Bính Tí, Ất Hợi, Giáp Tuất, Quí Dậu, Nhâm Thân

Theo chi tiết của HĐL "mệnh chủ năm 16 tuổi Tân Mão trúng cử nhân, 18 tuổi Quý Tị
nhậm chức Tri huyện": Nhà Minh bắt đầu từ 1368 đến 1644, nên cũng dễ tìm các năm Ất
Mão trong thời gian này. Có 5 năm Ất Mão, nhƣng chỉ có 2 năm là trùng hợp vận có năm 16,
17 tuổi tƣơng ứng. Thế nhƣng lại không có năm TÂN MÃO và QUÍ TỊ trong vận Bính Tí của
Triệu Nhữ Khiêm.

Sinh 4.2.1615: Vận Bính Tí 11-20 tuổi, Ất Sửu đầu vận, Tân Mùi 1631: 17 tuổi
500 | Tam mệnh thông hội

Sinh 9.2.1555: Vận Bính Tí 15-24 tuổi, Canh Ngọ đầu vận, Tân Mùi 1571: 16 tuổi

Vậy chỉ có năm 1555 là đúng nhất; sau Tân Mùi dĩ nhiên không phải Quí Tị mà phải là Quí
Dậu.

Còn thông tin của wekipedia (?) về năm sinh 1515 phải đổi lại là 1555 mới hợp với các dữ
kiện trên, vì năm 1515 là năm ẤT HỢI, không phải là Ất Mão.

Trích dẫn:

(15) Triệu Nhữ Khiêm (1515-1589)

 26-08-12, 12:52
kimcuong
So sánh 2 mệnh cùng giống nhau ở Kiến Lộc cách, dụng Tài sinh Quan, có điểm chúng ta nên
nhận xét rõ ràng hơn.

Trích dẫn:

Một nam mệnh:

Tỉ.........Tài..........nhật chủ..Quan....
Ất Mùi / Mậu Dần / Ất Mão / Canh Thìn

Nguyệt lệnh kiến Lộc, Tài Quan thấu thiên can, nhƣng không phải là mệnh tốt. Tại sao? Bởi
vì một Canh không hợp hai Ất, thành ra niên can Tỉ Kiên dễ bị phá bởi Tài tinh thấu ở nguyệt
lệnh, cách cục bị hỏng. Thêm nữa, đại vận nghịch hành, cho nên cuộc sống mệnh chủ ít danh
tiếng, tiền bạc kém, của cải chƣa đầy đã vơi, gia kế vừa lên lại xuống, đến già vẫn chỉ là một
ngƣời sống cuộc sống thanh bần. Điều may mắn là Canh kim Quan tinh có khả năng năng
kiềm chân nhật nguyên Tỉ Kiếp, chủ tuổi già tốt hơn, cho nên sinh đƣợc bốn ngƣời con đều
có tài.

Còn mệnh Triệu Nhữ Khiêm (15):

Kiếp...... Tài..........nhật chủ...Quan..


Ất Mão / Mậu Dần / Giáp Dần / Tân Mùi

Xem sơ thấy là bát tự phá cách do thời can Quan tinh không thể khắc chế niên can Kiếp
Nhận, mà chẳng biết thời trụ và niên trụ Mão Mùi cùng hợp, Tân kim liền có thể khắc chế
niên can Kiếp Nhận để hộ Tài, thành cách dụng Tài hỷ Quan. Cho nên mệnh chủ năm 16 tuổi
Tân Mão trúng cử nhân, 18 tuổi Quý Tị nhậm chức Tri huyện, kim vận làm quan đến chính
khanh (16).

- Khác nhau ở nhật chủ, nên Ất ở trụ năm là Tỉ Kiên hay là Kiếp Tài. Bình thƣờng chúng ta
biết "Kiếp tài phá Tài" hơn là "Tỉ Kiên phá Tài", vậy mệnh của Triệu Nhữ Khiêm mới là phá
cách.

- Nếu nói "Mùi hợp Mão" thì cả 2 tứ trụ đều có, không chỉ riêng mệnh họ Triệu mới đáng nói.
501 | Tam mệnh thông hội

- Nếu nói vì "đại vận nghịch hành, cho nên cuộc sống mệnh chủ ít danh tiếng, tiền bạc
kém..." thì cả hai tứ trụ cũng giống nhau: từ Mậu Dần tính nghịch đều gặp Đinh Sửu, Bính
Tí...v.v... , vậy cả họ Triệu cũng phải tƣơng tự nhƣ nam mệnh.

- Khi nói "quan tinh kềm chân nhật nguyên Tỉ Kiếp" là ý nói Canh trụ giờ hợp Ất, còn mệnh
họ Triệu thì có "Tân kim khắc chế Kiếp nhận" tức nói Tân khắc Ất, mà cả hai đều tốt ở hậu
vận: ngƣời thì có con thành tài, ngƣời thì làm quan lâu dài, vậy 2 mệnh khác nhau ở điểm
giàu nghèo, sang hèn thế nào?

Theo tôi thì đây cũng là một thí dụ của cách cục gọi là "kiêm cách", bởi vì ở mức xét đoán sơ
khởi không thể xác định 1 trong 2, thậm chí 3 cách cục khác nhau. Đôi khi phải biết thực tế
thì mới biết đƣợc đƣơng số đã nghiêng về Cách cục nào. Đấy là do môi trƣờng, xã hội giao
động, làm cho đƣơng số thay đổi theo.

Ở 2 thí dụ trên có 2 cách cục. Nam mệnh có Ấn dƣ khí ở Thìn, họ Triệu khuyết hẳn Ấn. Có
thể là vƣợng cách, hai là tòng vƣợng. Đại vận cùng là Thủy sang Kim vận. Thủy vận là Ấn
vận, Kim vận là Quan vận. Nếu Vƣợng thì không cần Ấn vận nữa, nếu tòng Vƣợng thì ngƣợc
lại dụng đƣợc Ấn vận và hỉ Tỉ Kiếp làm trọng.

Và đấy là trƣờng hợp của nam mệnh, vì thân đã vƣợng mà lại trải qua Ấn vận nên hóa suy.
Còn họ Triệu, nhờ tòng Vƣợng mà dụng ngay đƣợc Ấn vận lúc thiếu thời nên thành danh.

Vấn đề suy ngẫm là thời thế khác nhau, 1 ngƣời sinh thời 1500, 1 ngƣời ở thời 1900; cho dù
không định tòng hay không, làm quan hoặc nghèo túng ở hai thế hệ hoàn toàn khác nhau nhƣ
thế đều không giống nhau. Sự so sánh nhƣ thế vì vậy không phải là không bất cập.
 30-08-12, 17:40
tuhynhan
Chính văn:

Thổ hậu đa phùng hỏa


quy kim vượng ngộ thu
đông thiên thủy mộc phiếm
danh lợi tổng hư phù.

Đại Lục bình chú:

Nguyệt Kiếp cách nếu hữu Tài mà vô Quan thì cần phải hành vận đất Thực Thƣơng vƣợng,
đây là ý nghĩa của câu "thổ hậu đa phùng hỏa". Vì sao phải nói là "thổ dày", thổ mỏng
không đƣợc à? Không thể đƣợc, bởi vì nguyệt lệnh Tỉ Kiếp nhƣ giặc cƣớp giữa đƣờng, một
chút ít Tài tinh nhỏ nhoi thì khó sinh tồn đƣợc, cho nên phải cần thổ dày và còn phải cần "đa
phùng hỏa" để hóa tiết hung tính của Tỉ Kiếp, nhƣ thế mới có thể khiến Tài tinh đứng vững
đƣợc trên gót chân, đồng thời cấu thành cách Tài hỷ Thực sinh.

Cách Nguyệt Kiếp nếu nhƣ Tài tinh ít ỏi lại không hành vận nam phƣơng hỏa để hóa tiết Tỉ
Kiếp, vậy thì chỉ đến khi vãn niên hành vận thu kim mới có thể chế phục Tỉ Kiếp, do đó mới
hƣởng đƣợc phúc con cái (Thực Thƣơng). Loại bát tự này sợ nhất hành vận đông thủy, thủy
mộc quá nhiều, Tỉ Kiếp lan tràn gây lụt lội, dù cho bát tự có đƣợc một chút Tài, Quan thì cái
lợi danh kia cũng chỉ là hƣ phù.
502 | Tam mệnh thông hội

Ví dụ một mệnh trong sách "Chi tú mệnh lý", tác giả Lý Hậu Khải:

Mậu Dần / Giáp Dần / Giáp Tuất / Giáp Tý


Ất mão - Bính thìn - Đinh tị - Mậu ngọ - Kỷ mùi - Canh thân

Nguyệt Kiếp thấu can, hữu Tài vô Quan, Tài tinh mất chổ dựa sao có thể chen chân, cho nên
Tài tinh vốn đại diện cho cha và vợ bị khắc thành tật, cha ngƣời này bị mù, vợ thì bệnh tâm
thần, bản thân thì ở những vận đầu mộc học hành không tốt, sự nghiệp bất thuận. Chỉ khi đến
tuổi trung niên hành hỏa vận thì mới đƣợc đảm nhiệm một chức vụ bán thời gian (cấp phó
phòng).

Lại như một nam mệnh:

Ất Mão / Mậu Dần / Giáp Tuất / Bính Dần

Mặc dù Tài Thực cùng thấu, cấu thành cách Thực Thƣơng sinh Tài, nhƣng niên can Tỉ Kiếp
khắc phá nguyệt lệnh Tài tinh, phá hỏng cách cục. Cho nên mệnh chủ chỉ là một lão nông
bình thƣờng học xong ba năm cơ sở, ban đầu vào vận thủy, thủy mộc phù phiếm, mặc dù nắm
giữ chức vị chủ nhiệm một hội nông dân cấp xã, đội trƣởng đội sản xuất trong nhiều năm,
nhƣng đều là hƣ danh hƣ lợi, khó tránh đƣợc cảnh nghèo khó mà còn mang nổi buồn góa vợ,
gánh nặng nuôi nấng 4 đứa con. Tuổi già vào kim vận, đƣợc Quan sát chế Kiếp cứu cho cách
cục, con trƣởng đƣợc phong hàm Thiếu tƣớng, vì vậy đƣợc chung hƣởng phúc của ngƣời con
này, chính là "quy kim vượng ngộ thu".

Lại như một nam mệnh khác:

Mậu Ngọ / Ất Mão / Ất Mùi / Mậu Dần


Bính thìn - Đinh tị - Mậu ngọ - Kỷ mùi

Rất nhiều ngƣời luận mệnh theo thuyết "cân bằng dụng thần" đều cho rằng mệnh này thân
vƣợng Tài vƣợng, lại hành vận nam phƣơng Thực Thƣơng sinh Tài, nhất định giàu có nhất
phƣơng; mà chẳng biết rằng mệnh này Tỉ Kiếp đƣơng quyền, vô Quan chế Kiếp, hỏa không
thấu can lực mỏng, thêm vào đó sinh tháng hai thổ tử mà không đƣợc hỏa sinh, tức Thực
Thƣơng không thể hóa tiết Tỉ Kiếp một cách hữu hiệu để sinh Tài, cho nên là một bát tự phá
cách. Bởi vậy, mệnh chủ sau khi tốt nghiệp trung học cơ sở liền vào làm công nhân khai thác
than đá trong mỏ tối tăm, năm 17 tuổi Ất Hợi thuộc đại vận Đinh Tị thiệt mạng vì sập hầm
mỏ.

Còn như một nữ mệnh:

Mậu Ngọ / Ất Mão / Giáp Ngọ / Đinh Mão


Giáp dần - Quý sửu - Nhâm tý

Nhìn có vẻ cũng là một bát tự tốt Thƣơng quan sinh Tài, chẳng biết rằng sinh tháng hai thổ
tử, một ít Mậu thổ khó chịu nổi Đinh hỏa sinh, dễ bị Ất mộc cƣớp đoạt, cũng thuộc bát tự phá
cách. Cho nên mệnh chủ vào vận Quý Sửu, năm Nhâm Ngọ bị hai tên hiếp xong rồi giết chết,
do Sửu thổ Quan tinh muốn chế Nhận mà gặp phải Thƣơng quan trùng điệp phản khắc.
503 | Tam mệnh thông hội

 02-09-12, 12:41
kimcuong
Trích dẫn:

Lại như một nam mệnh khác:

Tài............tỉ.......................Tài
Mậu Ngọ / Ất Mão / Ất Mùi / Mậu Dần

Bính thìn - Đinh tị - Mậu ngọ - Kỷ mùi

Rất nhiều ngƣời luận mệnh theo thuyết "cân bằng dụng thần" đều cho rằng mệnh này thân
vƣợng Tài vƣợng, lại hành vận nam phƣơng Thực Thƣơng sinh Tài, nhất định giàu có nhất
phƣơng; mà chẳng biết rằng mệnh này Tỉ Kiếp đƣơng quyền, vô Quan chế Kiếp, hỏa không
thấu can lực mỏng, thêm vào đó sinh tháng hai thổ tử mà không đƣợc hỏa sinh, tức Thực
Thƣơng không thể hóa tiết Tỉ Kiếp một cách hữu hiệu để sinh Tài, cho nên là một bát tự phá
cách. Bởi vậy, mệnh chủ sau khi tốt nghiệp trung học cơ sở liền vào làm công nhân khai thác
than đá trong mỏ tối tăm, năm 17 tuổi Ất Hợi thuộc đại vận Đinh Tị thiệt mạng vì sập hầm
mỏ.

Lại thêm 1 thí dụ khuyết 2 hành, Ấn, Quan trong tứ trụ, quan trọng là Ấn. Tứ trụ chỉ còn có
hành của bản thân và Tài là trọng (nhiều mà lại vƣợng). Những trƣờng hợp này là biệt lệ, rất
sợ hành bản thân lên cực đế vƣợng, vì sẽ suy tàn nhanh chóng, mặc cho luận cách nào, thuyết
nào. Lƣu niên Hợi xung vận Tị trong khi Hợi Mão Mùi lại cùng Ất lƣu niên lập tam hợp
Mộc. Chú ý địa chi HỢI, đã có vài thí dụ về loại vừa Xung vừa Hợp thế này, kết quả đều
không đƣợc tốt đẹp.
 02-09-12, 13:23
kimcuong
Trích dẫn:

Còn như một nữ mệnh:


tài............kiếp........................thƣ ơng
Mậu Ngọ / Ất Mão / Giáp Ngọ / Đinh Mão

Giáp dần - Quý sửu - Nhâm tý

Nhìn có vẻ cũng là một bát tự tốt Thƣơng quan sinh Tài, chẳng biết rằng sinh tháng hai thổ
tử, một ít Mậu thổ khó chịu nổi Đinh hỏa sinh, dễ bị Ất mộc cƣớp đoạt, cũng thuộc bát tự phá
cách. Cho nên mệnh chủ vào vận Quý Sửu, năm Nhâm Ngọ bị hai tên hiếp xong rồi giết chết,
do Sửu thổ Quan tinh muốn chế Nhận mà gặp phải Thƣơng quan trùng điệp phản khắc.

Tứ trụ này cũng khuyết 2 hành Ấn và Quan. Để ý các chữ in đậm, khi xét hạn, đọc từ lƣu
niên là chính. Lƣu niên Nhâm hợp Đinh, vận Quí hợp Mậu lại khắc Đinh, vừa hợp vừa xung
là nguy hiểm. Tổ hợp địa chi dù không tạo nên Mộc vƣợng ở hạn, nhƣng nguyên cục có Hình
của Ngọ, đến hạn Nhâm Ngọ thì ứng. Nữ mệnh mà toàn 4 trụ đều gặp Đào Hoa, Hồng Diễm
thì có tiêu chí dữ hơn lành.

Cách cục căn bản để nhận định phú, quý hay thƣờng cách. Khi luận sinh tử, hung họa hoặc
cát lành, chỉ cần nhìn tƣơng quan sinh khắc hình hại của tổ hợp các Can Chi là tƣơng đối khá
rõ.
504 | Tam mệnh thông hội

 03-09-12, 16:20
tuhynhan
Chính văn:

Giáp Ất sinh cư Mão


Kim đa phản cát tường
Bất nghi trọng kiến Sát
Hỏa địa đắc y lương.

Đại Lục bình chú:

Giáp Ất nhật sinh tại tháng Mão là Nguyệt Kiếp cách, tuy nói phải có Quan
sát chế Kiếp thì cát tường, nhưng Thất Sát không nên nhiều quá, nếu như
một Kiếp có ba bốn Quan Sát đến chế, chế Kiếp quá mức sẽ tổn cách hại
người, cho nên "Hỷ Kị Thiên" ghi rằng: "Nguyệt lệnh tuy phùng kiến lộc,
thiết kị hội Sát vi hung" (Nguyệt lệnh tuy kiến Lộc, phải tránh gặp Sát
thành hung). Thông thường, cách đều hỷ thanh thuần mà kị hỗn tạp, bất
kể là Dụng thần hay Tướng thần đa số thường không thanh thuần hơn
nữa không chuyên nhất, trách nhiệm không rõ, những ba hòa thượng sẽ
thiếu nước uống thôi, cho nên Dụng thần hay Tướng thần không nên
nhiều quá. Thông thường là, một Sát chỉ có thể hợp chế một Nhận, nếu
như kiến Sát trùng trùng, những Thất Sát dư thừa sẽ ở vào trạng thái vô
chế, mà hung thần vô chế thì như giặc cướp hoành hành, tính mệnh thân
gia khó bảo toàn được, lúc này ngược lại cần hỏa đến khắc chế những
Thất Sát dư ra, cho nên mới nói: "không nên thấy nhiều Sát, hỏa địa đắc
y lương". Ý tức là ở Nguyệt Kiếp cách mà Quan sát quá nhiều, chỉ có hành
vận Thực Thương thanh thuần mới giảm bớt được Quan sát dư thừa, như
thế mới có thể hưởng được cuộc sống sung túc, áo gấm cơm ngọc.

Còn nữa, đoạn trước đã đề cập "Nam địa sợ gặp Thân, Bắc phương đừng
thấy Dậu", biểu thị Kiếp Nhận sợ xung đột, nhất là Dương Nhận khi gặp
xung dễ kích động tính chất cương bạo, nhẹ thì thị phị phá tài, nặng thì
mất cha, tang vợ, hoặc tang chính mình. Đã là nguyệt kiếp cách sinh
tháng Dần Mão thì đại vận đều sợ Thân Dậu, bát tự nào có Thân Dậu
xung nguyệt lệnh càng phải đề phòng hơn cả. Lấy Quan sát chế Tỉ Kiếp,
lại phân ra xung khắc và hợp chế, hợp chế nếu so với xung khắc thì tốt
hơn nhiều. Vì sao vậy? Bởi vì xung khắc biểu thị còn đang xung đột, như
hai người đánh nhau chưa phân thắng bại, nếu như Nhận trọng Sát khinh,
thì sẽ kích động Thất Sát công Thân, cho dù là Sát Nhận lưỡng đình (cùng
mạnh như nhau), yên ổn cũng chỉ là tạm thời, một Dương nhận cương
kiện bất khuất bất cứ lúc nào cũng sẽ phản công Thất Sát. Mà hợp Sát thì
không giống vậy, hợp Sát như lấy dây thừng trói trâu ngựa, dù chỉ là dây
ba thước của trẻ con cũng có tác dụng. Cho nên sách mệnh học mới nói
là: "hợp Sát vi quý", "Dương nhận sợ xung".

Ví dụ:
505 | Tam mệnh thông hội

Mệnh của Lục Quang Tổ (17):

Tân Tị / Tân Mão / Giáp Thân / Giáp Tuất

Giáp mộc sinh tại tháng Mão, Quan tinh trùng trùng chế Nhận, bất xung
bất chiến là điều cát tường, cho nên mệnh chủ sớm ra làm quan, liên tục
thăng quan làm đến Lễ bộ Thượng thư.

Một nam mệnh:

Ất Dậu / Kỷ Mão / Giáp Tuất / Tân Mùi

Cũng thuộc cách Dương Nhận dụng Quan nhưng Dậu xung Mão, phá cách.
Mặc dù Mão Mùi hợp có thể giải Mão Dậu xung, nhưng gặp tuế vận phá
hợp thì đại sự không ổn. Quả nhiên, khi 18 tuổi là đại vận Đinh Sửu, năm
Quý Mão, mệnh chủ phạm tội hiếp dâm, bị tuyên án 17 năm tù giam. Đây
chính là bởi Sửu Dậu hợp thì Mão Mùi xung chiến gây kích động hung tính
của Dương Nhận.
Một nữ mệnh:

Bính Tuất / Tân Mão / Giáp Thân / Quý Dậu

Nguyệt lệnh Dương Nhận, tuy có Thân kim ám hợp, nhưng ám hợp khó
giải minh xung, cho nên luận Dậu kim xung Mão mộc. Cách cục liền bị
phá, mọi thứ đều bế tắc. Mệnh chủ 11 tuổi mắc bệnh tâm thần, đều trị
lâu mà không khỏi, năm 42 tuổi Mậu Thìn uống lầm thuốc trừ sâu mà
chết. Nếu như nệnh này hành vận Nam phương hỏa, đem Quan sát trùng
trùng vây hãm vào tuyệt địa, như thế mệnh chủ sẽ tốt hơn nhiều, có khi
còn kiếm được một tài sản nhỏ nữa chứ.

Chú thích:

(17) Lục Quang Tổ (1521- 1597), người Chiết Giang, do hướng về


Phật giáo, nên lấy hiệu là Ngũ Đài cư sĩ, một viên quan nổi tiếng sống ở
triều đại nhà Minh. Năm 1547 đậu tiến sĩ, được phong Tri huyện Tuấn (Hà
Nam), sau đó liên tục thăng quan, làm đến chức Thượng thư bộ Lại (nắm
sự vụ về quan lại phong kiến như bổ miễn nhiệm, điều động, thăng
giáng,…). Tuổi già một lòng với Phật pháp.

 03-09-12, 16:22
tuhynhan
506 | Tam mệnh thông hội

Chính văn:

Hỏa kị tây phương dậu


Kim trầm phạ thủy hương
Mộc thần hưu kiến ngọ
Thủy tại mão trúng thương.

(Hỏa kị dậu ở tây phương, kim sợ chìm xuống nước, khí mộc chớ thấy ngọ, thủy trúng thương
ở mão)

Đại Lục bình chú:

Xem đại vận phải chú ý vài chổ quan trọng, nhƣ Trƣờng Sinh, Mộc Dục, Lâm Quan, Đế
Vƣợng, Mộ khố, Tử Tuyệt, v.v..., đều là điểm phải xét ở mỗi mệnh. Đoạn văn này chính là
nói đến Tử địa, tức là hỏa đến Dậu là tử, kim đến Tý là chìm, mộc đến Ngọ là cháy tiêu, thủy
đến Mão bị thƣơng. Điều này cốt yếu ở chổ Tƣớng, Hỉ thần đến nơi đó thì nhiều hung hiểm,
còn Kị, cừu thần đến đó thì nhiều tốt đẹp.

Nam mệnh 1:

Bính Tý / Canh Tý / Ất Sửu / Kỷ Mão

Tý thủy Ấn tinh làm dụng, Canh kim Quan tinh làm Tƣớng, đáng tiếc Thiên can Bính hỏa
Thƣơng quan, địa chi Tý Sửu hợp, Tý Mão hình nhau mà thƣơng Ấn, thêm nữa đại vận đến
Mão, Ấn tinh bị thƣơng lần nữa, cho nên mệnh chủ khoảng chừng 30 mắc bệnh tâm thần, sau
này vẫn điên điên khùng khùng, không hôn nhân, không công việc.

Nam mệnh 2:

Mậu Thìn / Tân Dậu / Nhâm Tý / Quý Mão

Nhìn qua thì thấy Quan Ấn thành cách, ắt hẳn phải là một ngƣời có chức tƣớc. Song, tiếc là
đại vận Bắc phƣơng, kim trầm thủy hƣơng, phá hủy Ấn tinh, phá hỏng cách cục, cho nên
mệnh chủ sau một năm tham gia quân đội thì đào ngũ về nhà làm ruộng, gia cảnh trở thành
một hộ có thâm niên nghèo khổ.

Nam mệnh 3:

Bính Tuất / Bính Thân / Quý Sửu / Quý Sửu

Ấn tinh đƣơng lệnh, có Sửu Tuất Quan sát sinh cho, thành cách Ấn nhờ Quan sinh. Bệnh của
cách cục là Ấn trọng Quan khinh, đại vận nên hành vận Tài Quan vƣợng. Mậu Tuất vận,
Quan tinh thấu thanh hữu lực, mệnh chủ đảm nhiệm cục phó Cục thuế, phát tài, tiền của cả
triệu đồng, đƣợc mát mày mát mặt nhất thời. Vừa đến Hợi Tý thủy vận, kim chìm, hỏa tắt,
thổ tan, dụng tƣớng thần đều bị thƣơng, cách cục bị phá tận cùng, sự nghiệp lụn bại, đến nổi
cuối cùng chết trong nghèo đói.
 10-09-12, 10:44
507 | Tam mệnh thông hội

tuhynhan
Chính văn:

Thổ tú hưu hành hợi


Lâm quan phạ tị cung
Nam phương căn hữu vượng
Tây bắc mạc tương phùng.

Đại Lục bình chú:

Vừa bàn xong hỏa kim mộc thủy thì liền nói đến thổ. Thổ tuyệt địa ở đâu? Tại Hợi, vì nơi này
mộc lâm Trƣởng sinh còn thổ thụ khắc. Về phần Tị, mặc dù là Lâm quan của thổ, tự đắc Lộc
mà vƣợng, thực ra trong Tị hàm chứa 5 phần kim khí nên gặp kim sẽ biến, đây là tính "hỏa
gian" (gian trá của hỏa), tùy thời cơ mà đem bán hỏa (phản bội hỏa), cho nên mới nói "sợ Tị
cung", có ngƣời nói thổ Tuyệt tại Tị không phải không có lý. Ngoài hai chổ Hợi Tị ra thì thổ
chỉ sợ đến phƣơng Tây bắc vì kim trọng thổ hƣ (kim nặng thì thổ rỗng), thủy đại thổ tán
(nƣớc lớn thì đất tan), ngƣợc với nam phƣơng là sẽ thấy ngay suy nhƣợc. Đƣơng nhiên, ở
phƣơng Tây bắc thì cũng có khác nhau chút ít: nhƣ thổ đến Thân thì trong Thân còn có gốc
Mậu; đến Dậu thì hoàn toàn không có căn khí, cho nên thổ tại Thân có lực hơn một chút so
với tại Dậu; thổ đến Tuất xem qua thấy nhƣ đắc khố căn, nhƣng thực ra tháng Tuất kim trọng
tiết thổ, thổ tƣơng đối suy yếu, chẳng qua nếu so với tại Thân Dậu thì hữu lực hơn một chút
xíu. Về phƣơng bắc Hợi Tý Sửu, thổ yếu nhất là ở Hợi, tiếp theo ở Tý, kế nữa mới đến Sửu.
Đƣơng nhiên, cần phải phân âm thổ và dƣơng thổ, lực âm thổ tại đất thủy yếu hơn dƣơng thổ,
bởi vì dƣơng thổ tƣơng đối khá cứng cỏi, bẩm sinh vốn đủ sức khắc thủy tính.

Nam mệnh:

Quý Tị / Ất Sửu / Nhâm Thân / Mậu Thân

Sát Ấn thành cách, Mậu thổ Thất Sát có Tị Lâm quan, tại nguyệt lệnh hữu căn, tựa hồ Sát Ấn
lƣỡng vƣợng. Thực ra không phải vậy, Tị Sửu hợp kim, Sửu là kim khố, hơn nữa xuất hiện
hai chữ Thân, bát tự hầu hết là Ấn tinh, đại vận lại nghịch hành về đất thủy kim, bệnh của
cách là Ấn nhiều hoàn hoàn toàn không có chế phục, mà mệnh có bệnh vô chế là bát tự phá
cách, mệnh nét bét, bèo bọt. Cho nên mệnh chủ không thích học hành, là hạng ngƣời tham ăn
nhác làm, không nghề nghiệp chính đáng. Vận Quý Hợi, năm Đinh Tị, dụng thần thổ tú tới
Hợi, thủy đại thổ tán, Tỉ Kiếp lại xung khắc Tài tinh, Ất mộc tại Hợi đắc căn khắc Quan sát,
mệnh chủ bị Tòa án xử 5 năm tù giam vì tội trộm cắp. Về sau trong Tuất vận, Quan sát hơi
đắc lực, mệnh chủ phát tài hơn 100 nghìn tệ. Còn khi vừa vào vận Dậu Thân thì nhƣ bị đánh
hiện nguyên hình, gia đình tan nát, xa lìa vợ con, bơ vơ một mình. Đây chính là "Tây bắc mạc
tương phùng".
 10-09-12, 10:47
tuhynhan
Chính văn:

Âm nhật triều dương cách


Vô căn nguyệt kiến thìn
Tây phương hoàn hữu quý
Duy phạ hỏa lai xâm.
508 | Tam mệnh thông hội

(cách Âm nhật triều dƣơng,


vô căn sinh tháng thìn
hoặc sinh phƣơng tây thì quý,
chỉ sợ hỏa xâm phạm)

Đại Lục bình chú:

Cách gọi là "Âm nhật Triều Dƣơng" còn có tên là "Lục âm Triều Dƣơng", chính là mệnh
cách của sáu ngày Tân sinh vào giờ Mậu Tý. Khi bát tự vô Quan sát, lấy Quý thủy tàng trong
Tý ám hợp Mậu thổ ẩn trong Tị, dẫn động Bính hỏa Quan tinh nên quý.

Cổ ca:
Tân nhật đơn đơn phùng Mậu tý
Lục âm quý cách hỷ Triều dương
Bính Đinh tị ngọ hưu điền thực
Tuế vận luân phùng nhất lệ tường.

(Tân nhật chỉ khi gặp Mậu Tý là quý cách Lục âm Triều dƣơng, sợ quan tinh Bính Đinh tị
ngọ và điền thực, gặp tuế vận sẽ rõ ngay)

Cách cục này tốt nhất sinh tại tháng Thân Dậu, nếu nhật nguyên vô căn mà sinh tại tháng
Thìn cũng đƣợc. Bát tự tuế vận chỉ sợ Quan sát, hƣ không sợ điền thực bởi vì mệnh cục
không có Quan sát, tuế vận thấy Quan sát thì điền thực, liền phá cách, nên cho rằng "duy phạ
hỏa lai xâm".

Ví dụ:

Mệnh của Châu Chi Bình (19):

Mậu Tý / Tân Dậu / Tân Dậu / Mậu Tý

Mệnh vô Tài, vô Quan thì không phải mệnh phú quý, phải không? Không phải vậy, Tân nhật
sinh giờ Mậu Tý cấu thành Lục âm Triều dƣơng cách, Tý thủy có thể ám hợp Bính hỏa Quan
tinh ẩn trong Tị mà đắc quý, đại vận phƣơng Bắc lại không thấy Quan sát phá cách, cho nên
mệnh chủ văn chƣơng siêu quần, xuất thân vốn là Tiến sĩ, làm quan đến chức Bố chánh sứ
tỉnh Giang Tây.

Một nam mệnh:

Canh Ngọ / Giáp Thân / Tân Dậu / Mậu Tý

Bát tự có Ngọ hỏa Sát tinh, phá cách. Cho nên mệnh chủ là một lão nông nghèo khổ.

--
Chú thích:
509 | Tam mệnh thông hội

(19) Châu Chi Bình, tự Hạc Cao, đậu Tiến sĩ năm Gia Tĩnh thứ 38, triều đại nhà Minh
(1559). Được bổ nhiệm làm Tri huyện Lật Thủy (Nam Kinh), sau thành Tri phủ Cát An (Hoa
Liên), Có công dẹp loạn ở phủ Cát An, đời làm quan của Châu Chi Bình rất hanh thông, ông
đảm nhiệm rất nhiều chức vị, công việc khác nhau như Bố chánh sứ, Lang Trung chuyên coi
việc khảo thí ở Bộ Lại, Nam Kinh…
 10-09-12, 10:51
tuhynhan
Chính văn:

Ất mộc sinh cư Dậu


Mạc phùng toàn tị sửu
Phú quý khảm ly cung
Bần cùng thân dậu thủ.

(Ất mộc sinh tháng dậu,


đừng gặp đủ tị sửu,
sẽ phú quý khi ở Khảm Ly,
còn nghèo khó khi đóng thân dậu)

Đại Lục bình chú:

Ất mộc nếu sinh tại tháng Dậu là Thất Sát đƣơng lệnh, lúc này chỉ sợ hội đủ ba chữ Tị Dậu
Sửu, nhƣ vậy Thất Sát quá nhiều và quá mạnh, nếu không thể cấu thành Tòng sát cách thì
mệnh không tốt. Muốn phú quý phải đi vận thủy hoặc hỏa, nghĩa là lấy Ấn hóa Sát, hoặc
Thực Thƣơng chế Sát. Bởi vì quẻ Khảm là bắc phƣơng thủy, quẻ Ly là nam phƣơng hỏa, cho
nên mới nói "phú quý Khảm Ly cung". Nếu nhƣ Sát trọng mà không thể tòng Sát, lại hành
vận Thân Dậu Sát vƣợng, nhƣ vậy không bần cũng yểu.

Ví dụ:

Mệnh của Hứa Thế Anh (20):

Quý Dậu / Tân Dậu / Ất Sửu / Tân Tị

Địa chi Tị Dậu Sửu tam hợp Sát cục, một niên can Quý thủy nhỏ nhoi nan hóa bè lũ Sát tinh
này, nên cách cục Tòng Sát. Nhƣng nếu tuế vận phù trợ Quý thủy thì có thể thành cách Sát
Ấn tƣơng sinh. Mậu vận khử Quý, năm Đinh Dậu mệnh chủ đƣợc đề bạt tiến cử làm quan.
Đinh Tị vận, năm Tân Hợi xung khử Tị hỏa, mệnh chủ một bƣớc vọt lên làm Bố chánh sứ
tỉnh Sơn Tây. Năm kế Nhâm Tý, lƣỡng Ấn hóa Sát, thành cách Sát Ấn tƣơng sinh, mệnh chủ
nhảy vọt lần nữa thành Đại Lý viện trƣởng (Chánh tòa thƣợng thẩm), Bộ trƣởng Tƣ pháp.
Điều này chính là mô tả chân thực cho câu "phú quý khảm ly cung".

Một nam mệnh:

Ất Tị / Kỷ Sửu / Ất Sửu / Mậu Dần

Tị Sửu hợp kim, Sát đa Sát trọng, nhƣng nhật nguyên dựa vào Dần mộc gốc mạnh để không
510 | Tam mệnh thông hội

tòng Sát, kết quả thành ra một mệnh nát vụn không ăn khớp với nhau. Thuở nhỏ hành bắc
phƣơng Ấn vận, mệnh chủ không muốn học hành, từ nhỏ đã giao du với bọn trộm cắp, lớn
lên kiếm sống bằng trộm cắp. Ất Dậu vận tam hợp Sát cục, 35 tuổi gặp năm Canh Thìn, Quan
sát lộ ra công thân, mệnh chủ bị vợ dùng dao chém 4 nhát vào đầu, máu me bắn đầy mặt đất,
thập tử nhất sanh. Năm kế tiếp Tân Tị, tam hợp Sát cục công Thân lần thứ hai, mệnh chủ đầu
tiên là tang mẹ, tiếp theo vì ăn cắp nên bị bỏ tù, bị quản giáo trại giam đánh gãy ba xƣơng
sƣờn, nằm viện mất mấy tháng. Năm 39 tuổi Giáp Thân, Dần Tị Thân tam hình, lại vì lập
băng ăn cắp mà bị xử tù. Đây là lời chú giải thực tế cho câu "bần cùng thân dậu thủ".
 10-09-12, 10:53
tuhynhan
Chính văn:

Hữu sát chỉ luận Sát


Vô sát phương luận Dụng
Chỉ yếu khử Sát tinh
Bất phạ đề cương trọng.

Đại Lục bình chú:

Nói đến Thất Sát, đoạn trƣớc dù nói rất đúng về nguyệt lệnh Sát, nhƣng Thất Sát không đóng
ở nguyệt lệnh thì cũng là cái cần luận đến đầu tiên. Vì sao vậy? Bởi vì Sát là cái tấn công
thân, nếu trƣớc không thu xếp ổn thỏa thì nó sẽ uy hiếp sinh mệnh của mình. Nhƣ có một con
hổ lớn luôn bên ngƣời bạn, bạn còn nói đến chữ danh, chữ lợi gì nữa ƣ? Xem Sát tức là xem
bản thân có an toàn hay không, mà an toàn là nhu cầu tất yếu của mọi sinh vật, cho nên luận
mệnh trƣớc tiên phải luận Thất Sát. Hơn nữa, Sát còn đại biểu cho danh tiếng, quyền lợi, địa
vị, cái này cũng là thứ không thể thiếu đối với mỗi ngƣời, cho nên cần luận nó trƣớc tiên khi
luận mệnh. Thất Sát thì vậy, còn Chính quan thì sao? Thực ra cũng giống nhau cả, vì Thất sát
gọi là "Thiên quan", một loại Quan tinh thôi.

Cho nên "Uyên Hải Tử Bình", thiên "Bảo pháp 2" nói rằng: "Thông thường lấy Sát Quan bàn
cách cục". "Tam Mệnh Thông Hội", chƣơng Luận Chính quan ghi rằng: "Chọn Quan tinh
không cần cố chấp vào thần ở nguyệt lệnh hoặc nguyệt can, hoặc ở thiên can của niên, nhật,
thời, chỉ một chỗ có mà không bị tổn thương thì đều có thể thủ dụng". Bởi vậy, luận mệnh
trƣớc tiên cần luận Sát Quan. Nếu nhƣ Sát Quan và nguyệt lệnh thành cách, sẽ luận Sát Quan
cách này đầu tiên. Nếu nhƣ Sát Quan độc lập thành cách, thì có thể bỏ nguyệt lệnh Dụng thần
không dùng mà chỉ luận Sát Quan cách. Nếu nhƣ Sát Quan bất thành cách, thì mới trở lại
luận nguyệt lệnh Dụng thần, đây là ý của câu "hữu Sát chỉ luận Sát, vô Sát phương luận
dụng". Chỉ cần Sát hữu chế, Quan thành cách, sẽ không ngại nguyệt lệnh Dụng thần vƣợng
cƣờng mà lại không thành cách cục, nên cho rằng: "chỉ cần khử Sát tinh, không sợ đề cương
mạnh".

Ví dụ:

Một nam mệnh:

Bính Tuất / Tân Sửu / Đinh Mùi / Quý Mão

Nguyệt lệnh là tạp khí Chánh Tài cách (Tâm kim tàng trong sửu), nhƣng Tài sinh Thất Sát mà
511 | Tam mệnh thông hội

phá cách. Cũng may Quý thủy tọa Mão là có Ấn hóa Sát, có thể cấu thành Sát Ấn tƣơng sinh
cách. Cái này đã thành "không sợ đề cương trọng", cho nên mệnh chủ học hành suông sẻ,
công danh làm đến chức trƣởng phòng Tài chính của một tỉnh.

Một nam mệnh khác:

Quý Mão / Tân Dậu / Bính Dần / Quý Tị

Cũng là một bát tự dụng Tài bị Quan tinh phá cách, nhƣng niên chi mão mộc Ấn tinh bị
nguyệt lệnh xung khắc, nhật chi dần mộc Ấn tinh không thể trực tiếp hóa Quan, đều không
thể cấu thành Sát Quan cách. Quan cách đã không thành, Tài cách cũng bị phá, liền biến
thành một mệnh nát bét không ăn nhập vào đâu. Cho nên mệnh chủ xuất thân nông dân, trồng
rau sinh sống, cả đời cực khổ, cũng khó mà thoát nghèo làm giàu, vì Quan sát tinh đại biểu
cho con cháu bị phá cách, cho nên con bị di chứng sau viêm màng não, ngu ngơ ngu ngác, cái
bệnh của cách cục mệnh chủ đã biến thành tâm bệnh vĩnh viễn cũng không thể dứt đƣợc.

Một nữ mệnh:

Bính Thìn / Nhâm Thìn / Đinh Tị / Quý Mão

Mệnh này nếu luận theo "Cân bằng Dụng thần" thì thuộc về một mệnh tốt Thân vƣợng Quan
vƣợng, bất kể nhƣ thế nào cũng không nhìn ra đây là một mệnh bèo bọt. Nhƣng lấy luận theo
Tử Bình cách cục để xem thì không phải vậy. Mệnh này Quan sát cùng thấu, Thất Sát tuy có
Mão mộc hóa để sinh Thân, nhƣng Quan tinh nguyệt lệnh không có Ấn hóa, Ất mộc trong
thìn không thấu thì hóa lực rất nhỏ, nên khó thành cách cục. Nhƣ thế thì học hành, sự nghiệp
nhất định vô thành, mà khi gặp Tuế vận sinh vƣợng Sát Quan còn có thể gặp tai họa nặng,
thuộc dạng số mệnh bất bần tức yểu. Trên thực tế, mệnh chủ sau khi học hết trung học cơ sở
thì lang bạt giang hồ, không có nghề nghiệp ổn định. Canh Dần vận, Kỷ Mão niên (1999), Kỷ
thổ Thƣơng quan (Thực đa biến thành Thƣơng) lộ ra khắc Quan, vợ chồng mệnh chủ bị bỏ tù
vì tội tổ chức mại dâm. Hai năm sau tức năm Tân Tị, bị tuyên án tử hình, kết thúc tính mạng
ở tuổi đôi mƣơi. Đây là lý do cổ nhân cho rằng cần lấy cách cục để luận mệnh, đồng thời
nhấn mạnh "phàm cách dĩ Sát Quan luận chi" (thông thƣờng lấy Sát, Quan để luận cách).

( HẾT PHẦN ĐẦU - CHỜ TÁC GIẢ HOÀNG ĐẠI LỤC BÌNH CHÚ TIẾP THEO )
 13-09-12, 14:43
kimcuong
Hôm nay xem lại cách "Lục âm triều dƣơng", có vài điểm cần tham khảo lại. Thật ra, nói
chung các cách mang tên mỹ miều văn hoa này (nhƣ Tí dao Tị cách, Phi thiên lộc mã..v.v...)
có lẽ là những lúc các cụ uống trà đàm mệnh số và thích chí đặt tên cho vài cách cục gọi là
"đặc cách", tốt thật là tốt, mà phá cách một tí thì xấu thật là xấu. Những cách này làm rõ nét
vài đặc điểm của tứ trụ rất ít gặp, nên nhất định phải có qui tắc nhất định rõ ràng, không thể
du di loại trừ 1 điểm gọi là "khả dĩ" đƣợc.

Tìm hiểu tận gốc cũng là những bài tập cho hậu học chúng ta hiểu thấu đáo vấn đề, khi giải
luận bớt đi đƣợc phần nào do dự phân tâm.
512 | Tam mệnh thông hội

Thí dụ nhƣ đọc 4 câu của Ngũ ngôn độc bộ nhƣ trên mà kết luận Tân nhật chủ nào gặp giờ
Mậu Tí, bất kể 2 trụ còn lại và địa chi của nhật chủ ra sao cũng đều là "Lục âm triều dƣơng"
là có thể lầm hoặc hoang tƣởng là cách tốt. Ngay cả luận là "phá cách" cũng không đúng, bởi
vì, nhƣ đã nói trên, ở những cách cục đặc biệt này, chỉ có "thành cách", chứ không có vấn đề
phá cách khi không thỏa đƣợc điều kiện khắc khe của Cách.

Thí dụ của Hoàng Đại Lục dƣới đây, quả thật tôi cũng ngạc nhiên khi thấy ông ta nêu ra, bởi
vì đọc Ngũ ngôn độc bộ chƣa đủ, mà phải đọc thêm các Cổ ca, Thƣ quyết... khác liên quan
đến vấn đề. Theo kinh nghiệm là phải chịu khó nhọc mới đƣợc, nếu không thì vội vàng làm
hỏng cả quá trình nghiên cứu của mình.
Trích dẫn:

Ví dụ:
Mệnh của Châu Chi Bình (19):
Mậu Tý / Tân Dậu / Tân Dậu / Mậu Tý
Mệnh vô Tài, vô Quan thì không phải mệnh phú quý, phải không? Không phải vậy, Tân nhật
sinh giờ Mậu Tý cấu thành Lục âm Triều dƣơng cách, Tý thủy có thể ám hợp Bính hỏa Quan
tinh ẩn trong Tị mà đắc quý, đại vận phƣơng Bắc lại không thấy Quan sát phá cách, cho nên
mệnh chủ văn chƣơng siêu quần, xuất thân vốn là Tiến sĩ, làm quan đến chức Bố chánh sứ
tỉnh Giang Tây.

đại vận: nhâm tuất, quí hợi, giáp tí, ất sửu, bính dần, đinh mão, mậu thìn

Một nam mệnh:


Canh Ngọ / Giáp Thân / Tân Dậu / Mậu Tý
Bát tự có Ngọ hỏa Sát tinh, phá cách. Cho nên mệnh chủ là một lão nông nghèo khổ.

Mệnh Châu Chi Bình sinh năm 1528 mới đúng là năm Mậu Tí nhƣ thí dụ. Mệnh này khuyết
sạch hành Hỏa và Mộc nên thuần. Nguyệt kiếp cách, thấu Ấn thì dụng Ấn, nhƣng Ấn quá
nhiều nên cần Thực chế, chính là hành Mộc ở đại vận. Vả lại, nếu theo đúng luật của cách
"Lục âm triều dƣơng" thì không thể thấy Bính, Đinh, Tị, Ngọ, Mùi (hành Hỏa vƣợng), nên
đại vận Bính Dần, Đinh Mão là sái luật, không thể làm quan đƣợc. Vì thế, không thể luận
Châu Chi Bình đƣợc quý cách này (quí cách thì nhiều, không cứ nhất định phải "lục âm triều
dƣơng").

Mệnh của ông lão thì liếc qua cũng là không phải cách này, không cần bàn đến.

Trong Tam Mệnh Thông Hội, Cùng Thông Bửu Giám... cũng đều luận "Lục âm triều dƣơng"
tỉ mỉ hơn. Các bạn có thể tìm hiểu thêm.
 13-09-12, 16:52
Hjmama
Châu Chi Bình: Mậu tí/Tân dậu/Tân dậu/Mậu tí
Mậu hƣ thấu tự hợp Tí,xem nhƣ ấn bị khử,khử ấn đắc ấn. Cách cục mệnh này là Nguyệt kiếp
cách dụng Thực Thƣơng tiết tú. Vào vận Bính dần đất mộc Ấn bị khử sạch, thêm Bính-Tân
hợp uy quyền đây có lẽ là vận đắc cách nhất đời. Vận Đinh mão không hay,chắc thất lộc.
 14-09-12, 05:00
Hjmama
513 | Tam mệnh thông hội

"Lấy Quan sát chế Tỉ Kiếp, lại phân ra xung khắc và hợp chế, hợp chế nếu
so với xung khắc thì tốt hơn nhiều. Vì sao vậy? Bởi vì xung khắc biểu thị
còn đang xung đột, như hai người đánh nhau chưa phân thắng bại, nếu
như Nhận trọng Sát khinh, thì sẽ kích động Thất Sát công Thân, cho dù là
Sát Nhận lưỡng đình (cùng mạnh như nhau), yên ổn cũng chỉ là tạm thời,
một Dương nhận cương kiện bất khuất bất cứ lúc nào cũng sẽ phản công
Thất Sát. Mà hợp Sát thì không giống vậy, hợp Sát như lấy dây thừng trói
trâu ngựa, dù chỉ là dây ba thước của trẻ con cũng có tác dụng. Cho nên
sách mệnh học mới nói là: "hợp Sát vi quý", "Dương nhận sợ xung".
Đọc lời bình của HĐL thích nhất là cách diễn giải bằng hình tượng lý thú gây ấn tượng dễ
nhớ này.
Lần nữa xin cám ơn bạn Đăng.
 14-09-12, 12:37
kimcuong
Trích dẫn:

Ví dụ:
Mệnh của Hứa Thế Anh (20):
Quý Dậu / Tân Dậu / Ất Sửu / Tân Tị
Địa chi Tị Dậu Sửu tam hợp Sát cục, một niên can Quý thủy nhỏ nhoi nan hóa bè lũ Sát tinh
này, nên cách cục Tòng Sát. Nhƣng nếu tuế vận phù trợ Quý thủy thì có thể thành cách Sát
Ấn tƣơng sinh. Mậu vận khử Quý, năm Đinh Dậu mệnh chủ đƣợc đề bạt tiến cử làm quan.
Đinh Tị vận, năm Tân Hợi xung khử Tị hỏa, mệnh chủ một bƣớc vọt lên làm Bố chánh sứ
tỉnh Sơn Tây. Năm kế Nhâm Tý, lƣỡng Ấn hóa Sát, thành cách Sát Ấn tƣơng sinh, mệnh chủ
nhảy vọt lần nữa thành Đại Lý viện trƣởng (Chánh tòa thƣợng thẩm), Bộ trƣởng Tƣ pháp.
Điều này chính là mô tả chân thực cho câu "phú quý khảm ly cung".

Hứa Thế Anh là một nhân vật thành công ở ngành tƣ pháp, vậy đúng là tính cách của Sát.
Kim cục Tị Dậu Sửu với 2 Tân kim lộ, quả là Ất mộc vô căn, Ấn thủy cũng kể nhƣ vô căn (vì
Quí trong Sửu bị hợp), thân nhƣợc phải tòng theo Sát, lấy Thổ Tài làm hỉ để sinh Kim (bảo
vệ Sát) và dụng cả Thủy Ấn đƣợc trong trƣờng hợp này, vì trong Sửu có đủ Thổ, Thủy, Kim.
Lại nữa, Tị hỏa nằm trong tam cục Kim nên kể nhƣ không còn là kị thần của Ấn, vì thế mới
gọi là tƣơng sinh, hay gọi là tƣơng hàm (nhƣ đồng loại, đồng bọn).

Câu "phú quý ở Khảm Ly cung" đƣợc giải thích ở vận Đinh Tị và năm Nhâm Tí, vì Đinh Tị
là thuần Hỏa, Nhâm Tí thuần Thủy. Thuần nhất không pha tạp thì mới thành công ở cách này.
Đúng là từ mốc này, mệnh số của Hứa Thế Anh bắt đầu phát ở chính cách của mình (nghành
tƣ pháp).

Nói thêm, nếu đã luận "Khảm Ly cung" vậy có "Tốn cung, Càn cung" không? Thật ra là có,
nhƣng Tốn thì nói là "đến phƣơng đông nam", còn Càn là phƣơng tây bắc. Nhƣng chính
nghĩa lấy Can Chi mà định thì phƣơng đông nam chính là thiên can mộc, địa chi hỏa (giáp
ngọ, ất tị), còn phƣơng tây bắc có thể hiểu là vận canh tí, tân hợi vậy.

Nói về vận tử của Hứa Thế Anh ta thấy rõ Sát dù sao cũng là tiêu chí hủy hoại nhật chủ, và
khi tam cục bị vỡ, Sát sẽ là hung thần kết thúc mạng số. Theo tài liệu, Hứa Thế Anh chết
ngày 13.10.1964 là năm Giáp Thìn, vận Tân Hợi. Hợi xung Tị, tháng chết là tháng Tuất xung
Thìn lƣu niên, ngày 13 là ngày Mùi xung Sửu, toàn bộ Kim cục bị phá vỡ, nên dụng thần
514 | Tam mệnh thông hội

chuyển thế thành kị, Tân kim đại vận không còn đại diện cho Cục nên khắc khử luôn Ất nhật
chủ.
 15-09-12, 10:58
tuhynhan
Trong khi chờ đợi tác giả Hoàng Đại Lục viết tiếp trên blog của mình, Đăng tạm thời đăng ý
kiến bình chú của các vị khác, chỉ lƣợc dịch theo kiểu tổng hợp ý kiến khác nhau thôi, chứ
dịch nguyên văn thì vừa dƣ thừa, vừa mất thời gian.

Đăng viết ngay sau phần Hoàng Đại Lục bình chú.
 26-09-12, 04:18
Hjmama
Trích dẫn:

Chính văn:

Giáp Ất sinh cư Mão


Kim đa phản cát tường
Bất nghi trọng kiến Sát
Hỏa địa đắc y lương.

Đại Lục bình chú:

Giáp Ất nhật sinh tại tháng Mão là Nguyệt Kiếp cách, tuy nói phải có Quan sát chế Kiếp
thì cát tường, nhưng Thất Sát không nên nhiều quá, nếu như một Kiếp có ba bốn Quan
Sát đến chế, chế Kiếp quá mức sẽ tổn cách hại người, cho nên "Hỷ Kị Thiên" ghi rằng:
"Nguyệt lệnh tuy phùng kiến
lộc, thiết kị hội Sát vi hung" (Nguyệt lệnh tuy kiến Lộc, phải tránh gặp Sát thành hung).

...........
Theo TBCT bản nghĩa,HĐL bình chú thì Kiến lộc cách không nên gặp Sát dù chỉ một,và
trong trƣờng hợp này nếu có Thực thì thành cách Thực chế Sát.
 26-09-12, 17:30
kimcuong
Nguyệt lệnh là Bỉ Kiếp thì cơ bản rất cần thân nhƣợc! Vì thế nên có Quan Sát tức là ý muốn
nói chỉ cần thiết khi thân vƣợng quá. Đồng thời ta cũng hiểu là nhật vƣợng mà gặp thêm Bỉ
Kiếp thì đoạt mất Tài không nƣơng tha, nhƣ Thủy chế Hỏa vừa phải là "đƣợc" Tài, Thủy quá
hung hăng nhƣ nƣớc vỡ bờ thì dập tiêu luôn Tài.

Nếu nói "không nên gặp Sát dù chỉ 1, nhƣng có Thực thì thành Thực chế Sát", câu này theo
KC thì HĐL hơi bị lẩm cẩm... hoặc ta chƣa viết lại rõ toàn bộ ý tƣởng của ông ta. Bởi vì thứ
nhất, nếu không có mặt Sát, Thực lấy gì mà "chế"? Tức là phải có Sát lộ ra trong điều kiện
thân vƣợng thì Thực mới chế. Lại nữa, cả Sát và Thực ngang lực nhƣ nhau thì mới chế hóa
nhau, nếu 1 bên quá mạnh, 1 bên quá nhẹ, e rằng không đơn thuần gọi là "thực chế sát". Tuy
nhiên, phải có thí dụ cụ thể thì mới hiểu rõ hơn.

Thứ nhì, nếu là cách cần có Sát chế ngự, mà lại có thêm lực chế lại Sát thì giống nhƣ "tự xử"
luôn rồi, làm sao nhƣ thế đƣợc?
 26-09-12, 18:38
515 | Tam mệnh thông hội

thiếu bá
Trích dẫn:

Gửi bởi Hjmama


...........
Theo TBCT bản nghĩa,HĐL bình chú thì Kiến lộc cách không nên gặp Sát dù chỉ một,và
trong trƣờng hợp này nếu có Thực thì thành cách Thực chế Sát.

TBCT bản nghĩa mà Hoàng Đại Lục bình chú trong tay thiếu bá có 16 chƣơng và chỉ thấy
nhắc đến Dƣơng nhận cách chứ không thấy đề cập đến cách Kiến lộc. Phiền Hj post giùm
đoạn bình chú về cách Kiến lộc của HĐL, cảm ơn bạn.
 26-09-12, 18:44
thiếu bá
Trích dẫn:

Gửi bởi kimcuong


Nếu nói "không nên gặp Sát dù chỉ 1, nhƣng có Thực thì thành Thực chế Sát", câu này theo
KC thì HĐL hơi bị lẩm cẩm... hoặc ta chƣa viết lại rõ toàn bộ ý tƣởng của ông ta.

Dạ đúng chị ạ vì ý của nguyên chú đúng nhƣ chị diễn giải, mà ý trên HĐL bình chú Ngũ
ngôn độc bộ em thấy đúng mà ???:4:
 26-09-12, 23:10
Hjmama
@thiếu bá
Chƣơng 7. Luận dụng thần thành bại cứu ứng. HĐL bình chú, Thấtsát dịch,trang tvls.
 27-09-12, 09:29
tuhynhan
Chƣơng: Luận dụng thần biến hóa - TBCT bản nghĩa của Hoàng đại lục (thatsat phóng
dịch)- có đoạn sau:

Trích dẫn:

Giải độc:

...............

Ất mộc sinh ở dần nguyệt, là nguyệt kiếp cách. Lúc này nếu thấy mậu thổ tài tinh trong dần
lộ ra, địa chi thêm có hai chữ ngọ tuất, dần mộc thì phải theo hội hợp mà biến hỏa, hóa kiếp
thành thực Thƣơng, và ngƣợc lại đi sinh mậu thổ tài tinh, nhƣ thế chính là khiến cách cục
càng biến càng tốt;
Cùng loại thƣợng thuật nhƣ vậy đích biến hóa, không thể đếm, đều là hiện tƣợng cách cục
càng biến càng tốt.

Nói tới đây, có một số ngƣời có thể sẽ đƣa ra hai vấn đề chi tiết nhƣ thế này: một là ất mộc
sinh ở dần nguyệt, nguyên văn nói "Hội ngọ hội tuất, thì nguyệt kiếp hóa thành Thực Thƣơng
", nhƣng là cũng không có minh xác chỉ ra một ngọ chữ hoặc một tuất chữ có thể hóa hay
không; hai là ất mộc sinh ở dần nguyệt, giáp mộc trong dần mặc dù nhiên không thể làm
516 | Tam mệnh thông hội

dụng thần, nhƣng không phải còn có "cấp phó" bính hỏa sao? Không thể lấy bính hỏa là dụng
định cách sao?

Đối với câu hỏi này, Thẩm lão tiên sinh sợ là không có bản lãnh trả lời chúng ta rồi. Chúng ta
chỉ có chính mình tìm kiếm đáp án. Có mệnh một vị nữ sĩ nhƣ thế, mệnh là:

Tỉ tài nhật ấn

Ất mậu ẤT Nhâm

Hợi dần mão ngọ

Đại vận: kỷ mão Canh thìn Tân tị Nhâm ngọ quý mùi giáp thân

Ất mộc sinh ở dần nguyệt, là nguyệt kiếp cách, theo địa chi có ngọ, dần ngọ hợp hỏa, nguyệt
kiếp cách liền biến thành Thực Thƣơng cách. Hỉ nguyệt can là mậu thổ tài tinh, thực Thƣơng
sinh Tài, dụng thần là càng biến càng tốt. Chỗ khiếm khuyết duy nhất là niên can ất mộc khắc
mậu thổ, may là đại vận có Canh, Tân Quan sát chế phục ất mộc, khiến cho không thể kiếp
tài, vì vậy mệnh chủ thời trẻ đã rong ruổi Thƣơng trƣờng, tài phát trăm vạn, vợ chồng tƣơng
kính, tứ tử đều quý. Nếu nhƣ mệnh cục không có niên can ất mộc quấy nhiễu, khiến Tài của
mệnh chủ phá tổn tƣơng đối nhiều, nhƣ vậy mệnh chủ sẽ là phú bà siêu cấp rồi.

Từ ví dụ này có thể biết, mệnh cục có ngọ không có tuất, chữ ngọ cùng chữ dần bán hợp,
cũng là có thể hóa hỏa. Luận cách cục thì, ngũ hành hợp hóa không cần có cái gì hóa thần,
Thẩm thị đối với việc này cũng không có đƣa ra yêu cầu.

..............

 27-09-12, 09:51
tuhynhan
PHÂN TÍCH NHƯ SAU:

Ất ........ Mậu ....... ẤT ......Nhâm


hợi ....... dần ...... mão ...... ngọ

Thứ nhất,

Ông Hoàng Đại Lục nói Ất sinh Dần nguyệt thuộc nguyệt Kiếp cách, điều này đúng, thế
nhƣng sau lại nói Dần Ngọ hợp hỏa, nguyệt Kiếp cách biến thành Thực Thƣơng cách, thì rất
cần phải bàn lại.

Tại mệnh này, Dần là nguyệt kiến, ngoài việc bị mão cách ly thì dần còn bị hợi trói ngay bên
cạnh! Tại sao Hoàng Đại Lục hết lần này tới lần khác chỉ đề cập đến Dần Ngọ hợp hỏa, mà
không nói tới Dần Hợi hợp mộc? Niên nguyệt hợp, trên niên can lại lộ hóa thần Ất mộc, mộc
lại nắm lệnh, hợp này chắc chắn mạnh hơn Dần Ngọ hợp hỏa bị mão ngăn cách. Dần bị Hợi
hợp trụ thì còn tâm trí, sức lực nào nữa mà đi hợp với Ngọ.
 27-09-12, 10:35
thiếu bá
517 | Tam mệnh thông hội

Trích dẫn:

Gửi bởi Đăng


PHÂN TÍCH NHƯ SAU:

Ất ........ Mậu ....... ẤT ......Nhâm


hợi ....... dần ...... mão ...... ngọ

Thứ nhất,

Ông Hoàng Đại Lục nói Ất sinh Dần nguyệt thuộc nguyệt Kiếp cách, điều này đúng, thế
nhƣng sau lại nói Dần Ngọ hợp hỏa, nguyệt Kiếp cách biến thành Thực Thƣơng cách, thì rất
cần phải bàn lại.

Tại mệnh này, Dần là nguyệt kiến, ngoài việc bị mão cách ly thì dần còn bị hợi trói ngay bên
cạnh! Tại sao Hoàng Đại Lục hết lần này tới lần khác chỉ đề cập đến Dần Ngọ hợp hỏa, mà
không nói tới Dần Hợi hợp mộc? Niên nguyệt hợp, trên niên can lại lộ hóa thần Ất mộc, mộc
lại nắm lệnh, hợp này chắc chắn mạnh hơn Dần Ngọ hợp hỏa bị mão ngăn cách. Dần bị Hợi
hợp trụ thì còn tâm trí, sức lực nào nữa mà đi hợp với Ngọ.

Đồng ý với lão vẫn là Nguyệt kiếp cách, nhƣng sang Hỏa vận thì cách cục có sự biến hóa
(chắc ý HĐL là thế nhƣng không viết rõ ra?:4:)... Dù gì với mệnh này thì nếu theo nghiệp
thƣơng trƣờng, vận hành Hỏa vận phát tài là điều dễ nhận thấy.
 27-09-12, 10:47
thiếu bá
Trích dẫn:

Gửi bởi Hjmama


@thiếu bá
Chƣơng 7. Luận dụng thần thành bại cứu ứng. HĐL bình chú, Thấtsát dịch,trang tvls.

Nguyên văn: ...Kiến lộc nguyệt kiếp, thấu quan mà gặp tài ấn, thấu tài mà gặp thực thƣơng,
thấu sát mà ngộ chế phục, cách thành kiến lộc nguyệt kiếp.

HĐL bình chú: ...Nguyệt lệnh kiến lộc, có quan tinh, mà có tài ấn tƣơng phối, thì cùng chính
quan cách đồng luận; nguyệt lệnh kiến lộc, vô quan hữu sát, mà có thực thần chế sát, thì cách
tƣơng đồng sát yêu thực chế; nguyệt lệnh kiến lộc, vô quan sát hữu tài tinh, mà có thực
thƣơng sinh tài, thì cùng tài gặp thực sinh cách đồng luận.

Nguyên văn: ...kiến lộc nguyệt kiếp, không có tài quan, thấu sát ấn, kiến lộc nguyệt kiếp cách
bại.

HĐL bình chú: ...Lộc cách, không có tài quan mà thấu sát thấu ấn, tức là phá cách.

Nguyên văn: ...kiến lộc nguyệt kiếp dụng quan, ngộ thƣơng mà thƣơng bị hợp, dụng tài mang
sát mà sát bị hợp, gọi là cứu ứng.
 kimcuong
518 | Tam mệnh thông hội

Đồng ý với Đăng và Thiếu Bá, nhƣng theo chị hiểu thì HĐL phân tích khác biệt mà cũng dấu
nghề một chút. Nói chung là cũng có thể chấp nhận Hỏa vƣợng trong thí dụ nữ sĩ trên nhƣ
thế, và nguyệt kiếp cách biến hóa đƣợc sang thƣơng quan cách sinh tài.

Trích dẫn:

Tỉ tài nhật ấn

Ất mậu ẤT Nhâm

Hợi dần mão ngọ

Đại vận: kỷ mão Canh thìn Tân tị Nhâm ngọ quý mùi giáp thân

Bí mật chỉ là theo mệnh lý căn bản, Mộc mùa Xuân rất cần Hỏa tức thì (ý nói trong mệnh
cục) để tránh bị hàn lạnh. Lệnh tháng có Bính thì một là có Bính thấu ra, hai là có tam hợp
Hỏa. Giờ sinh Ngọ, Nhâm cái đầu, nhƣng Hợi bị Dần hợp bán là một điều tốt. Dần Ngọ dù
cách xa trụ nhƣng cũng có thể bán hợp do Mộc cũng khá nhiều tƣơng trợ cho Hỏa, lại đủ lực
để chế Mậu.

Thƣơng quan Hỏa sinh đƣợc Tài Mậu, nguyệt kiếp cách này dụng đƣợc cả hai Bính Mậu một
cách tốt đẹp, lại thêm "thanh" vì địa chi không có hình xung khắc hại, các cặp hợp nhau đều
trong vòng tƣơng sinh: Dần Hợi, Hợi Mão, Dần Ngọ.

Trong TBCT, dù không nhắc đến điều trên, nhƣng đấy là phần phải học trƣớc đó rồi, không
ai cứ mỗi chƣơng lại mỗi nhắc lại cả. Nên trách "Thẩm lão tiên sinh sợ là không có bản lãnh"
và "Thẩm thị đối với việc này cũng không có đưa ra yêu cầu" là hơi tự phô trƣơng tài nghệ
mà thôi.

Nói về "hóa thần" trong trƣờng hợp địa chi biến hóa thì ngoài việc thấu Can, còn có thể tính ở
lệnh tháng, địa chi gần hay cách trụ vì thế nhờ lệnh tháng, nhờ có tƣơng trợ, nhờ địa chi
không xung hại nhau, nên có thể biến hóa đƣợc. Vậy Dần Ngọ cách bởi Mão mà điều kiện là
mùa Xuân, hỏa tƣớng, có Ấn sinh (mộc), kị thần bị trói, quả là ở thí dụ của nữ sĩ, Thƣơng
quan Hỏa biến thành cách thành công.

Lại nói, đấy là 1 lẽ, mặt khác, ta thấy thí dụ nữ sĩ thiếu hẳn hành Kim Quan Sát, nên Thƣơng
quan đổ hết lực sinh Tài, vậy không kinh doanh kiếm tiền thì làm gì đây?
 27-09-12, 12:19
Hjmama
Theo tôi hiểu thì Kiến lộc cách khác Âm nhận cách nên dụng Sát không thể giống nhau đƣợc.
Kiến lộc cách tức nhật can ở ngôi Lâm quan chƣa đạt đến đỉnh vƣợng nhất nên dụng Quan
theo ý nghĩa Thân vƣợng dụng Quan (không phải dụng chế Tỉ kiên). Không dụng Sát vì: nhật
can chƣa đạt đỉnh Đế vƣợng, hơn nữa Sát là hung thần nên cần Thực chế.
 27-09-12, 12:25
kimcuong
Trích dẫn:

Chỗ khiếm khuyết duy nhất là niên can ất mộc khắc mậu thổ, may là đại vận có Canh, Tân
Quan sát chế phục ất mộc, khiến cho không thể kiếp tài, vì vậy mệnh chủ thời trẻ đã rong ruổi
519 | Tam mệnh thông hội

Thƣơng trƣờng, tài phát trăm vạn, vợ chồng tƣơng kính, tứ tử đều quý. Nếu nhƣ mệnh cục
không có niên can ất mộc quấy nhiễu, khiến Tài của mệnh chủ phá tổn tƣơng đối nhiều, nhƣ
vậy mệnh chủ sẽ là phú bà siêu cấp rồi.

Đây là nói về thân vƣợng, tuy khuyết Quan Sát ở mệnh cục, nhƣng đƣợc chế phục đúng lúc ở
vận hạn, nên có thể nói là cách cƣ xử khôn khéo mà làm ra đƣợc việc cho chính mình. Có
nhiều con cũng là do Thƣơng quan là dụng.

(Các bạn đừng nhầm với thuật ngữ "thƣơng quan gặp quan họa bách đoan", đó chỉ là khi có
sẵn Quan Sát trong mệnh cục, từ đó cách cục không thay đổi thành Thƣơng quan sinh Tài
đƣợc, vì có Quan lộ. Nói về tính tình là có khi mâu thuẫn giữa chọn lựa Tài hay Quan, chọn
nghề không đúng, không biết làm gì thích hợp...v.v..., tức là không nhất trí, không có mục
đích hẳn hòi.)

Còn việc tài bị phá tổn, ắt hẳn là khi Giáp Ất trụ ở thiên can (vận Giáp Thân, Ất Dậu, sau 50
tuổi trở đi), Tỉ Kiếp quá thừa thải nên phá Tài. Nhƣng nên suy nghĩ thêm, biết đâu là ngƣời
thích cho tiền cho con cháu, ngƣời nghèo thì sao? Không thể gọi thực tế là "phá của", mà tiền
vào tiền ra bằng nhau với mục đích hƣớng thiện thì thật là tốt.
 27-09-12, 12:41
kimcuong
Theo tôi thì gọi là "Âm nhận cách" bị phản nghĩa với tính chất của Âm thích bình hòa, không
cƣờng vƣợng thái quá. Vì thế nên Âm không "nhận Dƣơng". Gọi là "nguyệt kiếp" thì đơn
giản hơn, vì Ất sinh tháng Dần, Giáp là Kiếp.

Trích dẫn:

Kiến lộc cách tức nhật can ở ngôi Lâm quan chƣa đạt đến đỉnh vƣợng nhất nên dụng Quan
theo ý nghĩa Thân vƣợng dụng Quan (không phải dụng chế Tỉ kiên). Không dụng Sát vì:
nhật can chƣa đạt đỉnh Đế vƣợng, hơn nữa Sát là hung thần nên cần Thực chế.

Đúng thế, Kiến lộc cách là nhật chủ tọa Lâm Quan ở tháng sinh. Nguyệt kiếp cách là nhật chủ
tọa Đế vƣợng. Nói về địa chi để xét Quan Sát thế nào, thì rõ là Giáp sinh tháng Dần kiến lộc
mà thấy Thân là bị xung, vì thế Canh thất sát (bản khí của Thân) không phải là điều mà Lộc
cần; xung Lộc là thất lộc.

Giáp sinh tháng Mão là đế vƣợng, dƣơng nhận cƣờng vƣợng thái quá, nên cần có Dậu xung
bớt, tức là Tân Quan.

Tuy thế, nhắc lại, tùy theo tứ trụ mà các điều trên có thể phản nghịch, do thân vƣợng trở nên
nhƣợc hoặc ngƣợc lại.
 27-09-12, 13:12
tuhynhan
Tiếp theo post #38 :

PHÂN TÍCH NHƯ SAU:

Ất ........ Mậu ....... ẤT ......Nhâm


hợi ....... dần ...... mão ...... ngọ
520 | Tam mệnh thông hội

Thứ nhất,

Ông Hoàng Đại Lục nói Ất sinh Dần nguyệt thuộc nguyệt Kiếp cách, điều này đúng, thế
nhƣng sau lại nói Dần Ngọ hợp hỏa, nguyệt Kiếp cách biến thành Thực Thƣơng cách, thì rất
cần phải bàn lại.

Tại mệnh này, Dần là nguyệt kiến, ngoài việc bị mão cách ly thì dần còn bị hợi trói ngay bên
cạnh! Tại sao Hoàng Đại Lục hết lần này tới lần khác chỉ đề cập đến Dần Ngọ hợp hỏa, mà
không nói tới Dần Hợi hợp mộc? Niên nguyệt hợp, trên niên can lại lộ hóa thần Ất mộc, mộc
lại nắm lệnh, hợp này chắc chắn mạnh hơn Dần Ngọ hợp hỏa bị mão ngăn cách. Dần bị Hợi
hợp trụ thì còn tâm trí, sức lực nào nữa mà đi hợp với Ngọ. Ngay cả luận điểm của ông
Hoàng Đại Lục: "Dần Ngọ hợp hỏa, nguyệt Kiếp cách biến thành Thực Thƣơng cách" thì dần
hợp ngọ biến cách một cách vô điều kiện sao? Ta luận mệnh là phải chú trọng phân tích
khách quan chứ không phải khăng khăng giữ quan điểm cá nhân, suy nghĩ chủ quan.

Cách cục của mệnh này thì ngƣời xƣa đã từng luận rồi, xem toàn cục thì Dần Hợi hợp mộc,
nhật can Ất mộc tọa Lộc, toàn cục mộc khí cƣờng vƣợng, cách cục thủ Thực Thƣơng tiết tú,
còn thiên can lộ Mậu Tài, Tài đóng ở Kiếp, hai bên đều có Ất mộc khắc, Mậu Tài đúng là
đóng ở nơi "đầu sóng ngọn gió", hoàn toàn ứng với mƣợn Thực Thƣơng hóa thế đoạt Tài của
Tỉ Kiếp.

Ở đây liếc mắt cũng nhìn ra, sao phải dẫn dắt đến việc Dần Ngọ hợp hỏa mà biến cách. Đây
chỉ là dùng một chút công lực manh phái, còn cách cục thì manh phái không bàn.

Thứ hai,

Hoàng luận "may mà đại vận hữu Canh, Tân Quan sát chế phục Ất mộc, khiến cho không thể
đoạt Tài", luận điểm này thật sự chính xác không?

Toàn cục mộc khí cƣờng vƣợng nhƣ vậy, thiên can địa chi đều nhiều, chả nhẽ đại vận Canh
Thìn, Tân Tị thiên can lộ một chút kim thì có khả năng chế phục? phải chăng câu "mộc kiên
kim khuyết" (mộc cứng kim bị mẻ) không thể dùng trong trƣờng hợp này? Canh kim đơn
thuần chỉ khắc Ất mộc? tôi cho rằng hai Ất mộc còn đang hợp trói Canh kim? huống chi đại
vận Canh Thìn, nguyên mệnh cục có hai chữ Dần Mão, đại vận xuất hiện chữ Thìn, chẳng lẽ
không thể cấu thành Dần Mão Thìn tam hội Đông phƣơng mộc? Mấy trò này càng luận càng
phát hiện ra chổ sai không nhƣ Hoàng Đại Lục trình bày.

Canh Tân kim chẳng lẽ chỉ biết khắc Ất mộc, mà không biết sinh thời can Nhâm thủy? Phải
biết rằng Nhâm thủy ngồi ngay trên Ngọ hỏa, cổ nhân luận là "cái đầu" (trùm đầu), từ quy
luật ngũ hành sinh khắc chế hóa mà nói thì Chính Thiên Ấn làm hao Tài, bởi vì nó khắc chế
trực tiếp nguyên thần Thực Thƣơng vốn sinh Tài (tức cái gốc của Tài), chẳng lẽ mệnh này có
cách luận riêng? Nếu luận mệnh nhƣ vậy chẳng phải giống cách luận của ông Lý Hậu Khải:
"bách mệnh bách luận" (mỗi mệnh có cách luận khác nhau), không có quy tắc chung? Nếu
nhƣ luận mệnh không có quy tắc chung thì luận mệnh không có ý nghĩa gì, thậm chí là gạt
ngƣời! Phải có quy tắc chung thì mọi ngƣời mới có thể nắm đƣợc, phải có quy luật luận mệnh
thì mới tiến triển học thuật một cách lâu dài, mà quy luật cũng chỉ là những thứ thông dụng,
tuyệt đối không có đặc lệ.
521 | Tam mệnh thông hội

Thứ ba,

"...vì vậy mệnh chủ thời trẻ đã rong ruổi thƣơng trƣờng, tài phát trăm vạn, vợ chồng tƣơng
kính, tứ tử đều quý...", câu này sao có cảm giác lơ tơ mơ, hàm hồ khó hiểu !?

"Thời trẻ" rốt cuộc là năm nào? "tài phát trăm vạn" là phát vào năm nào? Phải biết rằng bất
kể là Cách cục phái, Tân phái, hay Manh phái thì đều nói đến đại vận, lƣu niên xảy ra sự kiện
thì ngƣời khác mới hiểu đƣợc, để thầy còn biết luận mệnh cục đúng hay sai. Bởi vì mệnh cục
biểu hiện ra bằng sự can dự của đại vận lƣu niên mà phát sinh biến hóa, không ai tắm hai lần
trên một dòng sông, vận mệnh không biến hóa là vận mệnh hƣ vô. Ở đây chỉ khi ông Hoàng
Đại Lục nói ra cụ thể năm nào mệnh chủ bắt đầu phát tài thì ngƣời khác mới có thể thấy đƣợc
mệnh lý chân cơ.

Thực ra, bất kể nói thế nào thì việc mệnh chủ phát tài, tuyệt đối không phải do Canh Tân kim
xuất hiện là nguyên nhân duy nhất, mà là do mƣợn Thực Thƣơng hóa Kiếp Tỉ, đây mới là
mấu chốt quyết định.

Mệnh này dụng Thực Thƣơng, mà Thực Thƣơng là tử tức tinh ở nữ mệnh, Tử tức tinh tọa bản
vị (tọa đúng trụ giờ là trụ tử tức), con cái có tiền đồ nhƣng vẫn vài phần cảm tính.

HOÀNG ĐẠI LỤC THƢỜNG MỘT MỰC CHO RẰNG CÁC PHÁI KHÁC KHÔNG CÓ
GIÁ TRỊ, KHÔNG CÓ Ý NGHĨA GÌ, THẬM CHÍ LÀ GÂY LOẠN, NAY TÔI DÙNG TÂN
PHÁI VÀ MANH PHÁI PHÂN TÍCH:

1. DÙNG TÂN PHÁI CỦA LÝ HÀM THẦN:

Ất ........ Mậu ....... ẤT ......Nhâm


hợi ....... dần ...... mão ...... ngọ

Ất mộc sinh Dần nguyệt, Dần là Kiếp tài giúp thân, Dần Hợi vừa đủ vừa thiếu, Dần Hợi hợp
mộc, niên can lại thấu Ất mộc, hợp mộc thành công, Ất mộc Nhật chủ tự tọa Lộc, nhật chủ
cƣờng vƣợng. Nhật chủ cƣờng vƣợng sẽ dụng thập thần khắc/ tiết/ hao; xem toàn cục thì lấy
thời chi Ngọ hỏa làm dụng, nguyệt can Mậu Tài cũng làm dụng. Ngọ tiết thân, Mậu hao thân,
đại vận gặp hỏa niên hoặc đại vận gặp thổ niên nhất định điều tốt lành phát sinh, đƣơng nhiên
cần nói ra cụ thể chi tiết, nhƣ Thìn vận, Thìn hội và Dần Mão hội thành mộc cục, lúc này
hoàn toàn dựa vào Ngọ hỏa hóa tiết thế cƣờng vƣợng. Ở đây không đa luận, nhƣng Tân phái
luận thật đơn giản rõ ràng hơn so với cách cục luận của Hoàng Đại Lục tiên sinh.

2. DÙNG MANH PHÁI - ĐOÀN KIẾN NGHIỆP:

Ất ........ Mậu ....... ẤT ......Nhâm


hợi ....... dần ...... mão ...... ngọ

Ất Mão nhật trụ, Mão mộc hợp niên chi Hợi, lấy Ấn tân vị hợp với chủ vị làm dụng, Ấn chỉ
sự nghiệp, lại ở thiên can thì có thể thành công; nhật trụ hợp niên trụ, mà niên trụ lại hợp
522 | Tam mệnh thông hội

nguyệt trụ, Dần Hợi cũng hợp nhau đƣợc. Nhƣ vậy gián tiếp nhật trụ mƣợn niên trụ để dụng
nguyệt trụ, nguyệt trụ có nguyệt can là Tài, đem tân vị Tài hợp với chủ vị, hiển nhiên biểu
hiện phƣơng diện tài tiền tốt đẹp. Nhƣ vậy thập thần là tân vị đều liên kết, câu móc với chủ
vị.

Ở đây mới diễn chiêu đầu, còn có chiêu chủ yếu khác đó là chủ vị thời trụ Nhâm Ngọ và tân
vị nguyệt trụ Mậu Dần, có địa chi tƣơng hợp, còn thiên can Mậu Tài khắc chế Nhâm thủy Ấn
tinh, Dần Ngọ bán hợp hỏa cục, Thực Thƣơng sinh Tài, mà Tài lại khắc Ấn, khắc gì để đƣợc
gì, khắc Ấn mà Ấn là sự nghiệp, sự nghiệp này dựa vào ai để hoàn thành? Đó là dựa vào Tài
hoàn thành sự nghiệp, mà dựa vào Tài để hoàn thành là thế nào? Đó là kiếm tiền làm giàu là
sự nghiệp của ngƣời này, cho nên đây là một mệnh phát tài. Thiên can địa chi là những miếng
mộc riêng lẻ, nhƣng những miếng mộc này lại hình thành hết sức khéo léo một chỉnh thể hữu
cơ, sau lại thông qua Dần Ngọ hợp hỏa mà thành kết cấu "hóa dụng", công lao rất lớn, cũng
rất hữu hiệu, cho nên là mệnh tốt, là một mệnh phát về tiền tài.

( Trích bài viết "Bàn một chút về điểm khiên cƣỡng của TBCT bản nghĩa - Hoàng Đại Lục" ,
tác giả: Dịch Giới Thần Đao )
 27-09-12, 14:32
kimcuong
:) Chung quy là cứ dùng cách luận của mình mà đả phá ngƣời khác, nên chẳng thầy nào chịu
thầy nào... và cuối cùng là hậu nhân lắc đầu ngán Tử Bình, sao mà linh tinh lung tung quá...
Trích dẫn:

Ở đây liếc mắt cũng nhìn ra, sao phải dẫn dắt đến việc Dần Ngọ hợp hỏa mà biến cách. Đây
chỉ là dùng một chút công lực manh phái, còn cách cục thì manh phái không bàn.

Ai cũng "liếc" cái là ra, thôi cũng miễn bàn, bởi vì nếu đụng tới Manh phái thì tranh cãi về
Cách Cục là không phải lối. Khi lý luận thì ít ra cũng phải có điểm chung, nếu không có, thì
làm sao mà có kết quả chung? Chỉ có kết luận riêng thôi. Vì thế, ai thích cách luận của phái
nào thì dựa vào đó mà giải mệnh, cần thiết là giải đúng, thế thôi.

Trích dẫn:

phải chăng câu "mộc kiên kim khuyết" (mộc cứng kim bị mẻ) không thể dùng trong trƣờng
hợp này?

Ngƣời này quên bí tỉ rằng, có mặt mới xét, không có không xét. Vậy Kim không có trong tứ
trụ, không có hình thể sao gọi là "sứt mẻ"? Một cây cổ thụ to tƣớng mà không có cƣa máy thì
làm sao mà mộc đổ? Nếu không có ai mang cƣa máy tới, hoặc cả dao, kéo đến để phạm vào
mộc, thì có cái gì sứt mẻ đây?

Trích dẫn:

Canh kim đơn thuần chỉ khắc Ất mộc? tôi cho rằng hai Ất mộc còn đang hợp trói Canh kim?

Lại gặp nguyên lý chính yếu vô cùng, chớ nên quên: Canh Ất gặp nhau là hợp, không gọi là
"khắc", không gọi là "hợp trói".

Còn những chuyện khác... cũng là do HĐL tự gây chiến vì quá kiêu mạn, đọc qua cho biết.
523 | Tam mệnh thông hội

 27-09-12, 14:42
thiếu bá
Trích dẫn:

Gửi bởi kimcuong


Theo tôi thì gọi là "Âm nhận cách" bị phản nghĩa với tính chất của Âm thích bình hòa, không
cƣờng vƣợng thái quá. Vì thế nên Âm không "nhận Dƣơng". Gọi là "nguyệt kiếp" thì đơn
giản hơn, vì Ất sinh tháng Dần, Giáp là Kiếp.

hihi, chỉ nói ngay hình tƣợng trong chƣơng 1 -Luận thiên can địa chi sẽ thấy rõ. Luận về Mộc
thì chia Giáp là dƣơng, Ất là âm; do tính chất âm dƣơng mà nói Giáp là khí của Ất, Ất là chất
của Giáp... Vì vậy mà sẽ có Dƣơng nhận (âm) chứ không nói Âm nhận (dƣơng) mới thuận lý
nhƣ TBCT có nói "Luận về khí, Giáp vƣợng ở Ất; Luận về chất, Ất bền chặt ở Giáp"
 27-09-12, 14:56
kimcuong
Nói thêm về câu "Mộc kiên Kim khuyết", vì cũng có câu "Mộc vượng đắc Kim", dùng tùm
lum có thể tẩu hỏa nhƣ thƣờng.

Thế nào Mộc kiên, Mộc vƣợng? Phải chăng là đang nói đến có Ấn hay không có Ấn?

Câu đầu là nói đến quan hệ khắc giữa Kim và Mộc, mà Kim là chính, nhƣ nhật chủ Canh Tân
khắc Giáp Ất Tài. Tính cách cố hữu của Kim là khắc Mộc, nhƣng nếu Kim không có Thổ
sinh thì Kim nhƣợc, trong khi đó, Mộc mà có thế lực hơn thì việc khắc chế này bị đảo nghịch,
tức Kim bị tổn thƣơng. Câu đầy đủ là "Kim năng khắc mộc, mộc kiên kim khuyết".

Câu thứ nhì là nói đến quan hệ giữa nhật chủ Giáp Ất có Canh Tân Quan Sát trong tứ trụ. Lúc
này là Giáp Ất cũng cần phải là thân vƣợng mới có đồng lực để chịu sự khắc chế của Canh
Tân. Tức là Giáp Ất cũng cần có Nhâm Quí đúng chỗ, đúng thời, tức là có Ấn. Một khi thân
vƣợng thì không sợ Quan Sát, ngƣợc lại còn cần nó để tự kiểm soát các hành vi của mình. Vì
thế mới nói là "Mộc vượng đắc Kim, phương thành đống lương" (có tài năng cao và rõ
ràng).

Cơ bản và quan trọng là những điều trên đang nói đến nguyên cục, tức là tứ trụ, cung mệnh
và thai nguyên. Còn đại vận, lƣu niên thì không dễ áp dụng các câu nhƣ thế. Bởi vì, luận
Mệnh là kiểm tra rõ ràng tính cách của mình, tức là tính tình cố hữu, nhờ thế mà vƣợt qua
đƣợc các hung tai và gìn giữ cát lành xảy ra trong tƣơng lai, chính là ở vận hạn.

Nếu bản tính không phải là "mộc kiên kim khuyết" thì đến vận hạn có ích lợi gì? Phải chăng
chính là tự bản thể đã biến Cách, nên từ Cách cục mới mà thích ứng với điều xảy ra cần có ở
vận hạn. Vì Cách cục thay đổi là kị thần, hỉ thần cũng thay hình biến thể theo.
 27-09-12, 15:08
kimcuong
Ý kiến thêm về "khách chủ" của Manh Phái. Tôi đã thử nhiều lần cũng nhƣ đọc nhiều tài liệu
của phái này, nhƣng quả là lý thuyết này rất khó áp dụng vào tứ trụ cụ thể. Đọc bài giải thích
trên, có "chiêu đầu", lại có "chiêu khác", mà thật sự rốt cục hiểu là "mộc sinh hỏa" thật giản
dị! :)
 27-09-12, 16:59
Hjmama
Trích dẫn:
524 | Tam mệnh thông hội

Theo tôi hiểu thì Kiến lộc cách khác Âm nhận cách nên dụng Sát không thể giống nhau đƣợc.
Kiến lộc cách tức nhật can ở ngôi Lâm quan chƣa đạt đến đỉnh vƣợng nhất nên dụng Quan
theo ý nghĩa Thân vƣợng dụng Quan (không phải dụng chế Tỉ kiên). Không dụng Sát vì: nhật
can chƣa đạt đỉnh Đế vƣợng, hơn nữa Sát là hung thần nên cần Thực chế.

Xin lỗi, chỉnh lại là Dƣơng nhận cách.


 27-09-12, 18:04
Hjmama
Trích dẫn:

Thực ra, bất kể nói thế nào thì việc mệnh chủ phát tài, tuyệt đối không phải do Canh Tân kim
xuất hiện là nguyên nhân duy nhất, mà là do mƣợn Thực Thƣơng hóa Kiếp Tỉ, đây mới là
mấu chốt quyết định

.
Ông Dịch Giới Thần Đao này không thấy cái bố cục bát tự có một chữ Mậu (tài) bị 2 Ất
(kiếp) kẹp sát cận bên sao chứ! Nếu không có 2 ông canh tân thì Thực Thƣơng hóa kiếp sinh
tài cũng vô ích.
 27-09-12, 18:47
thiếu bá
Trích dẫn:

Gửi bởi Hjmama


.
Ông Dịch Giới Thần Đao này không thấy cái bố cục bát tự có một chữ Mậu (tài) bị 2 Ất
(kiếp) kẹp sát cận bên sao chứ! Nếu không có 2 ông canh tân thì Thực Thƣơng hóa kiếp sinh
tài cũng vô ích.

Nhật chủ là Ất thì không tính Mậu Tài bị 2 kiếp (thực ra là Tỷ) nữa, ở đây chỉ là 1 Ất chực
chờ...

Cũng cần phân định rõ mức độ "cƣớp đoạt" (nếu có) của Tỷ Kiếp so với Tài, cũng nhƣ lý
"Đồng thì sinh khắc mạnh, Dị thì khoan hãy xét". Ất và Mậu là khác tính âm dƣơng (Dị) nên
xét sinh khắc của chúng nên ở mức "thuận" - vừa phải. Thiếu bá cũng cho rằng "mệnh chủ
phát tài, tuyệt đối không phải do Canh Tân kim xuất hiện"! có chăng nếu có thì nâng cao mức
độ "sạch và thuần" hơn.
 27-09-12, 21:26
Hjmama
Vẫn theo nguyên lý Thực nhiều thì biến thành Thƣơng,Quan nhiều thì biến Sát,đƣơng nhiên
Tỉ nhiều thành Kiếp...
Bạn dùng từ "tuyệt đối" có nghĩa là phủ nhận sự tham gia của canh tân? Đúng thế gốc vấn đề
chính là Thực Thƣơng sinh tài.Tôi giữ ý kiến khác bạn.
 27-09-12, 22:40
thiếu bá
Không sao đâu Hj, vì thấy bài trên bạn phản biện ông Dịch Giới Thần Đao gì đó nên tôi cũng
có ý riêng về đoạn đó thôi. Câu "mệnh chủ phát tài, tuyệt đối không phải do Canh Tân kim
xuất hiện" là tôi trích nguyên văn từ bài dịch ra của ông Dịch Giới Thần Đao nói mà không
525 | Tam mệnh thông hội

để ý đến 2 chữ "tuyệt đối" vì câu sau tôi có nói là ở mức độ "sạch và thuần" hơn, nay sửa
thành "mệnh chủ phát tài, hoàn toàn không phải chỉ do Canh Tân kim xuất hiện".

Cảm ơn bạn!
 28-11-12, 14:28
tuhynhan
Ngũ Ngôn Độc Bộ bình chú
(tiếp theo)

Tác giả: Hoàng Đại Lục

Chính văn:

Giáp Ất nhược phùng Thân,


Sát Ấn ám tương sinh,
mộc vượng kim diệc vượng,
quan bào tất quải thân.

(Giáp Ất gặp Thân,


tức Sát lộ Ấn tàng tương sinh
mộc vượng và kim cũng vượng
mũ mảo áo bào quàng trên người.)

Đại Lục bình chú:

Giáp Ất nhật nguyên sinh tại tháng Thân, nguyệt lệnh hàm chứa Nhâm thủy Ấn tinh và Canh
kim Sát tinh, cứ cho là Sát Ấn này không thấu can, và Ấn tinh tựa hồ không sinh trực tiếp cho
thân, nhƣng vẫn có thể cấu thành quý cách Sát Ấn tƣơng sinh. Vì sao vậy? Bởi vì nguyệt lệnh
là đất Thai Tức của nhật nguyên, đại biểu “đồ nhà”, đồ trong nhà của mình tự nhiên có thể
tùy lúc lấy ra dùng, bất tất phải tìm chổ khác. Cho nên, Sát Ấn trong nguyệt lệnh có thể
chuyển hóa lẫn nhau cùng sinh nhật nguyên. Nguyên nhân do Sát Ấn không thấu, mới cho
rằng "ám tương sinh".

Loại cách cục Sát Ấn ám tƣơng sinh này cần Tài tinh sinh Quan Sát, mà lại không đƣợc nhiều
Tài tinh khiến phá mất Ấn. Nhƣ Giáp Ất sinh Thân nguyệt, nếu nhƣ thổ khắp trụ, không có
mộc sơ thổ (làm tơi mùn đất), thì thổ nhiều chôn kim, cho nên còn cần phải "mộc vượng", ý ở
đây chính là lấy mộc sơ thổ, bảo hộ Quan Ấn. Nếu nhƣ thổ kim mộc đều cƣờng, thì thuộc quý
mệnh "quan bào tất quải thân". Cái hay vi diệu của cách này là ở chữ "ám", nếu nhƣ Ấn tinh
thấu lộ, Tài đa trái lại phải lo ngại tham tài hoại Ấn.

Như:

Mệnh Âu Dương Tu: Đinh Mùi / Mậu Thân / Ất Mão / Mậu Dần

Mệnh Chu Gia Mô: Đinh Mùi / Mậu Thân / Giáp Tuất / Ất Sửu

Hai ngƣời đều thuộc cách cục này. Tỉ Kiếp ở mệnh Âu Dƣơng Tu hơi mạnh một chút, cho
526 | Tam mệnh thông hội

nên làm quan đến Tể tƣớng, mà suốt đời còn là lãnh tụ của giới văn học, ảnh hƣởng rất lớn
đến thế hệ sau. Chu mệnh mặc dù trong Mùi có mộc, hai thổ Tuất Sửu bên trên có Giáp Ất
mộc, nhƣng không bằng mộc đa mộc cƣờng ở mệnh Âu Dƣơng Tu, nên làm quan chỉ đến Lễ
bộ Thƣợng thƣ.

Nhậm Thiết Tiều khi chú thích "Trích Thiên Tủy" đưa ra một mệnh:

Ất Sửu / Giáp Thân / Giáp Thìn / Kỷ Tị

Cũng thuộc cách cục Sát Ấn ám tƣơng sinh, mệnh chủ "đăng Hoàng Giáp, yến Quỳnh Lâm,
nhập Hàn Uyển, sĩ Hoàng Đƣờng", đại quý xuất chúng. Có thể Nhậm thị luận thành Giáp Kỷ
hóa thổ cách, giả sử đúng nhƣ thế, bát tự Thân kim đƣơng lệnh, lại có Tị Sửu củng kim, tiết
đi thổ khí, mệnh chủ đi hƣớng Đông mộc vận thì đoán không có cái quý hiển này.

Một nữ mệnh:

Đinh Mùi / Mậu Thân / Ất Sửu / Kỷ Mão

Bát tự ngang ngửa mệnh Âu Dƣơng Tu và Chu Gia Mô, đáng tiếc đại vận thuận hành, Tân
Hợi vận Bính Tý niên Thân Tý hợp thủy, hóa Quan làm Ấn, nhƣng Ấn lại bị Sửu thổ, Mão
mộc khắc hợp, đây là tổ hợp phá cách tiên Ấn hậu Tài biến ra nhục nhã, thực tế mệnh chủ vì
mắc tội cố ý gây thƣơng tích bị Tòa án xử phạt 15 năm tù. Sau khi ra tù cách đây vài năm,
làm thuê tứ xứ kiếm sống.

Nam mệnh 1:
Đinh Hợi / Mậu Thân / Ất Sửu / Nhâm Ngọ

Mặc dù cũng thuộc Giáp Ất sinh tại Thân nguyệt, nhƣng Ấn tinh thấu lộ, không còn là "Sát
Ấn ám tƣơng sinh" nữa, đại vận phƣơng nam thì xung khắc Ấn tinh, đi về phía đông thì Ấn
lâm tuyệt địa, sách nói rằng: "xung Ấn tắc thân mang tâm loạn" ( xung Ấn thì thân tâm bận
bịu rối loạn ) , "Ấn hành tử tuyệt tịnh tài địa, vô cứu chung vi tuyền hạ nhân" (Ấn hành vận
đất tử tuyệt hoặc đất Tài tinh thì vô cứu, cuối cùng cũng xuống suối vàng). Cho nên mệnh
chủ 6 tuổi gặp năm Quý Tị xung Ấn, mắc bệnh bại liệt, hơi lớn chút thì chống gậy bƣớc chân
vào giang hồ, nhiều cay đắng gian nan, về già vô danh vô lợi, không vợ không con.

Nam mệnh 2:
Mậu Tuất / Canh Thân / Giáp Tuất / Mậu Thìn

Bởi Sát tinh lộ ra, không thể luận theo Sát Ấn ám tƣơng sinh, mà cần luận theo Giả tòng Sát
cách, đại vận Bắc phƣơng, Ấn tinh thấu thanh, nhƣng gặp Tài tinh trong mệnh hồi khắc, cộng
thêm Sát đến tử địa, phá hỏng Tòng Sát cách, cũng không thành Sát Ấn cách, cách cách bất
nhập, cho nên mệnh chủ tuổi thơ thì mất cha, học hành vô thành, bần khốn đa tai, đến nay
vẫn độc thân.
 28-11-12, 18:24
tuhynhan
527 | Tam mệnh thông hội

Chính văn:

Ly hỏa phạ trùng phùng,


Bắc phương phản hữu công,
Tuy nhiên nghi kiến mộc,
Vưu khủng đối đề xung.

Đại Lục bình chú:

Giáp Ất nhật nguyên sinh tại tháng Thân, hỷ Tài sinh Quan, không nên có Thực Thƣơng
nhiều khắc Quan. Nếu nhƣ Thực Thƣơng nhiều thì hỷ vận hành phƣơng Bắc, lấy Ấn chế
Thƣơng hộ Quan. Mặc dù nói cách cục này mừng gặp đƣợc Tỉ Kiếp, vì Quan Sát đƣơng lệnh
không sợ Tỉ Kiếp, nhƣng vẫn sợ xung khắc đề cƣơng, đề cƣơng hỏng thì phá cách, phá cách
ắt không phải mệnh tốt.

Đoạn này nói "Ly hỏa sợ trùng phùng", hỏa là Thực Thƣơng, Quan cách thấy tức phá cách,
điều này dễ dàng lý giải. Nhƣng chữ "trùng" là ý gì ? Chẳng lẽ còn cần phải có vài Thực
Thƣơng mới có thể khắc phá đƣợc một Quan tinh nguyệt lệnh? Sách Tử Bình không phải đã
nói Quan cách sợ xung, sợ hợp, sợ hình, sợ nhiều, sợ hỗn tạp, cùng với kị thấy Thƣơng quan
đấy sao? Không phải đã nói Thực thần nhất vị tọa chổ vững chắc (hữu căn, đắc lộc,…) cũng
tổn hại Quan cách đó sao? Vì sao chổ này còn nói phải trùng kiến Thực Thƣơng mới có thể
phá nổi Quan cách? Tra duyệt sách Tử Bình, thấy "Luận chƣ cách hữu cứu quyết" cho rằng:
"Thân hỷ viêm thần phạ thổ tinh" (chi Thân hỷ khí hỏa, nhƣng sợ khí thổ), thiệt không dzậy !
hóa ra tháng Thân có tính chất đặc thù, Thân kim hàm thủy, hoặc có thể ví Thân kim có
underwear chống lửa, thông thƣờng hỏa bất túc (yếu, không đủ mạnh) thì khắc đƣợc, còn nếu
nhƣ thổ nhiều thì ngƣợc lại Nhâm thủy bên trong bị uy hiếp. Đƣơng nhiên, hỏa nhiều quá thì
Thân kim cũng ngại, mặc áo chống lửa vẫn sợ bị nhét vào trong lò luyện.

Nam mệnh 1:

Giáp Ngọ / Nhâm Thân / Ất Tị / Quý Mùi

Cách là Ấn nhờ Quan sinh, nhƣng địa chi Tị Ngọ Mùi hội hỏa cục có phá Quan tinh không?

Không phá !

- Một là, vì can hỏa không thấu ra, không có "đại diện pháp nhân" thì chia rẽ mạnh ai nấy
làm, Tị hỏa này vốn là "điệp viên hai mang", thấy kim thủy đƣơng quyền sẽ đảo hƣớng Tị
Thân hợp thủy, còn thấy Ngọ Mùi cũng có thể nhập cùng thế thổ;

- Hai là, đại vận Tây bắc, Ấn tinh có thể khử Thƣơng cứu Quan. Cho nên, mệnh chủ học hành
suông sẻ, nhiều năm đảm nhiệm Chánh văn phòng tòa án cấp cao, Chánh thanh tra huyện,
Chánh án tòa, Chủ tịch huyện. Mãi đến vận Mậu Dần xung đề cƣơng liền bị Trung Cộng xử
tử trong cuộc thanh trừng phản cách mạng. Chính là ứng nghiệm của hai câu "Bắc phƣơng
phản hữu công" và "Vƣu khủng đối đề xung".

Nam mệnh 2:
528 | Tam mệnh thông hội

Ất Tị / Giáp Thân / Ất Tị / Kỷ Mão

Thân kim Quan tinh đƣơng lệnh, hai Tị hỏa tuy không thấu can, nhƣng không có thổ hóa tiết
mà còn đƣợc mộc sinh phù, Tị hỏa này chính là kẻ hai mặt, gió chiều nào theo chiều đó, tuế
vận mà hỏa vƣợng thì là hỏa, còn kim vƣợng liền chuyển theo kim. Mệnh chủ thuở nhỏ hành
vận Ngọ hỏa, học hành bất toại, không có sự nghiệp ổn định. Mãi đến Tân vận, vào năm
Canh Ngọ 25 tuổi mới vào làm một cảnh sát tép riu ở cơ quan quản lý hộ tịch quê nhà. Ở tại
Tị vận thăng làm phó trƣởng đồn, rồi Trƣởng một phòng ở công an quận. Có thể thấy đƣợc
Tân Tị vận, Tân kim thấu can, kim vƣợng lên, Tị hỏa đại thể hƣớng về kim, cho nên gặp năm
Ngọ hỏa không lo trái lại còn khoái chí, đây đúng là ý của "phản hỷ viêm thần". Canh Thìn
vận kim cũng vƣợng, gặp năm Nhâm Ngọ mệnh chủ thăng làm Phó trƣởng công an quận.
Thìn vận, Thân Thìn hợp thủy, 40 tuổi là năm Ất Dậu, Ất Canh hợp, Thìn Dậu hợp, Tị Dậu
hợp, Quan sát trùng trùng Ấn không thể hóa, Thực không thể chế, đại phá cách cục, mệnh
chủ đang muốn thăng trƣởng công an quận nhƣng vì nữ sắc chết uổng mệnh.
 30-11-12, 13:13
kimcuong
Trích dẫn:

Nhậm Thiết Tiều khi chú thích "Trích Thiên Tủy" đưa ra một mệnh:

Ất Sửu / Giáp Thân / Giáp Thìn / Kỷ Tị

Cũng thuộc cách cục Sát Ấn ám tƣơng sinh, mệnh chủ "đăng Hoàng Giáp, yến Quỳnh Lâm,
nhập Hàn Uyển, sĩ Hoàng Đƣờng", đại quý xuất chúng. Có thể Nhậm thị luận thành Giáp Kỷ
hóa thổ cách, giả sử đúng nhƣ thế, bát tự Thân kim đƣơng lệnh, lại có Tị Sửu củng kim, tiết
đi thổ khí, mệnh chủ đi hƣớng Đông mộc vận thì đoán không có cái quý hiển này.

Vận: Quí Mùi, Nhâm Ngọ, Tân Tị, Canh Thìn, Kỉ Mão, Mậu Dần, Đinh Sửu

Nếu thực trạng là có sự quý hiển đó, chúng ta thấy tứ trụ này dù không hóa Thổ, nhƣng dụng
đƣợc Tài Thổ, hỉ thần là giờ Tị hỏa, vận Tân Tị nhất định phát quý. Vận đi từ Mùi, Ngọ, Tị là
3 vận đầu, hƣớng Đông mộc (Thìn, Mão, Dần) có Mậu Kỉ thiên can, Mão Dần kị thần không
vong nên sẽ tiếp tục phát tƣớng cho đến quá 70 tuổi.

Hoàng Đại Lục nêu lên điểm "Quan/Sát và Kiêu/Ấn ám sinh" ở lệnh tháng là đáng chú ý, tuy
thế, qua thí dụ trên vẫn nói lên rằng, mỗi một tứ trụ lại có 1 điểm nhấn khác nhau, không thể
nào hoàn toàn giống nhau đƣợc.
 21-12-12, 13:55
tuhynhan
Chính văn:

Bát nguyệt Quan tinh vượng


Giáp phùng thu khí thâm
Tài thần kiêm hữu trợ
Danh lợi tự nhiên hanh.

Đại Lục bình chú:


529 | Tam mệnh thông hội

Giáp mộc sinh tại tháng tám, Dậu kim Quan tinh đƣơng lệnh, đắc thời thì vƣợng, mặc dù
vƣợng cũng không đƣợc khắc, ngƣợc lại cần Tài sinh. Điều này thuyết cân bằng luận không
thể giải thích đƣợc, vì sao? Bởi vì chỉ cần Quan tinh không nhiều, không có Sát hỗn cục, vô
xung vô hình, vô Thực Thƣơng khắc hợp, lại có Ấn hóa Quan sinh Thân thì cấu thành cách
cục, đó chính là mệnh số tốt đẹp theo lời Nguyệt Đàm Phú: "Quan vƣợng Tài diệc vƣợng,
phú quý áp hƣơng đảng". Vì vậy, Bảo Pháp ghi: "Phùng Quan khán Tài", có Quan mà vô Tài
Ấn thì gọi là "cô Quan vô phụ", phá cách; còn hữu Ấn vô Tài mặc dù thành cách nhƣng quý
khí không lớn, ít cơ may phát tài. Nhƣ một viên quan không có quyền quyết định chi tiêu
ngân khố, chỉ là một hƣ quan không có tiếng nói.

Mệnh của học giả Ngô Mai (*):

Giáp Thân / Quý Dậu / Giáp Tý / Canh Ngọ

Mặc dù Quan Sát vƣợng thành cách, nhƣng bát tự vô Tài, đại vận lại là Bắc phƣơng thủy địa,
Tài tinh vẫn vô khí, Quan vô Tài sinh, cách cục không cao. Mệnh chủ một bụng thi thƣ, bác
học đa tài, nhƣng đi thi Cử nhân ba lần đều không đậu, buộc phải làm trợ tá cho ngƣời ta. Sau
chán nản, lần lƣợt đến Đại học Đông nam, Đại học Trung Sơn, Đại học Quang Hoa, Đại học
Kim Lăng giảng dạy. Mặc dù Sát trọng thì danh tiếng lớn, ngay cả các nhân vật tên tuổi nổi
danh khắp thiên hạ nhƣ Chu Tự Thanh (1898-1948), Điền Hán (1898-1968), Trịnh Chấn Đạc,
Tề Yến Minh, Mai Lan Phƣơng, Du Chấn Phi, v.v... đều là tiểu đồ đệ của ông, nhƣng bản
thân ông bởi vì bát tự không có Tài để mà hoàn thành ƣớc nguyện.

Chú thích:

(*) nhà biên kịch, nhà thơ, nhà văn, nhà giáo dục, nhà bình luận và sáng tác hí kịch nổi tiếng
Trung Quốc.

Một nam mệnh:

Quý Tị / Tân Dậu / Giáp Tý / Giáp Tuất


Canh thân - Kỷ mùi - Mậu ngọ - Đinh tị - Bính thìn - Ất mão

Quan Ấn cách, tiếc rằng Tuất Tài không thể trực tiếp sinh Quan tinh, quý khí giảm mạnh.
Ngƣời viết đã từng đoán cho hai ngƣời cùng bát tự này, một ngƣời là trạm trƣởng Trạm
phòng dịch huyện, ngƣời kia là bí thƣ một cơ quan hành chánh, đều là quan lại chức vụ nhỏ,
không phát về tài.

Còn mệnh Ông Phương Cương:

Quý Sửu / Tân Dậu / Giáp Tý / Giáp Tuất


Canh thân - Kỷ mùi - Mậu ngọ - Đinh tị - Bính thìn - Ất mão

Bát tự này khác hai bát tự trên chỉ một chữ, bảy chữ còn lại và đại vận đều giống nhau. Song,
Ông Phƣơng Cƣơng làm quan đến chức Nội các Đại học sĩ, đại quan nhất phẩm, khác biệt do
một chữ Sửu này. Sửu là thấp thổ Tài tinh, hành vận nam phƣơng thì có khả năng hối hỏa
sinh kim, vả lại do hàm kim nên hành vận đông phƣơng mộc cũng không sợ mộc khắc, vì lẽ
530 | Tam mệnh thông hội

đó cái quý của mệnh Quý Sửu vƣợt xa hai mệnh Quý Tị.

Mệnh của Hoàng Dĩ Lâm:

Đinh Tị / Kỷ Dậu / Giáp Tý / Mậu Thìn

So với mệnh Quý Tị và Quý Sửu sai biệt không nhiều, khác nhau chỉ là nhiều Tài hơn một
chút so với mệnh Quý Tị, nhƣng lại không bằng mệnh Quý Sửu vốn có sẳn chữ Sửu tác dụng
to lớn, cho nên cũng là mệnh quý, làm đến Tri phủ Vũ Xƣơng (thuộc tỉnh Vũ Hán ngày nay),
đúng là cái quý của mệnh thấp hơn mệnh Quý Sửu mà đứng trên mệnh Quý Tị.
 21-12-12, 14:00
tuhynhan
Chính văn:

Khúc trực sinh xuân nguyệt,


Canh Tân can thượng phùng,
Nam Ly suy phú quý,
Khảm địa khước vi hung.

Hoàng Đại Lục bình chú:

Sách "Mệnh học tân lƣơng", phần Ngũ hành vƣợng suy ca ghi rằng:

"Giáp Ất nhật can hỷ sinh xuân,


mộc tại xuân sinh chi diệp vinh.
Như ngộ Nhâm Quý thân vô dụng,
cánh ngộ Canh Tân lợi danh thành...

…mộc cường bất phạ kim đao tiễn,


Bính Đinh hỗn tạp đa bần tiện."

Ý nghĩa tức là Giáp Ất mộc sinh tại mùa xuân, Tỉ Kiếp hung thần đƣơng quyền, phải đƣợc
Quan Sát khắc chế để hình thành Nguyệt Kiếp dụng Quan cách, nhƣ thế thì tất nhiên danh
thành lợi tựu (danh tiếng, lợi lộc đều có). Nhƣng nếu đồng thời có cả Canh Tân Quan Sát lại
có Bính Đinh Thực Thƣơng chế Quan Sát, hoặc Nhâm Quý Ấn tinh thấu can hóa tiết Quan
Sát, vậy là phá hỏng cách Nguyệt Kiếp dụng Quan, cho nên mới nói: "Bính Đinh hỗn tạp đa
bần tiện", "như ngộ Nhâm Quý Thân vô dụng". Nếu nhƣ Thực Ấn không thấu, cấu thành
Nguyệt Kiếp dụng Quan cách, thì hỷ mệnh cục có Tài Thƣơng Quan, ở đây tức là đoạn trƣớc
đã nói: "nhất kiến Tài Quan, tự nhiên phát phúc". Không chỉ có nhƣ thế, đại vận đi nam
phƣơng thì Tài đáo vƣợng địa, Tài vƣợng có khả năng tiết Tỉ Kiếp mà sinh Quan Sát, cho nên
viết: "Nam Ly suy phú quý". Sợ là sợ hành đại vận bắc phƣơng, Tài vào tuyệt địa, kim trầm
thủy hƣơng, Tỉ Kiếp ngang ngƣợc càn rỡ, nên nói "Khảm địa khước vi hung". Đƣơng nhiên,
nếu nhƣ Quan Sát chế Kiếp quá nặng, hành vận bắc phƣơng sinh phù Tỉ Kiếp đang nhỏ nhoi
cũng là việc tốt, tóm lại cần phải khử bệnh của cách.

Nếu nhƣ không có Quan Sát chế Kiếp, vậy thì thấu Nhâm Quý Ấn tinh thì có thể cấu thành
chuyên vƣợng cách, hoặc là thấu Bính Đinh Thực Thƣơng cũng có thể cấu thành Thực
Thƣơng tiết tú cách, cả hai đều thuộc cách cục văn tú (nhân tài văn học, nghệ thuật).
531 | Tam mệnh thông hội

Mệnh Dận Tự:

Tân Dậu / Tân Mão / Giáp Ngọ / Tân Mùi


Canh dần - Kỷ sửu - Mậu tý - Đinh hợi

Con trai thứ tám của hoàng đế Khang Hy, xƣng là Bát Gia. Tứ trụ này là Dƣơng Nhận dụng
Quan cách. Kỷ Sửu vận 27 tuổi, vào Mậu Tý niên, Tài vƣợng sinh Quan, mệnh chủ tuân
mệnh làm Đại nội tổng quản. Sau xoay chuyển nhanh chóng bởi Tý Sửu hợp, Dậu Sửu hợp
và xung Dƣơng Nhận, mệnh chủ bị Khang Hy trách mắng tính cách nhu nhƣợc gian dối, vọng
tƣởng đại chí, bãi trừ thân phận bối lặc (dân tộc Mãn, họ của vua nhà Thanh), giáng xuống
làm tông thất không dùng đến. Thẳng đến Đinh vận 41 tuổi vào năm Tân Sửu, có Đinh hỏa
kiềm chế Quan Sát đang quá mạnh, mới đƣợc tin tƣởng giao việc lại lần nữa, phong làm Thân
vƣơng, Thủ tƣớng sự vụ kiêm đảm nhiệm Thƣợng thƣ Phan viện (đối ngoại). Năm 42 tuổi
nhập Hợi vận, Dƣơng Nhận đắc sinh phù, Quan tinh đáo tử địa, nan chế Kiếp Nhận, mệnh
chủ tùy tiện làm càn, nhiều lần bị Ung Chính trách mắng, hai lần bị giáng chức. Cuối cùng
vào 45 tuổi năm Ất Tị bị Ung Chính dùng Tứ thập điều đại tội (qui định bốn mƣơi tội lớn)
cho bắt giam lại, cắt bỏ tƣ cách con vua, tƣớc bỏ tông tịch, cải tên thành "A kỳ lạp" (con heo
thúi), tháng chín cùng năm bệnh chết trong ngục. Thật sự là "Khảm địa khước vi hung".

Mệnh Trình Tiềm (1883-1968):

Quý Mùi / Ất Mão / Giáp Tuất / Tân Mùi

Dƣơng Nhận dụng Quan cách. Hay ở chổ Quan tinh đắc gốc Nhận tại nhật chi thông qua Mão
Tuất hợp mà chế nguyệt Nhận một cách chặt chẽ, thành cách và thuộc cao cách. Quý thủy Ấn
thấu vô căn, lại có Tỉ Kiếp hóa tiết, thành ra cách không tổn hại gì. Càng đẹp hơn, Địa chi đa
thổ, tuy hành thủy vận cũng không thể trực tiếp tiết hao Quan tinh, nên mệnh chủ vào Nhâm
Tý vận 34 tuổi Bính Thìn niên đảm nhiệm Chủ tịch tỉnh Hồ Nam. Năm sau Đinh Tị thấu
Thƣơng quan, thua trận phải bỏ chức. Năm 38 tuổi Canh Thân đảm nhiệm Thứ trƣởng lục
quân trong chính phủ Quảng Châu (Chính phủ Tôn Trung Sơn). Tân Hợi vận 46 tuổi Mậu
Thìn niên đảm nhiệm Chủ tịch tỉnh Hồ Nam lần nữa.

Chú thích:

Wikipedia

Trình Tiềm (1883-1968), một vị tướng phục vụ hai triều đại Trung Hoa. Sau khi hoàn tất
việc tại một trường tư thục và thi đỗ vào năm 1889, Trình đến Nhạc Lộc thư viện tại Trường
Sa. Tại đây ông bắt đầu tìm hiểu được tình hình chính trị đương thời và quyết định bỏ văn
học võ. Năm 1903, khi 21 tuổi, ông được nhận vào trường quân sự Hồ Nam. Không lâu sau,
năm 1904, ông du học Nhật Bản, rồi gặp Hoàng Hưng và Tống Giáo Nhân, các lãnh tụ Quốc
dân đảng tương lai, và trở nên hứng thú với lý tưởng của họ; do đó năm 1905, Trình gia
nhập Đồng minh hội của Tôn Dật Tiên, quyết lật đổ nhà Thanh và hiện đại hóa nước Trung
Hoa.
532 | Tam mệnh thông hội

Tốt nghiệp năm 1908, Trình trở về Trung Hoa, được giao nhiệm vụ huấn luyện Tân quân tại
Tứ Xuyên. Sau khi Cách mạng Tân Hợi nổ ra, Trình tham gia Khởi nghĩa Vũ Xương; rồi
tham gia Trận Trường Sa ngay sau đó.

Trung Hoa Dân Quốc thành lập, Trình được bổ nhiệm làm Đốc quân Hồ Nam. Tuy nhiên, khi
Viên Thế Khải âm mưu thao túng Dân Quốc, Trình định khởi nghĩa nhưng thất bại, phải chạy
sang Nhật Bản, rồi gia nhập Quốc dân đảng và vào học tại Đại học Waseda.

Không lâu sau, Viên Thế Khải khôi phục đế chế, dẫn đến Chiến tranh Hộ quốc; Trình trở về
Hồ Nam tham gia lực lượng khởi nghĩa của Thái Ngạc. Trong phong trào Hộ pháp, ông được
bổ nhiệm làm tư lệnh quân đội Trường Sa, rồi Thứ trưởng Chiến tranh trong Chính phủ
Quảng Châu của Tôn Dật Tiên. Ông được cử huấn luyện quân đội tại Quảng Châu, rồi tham
gia Chiến tranh Bắc phạt. Từ năm 1925-1927, ông là Tư lệnh Quân đoàn 6, và trong một thời
gian ngắn giữ chức Chủ tịch Chính phủ tỉnh Hồ Nam năm 1928. Năm 1926, ông cũng được
bầu làm ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Quốc dân đảng.

 31-01-13, 16:43
tuhynhan
Một mệnh được Nhậm Thiết Tiều bình chú trong "Trích Thiên Tủy"

Tân Mão / Canh Dần / Giáp Thìn / Bính Tuất


Kỷ sửu - Mậu tý - Đinh hợi - Bính tuất - Ất dậu

Nhậm tiên sinh: "Mệnh này mộc hỏa một lòng, tức cách Mộc hỏa thông minh (mộc hỏa sáng
sủa),
gọi là nhiều mạnh (mộc hỏa) địch ít (kim), xu thế ở tại khử Canh Tân ít. Ban đầu hành vận
vào vận thổ sinh kim, phá hao dị thƣờng, thƣợng kinh vào làm trong Bộ. Đến Bính Tuất vận
đƣợc phái đi Quảng Đông, lập đƣợc quân công, thăng làm Tri huyện, hỷ là do tận khắc Canh
Tân chuyển thành tốt đẹp. Đến vận Dậu, Canh Tân đắc địa nên mất".

Thực ra, đây không phải cách Mộc hỏa thông minh gì cả, mà là Thực Thương chế Sát cách,
bởi vì nguyệt lệnh lộ ra Bính hỏa Thực thần. Mệnh cục Quan Sát vô căn, vận sớm vào bắc
phƣơng thủy địa, Quan Sát càng thêm suy nhƣợc, tuy có thổ sinh kim vẫn phá hao dị thƣờng.
Sau nhập vận Bính Tuất tây phƣơng, Quan Sát chuyển thành vƣợng, nên lập đƣợc quân công
thăng Tri huyện. Dậu vận Thực Thƣơng đến tử địa, lại gặp Dƣơng Nhận xung khắc Quan tinh
nên mất đột ngột.
 31-01-13, 16:44
tuhynhan
Một nam mệnh:

THỰC QUAN THỰC


Bính Ngọ / Tân Mão / Giáp Ngọ / Bính Dần

Vốn thuộc Dương Nhận dụng Quan cách, chỉ vì Quan tinh không có gốc, không có nguồn,
Thực Thƣơng tịnh thấu, khử Quan mà dụng Thực. Đại vận nam phƣơng, Thực Thƣơng khử
sạch Quan tinh, mệnh chủ làm làm đến chức Phó thị trƣởng (Phó chủ tịch UBND thành phố).
Ứng với câu "nam Ly suy phú quý".

Một nữ mệnh:
533 | Tam mệnh thông hội

THỰC QUAN ẤN
Bính Tuất / Tân Mão / Giáp Thân / Quý Dậu
Canh dần - Kỷ sửu - Mậu tý - Đinh hợi

Trụ này vốn thuộc Dương Nhận dụng Quan cách, nhƣng bởi vì Ấn Thực tịnh thấu, cách cục
không thanh thuần, vận hành khảm địa (khảm thủy), Nhận trọng nan chế, mệnh chủ sự
nghiệp, học hành đều không thành. Năm 11 tuổi thời liền mắc bệnh tâm thần, lúc tỉnh lúc
điên. Đinh Hợi vận, năm 41 tuổi (Đinh Mão), Hợi Mão hợp Nhận, xung khắc Dậu kim và
Quý thủy, mệnh chủ lần thứ hai tái phát bệnh tâm thần, năm kế Mậu Thìn hợp mất Quý thủy,
uống nhầm thuốc trừ sâu mà chết. Đây là loại mệnh thuộc về "Bính Đinh hỗn tạp đa bần
tiện".

Mệnh của Hoàng Quang Thăng:

THƢƠNG QUAN THỰC


Bính Dần / Canh Dần / Ất Dậu / Đinh Sửu

Nguyệt thấu ra Thực Thƣơng, tức lấy Thực Thƣơng này làm dụng, thành cách Thực Thƣơng
chế Sát, làm quan đến chức Hình bộ Thƣợng thƣ. Mệnh này vì sao "Bính Đinh hỗn tạp" mà
không "bần tiện"? Nguyên nhân ở chổ mệnh này không thuộc cách Nguyệt Kiếp dụng Quan.

Mệnh của Lưu Kiến Quần:

ẤN KIẾP KIẾP
Quý Mão / Ất Mão / Giáp Tý / Ất Sửu

Dƣơng Nhận trùng điệp vô chế, phải chăng thuộc về mệnh phá cách "nhƣ ngộ Nhâm Quý
thân vô dụng"? Không phải ! Bởi vì Tỉ Kiếp vô chế vô tiết, ngƣợc lại còn có Ấn sinh, liền cấu
thành Khúc Trực chuyên vƣợng cách. Cho nên mệnh chủ sự nghiệp, học hành thuận buồm
xuôi gió, làm quan đảm nhiệm nhiều chức viện trƣởng các viện của Trung Hoa dân quốc nhƣ
Quốc phủ giám sát viện, Khảo thí viện, Ngũ viện (tƣơng đƣơng năm bộ thuộc chính phủ),
v.v....
 31-01-13, 16:44
tuhynhan
Chính văn:

Giáp Ất sinh tam nguyệt,


Canh Tân Mùi Tuất tồn,
Sửu cung Nhâm Quý vị,
Hà lự kiến vô căn.

(Giáp Ất sinh tháng ba, sinh tồn đƣợc với Canh Tân Mùi Tuất; còn sinh tháng Sửu và có
Nhâm Quý, sao phải lo rầu vô căn chứ !)

Đại Lục bình chú:

Giáp Ất mộc sinh tháng Thìn, Tỉ Kiếp càng vƣợng, nhất là Ất mộc sinh tại Thìn nguyệt,
chính là Dƣơng Nhận đƣơng quyền. Bởi vậy cũng hỷ Canh Tân Tuất Mùi vốn là Quan Sát
Tài tinh, so với tháng Dần Mão thì khác nhau không nhiều. Thƣờng trƣờng hợp này cũng kị
534 | Tam mệnh thông hội

Ấn nhiều.

Còn nhƣ Giáp Ất mộc sinh tại tháng Sửu, mộc cũng lâm Quan Đới, Nhâm Quý Ấn tinh tại
Sửu cũng hữu khí, thì không sợ Giáp Ất mộc vô căn, cũng nhƣ hỷ Quan Sát. Cho nên sách
Uyên Hải Tử Bình, thơ quyết Thập Nhị nguyệt kiến hậu ghi rằng: "Giáp mộc sinh cư Sửu
nguyệt trung, vô căn kim thủy bất hiềm hung".

Mệnh của Dư Triều Quý:

KIẾP SÁT SÁT


Ất Mùi / Canh Thìn / Giáp Tuất / Canh Ngọ

Nguyệt thấu Dƣơng Nhận, có Sát tinh Canh kim chế nó, thành cách Nguyệt Kiếp dụng Sát.
Vô Ấn tiết Sát, có Thƣơng mà không thấu nên cách cục thanh thuần. Mệnh chủ khi 16 tuổi
liền tòng quân, sau làm quan đến bậc nhất phẩm Tổng binh trấn Hải Môn (thuộc huyện Hải
Thông, tỉnh Giang Tô). Đúng là quý mệnh "Canh Tân Tuất Mùi tồn".

Chú thích:

Dư Triều Quý (1835-1904), tự Đỉnh Thần, ngƣời Tân Châu, Hồ Bắc. Năm 1851, Hồng Tú
Toàn khởi nghĩa chống nhà Thanh tại Kim Điền (sử gọi là cuộc Khởi nghĩa Kim Điền), Dƣ
liền tòng quân hƣởng ứng, sau do mẫn cán lập công đƣợc thăng Lan Linh Thiên Tổng (chỉ
huy một nghìn quân, chức vị tƣơng đƣơng tứ phẩm đô ti). Năm 1862, phụng mệnh đem quân
trấn áp khởi nghĩa nông dân ở Chiết Giang, liên tục hạ đƣợc các thành Kim Hoa, Đồng Lƣ,
Thiệu Hƣng, Lan Khê, Phú Dƣơng, đƣợc Tả Tông Đƣờng khen ngợi, theo đó thăng tam phẩm
giữ lại Chiết Giang, từ đây Dƣ cũng thiện hải chiến. Tháng 02/1864 bình đƣợc Dƣ Hàng,
thuộc Hàng Châu, đƣợc thăng quan nhị phẩm Phó Tƣớng, tức Tiến thủ đức Thanh...

…Tiểu sử oai hùng còn dài…

Đến tháng 07/1897 thì từ chức, tháng 8 về kinh đƣợc vua Quang Tự hai lần tiếp kiến, năm
này quay lại Định Hải nhậm chức quan nhất phẩm Đề đốc Tổng binh. Năm 1900 chiến tranh
Nga - Nhật bùng nổ, theo phong trào Nghĩa Hòa Đoàn, phụng mệnh "Cần Vƣơng". Năm
1904 chiến tranh Nga - Nhật bùng nổ, tuy lâm trọng bệnh nhƣng ông vẫn thống lĩnh quân sỹ
ngày đêm luyện tập trấn giữ, cố thủ. Năm này ông mất ngay trong nhiệm sở chỉ huy.
 31-01-13, 16:45
tuhynhan
Nam mệnh 1:

QUAN QUAN TÀI


Canh Dần / Canh Thìn / Ất Mùi / Kỷ Mão

Có Quan vô Ấn, dƣờng nhƣ không thành cách, chỉ vì nguyệt lệnh Dƣơng Nhận, liền cấu
thành Nguyệt Kiếp dụng Quan cách. Nhƣng Quan tinh vô căn, tam hội Kiếp cục, Tài tinh thụ
chế, Thƣơng quan vô lực, cách cục không cao. May mắn có Canh kim cái đầu (trùm đầu),
Kiếp Nhận thời không thể tùy tiện làm càn. Cho nên mệnh chủ sự nghiệp, hôn nhân đều rất
535 | Tam mệnh thông hội

ổn định, vẫn có chức vụ kế toán tại một cục.

Nam mệnh 2:

SÁT SÁT THƢƠNG


Canh Dần / Canh Thìn / Giáp Thân / Đinh Mão

Kiếp Nhận không thấu, vốn có Canh kim cái đầu cũng không sao cả, nhƣng can giờ thấu
Đinh hỏa chế Sát, thành thử Kiếp Nhận ở vào trạng thái vô chế, đây là một mệnh phá cách sự
nghiệp vô thành, tiền tài bất tụ. Mệnh chủ không học đƣợc liền đi làm lính. Chƣa hết hai năm
(quân ngũ), liền bị loại ngũ. Hồi hƣơng làm nông nhƣng lại không an phận, liền làm bậy. Vào
vận Giáp Thân, năm Quý Dậu chế hóa cùng xuất hiện phá cách, Quan Sát công thân nên bị tù
một năm. Vận Đinh Dậu, năm Đinh Sửu, Sát trọng hữu chế, lừa đƣợc ngƣời ta trị giá tài sản
hơn trăm ngàn đồng, tiêu xài hoang phí hết sạch ngay sau đó. Về sau vẫn chuyên lừa gạt bịp
bợm, sống một cuộc sống cùng cực, nghèo khổ.

Một nữ mệnh:

QUAN QUAN THƢƠNG


Canh Tuất / Canh Thìn / Ất Mão / Bính Tuất

Đây cũng là Bính hỏa khử Quan không hoàn toàn, khiến cho Kiếp Nhận vô chế, thành mệnh
phá cách. Mệnh chủ trình độ văn hóa tiểu học, không nghề nghiệp chức vụ, thỉnh thoảng đi
làm thuê. Vận Đinh Sửu, chồng mắc bệnh tâm thần, không có tiền điều trị, cuộc sống lâm vào
cảnh khốn cùng liền dứt áo bỏ đi hành nghề mại dâm kiếm sống, không hẹn ngày về.

Nam mệnh 3:

ẤN KIẾP SÁT
Quý Mùi / Ất Sửu / Giáp Tuất / Canh Ngọ
Giáp tý - Quý hợi - Nhâm tuất - Tân dậu - Canh thân - Kỷ mùi - Mậu ngọ

Giáp mộc sinh tại tháng Sửu mặc dù vô căn, nhƣng do Giáp mộc tại Sửu là đất Quan Đới, lại
có Quý thủy Ấn tinh thấu can, cấu thành cách Ấn nhờ Sát sinh. Cho nên, mệnh chủ sự nghiệp
thuận buồm xuôi gió, tại kim vận giữ chức vụ lãnh đạo một huyện, danh cao lộc dày, đủ uy
phong hơn hai mƣơi năm (vận Tân dậu, Canh thân).
 29-10-13, 20:44
lesoi
( Do Thiên Y bận việc không dịch hết cho nên tôi dịch tiếp tục)

Chính văn:
Mộc mậu nghi kim hỏa,
Thân suy quỷ tác hình,
Thời phân tây dữ bắc,
Khinh trọng biện đông tây.
536 | Tam mệnh thông hội

( Mộc tốt cần kim hỏa,


Thân suy bị quỷ hình,
Thời phân Tây cùng Bắc,
Nặng nhẹ phân Đông Tây)

Đại lục bình chú:


Tiếp theo đoạn văn trên, nói Giáp Ất mộc sinh ở mùa Xuân, nếu nhƣ mộc nhiều mộc vƣợng,
lại vui mừng có Quan Sát chế Tỉ Kiếp, hoặc Thực Thƣơng hóa tiết Tỉ Kiếp. Đƣơng nhiên,
nếu là Quan Sát quá nhiều, chế Kiếp thái quá, thì Quan Sát sẽ tấn công thân, khiến mệnh chủ
không bần cũng yểu. Lại nhƣ kim cũng nhiều, hỏa cũng vƣợng, cũng có thể cấu thành Thực
Thƣơng chế Sát cách, chỉ cần phân rõ Quan Sát và Thực Thƣơng ai nhẹ ai nặng, phân rõ đại
vận là phƣơng Đông hay là phƣơng Tây, là có lợi cho Quan Sát hay là có lợi cho Thực
Thƣơng.

Mệnh Sử Di Viễn: Giáp Thân/ Bính Dần/ Ất Mão/ Tân Tị.


Thuộc mệnh mộc thịnh có chi là kim hỏa, mệnh chủ ở vận Mậu Thìn năm Đinh Mùi gặp Tài
sinh Quan Sát tì đƣợc Tiến sĩ. Vận Tân Mùi năm Mậu Thìn làm quan tới chức Thừa tƣớng,
độc quyền triều chính. Lại có một nam mệnh có bát tự y nhƣ vậy, tốt nghiệp đại học có tiếng,
vận Tân Mùi làm quan tới chức Bí thƣ Tỉnh ủy, trở thành chƣ hầu một phƣơng.

Một nam mệnh: Nhâm Thân/ Nhâm Dần/ Ất Mão/ Đinh Sửu.
Cũng thuộc mệnh mộc thịnh có kim hỏa. Nhƣng mà Dần Thân xung, Đinh hỏa lại bị Nhâm
thủy hợp hóa thành Kiếp, cách cục rất thấp. Mệnh chủ văn hóa tiểu học, chỉ có công tác ở
Trạm phát điện ở nông thôn, bình thản nhƣ nƣớc, chẳng có đƣợc một điểm chấm trong vòng
tròn.

Một nữ mệnh: Kỷ Dậu/ Đinh Mão/ Ất Dậu/ Ất Dậu.


Nguyệt Kiếp dụng Sát cách. Nhƣng mà một Kiếp lại có ba Sát chế, lại còn gặp xung khắc,
chỗ này lại thuộc nơi gọi là "Thân suy quỷ tác hình" mệnh nhƣ bị nhào nặn. Mệnh chủ từ bé
thân thể suy nhƣợc nên nhiều bệnh tật, vận Mậu Thìn năm Canh Thân, 11 tuổi liền mắc bệnh
gan mà chết yểu. Có thuyết luận cân bằng nói, mệnh này thân nhƣợc không thắng Tài Sát,
mới đƣa đến đoản mệnh. Nhƣ vậy, chúng ta hãy trở lại xem một chút phía trƣớc chỗ mệnh
của Vệ Lập Hoàng: Đinh Dậu/ Nhâm Dần/ Ất Tị/ Ất Dậu. Cũng là có vài Sát chế một Kiếp,
nhƣng mệnh chủ ở đại vận Mậu Tuất năm Đinh Sửu, gặp chuyên nhất Tài Sát thăng quan làm
Tổng Tƣ lệnh một đoàn quân, Tỉnh trƣởng tỉnh Hà Nam. Nhƣ vậy giải thích nhƣ thế nào chứ?
Chính vì lẽ đó mà xung hay không xung nguyệt lệnh, vấn đề phá hay không phá cách, thì
không có thể giải thích nhƣ câu "Thân suy quỷ tác hình" .
 29-10-13, 20:45
lesoi
Chính văn:
Thời thượng bào thai cách,
Nguyệt phùng ấn thụ thông,
Sát quan vận hành trợ,
Chức vị liệt tam công.

Đại lục bình chú:


Gọi là "Thời thượng bào thai cách" còn gọi là "Nhật thời bào thai cách", 《 Uyên Hải Tử
Bình 》trong và ngoài có 36 cách đều không dùng, duy chỉ có《 Tam Mệnh thông hội 》có
một chƣơng luận là "Bào thai phùng ấn thụ" . Cách này yêu cầu nguyệt lệnh cùng can giờ
537 | Tam mệnh thông hội

phải là Ấn thụ, và can giờ Ấn thụ ở vị trí thai tại chi ngày. Trong sách đƣa ra ví dụ: Canh
Dần/ Tân Mão/ Bính Thân/ Ất Dậu, nói mệnh này nguyệt lệnh có Mão mộc và can giờ Ất
mộc đều là Ấn tinh, mà Ất mộc ở chi ngày Thân lại là ở vị trí Thai. Thế nhƣng, nhật nguyên
Bính hỏa sinh ở giờ Dậu, chỉ có thể là giờ Đinh Dậu mà không phải là giờ Ất Dậu, đƣơng
nhiên là một ví dụ sai. Trên thực tế, nhật nguyên Bính hỏa có can giờ là Ấn thụ chỉ có giờ
Giáp Ngọ và giờ Ất Mùi, mà ở chi ngày lại vừa đúng nằm ở vị trí Thai thì chỉ có ngày Bính
Thân giờ Ất Mùi. Có lẽ do cổ nhân sao chép nhầm, trong sách nguyên bản có thể là giờ Ất
Mùi. Nhật nguyên Đinh hỏa thì chỉ có ngày Đinh Dậu giờ Giáp Thìn. Nhật nguyên mộc thì
chỉ có ngày Giáp Ngọ giờ Nhâm Thân, ngày Ất Tị giờ Quý Mùi. Nhật nguyên thủy thì có
ngày Nhâm Dần, giờ Tân Sửu, giờ Tân Hợi, cùng với ngày Quý Mão giờ Canh Thân. Nhật
nguyên kim thì có ngày Canh Tý giờ Mậu Dần, ngày Tân Hợi giờ Kỷ Sửu và giờ Kỷ Hợi.
Nhật nguyên thổ chỉ có ngày Mậu Tý giờ Bính Thìn, ngày Kỷ Hợi giờ Đinh Mão. Loại mệnh
cục này chính xác là không lấy nguyệt lệnh thủ dụng định cách mà có thể hƣởng lộc lâu dài
đứng hàng Tam Công ƣ? Đừng ngại, chúng ta đi tìm các ví dụ thực tế nhƣ sau:

Mệnh Thái Loan: Bính Thân/ Mậu Tuất/ Tân Hợi/ Kỷ Sửu.
Làm quan tới Huyện Ủy Kiến Dƣơng, hàng cửu phẩm.
Nam mệnh 1: Đinh Dậu/ Quý Mão/ Đinh Dậu/ Giáp Thìn.
Một bí thƣ Thị ủy, làm quan ở văn phòng, không có thực quyền.
Nam mệnh 2: Bính Tuất/ Đinh Dậu/ Nhâm Dần/ Tân Sửu.
Làm quan tới Phó trƣởng Huyện.
Nam mệnh 3: Canh Dần/ Nhâm Ngọ/ Mậu Tý/ Bính Thìn.
Là trƣởng tộc không mẫu mực, cả ngày chỉ ăn nhậu chơi bời, cuộc sống sung sƣớng, đậy đủ,
35 tuổi bệnh chết.
Nam mệnh 4: Nhâm Thìn/ Bính Ngọ/ Mậu Tý/ Bính Thìn.
Là Nông dân, và làm cả đèn cầy, chỉ là đồng tiền mua bán nhỏ, không phát tài.
Nam mệnh 5: Giáp Thân/ Mậu Thìn/ Canh Tý/ Mậu Dần.
Lão thái nông, bần khốn.
Nữ mệnh 1: Quý Mão/ Giáp Tý/Ất Tị/ Quý Mùi.
Vận Bính Dần xuống phía Nam làm thuê, lƣu lạc làm kỹ nữ, 20 tuổi năm Quý Hợi chết do
bệnh phổi.
Nữ mệnh 2: Giáp Dần/ Mậu Thìn/ Canh Tý/ Mậu Dần.
Làm nữ uốn tóc và bán dâm.

Tƣờng thuật 8 mệnh ở trên đều là cách Bào Thai, nhƣng không có ngƣời nào làm đến vị trí
Tam Công, đại đa số đều thuộc về gia tộc bần khốn. mặc dù thế giới to lớn, nhất định có thể
tìm ra vài ngƣời có cách Bào Thai đại phú, đại quý, thế nhƣng các mệnh này tại vì sao lại là
mệnh nghèo chứ? Đáp án chỉ có một, đó là không thể chỉ bằng một Thời thƣợng có Bào Thai
đều luận quý. Loại này có nguyệt lệnh là cách cục Ấn thụ, thông thƣờng chỉ cần có vận Sát
Quan trợ giúp, ít nhiều thì cũng có đƣợc một điểm quý khí, vì vậy mà thuật lại ba mệnh ở trên
là tiểu quý cũng không phải là ngày giờ có Bào Thai thì mới quý. Nếu không, thì không có
cách nào giải thích các mệnh tạo này không quý mà trái lại là bần yểu đƣợc. Ví dụ thực tế
chứng minh, loại này Tử Bình không thủ cách, không đủ tin để dùng.
 29-10-13, 20:46
lesoi
Chính văn:
Nhị tý bất xung ngọ,
Nhị dần bất xung thân,
Nhị ngọ bất xung tý,
Nhị thân bất xung dần.
538 | Tam mệnh thông hội

Đại lục bình chú:


Giải thích về cách cục cơ bản, tác giả mới bắt đầu nói đến bát tự sinh khắc, chế hóa, một vài
vấn đề chi tiết, trọng điểm thông thƣờng là chỗ mệnh thƣ không có luận cùng vấn đề liên
quan. Chỗ này là mƣợn Tý Ngọ xung và Dần Thân xung để thuyết minh một quy tắc sinh
khắc, tức là: một không xung hai. Tại sao một không xung hai chứ? Ngƣời ta nói phủ nhận,
chê cƣời, chẳng lẽ hai ngƣời chẳng lẽ hai ngƣời không đánh đƣợc một ngƣời ƣ? Thực ra là lý
giải đối với chữ "Xung" nghĩa gốc của nó vẫn chƣa đúng. Gốc của chữ Xung nghĩa là chỉ đối
diện với phƣơng vị xung khắc. Thí dụ nhƣ thiên can có Bính Nhâm xung, Đinh Quý xung, mà
không có Mậu Nhâm xung và Kỷ Quý xung, nguyên nhân thì là phƣơng vị của Mậu và
Nhâm, Kỷ và Quý cũng không phải là đối diện, do đó mới không xung. Giống nhƣ kim nam
châm không thể cùng lúc chỉ cả hai hƣớng Ngọ. Mời xem ví dụ thực tế:

Nam mệnh 1: Canh Tý/ Kỷ Mão/ Đinh Dậu/ Kỷ Dậu.


《 Nguyệt Đàm phú 》 nói: "Độc Ấn phùng Tài, định đoán hồn quy địa ngục." là đúng
mệnh này. Nếu nhƣ hai Dậu có thể xung một Mão, nhƣ vậy, mệnh chủ e rằng khi sinh ra đời
cùng tháng cùng năm có tháng Dậu đều bị chết yểu, thế nhƣng lại không có, thậm chí cùng
với bệnh nặng lâu dài cũng không có. Đến 15 tuổi gặp vận Canh Thìn năm Ất Mão, hai Mão
xung hai Dậu, mệnh chủ mắc bệnh ban đỏ mụt lở loét thì mới chết. Mão mộc là gan, Tý thủy
là máu, Mão hình Tý và Dậu xung Mão, gan huyết đều tổn thƣơng, cho nên mắc bệnh.
Nam mệnh 2: Kỷ Hợi/ Nhâm Thân/ Quý Hợi/ Nhâm Tuất.
Ấn dựa Quan sinh cách. 21 tuổi vào vận Kỷ Tị, bởi vì lƣu niên một đƣờng kim thủy, Tài tinh
không đủ để xác lập, mệnh chủ khó mà thành hôn. Đến 28 tuổi năm Bính Dần, một Tị xung
một Hợi, còn lại ở dƣới thì một Hợi cùng với Thái tuế Dần mộc tác hợp, Chính Tài tiến vào
Thê cung, lại còn Dần Tị Thân tam hình cƣỡng chế Thân kim xung Dần mộc, mệnh chủ mới
có hỉ hoa chúc ( Tân hôn). Năm sau Đinh Mão, Hợi Mão hợp, vợ chồng bình an vô sự. 30
tuổi năm Mậu Thìn, Thìn Tuất xung, mở to khố thủy, nhiều thủy xung Tị hỏa, vợ bị tai nạn xe
cộ mà chết.
Nữ mệnh 1: Ất Dậu/ Mậu Dần/ Canh Thân/ Giáp Thân. Dần mộc Thiên Tài là phụ tinh nắm
lệnh, đã bị Kiếp Nhận quá nặng bao vây tấn công, may mắn ở hai Thân không xung một Dần,
lại thêm Dần mộc ôm Bính hỏa quyết tử mà kháng cự, nếu không, mệnh chủ lúc ra đời e rằng
sẽ bị tang cha. Tại sao lúc sau này Thân kim mới khởi phát xung Dần mộc chứi? Là do gặp
đại vận hợp khử một Thân kim vậy. Quả nhiên, ở trong vận Kỷ Mão, Canh Thìn cha bình an
không có việc gì, mà khi đến vận Tị, hợp khử một Thân, đồng thời lại có tam hình Dần mộc,
song song là hợp Dậu kim Dƣơng Nhận chuẩn bị công kích Dần mộc, lƣu niên Ất Mão xung
động Dƣơng Nhận, ngƣời cha bệnh gan mà chết.
Nữ mệnh 2: Đinh Dậu/ Quý Sửu/ Đinh Mùi/ Canh Tuất. Có trụ tháng và ngày Sửu Mùi xung,
vì Dậu Sửu hợp mà giải xung. Nhƣng bát tự Thất Sát không có chế, ẩn tàng tai họa là rất lớn.
21 tuổi vận Mão năm Mậu Ngọ, Mậu Quý hợp, Ngọ Mùi hợp, Thất Sát đƣợc chế mà thành
hôn. Năm sau vận chuyển Bính Thìn, lƣu niên Kỷ Mùi, trực tiếp cùng với đề cƣơng thiên
khắc địa xung, em gái chồng bị ngƣời cƣỡng dâm, ngƣời em gái phải khởi tố, tên cƣỡng dâm
phẩn nộ mà hạ sát cả gia đình ngƣời chồng ( bản thân chồng, em chồng và cả cha mẹ)! Là
năm do có 2 Mùi xung một 1 Sửu, là do trƣớc có Dậu Sửu hợp giải xung vậy.
 29-10-13, 20:47
lesoi
Chính văn:
Đắc nhất phân tam cách,
Tài quan ấn thụ toàn,
Vận trung phùng khắc phá,
Nhất mệnh tang hoàng tuyền.
539 | Tam mệnh thông hội

Đại lục bình chú:


Một nguyệt lệnh có địa chi, tàng can cùng thấu can là Tam Nguyên, phối hợp năm ngày giờ
mà thành cách cục. Chỗ Tam Nguyên này gọi là "Tam mệnh", cũng gọi là "Tam cách" . Chỗ
Tam Cách này hỉ nhất là có ba vật Tài Quan Ấn, ngƣời xƣa gọi là "Tam bảo". Nguyệt lệnh có
Tam Bảo, đƣợc một thì xuất thân cao quý, có thành sự nghiệp. Tam bảo chỉ là: (1) Không thể
nhiều, vật nhiều thì tiện; (2) Không thể hỗn tạp, vật tạp thì trọc; (3) Không thể gặp xung hình,
khắc phá và hợp hóa. Không đạt đƣợc (1) thì phá cách, phá cách thì không bần cũng yểu, trừ
phi có nhiều chữ mới giảm, (2) tạp thì phải có chữ để thanh cách, (3) hình xung, khắc phá,
hợp hóa, có chữ để ứng cứu.

Mệnh Trương Học Lương: Tân Sửu/ Quý Tị/ Nhâm Tý/ Canh Tý.
Nguyệt lệnh Tị hỏa có tàng Bính Mậu Canh là tam bảo Tài Quan Ấn, dù có Tý Quý Kiếp
Nhận khắc Tị hỏa, may mắn là có Tị ôm lấy Mậu thổ, có thể hợp khắc Tý Quý thủy, cách cục
không phá. Cho nên mệnh chủ sau khi ra đời, cha là Trƣơng Tác Lâm đƣợc triều đình gọi mời
làm quan. Trong lúc mệnh chủ 19 tuổi thì cha bổ nhiệm làm trƣởng doanh trại. 20 tuổi thăng
Lữ trƣởng. 23 tuổi thăng Quân trƣởng. 25 tuổi thăng Thƣợng tƣớng. Ngƣời gọi là "Thiếu
soái" . Chỗ này rất nhiều quân nhân dù cả đời mũ quan cũng không đến tận tay, thế mà anh ta
chỉ mới ra đời đã đƣợc toại nguyện. Dựa vào cái gì vậy? Hoàn toàn là dựa vào có Vua, có
quân đội của cha! Hoàn toàn dựa vào nguyệt lệnh có Bính hỏa và Mậu thổ!
Mệnh Tăng Văn Đạt: Đinh Mão/ Ất Tị/ Nhâm Tý/ Ất Tị.
Trong Nguyệt lệnh có tam bảo Tài Quan Ấn, cách thành Tài hỉ Thực sinh. Mệnh chủ do là
cháu đời thứ 54 của họ Tăng, 14 tuổi liền kế nghiệp tƣớc vị Tiến sĩ Ngũ kinh (tức 5 thứ kinh
điển Nho giáo: Thi, Thƣ, Dịch, Lễ, Xuân Thu) Hàn Lâm Viện, từ đây ngồi ở nhà mà hƣởng
bổng lộc, cƣới 4 bà vợ, sinh ra 8 đứa con, thật là quá sung sƣớng.
Mệnh Bạch Tĩnh: Quý Hợi/ Đinh Tị/ Quý Hợi/ Giáp Dần.
Dần mộc hợp khử một Hợi, lại còn có một Hợi xung Tị hỏa, hỉ Thực Thƣơng và Quan Sát
chế kiếp để cứu cách. Đầu vận Mậu Ngọ, Kỷ Mùi, Quan Sát có lực mà chế Kiếp hộ Tài,
mệnh chủ học nghiệp thuận lợi, sau khi tốt nghiệp Hí kịch, trƣớc sau ra diễn rất nhiều kịch
bản trên điện ảnh nhƣ 《 Huyết sắc Tƣơng tây 》, 《 Công Phu Vịnh Xuân 》, 《 Cổn Cổn
huyết mạch 》, 《 Tự cổ anh hùng xuất thiếu niên 》…, là nữ vai diễn nhân vật chính đứng
đầu 30 ngƣời đƣợc nêu danh khen thƣởng, đứng thứ 11 cuộc thi biểu diễn Hội học thuật Điện
ảnh Trung Hoa giải thƣởng Kim Phƣợng Hoàng. Nhƣng gặp Thân vận năm Nhâm Thìn, kim
thủy liên thủ đến phá cách, mệnh chủ chết thảm do ngƣời chồng sát hại đúng lúc độ tuổi xuân
xanh.
 29-10-13, 20:48
lesoi
Chính văn:
Tiến khí tử bất tử,
Thoái khí sinh bất sinh,
Chung niên vô phát vượng,
Do khủng thiểu niên hình.

Đại lục bình chú:


Bát tự tuy có thể dụng Tài Quan Ấn, nhƣng cần phải luận vƣợng suy, lại cần chú ý đến trạng
thái tiến khí và thoái khí. Thí dụ nhƣ Giáp mộc ở tháng Tuất, giống nhƣ cành lá bị khô héo,
không đƣợc thủy sinh, nhƣng bởi vì ở tháng Hợi là trƣờng sinh, tháng Tuất thì lấy ở nơi trạng
thái Thai Dƣỡng, sinh khí sau đó tiến, cho nên gọi là "Tiến khí", tuy tử mà không tử, gặp sinh
là sống. Mà Giáp mộc sinh ở tháng Tị, sinh khí sau đó thoái, tuy gặp thủy sinh cũng khó
540 | Tam mệnh thông hội

sống, lại không dùng thuyết ngũ hành ở đất tử tuyệt. Bởi vậy, ngũ hành thoái khí gặp sinh
khó khởi, nếu nhƣ là dụng tƣớng thần gặp thoái khí, tức là dù cho đại vận đến đất sinh vƣợng
cũng khó phát vƣợng, thời kỳ thiếu niên e rằng liền gặp vận tai họa.
Mệnh Trần Gia Canh: Giáp Tuất/ Giáp Tuất/ Tân Hợi/ Nhâm Thìn.
Dụng Ấn hỉ Thực sinh Tài cách. Giáp mộc Tài tinh ở tháng Tuất là mất lệnh, nhƣng tiến khí
là không tử, sau đến vận Đông phƣơng phù khởi, mệnh chủ phát tài cự vạn, trở thành nổi
tiếng thƣơng nhân kiều bào. Mà đến vận Canh Thìn Tỉ Kiếp thấu xuất tranh Tài, Tài tinh lại
đến đất suy địa, mệnh chủ phá tổn đủ điều. Tới vận Tân Tị Tài tinh thoái khí, Thực Thƣơng
đến đất tuyệt địa, tiền tài mất hết mà chết.
Mệnh Trần Hiểu Húc: Giáp Thìn/ Giáp Tuất/ Tân Hợi/ Quý Tị. Cùng với mệnh Trần Gia
Canh gần giống nhau, chỉ là đại vận nghịch hành, mệnh chủ ở vận Tân Mùi năm Nhâm Thân
mở công tý kinh doanh, gặp năm Ất Hợi sinh phù Tài tinh, tài phát ức vạn. Vận Canh Ngọ
Thực Thƣơng Tài tinh đều thoái khí, cho nên tiêu tan sự nghiệp.
Một nam mệnh: Giáp Dần/ Quý Dậu/ Canh Tý/ Tân Tị. Nhìn sơ qua thân cƣờng Thực vƣợng
mà sinh Tài, đại vận lại là Đông Bắc phƣơng đất Tài vƣợng, hặn là đặc biệt sinh ra đại phát?
Thế nhƣng mệnh chủ sớm có tang cha, vì nghèo mà ở rễ nhà vợ. Trong vận Ất Hợi đi học
khổ sở, cũng chỉ là đƣợc Tú tài. Sau này liên tục thi không đậu, cả nhà cũng nghèo chỉ còn có
bốn bức tƣờng. Tại sao đến đất Tài vƣợng lại không phát tài chứ? Nguyên nhân là do ở tháng
8 mộc khô, khó nhận sinh phù.

Chỗ Nhậm Thiết Tiều ghi chú trong《 Trích Thiên Tủy 》 một mệnh:
Canh Thìn/ Quý Mùi/ Ất Mùi/ Quý Mùi.
Ấn dựa Quan sinh cách. Mặc dù tháng 6 thủy khô, Quý thủy lại tọa ở trên Mùi thổ, nhƣng vì
tháng Mùi thủy tiến khí, thoái mà không thoái, lại thêm trong Mùi có Ất mộc chế thổ hộ thủy,
cách thành mà cao, cho nên mệnh chủ ở trong vận Tây phƣơng kim thủy năng lực làm quan
bị ngăn cản, cảnh ngộ làm quan chỉ an hòa.
 29-10-13, 20:49
lesoi
Chính văn:
Thời thượng Thiên Tài cách,
Can đầu kị Tỉ kiên,
Nguyệt sinh phùng chủ vượng,
Quý khí phúc lộc thâm.

Đại lục bình chú:


Gọi là "Thời thượng Thiên Tài cách" tức là cách cục có chi giờ là Thiên Tài. Cách này chỉ
cần một vị Thiên Tài, nếu có ba vị là phá cách, cũng không nên có Kiếp Nhận đoạt Tài, hỉ có
Quan tinh hộ Tài. Thi Quyết nói: "Thời thƣợng Thiên Tài mộ vị tốt, không gặp xung phá
hƣởng vinh hoa. Bại tài Kiếp Nhận không nên gặp, phú quý song toàn sánh Thạch gia."
Thông thƣờng trong mệnh thƣ đều nói, Chính Tài cùng Thiên tài, đều hỉ thân vƣợng mà kị
Kiếp Nhận. Khác nhau là, Chính Tài không hỉ Quan tinh, mà Thiên Tài hỉ Quan tinh, cho nên
có nói "Thân cƣờng tài vƣợng đều là phúc, nếu mang Quan tinh càng quá tốt". Ở rất nhiều
trong sách Tử Bình, chỉ có 《 Tử Bình Chân Thuyên 》không ghi chép cách này. Bởi vì
cách này dành cho Tử Bình là "Bát tự dụng thần, chuyên cầu nguyệt lệnh" và "Phàm cách dĩ
sát quan luận chi" ( Thông thƣờng thì cách lấy Quan Sát mà luận) quy tắc thủ dụng lấy chống
lại ngang ngƣợc. Hơn nữa, vẫn còn chỗ tự mâu thuẫn lẫn nhau, dù cho đã nói "Nguyệt sinh
phùng chủ vượng" (Chủ vƣợng gặp tháng sinh), lại nói "Bại tài kiếp nhận hoàn vô ngộ" (lại
không gặp Bại Tài Kiếp Nhận), thử nghĩ nếu nhƣ bát tự, tuế vận đều không có Tỉ Kiếp, thân
vƣợng lại từ đâu mà đến? Nếu nhƣ đem hai chữ "Nguyệt sinh" lý giải nguyệt lệnh là Ấn thụ,
541 | Tam mệnh thông hội

nhƣ vậy Thời thƣợng Thiên Tài lại không phải là "Tiên ấn hậu tài, phản thụ kỳ nhục" ( Trƣớc
Ấn sau Tài, trái lại là xỉ nhục) ƣ? Hoặc nhƣ nói Ấn tinh nhiều mà hỉ Tài, vậy không lại là khử
Ấn tựu Tài cách ƣ? Có chăng cần phải lập Thời thƣợng Thiên Tài cách ? Nếu nhƣ Ấn tinh
nắm lệnh, lại thấy Quan tinh, thì vừa phải luận Sát Ấn cách, vừa phải bỏ Sát Ấn mà luận Thời
thƣợng Thiên Tài ƣ? Do vậy, Đại Lục thừa nhận nhƣ 《 Tử Bình Chân Thuyên 》 không
lấy cách làm theo phƣơng pháp này.
Mệnh Trương Hi Văn: Kỷ Dậu/ Bính Tý/ Nhâm Dần/ Ất Tị.
Chỗ này là con của tác giả《 Thần Phong Thông Khảo 》Trƣơng Thần Phong. Đem bản
thân mệnh tạo của anh ta thuộc Thời thƣợng Thiên Tài cách. Thân vƣợng, Tài không bị xung
phá, can năm lại mang Quan tinh. Nhƣng mà mệnh chủ "Phú quý song toàn" sao? Trái lại,
thỏa đáng phú quý đều không đủ. Bản thân kể lại rằng: "Tôi là ngƣời học tập và rèn luyện chỗ
tu hành vậy, cũng không liên quan tới thuật này, là nối tiếp chí nguyện của cha tôi, mà biên
tập sách này". Bản thân anh ta phân tích mệnh nói: "Thông thƣờng Nhâm thủy hỉ Tài Quan,
sinh tháng Tý là thấy Nhận, nếu hành Tài Quan vận, là ngƣời tay trắng tự lập nghiệp hƣng
thịnh. Nhƣng mà hai mộc hại Quan Sát, có hai kim ngăn cản, bát tự có Tị chứa thổ không
nhiều, cho nên chủ không quý... Hành vận Quý cha mẹ gặp phải tai họa, vợ con gặp thay
đổi... vào vận Dậu, hỏa thổ đều bại, nên không toại nguyện vậy". Nhìn, ngƣời đã qua trung
niên không còn thấy tƣợng một điểm phú quý tích tụ, chỉ có làm nhà sƣ. Thực ra, mệnh này
có hai mộc cũng không thể tổn thƣơng Quan Sát, nguyên nhân chủ yếu không có phú quý là
Nguyệt Kiếp dụng Thực sinh Tài, mà Tị hợp Dậu hóa Tài thành Ấn, Quan tinh hƣ phù vô
căn, vừa phá Thực Thƣơng sinh Tài cách, vừa không thành Quan Ấn cách, thuộc về hoàn
toàn xa lạ cách bần mệnh.

《 Uyên Hải Tử Bình • Thời thượng Thiên Tài cách 》đƣa ra mệnh Lý Tham Chính:
Canh Dần/ Ất Dậu/ Giáp Tý/ Mậu Thìn. Nguyệt lệnh có Quan Sát, thiên can Sát có Kiếp
hợp, địa chi Sát có Ấn hóa, vừa nhìn hiểu là Sát Ấn tƣơng sinh là quý cách, tại sao có lý do
cần lấy Thời thƣợng Thiên Tài luận cách chứ? Lại có lƣu trong thƣ mệnh: Đinh Hợi/ Mậu
Thân/ Nhâm Thân/ Bính Ngọ. Sở dĩ mệnh này quý là đúng sách, cũng không phải là Thời
thƣợng Thiên Tài mang đến quý khí, mà là cấu thành Tài sinh Sát nhƣợc cách và Khử Ấn tựu
Tài cách. Thực ra, chỉ cần Nguyệt lệnh thành cách, Thời thƣợng Thiên Tài phá cách cũng một
nhất dạng đại quý. Giống nhƣ ở trƣớc mệnh của Phó Thủ tƣớng Quốc Vụ viện Quách Mạt
Nhƣợc: Nhâm Thìn/ Tân Hợi/ Nhâm Tý/ Bính Ngọ. Thời thƣợng Thiên Tài dĩ nhiên gặp Tý
Nhận xung phá, can đầu lại có Tỉ kiên đại kị, trƣớc hai bƣớc đại vận lại là Nhâm Tý, Quý
Sửu, Kiếp Nhận hoành hành, xem nói mệnh chủ lại không có qua một ngày tốt. Nhƣng sự
thực mệnh chủ ở trên sinh ở gia đình giàu có, qua thiếu niên cơm áo đều không có lo, cuộc
sống vui sƣớng. Là tại sao chứ? Bởi vì mệnh họ Quách thuộc chuyên vƣợng cách, can tháng
có Ấn, cho nên thiếu niên có hƣởng phúc ấm cha mẹ, mà học nghiệp ƣu tú.
 29-10-13, 20:50
lesoi
Chính văn:
Vận hành thập tái số,
Thượng hạ ngũ niên phân,
Tiên khán lưu niên tuế,
Thứ tri vãng lai tuần.

( Số vận hành 10 năm,


Trên dƣới phân 5 năm,
Trƣớc xem Tuế lƣu niên,
Sau hiểu tuần qua lại.)
542 | Tam mệnh thông hội

Đại lục bình chú:


Mấy câu nói đó là bàn về tuế vận. Ở dƣới tình huống thông thƣờng, đại vận phân ra can chi
mà luận, trên dƣới phân ra 5 năm quản cát hung. Lƣu niên Thái tuế thì coi cát hung một năm.
Tiếp theo, còn phải hiểu đại vận thuận nghịch, là vì hƣớng Đông khử Tây, hay là vì hƣớng
Tây đến Đông, cho nên nói "Vãng lai" . Một vận can chi cộng lại quản lý 10 năm, cho nên
nói là "Tuần" . Nhƣng thông thƣờng thì sự việc đều có đặc thù, giống nhƣ có hai công nhân
trực 2 ca, bạn trực ca ngày, tôi trực ca đêm, ở dƣới tình huống thông thƣờng tất cả đều phải
trực ca, nếu gặp tình huống nđặc biệt, thí dụ nhƣ cấp trên đi kiểm tra hoặc gặp sự cố đột xuất
…, thì rất có thể gặp điều động hoán đổi lẫn nhau trực ca hoặc cả hai ngƣời cùng trực một ca.
Hơn nữa, đại vận là kéo dài nguyệt lệnh, là quản lý ngũ hành vƣợng suy, thí dụ nhƣ vận một
tiến vào Ất Dậu, bát tự có mộc hỏa tức nhập vào tử địa, thủy đến bại địa, kim đến vƣợng địa,
thổ đến bệnh địa. Không nhƣ chỗ này luận, thì trong vận Ất thì khó hiểu ngũ hành vƣợng suy
của bát tự vậy. Cho nên, đem can chi đại vận phân ra trên dƣới 5 năm mà luận, chủ yếu là chỉ
ngũ hành sinh khắc, chế hóa, mà không phải ngũ hành vƣợng suy.
Mệnh Lâm Bưu: Đinh Mùi/ Tân Hợi/ Mậu Tý/ Canh Thân.
Tài hỉ Thực sinh mà phối Ấn. 9 tuổi đến vận. 59 tuổi vào vận Ất Tị, Quan tinh thấu rõ sinh
Ấn tinh, lƣu niên Bính Ngọ, Đinh Mùi, vƣợng Ấn chế Thƣơng, mệnh chủ trở thành Phó
Thống soái là một ngƣời lão luyện, quyền thế nghiêng triều vậy, uy danh đầy trời, dân chúng
cả nƣớc sáng sớm mỗi ngày đều phải cầu nguyện ông ấy cho hai vị lão nhân gia vạn thọ vô
cƣơng, thân thể tráng kiện. Lƣu niên kế tiếp tuy là Mậu Thân, Kỷ Dậu, Canh Tuất, thổ kim
tiết hỏa khắc mộc, chỉ vì mệnh vận mộc hỏa liên thủ kháng cự thổ kim, ở cách là không có
tổn hại, mệnh chủ vẫn ngang nhiên uy phong vô hạn. Không còn hi vọng 64 tuổi một vòng
gặp vận đến Tị hỏa, lƣu niên lại vƣớt qua Tân Hợi, Ấn tinh thiếu căn gặp Hợi thủy xung
khắc, đại phá cách cục, mệnh chủ chạy trốn không thành, đồng thời cùng vợ con mình đều
chết.
Mệnh Hàn Phục Củ: Tân Mão/ Canh Dần/ Canh Ngọ/ Kỷ Mão.
Tòng Sát cách. 2 tuổi 11 tháng vào vận. Sau 23 tuổi vào vận Đinh Hợi, Quan tinh thấu rõ chế
Kiếp, dần dần đƣợc gặp gỡ, đang lúc 10 năm từ Trung đội trƣởng tới Sƣ trƣởng. 33 tuổi vào
vận Bính Tuất thăng chức Quân đoàn trƣởng, Chủ tịch tỉnh Hồ Nam. Vận Tuất tam hợp Sát
cục, nhậm chức Chủ tịch tỉnh Sơn Đông 8 năm. 43 tuổi vào vận Ất Dậu, vận Ất cách không
có tổn hại, 45 tuổi năm Ất Hợi vẫn đƣợc thăng chức làm Thiếu tƣớng Lục Quân, ủy viên Ban
chấp hành Trung ƣơng. 46 tuổi năm Đinh Sửu, nói nhƣ ở trên là không tiến vào Dậu vận,
nhƣng chữ Thái tuế nhƣ Vua, có thể điều động tất cả mệnh cục, đại vận, là năm hợp động
Dậu kim Dƣơng Nhận, cùng Tài Sát xung khắc, phá mất Tòng Sát cách, mệnh chủ vì thất thủ
Sơn Đông bị đƣa lên Tòa án Quân sự, phán xử tử hình.
 29-10-13, 20:51
lesoi
Chính văn:
Thời thượng nhất vị quý,
Tàng tại chi trung thị,
Nhật chủ yếu cương cường,
Danh lợi phương hữu khí.

Đại lục bình chú:


Gọi là "Thời thượng nhất vị quý cách", là chỉ cách cục bát tự chỉ có một vị Thất Sát ở địa chi
trụ giờ. Quyết nói: "Thời thƣợng Thất Sát là Thiên Quan, thân cƣờng có chế xem nhƣ mệnh
tốt. Chế quá hỉ gặp vận Sát vƣợng, ba phƣơng đắc địa phát khách khí. Gốc không có chế phục
vận cần thấy, đủ không sợ nhiều Sát hình xung, nếu là thân suy hành Sát vận, xác định mệnh
bần hàn." Ý tức là: Thời thƣợng có một vị Thất Sát, nếu có chế phục thì là mệnh tốt, nhƣng
543 | Tam mệnh thông hội

không nên chế phục thái quá. Mệnh cục nếu nhƣ không có chế phục, thì cần hành vận chế Sát
mới phát. Mệnh cục nếu nhƣ chế Sát thái quá, thì lhông có sợ đến vận Sát nhiều Sát vƣợng.
Cách này tối kị thân nhƣợc Sát nhiều, cho nên nói nhấn mạnh "Nhật chủ yếu cương cường,
danh lợi phương hữu khí."
Nhƣng mà, đoạn văn phía trƣớc có nói "Hữu sát tiên luận sát, vô sát phương luận dụng" ( Có
Sát thì luận Sát, không có Sát mới luận dụng), thì đã bao quát chi giờ ở bên trong đã có Sát,
nếu nhƣ hiện tại lại đem Sát ở chi giờ thành lập một cách, nhƣ vậy ngoài ra vẫn có thể thành
lập"Niên thượng nhất vị quý cách", "Nguyệt thượng nhất vị quý cách", "Nhật thượng nhất vị
quý cách", nếu không, thì có là phép tắc thủ cách "Hữu sát tiên luận sát" không? Do vậy,
chúng ta cũng có thể mang cách này "Thời thượng nhất vị quý cách" cùng với năm tháng
ngày tất cả một vị quý cách đều nhập vào Sát cách, không có lý do chỉ có đem thành lập một
cách.
Còn nữa, đoạn nói này còn có một điều sai lầm, chính là vừa Sát cần có chế, nhƣ vậy, thì là
vấn đề mang Sát chế nặng chế nhẹ, cùng với thân cƣờng, thân nhƣợc không có trực tiếp quan
hệ với nhau. Một câu nói "Nhật chủ yếu cương cường, danh lợi phương hữu khí" rất dễ dàng
khiến cho kẻ hậu học sinh ra ngộ nhận, vì đã có thân cƣờng thì mới có thể đảm nhận Sát.
Thực ra, Sát nếu không có chế, thân lại cƣờng cũng là mệnh phá cách. Chỉ cần Sát vƣợng có
chế, tức là nhật chủ vô căn cũng là mệnh tốt. Tôi nói là không tin, mời xem ở dƣới một vài ví
dụ thực tế, thì hiểu chỗ tác giả nói là không sai.
Mệnh Hàn Hàn: Nhâm Tuất/ Kỷ Dậu/ Kỷ Dậu/ Đinh Mão.
Trong vận Hợi Tý thủy trở thành 80 nhân vật là hoàng hậu thay chồng thống lĩnh ba quân,
đƣợc danh lợi lớn.
Mệnh Ngô Thiết Thành: Mậu Tý/ Ất Mão/ Kỷ Mão/ Ất Sửu.
Trong vận Canh Thân, Tân Dậu nhậm chức Chủ tịch tỉnh Quảng Đông, Phó viện trƣởng Viện
Hành chính.
Mệnh Giang Đăng Tuyển: Tân Tị/ Tân Sửu/ Mậu Thân/ Giáp Dần.
Tốt nghiệp trƣờng Sĩ quan Nhật Bản. Vận Đinh Dậu, nhậm chức Tổng Tƣ lệnh Quân Đoàn.
Mệnh Tôn Hồng Y: Nhâm Thân/ Tân Hợi/ Mậu Thìn/ Giáp Dần.
Trong vận Giáp Dần, Ất Mão làm quan nhậm chức Tổng trƣởng Giáo dục, Tổng trƣởng Nội
vụ.
Mệnh Đoan Mộc Chương: Canh Thìn/ Mậu Tý/ Kỷ Mão/ Ất Hợi.
Nhiều lần giữ chức vụ quan trọng trong Quân Giới, vận Quý Tị nhậm chức xa hơn, Huyện
trƣởng Thang Khê nhiều năm.
Mệnh Nghiêm Nột: Tân Mùi/ Kỷ Hợi/ Kỷ Sửu/ Ất Hợi.
Xuất thân Tiến sĩ. Kim vận làm quan tới Thƣợng thƣ Lại Bộ, vận Ất Mùi nhậm chức Tể
tƣớng.
Mệnh Cát Thủ Lễ: Ất Sửu/ Kỷ Mão/ Mậu Thân/ Giáp Dần.
Xuất thân Tiến sĩ, trong vận thủy kim làm quan tới Thƣợng thƣ Lễ Bộ, Hình Bộ.
Mệnh Lý Quế Như: Canh Tý/ Mậu Tý/ Mậu Dần/ Giáp Dần.
Xuất thân Tiến sĩ, làm quan tới Thƣợng thƣ Lại Bộ.
Mệnh Lưu Thuận Chinh: Canh Tuất/ Ất Dậu/ Mậu Dần/ Giáp Dần.
Trong vận thủy trở thành Tiến sĩ, làm quan tới Lang trung Hình Bộ.
Mệnh Cố Hiến Thành: Canh Tuất/ Ất Dậu/ Mậu Thìn/ Giáp Dần.
Tý vận năm Kỷ Mão đƣợc tiến cử, năm sau Canh Thìn đƣợc Tiến sĩ. Làm quan tới Ngự sử
Đô Sát.

(Hết)

You might also like