Professional Documents
Culture Documents
phỏng vấn trực tiếp Cựu hoàng Bảo Đại trước khi ông qua đời | Nghiên cứu lịch sử
Cuộc phỏng vấn trực tiếp Cựu hoàng Bảo Đại trước khi ông qua đời
This entry was posted on Tháng Năm 11, 2015, in Lịch sử Việt Nam and tagged bảo đại, Trần Trọng Kim, vĩnh thụy. Bookmark the permalink. 9 phản hồi
Trước khi Bảo Đại qua đời (1997), nhà sử học trẻ Fédéric Mitterand – cháu của Tổng thống Mitterand đã có cuộc phỏng vấn trực tiếp cựu hoàng tại
nhà riêng (tầng trệt cao ốc 29 Presnel, quận 16 – Paris). Lần đầu tiên cựu hoàng nói về những kỷ niệm và thổ lộ ước vọng của ông về đất nước Việt
Nam, trong đó có việc ông thành lập chính phủ Trần Trọng Kim thân Nhật và trong trường hợp nào ông đã thoái vị làm cố vấn cho chính phủ Việt Nam
dân chủ cộng hoà.
Cuộc phỏng vấn này đã được phát trên truyền hình Pháp nhiều lần, hoàng nữ Phương Thảo (con của bà Bùi Mộng Điệp và cựu hoàng Bảo Đại) đã thu
được và cung cấp cho tôi, kỹ sư Bùi Hữu Lân (cựu sinh viên Đại học Bách khoa Pháp) và ông Nguyễn Đắc Xuân chuyển qua Việt ngữ. Xin trích một
đoạn sau đây để bạn đọc tham khảo về những sự kiện cách nay 70 năm.
Frédéric Mitterand: Đây là một thời kỳ (1944-1946) lạ lùng: có một chủ quyền của nước Pháp Vichy, có đông đảo người Nhật, có vua Bảo Đại im lặng
đứng nhìn tình thế, bên cạnh nhân dân Việt Nam. Nước Pháp được giải phóng, thay đổi chế độ chính trị, với tướng De Gaulle lên cầm quyền. Lúc ấy ở Việt
Nam tình hình ra thế nào?
https://nghiencuulichsu.com/2015/05/11/cuoc-phong-van-truc-tiep-cuu-hoang-bao-dai-truoc-khi-ong-qua-doi/ 1/11
17/9/2017 Cuộc phỏng vấn trực tiếp Cựu hoàng Bảo Đại trước khi ông qua đời | Nghiên cứu lịch sử
Bảo Đại: Người Việt chúng tôi mù tịt. Chúng tôi hoàn toàn không biết việc gì đã xảy ra. Chúng tôi có biết nước Pháp được giải phóng, chấm hết.
Frédéric Mitterand: Và người Nhật? Lúc ấy một thời gian sau họ làm đảo chánh?
Bảo Đại: Người Nhật làm đảo chánh vì người Pháp cho rằng, sau khi quân Nhật đã thua nhiều trận ở mặt trận Thái Bình Dương, nước Nhật đã đến thời tận
số. Cho nên người Pháp mới bắt đầu tổ chức một loạt kháng chiến. Người Nhật, thấy đã hết thời, không muốn như vậy và đó cũng là một vấn đề thể diện.
Họ đã làm đảo chánh và gạt bỏ chủ quyền của Pháp.
Frédéric Mitterand: Lúc ấy, ngài bất đắc dĩ cũng bị lôi cuốn phần nào trong cuộc ẩu đả đó?
Bảo Đại: Đó là một câu chuyện khá đầy kịch tính. Hôm người Nhật làm đảo chánh tôi không có mặt trong cung. Tôi đi săn. Đến khi trở về cung các cửa
cung đều mở. Có tiếng súng nổ. Một sĩ quan Nhật đến trình diện với tôi, xin tôi chịu khó chờ một chút: “Chúng tôi đang giải quyết vài vấn đề”, và sau đó
ông sĩ quan này dẫn tôi vào cung. Một thời gian sau, tôi vào trong cung, cũng ông sĩ quan ấy nói với tôi: “Ngày mai, có một nhân vật quan trọng, một đại
sứ, đến trình diện với ngài”. Ngày hôm sau tôi tiếp đại sứ Yokoyama. Đại sứ trình uỷ nhiệm thư và nói với tôi rằng: “Thiên Hoàng cho tôi đến bên cạnh
Ngài”. Đây là lần đầu tiên tôi tiếp xúc với người Nhật.
Bảo Đại: Chúng tôi biết hoàng đế Nhật, nhất là Minh Trị Thiên Hoàng, đã mở cửa nước Nhật cho thế giới hiện đại.
Bảo Đại: Có, tôi có theo dõi khá sát lịch sử nước Nhật.
Frédéric Mitterand: Người Nhật tỏ ra rất kính trọng ngài, và ngay sau đó, đề nghị ngài tuyên bố nước Việt Nam độc lập. Một tình trạng gay cấn vì thực sự
không còn chủ quyền của Pháp lúc đó nữa. Chính tướng De Gaulle cũng đã nó: “Tôi thấy Đông Dương đã rời xa như một con tàu lớn”. Khoonhg có vấn đề
duy trì chính quyền Vichy, còn người Nhật thì yêu cầu ngài tuyên bố độc lập. Và ngài lưỡng lự?
Bảo Đại: Trước hết, tôi nghi ngờ vì không biết nền độc lập này có giá trị đến mức nào.
Bảo Đại: Không phải là cái bẫy nhưng hai chữ ấy vô cùng kỳ diệu, đó là hai chữ thiêng liêng, hai chữ Độc Lập. Đối với thần dân tôi, tôi không thể từ chối
Độc Lập, nếu tôi từ chối, thần dân tôi sẽ trách tôi. Đó là cơ hội ngàn năm một thuở để chứng tỏ rằng chúng tôi độc lập, dù cái độc lập ấy có hình thức thế
nào. Điều kỳ lạ là khi tôi ký tuyên ngôn độc lập, tôi hỏi Đại sứ Nhật: “Có vấn đề trao đổi gì không?”. Ông trả lời: “Không, chúng tôi không đòi hỏi ngài bất cứ
một điều gì; chúng tôi giải phóng quý quốc; có thế thôi”.
https://nghiencuulichsu.com/2015/05/11/cuoc-phong-van-truc-tiep-cuu-hoang-bao-dai-truoc-khi-ong-qua-doi/ 2/11
17/9/2017 Cuộc phỏng vấn trực tiếp Cựu hoàng Bảo Đại trước khi ông qua đời | Nghiên cứu lịch sử
Frédéric Mitterand: Nhưng dầu sao, ngài không ngại trở nên một con bài trong tay người Nhật, và ngài không ngại làm cho người Pháp nghĩ rằng ngài đã
bỏ rơi họ?
Bảo Đại: Không, hoàn toàn không. Tôi không muốn tôi là con bài trong tay người Nhật. Một hôm ông tướng chỉ huy quân đội viễn chinh Nhật ở Đông Dương
xin tôi tham gia vào chiến cuộc để giúp nước Nhật, vì lúc đó Nhật đang ở trong một giai đoạn khó khăn, tôi trả lời: “Nay chúng tôi độc lập, không thể sai
khiến chúng tôi điều gì nếu chúng tôi đã độc lập. Chúng tôi tự do làm điều gì chúng tôi muốn, các Ngài không có quyền can thiệp vào nội bộ chúng tôi”. Và
người Nhật đã hiểu.
Frédéric Mitterand: Có cái ngại kia, ngại làm cho người Pháp nghĩ rằng ngài đã bỏ rơi họ?
Bảo Đại: Không những tôi đã nghĩ đến việc này, mà nhiều người Pháp đã cho rằng tôi đã phản bội họ. Khi tôi trở qua Pháp năm 1948, có một chiến dịch
báo chí chống tôi, nói rằng: “Đó là một con người phản bội, ông ấy đã bỏ rơi chúng ta, ông ấy đi với bọn Nhật”. Tôi phải đưa Hiệp ước Bảo hộ ra. Nó đây,
theo điều 11 hay 13, nước Pháp có trách nhiệm giữ an ninh cho nhà vua, chống lại kẻ địch bên ngoài cũng như nội loạn bên trong. Ai đã phá bỏ hiệp ước
này? Không phải tôi. Ngày 9-3-1945, chủ quyền Pháp đã không còn nữa.
Bảo Đại: Không, quân đội của Thiên Hoàng không làm cái việc tàn ác. Thủ phạm là đội Kempetai, là một loại Lê Dương của Nhật. Đội Kempetai này đã làm
các việc tàn ác đối với người Pháp.
Frédéric Mitterand: Bỗng nhiên ta lâm vào cái thế phức tạp. Vì ngài có nhiều quyến luyến với người Pháp. Ngài không thể bình thản mãi?
Bảo Đại: Đó là tình cảm cá nhân, nhưng tôi phải nghĩ trước hết đến quốc gia dân tộc. Người Nhật đã đem độc lập đến cho chúng tôi, tôi phải cụ thể hoá nền
độc lập đó. Cho nên tôi đã lập một chính phủ. Các quan đại thần lúc ấy đã xin rút lui để chúng tôi có một chính phủ tân tiến.
Frédéric Mitterand: Lúc đầu tiên ngài thực hiện quyền lực của một ông vua lập hiến, của một ông vua thời hiện đại. Vậy chính phủ ấy có những ai.
Bảo Đại: Đó là những trí thức trẻ, nhiều người ở Pháp, những kỹ sư trường bách khoa, những tiến sĩ luật, những bác sĩ y khoa, họ thông hiểu cả Đông và
Tây. Về chức Thủ tướng, tôi đã chọn một học giả thông hiểu cả Đông và Tây.
Frédéric Mitterand: Trước tình hình mới ấy, tâm trạng của dân chúng thế nào?
Bảo Đại: Có thể nói rằng dân chúng cảm thấy nhẹ nhõm.
https://nghiencuulichsu.com/2015/05/11/cuoc-phong-van-truc-tiep-cuu-hoang-bao-dai-truoc-khi-ong-qua-doi/ 3/11
17/9/2017 Cuộc phỏng vấn trực tiếp Cựu hoàng Bảo Đại trước khi ông qua đời | Nghiên cứu lịch sử
https://nghiencuulichsu.com/2015/05/11/cuoc-phong-van-truc-tiep-cuu-hoang-bao-dai-truoc-khi-ong-qua-doi/ 4/11
17/9/2017 Cuộc phỏng vấn trực tiếp Cựu hoàng Bảo Đại trước khi ông qua đời | Nghiên cứu lịch sử
Frédéric Mitterand: Nước Nhật sụp đổ. Bom nguyên tử nổ. Đế quốc Nhật Bản không còn. Vào khoảng đó, những người Cộng sản gây nên một áp lực ngày
càng lớn?
Bảo Đại: Thật ra, lúc đầu không phải là những người Cộng sản, mà là những người quốc gia. Đồng bào tôi, nhất là giới trí thức, nghĩ rằng cần có một cuộc
cách mạng. Đối với họ, nếu không có cách mạng thì không có tiến hoá. Tôi sợ họ làm một cuộc cách mạng. Nếu ông nhớ lại cái hiệp ước Yalta và Postdam,
mặc dầu Nhật thua trận, nhưng Nhật có trách nhiệm phải giữ trật tự, tức là quân đội Nhật không bị giải giáp. Tôi sợ quân Nhật bắn vào dân. Tôi mới nói
rằng: “Thần dân đã muốn một cuộc cách mạng, thì chính tôi đã làm một cuộc cách mạng đó rồi. Tôi sẽ ra đi như thế”.
Frédéric Mitterand: Và ngài thoái vị. Việc này đối với chúng tôi, quả là hơi khó hiểu?
Bảo Đại: Không, có thể khó hiểu đối với ông, nhưng không khó hiểu đối với người dân Việt Nam. Người dân Việt Nam đã hiểu. Chỉ có điều người dân Việt
Nam không thấy một việc, đó chính là những người trong chính phủ mới là những người Cộng sản. Nhưng họ có biết một việc, là trong chính phủ ấy, nghĩa
là người đứng ra lập chính phủ ấy, tức ông Hồ Chí Minh đã được người Mỹ vũ trang. Dân Việt Nam nghĩ rằng đã có người Mỹ đứng sau lưng họ, họ sẽ có
nhiều thế lực hơn để giành độc lập từ tay người Pháp. Đến giờ, người Mỹ tự xem là những người chống Cộng.
Bảo Đại: Tôi hoàn toàn không bị bối rối với những vấn đề ấy. Tôi cảm thấy sự trỗi dậy ấy, trước hết là các người quốc gia muốn có thể cụ thể hoá nền độc
lập, họ không muốn tôi ở vị trí lãnh đạo vì tôi không có đủ phương tiện để tranh thủ độc lập từ người Pháp; nhưng vì có một chính phủ được người Mỹ ủng
hộ, nên dân Việt Nam cho rằng chính phủ ấy có nhiều phương tiện hơn tôi để tranh thủ từ người Pháp một nền độc lập thực sự.
Frédéric Mitterand: Và ngài đã thoái vị. Từ đây bắt đầu một giai đoạn thật ly kỳ trong cuộc đời ngài. Đó là giai đoạn quan hệ với Cụ Hồ Chí Minh và người
cấp dưới của ông ấy. Ngài đã tiếp xúc với Cụ Hồ Chí Minh hay ai tiếp xúc?
Bảo Đại: Trước tiên các bộ trưởng của Cụ Hồ tiếp xúc với tôi, để tiếp nhận sự chuyển giao quyền lực.
https://nghiencuulichsu.com/2015/05/11/cuoc-phong-van-truc-tiep-cuu-hoang-bao-dai-truoc-khi-ong-qua-doi/ 5/11
17/9/2017 Cuộc phỏng vấn trực tiếp Cựu hoàng Bảo Đại trước khi ông qua đời | Nghiên cứu lịch sử
Frédéric Mitterand: Luôn luôn đi theo nguyên tắc một sự kế tục hợp pháp. Nền Cộng hoà là cô gái do nhà vua sinh ra?
Bảo Đại: Chính tôi đã khai sinh ra cái nền Cộng hoà đó. Lúc đó đại diện Cụ Hồ Chí Minh nói với tôi: “Mời ngài đi Hà Nội, Cụ Hồ có thể quen biết ngài”. Rồi tôi
đi Hà Nội.
Bảo Đại: Vâng, tôi trở thành một công dân thường.
Frédéric Mitterand: Ngài không quá hối tiếc nền quân chủ đã chấm dứt, nền quân chủ ấy dầu sao cũng là một thể chế đã được tổ tiên ngài lập nên?
Bảo Đại: Có chứ, dĩ nhiên tôi còn cảm thấy nhiều hơn. Và hối tiếc nữa, nhưng nó là một trang sử đã được lật qua. Đó là định luật của nước tôi.
Bảo Đại: Tôi muốn để chính tôi lật, thay vì để cho một vũng máu lật trang sử.
https://nghiencuulichsu.com/2015/05/11/cuoc-phong-van-truc-tiep-cuu-hoang-bao-dai-truoc-khi-ong-qua-doi/ 6/11
17/9/2017 Cuộc phỏng vấn trực tiếp Cựu hoàng Bảo Đại trước khi ông qua đời | Nghiên cứu lịch sử
Ảnh chụp hoàng gia và hội đồng quan lại tại điện Kiến Trung (kinh thành Huế) trong ngày Hoàng đế Bảo Đại tuyên
chiếu thoái vị – 25 tháng 8 năm 1945.
– Frédéric Mitterand : Và ngài đã đi Hà Nội để gặp cụ Hồ Chí Minh. Điều kỳ lạ là cụ Hồ Chí Minh đối xử với ngài với một sự cung kính đặc biệt?
– Bảo Đại : Vâng, xin đừng quên rằng cụ Hồ xuất thân từ một gia đình quan lại. Và cụ đã đối xử với tôi như tôi còn làm vua. Cụ cấm những người xung
quanh cụ gọi tôi bằng đồng chí, bằng những tên gọi của giai cấp vô sản, và luôn luôn gọi tôi là Hoàng thượng.
– Frédéric Mitterand : Cụ Hồ Chí Minh mời ngài làm cố vấn tối cao của Chính phủ?
– Bảo Đại: Vâng, lúc đó không một lý do gì để mà từ chối bởi vì mọi người Việt Nam đều theo Cụ. Điều chúng tôi muốn, là nước nhà phải được độc lập. Tôi
muốn làm dân một nước độc lập hơn làm vua một nước nô lệ. Mọi người Việt Nam đều muốn ủng hộ chính phủ ấy để tranh thủ một nền độc lập thật sự.
https://nghiencuulichsu.com/2015/05/11/cuoc-phong-van-truc-tiep-cuu-hoang-bao-dai-truoc-khi-ong-qua-doi/ 7/11
17/9/2017 Cuộc phỏng vấn trực tiếp Cựu hoàng Bảo Đại trước khi ông qua đời | Nghiên cứu lịch sử
Frédéric Mitterand : Ngài đã ở gần cụ Hồ Chí Minh, cụ ấy đã cho ngài cảm tưởng thế nào của cụ ấy? Nay đã qua một thời gian dài, cảm tưởng ấy có thay
đổi nhiều không?
– Bảo Đại: Không, không thay đổi. Tôi luôn luôn xét cụ Hồ Chí Minh ngoài cái tư tưởng cộng sản của ông ấy. Ông hãy nhớ đại hội Tours, cụ Hồ ở Pháp lúc
ấy. Rồi cụ đi Moscou để lập đảng Cộng sản Việt Nam.
– Frédéric Mitterand : Nhưng đối với ngài, cụ Hồ cũng là một nhà ái quốc?
– Bảo Đại : Đối với tôi, còn hơn thế nữa, đó là một người có tinh thần quốc gia. Cụ là một người yêu nước. Tiếc thay sau lưng cụ có một ủy ban, là Xô viết
tối cao, gồm có vài người Ba Lan, người Nga, bắt buộc cụ phải tiến tới.
https://nghiencuulichsu.com/2015/05/11/cuoc-phong-van-truc-tiep-cuu-hoang-bao-dai-truoc-khi-ong-qua-doi/ 8/11
17/9/2017 Cuộc phỏng vấn trực tiếp Cựu hoàng Bảo Đại trước khi ông qua đời | Nghiên cứu lịch sử
– Frédéric Mitterand : Trong cuốn sách của ngài, không thấy có một lời buộc tội khắt khe nào đối với cụ Hồ. Ngài quý trọng cụ Hồ? Và cũng thế, quả là rất
ngạc nhiên khi thấy cụ Hồ không bao giờ công kích ngài?
– Bảo Đại : Không, không có lý do gì để tôi công kích Cụ ấy. Ban đầu, tôi còn ủng hộ Cụ ấy nữa. Cố gắng đưa nước nhà thoát khỏi chiến tranh, vì chúng tôi
đã khổ vì chiến tranh.
– Frédéric Mitterand : Một sự kiện lạ lùng. Có lúc cụ Hồ đã nghỉ đến việc trao lại quyền hành cho ngài?
– Bảo Đại : Nhưng việc này chính tự tay cụ Hồ. Một hôm cụ Hồ đến gặp tôi. Trước đó, cụ đã gọi điện thoại, Cụ nói sẽ đến gặp tôi. Tôi tưởng Cụ ấy ốm. Cụ
nói với tôi: “Không có, tôi muốn ngài nắm lại chính quyền”. Tôi hỏi : “Tại sao?”. Cụ nói : “Tôi bị để ý quá, tôi quá đỏ, tôi cảm thấy không được Đồng minh tín
nhiệm”. Tôi tưởng Cụ đùa. Cụ nói : ‘Không có, ngài hãy trình diện một chính phủ vào cuối ngày hôm nay”. Trong ngày tôi đã có nhiều cuộc tiếp xúc, cho đến
chiều thì cụ Hồ gọi lại cho tôi. Cụ nói : “sau khi đã suy nghỉ kỷ lại, xin ngài bỏ qua cho tôi chuyện vừa qua. Trước cái khó khăn của hoàn cảnh này, tôi không
có quyền đào nhiệm”. Tôi nói : “Vậy thì xin Cụ hãy tiếp tục”.
Bế mạc “Tuần lễ vàng” tại Nhà hát lớn Hà Nội, Cựu hoàng Bảo Đại lúc này là cố vấn Vĩnh Thuỵ
lên cổ vũ đấu giá tấm hình Chủ tịch Hồ Chí Minh trong khi đồng bào quần chúng nhân dân tề tựu
ngoài quảng trường chờ đón kết quả
https://nghiencuulichsu.com/2015/05/11/cuoc-phong-van-truc-tiep-cuu-hoang-bao-dai-truoc-khi-ong-qua-doi/ 9/11
17/9/2017 Cuộc phỏng vấn trực tiếp Cựu hoàng Bảo Đại trước khi ông qua đời | Nghiên cứu lịch sử
– Frédéric Mitterand : Quả là quá ngạc nhiên., rất xúc động khi thấy có sự đoàn kết cao như vậy. Tại sao cuộc thương thuyết với nước Pháp bị bế tắc?
Phải chăng lỗi hoàn toàn về phía Pháp?
– Bảo Đại : Hãy bắt đầu với Hiệp ước ngày 6-3. Ký giữa Sainteny và cụ Hồ. tôi biết rõ hiệp ước ấy vì tôi đã soạn thảo với cụ Hồ. Hiệp ước ký xong thì tôi đi
Trung Quốc. Sau đó là Hội nghị Fontainebleau. Khi cụ Hồ sang Pháp. Hội nghị không đạt kết quả gì, vì mỗi bên đều giữ vững lập trường của mình. Không ai
muốn thương lượng thật sự, phía Pháp cũng như phía Việt Nam.
– Frédéric Mitterand : Tôi tưởng tượng có những trang “tít” trên các báo. Ngài đã trở nên một ông vua “đỏ”?
– Bảo Đại : Hoàn toàn không như vậy. Mọi người gọi tôi là công dân Vĩnh Thụy. Chỉ có thế.
– Frédéric Mitterand : Lúc ấy ngài biết gì về chủ nghĩa cộng sản? Ngài đã nắm hết chủ nghĩa cộng sản?
– Frédéric Mitterand : Trong khoảng thời gian hai năm ấy, ngài đã ở bên cụ Hồ, và ngài đã giúp cho cụ Hồ nhiều việc quan trọng. Nếu phải lặp lại việc này
hôm nay, ngài cũng sẽ lặp lại chăng? Ngày nay ngài đánh giá việc này thế nào?
– Bảo Đại : Còn tùy. Nếu là vì hạnh phúc của thần dân tôi, tôi cũng sẽ làm.
– Frédéric Mitterand : Chiến tranh thực sự bùng nổ giữa Pháp và Việt Minh, một cuộc chiến ác liệt, gian khổ. Ngài là một người lưu vong. Ngài không còn
gì trong tay cả. Tuy vậy, lần hồi, ngài lại được công luận chú ý, nhất là các người Pháp đã biết ngài, và đông đảo người Việt Nam muốn độc lập, nhưng
không muốn cộng sản?
– Bảo Đại : Để nói cho rõ hơn, sau khi đô đốc d’Argenlieu mãn nhiệm kỳ. Ông Bollaert sang Đông Dương với chỉ thị của Paris là gắng khôi phục hòa bình.
Dưới hình thức nào? Kêu gọi tất cả những người đang chiến đấu chống Pháp, và những người quốc gia đang đứng ngoài cuộc chiến lúc ấy, có nhiều người
Việt Nam đã nghỉ đến tôi. Ông Bollaert đã đứng ra kêu gọi qua bài diễn văn nổi tiếng đọc ở Hà Đông, trong bài diễn văn này ông đã nói đến hai chữ Độc lập,
nhưng không nói bằng tiếng Pháp, mà bằng tiếng Việt. Lúc đó, tôi có tiếp một ông sứ giả của ông Bollaert, người này nói với tôi như sau : “Ngài phải đáp lại
lời kêu gọi của ông Bollaert. Nếu ngài không trả lời, cụ Hồ Chí Minh sẽ trả lời và sẽ qua mặt ngài”. Tôi đáp :” Tôi rất muốn thế, tôi chờ cụ Hồ trả lời vì quý
ông đã nhắm vào cụ Hồ mà kêu gọi”. Sau một thời gian, vì không ai đáp lại lời kêu gọi của ông Bollaert và vì đã có nhiều người quốc gia muốn tập hợp lại và
khẩn khoản xin tôi tiếp xúc với đại diện nước Pháp, trong bối cảnh đó, tôi đã chấp thuận gặp ông Bollaert ở vịnh Hạ Long. Đó là lần tiếp xúc đầu tiên.
https://nghiencuulichsu.com/2015/05/11/cuoc-phong-van-truc-tiep-cuu-hoang-bao-dai-truoc-khi-ong-qua-doi/ 10/11
17/9/2017 Cuộc phỏng vấn trực tiếp Cựu hoàng Bảo Đại trước khi ông qua đời | Nghiên cứu lịch sử
– Bảo Đại : Thời gian tiếp xúc là một ngày. Ông Bollaert muốn tuyên bố Thống nhất – Độc lập. Nhưng ngược lại, ông đưa ra nhiều tu chính án hoàn toàn
không phù hợp với tôi.
– Bảo Đại : Do đó tôi đã từ giã ông ta. Tôi nói với ông ta rằng, tôi chỉ gặp ông với tư cách cá nhân. Nước tôi và nhân dân tôi không cho tôi một ủy nhiệm gì,
để ký bất cứ điều gì cả. Ông Bollaert đáp : “Đây là lần tiếp xúc đầu tiên”.
– Bảo Đại : Đối với tôi, đây là một cơ hội mà tôi có thể nói là lịch sử. Bởi vì có một điều mà ít người Việt Nam biết đến, đó là tôi phải chuộc lại lỗi lầm của tổ
tiên tôi: để mất sáu tỉnh Nam Kỳ.
– Frédéric Mitterand : Đất Nam Kỳ, đó là các vùng Alsace-Lorraine của nước Việt Nam?
– Frédéric Mitterand : Sau cùng, ngài đã chấp thuận trở về nước. Kỳ này đã tranh thủ được Độc lập và Thống Nhất?
– Bảo Đại : Không, không phải ở vịnh Hạ Long mà tôi tranh thủ được Độc lập, mà chính là sau khi ông Bollaert ra đi, kể từ năm 1949, tôi đạt được các thỏa
hiệp đầu tiên với Tổng thống Pháp Auriol. Không phải giống như các thỏa hiệp ngày nay, mà là trao đổi văn thư.
– Frédéric Mitterand : Một tình trạng thật lạ lùng. Ngài đã là vua, ngài đã là ông Vĩnh Thụy, đại biểu quốc hội thời Hồ Chí Minh, và ngài đã trở về với tư
cách đứng đầu một nhà nước. Nhà nước đó có hình thức thế nào? Ngài là Đức Bảo Đại – Tổng thống nước cộng hòa?
– Bảo Đại : Không, không phải tổng thống vì lúc ấy chưa xác định được thể chế. Tôi tự phong tôi là Quốc trưởng của Quốc gia Việt Nam. Tôi nói với nhân
dân Việt Nam rằng : Khi tôi đã làm xong nhiệm vụ của tôi, tức là cụ thể hóa nền độc lập, xây dựng lại đất nước, đến lúc đó, chính nhân dân sẽ chọn lấy chế
độ mình muốn. Tôi không chủ trương một chế độ nào cả. Tôi chỉ tự phong một cách đơn giản là Quốc trưởng thôi.
https://nghiencuulichsu.com/2015/05/11/cuoc-phong-van-truc-tiep-cuu-hoang-bao-dai-truoc-khi-ong-qua-doi/ 11/11
BẢO ĐẠI
Thế giới mới số 249 ngày 18-8-1997
1.
Ngày 1-8-1997, Bảo Đại, ông vua cuối cùng của triều Nguyễn, triều đại
phong kiến cuối cùng của Việt nam (Bảo Đại thoái vị khi Cách mạng tháng Tám
thành công) đã từ trần sau một thời gian dài sống tại Pháp, thọ 84 ruổi. Xung
quanh cuộc đời Bảo Đại còn khá nhiều điều bí mật...
Bảo Đại (Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy), sinh ngày 22-10-1913 tại Huế, là
con trai duy nhất của vua Khải Định và bà Từ Cung (Hoàng Thị Cúc). Ngày 2-
4-1922, sách lập Đông cung hoàng thái tử cho Vĩnh Thụy. Ngày 24-4-1922,
Vĩnh Thụy được vua cha Khải Định cho đi Pháp, rồi ở luôn bên Pháp học, do vợ
chồng cựu khâm sứ Charles nuôi nấng. Trước khi trao Vĩnh Thụy cho vợ chồng
Charles nhận làm con nuôi, Khải Định đã phong cho Charles làm Tế Nam công,
một tước cao của triều đình Huế
Sang Pháp, Vĩnh Thụy được nhập học Lycée Condorcecet puis
Sciences Po. à Paris. Trường này là trường cao đẳng chính trị khoa học, chuyên
đào tạo viên chức hành chính cho nước Pháp và thuộc địa.
Ngày 6-11-1925, Khải Định tạ thế, Vĩnh Thụy từ Pháp về Việt nam lên
ngôi vua kế nghiệp và lấy niên hiệu là Bảo Đại ngày 8-1-1926. Phục tang vua
cha xong, Bảo Đại lại sang Pháp tiếp tục khóa học “nghề làm vua”. Việc triều
chính ở trong nước, Bảo Đại giao cho cụ Tôn Thất Hân nhiếp chính trong thời
gian vua vắng mặt.
Khi Bảo Đại học xong “nghề làm vua” thì tuổi cũng đã 19, trưởng
thành. Tháng 8-1982, vợ chồng Charles thân chinh đưa Bảo Đại xuống tàu D’
Artagllan rời cảng Marseille vào đầu tháng 9, tàu cập bến Cap Sain Jacques
(Vũng Tàu). Không biết vì định mệnh hay có sự sắp đặt, là trên chuyến tàu này
có một cô sinh viên Việt du học ở Paris vừa đậu tú tài toàn phần xong cũng về
thăm gia đình. Cô này là Mariete Jeanne (tên bổn mạn g là Mane Thérèse)
Nguyễn Hữu Thị Lan, con gái của một gia đình triệu phú đạo dòng, gốc Gò
Công. Thân sinh Thị Lan là Nguyễn Hữu Hào mẹ là Lê Thị Bính, gốc Tân An,
là con của Lê Pháp Sĩ, một tỉ phú đất Nam kỳ khi đó, mà dân gian đã gọi là
Nhất Sĩ, nhì Phương, tam Xường, tứ Định.
Chuyến hải trình một tháng, nên khách trên tàu là đồng hương cũng dễ
trở nên thân quen. Có lẽ vì vậy Bảo Đại đã gặp Thị Lan trong dịp này, rồi sau
đó về nước gặp lại nhau để trở thành vợ chồng. Theo nhiều người nói, thì sự gặp
nhau trong chuyến tàu định mệnh này là do ý đồ của người Pháp và vợ chồng
Charles là đạo diễn nên Bảo Đại mới gặp Thị Lan.
Về Việt nam, Bảo Đại ra Huế chầu bà Từ Cung. Còn Thị Lan về Đà
Lạt nghỉ với gia đình ở biệt thự riêng. Biệt thự của gia đình họ Nguyễn, họ Lê ở
Đà Lạt rộng lớn, có bể bơi, có sân quần vợt đầy đủ tiện nghi để tiếp đón những
quan Tây, quan ta ngày lễ tới dự dạ tiệc khiêu vũ...
Sau ít ngày ở Huế với gia đình, Bảo Đại được vợ chồng Charles đưa
vào Đà Lạt nghỉ mát. Lúc đó, ở Đà Lạt chưa có biệt điện nên Bảo Đại phải ở
nhà của toàn quyền Pasquier. Khi ở Đà Lạt vợ chồng Charles đã khôn khéo tổ
chức những buổi dạ tiệc mời các quan Tây, quan ta tới dự và có Bảo Đại chủ
tọa. Về phía quan ta thì những người giàu có, chức vị cao như vợ chồng Denis
Lê Phát An, vợ chồng Pierre Nguyễn Hữu Hào... đều là người có quốc tịch Pháp
và thân với Pháp được mời tới dự. Buổi dạ tiệc có khiêu vũ nên Bảo Đại đã mời
Thị Lan ra nhảy một bản tango xã giao. Sau đó, Bảo Đại mời Thị Lan ngày hôm
sau tới dinh toàn quyền để chơi quần vợt. Say mê sắc đẹp và tính nhu mì hiền
hậu của Thị Lan, Bảo Đại đã không đắn đo ngỏ ý muốn cưới nàng làm vợ.
Chính Thị Lan sau này cũng đã thú thật trong một cuộc phỏng vấn của báo chí
năm 1933 như sau: “... Cuộc hôn nhân giữa tôi và Hoàng thượng là một sự tình
cờ. Vì hai người đã gặp nhau trong một bữa dạ hội ở dinh đốc lý Barles tại thị
xã Đà Lạt vào năm 1933. Lúc ấy, tôi mới 20 tuổi, tôi không để ý gì đến Hoàng
thượng, nhưng Hoàng thượng đã chú ý đến tôi... “. Còn Bảo Đại thì sau này,
trong cuốn hồi ký Con rồng An Nam (Le Dragon De L’ An nam) xuất bản tại
Paris năm 1980, đã kể lại: “... Sau những buổi gặp gỡ trên sân quần vợt, trong
những buổi dạ tiệc, dạ vũ, tôi trở lại thăm M. J. Lan nhiều lần tại ngôi biệt thự
sang trọng của gia đình họ Lê ở Đà Lạt. Cô Lan có một vẻ đẹp thùy mị của
người con gái miền Nam, hiền lành và quyến rũ, làm tôi say mê và tôi cũng nghĩ
lại: xưa kia đất Gò Công đã có người Làm hoàng hậu là bà Từ Dụ, thì nay tôi
nhọn người con gái thứ hai cũng ở đất Gò Công làm vợ chắc chẳng có gì trở
ngại cả. Vì vậy, tôi ngỏ ý xin cưới M. J. Lan và cô đã đồng ý, nhưng với điều
kiện gia đình cho phép đã...”.
Mọi điều kiện và thủ tục đã được vợ chồng toàn quyền và khâm sứ
Charles thu xếp với triều đinh để chấp thuận làm lễ cưới. Khi lễ cưới diễn ra,
Bảo Đại đã tuyên bố và hứa với M. J. Lan là ông sẽ giữ đúng giáo luật đạo
Thiên Chúa “Sống một vợ, một chồng”. Bảo Đại còn mạnh mẽ đả kích tập tục
cổ xưa của các vị tiên đế có năm thê bảy thiếp và nàng hầu. Nhưng lời hứa của
Bảo Đại như gió bay đi, chỉ được một thời gian ngắn là Bảo Đại đã có gần tá thê
thiếp với hơn chục đứa con cùng cha khác mẹ.
Bảo Đại đã phong cho M. J. Nguyễn Hữu Thị Lan tước Nam Phương
Hoàng hậu. Ông cho biết: “Tôi tấn phong cho bà hoàng của tôi là Nam Phương
Hoàng hậu, có nghĩa là bà Hoàng hậu hương thơm của miền Nam. Đồng thời
cũng ban một sắc chỉ đặc biệt cho phép hoàng hậu được mặc áo màu vàng da
cam, màu chỉ dành cho hoàng đế. Bà Nam phương Hoàng hậu sinh được 5
người con với Bảo Đại, gồm 2 trai và 3 gái: hoàng tử Bảo Long (ngày 4-1-
1936), được phong làm hoàng thái tử để kế nghiệp làm vua sau này; công chúa
Phương Mai (ngày 1-8-1937); công chúa Phương Liên (ngày 3-11-1938); công
chúa Phương Dung (ngày 5-2-1942) hoàng tử Bảo Thắng (1943). Cả 5 người
con của Bảo Đại hiện đã trưởng thành và mỗi người có một nếp sống riêng.
Thuở nhỏ, cả 5 người con của Bảo Đại đều học ở trường Couvent des Oiseaus ở
Đà Lạt rồi sau sang Pháp cũng học ở trường này đại Paris.
Các con của Bảo Đại đều mang hai quốc tịch Việt nam và Pháp. Vì
vậy, khi Bảo Long tới tuổi 18 phải nhập ngũ trong quân đội Pháp. Bảo Long
được nhập học đường võ bị sĩ quan Pháp, tốt nghiệp cấp bậc thiếu úy và phục
vụ trong binh đoàn lê dương. Hết thời hạn ở quân đội trong hai năm thi hành
bổn phận quân ngũ, Bảo Long mang tới cấp bậc trung úy thì được giải ngũ. Về
Việt nam, ở Đà Lạt, Bảo Đại phong quân hàm đại tá ngự lâm quân cho Bảo
Long và được chụp ảnh in trên tem với quân phục đại tá. Hiện nay, Bảo Long
đang làm việc cho một ngân hàng tại Paris. Bảo Long cũng giống cha, người
cao lớn và đẹp trai nên trước khi lấy vợ, Bảo Long đã có hàng tá hoa khôi cặp
bồ đi khiêu vũ, đi chơi. Cuối cùng, Bảo Long lấy một phụ nữ Pháp tên là Isabel
Ebey đã có hai người con riêng với đời chồng trước. Bà này làm nghề trang trí
nội thất. Bảo Long sống ở đất Pháp, nhưng ông rất kín đáo, không bao giờ khoe
khoang ông là hoàng tử con vua Bảo Đại.
Những năm gần đây, người ta mới biết đến Bảo Long qua báo chí vì vụ
tranh chấp những bảo vật: bảo ấn triều Nguyễn, thanh kiếm và gần 306 cổ vật
khác mà Bảo Đại đòi lấy về định đem bán đấu giá. Những bảo vật trên khi xưa
Bản Đại đã trao cho bà Nam Phương cất giữ và được giá ở ngân hàng châu Âu
vì bà Didelot (chị ruột của bà Nam Phương) là thành viên của Union des
Banques Europèennes, trụ sở đặt tại Paris. Mấy năm gần đây, trước khi qua đời
Bảo Đại gặp khó khăn kinh tế nên ông có ý định bán bớt một số bảo vật để lấy
tiền sinh sống. Bảo Đại vì tự trọng nên không nhờ cậy chính phủ Pháp trợ cấp
mặc dù được hưởng quy chế của Pháp.
Công chúa Phương Mai thì lận đận ngay từ khi thôi học trung học vì cô
đã dan díu mình ái với phi công lái máy bay cho cựu hoàng và đã có một đứa
con với anh này. Rồi máu ghen giữa hai người đã làm họ chia tay. Phương Mai
đi làm lại một công sở ở Paris, sau đó lấy một người đàn ông ý. Nhưng cuộc
tình thứ hai này cũng không được bao lâu, người chồng này đã tạ thế. Hiện nay,
Phương Mai âm thầm sống và không ai biết gốc tích cô đã là một công chúa của
một vị vua bị truất phế ở Việt nam cách đây nửa thế kỷ.
Công chúa Phương Liên cũng tốt nghiệp tú tài II Pháp và trở thành một
viên chức ở ngân hàng Paris. Phương Liên là người thích ăn diện đúng mất phụ
nữ Paris và đã lấy chồng người Pháp làm ở ngân hàng Hongkong. Cô được coi
là người con có hiếu nhất đối với thân mẫu và thân phụ. Khi cha còn sống, hàng
năm Phương Liên vẫn gửi thư thăm hỏi và tiền biếu. Phương Liên có khuôn mặt
và tính tình giống thân mẫu. Cô không bao giờ cậy thế “con ông cháu cha” để
khoe với bạn bè và chỉ sống khép kín là một người công chức. Công chúa
Phương Dung cũng đậu tú tài II rồi đi làm công chức nên đời sống không lấy gì
làm dư giả. Phương Dung rất ghét bà Monique khi nghe tin thân phụ đã làm hôn
thú chính thức với bà này. Phương Dung sống khép kín nên không ai rõ đời
sống gia đình của cô hiện nay ra sao?
Hoàng tử Bảo Thắng là con út của Bảo Đại - Nam Phương. Bảo Thắng
vốn tử nhỏ đã béo mập, không cao lớn như anh và cha. Bảo Thắng say mê âm
nhạc và hội họa, sống độc thân, không thích có vợ con ràng buộc. Hiện Bảo
Thắng ở Paris.
Sau khi 5 người con đã khôn lớn, mỗi người sống một nơi nhưng họ
vẫn hàng tuần về thăm mẹ. Bà Nam Phương sống lại một biệt thự ở thành phố
Cannes (Pháp) và vui thú với vườn hồng. Bà bị bệnh đau tim nên đã tạ thế đột
ngột năm 1963, thọ 49 tuổi. Khi bà Nam Phương tạ thế thì ông Bảo Đại đang đi
giang hồ cặp bồ với các cô đầm non. Nhưng khi nghe tin buồn, Bảo Đại đã trở
về lo mai táng cho hiền thê và cũng tỏ ra hối hận vì bổn phận làm chồng. Lễ mai
táng cửa Nam Phương được cử hành theo nghi thức công giáo rất đơn giản. Bà
được chôn cất ngay trung khu vườn hồng mà bà chăm sóc khi còn sống.
Bà Nam Phương đúng là một hiền thê. Tiếc là bà tạ thế khi còn trẻ. Bà
có dáng hiền thục, cổ đặc biệt có cao, khuôn mặt hiền thục, cổ đặc biệt có ba
ngấn, quý xướng. Bẩm sinh, một mắt của bà hơi lé (ta gọi là lé kim), tai bà hơi
lãng, về già càng nặng. Nam Phương là bà hoàng tài đức vẹn toàn, không để ai
chê trách được bà. Rất tiếc ước vọng của bà được tạ th ế tại quê hương Việt nam
lại không kịp thực hiện được.
4.
Năm 1954, Pháp thất thủ tại Điện Biên Phủ, một hiệp định đình chiến
được ký kết giữa Việt nam và Pháp. Miền Bắc hoàn toàn thuộc chính phủ
VNDCCH. Ở miền Nam, do sức ép của Mỹ, Bảo Đại đã phải mời Ngô Đình
Diệm về nước “lèo lái” con tàu miền Nam đang sắp chìm. Ngô Đình Diệm về
nước, đã thừa dịp truất phế luôn Bảo Đại khỏi ghế Quốc trưởng, và tự ngồi vào
cái ghế Tổng thống. Bảo Đại thấy bị hất cẳng nên đâm ra chán nản. Dưới sự xúi
bẩy của Ngô Đình Diệm nên báo chí trong nước hùa nhau bới xấu đời tư thói ăn
chơi trác táng gái trai, cờ bạc... của Bảo Đại ra chế riễu.
Bảo Đại không dám ở Paris với hai bà Nam Phương và Mộng Điệp,
bèn tìm một bà đầm tên là Vicky để làm bạn giải sầu trong khi thất thế. Hai
người cũng không dám ở Paris vì sợ tai tiếng nên đưa nhau về vùng Alsace mua
một ngôi biệt thự nhỏ để chung sống.
Thời gian ăn ở với Bảo Đại, bà đầm Vicky sinh được một đứa con gái
và đặt tên là Phương Từ. Hòn máu lai đầm này có khuôn mặt giống Bảo Đại
như đúc khuôn.
Nhưng mối tình giữa Bảo Đại và bà đầm Vicky không diễn ra được lâu,
vì sau khi sinh con thì hai người hay cãi vã nhau. Có lẽ vì túng thiếu tài chính và
khủng hoảng tinh thần nên Bảo Đại đành giã từ bà vợ này. Bảo Đại vốn là
người hào hoa, mặc dù lúc đó ông đang túng thiếu nhưng khi ra đi ông đã để lại
toàn bộ tài sản vật dụng trong nhà như máy ảnh, máy quay phim, súng săn, cần
câu... chỉ mang chiếc valy đựng mấy bộ quần áo rồi ra xe hơi lái về Paris. Về
Paris, Bảo Đại không dám về nhà với bà Nam Phương hay bà Mộng Điệp, có lẽ
vì xấu hổ. Còn hai bà Nam Phương và Mộng Điệp thì lúc nào cũng sẵn sàng đón
nhận ông trở về mái nhà xưa. Bây giờ ông lại ra vào các sòng bài, các ổ gái
giang hồ, các vũ trường, tiền bạc thì do bạn bè trợ giúp.
Bảo Đại hay lui tới một xóm nhà thổ nổi danh. Dân Paris gọi xóm này
là Moulin Rouge vì nó có cái cối xay gió treo ở nhà Cigalle, một nhà thổ nổi
tiếng ở đây
Lạc vào đây, Bảo Đại sống với một vũ nữ kiêm gái gọi có tên là
Clément. Cô đầm này ngoài làm nghề vũ nữ, gái gọi, còn làm nghề phe phẩy
buôn lậu, vì vậy nuôi được Bảo Đại. Ông không làm gì thỉnh thoảng đi đánh
bài, cá ngựa.
Nhưng có một bữa cảnh sát đã ập vào căn hộ mà Bảo Đại và Clément
đang ở. Họ khám xét và bắt cả hai về đồn vì cô vũ nữ này đã buôn lậu món quốc
cấm gì. Nghe tin Bảo Đại bị nằm bót, các con ông đã vội tới làm giấy bảo lãnh
xin cho ông về với gia đình. Lúc này trông Bảo Đại tiều tụy, như người mất trí.
Ông không còn giữ được thề diện một cựu quốc vương nữa, bạ đâu ông cũng
táp vào ăn nằm. Khi ông về nhà, các mệnh phụ, tây có, ta có hàng ngày vấn tới
lui với ông vài giờ. Bạn bè thân thấy ông sống trong gia đình mà ngày nào cũng
có gái đến với ông, nên đã phải thu xếp cho ông đi ở một nơi riêng biệt. Và ông
Bùi Tường Minh, một “chiến hữu” thân tín của Bảo Đại đã thuê một căn hộ cho
ông ở riêng để ông tha hồ tự do đưa gái về ăn nằm giải buồn, vì biết tính Bảo
Đại: thiếu tiền, thiếu ăn thì chịu được, nhưng thiếu gái thì không chịu được.
Thấy Bảo Đại sống một mình, cơm tiệm, vợ người và khi đau ốm
không ai săn sóc thuốc thang nên bạn bè lo ngại cho ông. Vì thế họ đã dàn cảnh
để tìm cho ông Bảo Đại một cô gái Âu để làm vợ dài hạn với ông cho ông khỏi
bị bê tha.
Vốn từ nhỏ, Bảo Đại đã được người Pháp tận tình nuôi nấng đầy đủ
theo thực đơn của Âu Mỹ dành cho các vua chúa. Vì vậy, Bảo Đại cao lớn, to
con và thừa thãi sinh lực. Từ cái tuổi 30 trở đi, Bảo Đại không chịu bó chân
ngồi một chỗ. Ông kiếm cớ nay đi kinh lý, mai đi tham quan chỗ này chỗ nọ. Và
tới đâu cũng có gái của các quan Tây, quan ta mang đến tiến cho Bảo Đại giải
buồn.
Trước Cách mạng năm 1945, Bảo Đại còn giữ khuôn phép và sợ bà Từ
Cung và bà Nam Phương la rầy nên không dám chọn thứ phi. Nếu có chỉ qua
đường rồi thôi. Nhưng từ khi được sổ lồng, trở thành công dân Vĩnh Thụy thì
ông ăn chơi bạt mạng. Nào Mộng Điệp, nào Lý Lệ Hà, rồi Phi Anh... Ông đều
gọi là thứ phi của ông. Còn mấy bà đầm sau đến với ông, không được ông gọi là
thứ phi mặc dù họ có con với ông.
Bảo Đại từ khi bị hạ bệ năm 1954, những lâu đài, nhà cửa, du thuyền ở
Việt nam mà ông cấp cho các thứ phi đều bị chính quyền nhà Ngô tịch thu cho
bán đấu giá. Còn cái lâu đài của Bảo Đại ở Cannes, ông cũng bán để đánh bạc
và bao gái.
Những ngày Bảo Đại thất nghiệp, không còn chức vụ gì nữa, chính phủ
Pháp vẫn sẵn sàng trợ giúp một số tiền hàng tháng cho ông chi tiêu, nhưng ông
vẫn còn chút tự ái nên không nhận mà chỉ sống nhờ vào bạn bè giúp đỡ qua
ngày thôi.
Năm 1963, sau khi bà Nam Phương tạ thế, Bảo Đại thấy đau khổ và
ông ngỏ lời vời bạn bè là ông sẽ tìm một người tình mới để chung sống với ông
tới chót đời.
Ý định của Bảo Đại đã được những người bạn thực hiện. Họ tổ chức
một bữa dạ tiệc tại Sứ quán Zair, có mời đầy đủ những ông tây bà đầm của các
sứ quán bạn tới dự. Trong dịp này, họ đã mời Bảo Đại, với tư cách một cựu
hoàng của xứ An Nam. Khi vào tiệc, ngồi trước mặt Bảo Đại là một cô tùy viên
báo chí của đại sứ quán Zair, tuổi mới 35, khuôn mặt đẹp nom phúc hậu, ăn nói
xã giao rất lịch thiệp. Trong khi ngồi ăn, qua câu chuyện xã giao, cô tùy viên
Zair được biết người đối diện là một vị khách người Việt nam. Ông ta ăn nói rất
lịch thiệp, giọng nói tiếng Pháp như tây và văn hoa. Sau tiệc có khiêu vũ, và cô
tùy viên sứ quán Zair được ông khách ngồi đối diện mời ra nhảy một bản nhạc
chậm slow. Khi hài người dìu nhau trên sàn nhảy, họ mới nói chuyện về quá
khứ của nhau để dễ dàng làm quen. Và như lời thuật của cô Monique Baudot
cho báo chí biết sau này như sau: “Tôi ngồi đối diện một người đàn ông đứng
tuổi, ăn mặc chải chuốt, vẻ thản nhiên và nói tiếng Pháp rất lưu loát, lịch sự. Vì
không có ai giới thiệu nên sau đó, khi đã cùng nhau trò chuyện thân mật, tôi mới
biết đó là ông Vĩnh Thụy, cựu hoàng của xứ An Nam. Thú thực tôi không rõ
lắm về xứ An Nam mà chỉ biết xứ này thuộc Đông Dương khi xưa và nay là
Việt nam đang có chiến tranh ác liệt chống xâm lược Mỹ để giành độc lập thống
nhất”.
Tâm sự với cô tùy viên báo chí Zair, Bảo Đại cho biết năm nay ông đã
ngũ tuần, vợ ông mới tạ thế. Nay ông sống độc thân, các con đã khôn lớn đi làm
và sống riêng rẽ cả. Ông muốn có một người bạn gái để tâm sự lúc này.
Từ sau bữa đó trở đi, hàng tuần hai người gặp nhau, đi ăn và khiêu vũ.
Đến khi Bảo Đại ngỏ ý muốn cưới Monique Baudot làm vợ thì cô tùy viên này
ra điều kiện phải làm lễ cưới ở Tòa đô chính Paris, và có hôn thú hẳn hoi, chứ
không phải là kẻ qua đường “mua vui cũng được một vài trống canh” như các
cô gái khác.
Bảo Đại chấp nhận và về bàn với các con và xin phép bà Từ Cung bên
Việt nam. Bà Từ Cung và các con Bảo Đại đều nhất quyết phản đối dữ dội.
Nhưng cô tùy viên Zair muốn nắm chắc Bảo Đại nên bắt ông phải ký hôn thú
rồi mới chính thức làm vợ. Khi nắm được tờ hôn thú rồi, cô Monique Baudot đã
bắt Bảo Đại phải sống biệt lập với các con và không được liên hệ với một ai
nữa. Cô đầm này rất tâm lý, cô đã học tiếng Việt, đã đọc truyện Kiều và học nấu
các món ăn Việt nam cho Bảo Đại án. Món bún bò Huế cô nấu không thua kém
gì người Việt xứ Huế nấu.
Lễ cưới giữa Bảo Đại với cô đầm trẻ (kém Bảo Đại 33 tuổi) được diễn
ra sau khi bà Từ Cung tạ thế. Sau này trong một cuộc phỏng vấn của báo chí, cô
Monique Baudot đã nói: “Đây là sự kiện lớn nhất trong đời tôi. Từ đây cuộc đời
của tôi bước sang một trang mới. Cuộc gặp gỡ này tôi cho là do ý Chúa định”.
Đến khi báo chí hỏi về thân thế của cô, thì cô đã trả lời: “Khi tôi ngồi mơ màng
trước hộp bút bằng sơn mài của cha tôi - một viên lục sự thành phố - lúc đó tôi
còn là nữ sinh của thành phố xứ Lorraine nước Pháp và chưa hề tưởng tượng
rằng một ngày nào đó sẽ trở chính phu nhân một cựu hoàng đế phương Đông.
Vậy mà điều đó đã đến vào một buổi tối thật đẹp năm 1969 tại Paris”. Còn báo
chí hỏi Bảo Đại về mối tình mới với cô Monique Baudot, thì ông nói: “Chính
Monique Baudot đã trả lại cho tôi tình yêu và cuộc sống hiện nay”.
Cho tới gần đây, hai ông bà: Bảo Đại - Baudot sống tại một căn hộ nhỏ
quận 16, Paris, và tự làm lấy mọi việc, không thuê người hầu hạ. Bà Monique
Baudot tự xưng là “princesse” (công chúa) và có khi xưng là “impératrice”
(hoàng hậu). Hai người hay đi tới các nhà hàng lớn để ăn cơm. Có lúc ông bà ăn
mặc đúng như ông hoàng, bà hoàng và nhà hàng đã xin phép chụp ảnh hai ông
bà đang ngồi ăn để treo trong nhà hàng làm quảng cáo. Như vậy, khi tới ăn hai
ông bà khỏi phải trả tiền và còn được nhà hàng biếu tiền để đi xe. Nhà báo
Nguyễn Đắc Xuân sau một chuyến đi Pháp về cho biết, căn hộ của Bảo Đại nhỏ,
nhưng trông rất khang trang và đẹp. Trên tường có treo hình cựu vương Bảo Đại
khăn đóng áo dài vàng, và bên cạnh bức hình có treo thanh kiếm.
Nhưng nhiều người nói đây là thanh kiếm phục chế, còn thanh kiếm
thật từ đời vua Gia Long để lại thì hiện nay Bảo Long gửi trong ngân hàng vì sợ
để thân phụ giữ có ngày ông liều mạng đem bán để bao gái thì nguy.
Đời sống vợ chồng của Bảo Đại với bà Monique chỉ mấy năm đầu là
đẹp, còn về sau này nhưng ngày gần đây hai người cũng tỏ ra bất hòa “cơm
không lành, canh không ngọt” Bảo Đại không có con với bà này. Đấy cũng là
người đàn bà sống chung đến cuối đời ông vua cuối cùng của triều Nguyễn,
người có nhiều bà vợ, bà phi và nhân tình cả Tây lẫn ta.
7. Cha Vĩnh Thuỵ là ai
Trong gia phả giòng Nguyễn Phúc có ghi: Bảo Đại thuộc Đế hệ Vĩnh.
Nhưng nguồn gốc chữ Vĩnh, Bửu... như thế nào, và mấy chữ trên thuộc chi hệ
nào? Tại sao lại gọi là Đế hệ, Phiên hệ? Sau khi vua Gia Long tạ thế, người con
thứ tư của Gia Long được lên kế ngôi là Nguyễn Phúc Đảm (Đởm) và lấy niên
hiệu là Minh Mạng. Vua Minh Mạng ở ngôi đã nghĩ xa đến những con cháu,
chắt kế nghiệp làm vua về sau nên truyền lệnh làm bài Đế hệ thi để đặt tên cho
các con, cháu, chắt sau này khỏi nhầm lẫn và tranh ngôi thứ kế nghiệp.
Năm 1823 (năm Minh Mạng thứ tư) vua Minh Mạng đã định phép đặt
tên cho cả hoàng gia và làm thành 11 bài thi rồi cho chạm vào kim sách (sách
vàng) và ngân sách (sách bạc). Cụ Ưng Trình, một người trong hoàng tộc, ở Lạc
Tịnh Viên, Bến Ngự (Huế), cách đây mấy chục năm khi còn sống đã tìm thấy
trong Châu bản đầu triều Minh Mạng một tập sớ của Đinh Nguyễn Phiên, tước
Đông Các Đại học sĩ, tâu: “Tôi đã dự soạn 11 bài thi, mỗi bài 4 câu 20 chữ. Một
bài về Đế hệ, một bài về Phiên hệ. Tôi kính cẩn dâng lên theo lá sớ này. Dám
mong Hoàng đế xét đoán”. Và theo Khổng giáo, muốn định phận cho cả mọi
người, thì trước phải lấy “chính danh” làm nguyên tắc.
Theo Đinh Nguyễn Phiên đề nghị, phép đặt tên để phân Đế hệ, Phiên
hệ ra làm hai: Đế hệ là dòng vua, kế thừa Đế nghiệp còn Phiên hệ có bổn phận
làm tôi, làm hàng rào cho nhà vua gọi là “Phiên hàn”, cũng nhưchư hầu đối với
thiên tử. Nếu danh phận đã định rõ nhưthếthì Đế nghiệp sẽ an nhàn thạch, cả
mấy mươi đời sau.
Còn theo nhà khảo cứu đế đô Huế là Thái Văn Kiêm, thì: tuy là biểu
đồng tình song vua chưa dám tuyên bố, còn muốn thăm dò ý kiến, thành thử vua
còn giữ bí mật đề nghị của Đinh Nguyễn Phiên. Có một ngày, vua bàn với các
hoàng đệ rằng: “Con cháu cả chính hệ, đã theo đức Thái Tổ vào Nam, thì đều
được mang quốc tính là Nguyễn Phúc (đọc trại là Phước). Còn ai ở lại Thanh
Hóa thì mang công tánh là Nguyễn Hựu. Đức Hoàng Khảo ta truy thưởng huy
hiệu Hoàng Đệ, lên cả chín đời, từ triệu tổ đến thế tôn. Vậy người trong chín hệ
trên cũng như người trong đệ nhất chính hệ (cả mười Phiên hệ) đều được xưng
là Tôn Thất. Nghĩa là đồng họ với nhà vua, khỏi phải xưng đến quốc tánh
(Nguyễn Phúc) như trước nữa. Sở dĩ chúng ta định như vậy là vì theo văn hóa
tương truyền thì tên và họ của các triều vua đều thuộc về quốc húy. Về vấn đề
này, chúng tôi có ý tìm trong quốc sử, cho biết các ông hoàng đệ áp dụng từ
ngày nào. Chúng ta thấy trong Châu bản về Minh Mạng nguyên niên ngày 24
tháng 3 năm 1820, có một ông tâu lên, xưng là Nguyễn Phúc Bính. Cũng năm
ấy, ngày 12 tháng 1 0, một ông khác tâu lên, còn xưng là Nguyễn Phúc Mão. Cả
năm thứ hai chúng ta không tìm được gì trong Châu bản có tương quan đến vấn
đề này.
Qua năm thứ ba (1822), ngày 28 tháng 5, cũng ông Bình tâu lên song
không xưng là Nguyên Phúc như năm xưa mà lại xưng là Tôn Thất Bình. Vì
chưa tìm được gì về trước nữa, cho nên chúng ta phải bằng theo tài liệu trong
Châu bản, năm thứ ba, ngày 28 tháng 5, là một ngày lịch sử từ ngày ấy, người
hoàng gia về đời công, thông xưng là Tôn Thất, thay thế hai chữ Nguyễn Phúc,
xuất hiện từ năm 1563.
Còn cụ Ưng Trình, một người đứng hàng thứ ba trong Đế hệ Nguyễn
tộc thì cho biết: “Năm Quý Vị (Mùi) 1823, năm thứ tư triều Minh Mạng, vua
định phép đặt tên cho cả hoàng gia, làm thành 11 bài chạm vào Kim sách và
Ngân sách. Trong bản Kim sách chạm bài thi về chính thống. Đế hệ thi (để cho
con cháu vua Minh Mạng), nguyên văn bài thứ nhất Đế hệ:
Miên (Mân)- Hường (Hồng)-Ưng- Bửu- Vĩnh.
Bảo-Quý-Định- Long - Trường.
Hiền-Năng- Khâm- Kế- Thuật.
Thế-Thoại -Quốc-Gia-Xương.
(2.200 người)
Và cụ Ưng Trình còn nói rõ: “Từ đó, Tùng Thiện Vương có tên là Miên
(Mân) Thẩm. Nguyên lúc sơ sinh, vua Gia Long đã mạnh danh là Ngấn (nguyên
tên chữ Hán đọc là Nghiện, nhưng vì kiêng húy nên đọc là Ngợn) nghĩa là sắc
mặt trời mọc. Nay vua Minh Mạng đổi ra thành Miên Thẩm. Chữ Thẩm có
nghĩa là xét đoán rõ ràng”.
Như vậy, những người con trai của Minh Mạng đều có chữ Miên
(Mân), như người con trai trưởng có tên là Mân Tông, sau này là vua Thiệu Trị.
Đến đời vua Thiệu Trị, con trai đặt tên có chữ Hường (Hồng), như
Hồng Nhậm sau này là vua Tự Đức.
Đến con trai vua Tự Đức (dù là con nuôi) được đặt tên có chữ Ưng,
như Ưng Chân, Ưng Đường tức Chánh Mông (là con của Kiến Thái vương) khi
lên ngôi vua lấy niên hiệu là Kiến Phúc.
Còn con trai của Dục Đức có tên là Bửu Lân, khi được chọn lên làm
vua lấy niên hiệu là Thành Thái.
Con của Thành Thái là Vĩnh San, khi lên kế nghiệp làm vua lấy niên
hiệu là Duy Tân. Vua Thành Thái cũng như vua Duy Tân vì có hoạch định
chống Pháp nên bị truất ngôi và bị đem đi an trí bên châu Phi. Sau đó nhà cầm
quyền Pháp bắt các quan phụ chánh ở trong triều tôn con vua Đồng Khánh (Ưng
Đường) lên làm vua. Ngày 17 tháng 4 năm Bính Thìn (1916) Bửu Đảo chính
thức lên ngôi vua và lấy niên hiệu là Khải Định. Đây là ông vua thứ 11 của triều
Nguyễn.
Ngày 1 tháng 5 năm Bính Thìn, Khải Định ngự triều và cho đổi Phủ
Phụ chính ra làm Cơ mật viện theo ý người Pháp, vì Pháp không muốn có ai
làm phụ chính mà chỉ có một vị Toàn quyền hay Khâm sứ Pháp mới là người
chỉ đạo cho nhà vua làm theo chính sách cai trị của Pháp.
Tháng 6 năm 1916, Khải Định cho tôn Vĩnh Thụy làm hoàng tử trưởng.
Tới ngày 6 tháng 11 năm 1925 (Ất Sửu) vua Khải Định tạ thế, thọ 40 tuổi. Khi
đó hoàng tử trưởng Vĩnh Thụy mới được 13 tuổi và đang du học bên Pháp. Ta
cũng nên biết Khải Định chỉ có một người con trai duy nhất là Vĩnh Thụy. Vì
vậy người ta mới đồn Khải Định là ông vua bất lực, và Vĩnh Thụy chưa hẳn là
con đích thực của Khải Định.
Vậy Vĩnh Thụy là con ai?
Từ trước đến nay có nhiều tác giả trong nước cũng như ngoài nước đặt
ra vấn đề này với nhiều giả thuyết khác nhau khiến cho câu hỏi: Vĩnh Thụy
(Bảo Đại) con ai càng trở nên rối rắm, phức tạp và thân thế của vị vua cuối cùng
triều Nguyễn này trở thành hư hư thực thực không biết đâu mà lần. Rồi nhiều
huyền thoại được đặt ra về cái bào thai Vĩnh Thụy do ai đúc cốt, ai tráng men?
Song dưới đây chúng tôi cũng cố gắng giới thiệu cùng bạn đọc ý kiến
của một vài tác giả xoay quanh vấn đề trên để tiện tham khảo và xét đoán hư
thực.
Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy ngay khi được sinh ra đã được các vị hoàng
thân quốc thích thắc mắc và đàm tiếu, nhưng không ai lúc bấy giờ dám công
khai đặt vấn đề: Vĩnh Thuỵ con ai. Sau này nhà nghiên cứu Nguyễn Đạc Xuân
được một số các vị hoàng tộc lớn tuổi tiết lộ những chi tiết về Vĩnh Thụy con ai.
Và ông Nguyễn Đắc Xuân đã ghi lại như sau: “Vua Đồng Khánh sinh được sáu
trai và hai gái, nhưng chỉ nuôi được một trai là Bửu Đảo và hai gái là công chúa
Ngọc Lâm và Ngọc Sơn. Gia đình vua Đồng Khánh với bà Thánh cung (con đại
thần Nguyễn Hữu Độ) và bà Tiên cung (họ Dương, mẹ đẻ Bửu Đảo sau này là
vua Khải Định) hằng hy vọng Bửu Đảo sẽ là người nối dõi tông đường, bảo vệ
được những gì vua Đồng Khánh đã vun đắp được trong thời gian ở ngai vàng
(1885-1888). Khi Bửu Đảo đến tuổi lập phủ thiếp, hai bà vui mừng đi cưới con
quan đại thần Trương Như Cương cho chàng ngay. Cuộc hôn nhân này thật
tuyệt vời: làm rể họ Trương vừa có thế lực vừa được của cải, biết đâu “trời đất
đoái hoài” Bửu Đảo được chọn làm vua. Nào ngờ vợ chồng Bửu Đảo ăn ở với
nhau không có hạnh phúc. Ngày đêm Bửu Đảo chỉ ham thích đánh bạc không
ngó ngàng chi đến bà vợ mới cưới. Khi vợ chồng gặp nhau, Bửu Đảo chỉ bàn có
một việc là làm sao xin gia đình họ Trương cho thật nhiều tiền. Vợ Bửu Đảo rất
buồn, nhiều lần phải khóc lóc với cha mẹ mới xin được đủ tiền cho chồng tiêu
xài. Lúc đầu, gia đình họ Trương còn giữ uy tín cho ông hoàng Phụng Hóa
Công (tước của Bửu Đảo lúc còn tiềm đế), nhưng về sau Bửu Đảo cứ ép vợ về
lấy tiền hoài, Trương gia rất bất bình đã nhiếc chàng rể là “đồ bất lực vô hậu”.
Biết chuyện con trai duy nhất của mình “không có hậu”, hai bà Thánh cung và
Tiên cung buồn bã, thất vọng não nề, suốt ngày than thở cùng nhau về hậu vận.
Và cứ thế nỗi lo lắng chồng chất làm cho đêm ngày càng sa sút, tiều tụy...
Tuy ham mê cờ bạc nhưng Bửu Đảo là người con có hiếu, thấy hai mẹ
mình đau buồn như thế ông cũng phải lo. Ông dem chuyện tâm sự với một
người trong hoàng tộc thuộc bậc ông nhưng tuổi tác lại đồng trang với mình. Vị
hoàng thân đó là cụ Hường Đ. (Hường Đ.ề sinh năm 1885). Trong nhiều năm
lui tới trà, rượu, bạc bài với cháu là Bửu Đảo, ông này đã được Bửu Đảo giúp
đỡ những lúc thiếu thốn. Do đó lần này, nhân được Bửu Đảo muốn san sẻ một
phần khó khăn của mình, Hường đã ra tay giúp cháu... Bửu Đảo đã rất vui mừng
khi nghe Hường Đ. dựng nên câu chuyện sau đây: Phụng Hóa Công vốn là
người bất lực. Nhưng một hôm, Công bắn được một con chồn hương, người nhà
đã hầm con chồn hương với sâm nhung và nhiều vị thuốc bổ dương khác. Buổi
tối, Công uống rượu và ăn món hầm đại bổ ấy... liền cảm thấy hứng khởi và nổi
cơn “đòi phụ nữ”... Cái phút thần hạnh phúc ấy đến đột ngột, sợ nó tan biến đi
nên sẵn có cô Hoàng Thị Cúc đang ở trong nhà, Công gọi đến “dùng” và may
mắn sao cô Cúc đã thụ thai. Tin cô Cúc có thai với Bửu Đảo đến tai bà Tiên
cung và bà Thánh cung, những thân thích trong gia đình Phụng Hóa xem như
một phép lạ. Để xác minh thực hư, các bà đã sai đào một cái hố sâu khoảng 2
tấc) bảo cô Cúc nằm sấp, để cái bụng có mang nằm lọt dưới hố, rồi dùng roi
đánh tra hỏi cô Cúc đã lấy ai mà dám vu cho Phụng Hóa Công. Cô Cúc cắn răng
chịu đựng hình phạt và chỉ một mực khai là đích thị có mang với Bửu Đảo. Thế
là các bà mừng rỡ công bố cho hoàng tộc biết Phụng Hóa Công sắp có con. Và
lúc ấy trong hoàng tộc dù tin hay ngờ đều phải nhận như thế.
“Sự thật, theo ông Phan Văn Dật và ông Ngũ Đẳng thị vệ Nguyễn Đắc
Vọng thì không có chuyện Bửu Đảo ân ái với cô Cúc và cô Cúc may mắn mang
thai. Cô Cúc đã mang thai với chính Hường Đ. từ trước. Được Hường Đ.
nhường cho một bào thai, Bửu Đảo rất hàm ân. Để đền ơn, Bửu Đảo đã giúp đỡ
Hường Đ. rất nhiều (về quan tước cũng như vật chất, tiền bạc).
Do sự giúp đỡ của anh Bửu Dương, chúng tôi được đọc 17 cuốn vở
gồm 1.700 trang viết tay của thầy Ưng Đồng (con trai cụ Hường Đ.) viết về lịch
sử gia đình và họ hàng nhà mình. Qua tập di cảo đồ sộ ấy, chúng tôi đã lọc ra
được một số chi tiết có liên quan đến sự việc thân sinh của Vĩnh Thụy (sau là
Hoàng đế Bảo Đại) là cụ Hường Đ. Khi dự họp Nguyễn Phước tộc ở Phủ Tân,
thầy Ưng Đồng thường hay được chào là “ông giáo sư em của Cựu hoàng”. Lời
chào này hàm ý thầy Ưng Đồng với Bảo Đại là anh em cùng cha.
Thầy Ưng Đồng cho biết: “Khoảng năm 1912, thân phụ ta và hoàng tử
Bửu Đảo là đôi bạn thân ăn một mâm nằm một chiếu”. Ngày 22 tháng 10-1913
anh Thụy ra đời, thì một tháng rưỡi sau (7-12-1913), Ưng Linh, con chính thức
cụ Hường Đ. cũng ra đời. Hai cậu bé này lớn lên đều to béo mạnh giống nhau,
ảnh của hai người đặt cạnh nhau thấy giống như anh em ruột. Thầy Ưng Đồng
còn cho biết thêm: Bà ngoại ta thường vào cung Diên Thọ chào thỉnh an đức Từ
Cung. Đức Từ Cung gọi bà ngoại ta (tức mẹ vợ cụ Hường Đ.) bằng dì, dù bà
ngoại ta không có họ hàng thân ruột gì với đức Từ Cung”.
Bà Từ Cung nhiều lần dặn mẹ cụ Hường Đ.: “Khi nào Hoàng đế hồi
loan, dì cho thằng Đồng vào đây ở để nó nhờ (phải chăng bà Từ Cung hàm ý
cho Ưng Đồng vào Nội để hưởng lộc của anh).
Đoạn tư liệu trực tiếp nhất là: vào khoảng năm 1931, trong một lần vào
Đại Nội thăm viếng Hoàng đế Bảo Đại, ông Hường Đ. đã bị mật thám Pháp
ngăn trở. Về nhà ôm đầu bực tức, ông quở rằng: “Đồ chó má! Tau là cha vua mà
tụi nó chăng nể nang chi”. Nếu quả thật như dư luận và như các sự việc đã ghi
một cách khá rõ trong tài liệu của gia đình cụ Hường Đ. thì vua Khải Định đã
nhận chú làm... con”.
8.
Như tác giả Nguyễn Đắc Xuân đã viết mẹ đích (mẹ đẻ) ra Vĩnh Thụy là
bà Hoàng Thị Cúc tức bà Từ Cung. Điều này không ai chối cãi rồi. Nhưng ai là
người tạo nên bào thai trong bụng bà để bà sinh ra Vĩnh Thụy. Rắc rối ở chỗ đó.
Nhiều giả thuyết đưa ra nhưng vẫn chưa có lập luận nào đứng vững, trong khi
đó các đương sự có đủ thẩm quyền trả lời về vấn đề này lại đã trở thành người
thiên cổ: vua Khải định, bà Hoàng Thị Cúc, cụ Hường Đ...
Cho nên một vị cựu Ngự tiền Đổng lý triều Bảo Đại là cụ Phạm Khắc
Hòe đã đưa ra một giả thuyết thứ hai (dựa trên ý kiến của một người Pháp là
Khâm sứ Pasquier). Sau khi nêu câu hỏi Vĩnh Thụy con ai, cụ viết như sau:
“Khi Khải Định mới được Pháp đưa lên làm vua, nhiều người đã bàn
tán về sự liệt dương của hắn và khẳng định rằng Vĩnh Thụy không phải là con
của Khải Định. Về sau, mối quan hệ tớ thầy giữa Khải Định và thực dân Pháp
càng khăng khít thì sự bàn tán ấy càng mở rộng làm cho Khải Định lo lắng sẽ
gặp nhiều trở ngại trong việc truyền ngôi cho Vĩnh Thuỵ. Khải Định bèn chỉ thị
cho Hội đồng Hoàng tộc và Viện Cơ mật làm một tờ biểu xin nhà vua sớm lập
Hoàng tử Vĩnh Thụy làm Đông cung Hoàng thái tử. Đó là tờ biểu ngày 2-4-
1921 mà Khải Định đã tự tay mình đưa cho Khâm sứ Pasquier để nhờ giúp đỡ.
Pasquier vốn rất thương Vĩnh Thụy và coi đó là con bài tốt nhất để tránh cho
thực dân khỏi phải đương đầu trở lại với dòng Thành Thái Duy Tân chống
Pháp. Cho nên ông ta đã mất gần một năm điều tra nghiên cứu rất tỉ mỉ và ngày
25-2-1922 đã gửi cho ông Toàn quyền một bản báo cáo tối mật dài hơn 20 trang
đánh máy. Sau đây là một đoạn trích dịch bản báo cáo ấy: “Nhằm tranh thủ sự
đồng tình của những quan lại muốn phục hồi ngai vàng cho một dòng họ đã hai
lần chỉ gây thất vọng (ý nói Thành Thái - Duy Tân), người ta lại một lần nữa
tung ra những tin đồn về sự bất lực của vua Khải Định trong việc tự tạo cho
mình một người kế vị trực tiếp và cậu bé nhà vua đang nuôi trong Đại nội không
phải là con ông... Họ tung ra nhiều thuyết mà phổ biến nhất là thuyết cho rằng
Vĩnh Thụy là con của hai người đầy tớ phục vụ trong gia đình hoàng thân
Phụng Hóa (Khải Định), nam tên là Thừa Quang, nữ tên là Thị Út, sau đổi là
Thị Cúc. Nhưng đó là một chuyện hoang đường sai về cơ bản vì nó không để ý
đến một sự thật là Vĩnh Thụy rất giống vua Khải Định”.
Về thuyết trên, chúng tôi đã đem so sánh hình hai cha con Khải Định.
Vĩnh Thụy lúc nhỏ thì thấy giống nhau như đúc. Còn người ta nêu ra thuyết
Khải Định mặt không to béo, người gầy ốm trong khi Vĩnh Thụy béo tốt, to con
nên không thể là con của Khải Định được, thì thuyết này không đứng vững
được. Lý do Vĩnh Thụy ngay khi còn nhỏ đã được chăm sóc ăn uống đầy đủ
theo tiêu chuẩn Tây phương nên sức khỏe tốt, rồi được gửi sang Pháp học tới
năm 13 tuổi thì được phong vua kế ngôi cha (Khải Định tạ thế), nhưng dù được
Phong vua, Vĩnh Thụy (lúc này là Bảo Đại) vẫn ở bên Pháp tiếp tục theo học
“nghề làm vua” và nhất là Bảo Đại không như các vị vua tiền nhiệm sớm có vợ,
nên sức khỏe không bị suy yếu, đến năm 21 tuổi ông mới chính thức lấy vợ.
Vậy thuyết cha yếu, gầy ốm, xanh xao như Khải Định không thể sinh
con mạnh khỏe như Bảo Đại là không có cơ sở do những thực tế đã trình bày ở
trên. Nhưng cụ Phạm Khắc Hòe lại còn đưa ra một thuyết nữa (cũng trích trong
báo cáo mật của Khâm sứ Pasquier) như sau: “Một thuyết nữa, khôn khéo hơn,
vụ lợi hơn. Đó là thuyết của các ông Tôn tước cho rằng việc Vĩnh Thụy được
đăng ký vào sổ Hoàng từ ở phủ Tôn Nhơn chỉ là vì Hoàng thân Phụng Hóa
(Khải Định) vốn rất có hiếu với mẹ, muốn làm cho mẹ vui sướng được làm bà
nội, nhưng sự thật thì Vĩnh Thuỵ là con một ông quan to ở bộ Lễ là Dương
Quang Lược, em ruột của mẹ vua Khải Định, điều đó cắt nghĩa vì sao Vĩnh
Thụy lại giống Khải Định. Nhưng xét cho kỹ thì thuyết này càng không đứng
vững. Trước hết, vì việc đăng ký chỉ xảy ra 4 hoặc 5 năm sau khi Khải Định lên
ngôi tức là lúc Vĩnh Thụy đã bảy tuổi:
Mặt khác, không lẽ Hội đồng Hoàng tộc lại chấp nhận cho đăng ký vào
sổ hoàng từ một cậu bé mà ai cũng biết không phải là con của hoàng thân Phụng
hóa. Bà nhạc thứ nhất của hoàng thân Phụng hóa và là vợ của quan đầu triều
Trương Như Cương chắc có đóng góp vào những điều vu khống chĩa mũi nhọn
vào chàng rể của mì nh. Bà già vụng dại này và sự keo kiệt của ông chồng là
Trương Như Cương đã dẫn đến sự ly dị giữa Hoàng thân Phụng Hóa và vợ cả
của ông là con gái của họ, và sự ra đời của Vĩnh Thụy mà người ta có thể gửi là
con đẻ của lòng tự ái bị xúc phạm. Nguyên khi gả con cho Hoàng thân Phụng
Hóa Trương Như Cương có hứa với chàng rể mỗi tháng sẽ cho một số tiền
nhưng sau lại từ chối không cho. Để trả thù ông nhạc đã không giữ lời hứa,
Hoàng thân Phụng Hóa không thèm ngủ với con gái của ông già keo kiệt. Bà
Trương Như Cương bèn can thiệp, năn nỉ chồng nên làm trọn lời đã hứa, ông
hoàng rể cũng khăng khăng đòi tiền. Nhưng Trương Như Cương vẫn nhất định
không nhả tiền ra. Cuối cùng, một hôm trong cơn đấu khẩu trong gia đình, bà
mẹ vợ nổi nóng đã nhiếc chàng rể là đồ bất lực. Lòng tự trọng của đấng mày râu
bùng nổ; ông hoàng rể lập tức phủ định lời chế giễu của bà mẹ vợ bằng hành
động: ngài đã chọn trong bọn đầy tớ gái của vợ mình một cô đẹp nhất, mạnh
khỏe nhất, và ban ngay cho tại chỗ một trận mây mưa dồi dào và kết quả là sự
đầu thai một ông Hoàng. Trong tất cả các thuyết về sự ra đời của Vĩnh Thụy, tôi
dứt khoát chọn thuyết “một cơn sóng tình đột xuất”.
Sau khi khẳng định như vậy, Khâm sứ Pasquier nhấn mạnh thêm về sự
lợi ích chính trị của vấn đề và đề nghị Toàn quyền cho phép thông báo cho nhà
vua biết rằng chính phủ Cộng hoà Pháp sẽ vui mừng được thấy lời thỉnh cầu của
Nam triều về việc lập hoàng từ Vĩnh Thụy làm Đông cung Thái tử sớm được
thực hiện“.
Đề nghị của Khâm sứ Pasquier được Toàn quyền M. Long chuẩn y một
cách khẩn trương và một tháng sau cậu bé Vĩnh Thụy mới 8 tuổi đã chính thức
trở thành Đông cung Hoàng Thái tử thứ hai từ đời Gia Long. Nhưng tất cả
những màn kịch trên vẫn không thay đổi được sự thật là Vĩnh Thụy không phải
là con của Khải Định.
9.
Khi chúng tôi đang viết bài về những ngày cuối đời của cựu hoàng Bảo
Đại, thì được tin ông đang lâm bệnh tại Paris, sau một cuộc bất hòa trong gia
đình giữa ông và các con về những báu vật như thanh kiếm cùng mấy món đồ
cồ quý giá khác. Cựu hoàng muốn những ngày cuối đời, ông được nhìn lại mấy
báu vật của Hoàng triều để lại. Nhưng các con ông sợ những báu vật nhà
Nguyện nếu trao cho thân phụ giữ sẽ có ngày thân phụ hết tiền tiêu đem bán đi
hoặc khi ông chết những báu vật kể trên sẽ rơi vào tay bà Monique Baudot là bà
vợ cuối cùng có hôn thú với Bảo Đại năm 1982, tuy rằng hai người chưa có đứa
con nào.
Việc gia đình lục đục, nhưng đứa con của bà Nam Phương hoàng hậu
với Bảo Đại lại không ưa bà Baudot nên việc chăm nom thân phụ không được
đến nơi đến chốn. Năm 1982, Bảo Đại có sang Mỹ lần đầu tiên để thăm nhang
người con ngoại hôn giữa Bảo Đại với các bà Phi Ánh, Jenny Woong đang sinh
sống ở Mỹ, và cũng nhân thể dự Hội hoàng tộc ra mắt vừa được thành lập tại
hải ngoại.
Sở dĩ Hội hoàng tộc được ra đời vì ở Việt nam, Nhà nước ta đã trao
việc kiến thiết tu bổ, quản trị, tế lễ các lăng tẩm cho Nguyễn Phước tộc qua đại
diện hoàng tộc tại Huế là cụ Tôn Thất Hoàn đã ngoài 80 tuổi. Hàng năm các bà
phi như Mộng Điệp và bà Phi Ánh (khi còn sống) cùng các con vẫn về thăm quê
hương và ra Huế viếng lăng tẩm nhà Nguyễn.
Hội đồng hoang tộc Việt nam tại hải ngoại gồm có cố vấn hội đồng: cụ
Bửu Phúc (nhân vật thân tín nhất của Bảo Đại tại Pháp), cụ Bửu Hạp tại Texas),
cụ Tôn Thất Thiện (tại Canada), cụ Vĩnh Cơ (tại Los Angeles). Và theo một
người trong hoàng tộc ở Mỹ về kể lại, chuyến đi Mỹ ngày 20-1- 1982 của Bảo
Đại có chuyện vui như sau:
Dịp ấy, một số thân hào, nhân sĩ trong hoàng tộc tại Califomia (Mỹ)
mời cựu hoàng Bảo Đại thăm nước Mỹ. Khi được tin Bảo Đại tới California, họ
đã tề tựu khoảng 300 người tại sân bay Lax để nghênh đón cựu hoàng, trong số
đó có Nguyễn Phúc Bửu Bang là trưởng tộc ở California, và ông Nguyễn Linh
Chiêu. Và theo như chương trình đã định, Bảo Đại sẽ từ New York đến trên
chiếc máy bay của Hãng hàng không TWA-803.
Khi máy bay tới nơi, mọi người đều chưng hửng vì chẳng thấy cựu
hoàng đâu. Khi hỏi ra mới biết, trong khi chờ đợi chuyến bay tại sân bay New
York, Bảo Đại đã vào phòng khách ở sân bay nghỉ ngơi, song vì quá mỏi mệt,
ngài đã ngủ thiếp đi lúc nào không rõ nên đã bỏ qua chuyến bay của mình.
Nhưng cũng may là ngay sau đó, lại có một chuyến bay TWA khác kế liền nên
cựu hoàng đã tới Califomia, chỉ chậm chút ít mà thôi. Tưởng cũng nên nhắc lại
là cả hai cảnh sát trưởng và phó cửa Westminster đã có mặt tại sân bay Lax để
hộ tống cho đoàn xe của Bảo Đại. Cùng đi theo với cựu hoàng có bà Monique,
người mà ông ta vẫn gọi thân mật là thư ký riêng của ông. Nhưng thật ra bà
Monique là thứ phi cuối cùng của phế đế Bảo Đại. Ở Mỹ trong 3 tuần lễ, Bảo
Đại ngụ tại nhà ông Nguyễn Linh Chiêu, và cuộc thăm viếng này của ông ta chỉ
có tính cách riêng tư, nhưng đi đâu Bảo Đại cũng được an ninh canh gác hộ vệ
cẩn thận để tránh việc không hay xảy ra. Khi tới thăm Sacramento, Bảo Đại đã
được trao cho chiếc chìa khóa vàng của thủ đô, và bà Buchoz thị trưởng
Westminster cũng trao tặng cho ông ta bằng cấp công dân danh dự của thành
phố này.
Cũng nhân chuyến đi này, Bảo Đại đã gặp những người con riêng và họ
xin được làm khai sinh lại ghi tên cha là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy thay vì khai
sinh trước đây không ghi tên cha bởi là con ngoại hôn với các bà vợ không hôn
thú.
Sau chuyến đi thăm nước Mỹ để gặp các con, thăm thân tộc, Bảo Đại
trở về Pháp và ông mệt nhọc, bệnh thận suy tái phát. Vào tháng đầu năm 1997,
Bảo Đại phải vào nhà thương quân đội của Pháp là Quân y viện Vai de Grace ở
Paris để điều trị. Quân y viện này là một bệnh viện sang trọng và nổi tiếng từng
chữa trị cho các tổng thống Pháp. Tới tháng 6 năm 1997, bệnh tình của Bảo Đại
đã thuyên giảm và ông được rời bệnh viện về nhà. Nhưng tới giữa tháng 7, bệnh
tái phát và ông được đưa tới Quân y viện trên để điều trị. Nhưng vào hồi 5 giờ
sáng ngày thứ năm 31-7-1997 ông đã qua đời, thọ 83 tuổi. Khi cựu hoàng trút
hơi thở cuối cùng chỉ có bà Monique Baudot bên cạnh ông, còn các con không
về kịp.
Khi được tin cựu hoàng Bảo Đại qua đời, các báo, đài ngoại quốc có tới
phỏng vấn bà Monique Baudot. Trả lời phỏng vấn đài BBC, bà nói: “Ngày hôm
nay, tôi rất đau buồn. Dĩ nhiên rối, trước hết và trên hết là vì chồng tôi vữa qua
đời. Nhưng hôm nay một trang sử của Việt nam cũng đã được lật qua. Tôi cầu
nguyện cho chồng tôi...“. Tưởng cũng nên biết, trước đây 10 năm, khi lấy bà
Monique Baudot, Bảo Đại đã trở lại đạo Công giáo.
Đám tang Bảo Đại đã được nhà nước Pháp, điện Elysée đã đứng ra lo
liệu. Linh cữu Bảo Đại đã được đưa từ Bệnh viện Van de Grace tới Thánh
đường Saint Pierre de Chaillot số 35 đại lộ Marteau, thuộc quận 16, Paris, để
làm lễ, sau đó đưa về an táng tại nghĩa trang Passy cũng ngay tại quận 16, Paris.
Đám tang Bảo Đại được nhà nước Pháp cử một tiểu đội lính với huy
chương lục lặc tới khiêng linh cữu, và một tiểu đội sĩ quan nai nịt, bồng súng
mang cờ Pháp đi hộ tống. Về phía Pháp, có đại diện chính phủ Pháp tới dự lễ và
tiễn đưa Hoàng tử Bảo Long đang ở Corse cũng về tới dự đám tang thân phụ.
Ngoài ra còn có bà bá tước Didelot nay đã 90 tuổi, là chị ruột của bà Nam
Phương, cũng tới dự.
Được tín cựu hoàng Bảo Đại từ trần, Bộ Ngoại giao nước ta đã gửi điện
chia buồn tới tang quyến. Ngoài ra còn có vòng hoa của Mặt trận Tổ quốc Việt
nam gửi tới phúng điếu cựu hoàng Bảo Đại để tỏ tình đoàn kết dân tộc.
Bảo Đại là ông vua cuối cùng của nhà Nguyễn, triều đại phong kiến
cuối cùng ở Việt nam (đã thoái vị khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành
công). Với chính sách đại đoàn kết dân tộc và truyền thống rộng !ương, khoan
dung, ngay từ những ngày đầu của Nhà nước Việt nam độc lập Chủ tịch Hỗ Chí
Minh và chính quyền nước Việt nam Dân Chủ Cộng hoà đã mời ông làm Cố
vấn tối cao cho Chính phủ để cùng gánh vác việc nước. Đây có lẽ là trường hợp
duy nhất trong lịch sử. Tiếc rằng chẳng bao lâu sau đó, ông đã không đáp ứng
được thiện ý ấy. Ta cũng nên biết, trong những ông vua trên thế giới Bảo Đại là
một phế đế sống thọ nhất, chỉ sau Nhật Hoàng Hirohito thọ 88 tuổi, tạ thế năm
1989 .
______________________
Bảo Đại
Bảo Đại (chữ Nôm: 保大) (22 tháng 10, 1913 - 31 tháng 7, 1997), là vị
vua thứ mười ba và cuối cùng của triều Nguyễn, cũng là vị vua cuối cùng của
chế độ phong kiến Việt Nam.
Ông hoàng Bảo Đại tên húy là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy, còn có tên
Nguyễn Phúc Thiển. Bảo Đại sinh ngày 22 tháng 10 năm 1913 (năm Quý Sửu)
tại Huế, là con của vua Khải Định và bà Từ Cung (Hoàng Thị Cúc). Về thân thế
của Bảo Đại vẫn còn nhiều nghi ngờ, vì vua Khải Định bị mang tiếng là bất lực
và không thích gần đàn bà.
Năm 1922, ông được sách lập Đông cung Hoàng Thái tử. Ngày 24
tháng 4 năm 1922, Vĩnh Thụy được vợ chồng cựu Khâm sứ Trung kỳ Jean
François Eugène Charles nhận làm con nuôi và đưa sang Pháp học ở trường
Lycée Condorcet rồi sau ở trường Sciences Po (École libre des sciences
politiques), Paris.
Năm 1925, vua Khải Định băng hà. Ngày 8 tháng 1 năm 1926 ông
được tôn kế vị, lấy niên hiệu là Bảo Đại, là vua thứ 13 của triều Nguyễn khi
đúng 13 tuổi. Sau khi lên ngôi, ông lại trở sang Pháp để học tiếp, còn việc triều
chính trong nước giao cho Tôn Thất Hân nhiếp chính trong thời gian vua vắng
mặt.
Tháng 9 năm 1932, Bảo Đại hồi loan trở về nước, chính thức làm vua.
Ngày 20 tháng 3 năm 1934, Bảo Đại làm đám cưới với Marie Thérèse
Nguyễn Hữu Thị Lan và tấn phong bà làm Nam Phương Hoàng hậu. Đây là một
việc làm phá lệ bởi vì kể từ khi vua Gia Long khai sáng triều Nguyễn cho đến
các vị vua về sau, các vợ vua chỉ được phong tước Vương phi, sau khi chết mới
được truy phong Hoàng hậu. Ông là nhà vua đầu tiên thực hiện bỏ chế độ cung
tần, thứ phi. Cuộc hôn nhân này cũng gặp phải rất nhiều phản đối vì Nguyễn
Hữu Thị Lan là người Công giáo và mang quốc tịch Pháp.
Bảo Đại đã cho bỏ một số tập tục mà các tiên vương đã bày ra. Từ nay
thần dân không phải quỳ lạy mà có thể ngước nhìn long nhan nhà vua khi nhà
vua tới, mỗi khi vào chầu các quan Tây không phải chắp tay xá lạy mà chỉ bắt
tay vua, các quan ta cũng không phải quỳ lạy.
Bảo Đại cũng cải tổ bộ máy hành chính, cho các thượng thư già yếu
hoặc kém năng lực như Nguyễn Hữu Bài về hưu, sắc phong thêm 4 thượng thư
mới xuất thân từ giới học giả và hành chính. Ông thành lập Viện Dân biểu để
trình bày nguyện vọng lên nhà vua và quan chức bảo hộ Pháp và cho phép Hội
đồng tư vấn Bắc Kỳ được thay mặt Nam triều trong việc hợp tác với chính
quyền bảo hộ.
Sau khi Nhật đảo chính Pháp và tuyên bố trao trả độc lập cho Việt
Nam, ngày 11 tháng 3 năm 1945, Bảo Đại ra đạo dụ "Tuyên cáo Việt Nam độc
lập".
Ngày 17 tháng 4 năm 1945, Bảo Đại ký đạo dụ số 5 chuẩn y thành phần
nội các Trần Trọng Kim và ngày 12 tháng 5 giải thể Viện Dân biểu Trung Kỳ.
Thoái vị
Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công. Ngày 25 tháng 8, Chính
phủ lâm thời Hồ Chí Minh điện cho Bảo Đại yêu cầu ông ban dụ thoái vị và sẽ
cử đại biểu vào nhận lễ thoái vị. Bảo Đại thoái vị trong một buổi lễ long trọng ở
Ngọ Môn, Huế vào chiều 30 tháng 8, trao quốc ấn Hoàng đế Chi Bửu và thanh
kiếm bạc nạm ngọc cho đại diện của chính phủ lâm thời của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa là ông Trần Huy Liệu. Ông trở thành "công dân Vĩnh Thụy".
Trong dịp này, ông có câu nói nổi tiếng "Thà làm dân một nước độc lập hơn
làm vua một nước nô lệ".
Tháng 9 năm 1945, ông được Chủ tịch Chính phủ Lâm thời Hồ Chí
Minh mời ra Hà Nội nhận chức "Cố vấn tối cao" trong chính phủ.
Ngày 6 tháng 1 năm 1946, ông được bầu làm đại biểu Quốc hội khóa
đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Ngày 16 tháng 3 năm 1946, ông tham gia phái đoàn Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa sang thăm viếng Trung Hoa, nhưng ông không trở về nước.
Làm Quốc trưởng
Năm 1947, cựu trùm mật thám Pháp ở Đông Dương là Cousseau đã
tiếp xúc với Bảo Đại tại Hồng Kông, ngỏ ý mời ông về nước nắm quyền, hình
thành nên "giải pháp Bảo Đại" để chống lại cuộc chiến giành độc lập của phong
trào Việt Minh.
Ngày 5 tháng 6 năm 1948, Bảo Đại đã gặp gỡ Cao ủy Pháp Bollaert ở
vịnh Hạ Long. Bản tuyên ngôn Hạ Long ra đời, theo đó nước Pháp thừa nhận
nền độc lập của Việt Nam.
Ngày 8 tháng 3 năm 1949, Tổng thống Pháp Vincent Auriol và Cựu
hoàng Bảo Đại đã ký Hiệp ước Elysée, thành lập một chính quyền Việt Nam
trong khối Liên hiệp Pháp, gọi là Quốc gia Việt Nam, đứng đầu là Bảo Đại. Bảo
Đại yêu cầu Pháp phải trao trả Nam Kỳ cho Việt Nam và Pháp đã chấp nhận
yêu cầu này.
Lễ trao ấn kiếm cho Quốc trưởng Bảo Đại (3 tháng 3 năm 1952)
Ngày 24 tháng 4 năm 1949, Bảo Đại về nước. Hai tháng sau, vào ngày
14 tháng 6, Bảo Đại tuyên bố tạm cầm quyền cho đến khi tổ chức được tổng
tuyển cử và tạm giữ danh hiệu Hoàng đế để có một địa vị quốc tế hợp pháp.
Ngày 1 tháng 7 năm 1949, chính phủ lâm thời của Quốc gia Việt Nam được
thành lập, tấn phong Bảo Đại là Quốc trưởng.
Tuy nhiên, nhiều người coi chính quyền này chỉ là bù nhìn do các
quyền quan trọng về quân sự, tài chính và ngoại giao đều do người Pháp nắm
giữ. Thực chất, người nắm quyền tối cao của Quốc gia Việt Nam là Cao ủy
Pháp.
Quốc trưởng Bảo Đại sống và làm việc tại biệt điện ở Đà Lạt. Xung
quanh nơi ở của Bảo Đại có cả một trung đoàn Ngự lâm quân bảo vệ và có cả
một đoàn xe riêng gọi là "công xa biệt điện". Lại có cả một đội máy bay riêng
do các phi công người Pháp lái phục vụ.
Sau Hiệp định Genève 1954, Pháp phải rút khỏi Đông Dương, chính
quyền và quân đội Quốc gia Việt Nam tập kết ở miền Nam Việt Nam chờ tổng
tuyển cử để thống nhất Việt Nam.
Cuộc sống lưu vong
Bảo Đại tại Paris
Đến ngày 26 tháng 10 năm 1955, Quốc trưởng Bảo Đại bị Thủ tướng
Ngô Đình Diệm phế truất sau cuộc trưng cầu dân ý và bắt đầu cuộc sống lưu
vong tại Pháp cho đến ngày tạ thế.
Ông sống tại Cannes, sau đó chuyển đến vùng Alsace. Bảo Đại giao du
với Jean de Beaumont, cựu nghị sĩ Nam Kỳ, một tay săn bắn có hạng. Bị cơ
quan thuế để mắt tới, không còn tiền tài trợ của chính phủ Pháp, ông phải bán
dần tài sản của mình. Năm 1963, Nam Phương Hoàng hậu qua đời ở
Chabrignac.
Tháng 2 năm 1972, khi đã tiêu pha hết cả tài sản, Bảo Đại kết hôn với
Monique Baudot, một phụ nữ Pháp kém Bảo Đại 30 tuổi. Monique Baudot trở
thành "Hoàng hậu Monique".
Năm 1982, nhân khai trương Hội Hoàng tộc ở hải ngoại, Bảo Đại lần
đầu tiên sang thăm Mỹ với tư cách cá nhân. Trong chuyến đi này ông đã nhận
tên cha để làm lại giấy khai sinh cho những người con ngoại hôn trước đây
không ghi tên cha. Tại thị trấn Sacramento, ông được tặng chiếc chìa khóa vàng
tượng trưng cho thị trấn này. Ông cũng được bà thị trưởng thành phố
Westminster, California tặng danh hiệu "công dân danh dự" của thành phố.
Năm 1988, Bảo Đại làm lễ rửa tội và lấy tên Thiên chúa giáo Jean-
Robert.
Tang lễ
Cựu hoàng Bảo Đại là vị vua thọ nhất nhà Nguyễn. Ông mất ngày 31
tháng 7 năm 1997 tại Quân y viện Val de Grace, hưởng thọ 83 tuổi. Ông cũng là
một phế đế sống thọ nhất trên thế giới thời hiện đại. Trước đó ông có nhận lời
về tham dự Hội nghị thượng đỉnh các nước nói tiếng Pháp (La Francophonie)
được tổ chức tại Hà Nội vào 1997 sau đó vài tháng.
Đám tang Bảo Đại được chính phủ Pháp tổ chức với một tiểu đội lính
lê dương và sĩ quan mang quốc kỳ Pháp, quân phục trắng, gù đỏ trên vai, bồng
súng đi bên linh cữu. Ông được an táng tại nghĩa trang Passy, quận 16, Paris,
khá gần tháp Eiffel.
Bộ Ngoại giao Việt Nam đã gửi điện chia buồn đến tang quyến và Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam đã gửi vòng hoa viếng.
Những người vợ và tình nhân chủ yếu của Bảo Đại
Nam Phương Hoàng hậu, quê Gò Công, Tiền Giang, có 5 người con
Mộng Điệp, quê Bắc Ninh, vũ nữ, không hôn thú, có 3 người con
Lý Lệ Hà, quê Thái Bình, vũ nữ, không hôn thú, không có con
Hoàng Tiểu Lan (Jenny Woong), vũ nữ Trung Hoa lai Pháp, không hôn
thú, có 1 con gái
Phi Ánh ở Huế, không hôn thú, có 2 người con
Vicky (Pháp), không hôn thú, có 1 con gái
Clément(?) (Pháp), không hôn thú
Monique Baudot (Pháp), có hôn thú, không có con
Những người con của Bảo Đại
Vua Bảo Đại có 8 (?) người vợ, tình nhân chính và 13 (?) người con.
Với Nam Phương Hoàng hậu:
Thái tử Bảo Long, sinh ngày 4 tháng 1 năm 1936
Công chúa Phương Mai, sinh ngày 1 tháng 8 năm 1937
Công chúa Phương Liên, sinh ngày 3 tháng 11 năm 1938
Công chúa Phương Dung, sinh ngày 5 tháng 2 năm 1942
Hoàng tử Bảo Thắng, sinh ngày 9 tháng 12 năm 1943
Với bà Mộng Điệp:
Phương Thảo, sinh năm 1946
Bảo Hoàng, sinh năm 1954
Bảo Sơn, sinh năm 1957
Với bà Hoàng Tiểu Lan:
Phương An
Với bà Phi Ánh:
Phương Minh
Bảo Ân
Với bà Vicky:
Phương Từ
______________________
Bảo Đại
vị vua cuối cùng của triều đình nhà Nguyễn
26-01-2006
Bảo Đại và Phan Văn Giáo tại sân bay Đà Lạt (1949).
Tiếp theo, Bảo Đại cải tổ bộ máy hành chính, cho các vị thượng thư già
yếu hoặc kém năng lực về hưu. Chẳng hạn như cụ Nguyễn Hữu Bài đã làm
thượng thư quá lâu, lại có tư tưởng bài Pháp, nên được nghỉ trước tiên. Đồng
thời sắc phong thêm 4 thượng thư mới lựa chọn trong giới hành chính và học
giả. Về sau ông còn lập thêm một số bộ và thành lập Viện Dân biểu để trình bày
nguyện vọng của dân chúng lên nhà vua và chính phủ Pháp.
Nhà vua cũng cho phép Hội đồng tư vấn Bắc kỳ được thay mặt Nam
triều trong việc hợp tác với chính phủ bảo hộ. Trong khi đó Bảo Đại tiến hành
các cuộc ngự du, trước hết là bái yết vong linh tiên đế nhà Nguyễn, về Thanh
Hoá vinh qui bái tổ, thăm Hà Nội, Sài Gòn, Tây Nguyên và các địa phương
khác để nắm được nguyện vọng của thần dân…Có lẽ vì vậy thời đó người ta coi
Bảo Đại là “Nhà vua cải cách”.
“Thà làm dân một nước độc lập hơn làm vua một nước nô lệ”
Ngày 9-3-1945 Nhật đảo chính Pháp. Quá bất ngờ, Bảo Đại vội vàng
tìm một số người ít thân với Pháp trước đây để thành lập nội các mới. Trong
vòng từ tháng 4 đến 8-1945, nhà vua ủy thác cho Trần Trọng Kim hai lần thành
lập nội các thân Nhật. Đây thực chất là những chính phủ bù nhìn, mọi chính
sách và hoạt động nhất nhất đều chịu sự giật dây của một Cố vấn tối cao người
Nhật Yokoyama.
Lúc đó, khí thế cách mạng của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản đang ào ào dâng lên nên Bảo Đại cũng như cả Hoàng tộc đều vô cùng
hoang mang, lo lắng. Cũng dễ hiểu, bởi họ liên tưởng tới một thực tế là Hoàng
đế Louis thứ 16 của nước Pháp xưa kia, hay Sa hoàng Nikolas của Nga khi cách
mạng nổ ra lật đổ ngai vàng, đã bị xử tử ngay; còn như Phổ Nghi - vị Hoàng đế
cuối cùng của Trung Quốc, sau khi bị hạ bệ cũng phải đi lao động cải tạo nhiều
năm, rồi mới được trở về làm công dân cho đến hết đời.
Trong tình hình đó, vua Bảo Đại coi ông Đổng lý văn phòng Phạm
Khắc Hoè như một người cộng sự tâm phúc nhất. Quả thực, ông Hoè đã đóng
vai trò rất đặc biệt. Ông theo dõi chặt chẽ diễn biến tình hình chiến cuộc giữa
quân đồng minh với phe phát xít, bắt liên lạc với các nhà ái quốc để tìm hiểu
chủ trương, đường lối của cách mạng, để rồi đưa ra những lời khuyên nhủ khéo
léo cho nhà vua cùng Hoàng tộc.
Thấy nhà vua đã rất nao núng, hoang mang tột độ, ông Hoè buông lời
thăm dò xem Bảo Đại có biết lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc là ai không, Bảo Đại nói
rằng cũng chỉ nghe lơ mơ khi hoạt động tại Pháp cụ Nguyễn Ái Quốc đã viết
truyện “Con Rồng Tre” với thâm ý đả kích Khải Định, vua cha của ông. Nhân
đó, ông Hoè còn đem chuyện sấm trạng Trình ra kể cho Bảo Đại nghe. Cụ đã
từng hoạt động ở Pháp mà danh tiếng đã vang dội về nước. Bảo Đại chẳng cần
nghĩ lâu, nói ngay: “Nếu quả người cầm đầu Việt Minh là “thánh Nguyễn Ái
Quốc” thì tôi sẵn sàng thoái vị ngay”.
Ngày 22-8-1945, Việt Minh ra tối hậu thư đòi nhà vua phải trao trả
chính quyền cho nhân dân và hứa bảo đảm tính mạng, tài sản cho Hoàng gia.
Nội các Nam triều họp khẩn cấp và tất cả đều nhất trí đáp ứng mọi điều kiện của
Việt Minh. Tuy nhiên, Bảo Đại vẫn còn băn khoăn một điều là: Sao Chủ tịch
Chính phủ nhân dân cách mạng lâm thời lại là Hồ Chí Minh, Cụ là ai mà lâu
nay không thấy nói đến? Đến khi ông Hoè biết chính xác Hồ Chí Minh chính là
cụ Nguyễn Ái Quốc và trình lại với nhà vua, thì Bảo Đại giơ cả hai tay lên trời
buột miệng nói tiếng Pháp “Ca vaut bien le coup alors!” (như thế thì thật đáng
thoái vị!).
Lễ thoái vị được tổ chức trọng thể trước Ngọ Môn vào ngày 30-8-1945.
Một phái đoàn gồm các ông Nguyễn Lương Bằng, Cù Huy Cận và do ông Trần
Huy Liệu dẫn đầu, thay mặt Chính phủ lâm thời từ thủ đô vào nhận ấn kiếm của
vua Bảo Đại trao lại. Phát biểu thoái vị trước 50 nghìn đại diện các tầng lớp
nhân dân, Bảo Đại dõng dạc tuyên bố: “Thà làm dân một nước độc lập hơn làm
vua một nước nô lệ”.
Dinh 3 Đà Lạt (xây dựng năm 1933 hoàn thành năm 1937) còn gọi là
“Biệt điện Quốc trưởng”.
Cùng thời với Mộng Điệp, Vĩnh Thụy còn yêu một vũ nữ khác cũng rất
nổi danh ở đất Bắc Hà là Lý Lệ Hà. Tuy nhiên, ông sống với cô gái này không
lâu, không có con với nhau, rồi hai người chia tay. Năm 1946, khi đào tẩu ở lại
Trung Quốc, Vĩnh Thụy yêu một cô gái Trung Hoa lai Tây tên là Hoàng Tiểu
Lan và cũng đã “đơm hoa kết trái” sinh được một cô con gái.
Những năm ở ghế “Quốc trưởng”, ông còn kết duyên với một cô gái
Huế tên là Lê Thị Phi Ánh, sinh được hai con, một trai một gái. Sau đó còn vài
ba mối tình nữa, tính đến cuối đời Vĩnh Thụy có tất cả 8 người vợ, 13 người
con.
Những năm tháng cuối đời Bảo Đại
Sau khi bị Ngô Đình Diệm tiếm ngôi “Quốc trưởng” năm 1954, Bảo
Đại sống lưu vong ở Paris và vẫn được Pháp trả lương. Đương nhiên, tiền lương
này không nhiều, nên không thể sống xa hoa như trước, thậm chí lắm khi còn bị
“viêm màng túi”. Những ngày cuối đời, cựu hoàng muốn thấy những vật báu
của Hoàng triều để lại. Nhưng các con ông lo ngại, không muốn trao cho thân
phụ, sợ khi túng tiền ông bán đi thì uổng phí, hoặc sợ khi ông qua đời lại rơi vào
tay bà Monique Baudot, người vợ cuối cùng có hôn thú với ông. Gia đình lục
đục, hầu hết con cháu không ưa gì bà Baudot, nên ông rất buồn.
Mãi tới năm 1982, nhân dịp khai trương Hội Hoàng tộc ở hải ngoại,
những người con của bà Lê Thị Phi Ánh và Hoàng Tiểu Lan đang sống ở Mỹ
mời ông sang dự, ông mới có chuyến đi đầu tiên tới nước Mỹ. Tuy chỉ là một
chuyến thăm riêng tư, nhưng đi tới đâu Bảo Đại cũng được bảo vệ cẩn thận. Khi
tới thăm Sacramento ông còn được tặng chiếc chìa khoá vàng tượng trưng của
thị trấn này. Tới thăm thành phố Wesminter ông cũng được bà Thị trưởng
Buchoz tặng danh hiệu “Công dân danh dự” của thành phố.
Cũng nhân dịp Bảo Đại thăm Mỹ, nhiều người con của ông đã xin được
làm lại giấy khai sinh, thay vì giấy khai sinh cũ chỉ có tên mẹ, nay đã có cả tên
cha là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy. Suốt 3 tuần ở Mỹ, được sống giữa đông đảo
con cháu và gặp lại nhiều bè bạn cũ ông cảm thấy rất vui. Sau đó trở lại Pháp,
bệnh suy thận tái phát. Năm 1997 mấy lần ông phải vào bệnh viện điều trị, thế
nhưng không qua khỏi, ông từ trần ngày 1-8-1997, thọ 84 tuổi.
Đám tang Bảo Đại được Nhà nước Pháp cử một sĩ quan mang quốc kỳ
Pháp, một tiểu đội lính lê dương quân phục trắng, gù đỏ trên vai, ngực đeo huy
chương lấp lánh, bồng súng đi bên linh cữu. Bộ Ngoại giao nước ta đã gửi điện
chia buồn tới tang quyến, ngoài ra còn có vòng hoa phúng điếu của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam
Vĩnh Sơ
______________________
Ông vua đào hoa ở xứ đồi thông
Hoàng Nguyên Vũ
8:24, 08/06/2006
Vua Bảo Đại và hoàng hậu Nam Phương kết hôn năm 1934
Tạp chí Lá thư thính giả tuần này của ban Việt ngữ có khách mời là hai
người anh em họ của Cựu hoàng Bảo Đại.
Nhân dịp này, trang Văn hóa có bài tóm lược cuộc đời của vị vua cuối
cùng của nhà Nguyễn.
Hoàng tử Vĩnh Thụy, sinh năm 1913 ở Huế và trở thành Đông cung
thái tử năm 1922.
Ông được đưa sang Pháp học, theo sự chăm sóc của Khâm sứ Charles.
Ngày 8-1-1926, ông chính thức nối ngôi cha, vua Khải Định, và rồi lại
quay về học tiếp ở Pháp. Công việc cai trị đất nước để lại trong tay chính quyền
thuộc địa Pháp và Hội đồng phụ chính triều đình Huế, do Nguyễn Hữu Bài -
một tín đồ Thiên chúa giáo - đứng đầu.
Khi Bảo Đại sắp bước sang tuổi thành niên, triều đình Huế thúc giục
người Pháp đưa vị hoàng đế quay về, trong lúc đa số quan chức Pháp cảm thấy
Bảo Đại nên ở lại thêm ít nhất hai năm để học. Có vẻ như một trong các lý do là
Pháp muốn tình hình tại Việt nam bình ổn trước sự trở về của hoàng đế.
Và sự trở về đã là chủ đề cho một chiến dịch quảng bá nhằm tạo hiệu
quả tối đa. Tháng 5-1931, Bộ trưởng thuộc địa Reynaud, trong cuộc gặp với hội
đồng phụ chính ở Huế, tuyên bố: “Đất nước các ông, sau sự trở về của hoàng đế
Bảo Đại, sẽ chứng kiến một trong những khoảnh khắc vĩ đại trong lịch sử”.
Sự háo hức của người Việt có thể tìm thấy qua các bình luận trên báo
chí thời đó. Thảo luận về tiềm năng sẽ có cải cách chính trị được bổ sung bằng
các tường thuật nói về sự chuẩn bị cho ngày về cũng như các tin đồn tăng thêm
tự do cho báo chí bản địa.
“Đảo chính” năm 1933
Ngày 6-9-1932, Bảo Đại, ở tuổi 19, quay về Việt nam. Một trong
những quyết định đầu tiên của vị vua là bãi bỏ tục lạy (các quan thôi khỏi khấu
đầu quỳ tấu ở trước sân đình).
Bảo Đại được chính quyền bảo hộ Pháp đưa sang “mẫu quốc” nuôi
dưỡng từ khi 8 tuổi, đến 19 tuổi mới “miễn cưỡng” về nước để lên ngôi. “Miễn
cưỡng” vì Bảo Đại đã quá quen nếp sống hiện đại của phương Tây, khó chấp
nhận những lễ nghi gò bó và xơ cứng của Hoàng triều.
Sách viết về Bảo Đại - vị vua cuối cùng của triều đại phong kiến Việt
Nam khá nhiều, trong đó có cả sách của các tác giả phương Tây: Lucien Bodard
với tác phẩm “Chiến tranh Đông Dương”, Davits Gilbert với “Tin tức bí mật
Đông Dương”; Perrin Elula với “Gió mùa cho đàn bà”…
Năm 2006 vừa qua, Daniel Grandclément - tác giả người Pháp tiếp tục
cho ra mắt độc giả Việt Nam tác phẩm mới: “Bảo Đại hay những ngày cuối
cùng của Vương quốc An Nam”. Khai thác nguồn tư liệu phong phú và quý
hiếm từ Phòng Lịch sử quân sự Vincennes, Lưu trữ Bộ Ngoại giao, Lưu trữ
thành phố Hà Nội, Lưu trữ quốc gia Foutainebleau, Lưu trữ thành phố Cannes…
Daniel Grandclément đã hé lộ thêm với độc giả một số bí mật về cuộc đời của vị
vua bù nhìn tai tiếng này.
“Khi trở về Việt Nam lên ngôi Hoàng đế, tôi sẽ chẳng làm gì cả, mà chỉ
hưởng lạc những thú vui trần thế”! - Đó là một trong những tuyên bố của Hoàng
tử Vĩnh Thụy khi rời Pháp trở về Việt Nam để lên ngôi Hoàng đế.
Cũng đúng thôi, vì vị Hoàng tử Tây học này còn có thể làm gì khi chế
độ phong kiến Việt Nam chỉ còn tồn tại với tư cách bù nhìn. Hoàng tử Vĩnh
Thụy, con trai vua Khải Định được chính quyền bảo hộ Pháp đưa sang “mẫu
quốc” nuôi dưỡng từ khi 8 tuổi, đến 19 tuổi mới “miễn cưỡng” về nước để lên
ngôi.
“Miễn cưỡng” vì xứ xở quê hương đã trở nên mờ nhạt, xa lạ. Hoàng tử
đã quen nếp sống hiện đại của phương Tây, khó lòng chấp nhận những thói
quen, những lễ nghi gò bó và xơ cứng của Hoàng triều.
Khi trở thành Hoàng đế nước Việt Nam thuộc địa nửa phong kiến, Bảo
Đại đã sử dụng quyền lực của một ông vua để thực hiện một số cách tân trong
Hoàng cung như: bỏ chế độ cung nữ, tự quyết định hôn nhân.
Không giống những vị vua triều Nguyễn trước đó, Bảo Đại tự chọn bạn
đời cho mình là cô Nguyễn Hữu Thị Lan - người con gái 18 tuổi, con một điền
chủ giàu có nhất Nam kỳ, đã từng du học ở Pháp. Nguyễn Hữu Thị Lan đã
chinh phục trái tim của vị vua trẻ phong tình bởi sắc đẹp và sự dịu dàng.
Trong hôn lễ, Bảo Đại phá luật lệ, cho phép người vợ trẻ mang một bộ
áo cưới màu vàng có đính rồng và phong bà làm Hoàng hậu Nam Phương.
Trước ngày cưới họ thề bồi sẽ sống với nhau đến đầu bạc răng long. Nhưng chỉ
sau một thời gian ngắn, thói ham hưởng lạc của Bảo Đại đã khiến Hoàng hậu
ngậm đắng nuốt cay và thu mình trong thế giới đau khổ.
Trong khi Bảo Đại mải mê với những người đàn bà đẹp khác thì Hoàng
hậu phải âm thầm nuôi dạy con cái ở xứ người, rồi qua đời ở tuổi 49. Dân làng
Chabrignae (Pháp) nơi bà sống đã xác nhận rằng: Bảo Đại chưa một lần nghiêng
mình trước phần mộ của bà!
Sở thích hàng đầu của Bảo Đại là đuổi theo những người đàn bà đẹp.
Ông đã từng thẳng thắn bộc lộ sự ham muốn sắc dục của mình: “Luôn có nhu
cầu đối với đàn bà, một thứ nhu cầu thường xuyên không thể dập tắt được như
đồ ăn thức uống. Từ khi đến tuổi lớn, đêm nào cũng phải có một người đàn bà
nằm bên, mỗi đêm một người”.
Một người thân thiết của ông thì bình phẩm: Con người Bảo Đại có
“một phần mười của Farouk, hai phần mười của Machiavel và bảy phần mười
của Hamlet”… Ông đã dan díu với đủ hạng người, từ cô hầu phòng bình
thường, vợ của các gia nhân đày tớ, hoa hậu Đông Dương đến gái nhảy, thậm
chí gái điếm…
Ngoài những người đẹp ở xứ xở quê hương, ông còn có đàn bà Trung
Hoa, Hồng Công, Pháp, Nhật Bản, Zaire… Đối với họ, lúc nào ông cũng lịch
sự, hào phóng và lãng mạn. Những khi kiếm được tiền ông có thể vung tay mua
biệt thự đắt giá tặng cho người tình. Nhưng cũng có lần lâm vào cảnh túng
quẫn, ông phải sống bằng số vốn liếng đã cóp nhặt cả đời của một cô gái nhảy.
Còn Monique - lãnh sự danh dự của nước Cộng hòa Zaire vì ngưỡng
mộ Vĩnh Thụy đã giúp ông thanh toán những khoản nợ nần và là người đàn bà
duy nhất ở bên ông khi ông qua đời. Trong số những người đàn bà đã có thời
gian gắn bó với Bảo Đại như Lý Lệ Hà, Phi Ánh, Mộng Điệp… thì Mộng Điệp
được bà Từ Cung - mẹ của Bảo Đại nhìn nhận như một cô con dâu đích thực.
Mộng Điệp đã có với Bảo Đại hai người con và được ông ủy quyền
đứng ra nhận từ tay người Pháp hai báu vật là chiếc ấn vàng và thanh kiếm nạm
ngọc của triều Nguyễn với sự chứng kiến của bà Từ Cung.
Bảo Đại còn là một đệ tử trung thành của các sòng bạc lớn. Ông đã
từng có mặt ở khắp các sòng bạc nổi tiểng nhất thế giới, như Hồng Công,
Pháp… Daniel Grandclément đã kể trong sách rằng: Sau khi Cách mạng Tháng
Tám thành công, Chính phủ Việt Nam cử một phái đoàn sang Hồng Công
thương thảo với Tưởng Giới Thạch.
Bảo Đại là một thành viên của phái đoàn. Khi chuyến công cán kết
thúc, Bảo Đại đã không ngần ngại bày tỏ ý định ở lại Hồng Công để ăn chơi.
Bảo Đại chỉ nhờ chuyển một lời nhắn đến Nam Phương Hoàng hậu là ông vẫn
vui, khỏe. Sau đó ông đã đổi tên thành Wang Kunney tiên sinh cho tiện việc
hưởng mọi lạc thú.
Dân Hồng Công kháo nhau rằng: Muốn xem mặt ông vua nước Nam
chỉ cần tìm ở 14 tiệm nhảy, nếu không thấy thì tìm các sòng bạc. Không ít lần
ông đã khiến các con bạc phải kinh ngạc vì những món tiền khổng lồ ông mang
tới.
Cũng có lần ông thắng bạc, đủ tiền mua một chiếc xe hơi đời mới nhất
làm quà tặng sinh nhật Hoàng tử Bảo Long. Nhưng hầu như các sòng bạc đã
nuốt chửng những món gia tài kếch xù của ông, bao gồm cả biệt thự, bộ sưu tập
ôtô, máy bay, du thuyền…
Vốn là một người ham chơi, Bảo Đại thành thạo nhiều lĩnh vực, từ
nhảy đầm, đánh gôn, sưu tầm ôtô, máy bay. Tác giả cuốn sách đã rất hóm hỉnh
khi so sánh sở thích của Vua Louis XVI nước Pháp với ông vua cuối cùng của
triều Nguyễn: “Louis XVI thì mê các ổ khóa, còn Bảo Đại thì thích hí hoáy
hàng giờ với động cơ ôtô”.
Bộ sưu tập ôtô của Bảo Đại thời đó toàn những xe đắt tiền, ấn tượng và
hiện đại nhất: 1chiếc Mercedes lớn, nặng 4 tấn, có kính dày 3 cm, vỏ chống
được đạn 8 ly của tiểu liên và súng máy; 4 chiếc Limousine; 1 chiếc Citroen
động cơ bánh trước; những chiếc xe thể thao hiệu Ferrari hay Bentley. Ngoài ra
ông còn là chủ sở hữu của mấy chiếc máy bay và du thuyền.
Tiết lộ mới của Daniel Grandclément khiến người đọc phải sửng sốt:
“Cựu hoàng có tất cả bốn máy bay DC-3, một máy bay B-24 sáu chỗ, một máy
bay B-29 và một máy bay để thi nhào lộn. Các máy bay nói trên được lắp đặt
một cabin làm phòng ngủ, một phòng có thể chiêu đãi đông người, nhiên liệu
đảm bảo hoạt động một đường kính 6.000 km… giống như máy bay của Hoàng
đế Anh Georges VI.
Chưa hết, ông còn có 2 chiếc du thuyền sang trọng, trong đó có 1 chiếc
trị giá một trăm triệu Franc do Thủ tướng Queuille tặng. Để mua sắm những
phương tiện đó, ngoài khoản trợ cấp của Chính phủ Pháp, Bảo Đại còn biết cách
kiếm chác qua những vụ chuyển tiền từ Đông Dương qua Pháp, Hồng Công để
ăn chênh lệch và đã có thời gian ông phất to bởi nghề này.
Săn bắn là một thú chơi Bảo Đại say mê từ thời còn thanh niên. Được
biết, ông là một tay săn tầm cỡ, vì vậy trong các biệt thự của ông, nền nhà được
trải bằng những tấm da thú. Ông đã thuê hẳn 1.500 ha đất cạnh làng Epshtein
rồi xua muông thú xung quanh vào đó để săn. Ông còn bỏ tiền xây dựng một
ngôi nhà nhỏ giữa rừng Krafft làm chỗ gặp gỡ bạn gái trong các cuộc đi săn. Đó
là mấy cô diễn viên, thường là người châu Âu. Họ có thể lưu lại với Bảo Đại vài
ngày, vài tuần rồi ra đi không trở lại…
Khi “canh bạc” chính trị ở Đông Dương kết thúc, Bảo Đại cùng toàn bộ
gia quyến chạy sang Pháp. Tại đây, ông tiếp tục cờ bạc, trai gái và cưới thêm
một người vợ rất trẻ, đó là nàng Monique mà phần đầu bài viết đã đề cập. Khi
về già, gia tài khánh kiệt đến mức phải bán hết gia sản, thậm chí phải tranh chấp
với Hoàng tử Bảo Long quyền sử dụng hai báu vật của triều Nguyễn là ấn vàng
8 kg và thanh kiếm nạm ngọc…
Từ một ông hoàng nổi tiếng ăn chơi và tiêu tiền như rác, chủ sở hữu
của rất nhiều biệt thự đắt giá, cuối đời Bảo Đại trở thành người không có khả
năng trả tiền thuê nhà, sống bằng khoản trợ cấp của chính phủ Pháp.
Ngày 1-8-1997, Bảo Đại qua đời ở tuổi 82 bởi chứng ứ nước não, xuất
huyết nội tạng thận và ung thư dạ dày tại một bệnh viện quân đội ở Paris. Vì
giữa Bảo Long và cha đã có những mối bất đồng về lối sống nên Bảo Long chỉ
có mặt bên linh cữu cha khi ở nhà thờ, còn đưa tiễn ông ra nghĩa địa chỉ có bà
Monique
______________________
“Con rồng” trên chiếu bạc
15:19:00 24/04/2009
Có lần, chỉ sau một đêm, cựu hoàng Bảo Đại đã bị ông trùm
Hollywood Jack Warner "lột" mất 350 triệu Franc khiến sáng hôm sau, hàng
loạt tờ báo quanh vùng Cannes đã phải đưa tin tít đậm.
Với kỳ vọng xứ An Nam thuộc địa xa xôi sẽ có một ông vua được giáo
dục đầy đủ và trở nên hoàn hảo nhưng dễ bảo, năm 1922, chính quyền bảo hộ
Pháp đã đưa hoàng tử Vĩnh Thụy mới 9 tuổi sang Paris nuôi dạy. Bốn năm sau,
ngày 8/1/1926, sau khi vua Khải Định băng hà, hoàng tử Vĩnh Thụy đã được đặt
lên ngôi, trở thành hoàng đế Bảo Đại.
Những nỗ lực của cả "nước mẹ đại Pháp" lẫn triều đình An Nam trong
suốt 10 năm đã không thành công lắm trong việc tạo nên một ông vua có học
vấn uyên thâm, đức cao vọng trọng.
Những bộ sưu tập
Thuở nhỏ ông say mê sưu tập tem. Có lần, vì quá đam mê, ông hoàng
vừa đăng quang nhưng chưa chấp chính đã đề đạt nguyện vọng với ông Charles,
yêu cầu chính phủ Bảo hộ cấp cho ông một món tiền ngoài kế hoạch để mua
một bộ sưu tập tem đắt tiền. Thay vì gửi tiền, nhà nước Bảo hộ đã hào phóng
gửi cho ông hoàng trẻ con hẳn… một bộ tem!
Lớn lên, hầu như chẳng có môn thể thao quý tộc nào mà hoàng đế Bảo
Đại không từng là tay chơi có hạng. Ông cưỡi ngựa điêu luyện như một kỵ sĩ
Trung cổ, chơi golf, tennis giỏi như một quán quân hàng tỉnh, bơi thuyền các
loại như một vận động viên Olympic…
Kể từ khi Bảo Đại đủ 16 tuổi trở về sau, ông Charles thường xuyên bị
cảnh sát địa phương nhắc nhở bởi ông hoàng được ông giám hộ liên tục suýt
gây tai nạn, do lầm tưởng những ngả đường trong hạt là đường đua xe hơi. Lớn
hơn chút nữa, Bảo Đại lại tỏ ra là một tay có năng khiếu, có thể trở thành một
phi công lái máy bay nhào lộn cừ khôi.
Nhưng ông không có nhiều thời gian để hưởng thụ, thi đấu và giật giải
trong những môn thể thao cảm giác mạnh, bởi ông còn bận về nước làm vua,
bằng lòng giết thời gian trong trò tiêu khiển săn bắn mà ông được xem như một
tay thiện xạ.
Ngồi trên ngai rồng ở cố quốc, rồi trở thành Quốc trưởng sau khi Pháp
xâm lược Việt Nam lần thứ 2, Bảo Đại không còn phải ngửa tay xin tiền nữa.
Ông có nhiều cách khác, nhiều cơ hội khác để những bộ sưu tập vương giả đắt
tiền ngày càng phong phú thêm.
Đầy hứng thú với những chi tiết cơ khí và những tiếng gầm rú của động
cơ, tháng 7-1950, ông đặt mua một chiếc Mercedes to đùng, nặng 4 tấn, lắp kính
dày 3 cm, vỏ thép chống được đạn súng trường và súng máy 8 ly.
Thân hình khá to lớn, lực lưỡng so với những thần dân Việt Nam mà
ông đang cai trị, Bảo Đại cũng đặc biệt say mê với những gì đồ sộ, hoặc kềnh
càng quá khổ. Trong bộ sưu tập xe hơi của ông có tới 4 chiếc Limousine của
Mỹ, gầm rú trên những con đường nông thôn Việt Nam mù bụi như những con
quái vật.
Năm 1951, ông lại đặt mua thêm một chiếc Jaguar Mark II to vật vã,
phía trước mũi xe có gắn một con báo Nam Mỹ bằng đồng. Đây là chiếc "con
báo” duy nhất có mặt tại Việt Nam trong cùng thời điểm. Bảo Đại mua nó vì
thích, sau đó dự định sẽ để dành làm quà sinh nhật cho hoàng tử Bảo Long.
Nhưng nổi hứng lên, ông đã đem tặng nó cho viên tướng lục lâm Lê
Văn Viễn, như quà mừng vì tay này đã thâu tóm được sòng bạc Đại Thế Giới ở
Chợ Lớn, hàng tháng đem lại cho Bảo Đại một số tiền cống nộp kếch xù.
Những chiếc xe kềnh càng thường được ông dùng đến khi đi săn hoặc
đi xa. Còn bình thường loanh quanh trong thành phố Huế, hay Đà Lạt, ông thích
lướt trên một chiếc Citroen dẫn động bánh trước, trông nhẹ nhàng và hợp cảnh
hơn nhiều. Chiếc xe này ông không mua mà có được nhờ đánh bạc ở Biarrit vào
năm 1939.
Ngoài ra, tại những lâu đài, khu nghỉ mát ở Pháp, ông còn có thêm
nhiều chiếc Ferrari, Bently, Alfa Romeo kiểu thể thao đắt tiền khác. Nhiều chiếc
trong số đó, ông chỉ sử dụng đúng một lần. Thế nhưng, ông lại thích ngắm vuốt
chúng mỗi ngày hoặc kỳ cụi tháo ra lắp vào những chi tiết máy nhiều lần, dù tất
cả những chiếc xe này đều mới toanh chẳng cần gì đến tay nghề chăm sóc của
ông hoàng!
Niềm đam mê xe có lẽ là thứ duy nhất mà Bảo Đại truyền được trọn
vẹn sang con trai. Sang Pháp năm 1949, hoàng tử Bảo Long cũng nhất quyết đòi
sắm cho được một loạt xe hơi đắt tiền, gồm Roll royce, Fiat mui trần, Alfa
Romeo và Siatia.
Khi Bảo Đại tặng con trai một chiếc Jaguar VII, Bảo Long đã lập tức
đòi phải đổi ngay sang chiếc khác. Vẫn cùng một nhãn hiệu, song phải là kiểu
thể thao seri XK 120, loại đầu tiên đạt vận tốc 120 miles/h (khoảng hơn
200km/h).
Lời ghi dưới Hình 2 “Vua Bảo Đại xuất hiện trong một nghi lễ chính
thức với quan chức Pháp năm 1930″ là không đúng. Vua Bảo Đại chỉ về nước
chính thức làm Vua năm 1934. Tôi đăng ảnh xưa này để quí vị thấy cái Nón
Cối - Quan Tây gọi là - casque colonial - cát cô-lô-nhần, được các quí quan Đại
Pháp đội vào nước ta từ những năm 1880, 1890. Ông tây, bà đầm từ giã 3 nước
Đông Pháp, nón cối của quí quan Đại Pháp ở lại với người An Nam Bắc Kỳ mãi
cho đến nay. Người Quốc gia Việt Nam Cộng Hòa không dùng nón cối. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đáng được chính phủ Pháp ghi công là “người có công bảo
tồn nón cối, di sản văn minh Phú-lăng-sa ở Đông Dương".
Ông Trần Đức Thanh Phong đã viết chắc chuyện phải đúng, người đọc
chỉ có vài théc méc là: thế lực nào giao cho ông việc mưu toan đưa Cựu hoàng
Bảo Đại về nước, không lẽ các chính khách Nhật không biết Cựu hoàng có bà
vợ đầm, để đến khi bà đầm xách đồ đến Tokyo với Cựu hoàng các ông mới biết,
và việc biết muộn màng ấy làm các ông nhẩy nhổm lên; cũng không có lẽ sau
khi đón Cựu hoàng đến Tokyo, chỉ còn chờ ngày đưa Cựu hoàng về Sài Gòn,
các ông chính khách Nhật mới thấy: “Ông ấy ở Pháp lâu quá rồi, không còn tư
cách một vị lãnh đạo Á Châu".
Tác giả Trần Đức Thanh Phong hạ bút: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại
thiên". Đúng vậy. Than ôi… Trời chẳng chiều người. Ông Thanh Phong mất
bao nhiêu công lao, ngày tháng, chịu bao nguy hiểm: suýt nữa thì ông bị Mật
Vụ bắt do lệnh của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, may nhờ đám cưới cô con
của tổng thống, và nhờ những người anh em của ông trong Cơ quan tình báo
trung ương - tức Nha CIV: Central Intelligence Vietnam, anh em cùng bố khác
mẹ với Cơ quan CIA - bao che nên ông thoát sang được nước Nhật. Khi ông
đến Tokyo thì cuộc mưu sự đã vỡ tan rồi, tan đến không có tan nào có thể tan
hơn, vỡ đến không còn cứu vãn, chắp vá, hàn gắn gì được nữa. Tiếc lắm thay.
Nhân dân Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa, trong số có tôi, chỉ vì cái bề hê của bà
đầm Monique Baudot mà mất cơ hội trăm năm một thưở được Cựu hoàng ra tay
cứu vớt khỏi cảnh bị bọn Cộng sản ác ôn nó cho quằn quại trong dầu sôi, lửa
bỏng, nó dìm dưới hầm tai họa, nó nướng cháy queo trên ngọn lửa hung tàn.
Bài học Luân Lý Giáo Khoa Thư Lớp Đồng Ấu tôi rút được từ Hồi Ký
Giải pháp Bảo Đại của người viết Trần Đức Thanh Phong là:
- Đức bề hê mạnh lắm thay, ta nên kính sợ mà lánh xa.
Tôi buồn năm phút. Buồn năm phút xong tôi lại càng buồn.
Kêu “Than ôi" mãi cũng thấy mình dzô dzuyên nhưng sự đời như cái lá
đa, không kêu Than ôi không được. Biết dzô dzang mà vẫn cứ phải kêu:
Than ôi…
Mưu sự tại Thanh Phong,
Phá sự tại Mô-ních.
Thanh Phong định như thử
Mô-ních nhi vị nhiên.
Mưu sự tại Thanh Phong,
Làm hỏng việc tại Mô-ních.
Thanh Phong định như thế,
Mô-ních không chịu cho.
Chuyện xưa, nhắc lại cho lòng thêm tiếc nuối. Định mệnh an bài. Số
phận mình đen hơn mõm chó thì Hoàng Đế, Hoàng Thượng, Đức Vua, Đệ Nhất
Công Dzân, Cố Vấn Tối Cao, Cựu hoàng, Quốc Trưởng, Ngài Ngự, Phế Đế,
L’Empereur, Sa Majesté, Chef d’Éùtat có thương mình đến mấy đời mình cũng
nát như cái mền Sakymen.
Thôi thì đành chấp nhận số phận với tiếng thở dzài ai oán và đành viết
lời cuối cho vơi đi niềm uất hận buồn thương cho số kiếp:
Hoàng Đế Bảo Đại cả đời chẳng làm được công việc gì đáng kể, không
những thế Ngài Ngự còn làm việc chi cũng thất bại não nùng. Tại sao thế? Chỉ
tại vì cái tên Bảo Đại của Ngài. Cái tên tiền định: Bảo Đại: Bại Đảo. Đã Bại còn
Đảo, vương nghiệp Nhà Nguyễn đến Ngài là tiêu tán thoòng. Đúng thôi!
______________________
Người lái xe cho hoàng đế đi theo cách mạng
25/08/2005
TT - Người tài xế của cựu hoàng đế Bảo Đại nay đã vào tuổi 90 nhưng
vẫn khỏe mạnh, trí nhớ rất minh mẫn. Đó là ông Nguyễn Như Đào, hiện ở căn
phòng nhỏ chỉ hơn chục mét vuông ở khu tập thể Xã Tắc trong Thành nội Huế.
Từ người lái xe cho Bảo Đại rồi ông theo kháng chiến đi trọn cuộc trường chinh
của đất nước…
Ngồi lật lại tập album, ông Đào bồi hồi với những tấm hình chụp ở
Lạng Sơn ngay sau chiến dịch Biên giới, hình những bạn đồng ngũ khi ở Bắc
Ninh.
Người lính thế hệ đầu tiên ấy của Cục Vận tải QĐNDVN đã không từ
một nhiệm vụ khó khăn nào.
Ông vẫn nhớ có một lần lái xe đưa đồng chí Xuân Thủy và bác sĩ Lê
Đình Thám (chủ tịch phong trào hòa bình của VN) và một nhân sĩ nữa từ Hà
Nội lên biên giới Việt - Trung để sang Trung Quốc, từ đấy sẽ dùng phương tiện
của bạn để đi dự đại hội hòa bình thế giới, không có xe con phải dùng xe tải,
một người ngồi cabin, hai người ngồi sau thùng xe tải, gian nan vô cùng…
______________________
Chuyện về người hầu vua Bảo Đại
Thứ sáu, 04/06/2010 06:06
Ông Nguyễn Đức Hòa - nhân chứng sống duy nhất còn lại ở Dinh 3
(ĐSCT) Hàng ngày, du khách thập phương đến Dinh 3 ở thành phố Đà
Lạt (Lâm Đồng), nơi một thời vua Bảo Đại và gia đình từng ở sẽ bắt gặp một
ông lão với tác phong điềm đạm, đang cần mẫn cắm hoa, lau chùi những kỷ vật
quý giá. 83 tuổi đời, trải qua biết bao biến cố, giờ đây ông Nguyễn Đức Hòa là
nhân chứng sống lịch sử duy nhất còn lại nơi đây.
13 tuổi vào cung
Vì nhà nghèo nên năm 13 tuổi ông Hòa được cha mẹ nhờ một người
bác họ trông coi đội kỵ mã cho vua Bảo Đại xin vào cung giúp việc. Dù còn ít
tuổi, nhưng cậu bé rất chăm chỉ và nề nếp, được thái hậu Từ Cung Hoàng Thị
Cúc rất quý mến.
Năm 1949, thực dân Pháp đưa vua Bảo Đại về Đà Lạt, vì được tin cẩn
nên Nguyễn Đức Hòa được sai theo để phục vụ vua. Trong đoàn tùy tùng lúc đó
có 20 người, nhưng ông được giao nhiệm vụ chính. Vua Bảo đại rất quý người
hầu cận của mình, đi đâu vua cũng cho theo. Ông Hòa kể, vua Bảo Đại rất mê
săn bắn, những cánh rừng ở Tây Nguyên ông đều ghé qua. Mỗi lần đi, phải
chuẩn bị rất chu đáo, đoàn tháp tùng hơn cả chục người gồm nấu ăn, phục vụ
nghỉ ngơi, lái xe. Có lần vua đi săn ở tận Đắc Lắc cả tháng mới về.
Vua Bảo Đại thích đi săn bằng voi, biết chuyện này vị tù trưởng tên
R’leo K’num ở Buôn Đôn đã tặng cho vua một con bạch tượng quý hiếm để đi
săn. Nhưng sau này, không hiểu vì nguyên nhân gì, con bạch tượng này đã bỏ
vào rừng, biệt tăm tung tích từ đó.
Trong cuộc đời của mình, vua Bảo Đại có khá nhiều phụ nữ gần gũi.
Nhưng bắn duyên nhiều nhất với ông có lẽ là Mộng Điệp, Phi Ánh và Ra Ni.
Nguyễn Đức Hòa được vua yêu quý nên được giao nhiều việc, ngay cả chuyện
chuẩn bị giường gối cho vua nghỉ ngơi. Khi ông lấy vợ, đã được Bảo Đại cho
2.000 đồng (lúc đó là một khoản tiền khá lớn) và một mảnh đất nhỏ nằm sát bên
Dinh 3.
Cuộc đời ông không chỉ trải qua thời kỳ phục vụ cho vua Bảo Đại. Khi
Dinh 3 được tiếp quản bởi Ngô Đình Diệm, Dương Văn Minh, Nguyễn Văn
Thiệu rồi đến khi đất nước thống nhất vào năm 1975, ông vẫn luôn được giữ lại
làm việc cho mãi tới giờ. Ông cũng chính là người cất giữ và trao 2 két sắt đựng
nhiều vật quý, châu báu ngọc ngà của thái hậu Từ Cung cho chính quyền ở Lâm
Đồng sau này.
Tận tụy với công việc
Năm nay ông bước qua tuổi 83, dù lưng còng, gối mỏi nhưng hàng
ngày ông vẫn gắn bó với công việc quen thuộc mà hơn 70 năm mình đã làm.
Những năm gần đây, do tuổi cao, sức yếu ông không được tinh nhạy như trước.
Công việc giới thiệu cho du khách đành phải nhường lại cho con cháu. Nhưng
trong thâm tâm ông vẫn chưa yên tâm, nên hễ có thời gian, ông lại tường tận kể
cho con cháu nghe về những sự việc từng diễn ra ở Dinh 3 để không bị mai một
dần. Mỗi buổi sáng, ông lại cặm cụi lê bước qua những quả đồi để lên dinh làm
việc. Do phải đi lên đi xuống, leo các bậc thang để lau chùi, cắm hoa trong một
thời gian dài, nên 2 khớp gối của ông giờ sưng vù đau nhức. Nhưng khi hỏi ông
sao không nghỉ ngơi ở nhà với con cháu cho khỏe, ông bảo: “Còn sống thì còn
phải lao động, mà tôi nghỉ thì lấy ai chăm nom cái dinh này. Mấy cháu nhân
viên làm việc ở đây rất chăm chỉ nhưng tôi cũng chưa yên tâm lắm, có nhiều cái
phải hướng dẫn”.
Mỗi tháng, ông chỉ nhận hơn triệu đồng tiền lương, nhưng với ông như
thế là hạnh phúc lắm rồi. Số tiền đó để chi tiêu trong gia đình, còn bao nhiêu
ông dành dụm phòng khi trái gió, trở trời. Ông cảm thấy cuộc sống thật ý nghĩa
khi được lao động, được mọi người nể trọng, quý mến. Gặp ai trong dinh khi
hỏi về ông cũng được gọi với cái tên trìu mến “bác Hòa”. Anh Hà Văn An, một
người chuyên chụp ảnh cho du khách trong Dinh 3 tâm sự: “Dù tuổi già sức
yếu, nhưng ngày nào cũng thấy bác lên đây chăm chỉ làm việc, cả đời “gắn
duyên” với nơi này. Bác điềm đạm và rất vui vẻ, hòa nhã với mọi người nên ai
cũng quý trọng”.
Thời gian qua đi, người hầu cận ấy đã gắn với Dinh 3 gần 70 năm
nhưng ông chưa bao giờ tự thỏa mãn với cách phục vụ của mình. Ông tâm
niệm: “Dù làm bất cứ nghề gì đi nữa thì cái quan trọng là phải đam mê và trung
thực, có như thế mới làm tốt công việc và sống vui khỏe được”.
Trong không khí mát mẻ của những ngày cuối tháng 5, du khách thập
phương đổ về Đà Lạt như càng đông hơn. Nơi Dinh 3 rêu phong, trầm mặc ông
lão Nguyễn Đức Hòa vẫn cần mẫn làm những công việc thầm lặng, cống hiến
cho đời chút sức lực cuối cùng. Ông vui và hạnh phúc vì được làm như thế.
Triều Dương
_____________________
Ngai vàng trong ngôi dinh thự số 3 của cựu hoàng Bảo Đại ở Đà Lạt.
Dinh thự số 3 của cựu hoàng Bảo Đại ở Đà Lạt.
Dinh III là tên gọi để chỉ biệt điện của vua Bảo Đại. Sau khi người
Pháp đưa Bảo Đại trở lại nắm quyền, đến 1950, nơi đây được gọi là biệt điện
quốc trưởng.
Công trình được xây dựng trong khoảng từ năm 1933 đến năm 1938,
do một kiến trúc sư người Pháp và kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát thiết kế. Dinh
III được đánh giá là dinh thự đẹp đẽ và trang nhã nằm giữa một rừng thông
thuần chủng, gắn liền với các tiểu cảnh kiến trúc công viên, vườn Thượng Uyển,
rừng Ái Ân và một hồ nước nhỏ hòa quyện vào nhau một cách rất hợp lý và thơ
mộng.
Toàn bộ tầng hai ngôi biệt điện được dùng cho sinh hoạt gia đình, gồm
các phòng sinh hoạt, các phòng ngủ của vua Bảo Đại, hoàng hậu Nam Phương,
các công chúa và hoàng tử. Từ phòng ngủ của vua Bảo Đại có một cửa ra sân
thượng còn gọi là Vọng Nguyệt Lầu.
(Theo Vietnamnet)
_____________________
Trong gần sáu mươi năm qua, kể từ khi Triều Nguyễn chấm dứt vào
năm 1945 đến nay, có rất nhiều người viết về cựu hoàng Bảo Đại, vị vua cuối
cùng của nhà Nguyễn. Nhưng rất ít người nhắc đến bà Hoàng hậu cuối cùng, tức
Nam Phương hoàng hậu. Có chăng thì cũng chỉ nhắc đến một vài chi tiết viết
chung trong tài liệu nói về vua Bảo Đại. Hoặc nói cho đúng thì chưa có ai viết
một tài liệu riêng về Hoàng hậu Nam Phương. Do đó nên cũng rất ít người biết
đến một bà Hoàng hậu mà trong thời gian giữ ngôi vị mẫu nghi thiên hạ đã có
nhiều đóng góp cho Hoàng tộc Nguyễn Phước và cho xã hội lúc bấy giờ.
Để tưởng nhớ đến một người đàn bà tài sắc, đức hạnh và mẫu mực, đã
từng là đệ nhất phu nhân của nước Việt nam suốt mười một năm, tôi xin ghi lại
đôi điều về Nam Phương hoàng hậu mà tôi đã tham khảo theo tài liệu của người
bí thư của bà, ông Nguyễn Tiến Lãng, con rể của cố học giả Phạm Quỳnh và
một số tài liệu khác thu thập trong cuốn hồi ký của cựu hoàng Bảo Đại và của
hai sử gia Pháp là Jean Renaud và Daniel Grandclément như dưới đây:
Nam Phương Hoàng Hậu, khuê danh Nguyễn Hữu Thị Lan hay là
Marie Thérèse, sinh năm 1914 tại Gò Công Nam phần, con của đại điền chủ
Nguyễn Hữu Hào và là cháu ngoại của ông Lê Phát Đạt, tức huyện Sỹ, một
trong những người giàu có nhất miền Nam, có thể sánh ngang hàng với gia đình
Bạch công tử ở Bặc Liêu. Ông huyện Sỹ là người đã bỏ tiền ra xây cất ngôi
thánh đường nguy nga ở cuối đường Võ Tánh Sài gòn thường được gọi là nhà
thờ huyện Sỹ mà đến nay vẫn còn tồn tại.
Năm 1926, Nguyễn Hữu Thị Lan, 12 tuổi, được gia đình cho sang Pháp
tòng học tại trường Couvent des Oiseaux, một trường nữ danh tiếng thuộc loại
nhà giàu ở Paris do các nữ tu điều hành. Sau khi thi đậu Tú tài vào năm 1932,
cô gái miền Nam theo chuyến tàu của hãng Messagerie Maritime trở về nước.
Tình cờ trên chiếc tàu nầy có ông vua Việt nam hồi loan sau khi hoàn tất việc
học, đó là vua Bảo Đại mà hồi đó giới sinh viên ở Pháp thường gọi một cách
thân mật là Prince Vĩnh Thụy.
Tuy cùng trên một chiếc tàu bồng bềnh giửa đại dương một thời gian
khá lâu nhưng Nguyễn Hữu Thị Lan chưa có cơ hội làm quen với vị Vua trẻ
tuổi. Mãi cho đến gần một năm sau, nhân dịp vua Bảo Đại nghỉ mát tại Đà Lạt
và do sự sắp đặt của Toàn quyền Đông Dương, viên Đốc Lý (tức Thị Trưởng
sau nầy) thành phố Đà Lạt tổ chức một buổi dạ tiệc tại khách sạn Palace (sau
gọi làkhách sạn Langbian) để tìm cách cho hai người gặp nhau. Tối hôm đó,
trong chiếc áo lụa màu thiên thanh, Nguyễn Hữu Thị Lan đã xuất hiện trước
Hoàng đế Bảo Đại để rồi chiếm gọn trái tim của một người có địa vị cao nhất
nước.
Tưởng cũng nên nói thêm là trước đây có nhiều nguồn tin nói rằng vua
Bảo Đại đã gặp Marie Thérèse trên chuyến tàu thủy từ Pháp về Việt nam, nhưng
căn cứ vào hồi ký của vua Bảo Đại và tiết lộ của Hoàng hậu Nam Phương được
chúng tôi trích dẫn dưới đây thì hai người đã gặp nhau trong một hoàn cảnh
khác.
Nhờ tòng học ở một trường thuộc nhà Dòng, được các nữ tu chỉ dạy các
lễ nghi Tây phương đối với Vua Chúa nên tối hôm đó, lúc vừa diện kiến vua
Bảo Đại, Nguyễn Hữu Thị Lan đã quỳ một gối và cúi đầu sát mặt đất để tỏ lòng
tôn kính nhà Vua. Lẽ tất nhiên, một vị vua trẻ tuổi và hào hoa như vua Bảo Đại
thì làm sao ông có thể không xiêu lòng trước sắc đẹp mỹ miều của Nguyễn Hữu
Thị Lan. Và chuyện sẽ đến đã đến: đám cưới của vị thiếu quân hào hoa với một
nữ lưu tràn trề hương sắc miền Nam đã diễn ra tại Huế ngày 20-3-1934. Ngay
ngày hôm đó Nguyễn Hửu Thị Lan được tấn phong làm Hoàng hậu với danh
hiệu Nam Phương. Sự kiện Nguyễn Hữu Thị Lan được tấn phong Hoàng hậu
ngay sau khi cưới là một biệt lệ đối với các bà vợ Vua thuộc triều Nguyễn. Vì
mười hai đời vua Nguyễn trước kia, các bà vợ Vua chỉ được phong tước Vương
phi, đến khi chết mới được truy phong Hoàng hậu.
Nhắc đến cuộc nhân duyên với Hoàng hậu Nam Phương, cựu hoàng
Bảo Đại đã ghi lại trong cuốn Con rồng Việt nam:
“Sau lần hội ngộ đầu tiên ấy, thỉnh thoảng chúng tôi lại gặp nhau để
trao đổi tâm tình. Marie Thérèse thường nhắc đến những kỷ niệm ở trường
Couvent des Oiseaux một cách thích thú. Cũng như tôi, Marie Thérèse rất thích
thể thao và âm nhạc. Cô ta có vẻ đẹp dịu dàng của người miền Nam pha một
chút Tây phương. Do vậy mà tôi đã chọn từ kép Nam Phương để đặt danh hiệu
cho nàng. Các vị Tiên Đế của tôi cũng thường hướng về người đàn bà miền
Nam. Nếu tôi nhớ không sai thì trước Hoàng hậu Nam Phương, có đến bảy phụ
nữ miền Nam đã từng là chủ nhân của Hoàng thành Huế. Khi chọn phụ nữ miền
Nam làm vợ, hình như ứ các Tiên Đế và tôi đều nghĩ rằng trước kia đức Thế Tổ
Cao Hoàng (tức vua Gia Long) đã được nhân dân miền Nam yểm trợ trong việc
khôi phục giang sơn. Chính đó là sự ràng buộc tình cảm giữa Hoàng triều Huế
với người dân miền Nam”.
Về phần Hoàng hậu Nam Phương, bà đã nhắc lại “cái thuở ban đầu lưu
luyến ấy” như sau:
“Hôm đó ông Darle, Đốc Lý thành phố Đà Lạt gởi giấy mời cậu Lê
Phát An tôi (Lê Phát An là anh ruột bà Nguyễn Hữu Hào) và tôi đếnù dự dạ tiệc
ở Hotel Palace. Tôi không muốn đi nhưng cậu An tôi năn nỉ và hứa với tôi là chỉ
đến tham dự một chút và vái chào nhà Vua xong là về nên tôi phải đi một cách
miễn cưỡng và tôi cũng chỉ trang điểm sơ sài thôi. Chúng tôi đến trễ nên buổi
tiệc đã bắt đầu từ lâu. Cậu tôi kéo ghế định ngồiõ ngoài hiên thì ông Darle trông
thấy, ông ta chạy đến chào chúng tôi rồi nắm tay cậu tôi kéo chúng tôi vô nhà.
Vừa đi ông vừa nói: “Ông và cô phải đến bái yết Hoàng thượng mới được”. Khi
cánh cửa phòng khách vừa mở, tôi thấy vua Bảo Đại ngồi trên chiếc ghế bành
chính giữa nhà. Ông Darle bước tới bên cạnh Vua rồi nghiêng mình cúi chào và
kính cẩn nói:
-Votre Majesté, Monsieur Lê Phát An et sa nièce, Mademoiselle Marie
Thérèse. (Tâu Hoàng thượng, đây là ông Lê Phát An và người cháu gái, cô
Marie Thérèse)
Nhờ các nữ tu ở trường Couvent des Oiseaux từng chỉ dạy nên tôi biết
phải làm gì để tỏ lòng tôn kính đối với bậc Quân Vương, vì vậy tôi đã không
ngần ngại đến trước mặt Hoàng đế, qùy một gối và cúi đầu sát nền nhà cho đến
khi thấy bàn tay cậu tôi kéo tôi dậy tôi mới đứng lên. Vua gật đầu chào tôi đúng
lúc tiếng nhạc vừa trổi theo nhịp điệu Tango, Ngài ngỏ lời mời và dìu tôi ra sàn
nhảy rồi chúng tôi bắt đầu nói chuyện.
Về sau, khi đã trở thành vợ chồng, Ngài mới cho tôi biết hôm đó Ngài
rất chú ý cách phục sức đơn sơ của tôi. Tôi nghĩ rằng tôi được nhà Vua lưu ý
một phần do trong suốt buổi dạ tiệc chỉ có tôi là người đàn bà Việt nam duy
nhất nói tiếng Pháp và theo đúng cung cách lễ nghi Âu tây đối với Ngài”.
Sau lễ cưới, vua Bảo Đại cùng hoàng hậu Nam Phương dọn về ở tại
điện Kiến Trung thuộc khu vực cấm thành. Điện nầy xây cất từ thời vua Khải
Định nhưng được sửa chữa và tân trang các tiện nghi Tây phương vào đầu triều
vua Bảo Đại.
Tại điện Kiến Trung, Hoàng hậu Nam Phương đã lần lượt hạ sinh 5
người con gồm có:
- Thái tử Bảo Long, sinh ngày 4-1-1936
- Công chúa Phương Mai, sinh ngày 1-8-1937
- Công chúa Phương Liên, sinh ngày 3-11-1938
- Công chúa Phương Dung, sinh ngày 5-2-1942
- Hoàng tử Bảo Thắng, sinh ngày 9-12-1943
Thường ngày, ngoài việc chăm sóc dạy dỗ con cái, thỉnh thoảng hoàng
hậu Nam Phương phải cùng các quan ở Bộ Lễ bàn thảo các lễ lạc trong cung
đình, lo việc cúng giỗ các Tiên đế và đi vấn an sức khỏe các bà Tiên cung và
Hoàng thái hậu Từ Cung, tức mẹ vua Bảo Đại. Tóm lại, bà rất chu toàn bổn
phận làm dâu.
Ngoài việc quản trị nội cung như đã nói trên đây, hoàng hậu Nam
Phương còn tham gia các việc xã hội và từ thiện. Như đi thăm trường nữ Trung
học Đồng Khánh ở đường Jules Ferry (tức Lê Lợi sau nầy), bà thường tiếp xúc
với các Giáo sư, nhắc nhở họ cố gắng làm tròn thiên chức của một nhà mô
phạm; đi thăm Nữ Công Học Hội ở đường Khải Định (tức đường Nguyển Huệ
ngày nay). Theo lời nử sĩ Đạm Phương sau nầy kể lại thì có lần Hoàng hậu Nam
Phương bảo bà làm đơn xin phép Bộ Giáo Dục đem môn nữ công gia chánh vào
học đường. Hàng năm bà đều tham dự các buổi phát giải thưởng cho các học
sinh giỏi tổ chức tại trung tâm Accueil gần nhà dòng Cứu Thế.
Ngày nay, không ai còn lạ lùng khi trông thấy quý vị đệ nhất phu nhân
xuất hiện nơi công cọng để giúp chồng trong việc ngoại giao, nhưng cách đây
sáu mươi năm, Hoàng hậu Nam Phương giúp vua Bảo Đại trong việc tiếp kiến
các nhà ngoại giao là một điều quý hiếm. Vào thời đó, nhiều người ở kinh đô
Huế đều biết trong những lần vua Bảo Đại tiếp đón các quốc khách như Thống
Chế Tưởng Giới Thạch của Đài Loan, Quốc Vương Soupha Vangvong Lào
quốc hoặc Quốc vương Sihanouk của Cao Mên v. v... đều có sự hiện diện của
hoàng hậu Nam Phương. Lần vua Bảo Đại tự mình lái xe hơi đi thăm Nam
Vang cũng có mặt Hoàng hậu tháp tùng.
Chi tiết đáng kể nhất là việc Hoàng hậu Nam Phương đã đem lại hòa
khí giữa các chức sắc đạo Thiên Chúa ở Việt nam với Hoàng tộc nhà Nguyễn.
Vì như chúng ta đã biết, đạo Thiên Chúa với các vị vua triều Nguyễn vốn có
những căng thẳng lịch sử thì Nam Phương hoàng hậu, như một làn gió mát, đã
thoa dịu sự căng thẳng lịch sử tưởng chừng như không bao giờ thay đổi.
Nhân đây, tưởng cũng nên nhắc lại một hành động chứng tỏ lòng thiết
tha với quê hương đất nước của Hoàng hậu Nam Phương mà chúng tôi mới tìm
thấy trong tài liệu của sử gia Pháp Jean Renaud do nhà xuất bản Guy Boussac
ấn hành năm 1949:
Số là sau khi quân Pháp dựa vào thế lực của quân Anh quốc để gây hấn
ở miền Nam với ý đồ tái chiếm thuộc địa Việt nam. (Xin lưu ý bạn đọc lúc cuộc
chiến khởi đầu tại Nam phần là thuần túy giửa thực dân Pháp một bên và một
bên là người Việt nam chống lại sự đô hộ của người Pháp, không giống thực
chất cuộc chiến Quốc Cộng sau nầy). Lúc đó vua Bảo Đại đã từ chức, bà Nam
Phương đang ở tại An Định cung bên bờ sông An Cựu. Đau lòng trước thảm
cảnh mà đồng bào miền Nam, quê hương của bà đang trực tiếp gánh chịu, cựu
hoàng hậu Nam Phương đã gởi một Thông điệp (Message) cho bạn bè ở Aõu
châu yêu cầu họ lên tiếng tố cáo hành động xâm lăng của thực dân Pháp với lời
lẽ như sau:
“Kể từ tháng 3 năm 1945, nước Việt nam đã thoát khỏi sự đô hộ của
người Pháp nhưng vì lòng tham của một thiểu số thực dân Pháp với sự tiếp tay
của quân đội Hoàng gia Anh nên hiện nay máu của nhân dân Việt nam lại tiếp
tục chảy trên mãnh đất vốn đã có quá nhiều đau khổ. Hành động nầy của thực
dân Pháp là trái với chủ trương của Đồng Minh mà nước Pháp lại là một thành
viên. Vậy tôi tha thiết yêu cầu những ai đã từng đau khổ vì chiến tranh hãy bày
tỏ thái độ và hành động để giúp chúng tôi chấm dứt chiến tranh đang ngày đêm
tàn phá đất nước tôi.
Thay mặt cho hàng chục triệu phụ nữ Việt nam, tôi thỉnh cầu tất cả bạn
bè của tôi và bạn bè của nước Việt nam hãy bênh vực cho tự do. Xin các chính
phủ của khối tự do sớm can thiệp để kiến tạo một nền hòa bình công minh và
chân chính và xin quý vị nhận nơi đây lòng biết ơn sâu xa của tất cả đồng bào
của chúng tôi”.
Ký tên:
Bà Vĩnh Thụy
(tức Hoàng hậu Nam Phương)
Trong một dịp tiếp xúc riêng tư, một người Việt nam trong ngành ngoại
giao trước năm 1975 hiện ở Pháp nói với chúng tôi rằng bức thông điệp trên đây
đã được bàứ Nam Phương gởi đến Tổng Thống Truman của Hiệp Chủng Quốc
vào đầu năm 1946 để nhờ can thiệp. Tuy nhiên, đối với một tin tức có tính cách
lịch sử nhưng vì không được tận mắt nhìn thấy trên giấy trắng mực đen nên tôi
xin ghi lạiự nơi đây với tất cả sự dè dặt thường lệ.
Bà Hoàng hậu cuối cùng của triều Nguyễn đã trút hơi thở cuối cùng tại
làng Chabrignac, một vùng quê thuộc miền Bắc nước Pháp theo như lời thuật lại
sau đây:
Ngày 14 tháng 9 năm 1963, vào khoảng 5 giờ chiều, cựu hoàng hậu
Nam Phương cảm thấy mệt bèn cho người nhà đi mời Bác sỹ đến thăm mạch.
Sau khi chẩn khám, Bác sĩ cho biết bà bị viêm họng nhẹ, chỉ uống thuốc vài
hôm là khỏi. Nhưng không dè, Bác sĩ vừa rời khỏi nhà chừng vài tiếng đồng hồ
thì bà cảm thấy khó thở. Ngươiứ nhà bèn nhờ một người Pháp hàng xóm đi mời
một Bác sĩ khác, nhưng người Bác sĩ thứ hai chưa đến kịp thì cựu hoàng hậu
Nam Phương đã êm ái lìa đời ngay trong đêm đó khi vừa tròn 49 tuổi. Ngoài hai
người giúp việc trong nhà, không có một người ruột thịt nào có mặt bên cạnh bà
trong giờ phút lâm chung, vì các con bà đều ở tận Paris để làm việc và đi học.
Đám tang của bà Hoàng hậu Viêt Nam lưu vong được tổ chức một cách
sơ sài lặng lẽ như những năm tháng cuối đời của bà. Hôm đưa đám, ngoài hai
Hoàng tử và ba Công chúa đi bên cạnh quan tài của mẹ không có một người bà
con nào khác. Về phía quan chức Pháp thì chỉ có ông quan đầu Tỉnh Brive la
Gaillarde và ông Xã Trưởng Chabrignac.
Trong suốt thời gian tang lễ cựu hoàng Bảo Đại cũng không có mặt mà
sau nầy, kẻ viết bài nầy trong thời gian ở Pháp được nghe kể lại thì khi hay tin
mẹ chết, công chúa Phương Liên tức tốc đánh điện tín báo tin cho cựu hoàng
nhưng gặp lúc cựu hoàng vắng nhà vì bận đi chơi xa với bà Mộng Điệp, vì vậy
mà cựu hoàng Bảo Đại không hay biết gì nên đã vắng mặt trong ngày đám tang
của một người mà có thời đã cùng ông đầu ấp tay gối. Sự kiện đó đã gây sự hiểu
lầm khiến về sau các Hoàng tử và Công chúa đã ôm lòng oán hận người cha mà
họ nghĩ là một người chồng không trọn nghĩa thủy chung!
Trong lần trở lại Pháp vào tháng 4 năm 1999, do đề nghị của một người
bạn thường giao thiệp với Hoàng tử Bảo Long, từ Paris tôi theo người bạn đi về
làng Chabrignac, cách tỉnh Brive la Gaillarde ba mươi cây số để viếng mộ
Hoàng Hậu Nam Phương.
Gió chiều nghĩa trang lồng lộng thổi, trước mắt tôi là một ngôi mộ đơn
sơ với tấm bia đá hai mặt ghi hai hàng chữ bằng hai thứ tiếng khác nhau, mặt
trước viết chữ Hán, mặt sau viết chữ Pháp như dưới đây:
Bia chữ Hán: ĐạI NAM NAM PHƯƠNG HOàNG HậU CHI Mộ, có
nghĩa là:
“Mộ phần của bà Hoàng hậu nước Đại Nam là Nam Phương”.
Bia chữ Pháp: ICI REPOSE L'IMPÉRATRICE D'ANNAM NÉE
MARIE THÉRÈSE NGUYEN HUU THI LAN, có nghĩa là: “Đây là nơi an nghỉ
của bà Hoàng hậu Việt nam tên là Marie Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan”.
Tôi lặng nhìn ngôi mộ với những cành hoa đã úa vàng lăn lóc đó đây,
lòng bồi hồi nhớ lại hơn năm mươi năm trước, từ nhà tôi đi dọc theo bờ sông An
Cựu, mỗi khi đi ngang cung An Định tôi ngẩng nhìn lên bao lơn, nhiều lần tôi
bắt gặp Hoàng hậu Nam phương đang tựa lưng vào tường, mắt đăm đăm nhìn
đám lục bình trôi lờ lững giữa giòng sông. Tự nhiên lòng tôi se lại, thương tiếc
bà Hoàng hậu của kinh đô Huế thuở nào và buồn cho chính thân tôi, một thời
thơ ấu nay đã đi qua! Thuở ấy, có một đôi lần tôi đứng xếp hàng trong hàng ngủ
học sinh Tiểu học để đón chào Hoàng hậu. Chúng tôi, với nét mặt rạng rở tay
cầm cờ vàng phất lia lịa mỗi khi Hoàng hậu xuất hiện và hướng mắt về phía
đám nhóc con Tiểu học. Than ôi! Ngày ấy nay còn đâu?
Tôi kính dâng lên hương linh Hoàng hậu Nam Phương những hàng chữ
thô thiển nầy và xin Hoàng hậu chứng giám cho lòng kính trọng vô vàn của
người viết khi ghi lại những chi tiết về cuộc đời trong sáng của bà.
Tháng 9 năm 2000. Kỷ niệm 37 năm ngày mất của Hoàng hậu Nam
Phương
Tôn Thất An Cựu
Tài liệu tham khảo:
- La Famille d'Annam của Nguyễn Tiến Lãng
- Le Dragon d'Annam của Bảo Đại
- Souverains et Notabilités củaJean Renaud
- Les Derniers Jours De L'Empire d'Annam của Daniel Grandclément
______________________________
Nam Phương(4)
Cách mạng Tháng Tám thành công, vua Bảo Đại thoái vị, hoàng hậu
Nam Phương sang Pháp sinh sống. Tuy giàu có, nhưng bà sống thiếu hạnh phúc
và chết trong cô đơn nơi đất khách năm 1963, khi mới 49 tuổi.
Vĩnh Thụy (sinh năm 1913) khi
mới 8 tuổi đã trở thành Đông cung Hoàng
thái tử, được Pasquier (nhiều năm làm
Khâm sứ Trung Kỳ và Toàn quyền Đông
Dương) đưa về Paris, giao cho Charles
nuôi dưỡng. Sau 11 năm du học bên
Pháp, Vĩnh Thụy trở lại quê nhà (trên
chuyến tàu thủy chở khách bình thường)
lên ngôi Hoàng đế Bảo Đại, ở tuổi 19. Vợ
chồng Charles cũng về theo.
Trên chuyến tàu này, có một nữ
khách người Việt, cô Mariette Jeanne
Nguyễn Hữu Thị Lan xinh đẹp, năm ấy
vừa tròn 18 tuổi. Cô sinh năm 1914 tại
Sài Gòn, con ông Nguyễn Hữu Hào và bà
Lê Thị Bính, cháu ngoại ông huyện Sĩ ở
Nam Kỳ, một trong bốn người giàu nhất
nước Việt Nam những năm đầu của thế
Nam Phương hoàng hậu
kỷ 20, một gia đình theo đạo Thiên Chúa,
quốc tịch Pháp.
Năm 14 tuổi, cô được gia đình gửi sang Pháp, học trường dòng
Couvent des Oiseaux ở Paris, cũng trở về nước chuyến này khi vừa học xong.
Và lần đầu cô trông thấy Vĩnh Thụy ở phòng ăn trên tàu.
Năm sau, dưới sự đạo diễn của người Pháp, Vĩnh Thụy và cô Lan hội
ngộ. Họ bố trí cho Vĩnh Thụy và Toàn quyền Pasquier đến nghỉ mát ở núi Lâm
Viên Đà Lạt. Darles, đốc lý, được giao nhiệm vụ tổ chức một buổi tiệc trà với lý
do họp mặt giữa người Pháp và một số thân hào nổi tiếng ở miền Nam đang làm
ăn tại cao nguyên này.
Hai mẹ con cô Lan và anh ruột bà Nguyễn Hữu Hào, ông Denis Lê
Phát An, từ Sài Gòn lên đây nghỉ mát từ vài hôm trước, cũng được gửi thiếp
mời tới dự tiệc trà. Nể lời cậu, cô Lan đi dự nhưng không trang điểm, chỉ mặc
áo dài bằng lụa đen mua bên Pháp. Trong buổi tiệc ấy, khi ông Darles đưa "ông
cậu và cô cháu gái" đến giới thiệu, Hoàng đế đã bị chinh phục, nhìn cô không
chớp mắt.
Sau bữa tiệc, Vĩnh Thụy trở lại Huế bẩm với bà Hoàng Thái hậu từ
cung Hoàng Thị Cúc về chuyện gặp cô Lan và những dự định sẽ làm. Bà Cúc tỏ
ra lo lắng, nét mặt u buồn, bởi cô Lan đi đạo, lớn lên ở châu Âu, không phải
sống trong khuôn phép lễ giáo Việt Nam. Lại còn chuyện giáo dục con cái về
tôn giáo, khi chúng lớn lên, được phong Hoàng Thái tử thì làm sao cử hành
được việc thờ cúng liệt thánh hay lễ tế đàn Nam Giao? Không phải chỉ trong
hoàng tộc và đình thần, cả trong dân chúng đều lo lắng, bàn tán xôn xao.
Vĩnh Thụy vẫn bất chấp, hôn lễ được cử hành vào ngày 20/3/1934,
trước sự hiện diện của đình thần và đại diện nước Pháp, tại điện Cần Chánh.
Triều đình đứng thành hàng dọc theo tấm thảm hai màu vàng, đỏ dành riêng cho
hoàng đế. Lần đầu tiên trong lịch sử nhà Nguyễn, có một phụ nữ xuất hiện giữa
triều đình.
Bà Nam Phương, tên trị vì do Bảo Đại đặt, có nghĩa “Người con gái
phương Nam”, mặc áo thụng, chân đi hài mũi cong, đầu đội vương miện đính 9
con phượng bằng vàng thật và nhiều ngọc châu óng ánh. Bà đi đến giữa tấm
thảm, cả triều đình vái chào. Với một vẻ đẹp lộng lẫy, bà đi thẳng vào phòng
lớn giữa lúc nhà vua đang ngồi trên ngai thấp ở đó. Hôn lễ ngắn gọn, đơn giản.
Hoàng đế và hoàng hậu sánh vai bước đi trong tiếng nhạc mừng qua Tử Cấm
Thành vào điện Kiến Trung, nơi ở và làm việc chính.
Sau này, họ có với nhau 5 người con: 2 hoàng tử và 3 công chúa.
Cuộc sống xa xứ
Cách mạng Tháng Tám thành công, Bảo Đại thoái vị cùng gia đình rời
khỏi Đại Nội, tới ở cung An Định, bên bờ sông An Cựu. Thời gian sau, trong
bối cảnh nhà Nguyễn đã suy vong, bà Nam Phương sang Pháp sống những năm
tháng cuối đời.
Bà chọn Chabrignac, một làng quê trải dài trên vùng đồi có những mái
nhà xám. Trên khu đất rộng 160 mẫu, bà xây một biệt thự bằng đá cẩm thạch ở
giữa đồi, nuôi một đàn bò sữa ngót trăm con. Giữa đất khách, bà sống ẩn dật
trong yên tĩnh với một tài sản chẳng ai bằng. Ngoài 2 chung cư lớn ở Neuilly và
đại lộ Opéra (Paris), bà còn sở hữu nhiều nhà đất ở các nước Maroc, Congo,
cùng nhiều ngọc ngà, châu báu.
Dân làng Chabrignac kể rằng, bà Nam Phương giàu có, nhưng sống
thiếu hạnh phúc. Bao nhiêu năm chỉ thấy cựu hoàng Bảo Đại về thăm Hoàng
hậu mấy lần, lần được nhớ nhất là vào dịp lễ cưới của Phương Liên kết hôn với
chàng trai Bordelais. Buồn nản vì tình cảm của mình, bà Nam Phương chỉ sống
âm thầm trong ngôi nhà vắng vẻ. Họa hoằn bà mới về thăm Paris vài ngày. Có
lẽ vui nhất là dịp nghỉ hè, các con mới có dịp về thăm bà.
Một lần, sau chuyến đi chơi về, bà thấy đau cổ. Bác sĩ tới thăm bệnh,
nói bà bị viêm họng nhẹ. Không ngờ sau đó, bà bị khó thở. Ông quản gia và
mấy cô giúp việc vội chạy đi tìm bác sĩ khác ở làng bên, cách mươi cây số.
Nhưng bà càng khó thở hơn và trái tim bà đã ngừng đập ở tuổi 49. Đó là ngày
14/9/1963.
Trong giờ phút lâm chung, ngoài những người giúp việc, bên cạnh bà
không có một người thân. Đến viếng bà là những người có mối quan hệ gần gũi
như công chúa Như Lý, con gái Vua Hàm Nghi, và vài viên chức thuở xưa làm
việc với cựu hoàng Bảo Đại, ông tỉnh trưởng Pháp cùng mấy vị dân biểu. Báo
chí Việt Nam tới hàng chục năm sau vẫn không biết hoàng hậu cuối cùng của
triều Nguyễn mất bao giờ.
Đám tang bà hoàng hậu thưa thớt, vắng vẻ, không tiếng khóc than,
không lời ai điếu. Nấm mộ đơn sơ đặt trong nghĩa trang của nhà thờ ngay tại
Chabrignac, kém cả những ngôi mộ xây đủ hình khối ở ngay bên cạnh.
Người tới thăm viếng có thể nhìn tấm bia, mặt trước ghi mấy dòng
tiếng Pháp: “Ici, repose l'impéreatrice d'Annam née Jeanne Mariette Nguyễn
Hữu Thị Lan”. (Đây là nơi an nghỉ của bà Hoàng hậu Việt Nam tên là Jeanne
Mariette Nguyễn Hữu Thị Lan). Mặt sau tấm bia khắc dòng chữ Hán: “Đại Nam
Nam Phương Hoàng hậu chi mộ” (mộ phần bà Hoàng hậu Nam Phương của
nước Đại Nam).
______________________
Nam Phương Hoàng Hậu (5)
Nguyễn Văn Lục
Câu chuyện một con tem
Cách đây hơn nửa thế kỷ, đúng ra là vào
khoảng những năm 1943-1946 gì đó, tôi đang chỉ
là một chú bé nhà quê. Thế giới chung quanh tôi
chỉ có mẹ và mấy chị. Nhưng không nhớ bằng
cách nào, tôi được nhìn thấy hình Hoàng Hậu Nam
Phương trên mấy con tem . Chỉ bằng mấy con tem
đủ ấp ủ hình ảnh người phụ nữ hiền lành, phúc hậu
đến cả đời. Hình ảnh con tem đó cứ như thế giữ
mãi trong lòng, trong ký ức chả quên được. Con tem nhỏ xíu hình một người
phụ nữ, chít khăn vàng, áo dài. Quá nhỏ để nhận ra chân dung người đó, cũng
quá nhỏ để biết được con người. Vậy mà hình ảnh đó có sức thu hút, đeo đuổi
mãi cho đến bây giờ. Ký vãng sự việc thì có thể quên. Nhưng dấu ấn tình cảm,
niềm kính trọng người phụ nữ đó thì không. Hình ảnh qua con tem nhỏ bé toả ra
sự uy nghiêm, trang trọng, quý phái, nhưng dung dị hiền từ. Dôi mắt có vẻ
buồn, Sốn mũi cao. Đẹp không chê vào đâu được. Vẻ đẹp kín đáo, nhưng có sức
thu hút khó quên được. Hỏi nhiều người cỡ tuổi tôi cũng đều nhận như thế.
Nhưng nó lại không có cái nét kiêu kỳ hãnh tiến như những người sang trọng
giầu có. Nhất là con mắt có cái nhìn thẳng thắn, đầy độ lượng. Nhiều người sau
này nhìn ảnh Hoàng Hậu sau cũng phải nhận một điều: Hoàng Hậu có nét uy
nghi, đoan trang và phúc hậu. Chỉ tội buồn.
Sao Hoàng Hậu lại buồn thế..
Xin dẫn một chứng từ của một cô nữ sinh
thời 1937-1941 nhắc lại kỷ niệm gặp gỡ Hoàng
Hậu Nam Phương, viết trong tập san Dồng Khánh :
Hànội, mái trường thân yêu. Dược sĩ Nguyễn thị
Huyền, vửa mất năm ngoái đã viết lại cảm tuởng
của mình như sau :* Ngày Bà Nam Phương đến
thăm lớp, cô Thục Viên, giáo sư Pháp Văn vẫn
đứng trên bục giảng chìa tay đứng bắt tay Hoàng
Hậu và từ tốn trả lời các câu hỏi của Hoàng Hậu,
không hề mất chủ động. Trong khi đó Nguyễn tiến
Lãng, người đi cùng Hoàng Hậu muốn tâu gửi gì
với Hoàng Hậu đều quỳ xuống đất. Cô xin phép tiếp tục giảng. Hoàng Hậu dự
giảng và sau đó cho gọi học sinh giỏi Văn lớp là chị Nguyễn thị Thứ lên thưởng
cho một bức ảnh do Hoàng Hậu ký tên. Thái độ đường hoàng của cô đã gây cho
chúng tôi một niềm tự hào chính đáng, trong lúc ấy chúng tôi cũng thích vẻ đẹp
dịu dàng Dông Phương và thái độ bình tĩnh không có vẻ gì hách dịch của Nam
Phương Hoàng Hậu*. Một trong những học trò có mặt bữa hôm ấy là cô Ngô thị
Ngà, nguyên giáo sư Trưng Vương đã cho biết cảm tưởng : Mê cái vẻ đẹp dịu
dàng của Hoàng Hậu và vì thế sau này cô đặt tên cho một cô con gái là Thu
Phương, tức Hương mùa thu nhắc nhớ đến tên Hoàng Hậu Nam Phương, hương
miền Nam.
Hôm nay ngồi viết lại một chút cuộc đời Bà mà hình như Bà đang ngồi
trước bàn máy. Sự biết về Bà quá ít, mầy mò sách vở đủ loại, lục lọi chỗ này
chỗ kia cũng chỉ là những mảnh vụn rời rạc, cũng không thấy bóng dáng Bà đâu
cả. Cũng chả thu thập được nhiều nhọm gì. Người đời coi ra vô tình
với Bà đã đành, sách vở sử học cũng vậy.
Ngay trong hồi ký của vua Bảo Đại, "Le Dragon
d'Annnam", (1) tôi đã lật đi lật lại nhiều lần, chỉ thấy loáng thoáng
từ trang 62 đến 68 nói về cuộc hôn nhân của nhà vua hơn là nói về
Hoàng Hậu. Tôi đành lòng với một ít tài liệu trong báo Indochine
vào những năm 1942-43-44 với vài bài của Nguyễn Tiến Lãng và
một vài người bạn Pháp của gia đình. Bài viết về Bàø của Cù huy Cận không có
trong tay. Cuốn sách quan trọng của Phạm khắc Hoè : từ Triều đình Huế đến
chiến khu Việt Bắc và Kể chuyện vua quan nhà Nguyễn chỉ được đọc những
đọan trích dẫn mà nội dung quả thực khiếm nhã và tuyên truyền nhiều hơn là sự
thực. Một số bài báo trên các báo chí Hải ngoại thường viết thiếu dữ kiện khả
tín, viết cho có mà thôi.
Vì thế, cũng chả thu tập được bao nhiêu. Thật là bất công với Bà quá và
cũng vô tình quá. Chỉ xin lấy tấm lòng đáp lại được phần nào hay phần ấy.
1. THỜI CON GÁI
Cô Nguyễn Hữu thị Lan Marie Thérèse là con một nhà điền chủ, đất Gò
Công. Bố được Tây cho đi học ở Pháp về, rồi mở đồn điền trà và cà phê ở cao
nguyên Trung phần. Các điền chủ khác thường ít chữ nên chỉ loay hoay với
ruộng, vườn tược, sống nhờ bổng lộc từ đó mà ra. Nhưng ông bà Nguyễn Hữu
Hào có vốn Tây học, có đầu óc nên mới nghĩ đến khai thác đồn điền. Vào thời
kỳ đó, khoảng những năm 1920-30, báo Nam Kỳ địa phận ra hàng tuần đã
khuyến khích người Annam khai thác đồn điền, mở mang kinh doanh, kỹ nghệ
để cạnh tranh với người Tây và cả với người Tầu như trong lời mở đầu của tờ
báo: "Tờ báo có ý khai đàng văn minh cho nhân dân đặng tấn phát cho bề đạo
việc đời đều thông thuộc. Vì thế trong nhựt báo 'sẽ biện luận về những điều đạo
lý, phong hóa, bá nghệ, bác học và văn tin... nên sự gì tốt và hữu ích thì đem
đặng vô hết'". (trích lại trong bài Chữ Quốc Ngữ, giai đoạn sơ khởi của chính
tác giả).
Nhà chỉ có hai chị em, chị là Agnès Nguyễn Hữu Hào đã hẳn có nếp
sống văn minh thành thị của lớp dân giầu có. Cuộc sống hai chị em cứ khách
quan mà nói là sung sướng, đầy đủ, được cưng chiều. Họ đã sống tuổi thanh
xuân êm đềm và mơ mộng. Và có lẽ đó là giai đoạn hạnh phúc nhất đời của
người thiếu nữ sau này làm Hoàng Hậu. Theo những bức hình chụp trong tờ
Indochine thì cả hai chị em đều cao lớn hơn hẳn những người phụ nữ Việt Nam
bình thường. Tôi mê bức ảnh Hoàng Hậu chải tóc rẽ, vấn khăn và nhìn nghiêng
bên trái, không nhìn thẳng. Những bức ảnh mặc đầm, hay những bức ảnh mặc
triều phục, hoặc ngay cả ngày cưới coi cũng được được vậy thôi. Theo cách
nhìn của tôi, có nhẽ cô Agnès không lấy gì làm xinh xắn lắm, gương mặt xương
xương, thiếu đầy đặn. Nhất là thiếu cái nét đoan trang, dịu hiền như cô Lan. Tôi
cứ nghĩ, phải cám ơn ông cái ông Tây nào đó đã chụp những bức hình mà Nam
Phương Hoàng Hậu đẹp như thế, lột được cả cái hồn, cái phần sâu thẳm của đời
sống bên trong. Phần cô Agnès, có vẻ Tây hơn. Cô đã lấy chồng sớm, học hành
chẳng hiểu đến lớp nào. Ông chồng là bá tước Didelot, làm công chức cho Tây.
Cả quãng đời tuổi thanh xuân này, gần như không có một ai có thể hé lộ cho
biết đời sống hai tiểu thư ra sao.
Nhưng dựa vào một vài sự kiện mà suy đoán thôi. Chẳng hạn, trong
một bài viết của ông Nguyễn Tiến Lãng, con rể cụ Phạm Quỳnh sau này đăng
trên tờ Indochine có kể rằng, trước ngày đám cưới thì hai chị em đến ở một căn
nhà của gia đình ở đường Nguyễn Du bây giờ, tức quá không nhớ số, trước
ngày ra Huế. Điều đó cho thấy, các cô ở Sài Gòn để đi học chứ không ở Gò
Công. Thời đó, Sài Gòn chỉ rộng như cái bàn tay. (2) Nhỏ lắm. Bé lắm. Qua
khỏi bến Nhà Rồng, sang Khánh Hội là lau sậy. Qua khỏi Nancy, chợ Quán là
đồng không mông quạnh. Chưa tới cầu Trương Minh Giảng đã là bãi sình rồi.
Các tiểu thư ở đường Nguyễn Du, mỗi sáng đi nhà thờ thì băng qua đường Lê
Văn Duyệt, tới đường Bùi Thị Xuân chừng nửa cây số là tới nhà thờ Huyện Sĩ.
Nhà thờ này theo thói quen lấy tên ông Huyện Sĩ hay Lê Phát Dạt vì chắc là ông
đã công hiến nhiều để xây dựng nhà thờ. Ông Huyện Sĩ lại là bác ruột các tiểu
thư.
Nếp nhà như vậy, vừa giầu có, vừa có ăn học, vừa theo nếp sống Tây
phương với tư tưởng tự do phóng khoáng đã hẳn khác với các "công tử Bạc
Liêu" về lối sống, lối nghĩ, lối giải trí. Lớn lên, cô chị đã yên một bề chồng con,
phần Hoàng Hậu tương lai được cha mẹ gửi sang Pháp học trường Couvent des
Oiseaux.
Có dư luận lẫn lộn Couvent des Oiseaux bên Pháp với bên này, nhân
tiện xin làm sáng tỏ thêm vấn đề này. (3)
Nói thêm chút nữa để chứng tỏ mình có chút uyên bác. Hồi Bà học
Couvent bên Pháp nhà trường hẳn nằm ở phố Ponthieu và Verneuil. Nhưng hỏi
Ponthieu ở đâu thì quả tình mù tịt không biết.
Có sách ghi cô đỗ tú tài Tây rồi mới về, điều này cũng không khẳng
định rõ được. Bảo Đại chỉ ghi: "Elle vient de terminer ses études au Couvent
des Oiseaux, en France". Tất cả thời gian này, không một ai biết cuộc sống
người thiếu nữ Tây học, duyên dáng, hiền thục ra sao. Chỉ biết, cô đã về nước
năm 18 tuổi.
2. CUỘC HÔN NHÂN CỦA CÔ NGUYỄN HỮU THỊ LAN
Cuộc gặp gỡ lần đầu.
Có một câu hỏi được đặt ra là cô Nguyễn Hữu Thị Lan đã quen và gặp
Bảo Đại trong trường hợp nào và ở đâu. Có một số tác giả cho rằng họ quen
nhau trên cùng một chuyến tầu thủy của hãng Messagerie Maritime về nước như
một cuộc tình duyên kỳ ngộ, lãng mạn. Một hoàng tử gặp giai nhân trên một
chuyến tầu, yêu nhau rồi quyết định chuyện hôn nhân. Trên tờ Indochine, có
một vài bài viết của ông Nguyễn Tiến Lãng, một người thân cận của Hoàng
Hậu, nhưng tôi cũng không thấy đoạn nào nói rõ về vấn đề này. Cho dù có đi
cùng chuyến tầu không chắc gì đã có thể gặp nhau. Nếu có chuyện đó thì vua
Bảo Đại hà cớ gì lại không nhắc đến trong hồi ký trích dẫn sau đây. Cái tật của
người Việt Nam là hễ có một người viết trật là kéo theo cả lô người khác xuống
hố theo. Dù sao, tôi cũng chẳng dám cả quyết gì về
điều này.
Nhưng một điều không cần bàn cãi nữa là
căn cứ vào tập hồi ký "Le Dragon d'Annam" của vua
Bảo Đại là đúng nhất. Vua Bảo Đại cho biết ông đã
gặp Nam Phương Hoàng Hậu ở Đà Lạt, chứ không
phải ở trên tầu, ông đã gặp vào cuối năm 1932. Xin
trích dẫn ý của vua sau đây: "C'est alors qu'à la fin de
l'année, m'étant rendu pour quelques jours à Đà Lạt
où séjournait également le gouverneur général
Pasquier, celui-ci, à l'occasion d'une rencontre dans
les salons du Langbian Palace, me présente une jeune
fille qui était en compagnie de Mme Charles, Marie-
Thérèse Nguyễn Hữu Hào, appartient à une famille de riches propriétaires
terrien de Cochinchine. Catholique, comme ses parents elle vient de terminer
ses études au Couvent des Oiseaux, en France. Elle a dix huit ans. (Sách đã dẫn
trang 63) Đọc đọan văn trên, thấy có gì là lạ. Chẳng hiểu tại sao cả đám người
tai to mặt lớn lại không hẹn mà gặp nhau ở Đà Lạt. Có bà Charles, người đỡ đầu
cho Bảo Đại đi cùng với cô Lan, bà lại là bạn của gia đình Nguyễn Hữu Hào.
Có bài viết nói ông Lê Phát Đạt dẫn cháu gái đến ra mắt Bảo Đại. Cô cháu gái
lại ỉ ôi năn nỉ chán mới chịu đi, ăn mặc sơ sài thôi. Tôi thiết nghĩ, ông Đạt
không đủ tư cách để đường đột dẫn cháu gái ra mắt Hoàng Thượng, nếu không
có một sắp xếp trước. Cùng lắm ông chỉ là người thừa hành thôi. Đích thị là có
sắp xếp trước, có toan tính trước giữa bộ ba toàn quyền Pasquier, ông bà Hào và
chủ chốt là bà Charles. Cho dù trước đó có gặp nhau trên tầu trên bè gì cũng
không quan trọng. Sau buổi gặp gỡ ở Đà Lạt, kể như định mệnh đã được an bài
rồi. Sự sắp xếp này cũng rất bình thuờng và tự nhiên ở cương vị của Bảo Đại.
Vấn đề chính là họ đã yêu nhau và quyết định đi đến hôn nhân: "Après quelques
entretiens, un tendre sentiment nait entre nous. Nous nous promettons de nous
revoir".
Những trở ngại của cuộc hôn nhân.
Theo vua Bảo Đại, từ ngày hồi hương, rất nhiều những tin đồn chung
quanh việc chọn một người vợ cho Ông. Bà Từ Cung đã đành, các vị quan lớn
trong triều, mỗi người đều có người của mình để đề cử. Vua đã hẳn biết được
điều đó và Ông đã nhiều lần cho biết ông quyết định không chấp nhận chế độ đa
thê vẫn thường thấy ở Việt Nam, về những tệ trạng tranh dành ngôi thứ giữa anh
em hoặc anh em cùng cha khác mẹ đến chỗ đâm chém nhau. Vua Minh Mạng
có đến 170 người con và để tránh cảnh tranh giành ngôi thứ, vua Minh Mạng đã
đặt ra tên gọi theo thứ tự đến 20 đời kế tiếp nhau để những dòng họ theo đó theo
thứ tự mà kế vị. Hai mươi đời đó được khắc vào tờ giấy bằng vàng và tên gọi
một người như thế được coi n giấy Hộ tịch của mình.. Hai mươi chữ đó nằm
trong bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt mà câu dầu gồm những chữ :
Miên Hường Ưng Bửu Vĩnh
Bảo Quí Định Long Trường
Hiền Năng Kham Kế Thuật
Thể Thoại Quốc Gia Xương
Nhưng mới tới chữ thứ năm trong bài thơ thì triều đình nhà Nguyễn đã
không còn nữa, mặc dầu tên của vua Bảo Đại được lót bằng chữ Vĩnh có nghĩa
là muôn đời. Những ý nghĩa đó còn được tìm thấy trong những chữ tỉnh Thừa
Thiên, Vạn Thọ, Long Sàng, chỗ ở của Bửu Long được gọi là Tứ Phương Vô
Sự.
Đã hẳn, hai ông bà Charles, bố mẹ đỡ đầu của vua không thể không bận
rộn trong việc kiếm tìm một người vợ cho vua. Cái khó là ở chỗ đó. Quá nhiều
người, quá nhiều đề cử, nếu không nói là những âm mưu gây ảnh hưởng nên dễ
gây bất đồng ghen tỵ, nói ra nói vô.
Nhưng trở ngại lớn nhất là cô Nguyễn Hữu Thị Lan là người theo đạo
Ky tô giáo. Theo vua Bảo Đại, khi trở về Huế, ông đã bầy tỏ ý định lấy vợ
người theo đạo Kitô giáo và là người đã được đào tạo ở Tây phương. Nghe tin
đó, hẳn nhiên là Bà Từ Cung không đồng ý vì bà mong muốn một cô dâu theo
truyền thống Á Đông. Quan lại cũng ngấm ngầm chống đối. Tứ phía chống đối
dựa trên quyền lợi cá nhân cũng có, phe phái, miền cũng có, nại cớ nguyên tắc
truyền thống cũng có. Cô dâu "Mới Quá". Chữ "Mới" có vang vọng muốn đồng
nghĩa với thiếu văn hoá đạo đức cổ truyền. Người ta e ngại cũng phải. Cứ nói
tiếng Tây líu la líu lo cũng đủ ngại rồi. Sự nghi kỵ, thành kiến tranh chấp, hiểu
lầm còn đầy dẫy trong dân gian, nhất là trong đầu mỗi người. Đặt mình vào địa
vị vua và hoàng hậu tương lai mới hiểu được sự cam go không thể vượt qua
được của cuộc hôn nhân này. Rồi vấn đề giáo dục con cái theo đạo Ky tô giáo
nữa. Sẽ giải quyết ra sao khi hoàng tử kế nghiệp vua phải cử hành lễ Tế Nam
Giao hoặc thờ cúng tổ tiên. Lấy ai là người gìn giữ nếp sống, văn hóa cổ truyền,
cúng giỗ tổ tiên của cha ông để lại.
Có một số tác giả đã viết không đúng về vấn đề này. Nhất là giới Công
giáo. Chẳng hạn cho rằng vua Bảo Đại là người đã theo đạo Ki tô giáo. Thật ra
đối với vấn đề tôn giáo, ông Bảo Đại rất thoáng, minh bạch và rất trung lập.
Ông không theo đạo nào cả. Như ông viết: "Au palais, il n'y avait qu'un Dieu:
L'empereur, fils du ciel". Vậy không hề có chuyện đó. Ngay cả các Hoàng tử,
Công Chúa chưa chắc gì đã rửa tội, theo đạo Ki tô giáo. Một điều nữa, dư luận
vẫn cho rằng Hoàng Hậu Nam Phương phải xin phép Vatican rồi mới được lấy
chồng. Nhưng theo hồi ký của Vua Bảo Đại, chỉ sau khi làm đám cưới xong,
ông mới gửi thư cho Giáo Hoàng Piô 11 một lá thư qua trung gian người Pháp,
vì thời đó ta chưa có liên lạc ngoại giao với Vatican. Nếu Hoàng Hậu muốn xin
phép thì phải gửi thư qua các cha cố, theo hệ thống nhà đạo. Cho đến nay, chả
có bằng cớ gì, chả có văn bản nào cho thấy có phép chuẩn cả. Có thể chỉ là đồn
đại. Vua Bảo Đại gửi thư cho toà thánh không phải để xin phép, xin tắc gì cả mà
bầy tỏ lập trường và quan điểm của vua Bảo Đại. Hãy xem ông viết: "Cette
lettre avait moins pour but de régler la question personnelle de mon mariage et
de l'éducation envisagée pour mes enfants que d'apporter et de provoquer des
éléments de réponse à un conflit ouvert depuis des siècles et, plus encore, de
faciliter la rencontrre entre deux mondes: l'Occidental et l'Oriental, à travers
notre pays d'Annam, 'terre de rencontres', et à travers ma personne qui, pour la
première, et vraisemblablement pour la dernière, par l'éducaion recue, réunissait
les conditions d'une véritable confrontation entre deux civilisations". Đoạn văn
trên của vua Bảo Đại giúp dẹp hết những bàn tán bên lề, những chuyện tủn mủn
thổi phồng về chuyện đám cưới của ông với cô Nguyễn Hữu Thị Lan.
Những trở ngại mà cô dâu tương lai gặp và phải đương đầu.
Đặt mình vào địa vị Hoàng Hậu Nam Phương mới thấy thấm thía được
những trở ngại, những khó khăn mà Bà phải chịu đựng. Thật quả không dễ gì
lấy được một ông vua và cũng không dễ gì làm Hoàng Hậu. (4) Nhưng lịch sử
cũng cho thấy không thiếu trường hợp trước đây xứ Nam Kỳ mà có lần vua Bảo
Đại đã gọi là miền đất hứa đã cống hiến cho triều Nguyễn những người con gái
tài ba và sắc đẹp:
Bà Từ Dũ, tức cô Phạm Thị Hằng là vợ vua Thiệu Trị và là mẹ vua Tự
Dức. Bà là tiêu biểu cho một lớp người phụ nữ đức hạnh, có học vấn, làm
gương sáng cho mọi người trong triều đình.
Sau đó đến bà Hồ Thị Hoa, vợ vua Minh Mạng và cuối cùng là
Cô Nguyễn Hữu Thị Lan.
Tên của bà là Nam Phương Hoàng Hậu mang ý nghĩa đó, chỉ thị đó là
Hương thơm của miền Nam. Tên đó biểu thị cả nết lẫn người đem lại vinh dự
cho người dân xứ Nam Kỳ. (LTS: tác giả ghi chữ đậm)
Nhưng cái khó lớn lao nhất Bà phải đương đầu vì Bà là người Công
giáo. Những chỉ dụ cấm đạo hồi nào mới chỉ vừa ráo mực. Lòng người chưa ổn.
Điều đó cũng chứng tỏ Bà là người có cá tính, can đảm và trung thành với đạo
giáo của Bà. Giả dụ một người đàn bà khác thì sao? Sẽ bỏ tất cả, sẽ làm tất cả và
bằng bất cứ giá nào để được làm Hoàng Hậu. Hiểu đến cội nguồn mới hiểu
được nhân cách của Bà, cái cao quý của một nhân phẩm và cái trong sáng, ngay
thẳng của một người đàn bà có giáo dục. Chỉ về một điểm này thôi, Bà là người
đáng nể trọng. Qua những người phục vụ chung quanh vua và Hoàng Hậu sau
này, mọi người không kể bất cứ ai đều bầy tỏ lòng kính trọng và quý mến cái
nhân cách của Bà.
3. NGÀY ĐÁM CƯỚI
Mọi chuyện đã xong. Dư luận cũng
tạm ngưng tiếng nói. Những đám mây mù đã
tan. Phần lớn nhờ vào sự cương quyết đến cứng
rắn của vua Bảo Đại. Huế chờ đón một biến cố
có một không hai trong lịch sử triều Nguyễn,
một mẫu nghi thiên hạ đến từ miền Nam với
những sắc thái mới đến làm xôn xang mọi
người. Một cô gái xinh đẹp nhất miền Nam,
Tây học, con nhà danh gia vọng tộc cộng thêm
là một người Ki tô giáo. Bấy nhiêu thứ đụng
vào những sắc thái truyền thống, cổ truyền đã
gắn bó với Huế từ cả mấy trăm năm nay. Huế cổ kính, Huế lãng mạn, Huế trầm
mặc, Huế khép kín, Huế đẹp, Huế thơ. Huế có tất cả, trừ một làn gió mới.
Chuyện đó đã xảy ra.
Vào ngày 20 tháng 3 năm 1934, người con gái đến từ phương Nam
mang theo cả cái hương thơm miền Nam đã quyết định bước qua ngưỡng cửa
hoàng cung, vào Cấm Thành. Và do tình yêu gắn liền với định mệnh, một định
mệnh không khỏi có trớ trêu, vào buổi sáng mùa xuân đó, cả một cuộc đời mới
đã mở ra. Bỗng chốc cô trở thành Hoàng Hậu của cả nước. Từ nay, không còn
ai nhắc đến cái tên Marie-Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan nữa. Cô là Nam
Phương Hoàng Hậu.
Lòng chắc đầy cảm xúc suốt hành trình từ trong Nam ra Huế, chen lẫn
lo âu và sung sướng, trong niềm hân hoan không gì tả xiết, mỉm cười chấp nhận
những gì sắp tới xảy ra cho mình, trong cảm thức mình là người độc nhất có cái
vinh dự làm Hoàng Hậu cả nước. Và trong phẩm phục áo mầu vàng, một ân huệ
đặc biệt mà vua đã dành cho nàng, đầu nàng đội mũ có kết trân châu bảo ngọc,
đi hia mũi nhọn, tay cầm hốt ngà tiến vào hoàng cung.
Từ bên ngoài nhà khách trú của hoàng cung, cô đã bước lên xe hơi để
đi vào Cấm Thành, qua cửa Hiển Nhơn mà hai bên có những người lính hầu,
chân quấn xà cạp, đứng nghiêm chỉnh như những tượng gỗ.
Buổi lễ đã được diễn ra từ điện Cần Chánh. Hãy nghe Hoàng Thượng
kể lại: "J'ai en effet, décidé d'élever ma femme à la dignité d'impériatrice dès
notre mariage, alors que jusque-là ce titre n'était attribué qu'à la reine-mère,
après le décès de l'empereur. Revêtue de la longue et ample robe de Cour,
chaussée de costumes à la pointe retounée, coiffée d!une sorte de bonnet enrichi
de pierreries, pour la première fois dans l'histoire de l'Annam, une femme
s'avance seule, saluée par toute la Cour. Toujours seule, elle pénètre dans la
grande salle òu je l'attends, assis sur un trône bas" (trang 64). Vâng, bây giờ,
chung quanh đầy bá quan văn võ, Bà vẫn "seule" và cả đời bà sau này cũng
"toujours seule". Trong suốt hơn 10 năm sống ở Huế, Bà vẫn seule như thế giữa
đám thị nữ, quan thần, dòng tộc, giữa những sắc thái dị biệt miền, tiếng nói, tôn
giáo, nếp sống văn hoá, học vấn. Chỉ những sự khác biệt đó thôi cũng đẩy Bà
vào tư thế một mình Và đã theo đuổi suốt cuộc đời còn lại của Bà. Ôi nhận xét
của Bảo Dại trong ngày đám cưới không ngờ có tính cách định mệnh oan trái
của đời Bà.
Sau buổi lễ, vua đã đưa Hoàng Hậu về điện Kiến Trung mà trước đó
Ngài đã cho sửa chữa lại thành một cung điện có những tiện nghi mới theo
những tiện nghi bên Âu châu, trong đó có phòng ăn, phòng ngủ,
phòng tiếp khách, phòng làm việc. Và nhất là phòng tắm và vệ
sinh. Hồi còn trẻ, có dịp ra Huế khá nhiều lần, ở lâu đến một
tháng hơn tháng là thường. Tôi chỉ có một thắc mắc: Chẳng biết
vua chúa, cung phi đi cầu và tắm rửa ở đâu. Cả ngàn người như
thế, không thấy một cái cầu tiêu nhà tắm nào. Đó là nét lạ của
Huế. Ai hiểu Huế hơn thì xin chỉ cho. Hiểu ra rồi thì không khỏi
buồn cười một mình. Từ nay, Bà ra vào điện Kiến Trung mà
trọng trách của Bà là cùng với vua cai trị thần dân, đặc trách lo
về những vấn đề xã hội theo lời yêu cầu của chính vua Bảo Đại.
Để kết thúc phần này, xin dẫn lời kể của vua Bảo Đại
cho thấy vai trò quan trọng của ông bà Charles trong cuộc hôn
nhân này: "Le soir du mariage, nous invitons M. et Mme
Charles à diner. Estimant leur mission accomplie ils vont
repartir pour la France". (trang 64)
Phải nhìn nhận ở đây, lần đầu tiên, vai trò người phụ nữ đã thay tên đổi
họ và đã hẳn, cách này cách khác đã ảnh hưởng trực tiếp trên xã hội người phụ
nữ Việt.
4. ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH CỦA HOÀNG GIA
Hoàng Hậu là phụ nữ đầu tiên có tân học, ảnh hưởng nếp sống, nếp
nghĩ Phương Tây, trọng tinh thần dân chủ, trọng ý thức xã hội. Bà không phải là
người chỉ quanh ra quẩn vào chờ cái đèn lồng tối hôm đó thắp sáng lên, rồi tíu
ta tíu tít chuẩn bị son phấn, đón tiếp như một thứ đồ giải trí cho vua. Bà tham dự
vào tất cả. Họp với các quan bộ lễ, bàn và nghị sự tổ chức các buỗi lễ tế Nam
Giao hay lễ Vạn Thọ. Chẳng hạn, lễ Vạn Thọ khánh tiết mừng sinh nhật vua
thường được diễn ra trong điện Thái Hòa. Tổ chức lễ Bái Khanh cho mọi người
có dịp bầy tỏ lòng trung thành đồng thời chúc thọ nhà vua trăm tuổi. Ngoài
đường, các học sinh đi diễn hành, tay cầm cờ Long Tinh, hát bài đăng đàn diễn
hành qua cửa Ngọ Môn. Bên trong hoàng thành thì tổ chức các màn múa hát do
các nữ học sinh trung học trình diễn và màn dâng hoa cho Hoàng Thượng và
Hoàng Hậu. Nên nhớ là không có những màn hát hoặc tuồng tích cổ nữa. Cũng
nên nhớ là con trai chỉ được đi diễn hành ngoài đường, ở ngoài hoàng thành mà
thôi. Chỉ nhớ lại các buổi lễ chúc thọ vua với lề lối tổ chức, cho nữ sinh vào ca
hát, dâng hoa, người ta hiểu những quyết định đổi mới đến từ đâu rồi.
Bà cũng là người phụ nữ đầu tiên ở nước ta cùng vua tiếp khách ngoại
quốc như Thống chế Tưởng Giới Thạch, Quốc trưởng Shianouk. Cái mà bây giờ
người ta gọi là vai trò đệ nhất phu nhân.
Bà cũng là Hoàng Hậu đầu tiên xuất cung, tham gia các sinh hoạt xã
hội như đã đi thăm các cô nhi viện, trường nữ Trung học Đồng Khánh Huế,
Hànội, các cô nhi viện hoac cơ sở Xã hội v.v..
Ngày chủ nhật, Bà đi lễ nhà thờ Phủ Cam như mọi người dân bình
thường. Cũng là chuyện lạ. Dó là người phụ nữ theo Kitô giáo đầu tiên trong
ngôi vị Hoàng Hậu, ngôi vị mà ngày nay nghĩ lại cũng khó mà tưởng ra là có
thực. Sáng sớm tinh mơ, Bà ra khỏi Hoàng Cung, không ngồi kiệu với màn che
phủ kín làm bà khó chịu như ngồi trong cũi. Nội điều đó thôi cũng có thể gây ra
những xầm sì to nhỏ. Lần đầu tiên, trong Hoàng cung, triều dình nhà Nguyễn,
vóc dáng một người phụ nữ uy nghi, đoan trang đem lại những nét đổi mới
trong sinh hoạt cung đình : giản dị hoá lễ nghi, giản dị trong những tương quan
giao tiếp giữa bầy tôi và chủ, tư tưỏng phóng khoáng, ngay thẳng, ghét những
xun xoe xu nịnh, những lời xàm tấu. Lần đầu tiên, một người phụ nữ Việt Nam
củng vua tiếp đón các nguyên thủ quốc gia khác trong vai trò đệ nhất phu nhân
như bây giờ. Toàn quyền Decoux đã hết lời khen ngợi bà là người đức hạnh, nề
nếo, một sự tổng hợp hai nền văn hoá đạo đức Dông Tây. Về phía quốc tế,
Hoàng Hậu đã nhận được những bằng khen của Hàn Lâm Viện Y khoa Pháp và
của Hội Hồng Thập Tự Quốc tế.
Chắc chắn và không thể chối cãi được sự có mặt trong Hoàng Cung của
Bà đã thay đổi bộ mặt Hoàng Cung. Nhưng điều quan trọng hơn cả, Bà trở
thành biểu tượng, mẫu hình lý tưởng cho tất cả giới phụ nữ Việt Nam noi theo..
Nhất định giới phụ nữ Việt Nam nhờ vào Bà đã trở thành tấm gương để mọi phụ
nữ noi theo. Hình ảnh người phụ nữ nhờ đó được cải thiện, nâng cao và đổi mới.
Bà có năm người con lần lượt là Bảo Long, Phương Mai, Phương Liên,
Phương Dung và Bảo Thắng. Ngày thái tử Bảo Long ra đời, mồng 4 tháng 01,
năm 1936 đã thi hành đúng như trong sách Hội Điển, người ta đã bắn 7 phát
súng thần công để loan báo tin mừng. Phải bắn 7 phát, vì theo tục lệ, đàn bà 9
vía còn đàn ông 7 vía.
Gia đình Hoàng gia theo lối sống mới ra bên ngoài như vua thường lái
xe đi nghỉ hè ở Nha Trang, Đà Lạt... (5) Hoặc đi trên du thuyền Phi Long, đi câu
cá ở biển Nha Trang để tránh nóng oi bức ở Huế. Cũng tại Đà Lạt, gia đình
Hoàng gia có dịp đoàn tụ với ông bà bá tước và các con của gia đình này. Đôi
khi Hoàng Hậu cũng theo vua đi câu hoặc đi săn thú rừng ở Ban Mê Thuột hay
Đà Lạt.
Đây là những ngày tháng tương đối êm đềm và hạnh phúc của đời Bà.
5. NHỮNG NGÀY THÁNG ĐEN TỐI
Có được hơn mười năm êm ấm hạnh phúc. Những tháng ngày còn lại
báo hiệu những đám mây mù phủ kín tâm tư. Tháng 9 năm 1945, vua Bảo Đại
do sự thúc ép của Việt Minh buộc phải từ chức, thoái vị và nhận chức cố vấn bù
nhìn cho Hồ Chí Minh. Cuộc tiễn đưa cựu hoàng ra Hà Nội đầy bất trắc rủi ro.
Rủi ro về chính trị đã đành. Vậy mà rủi ro đến hạnh phúc gia đình lại là điều có
thực. Những tin đồn về những cô gái Hà Nội và cả những mệnh phụ đã không
thư từ mà vẫn tới Huế. Lý Lệ Hà là một trong số những người đó. Trong hồi ký
của Trần Văn Đôn, ông đã nói trắng ra một mệnh phụ phu nhân, bà TVC nữa.
Sự đời sao có thể éo le thế.
Trong dịp Phan Khắc Hòe về Huế, người đã bán đứng Bảo Đại, Hoàng
Hậu đã hỏi thẳng Hoè về Lý Lệ Hoa. Hoè xác nhận là có thực còn nói thêm đó
là một cô gái đẹp. Hoàng Hậu bị xúc phạm nặng nề, nhưng vẫn giữ sự im lặng
vốn có của Bà, vẫn nhờ Hòe cầm một số tiền gửi ra cho Bảo Đại chi dùng.
Chẳng hiểu Phạm Khắc Hoè và Việt Minh có dính dáng gì đến việc hủ hoá của
Bảo Đại hay không. Nào ai biết được. Những người như ông Mai Văn Hàm đã
tài trợ cho Bảo Đại ăn ở Hà Nội lẽ nào hại Bảo Đại đến thế. Nhưng hoàng thân
anh em họ với Bảo Đại không lẽ cũng có cổ phần vốn phá hoại gia đình ông
Bảo Đại chăng? Chuyện đời khó biết được.
Danh sách những người đẹp lăng nhăng với Hoàng thượng thêm dài,
một cô gái Tầu Hồng Kông, Phi Anh và nhất là Mộng Điệp.
Không thiếu những mệnh phụ tỉ tê, xàm tấu với Bà. Bà nghe đã nhiều,
thường giữ thái độ im lặng, có thể phần không muốn nghe, phần đã quá rõ, phần
tự ái không muốn ai nhắc tới. Có thể còn muốn bảo vệ uy tín hoàng tộc và cho
cả con cái Bà. Cứ thế, Bà ẩn nhẫn chịu đòn một mình theo cái cách của người
được ăn học, ngưới có nhân cách.
Bà đã tự chọn con đường của mình phải đi, từ giã vinh hoa, phú quý và
nhất là chấp nhận sự quên lãng của Hoàng thượng.
Vì vậy, kể từ năm 1950, dòng họ Nguyễn với Bảo Đại kể như không
còn ở trong mắt Bà nữa.
Năm 1950, con gái út mới 8 tuổi, ai có thể chia xẻ nỗi đau của Bà. Bà
có thể làm gì được để gánh nổi cái gia tài Bảo Đại đã để lại. Bà quyết định
mang các con sang Pháp, phần lo chuyện học hành của chúng là chính, phần
tránh xa những nhớp nhúa của dư luận. Bạn bè cũ nay còn ai. Gần không còn ai.
Bà ra đi, Bảo Đại càng đi xuống. Nay thì có những tôi thần như Bảy
Viễn, Phan Văn Giáo cung cấp cho ông tất cả những gì cần thiết ở đời: tiền bạc
và gái đẹp.
Phải chăng, ông chán ngán thế sự để buông rơi vào chỗ bê tha. Phải
chăng ông chán ngán tình đời đi tìm quên đời bằng thân xác người phụ nữ. Lấy
cái gì để bào chữa cho ông trong việc phẩy tay chuyện đất nước. Viết về ông
thấy cả đời ông chẳng làm đuợc tích sự gì, ông chỉ làm được một điều tốt là cả
đởi làm chính trị ông chẳng làm hại ai bao giờ, dù là những người đã bỏ ông
như Ngô Đình Diệm và nhất là Hồ Chí Minh. Cả cuốn sách ông viết, chẳng bao
giờ thấy ông hạch tội hay nặng nhẹ với những người như ông Ngô Đình Diệm.
Vậy mà tôi vẫn oán giận ông, chắc là tôi không cần nói ra, ông vẫn khắc hiểu
hơn ai hết. Nhưng dù sao, mọi chuyện cũng đã quá muộn rồi. Nói gì nữa bây
giờ cũng vô ích.
Riêng Hoàng Hậu, tháng ngày còn lại ở bên Pháp đã từng bước, bước
đến chỗ để về. Mỗi ngày, mỗi năm tháng cứ héo mòn đi như cái cây không có
nước, cứ ủ rũ cho đến lúc tàn lụi. Ngày một, ngày hai, mỗi ngày vẫn phải chạm
chán với cuộc sống thực bên ngoài và nỗi cô đơn bên trong. Nổi cô đơn từ mọi
phía, nỗi cô đơn cã đời. Dến như tôi có thể dám thốt ra lời này : Chỉ nhìn con
mắt, cảm nghiệm được đời bà là một niềm cô đơn. Dừng ai hạch hỏi tôi tại sao
nói thế.
Lại thêm vật chất không dư giả như trước nữa, sức khỏe suy yếu vì
bệnh suyễn và tim. Tháng ngày vẫn trôi qua, dần dần những trông đợi thù đáp
nơi người, niềm hy vọng có ngày trở lại bị xói mòn sẽ dấy lên những câu hỏi về
cuộc đời, về cớ sự đa đoan, về tình người và cuối cùng về tình vợ chồng.
Bà sống cô đơn thế nào thì mất im lặng như thế ngày 14-9-1963 tại
làng Chabrignac. Bên cạnh chỉ có hai hoàng tử và ba công chúa sau mới về.
Thực sự chỉ có hai người giúp việc bên cạnh lúc Bà mất.
Phần đời Bà, còn rất nhiều điều chưa được sáng tỏ còn nằm trú ẩn trong
vùng bóng tối của đời Bà. Nhưng phải chăng chính cái phần bóng tối này lại là
nơi trú ẩn an toàn nhất mà Bà muốn giữ lại đem về bên kia thế giới.
Và nếu thực sự như thế thì chúng ta chỉ còn biết tôn trọng ý nguyện của
Bà và phải chăng Bà đã ra đi và không còn gì để nhắn gửi và nói lại nữa. Một
ngôi sao đã đổi ngôi. Số phận Bà có gì trùng hợp với phận người phụ nữ nói
chung. Có lẽ cần suy nghĩ thêm vẫn chưa muộn.
Nguyễn văn Lục
Chú thích
(1) Trong cuốn Thuyền ai đợi bến Vân Lâu của Nguyễn Lý Tưởng có
đặt vấn đề vua Bảo Đại là con ai? Xét ra cũng là một đề tài lý thú để bàn. Do sự
quan hệ với một vài liên hệ với hoàng tộc, tài liệu cho biết, Bảo Đại là con vua
Khải Định, nhưng mẹ là bà Hoàng Thị Cúc vốn chỉ là người hầu trong cung.
Khải Định hình như không có con, nhưng khi bà Hoàng Thị Cúc có mang thì
Thái Hậu, Đức Chánh Cung tra khảo đánh đập, hoàng tử Bửu Đảo, tức Khải
Định đã đứng ra xin như sau: "Thưa A, thai nhi trong bụng Hoàng Thị Cúc
chính là con của hài nhi. Vì dòng dõi của mình (vua Đồng Khánh) hiếm muộn,
nên ả tha cho Hoàng Thị Cúc và cho phép hài nhi được cười nàng làm thiếp. Ấy
là theo lời kể lại của bà Nguyễn Thị Vy, cháu nội ông Nguyễn Hữu Độ (Phụ
chính đại thần vua Đồng Khánh). Một dẫn chứng khác qua lời nói lại của ông
Bửu Uyển thì trước 75, bà Từ Cung (mẹ vua Bảo Đại), lúc đó đã ngoài 80, đã kể
lại cho con cháu nghe, trong đó ông Bửu Uyển cũng có mặt. Theo đó, Đức Từ
Cung cho biết, lúc làm gái hầu cho Ngọc Lâm Công Chúa, con vua Đồng
Khánh. Công Chúa thường sai bà mang thư cho Bửu Đảo, (hai nguời trao đổi
thơ xướng họa với nhau). Hai người ăn nằm với nhau, sau đó bà có thai và sinh
ra Vĩnh Thụy, tức vua Bảo Đại sau này. Cả hai nguồn tin đều xác nhận Bửu Đảo
ăn ở với Hoàng Thị Cúc, rồi có con. Chính sử không có, đành tin vào những
nhân chứng sống. Điều chính là bà Hoàng Thị Cúc, sau này là Đức Từ Cung là
mẹ vua Bảo Đại. Chừng đó đủ rồi. (Xem Thuyền Ai Đợi Bến Vân Lâu, trang
395-401, của Nguyễn Lý Tưởng)
(2) Theo Hoeffel, trích trong Indochine "Bài La région Saigon,
Cholon". Sài Gòn, Chợ Lớn lúc bấy giờ chỉ rộng có 5000 mẫu Tây, chiều dài từ
Đông sang Tây là 15 kilô mét và chiều rộng có vỏn vẹn 6 kilô mét.
(3) "La naissance de Dalat", của ông A.Baudrit viết: Đà Lạt được khám
phá ra vào năm 1893. Sau đó mãi đến năm 1898, người ta mới khai thác được
một vùng để làm một cái vườn với mục đích cung cấp rau cho đoàn nguời lên
công tác. Vì thế, vườn rau đặt tên là "Ferme de Dankin". Sau đó, tác giả tự đặt
câu hỏi "Est-ce alors que commenca la création de Dalat". Hỏi rồi tự mình trả
lời: "Pas encore". Nhưng điều sau đây mới thực sự quan trọng và có ý nghĩa.
Trong một bài báo khác giấy nhiều chỗ đã mủn và rách, vừa đọc, vừa đoán mò
không rõ tên tác giả có ghi chép: vào năm 1934, Giáo Hoàng Pio 11 mới yêu
cầu mẹ bề trên Cả của dòng đưa các sơ ra hải ngoại. Cái duyên là họ đã quyết
định sang truyền giáo ở bên Việt Nam. Vì thế, họ đã thiết lập hai trường: một ở
Đà Lạt, một ở Hà Nội, khu Ngọc Hà. Nhưng mãi đến năm 1937, trường sở mới
được xây dựng xong. Trong khi đó Cô Nguyễn Hữu Thị Lan đã làm đám cưới
với vua Bảo Đại từ năm 1934. Như thế cả hai chị em quả thực không thể nào
học Couvent des Oiseaux được. Chỉ có sau này, khi đã lên ngôi Hoàng Hậu, bà
có ghé thăm trường mà thôi.
(4) Năm 1927, có bài viết "Le mariage d'une princesse d'Annamite"
trên báo Thần Kinh. Tờ Nam Phong , năm 1923, số 69 cũng có bài viết tương
tự. Năm 1934, trên Bulletin des Amis du vieus Hue ( BAVH ), trang 145-168 ,
trong một bài viết có nhan đề "Cérémoniale d'autrefois pour le mariage des
princesses d'Annam" của L. Sogny. Khi các công chúa được 16 tuổi thì bắt đầu
phải để ý đến chuyện gả chồng cho các cô rồi. Thoạt đầu, người ta chọn ra một
danh sách các con, cháu, ngay cả đến chắt các công thần nộp lên vua. Vua chấm
dấu đỏ vào tên anh nào, anh đó có may mắn được làm phò mã. Sự cố xảy ra sau
đây thêm phiền phức vô kể. Lúc Thiệu Trị mất theo tục lệ, mọi chuyện cưới hỏi
phải ngưng để tang vua cha. Đến Tự Dức thứ tư, nghĩa là năm 1854, số các
công chúa chưa chồng trong 3 năm lên đến 30 cô, tất cả gồm các con của Minh
Mạng, Thiệu Trị gom lại. Lúc đó, nhiều công chúa đã quá tuổi 16 thuộc loại già
cỗi (Abricot murissant), chưa có ai rước đi. Trong số các công chúa, nhiều cô
xấu xí lại càng khó kiếm chồng hơn. Dư luận thời đó đồn thổi có nhiều con trai
các công thần sợ phải lấy mấy công chúa hoặc vì quá lớn tuổi, hoặc xấu không
hợp nhãn đành đánh bài ba chân bốn cẳng chốn mất dạng. Triều đình không biết
làm thế nào đành phá lệ tuyển bổ xuống hàng quan lại thường. Nào đã xong,
còn xem tuổi tác công chúa có hợp không đã. Rồi cho tên tất cả những ứng viên
đó vào trong hộp sắt, lắc đều, công chúa bắt trúng tên ai thì nguời đó đuợc làm
phò mã. Công chúa chỉ biết mặt lúc đám cưới nên cũng tìm đủ cách để xem mặt
phò mã tương lai là ai. Cũng nhiều cảnh cuời ra nước mắt.
Thủ tục cưới hỏi cũng nhiêu khê phiền toái lắm, vất vả lắm. Từ lễ nạp
thai đến vấn danh, rồi nạp trưng, nạp cát, sau đến lễ thân nghinh và hiệp cẩn,
công chúa và phò mã ăn chung một miếng thịt một con vật, rồi uống rượu.
Mọi chuyện xong thì mỗi phò mã được thưởng 3 nghìn lạng bạc để
mua nhà ở, gọi là phủ, cộng với 3 vạn lạng để sắm sửa quần áo, đồ dùng và đồ
trang sức v.v.. Ngoài ra, phò mã còn có 50 người hầu, có một đội trưởng do
triều đình ứng trả chi phí lương bổng.
Ôi trùng trùng điệp hết lễ này đến lễ kia. Cưới xong cũng trầy da, chóc
vẩy. Cũng nên nhớ, chỉ có vua là có cung phi cung nữ, bao nhiêu cũng được.
Còn phò mã thì không được quyền có vợ hai, chỉ trừ khi công chúa không có
con.
(5) Nhân đây, có đọc được một bài báo khá lý thú, đề cập đến đến
chuyện du xuân đặc biệt của vua Đồng Khánh. Bài báo còn lý thú hơn nữa là tác
giả Phan Thuận An, tự nhận là "nhà nghiên cứu Huế". Gọi là nghiên cứu chứ
thật ra ông đã dịch và chép nguyên con một bài của Cosserat, trong BAVH, Huế
từ trang 301 đến trang 306, có nhan đề là "Les Fêtes du Tết en 1886 à Hue.
Promenade du roi". Trong đó, Cosserat chép lại bài tường thuật của phóng viên
báo Figaro, lúc đó cũng có mặt ở Huế. Thật ra chả nên làm thế để làm gì. Nội
dung bài báo lại tỏ ra không nắm vững cho lắm. Từ lúc thay thế vua Hàm Nghi,
Đồng Khánh chỉ là thứ bù nhìn dễ sai bảo của người Pháp. Vì thế tướng
Prudhomme, lúc đó đang ở Huế đã yêu cầu nhà vua phải xuất hiện ngoài hoàng
cung để cho dân chúng biết là vua không bị quản thúc. Mục đích của
Prudhomme chỉ có vậy. Và đơn giản chỉ có vậy .
Sau 40 năm tưởng nhớ Hoàng Hậu
Nguyễn văn Lục
Nguồn : Chim Việt Cành Nam
Nam Phương Hoàng Hậu - “viên kim cương” cuối cùng của Triều
Nguyễn
10:00, 28/08/2006
Vua Bảo Đại và Nam Phương Hoàng Hậu.
Nam Phương Hoàng Hậu là một người vợ hiền thục và nhân từ. Suốt
những năm ở ngôi Hoàng hậu cho đến khi từ giã cõi đời không hề có một tiếng
thị phi, một lời than trách. Bà được ghi nhận trong lịch sử như một Hoàng hậu
mẫu mực.
Tên thật của bà là Nguyễn Hữu Thị Lan, sinh trưởng trong một gia đình
kinh tế khá giả, nên từ nhỏ bà đã được người cậu ruột là ông Denis Lê Phát An
nuôi dưỡng và cho sang Pháp học. Sử sách còn ghi nhận rằng Denis An là một
trong số người giầu nhất xứ Nam Kỳ thời ấy. Là người giầu có, đang rất cần
tiếng tăm, lại không có con, nên Denis An đã bằng mọi cách để cô cháu gái xinh
đẹp Mariette Jeanne Thị Lan tiếp cận vua Bảo đại.
Ông hy vọng cô cháu gái trở thành Hoàng hậu thì ông không những sẽ
nhanh chóng leo lên trên các bậc thang danh vọng, mà còn có cơ hội phất lên
trong làm ăn. Từ đó, Denis An quyết tâm nhờ vả viên Toàn quyền Pháp
Pasquier và Khâm sứ Charles tạo mọi điều kiện để cô cháu gái tiếp cận vua Bảo
Đại.
Trước đó, Nguyễn Vĩnh Thụy (tên khai sinh của vua Bảo Đại) cũng đã
được đưa sang Pháp đào tạo “nghề làm vua”. Đến tuổi trưởng thành cũng lại do
chính người Pháp sắp xếp, chắp mối tơ duyên. Thời điểm này, con gái đẹp, hiền
thục, thông minh học giỏi, ở kinh đô Huế không thiếu, nhưng hầu hết theo đạo
Phật, coi vua như Ông trời, bảo sao nghe vậy không dám phản đối.
Có lẽ vì lý do ấy mà Khâm sứ Charles, người được Nhà nước Pháp
giao trọng trách nuôi dưỡng, đào tạo Bảo Đại thành ông vua để cai quản Việt
Nam phục vụ cho mẫu quốc, đã nghĩ đến một cô gái người Nam Kỳ. Nhìn đi
tính lại ông ta thấy có cô Mariette Jeanne Nguyễn Hữu Thị Lan đang học trường
Couvent des Oiseaux ở Paris là xứng đáng lên ngôi Hoàng hậu hơn cả.
Theo khâm sứ Charles, cô Lan là người vừa xinh đẹp, duyên dáng, lại
nết na, con nhà giầu, lại theo đạo dòng, đã vào làng Tây lại sắp sửa học xong
bậc tú tài và như vậy sẽ hội đủ điều kiện trở thành Hoàng hậu, có thể giúp vua
Bảo Đại “trị vì xứ An Nam”. Thế là đã xảy ra những cuộc gặp “tình cờ” giữa
đôi trai tài gái sắc. Cuộc gặp giao duyên ấy được bắt đầu từ những bữa tiệc và
dạ hội của gia đình Denis An trong dịp nghỉ cuối tuần, lúc thì ở biệt thự gia
đình, lúc lại ở những restauran sang trọng của Paris, có mời gia đình viên Toàn
quyền Pasquier và Khâm sứ Charles.
Tại các cuộc vui như thế, lần nào ông cũng kèo néo bằng được để ông
bà Charles đưa vị “Hoàng đế xứ An Nam” đi cùng. Và đương nhiên vị khách
đặc biệt đó luôn luôn được xếp ngồi gần cô Lan. Từ chỗ họ có thiện cảm với
nhau ngay từ lần gặp đầu, sau một vài cuộc “tình cờ” ấy, họ đã thật sự thân thiết
quyến luyến nhau. Mặc dù vậy, Charles vẫn luôn khuyên nhủ Bảo Đại phải giữ
khoảng cách, giữ thể diện, đừng có “hành động gì quá mức vì anh đang là vị
Hoàng đế!”.
Mùa hè năm 1932 vợ chồng Charles đưa Bảo Đại về nước, cũng lại
“tình cờ” gặp ông bà Denis An cùng cô cháu gái Mariette Jeanne Lan ở cảng
Marseille đang chuẩn bị lên tàu về nước nghỉ hè. Hơn 1 tháng lênh đênh trên
con tàu d’Artagnan, cô Lan càng có điều kiện gặp Bảo Đại hàng ngày để cùng
nhau ngắm trời ngắm biển, thả hồn trong mộng mơ, trò chuyện và họ đã thực sự
hiểu nhau tới chân tơ kẽ tóc.
Về Huế bái yết thân mẫu Từ Cung, ra mắt quần thần, điều hành triều
chính ít ngày, theo kế hoạch Toàn quyền Pasquier và Khâm sứ Charles khuyên
Hoàng đế đi nghỉ Đà Lạt “phục hồi ngọc thể”. Dịp đó gia đình ông Nguyễn Hữu
Hào (cha đẻ của Lan), Denis Lê Phát An cũng đưa cô Lan lên Đà Lạt thay đổi
không khí. Và thế là Thị Lan và Bảo Đại lại có dịp sóng đôi hết ngày này qua
ngày khác, lúc thì ở sân quần vợt, lúc trong rừng săn bắn, lúc bên bàn tiệc hay
dạ hội.
Vị Hoàng đế trẻ, đàn hay, khiêu vũ đẹp, bắn súng giỏi, chơi quần vợt
khó ai thắng, ăn nói lịch thiệp, ứng xử nhã nhặn khiến cô Lan không thể không
chấp nhận tình yêu với Bảo Đại. Còn nhớ hồi đó phóng viên một tờ báo Sài Gòn
có phỏng vấn Nam Phương, bà trả lời “Cuộc hôn nhân giữa tôi với Hoàng
thượng là một sự tình cờ. Chúng tôi gặp nhau trong một buổi dạ hội tại Đà Lạt
năm 1933. Lúc đó tôi mới 18 tuổi, tôi không để ý gì đến Hoàng đế, nhưng
Hoàng đế đã chú ý đến tôi...”.
Còn Bảo Đại thì viết trong hồi ký “Con Rồng An Nam” rằng “... Sau
những cuộc gặp gỡ trên sân quần vợt, những buổi dạ tiệc, dạ vũ tôi có đến thăm
M.J. Lan nhiều lần tại ngôi biệt thự sang trọng của gia đình họ Lê ở Đà Lạt. Cô
Lan là một cô gái có một vẻ đẹp thuỳ mị của người con gái miền Nam, hiền
lành và quyến rũ làm tôi say mê, vì vậy tôi ngỏ ý xin cưới M.J Lan và được gia
đình đồng ý”.
Một Hoàng hậu nhạy cảm với thời cuộc
Lễ thành hôn của vua Bảo Đại với M.J Lan được tổ chức ngày
20/3/1934, khi đó chú rể 21 tuổi, cô dâu 19 tuổi. Mặc dù là Hoàng đế, nhưng
Bảo Đại được hấp thụ văn hoá Phương Tây, đã bãi bỏ chế độ cung tần mỹ nữ ở
hoàng cung. Ngay sau lễ thành hôn 4 ngày ông đã sắc phong cho người vợ của
mình làm Nam Phương Hoàng hậu và theo lối sống gia đình truyền thống của
đạo Thiên chúa - một vợ một chồng.
Ông giải thích rằng “Nam Phương là hương thơm của miền Nam” và
rất yêu thương bà. Điều đó xem ra thật đúng bởi Nam Phương là người phụ nữ
sang trọng, nhưng không kiêu, có nụ cười kín đáo và không e lệ, lại rất nhạy
cảm với thời cuộc. Những năm bà còn chưa bận bịu con cái, Bảo Đại đi đâu
cũng sóng bước cùng Nam Phương, nhiều khi ông còn tự tay lái xe đưa bà đi
thăm thú các danh lam thắng cảnh của đất nước.
Nhưng đến năm 1936 bà sinh Hoàng tử Bảo Long, rồi năm 1937 sinh
Công chúa Phương Mai, năm 1938 sinh Công chúa Phương Liên, năm 1942
sinh Công chúa Phương Dung, bà không còn muốn đi chơi, mà dành mọi thời
gian chăm sóc nuôi dạy con cái. Đến năm 1948 bà sinh thêm một hoàng tử nữa,
đặt tên là Bảo Thắng.
Tháng 8/1945 phong trào cách mạng ngày một dâng cao, nội bộ Chính
phủ Trần Trọng Kim rạn nứt, không thể cứu vãn tình thế. Trong lúc rối ren như
vậy, Hoàng hậu Nam Phương đã nhiều lần tỉ tê to nhỏ với chồng, nhưng Bảo
Đại đâu có thèm để ý, vẫn chỉ chơi bời du hí, săn bắn với mấy cận thần. Bà chỉ
còn biết tâm sự, bàn bạc với ông Đổng lý văn phòng Phạm Khắc Hoè, người mà
bà coi là một bày tôi tâm phúc, trung thực của Hoàng triều, một vị quan am hiểu
thời cuộc, không xu nịnh, luôn một lòng vì dân vì nước.
Trước đó, chính bà là người đã đề đạt với ông Khâm sứ và thỉnh cầu
Đức vua nhiều lần để cất nhắc ông Phạm Khắc Hoè từ chức quan Quản đạo Đà
Lạt lên Ngự tiền Đổng lý văn phòng. Trong những ngày nước sôi lửa bỏng đó,
Nam Phương đã khuyến khích ông Hoè tìm cách liên lạc với các chiến sĩ cách
mạng để tìm kiếm lời khuyên, rồi phân tích, khuyên giải, nài nỉ Hoàng đế thoái
vị, tránh mọi sự chống đối cách mạng để không xảy ra cảnh đổ máu, nồi da nấu
thịt. Mọi đạo dụ trong đó vua Bảo Đại bày tỏ sẵn sàng giao chính quyền cho
Việt Minh, muốn làm “người dân một nước độc lập hơn làm vua một nước nô
lệ”... đều do ông Phạm Khắc Hoè soạn thảo và có sự bàn bạc chu đáo với Nam
Phương Hoàng hậu.
Sau khi Bảo Đại thoái vị, được Cụ Hồ mời ra Hà Nội làm cố vấn cho
Chính phủ cách mạng, Nam Phương vẫn ở lại Huế. Vào dịp Tết Nguyên đán
Bính Tuất (năm 1946), Chủ tịch UBHC Huế đến chúc tết và trao 10 nghìn đồng,
nói là của Cụ Hồ gửi vào để gia đình ông cố vấn ăn tết. Vào thời kỳ đó số tiền
này lớn lắm. Bà Nam Phương nhận và gửi lời cám ơn Cụ Hồ và UBHC Huế,
nhưng ngay sau đó bà đã chuyển toàn bộ số tiền đó cho các bà phước trông coi
cô nhi viện ở Huế để sắm tết cho trẻ mồ côi đang rất thiếu thốn. Sau khi giành
độc lập, nhà nước non trẻ của chúng ta rất cần tiền để cứu đói cho dân và kiến
thiết đất nước, nhưng chế độ cũ để lại một “gia tài trống rỗng”, kho bạc chỉ còn
khoảng 1 triệu đồng rách nát.
Trước tình hình đó Cụ Hồ đã phát động “Tuần lễ vàng”, hô hào và
khích lệ nhân dân cả nước ủng hộ tiền của, vàng bạc cho Chính quyền cách
mạng. Huế khai mạc “Tuần lễ vàng” vào ngày 17/9/1945 bên bờ sông Hương.
Hôm đó Nam Phương Hoàng hậu ăn mặc rất chỉnh tề, quần áo dài, đội khăn
vành màu vàng theo đúng trang phục của Hoàng hậu, cổ đeo kiềng vàng, tai đeo
bông vàng, hai cổ tay đeo 2 xuyến vàng, cả 10 ngón tay đều đeo nhẫn vàng...
đến nỗi mọi người trong Hoàng cung cũng phải ngạc nhiên vì chưa bao giờ bà
mặc đẹp và đeo nhiều vàng đến như vậy.
Rồi chuyện gì đã xảy ra, như mọi người đã biết, bà là người đầu tiên
đến bên khán đài, tháo mọi đồ trang sức đặt lên bàn, đề nghị được cung hiến cho
cách mạng. Hành động của Hoàng hậu được nhân dân và các cấp chính quyền
hồi bấy giờ nhiệt liệt hoan nghênh và thán phục. Theo gương Nam Phương,
nhiều nhà tư sản ở Huế đã hiến cả chục lạng vàng. Có nhiều người lúc đầu còn
chưa mang vàng theo người, nhưng khi thấy Nam Phương Hoàng hậu và những
người khác ủng hộ nhiều như vậy, thì cũng vội vàng về lấy vàng, mang đóng
góp.
Tổng kết “Tuần lễ vàng”, riêng nhân dân Huế đã đóng góp 925 lượng
vàng. Cuối năm 1946 Pháp đưa quân trở lại Nam Bộ với ý đồ xâm lược nước ta
lần nữa, Nam Phương Hoàng hậu đã viết một Thông điệp gửi thế giới để tố cáo
chính sách của thực dân Pháp. Qua bức thông điệp này người ta càng cảm phục
bà là người nhạy cảm chính trị, yêu nước, cảm thông sâu sắc với nỗi khổ của
người dân mất nước.
Là Hoàng hậu, nhưng được học hành tử tế ở một xứ sở văn minh, bà
hiểu rất rõ tình hình chính trị và âm mưu của thực dân Pháp muốn quay trở lại
áp bức đô hộ dân ta. Tuy chính quyền Pháp đưa Bảo Đại về trị vì Việt Nam,
nhưng thực chất ông chỉ là một Hoàng đế bù nhìn, không thực sự chấp chính,
mọi công việc nhất nhất do người Pháp sắp đặt.
Người vợ hiền thục
Biết ông cố vấn Vĩnh Thụy từ khi ra Hà Nội, xa gia đình, lao vào con
đường cờ bạc, lang chạ hết với người đàn bà này đến người đàn bà khác, Cụ Hồ
cho mời bà Nam Phương đem các con ra đoàn tụ với ông cố vấn. Là người vợ
yêu chồng, một nách 4 đứa con còn nhỏ, dù là Nam Phương hay ai đi nữa, cũng
đều muốn gần chồng, gia đình sum họp. Thế nhưng bà đã khéo léo từ chối vì sợ
rằng đất nước mới giành độc lập, ngân khố của Chính phủ còn nghèo, lại làm
phiền Cụ Hồ.
Nam Phương biết rõ Bảo Đại quen thói ăn chơi, thích thể thao, săn bắn,
du hí ... hơn là làm việc, nên bà cũng không lấy gì làm ngạc nhiên, khi Bảo Đại
được Cụ Hồ cho đi công tác Trung Quốc, ông ta đã tự ý ở lại, không trở về Việt
Nam. Chính phủ Pháp vẫn muốn nắm lấy Bảo Đại để một lần nữa đưa ông trở
lại vị trí đứng đầu chính phủ tay sai, nhưng lần này ở ghế Quốc trưởng. Thực ra
cũng từ khi Bảo Đại trốn ở lại Hồng Kông, Pháp đưa ông trở về vị trí đối lập với
Chính phủ của Cụ Hồ, khiến tâm trạng bà Nam Phương đã có những chuyển
biến.
Thời điểm này người ta thấy bà ít xuất hiện cùng Quốc trưởng Bảo Đại.
Sinh hoạt hàng ngày của bà chủ yếu là chăm lo cho các con, dạy các con chơi
đàn, đọc sách báo, hoặc ra vườn tưới hoa, tỉa lá. Buổi tối bà thích đánh đàn
dương cầm hoặc kể chuyện cổ tích cho các con nghe. Còn Bảo Đại từ khi lao
vào con đường ăn chơi với nhiều người đàn bà khác, ông ta cũng không còn
quan tâm mấy tới người vợ hiền thục nơi kinh đô Huế.
Năm 1952 bà đưa con sang Pháp sống tại lâu đài Thorenc ở Cannes,
biệt thự riêng của gia đình Bảo Đại. Sau năm 1955 Mỹ đưa Ngô Đình Diệm lên
làm Quốc trưởng ở miền Nam. Bảo Đại một lần nữa trở thành phế đế. Mặc dù
vậy, Chính phủ Pháp vẫn chu cấp cho gia đình ông một khoản tiền sinh hoạt,
nhưng không còn dư dả cho lắm, đến nỗi thiếu tiền ông phải bán cả lâu đài
Thorenc ở Cannes, cả chiếc du thuyền Hương giang Bảo Đại. Ông buồn chán,
bỏ đi lang thang nay đây mai đó, hầu như không còn ở với mẹ con bà Nam
Phương.
Không còn con đường nào khác, mẹ con bà dắt díu nhau về sống ở
Chabrignac, một trang trại riêng đã được gia đình mua cho bà từ lâu. Về đời
sống vật chất thì Nam Phương và các con bà không hề thiếu thốn. Cha đẻ
Nguyễn Hữu Hào và cha nuôi (cậu ruột) Denis Lê Phát An đã mua cho bà từ khi
còn là cô nữ sinh Paris những biệt thự lớn ở đại lộ Neuilly và Opera, những đồn
điền ở Maroc và Congo...
Nhưng bà ít quan tâm, mà chỉ giữ lại đồn điền ở Chabrignac gồm 160
mẫu đất với một đàn bò lớn gần trăm con và một vườn hoa hồng rất lớn, vì ngay
từ nhỏ bà đã rất yêu thứ hoa kiều diễm, hương thơm ngào ngạt này. Bà muốn
sống xa lánh mọi người cho yên tĩnh. Năm 1963 bệnh tim của bà tái phát ngày
càng nặng, trong một cơn đau tim, vì ở quá xa, bác sĩ bệnh viện không đến kịp,
bà đã vĩnh viễn từ giã trần gian ở tuổi 49. Cựu hoàng Bảo Đại về lo tang lễ cho
bà theo nghi lễ khá đơn giản của người Thiên chúa giáo, chỉ có những người
trong gia đình, vài người bạn thân ở địa phương.
Tuy nhiên, công chúa Như Lý con gái vua Hàm Nghi cũng tới viếng, vị
tỉnh trưởng và là dân biểu Pháp đã tới tiễn đưa bà về nơi an nghỉ cuối cùng.
Nam Phương là người phụ nữ thông minh, hiểu biết rộng, rất nhạy cảm chính
trị, giầu lòng yêu nước, là người vợ hiền thục, phúc hậu...sống cả cuộc đời
không một tiếng thị phi, một lời oán trách. Nhưng cũng thật buồn, phế đế Bảo
Đại suốt từ đó cho đến lúc vĩnh viễn rời bỏ thế giới này đã không một lần trở lại
viếng mộ Nam Phương, người vợ thuỷ chung và thật đáng yêu của ông!
Vĩnh Sơn
______________________
Nam Phương Hoàng hậu cuối cùng Triều Nguyễn
Lý Nhân - Phan Thứ Lang
Lời tác giả
Những câu chuyện về cuộc đời NAM PHƯƠNG Hoàng hậu cuối cùng
Triều Nguyễn
Thuở nhỏ, mái trường mà tôi đươ ̣c vinh ha ̣nh nhâ ̣p ho ̣c đầ u tiên là
trường Couvent des Oiseaux do các nữ tu trong dòng Đức Bà quản giáo to ̣a la ̣c
ta ̣i đường Parreua (gầ n Bưởi hay là đường Hoàng Hoa Thám) Hà Nô ̣i. Khi tôi
ho ̣c ở lớp mẫu giáo của trường Convent des Oiseaux thì bà Nam Phương Hoàng
hâ ̣u tới thăm. Chúng tôi là những ho ̣c sinh nhỏ tuổ i đươ ̣c cầ m những bó hoa tươi
đứng trước sân để nghênh đón Hoàng hâ ̣u. Hai em ho ̣c sinh Viê ̣t và Pháp bưng
hoa lên dâng tă ̣ng Nam Phương Hoàng hâu. Bà Nam Phương cám ơn nhà
trường và các em ho ̣c sinh, rồ i ôm hôn hai em đang tă ̣ng hoa.
Lý do bà Nam Phương tới thăm trường Convent des Oiseaux Hà Nô ̣i vì
những ngày du ho ̣c ta ̣i Pháp, bà Nam Phương đã có thời gian theo ho ̣c trường
Convent des Oiseaux Paris cũng do các nữ tu dòng Đức Bà phu ̣ trách mà hồ i đó
người ta đề u kêu danh xưng là các Me ̣ (Mère)
Bà Nam Phương có net mă ̣t hiề n hâ ̣u và đa ̣o ha ̣nh. Hình ảnh Nam
Phương hoàng hâ ̣u vấ n khăn vành vàng in trên con tem đã để la ̣i ấ n tươṇ g trong
nhiề u người lớn tuổ i. Đế n năm 1945 tôi đo ̣c báo thấ y bà hưởng ứng Tuầ n Lễ
Vàng ta ̣i Huế bằ ng hành đô ̣ng tự trao tấ t cả những quý kim vàng ba ̣c châu báu
mà bà đang mang trên người để tă ̣ng Nhà nước mua vũ khí chố ng thực dân
Pháp. Rồ i bà Nam Phương còn là m viê ̣c thiê ̣n, như vào dip̣ Tế t năm 1946, Chủ
̣ Ủy ban Hành chánh Huế trao bà Nam Phương số tiề n 10 ngàn đồ ng ba ̣c, nó i
tich
là của Hồ Chủ Tich ̣ chuyể n vào để tă ̣ng bà và gia đình ăn Tế t. Với số tiề n nà y
thời đó là lớn lắ m. Bà Nam Phương nhâ ̣n số tiề n trên, gởi lời cảm ơn Cu ̣ Hồ và
Ủy ban Hành chánh Huế . Sau đó, bà Nam Phương đã chuyể n số tiề n 10 ngàn
đồ ng ba ̣c cho các bà phước trông coi cô nhi viê ̣n ở Huế để các cháu ăn tế t mà
các cô nhi đang thiế u thố n vì chiế n tranh vừa xảy ra.
Cũng năm 1946, bà Nam Phương còn có mô ̣t hành đô ̣ng yêu nước khi
thực dân Pháp đem quân trở la ̣i xâm lươ ̣c Viê ̣t Nam. Đó là bà đã viế t mô ̣t lá thư
ngỏ như mô ̣t Thông điê ̣p (Message) gửi tới những ba ̣n hữu ở châu Âu và thế
giới yêu cầ u ho ̣ lên tiế ng tố cáo sự trở la ̣i của quân đô ̣i Pháp là m đổ máu đồ ng
bào Nam bô ̣.
Những hành đô ̣ng trên không riêng cá nhân tôi trân tro ̣ng, mà mo ̣i
người đề u kin ́ h phu ̣c nhân cách của mô ̣t bà cựu hoàng hâ ̣u nước Viê ̣t. Vì vâ ̣y,
khi bước chân vào là m báo, với lòng ngưỡng mô ̣, tôi đã cố công sưu tầ m những
tư liê ̣u, sách, báo đã viế t về bà Nam Phương để dành làm tư liê ̣u.
Cuô ̣c đời bà Nam Phương từ thuở thơ ấ u đế n khi trưởng thành, lấ y
chồ ng và trở thành hoàng hâ ̣u có thể nói rấ t ha ̣nh phúc. Bảo Đa ̣i đã giữ đúng lời
hứa chỉ có mô ̣t vơ ̣ mô ̣t chồ ng. Nhưng sau năm 1945 vì tình thế và hoành cảnh,
Ba ̣o Đa ̣i đã thay tiń h đổ i nế t, ăn chơi, cờ ba ̣c, và quan hê ̣ với nhiề u phu ̣ nữ “ già
ngân ngãi non vơ ̣ chồ ng ” mà người ta go ̣i là những thứ phi của Bảo Đa ̣i. Tuy
vâ ̣y, bà Nam Phương cũng không có mô ̣t hành đô ̣ng nào làm xáo trô ̣n gia đình,
nế u có bà chỉ nhỏ nhe ̣ than với mấ y người thân câ ̣n. Những hành đô ̣ng như đánh
ghen, chửi bới, hãm ha ̣i tiǹ h đich ̣ bà Nam Phương không bao giờ có. Những
chuyê ̣n cho rằ ng bà Nam Phương cho người cầ m súng ha ̣ tiǹ h đich, ̣ nhưng tin ̀ h
đicḥ không hề hấ n gì mà Bảo Đa ̣i la ̣i bi ̣tro ̣ng thương chỉ là những giai thoa ̣i và
thêu dê ̣t của những người không ưa Bảo Đa ̣i.
Từ lúc về là m dâu nhà Nguyễn, trở thành bà Hoàng hâ ̣u, chúng tôi chưa
thấ y mô ̣t ai chê trách hay than phiề n về cung cách hay lời ăn tiế ng nói của Nam
Phương. Trái la ̣i, Bảo Đa ̣i bi tai
̣ tiế ng và người đời chê trách khá nhiề u.
Trong cuố n “Giai thoa ̣i và sự thâ ̣t về Bảo Đa ̣i - vua cuố i cùng triề u
Nguyễn” của tôi đã đươ ̣c xuấ t bản có nhiề u phầ n viế t về Nam Phương - người
vơ ̣ đầ u tiên và chính danh của Bảo Đa ̣i. Song theo yêu cầ u của ba ̣n đo ̣c muố n
tìm hiể u đầ y đủ hơn về bà Nam Phương, tôi đã hê ̣ thố ng la ̣i tư liê ̣u để viế t tiế p
cuố n sách nhỏ này, với tên go ̣i “Những câu chuyê ̣n về cuô ̣c đời Nam Phương -
hoàng hâ ̣u cuố i cùng triề u Nguyễn”.
Vì những câu chuyê ̣n đươ ̣c sưu tầ m, góp nhă ̣t từ nhiề u nguồ n tư liê ̣u
nên chắ c chắ n không tránh khỏi những nhầ m lẫn, sai sót. Nế u phát hiê ̣n mong
ba ̣n đo ̣c góp ý và lươṇ g thứ.
Nhân đây chúng tôi xin chân thành cảm ơn đế n những tác giác có tác
phẩ m mà chúng tôi sử du ̣ng, trić h dẫn trong cuố n sách này. Thành thâ ̣t cảm ta ̣.
Sài gòn - TP. Hồ Chí Minh thánh 9-2006
Lý Nhân PHAN THỨ LANG
______________________
1. Gái thuyề n quyên đấ t Nam bô ̣ trở thành vơ ̣ các vua triề u Nguyễn
Đấ t Nam bô ̣ có nhiề u trai anh hùng phò chúa Nguyễn mở mang bờ cõi
và cũng có nhiề u “gái thuyề n quyên” đươ ̣c tiế n vào cung là m vơ ̣ cách vua triề u
Nguyễn.
Như chúng ta đã biế t, 25 năm ròng rã bôn ba đấ t Nam bô ̣ và đươ ̣c gầ n
gũi các câ ̣n thầ n người miề n Nam như các ông Nguyễn Huỳnh Đức, Lê Quang
Đinh,̣ Pha ̣m Đăng Hưng… thế mà Gia Long la ̣i không có mô ̣t mố i tiǹ h nào với
những người đe ̣p đấ t Nam bô ̣ kể cũng la ̣. Hay chiń h sử và ngoa ̣i sử ky ̣ húy, sơ ̣
pha ̣m thươṇ g không dá m ghi la ̣i chăng? Hay Nguyễn Ánh lúc đó ta ̣m gác la ̣i
“tiǹ h duyên” để lo “đa ̣i sự” mà chưa nghi ̃ đế n mô ̣t bóng thuyề n quyên nào ở đấ t
Nam bô ̣?
Nhưng hâ ̣u duê ̣ của Gia Long là vua Minh Ma ̣ng đã có mấ y bà vơ ̣
người miề n Trung rồ i, la ̣i tuyể n bố n gái thuyề n quyên miề n Nam ra Huế để tiế n
vào cung hầ u ha ̣ nhà vua, là những bà dưới đây mà sử sách đề u ghi:
1. Bà Hồ Thi ̣ Hoa (1791 - 1807), sau đươc̣ phong là m Tá Thiên Nhân
Hoàng hâ ̣u. Bà Hoa là người Biǹ h An, tỉnh Biên Hòa. Bà là con gái của ông Hồ
Văn Bôi, sau ông đươ ̣c phong Phúc Quố c Công. Vì húy tên bà là Hoa nên sau
này ở Gia Đinh
̣ có mô ̣t cây cầ u Hoa phải go ̣i là cầ u Bông. Còn ở Huế có Cửa
Đông Hoa đã phải đổ i là Cửa Đông Ba, và vở tuồ ng hát bô ̣i nổ i tiế ng là Phàn Lê
Hoa cũng phải đổ i là Phàn Lê Huê… Đă ̣c biê ̣t bà Hoàng hâ ̣u này không có mô ̣t
người con nào.
2. Bà Nguyễn Thi ̣ Khuê, tự Bích Chi, đươ ̣c phong Hòa Tầ n, người
huyê ̣n Phúc Lô ̣c, tỉnh Gia Đinh,
̣ là con gái của quan Chưởng Cơ Nguyễn Văn
Thanh, trấ n phủ tỉnh Quảng Nam. Bác Bić h Chi sinh đươ ̣c bố n Hoàng tử và sáu
Công chúa.
3. Bà Nguyễn Thi ̣Nhân, phong Cung Tầ n, người Gia Đinh.̣ Là con gái
Chiń h Đô ̣i Nguyễn Văn Châu. Bà này sinh đươ ̣c mô ̣t Hoàng tử là Miên Ký,
người giỏi văn chương trong triề u Tự Đức, và đươ ̣c phong tước Cẩ m Quố c
công.
4. Bà Nguyễn Thi ̣ Bảo (1801 - 1951) đươ ̣c phong là Thu ̣c Thầ n, người
Gia Đinh ̣ là con của quan Tư không Nguyễn Khắ c Thiê ̣u. Bà này sinh đươ ̣c mô ̣t
Hoàng tử là Miên Thẩ m (1818 - 1870) và ba Công chúa là Viñ h Trinh (1824 -
1892), Trinh Thâ ̣n (1824 - 1904), và Tiñ h Hòa (1830 - 1882). Cả bố n người con
trên đề u trở thành những nhà thơ nổ i danh ở đấ t Thầ n Kinh nói riêng và cả nước
nói chung mà đế n bây giờ người ta vẫn còn nhớ đế n những bút danh: Tùng
Thiê ̣n Vương, Quy Đức, Man Am và Huê ̣ Phố với những bài thơ tuyê ̣t tác và
bấ t hủ.
Đế n hâ ̣u duê ̣ của vua Minh Ta ̣ng là vua Thiê ̣u Tri,̣ thì cũng có ba bà vơ ̣
là người miề n Nam, là các bà:
1. Pha ̣m Thi ̣ Hằ ng có tự là Nguyê ̣t (còn theo Viê ̣t Nam tự điể n của tác
giả Lê Văn Đức thì Pha ̣m Thi ̣ Hằ ng tự Hào), là người huyê ̣n Tân Hòa tỉnh Gò
Công. Bà là con quan Lễ Bô ̣ Thươṇ g thư Pha ̣m Đăng Hưng. Bà Pha ̣m Thi ̣Hằ ng
đươ ̣c phong là Hoàng Thái hâ ̣u Từ Du ̣. Bà là người hiề n thu ̣c, đoan trang nên
đươ ̣c Thuâ ̣n Thiên Cao Hoàng hâ ̣u tuyể n vào cung cho làm vơ ̣ Hoàng tử Miên
Tông, tức vua Thiê ̣u tri.̣ Bà Hằ ng đã sinh đươ ̣c hai Công chúa và mô ̣t Hoàng tử
là Hồ ng Nhâ ̣m, tức vua Tự Đức. Bà Từ Du ̣ đã số ng qua 10 đời vua kể từ vua
Gia Long là thời gian bà chào đời cho tới lúc ha ̣ thế là năm 1901 đời vua Thành
Thái thư 13. Đây là mô ̣t bà Hoàng hâ ̣u đã đươ ̣c số ng nhiề u triề u đa ̣i, đươ ̣c mắ t
thấ y tai nghe nhiề u sự kiê ̣n xảy ra trong triề u Nguyễn.
2. Bà Nguyễn Thi ̣ Nhâ ̣m, tước Lê ̣nh Phi, người An Giang (Long
Xuyên), là con của Kinh môn Quâ ̣n công Nguyễn Văn Nhân. Bà Nguyễn Thi ̣
Nhâ ̣m đươ ̣c tuyể n vào cung cùng mô ̣t thời gian với bà Pha ̣m Thi ̣ Hằ ng. Nhưng
vì bà Nhâ ̣m chỉ sinh đươ ̣c mô ̣t Hoàng nữ là Công chúa Nhàn Yên An Tha ̣ch,
nên bà Nhâ ̣m chỉ đươ ̣c phong tước là Lê ̣nh Phi.
3. Bà Nguyễn Thi ̣ Huyên, đươ ̣c phong tước là Đức Tầ n, là người miề n
Nam, nhưng nguyên quán la ̣i là Thừa Thiên, là con của Cai cơ Nguyễn Đức
Xuyên. Bà này sinh đươ ̣c mô ̣t Hoàng tử là Hồ ng Diêu (1845 - 1875), đây là vi ̣
Hoàng tử thứ 25 của vua Thiê ̣u Tri.̣ Tới hâ ̣u duê ̣ của vua Thiê ̣u Tri ̣ là vua Tự
Đức có mô ̣t bà vơ ̣ người miề n Nam là Nguyễn Thi ̣ Hương, đươ ̣c phong tước
Ho ̣c Phi, người đấ t Viñ h Long. Bà Hương không có con nên đã nhâ ̣n công tử
Ưng Thi,̣ sinh năm 1870, là con mê ̣ Hường Cai làm con nuôi. Đế n khi vua Tự
Đức ta ̣ thế là Ưng Thi đươ
̣ ̣c tôn làm vua tức vua Kiế n Phúc.
Như trên chúng tôi đã viế t, đã có bảy phu ̣ nữ miề n Nam đã trở nên
Hoàng hâ ̣u triề u Nguyễn. Đế n thời thứ 13 triề u Nguyễn Nguyễn Viñ h Thu ̣y tức
vua Bảo Đa ̣i cũng lấ y vơ ̣ người miề n Nam, và đă ̣c biê ̣t là ngay khi cưới đã đươ ̣c
phong làm Hoàng hâ ̣u, không như các vua tiề n nhiê ̣m, khi vua băng hà thì các
bà mới đươ ̣c cho ̣n để phong Hoàng hâ ̣u, hay Hoàng Thái hâ ̣u.
Người phu ̣ nữ người miề n Nam thứ tám đươ ̣c phong làm Hoàng hâ ̣u là
bà Nguyễn Hữu Thi ̣Lan chúng tôi xin dành những trang sau sẽ viế t đầ y đủ hơn.
Vì bà Nguyễn Hữu Lan tức Nam Phương Hoàng hâ ̣u cũng là bà Hoàng hâ ̣u cuố i
cùng triề u Nguyễn.
Ở đây chúng tôi cũng xin viế t thêm về mô ̣t bà Hoàng hâ ̣u triề u Nguyễn
đã đươ ̣c nhiề u sách báo nhắ c nhở đế n về công đức và đa ̣o ha ̣nh là bà Từ Du ̣. Vì
bà Từ Du ̣ là người đã có nhiề u ảnh hưởng đế n các vua: Thiê ̣u Tri,̣ Tự Đức, Hiê ̣p
Hòa, Kiế n Phúc, Hàm Nghe… Và trong số các Phi tầ n, bà Từ Du ̣ đươ ̣c Hoàng
tử Miên Tông khi lên ngôi vua, đã phong bà làm Chánh phi và đươ ̣c phép ngồ i
phiá sau bức màn nghe những lời vua bàn ba ̣c với các Quan đa ̣i thầ n. Ngoài viê ̣c
giúp vua về chính tri,̣ bà Từ Du ̣ còn trôn gnom sắ p đă ̣t những viê ̣c trong cung
với tư các mô ̣t nữ quan cao cấ p. Bà rấ t nhân từ đố i với các Phi tầ n dưới quyề n,
không bao giờ ganh ty ̣ hay đố ky,̣ thương yêu con của các Phi tầ n khác như
chính con của bà, nên vua Thiê ̣u tri thượ ̀ ng ban lời khen ngơị .
Như vâ ̣y, trong 8 bà Hoàng hâ ̣u đấ t Nam bô ̣ làm dâu Triề u Nguyễn thì
có 2 bà đươ ̣c người ta nhắ c đế n nhiề u nhấ t và trong sách, sử… cũng ca ngơị
tánh nế t đoan trang, nhân từ với mo ̣i người, không phân biê ̣t sang giàu và chính
kiế n. Đó là bà Từ Du ̣ tức Bác Huê ̣ Thái Hoàng hâ ̣u vơ ̣ vua Thiê ̣u Tri.̣ Và bà
Nam Phương Hoàng hâ ̣u, tức Nguyễn Hữu Thi ̣ Lan, vơ ̣ vua Bảo Đa ̣i. Cả hai bà
Hoàng hâ ̣u Từ Du ̣ và Nam Phương đề u nguyên quán đấ t Gò Công-Nam Bô ̣.
2. Đấ t Gò Công: “Điạ linh nhân kiê ̣t”
Nói hay viế t đế n chữ “Điạ Linh Nhân Kiê ̣t” không phải là viê ̣c mê tín
nhả m nhi,́ mà từ xưa đế n nay các tác giả viế t về điạ lý như Tả Ao đã nói về
phong thủy, chỗ này đấ t tố t, chỗ kia đấ t xấ u… đề u gầ n như đúng, và nay nhiề u
tác giả viế t và nghiên cứu về tư liê ̣u Phong thổ (phong thủy) để nhiề u người
nghiên cứu và áp du ̣ng. Nhưng đúng hay sai cũng còn tùy ở con người tố t hay
xấ u. Ở đây chúng tôi chỉ căn cứ trong bô ̣ Hoàng Viê ̣t điạ dư chí đời vua Minh
ma ̣ng thứ 14 năm 1883, và cuố n Cours d’Histoire Annamite của ho ̣a giả Trương
Viñ h Ký viế t và in năm 1877. Hai tác phẩ m giá tri ̣ trên đế n nay nhiề u nhà
nghiên cứu vẫn còn phải dùng tới.
Ở đây chúng tôi nói về điạ dánh Gò Công, nơi đã sản sinh ra những
nhân vâ ̣t nổ i danh cả về đức và tài đã đươ ̣c nhiề u sử sách nhắ c đế n.
Từ xưa đấ t Gò Công trong bô ̣ Đa ̣i Nam quố c sử của cu ̣ Phan Thanh
Giản đã đươ ̣c viế t và đánh giá là “Điạ Linh Nhân Kiê ̣t”, căn cứ vào điạ lý và
nhân văn đã có hai giả thuyế t đinḥ nghiã chữ Gò Công.
- Giả thuyế t thứ nhấ t: Gò Công xưa là phầ n đấ t của xứ Phù Nam, khi
Chúa Hiề n tức Nguyễn Phúc Tầ n, đinh cuô ̣c di dân Nam tiế n, người Viê ̣t mớ i
dời vào đây để đinh
̣ cư. Khi đó Gò Công còn là đấ t rừng, chưa có ai tới cư ngu ̣.
Nơi này có mô ̣t cái gò cao, có nhiề u giố ng chim công trú ở nên người ta go ̣i
ngay là Gò Công. Và trong sử đã ghi chép về danh từ điạ phương là: khi vua
Minh Ma ̣ng ra lê ̣nh cho các quan điạ phương đổ i tên nôm na các tỉnh thành chữ
Nho cho nho nhã, thì “Gò Công” đã biế n thành “Khổ ng Tước Nguyên”, cũng
như Đồ ng Nai thì đổ i là “Lô ̣c Dã”, còn Bế n Tre thì đổ i là “Trúc Giang”, và Sóc
Trăng đổ i là “Nguyê ̣t Giang” (tức Sông Trăng)…
- Giả thuyế t thứ hai: Người ta kể la ̣i, ở xứ này trước đây có mô ̣t ngườ i
phu ̣ nữ tên là Thi ̣ Công, đế n lâ ̣p quán bán thức ăn cho dân khai thác đồ n điề n.
Lâu dầ n, nhâ ̣n thấ y Gò Công là đấ t dễ sinh nhau nên dân chúng các nơi hô ̣i tu ̣
về đây khẩ n hoang từng lâ ̣p rẫy, lâ ̣p làng. Số người đế n đây mỗ i ngày mô ̣t tăng,
từ đó dân điạ phương quen miê ̣ng nên go ̣i là quán Bà Công, hay Gò Bà Công.
Rồ i lâu ngày dân đã bỏ chữ bà đi mà go ̣i tắ t là Gò Công. Và danh từ điạ phương
Gò Công đã tồ n ta ̣i từ đó đế n nay.
Đấ t Gò Công từ ngàn xưa đã sản sinh ra những nhân tài như Pha ̣m
Đăng Hưng, như Trương Công Đinh ̣ chố ng Pháp thời vua Tự Đức, khi ta ̣i thế
đươ ̣c vua Tự Đức phong Đa ̣i Nam Biǹ h Tây Đa ̣i tướng quân Trương Công
Đinh.
̣ Những dòng chữ này đã đươ ̣c khắ c trên bia mô ̣ của Công Đinḥ ta ̣i Gò
Công.
Khi thực dân Pháp thố ng tri ̣ đấ t Nam bô ̣, ho ̣ đã bầ m nát hàng chữ trên
và còn pha ̣t va ̣ bà Trầ n Thi ̣ Sinh, là người quả phu ̣ của Trương Công Đinh ̣ 10
ngàn đồ ng vì người Pháp nêu lý do Trương Công Đinh ̣ ta ̣o ra cuô ̣c phiế n loa ̣n
chố ng người Pháp.
Đế n đời vua Bảo Đa ̣i đã phong tước Trương Công Đinh ̣ là: “Đa ̣i Nam,
Phấ n dõng Đa ̣i tướng quân truy tă ̣ng Ngũ Quân quâ ̣n công”, cho phép tu sửa la ̣i
phầ n mô ̣ ho ̣ Trương trang tro ̣ng hơn trước, và năm 1955, ông Nguyễn Huỳnh
Mai phu ̣ng đề hai câu đố i liễn ở mô ̣ bia như sau:
Mă ̣t trước: “Trương chí quâ ̣t cường, võ liê ̣t nêu cao đấ t Viê ̣t - Đinh
̣ tâm
kháng chiế n, văn mờ chói ra ̣ng trời Nam.”
Mă ̣t sau: “Huyê ̣n Tân Hòa, khẳ ng khái Cầ n Vương, tờ chiế u ngo ̣c -
̃ chiế c gươm vàng”.
Làng Gia Thuâ ̣n, thung dung tựu nghia,
Hàng năm, cứ vào ngày 18 tháng 7 Âm lich
̣ có nhiề u người tới thắ p
nhang viế ng mô ̣ ho ̣ Trương.
Ta ̣i Gò Công còn có đề n thờ Võ Quố c Công tức Võ Tánh. Miế u nay đă ̣t
ta ̣i Gò Tre, nơi Võ Tánh dựng cờ tu ̣ nghiã chiêu tâ ̣p quân lính giúp Nguyễn Ánh
đánh quân Tây Sơn. Sau đó Võ Tánh ra Bình Đinh ̣ để tiế p tu ̣c giúp nhà Nguyễn
đánh quân Tây Sơn và Võ Tánh đã ta ̣ thế ta ̣i đây.
Nơi nguyên quán Võ Tánh là Gò Công, ấ p Gò Tre có hai câu đố i ghi
công ơn ho ̣ Võ như sau:
“Khổ ng Tước kỳ, khẳ ng khái Cầ n vương, tam hùng thủ liê ̣t.
Bàn Sà đia,̣ thung dung tựu nghiã , nhứt biế n Trung hưng”.
Đi theo Võ Tánh để phò vua Nhà Nguyễn còn có ông Nguyễn Văn
Hiể u. Ông là mô ̣t người có tài, có đức, cương trực, và liêm khiế t, đã có công lớ n
đố i với vua Gia Long. Ông đươ ̣c cử ra làm trấ n thủ Sơn Nam ha ̣ (tức tỉnh Nam
Đinh).
̣ Làm quan tới đời vua Minh ma ̣ng thứ 13, và đươ ̣c thăng Thự Tả quân Đô
thố ng phủ Chương phủ sự. Khi ông ta ̣ thế , vua Minh Ma ̣ng phong Lương năng
bá. Con trai của ông Nguyễn Văn Hiể u là Nguyễn Văn Túc, có vơ ̣ là công chua
Chương Gia. Ông Túc đươ ̣c phong Phò mã Đô úy.
Thế kỷ 19-20, đấ t Gò Công đã nảy sinh ra những nhân vâ ̣t ho ̣c giỏi, giữ
nhiề u chức vu ̣ cao và nổ i danh. Như ông Lê Quang Liêm tự Bẩ y Liêm hay Phủ
Liêm. Ông Nguyễn Minh Chiế u, người gố c Gò Công, cũng là người nổ i danh.
Tiế p sau là Luâ ̣t sư Vương Quang Nhường, nhà văn Hồ Biể u Chánh tên thâ ̣t là
Hồ Văn Trung làm tới chức Đố c phủ sứ. Ngoài giờ là m công chức, cu ̣ Hồ Biể u
Chánh còn viế t tiể u thuyế t, làm thơ và là m báo. Cu ̣ Hồ Biể u Chánh để la ̣i 44 tác
phẩ m truyê ̣n dài, truyê ̣n ngắ n rấ t giá tri.̣ Hiê ̣n nay các nhà làm phim đang lấ y
những tác phẩ m của Hồ Biể u Chánh, như Nơ ̣ đời, Tro ̣n nghiã ve ̣n tiǹ h… để là m
các phim truyê ̣n.
Về tôn giáo có Giám mu ̣c Nguyễn Bá Tòng, là vi ̣ giám mu ̣c tiên khởi
của hàng giáo phẩ m Viê ̣t Nam. Giám mu ̣c Nguyễn Bá Tòng cũng là vi ̣ giám
mu ̣c đa ̣o đức và lỗ i la ̣c của giáo hô ̣i Công giáo Viê ̣t Nam 1932 - 1949.
Những vi ̣mà chúng tôi nhắ c đế n trên đề u là giới nam. Còn giới nữ, gố c
Gò Công cũng nổ i danh, mà la ̣i nổ i danh tô ̣t đỉnh triề u đình nhà Nguyễn là bà
Pha ̣m Thi ̣ Hằ ng, con gái ông Pha ̣m Đăng Hưng đã trở thành nàng dâu nhà
Nguyễn tức là bà Từ Du ̣, đươ ̣c phong Nghi Thiên Chương Hoàng hâ ̣u, vơ ̣ của
vua Thiê ̣u Tri,̣ là me ̣ vua Tự Đức. Và bà thứ hai là Nguyễn Hữu Thi ̣ Lan, con
gái ông Nguyễn Hữu Hào, làm vơ ̣ vua Bảo Đa ̣i, đươ ̣c phong Nam Phương
Hoàng hâ ̣u.
Hai bà Hoàng hâ ̣u triề u Nguyễn gố c Gò Công đề u đươ ̣c người đời tôn
kiń h là bâ ̣c mẫu nghi vì đa ̣o đức, tài giỏi và thương dân, thương nước.
3. “Tam cung Lu ̣c viê ̣n”
Nước ta, kể từ triề u Nguyễn Gia Long các vua vì theo phong tu ̣c của
Trung Hoa nên vua nào cũng có mô ̣t bà vơ ̣ chính thức đươ ̣c go ̣i là Nhấ t giai phi,
chỉ khi chế t mới đươ ̣c tôn là Hoàng hâ ̣u, ngoài ra còn cho ̣n nhiề u Phi tầ n, Cung
nữ tuyể n vào cung để làm vơ ̣ thứ. Nhưng kể từ Gia Long lên ngôn Hoàng đế thì
chức Hoàng hâ ̣u bi ̣ bãi bỏ vì nhà vua sơ ̣ các bà hoàng lô ̣ng quyề n chiế m đoa ̣t
ngôi vua. Vì vâ ̣y, Gia Long đã đă ̣t ra “Tứ bấ t lâ ̣p”, theo thứ tự như sau:
- Bấ t lâ ̣p Hoàng hâ ̣u (Không lâ ̣p Hoàng hâ ̣u).
- Bấ t lâ ̣p Đông cung (Không lâ ̣p Thái tử).
- Bấ t lâ ̣p Tể tướng (Không đă ̣t chức Tể tướng).
- Bấ t lâ ̣p Tra ̣ng nguyên (Không lấ y ai đâ ̣u Tra ̣ng nguyên).
Sau đó chia ra là m “Cửu giai” và theo thứ tự các bà vơ ̣ từ đầ u đế n cuố i
như sau:
- Nhấ t giai phi.
- Nhi ̣giai phi.
- Tam giai tân.
- Tứ giai tân.
- Ngũ giai Tiê ̣p dư.
- Thấ t giai Thu ̣c nhân.
- Bát giai Mỹ nhân.
- Cửu giai Tài nhân.
Viê ̣c sắ p xế p trên cũng như các cấ p bâ ̣c quan la ̣i đươ ̣c chia ra thứ tự
gồm “Cửu phẩ m”. Như vâ ̣y bà nào đứng đầ u trong “Cửu giai” thì đươ ̣c go ̣i là
Hoàng Quý phi. Lê ̣ này đươ ̣c duy trì tới 12 đời vua triề u Nguyễn, và tới Bảo Đa ̣i
là vi ̣vua thứ 13 mới cho lâ ̣p la ̣i chức Hoàng hâ ̣u.
Cũng vì sơ ̣ Phi tầ n, Cung nữ trong Hoàng cung quá đông nên nhà vua
đã cho lê ̣nh xây cấ t “Tam cung” và “Lu ̣c viê ̣n” cho mỗ i bà ở mô ̣t phòng riêng
mới đủ chỗ.
Ở Tam cung la ̣i chia ra làm 3 cung:
Cung Diên Tho ̣, là nơi dành cho các bà Hoàng Thái hâ ̣u, Thái Thái hâ ̣u
là các bà vơ ̣ của các vua đã băng hà (ta ̣ thế ), và có các viên Thái giá m ở đó
nữa.Cung Trường Sinh dành cho các bà vơ ̣ vua đang ta ̣i ngôi, như các bà Lê ̣
Thiên, vơ ̣ của vua Tự Đức, và bà Từ Minh, vơ ̣ của vua Du ̣c Đức cũng đã từng ở
nơi này.Cung Khôn Thái đươ ̣c thiế t lâ ̣p ở gầ n điê ̣n Cầ n Thánh chỗ vua ở. Cung
này dành riêng cho các bà Hoàng Quý phi. Trong cung này có mô ̣t điê ̣n tên là
Cao Minh Trung Chính, điê ̣n này lâ ̣p vào năm Gia Long thứ ba. Ở phiá đông
của điê ̣n Cao Minh Trung Chiń h có mô ̣t nhà hát để nô ̣i cung hát riêng cho vua
̣ quan. Còn Lu ̣c viê ̣n gồ m có 6 viê ̣n là:
xem và go ̣i là Viê ̣n Tinh
Viê ̣n Thuâ ̣n Huy, nằ m ở giữa điê ̣n Cầ n Thánh và điê ̣n Cao Minh Trung
Chiń h. Ở phiá tây viê ̣n Thuâ ̣n Huy la ̣i có:Viê ̣n Đoan Thuâ ̣n.Viê ̣n Đoan
Hòa.Viê ̣n Đoan Huy.Viê ̣n Đoan Trường.Viê ̣n Đoan Trang. Ngoài Cung Diên
Tho ̣ ra, những cung và viê ̣n kể trên là chỗ dành cho các cung phi, mỹ nữ vơ ̣ của
những vua đang tri ̣vi,̀ và đề u nằ m ở cả trong Tử Cấ m thành. Nơi này ngoài vua
ra, chỉ có các Thái giám đươ ̣c lui tới thôi, các đàn ông khác không đươ ̣c phép
bén mảng tới nơi này.
Những Phi tầ n, Cung nữ đề u đươ ̣c tuyể n cho ̣n trong những gia điǹ h các
cô con gái của các quan Đa ̣i thầ n, ngoài ra cũng có khi cho ̣n trong hàng con
thường dân nhưng phải có sắ c đe ̣p đă ̣c biê ̣t và nhấ t là phải có đức ha ̣nh đoan
trang.
Lúc mới đươ ̣c tuyể n vào cung, các cô gái này đươ ̣c đứa đế n ở Đoan
Trang viê ̣n để ho ̣c tâ ̣p cách ăn mă ̣c, đi đứng và các nghi lễ trong cung. Mô ̣t khi
đã đươ ̣c tiế n vào cung, những Phi tầ n, Cung nữ này không đươ ̣c phép gă ̣p mă ̣t
bấ t cư ai bên ngoài nữa kể cả cha me ̣ anh chi ̣ em. Cũng có trường hơ ̣p đă ̣c biê ̣t
hiế m lắ m nhà vua mới cho phép cha me ̣ vào Nô ̣i cung để thăm con, nhưng chỉ
đươ ̣c nói chuyê ̣n với con qua mô ̣t bức màn sáo che không thấ y mă ̣t con. Người
nào có con đươ ̣c tiế n vào cung là coi như mấ t con vì it́ khi nào đươ ̣c gă ̣p la ̣i mă ̣t
con nữa.
Trong “Tam cung Lu ̣c viê ̣n” có các thi ̣ nữ (hay nữ tỳ cũng vâ ̣y) để hầ u
ha ̣ các Phi tầ n. Còn nhiê ̣m vu ̣ của các Thái giá m là trông nom và săn sóc cho
các Phi tầ n. Vì Thái giám có nhiê ̣m vu ̣ kiể m tra các hành đô ̣ng của Phi tầ n và
mỗ i lầ n vưa ngự đế n “ngự dâm” với các bà nào thì viên Thái giám phải ghi chép
giờ, ngày tháng cho đúng xem bà nào có thai trước, đẻ con trai hay con gái.
Những viên Thái giám cũng đươ ̣c chia ra làm hai loa ̣i. Mô ̣t loa ̣i là
“Giám sinh”, tức trời sinh ra ngay khi lo ̣t lòng đã phi nam phi nữ, nghiã là
không có hô ̣ “sinh du ̣c nam” hay “sinh du ̣c nữ”. Và loa ̣i thứ hai là “Giám lă ̣t” là
̣
bi thiế n mấ t “của quý”.
Theo cu ̣ Hoàng Tro ̣ng Thươ ̣c cho biế t thì xưa ta ̣i làng nào có “Giá m
sinh” ra đời thì cha me ̣ phải đi triǹ h làng để các cơ quan hữu trách triǹ h lên Bô ̣
và Bô ̣ sẽ cho nuôi nấ ng và da ̣y dỗ đứa trẻ theo nghi lễ trong cung để khi lớn lên
thì đưa vào Nô ̣i cung làm Thái giá m. Những đứa trẻ này người ta thường go ̣i là
ông “Bô ̣”.
Thông lê ̣, thời xưa làng, xã nào sinh sản đươ ̣c ông “Bô ̣”, lớn lên đươ ̣c
tuyể n vào cung sẽ đươ ̣c nhà vua ký sắ c cho miễn thuế ba năm.
Còn các Phi tầ n, Cung nữ thì sao? Ở trong cung có hàng chu ̣c, có khi
hàng trăm cô để hầ u ha ̣ chăn gố i cho vua. Nhưng sức người có ha ̣n, là m sao vua
ban ân sủng hế t đươ ̣c, bởi vâ ̣y có nhiề u cô từ khi đươ ̣c “tiế n” vào cung, cho tới
khi vua băng hà vẫn chưa mô ̣t lầ n đươ ̣c vua lâm ha ̣nh, và kế t quả cô này vẫn
còn trinh.
Cũng theo cu ̣ Hoàng Tro ̣ng Thươ ̣c, thì mỗi khi vua giá lâm đế n Tam
cung Lu ̣c viê ̣n để “ngự dâm” thì thường dừng xe do mô ̣t con dê đực kéo, hễ dê
dừng ở của phòng nào thì vua “ngự dâm” ở phòng đó. Bởi vâ ̣y, các Phi tầ n,
Cung nữ thường hay nhờ các chi ̣ thi ̣ nữ mua các thứ cỏ non hay lá dâu, lá sấ u
đâu… rồ i đem rắ c ở trước của phòng khi vua ngồ i trên xe dê giá lâm, dê thấ y cỏ
non, lá sâu, lá sầ u đâu… thì dừng la ̣i ăn. Cho nên trong tác phẩ m “Cung oán
ngâm khúc” của tác giả Ôn Như Hầ u đã có câu:
“Phải duyên hương lửa cùng nhau,
Xe dê lo ̣ rắ c lá dâu mới vào.”
Vâ ̣y vua Gia Long có bao nhiêu vơ?̣ Và bao nhiêu con?
Theo chin ́ h sử viế t, vua Gia Long có 3 bà vơ ̣ đươ ̣c go ̣i là đê ̣ nhấ t phi, đê ̣
nhi ̣ phi, đê ̣ tam phi. Ngoài 3 bà phi này còn có 6 bà phi nữa nhưng không thấ y
tư liê ̣u nào nhắ c đế n.
Ba bà phi chính thức đươ ̣c xế p thứ tự như sau:
Bà Quế phi (Đê ̣ nhấ t phi) tên là Tố ng Thi ̣ Lan, tức Thừa Thiên Cao
Hoàng hâ ̣u, con ông Chưởng dinh Tố ng Phước Khuông, người huyê ̣n Tông Sơn,
Thanh Hóa - đã vào Nam theo Chúa Nguyễn Phúc Chu để chố ng nhà Tây Sơn.
Bà ho ̣ Tố ng, sinh đươ ̣c ba người con là Nguyễn Phúc Cảnh (tức Hoàng tử
Cảnh), người thứ nhì là Nguyễn Phúc Hy, ta ̣ thế 1801, người thứ ba là Nguyễn
Phúc Tuấ n, đã ta ̣ thế trước Cảnh và Hy. Chỉ có Nguyễn Phúc Cảnh đươ ̣c go ̣i là
Hoàng tử. Năm 4 tuổ i Cảnh đươ ̣c Gia Long cho theo Giá m mu ̣c Bá Đa Lô ̣c sang
Pháp để cầ u viê ̣n nước Pháp giúp khí giới và quân đô ̣i đánh nhà Tây Sơn. Theo
mô ̣t số tư liê ̣u thì Hoàng tử Cảnh và hai em trai đã đươ ̣c Giám mu ̣c Bá Đa Lô ̣c
khuyên rửa tô ̣i theo đa ̣o Công giáo, Hoàng tử Cảnh ở Pháp mô ̣t năm rồ i trở về .
Hoàng tử Cảnh có vơ ̣ là Tố ng Thi ̣Quyên, sinh đươ ̣c hai con trai. Người
thứ nhấ t là Nguyễn Phúc Mỹ Đường, cũng có tên là Đán - Hoàng Tôn Đán đươ ̣c
phong tước Ứng hòa công. Người con thứ hai, là Nguyễn Phúc Mỹ Thu ̣y (cò n
có tên là Mỹ Hòa) hay Kính, đươ ̣c phong tước Thái Đinh ̣ công. Năm 1824,
không biế t pha ̣m tô ̣i gi,̀ Mỹ Đường bi ̣ lô ̣t hế t tước, phải nô ̣p ấ n thư, rồ i bi ̣giáng
xuố ng là m thứ dân. Mỹ Đường có mô ̣t người con là Nguyễn Phúc Lê Chung,
sau đươ ̣c vua Tự Đức phong Cảnh Hòa Quâ ̣n công.
Sau này người ta đo ̣c đươ ̣c bài phiên hê ̣ thi: My-̃ Duê ̣-Tăng-Cường-
Tráng, Liên-Huy-Phát-Bôi-Hương… Những con cháu của Hoàng tử Cảnh sau
này, năm đời còn la ̣i là ông Nguyễn Phúc Hồ ng Dân (1882 - 1951), là cháu năm
đời của Hoàng tử Cảnh. Đã mang tước Kỳ ngoa ̣i hầ u Cường Để . Ông Cường Để
trố n sang Nhâ ̣t Bản lâ ̣p Viê ̣t Nam Quang Phu ̣c Hô ̣i do ông làm Hô ̣i chủ để
chố ng Pháp cai tri ̣ Viê ̣t Nam. Con của Cường Để là ông Tráng Liê ̣t, và cháu là
Liên Bảo. Như vâ ̣y, cháu, chắ t dòng Hoàng tử Cảnh hiê ̣n nay hãy còn rải rác
khắ p nơi.
Bà Minh phi (Đê ̣ nhi ̣ phi) ho ̣ Trầ n Thi ̣ Đang, tức Thuâ ̣n Thiên Cao
Hoàng hâ ̣u, là me ̣ của vua Minh Ma ̣ng. Bà ho ̣ Trầ n là con gái của ông Tham tri
Bô ̣ Lễ Trầ n Hưng Đa ̣t, quê ở Va ̣n Xá (Thừa Thiên). Nguyên bà ho ̣ Trầ n trước là
người hầ u của me ̣ vua Gia Long, rồ i cùng ra Quảng Tri ̣ ẩ n náu ở làng An Đô,
gầ n cửa Tùng. Đế n khi vào Nam đã đươ ̣c tuyể n làm vơ ̣ Nguyễn Ánh (Gia
Long), khi mới 13 tuổ i.Bà Lê Thi ̣ Ngo ̣c Biǹ h (Đê ̣ tam phi), go ̣i là Đức phi hay
Thầ n phi cũng vâ ̣y. Bà Ngo ̣c Biǹ h là con út của vua Lê Hiể n Tông. Khi nhà Tây
Sơn thấ t ba ̣i, vua Quang Trung ta ̣i thế để la ̣i bà Ngo ̣c Hân Công chúa ở la ̣i kinh
thành với người em gái là Ngo ̣c Bình (vơ ̣ vua Quang Toản - tức Cảnh Thinh, ̣
con của Nguyễn Huê ̣). Theo ngoa ̣i sử, lúc đó Gia Long có ga ̣ gẫm và ép duyên
bắ t Ngo ̣c Hân phải lấ y ông. Nhưng đã bi Ngo
̣ ̣c Hân cự tuyê ̣t. Còn Ngo ̣c Biǹ h thì
lúc đầ u cũng không bằ ng lòng, nhưng sau cũng xuôi lòng và chấ p nhâ ̣n lấ y Gia
Long làm thứ phi. Bà Ngo ̣c Bin ̀ h đã sinh đươ ̣c hai người con trai với Gia Long
tên là Quảng Oai công, và Thường Tín Quâ ̣n công. Cũng vì sự trớ trêu trên mà
dân gian sau này ở Huế đã có câu nói:
“Số đâu có số la ̣ làng,
Con vua mà lấ y hai chồ ng là m vua.”
Đế n đây, chúng ta cũng nên biế t trong 9 đời chúa, và 13 đời vua
̣ ̀ o đời ở đấ t Nam bô ̣ xưa, có vi ̣lâu ngày ở đấ t Nam bô ̣ và ta ̣ thế
Nguyễn, có vi cha
ta ̣i đây.
Vi ̣ Hoàng tử đầ u tiên là Nguyễn Phúc Đảm (Đởm) tức vua Minh Ma ̣ng
sinh năm 1791 ta ̣i làng Tân Lô ̣c, tỉnh Gia Đinh,
̣ xứ nam bô ̣.
Còn ông vua số ng lâu ngày nhấ t ở Nam bô ̣ là Nguyễn Phúc Ánh tức
vua Gia Long, kể từ năm 1775 đế n đầ u thế kỉ XIX mới trở về Huế , tức là 25
năm số ng ở Nam bô ̣ và xê dich ̣ nhiề u tỉnh, ông còn lă ̣n lô ̣i sang Xiêm để cầ u
viê ̣n. Nguyễn Ánh cũng là ông vua xuấ t ngoa ̣i đầ u tiên.
Chúa Đinḥ Vương Nguyễn Phúc Thuầ n (1765 - 1777), là vi ̣ Chúa thứ
chín, đã bi ̣quân Tây Sơn bắ t đươ ̣c ở tin̉ h Long Xuyên và đem về Sài Gòn ha ̣ sát
vào năm 1777.
Đế n cuố i triề u Nguyễn là vua Bảo Đa ̣i và bà Nam Phương Hoàng hâ ̣u
thì cả hai đề u ta ̣ thế ta ̣i ngoa ̣i quố c, sau khi vua Bảo Đa ̣i bi ̣ truấ t phế khỏi ngôi
Hoàng đế triề u Nguyễn phong kiế n khi cuô ̣c Cách ma ̣ng tháng Tám năm 1945
của nhân dân Viê ̣t Nam dưới sự lãnh đa ̣o của Chủ tich ̣ Hồ Chí Minh đứng lên
đánh đổ chế đô ̣ thực dân Pháp đang cai tri ̣ nước ta do Bảo Đa ̣i là m vua bù nhìn
của chế đô ̣ thực dân Pháp.
4. Đấ t kế t sinh mẫu nghi
Theo Đa ̣i Nam chính biên liê ̣t truyê ̣n, tâ ̣p 2, quyể n 2. 3 đã viế t: Từ Du ̣
là huy hiê ̣u của vua Tự Đức truyề n đi chiế u tấ n phong cho Linh ̣ bà. Từ là lòng
nhân từ thường yêu. Du ̣ là rô ̣ng rãi. Từ Du ̣ là rô ̣ng lòng nhân từ thương yêu.
̣ bà là Pha ̣m Thi ̣ Hằ ng hay Nguyê ̣t, sinh ngày 19 tháng 5 mùa ha ̣
Linh
năm Gia Long thứ 9 (1810) ta ̣i giồ ng Sơn Quy huyê ̣n Tân Hòa, nay là Gò Công
thuô ̣c tỉnh Tiề n Giang, con quan Thươṇ g thư bô ̣ Lễ Pha ̣m Đăng Hưng sau đă ̣ng
truy tă ̣ng tước Đức Quố c công.
̣ bà trùng với tên của Hán Văn đế đươ ̣c kiêng húy
Hằ ng, tên của Linh
thay bằ ng chữ thường. Nguyê ̣t, tên của Linh
̣ bà đươ ̣c kiêng húy đo ̣c ra ngoa ̣t.
Tương truyề n xứ Gò Công nước thường mă ̣n lắ m, các giồ ng (dải đấ t gồ
lên cao để ở tiế p liề n với ruô ̣ng thấ p) đề u có giế ng nước ngo ̣t song cũng không
đươ ̣c ngo ̣t lắ m.
̣ bà đươ ̣c sinh ra, nước giố ng giồ ng Sơn Quy ngày càng
Từ khi Linh
thanh, người uố ng vào ít có binh
̣ tâ ̣t, tiế ng đồ n khắ p nơi, người lân câ ̣n đề u đế n
gánh về dùng.
Còn giồ ng Sơn Quy thì càng ngày càng cao đươ ̣c bồ i thêm như hình
mai rùa. Cây trái ở đây la ̣i tươi tố t dồ i dào hơn các nơi khác.
̣ ̀ lao
Những vi ky ̃ ở xứ Gò Công còn nhớ câu:
Lê ̣ thủy trình tường thoa ̣i,
Quy khâu trúc phước cơ.
(Nước ngo ̣t trổ điề m lành,
Gò rùa vun nên phước.)
Lúc còn bé, Linḥ bà ham đo ̣c sách, thông hiể u kinh sử, có tiń h hiề n đức
và có nế t ha ̣nh. Me ̣ của Linḥ bà bổ n tính ham văn ho ̣c, thường khi biể u người
người ta đo ̣c Huấ n nữ và Nhi ̣ thâ ̣p tứ hiế u, nghe lấ y là m vui. Me ̣ của Linh ̣ bà
muố n Linh ̣ bà đo ̣c sách, những phép da ̣y trong nhà cửa cha rấ t nghiêm: con cái
thì ho ̣c nữ công và coi sóc công viê ̣c trong nhà. Còn chữ nghiã thì ho ̣c cho biế t
mà thôi. Linh ̣ bà đươ ̣c các anh chi ̣da ̣y chữ nghiã chút đỉnh, song chưa hiể u văn
lý ma ̣ch la ̣c.
Năm Linḥ bà lên 12 tuổ i, thân mẫu bi ̣ bê ̣nh thích nằ m mô ̣t mình, gia
nhân không đă ̣ng thân câ ̣n hầ u ha ̣. Linh
̣ bà ngày đêm săn sóc cơm thuố c không
bao giờ lià xa.
Khi thân mẫu mấ t, Linh ̣ bà ngày đêm kêu khóc không dứt, giữ viê ̣c
tang chế ố m gầ y người như kẻ thành nhân. Người xa kẻ gầ n nghe như thế đề u
khen ngơị và lấ y làm la ̣.
Năm Minh Ma ̣ng thứ 4 (1823) thân phu ̣ của Linh ̣ bà thấ t lô ̣c ta ̣i kinh
đô. Thuyề n chở quan cửu về Gia Đinh, ̣ đi vừa tới ngoài cửa Cầ n Giờ bi ̣mô ̣t trâ ̣n
gió lớn, gẫy lái. Đà công và thủy thủ kinh hãi chỉ đơị chìm mà chiụ chế t. Gió
lớn sóng to, thuyề n nghiêng qua lắ c la ̣i. Và như có vâ ̣t gì rấ t lớn lao nâng đỡ ở
đáy lườn, lầ n dầ n đưa vào tới cửa. Có lẽ là cá voi đã hỗ trơ ̣ linh cữu Pha ̣m Đăng
Hưng đươ ̣c yên ổ n về đế n quê nhà.
Năm 14 tuổ i, Linh ̣ bà đươ ̣c Thuâ ̣n Thiên Cao Hoàng hâ ̣u nghe tiế ng
hiề n đức, đươ ̣c tuyể n vào cung cho hầ u Hoàng trưởng tử Miên Tông (Thiê ̣u Tri ̣
sau này).
Lúc ấ y bà Linh
̣ phi, con gái quan Kinh môn quâ ̣n công Nguyễn Văn
Nhân cũng đồ ng thời đươ ̣c tuyể n vào cung. Linh
̣ phi vì tước của cha lớn hơn
đươ ̣c ngôi thứ cao hơn Linh
̣ bà.
Mô ̣t hôm Thánh tổ Nhân hoàng đế (vua Minh Ma ̣ng) ban cho Linh ̣ phi
và Linḥ bà mỗ i người mô ̣t cái ao bâu dê ̣t bằ ng kim hoa sa. Đế n lúc bái từ, hai bà
la ̣i đươ ̣c Thuâ ̣n Thiên Cao Hoàng hâ ̣u (vơ ̣ Gia Long) đem hay nút áo bằ ng vàng
mô ̣t hiǹ h phu ̣ng, mô ̣t hin
̀ h hoa đề u gói kín cẩ n mâ ̣t ban cho với lời nguyê ̣n chúc:
“Ai bắ t đă ̣ng nút hình phu ̣ng phải có con trước.”
Nữ quan bưng hai nút áo ra, mỗ i bà tự cho ̣n lấ y mô ̣t, nhưng phải để
nguyên gói dâng lên.
̣ bà nhường cho Linh
Linh ̣ phi cho ̣n trước. Khi đươ ̣c dâng lên và mở ra,
nút áo của Linh
̣ phi là hình hoa, còn của Linh
̣ bà là hiǹ h phu ̣ng.
Năm lên 15 tuổ i, Linh ̣ bà sinh ra Diên Phúc trưởng Công chúa. Năm
̣ bà sinh ra thứ trưởng công chúa. Từ đó Linh
sau Linh ̣ bà đươ ̣c Thái tử yêu quý
hơn và ngôi thứ của bà cũng cao hơn Linh
̣ phi.
Đố i với Linh
̣ phi, Linh
̣ bà vẫn thân mế n. Các cơ thiế p khác trong cung,
̣ bà cũng lấ y lòng thành tiế n dẫn. Linh
Linh ̣ bà có lòng nhân chở che tiế n dắ t các
cơ thiế p in như thiên Nam hữu cưu mô ̣c trong Kinh Thi đã tả đức ha ̣nh của bà
Hâ ̣u phi năng thí ân cho các hầ u thiế p dưới mình mà không có lòng đố ky ̣ ghen
tuông.
Mô ̣t đêm Linh ̣ bà nằ m mô ̣ng thấ y mô ̣t vi ̣ thầ n mă ̣c áo rô ̣ng, vai to, đầ u
ba ̣c, mày trắ ng bưng mô ̣t tờ sắ c giấ y vàng chữ đỏ có dấ y triê ̣n và mô ̣t xâu minh
châu cho Linh ̣ bà và bảo: “Xem đấ y sau sẽ có hiê ̣u nghiê ̣m”.
̣ bà nhâ ̣n lấ y rồ i kế thu ̣ thai sinh ra Đức tôn Anh Hoàng đế (vua Tự
Linh
Đức) đúng theo giấ c mô ̣ng.
̣ bà là người đoan trang cẩ n thâ ̣n nhàn nhã cung kiń h. Cử chỉ có
Linh
pháp đô ̣. Trong cung khi có lễ triề u khánh, Thái tử Miên Tông thường bảo Linḥ
bà đi theo hầ u lâ ̣y, thì không có điề u gì của Linh
̣ bà mà không hơ ̣p lễ nghi.
Người ta thấ y dung chỉ của Linh ̣ bà tôn nghiêm thì kinh sơ ̣, còn người xem ở
ngoài thì có kẻ cho là kiêu căng.
Lúc ấ y có mô ̣t bà laõ ở phiá sau cung đường nằ m mô ̣ng thấ y mô ̣t vi ̣
thầ n đế n bảo rằ ng: “Bà ở chính giữa cung đường Hoàng hâ ̣u đó. Bo ̣n ngươi quá
ngu, cho nên khinh dễ”.
Đươ ̣c bà lao
̃ đem giấ c mô ̣ng thuâ ̣t la ̣i. Linh
̣ bà chỉ cười.
Năm đầ u Thiê ̣u Tri ̣ (1841) Hiế u tổ Chương Hoàng đế lên ngôi, phong
̣ bà chức Cung tầ n.
cho Linh
Năm Thiê ̣u Tri ̣ thứ 2 (1842), Vua đi tuầ n đấ t Bắ c đế n Hà Nô ̣i cho sứ
nhà Thanh là Bảo Thanh sang sách phong. Linh ̣ bà đươ ̣c đi theo hầ u ha ̣, còn các
cung nhân khác đi theo rấ t it́ . Linh
̣ bà sớm tố i ở mô ̣t bên Vua. Các ngo ̣c tỷ ấ n tín
đề u giao cho Linh
̣ bà cấ t giữ.
Đế n khi Vua hồ i loan về cung, cung nhân thấ y Linh ̣ bà tóc ru ̣ng thưa,
mă ̣t gầ y nám đề u lấ y là m la ̣ hỏi thăm, thì đươ ̣c biế t chỉ vì lòng kiń h cẩ n ưu lo
của Linh ̣ bà đã khiế n ra như thế .
̣ bà thường làm chức Thươṇ g nghi coi
Linh ̣ sóc Lu ̣c thường (Lu ̣c thươṇ g
là 6 công viê ̣c hầ u ha ̣ vua trong cung, đời Tầ n có thươṇ g quan (mão), thường y
(áo), thường thực (ăn), thường mô ̣c (tắ m), thường tich ̣ (chiế u), thường thư
(sách). Các công viê ̣c trong cung nô ̣i đề u do Linḥ bà nắ m giữ.
Vua Thiê ̣u Tri ̣mỗ i khi rảnh rang đo ̣c sách đế n nửa đêm chưa ngủ, Linh
̣
bà hầ u ha ̣ không biế t mê ̣t, có khi đế n canh gà mới bắ t đầ u ăn tố i.
̣ bà la ̣i thường khuyên răn các phi tầ n cung nữ hãy siêng cầ n công
Linh
viê ̣c. Lúc đươ ̣c ân huê ̣ gì của Vua ban, Linh ̣ bà không tranh giành. Người nào
̣ bà đề u chiụ thế cho, vì thế Linh
làm nên tô ̣i, Linh ̣ bà thường đươ ̣c Vua yêu dấ u
ban ân.
Tháng 4 năm Thiê ̣u Tri ̣thứ 3 (1843), Vua sách phong cho Linh
̣ bà chức
Thành phi.
Tháng giêng mùa xuân năm Thiê ̣u Tri ̣ thứ 6 (1846) Vua tấ n phong cho
Linḥ bà làm Quý phi, sai quan đa ̣i thầ n Vũ Xuân Cẩ n và Ta ̣ Quang Cử bưng ban
sách tuyên phong.
Năm Thiê ̣u Tri ̣ thứ 7 (1847), Vua se mình không vui. Linh ̣ bà hầ u ha ̣
vua và cầ u đảo thầ n thánh ngày đêm, không ăn uố ng nghỉ ngơi. Đế n lúc Vua
̣ bà đề u nhâ ̣n lời phúc cho. Vua
gầ n lâm chung, mo ̣i viê ̣c về sau nhấ t nhấ t Linh
tâ ̣n mă ̣t da ̣y các quan rằ ng:
“Quý phi là nguyên phố i (vơ ̣ đầ u) của Trẫm, phúc đức hiể n minh giúp
Trẫm viê ̣c nô ̣i chin
́ h trong 7 năm. Đế n nay ý Trẫm muố n sách lâ ̣p Quý phi làm
̣
Hoàng hâ ̣u chiń h vi trong cung. Tiế c thay đành không kip.”
̣
Ngày 23 Canh thân vua Tự Đức vừa nố i ngôi (1848) đem tôn nhân và
các quan trong triề u bưng kim sách, kim bảo (bảng sách vàng và ấ n vàng) kính
̣ bà.
dâng tôn hiê ̣u Hoàng Thái hâ ̣u cho Linh
Đế n ngày 16 tháng 6 năm Quý Mùi (vi)̣ năm Tức Đức thứ 36 (1883)
vua Tự Đức thăng hà, để la ̣i di chiế u tân phong Linh
̣ bà làm Từ Du ̣ Hoàng Thá i
hâ ̣u.
Ngày 20 tháng tư nhuâ ̣n năm Đinh Hơị năm Đồ ng Khánh năm thứ 2
(1887), Vua dẫn Hoàng thân, tôn nhân và các quan văn võ dâng kim sách, kim
̣ bà làm Từ Du ̣ Bác huê ̣ Thái hoàng Thái hâ ̣u.
bảo tấ n tôn huy hiê ̣u cho Linh
Khi Thành Thái lên ngôi (1889), tháng giêng mùa xuân đầ u Thành Thái
nguyên niên, Tháng tư mùa ha ̣ Vua tấ n tôn Linḥ bà là m Từ Du ̣ bác huê ̣ Khang
tho ̣ Thái hoàng thái hâ ̣u.
Ngày mùng 5 tháng 4 mùa ha ̣ năm Tân Sửu nhằ m Thành Thái thứ 13
(1901), Linḥ bà se min ̀ h không vui rồ i băng, tho ̣ đươ ̣c 93 tuổ i. Linh cữu đă ̣t ở
cung Gia Tho ̣. Trong ngày tháng 5 dâng tên thu ̣y cho Linh ̣ bà là Nghi thiên tán
thành Từ Du ̣ bác huê ̣ trai túc tuê ̣ đa ̣i tho ̣ đức nhân công Chương hoàng hâ ̣u.
Ngày 22 tháng 5 cử hành đa ̣i lễ tố ng chung Linh
̣ bà ở nơi đấ t tố t muôn
muôn năm, núi bên phải Xương lăng (lăng của vua Thiê ̣u Tri),̣ go ̣i là Xương
Tho ̣ lăng.
̣ bà đươ ̣c đưa vào Lương Khiêm điê ̣n ở
Lễ xong, thầ n chủ của Linh
Khiêm cung (lăng vua Tự Đức) rồ i đưa vào thờ ở mô ̣t bàn bên hữu trong Thế
miế u và ở bàn bên hữu trong Phu ̣ng Tiên điê ̣n cùng ở bàn chính trong Biể u Đức
điê ̣n. (Theo Ta ̣ Quang Phát lươ ̣c dicḥ trong Đa ̣i nam chính biên liê ̣t truyê ̣n, tâ ̣p
2, quyể n 2,3).
Còn theo tu ̣c truyề n và huyề n thoa ̣i, khi làm nên sự nghiê ̣p Pha ̣m Đăng
Hưng là thân phu ̣ của bà Từ Du ̣ đã có nhờ mô ̣t ông thầ y điạ lý giỏi phong thủy
đế n xem hô ̣ các ngôi mô ̣ tổ tiên của dòng ho ̣ Pha ̣m. Khi thầ y điạ lý xem hình thế
gò rấ t khen ngơị vì gò Sơn Quy chẳ ng những có cái hiǹ h của mô ̣t con vâ ̣t trong
tứ linh (long-ly-quy-phươṇ g) mà tự nhiên có những cây cố i mo ̣c lên rấ t xanh
tươi râ ̣m ra ̣p tỏ ra vươṇ g khí dâng lên và tu ̣ la ̣i rấ t nhiề u.
Thầ y điạ lý đã cho biế t đấ t Gò Công với hình thể và long ma ̣ch là mô ̣t
nơi đấ t quý nhưng hiǹ h rùa thì không vươ ̣ng về Dương mà chỉ vươṇ g về Âm
cho nên nế u phát về nữ thì giàu sang không biế t thế nào mà tả cho hế t đươ ̣c, còn
phát về nam thì to lắ m chỉ đế n nhấ t nhi ̣phẩ m triề u đình thôi, nế u sang hơn nữa
sẽ không con cái gi.̀ Phải chẳ ng lời thầ y điạ lý này quả đúng nên Gò Công đã
phát ra mô ̣t người đàn ông làm đế n chức vu ̣ cao nhấ t trong các giáo phẩ m Công
giáo Viê ̣t Nam thì ông này la ̣i là mô ̣t nhà tu, không có vơ ̣ con. Đó là Đức Giá m
mu ̣c J.B.Nguyễn Bá Tòng đầ u tiên ở nước ta (1932 - 1949).
Và thầ y điạ lý đã bảo cho ông Pha ̣m Đăng Hưng hay rằ ng ngôi mô ̣ cu ̣
Đinḥ (ông nô ̣i tổ ?) là ngôi mô ̣ đa ̣i cát, chỉ hiề m thiế u hâ ̣u trẩ m và tả hữu phú
chi, tức nế u sau gò có mô ̣t ngo ̣n đồ i hay ngo ̣n núi hoă ̣c mô ̣t cái giồ ng nào cao
hơn và hai bên giồ ng có hai dãy đồ i núi gì cha ̣y kèm hoă ̣c hai con giồ ng khác
ôm lấ y thì gia đình sẽ phú quý triề n miên. Do đó, chỉ phát đươ ̣c hơn mô ̣t đời rồ i
thôi. Ngôi mô ̣ này tố t thâ ̣t, nhưng la ̣i bi ̣ mô ̣t ngôi mô ̣ khác là m cản hướng uy
quyề n thành thử cái đời đươ ̣c phát, chỉ phát đươ ̣c ở lúc thanh xuân và trung vâ ̣n
còn hâ ̣u vâ ̣n thì suy.
Ông Pha ̣m Đăng Hưng còn hỏi: Có kế gì chữa đươ ̣c hay không? Thầ y
điạ lý cho biế t bằ ng cách rời đươ ̣c ngôi mô ̣ làm cản mấ t hướng uy quyề n đi thì
sẽ còn phát đươ ̣c thêm vài đời nữa.
Ồng Pha ̣m Đăng Hưng thưa:
- Nế u vâ ̣y, có khó khăn gì đâu, mai này tôi sẽ cho dời đi chỗ khác.
Nhưng con cháu người ta hiê ̣n không còn mô ̣t ai ở đây cũng không biế t điạ
phương nào, vâ ̣y làm sao bây giờ?
Thầ y điạ lý đáp:
- Tiên tić h đức hâ ̣u tầ m long tiề n đinh
̣ rồ i, phầ n phúc nhà ông chỉ phát
đươ ̣c đế n đó, tham nữa hay cưỡng la ̣i thiên ma ̣ng là mô ̣t viê ̣c chẳ ng nên.
Khi thầ y điạ lý từ giã la ̣i dă ̣n chủ nhân cho con cháu… hay khi nào ở
gò có xuấ t hiê ̣n điề m gì không đe ̣p thì chỉ nên an phâ ̣n thủ thường chớ đừng
ham gì phú quý công danh nữa.
Lời thầ y phán quả đúng. Bà Từ Du ̣ Thái hâ ̣u đã trở thành mô ̣t người
đàn bà trong lich ̣ sử nước Nam với mức tuyê ̣t đin̉ h của phong lưu phú quý,
nhưng đáng kể chỉ ở lúc thanh xuân và ở lúc trung niên, tức thời gian là m vơ ̣
vua Thiê ̣u Tri,̣ làm me ̣ vua Tự Đức, còn ở lúc vãn niên thì thâ ̣t là suy buồ n. Vua
Tự Đức là con trai duy nhấ t của bà đã chế t trước me ̣, la ̣i không sinh con nố i
giòng hỏi nỗ i lòng bà làm sao không có những buồ n tẻ đắ ng cay của mô ̣t con
người đang nắ ng vàng đã sắ p lă ̣n non Tây. Lúc ấ y bà tuy đươ ̣c phong là m
Hoàng Thái hâ ̣u, đố i với đàn bà con gái trong thiê ̣n ha ̣, kể về ngôi thứ, không có
ai hơn nữa, nhưng hữu danh vô thực, bà chỉ ngồ i là m vì với đám phi tầ n và cung
nữ trong nô ̣i điê ̣n mà thôi. Còn ngoài triề u đình thì mă ̣c cho quyề n thầ n Nguyễn
Văn Tường và Tôn Thấ t Thuyế t muố n thao túng gì cũng đươ ̣c. Ho ̣ phế vua nà y
lâ ̣p vua khác. Có lúc phải rời cả bà đi ra Quảng Tri ̣ để tránh loa ̣n thực dân, kể
thâ ̣t phong lưu mà hóa ra vấ t vả.
5. Những giai thoa ̣i thực hư hay sự xuyên ta ̣c ác ý?
Ở đời những chuyê ̣n thâ ̣t thì it́ ai tìm hiể u và tin, nhưng mấ y chuyê ̣n biạ
đă ̣t, cố ý xuyên ta ̣c sự thâ ̣t thì nhiề u người la ̣i tin là có thâ ̣t. Như dư đảng của
Hồ ng Bảo, Đoàn Trưng (“Giă ̣c chày vôi” âm mưa đảo chính vua Tự Đức) đố i
với lớp quầ n chúng bên ngoài còn dựng chuyê ̣n bảo vua Tự Đức không phải con
bà Từ Du ̣ mà chin ́ h là con Trương Đăng Quế tráo. Trương Đăng Quế là mô ̣t đa ̣i
thầ n dưới trào vua Thiê ̣u Tri,̣ ông này có ngôi mô ̣ tổ để vào miê ̣ng con cóc, mô ̣t
thầ y điạ lý đế n xem thấ y hin ̀ h dáng miế ng đấ t như con cóc đang lô ̣i dưới nước,
tấ m tắ c khen và phán: “Thiề m thử quá hải nhâ ̣t đa ̣i vi ̣vương”, tức ngôi mô ̣ ấ y sẽ
phát vua mô ̣t đời. Đắ c điạ sinh nhân, do đó bà vơ ̣ ông với bà Từ Du ̣ đã cùng có
thai và sinh con trong mô ̣t đêm. Bà Từ Du ̣ sinh con gái, bà Trương Đăng Quế
sinh con trai, nên ông Quế đã ma le đút tiề n cho các cung nhân để tráo vào cho
con mình sau này là m vua. Cũng bởi thế mà vua Tự Đức mới thành mô ̣t ông
vua không có con cái.
Ngoài ra, ho ̣ còn tuyên truyề n bảo Trương Đăng Quế dá m làm cái viê ̣c
đô ̣ng trời không sơ ̣ tru di tam tô ̣c, ấ y là bởi ông ta trong lúc ra vào yế t kiế n vua
Thiê ̣u Tri ̣đã cùng bà thầ m lén tư thông. Câu chuyê ̣n biạ đă ̣t này, thiên ha ̣ cả tin,
cho đế n bây giờ, thỉnh thoảng vẫn còn người kể la ̣i. Chớ có biế t đâu chỉ là câu
chuyê ̣n dựng đứng. Chứng cớ bà Từ Du ̣ sinh vua Tự Đức khi bà mới 17 tuổ i
đầ u, lúc ấ y vua Thiê ̣u Tri ̣ mới đươ ̣c phong Đông cung Thái tử, giữa nhà vua và
đa ̣i thầ n Trương Đăng Quế chưa có liên hê ̣ gi.̀ Tiê ̣n đây đứng về mă ̣t sử ho ̣c, kẻ
viế t bài này cũng xin điń h chiń h và thanh minh cho bà.
Trở la ̣i vấ n đề ngôi mô ̣ đã phát sinh ra Từ Du ̣ Thái hâ ̣u. Lời thầ y điạ lý
chẳ ng những nói đúng về con người đươ ̣c phát mà còn đúng cả về những lời
dă ̣n bảo: “Khi nào ở gò có xuấ t hiê ̣n điề m gì không hay thì chỉ nên an phâ ̣n thủ
thường, chớ đừng ham gì phú quý công danh nữa”.
Sau là khi bà Từ Du ̣ sinh ra thì đấ t giồ ng ở Sơn Quy ngày thấ y có phầ n
cao thêm và cây cố i gò này cũng ngày mô ̣t tố t tươi hơn. Rồ i khi bà trở thành
mô ̣t mẫu nghi thiên ha ̣, bô ̣ mă ̣t gò này la ̣i đươ ̣c trang điể m bằ ng những nét nguy
nga lô ̣ng lẫy, trước hế t là các ngôi mô ̣ nhà ho ̣ Pha ̣m đươ ̣c xây la ̣i bằ ng đá ô
dước, kế là mô ̣t ngôi đề n thờ lớn 5 gian cấ t bằ ng danh mô ̣c tra ̣m trổ và son sơn
thiế p vàng để thờ tổ tiên thuô ̣c bên ngoa ̣i nhà vua. Gia đình ho ̣ Pha ̣m ở Gò Công
lúc ấ y là gia điǹ h thế lực bâ ̣c nhấ t ở trong Nam. Người dân Gò Công cũng là
người dân thế lực với những ơn huê ̣ mưa móc của đức bà Thái hâ ̣u và Hoàng đế
ban cho. Đấ t Gò Công đang hồ i thinh ̣ vươ ̣ng, cây cố i gò Sơn Quy đang tươi tố t
xum xuê thì bỗ ng héo đi vào khoảng đầ u năm Kỷ Mùi, dương lich ̣ 1859. Cũng
vào dip̣ này nước giế ng ở giồ ng này la ̣i mă ̣n như nước biể n đế n luôn 3 ngày trời.
Dân điạ phương lấ y làm quái la ̣ không biế t vì lý do gì thì ra điề m này là
điề m báo trước Gò Công không còn an khang thinh ̣ vươṇ g nữa, sẽ trở thành mô ̣t
bãi chiế n trường rùng rơṇ với những cảnh xương rơi máu đổ , cửa nát nhà tan do
bo ̣n thực dân Pháp và bè lũ gây ra.
Trong bản Hòa ước giữa triề u đình Huế và Pháp ký ta ̣i Sài Gòn ngày
15-3-1874, có điề u khoản bảo vê ̣ cho các ngôi mô ̣ nhà ho ̣ Pha ̣m ở Sơn Quy là
không ai đươ ̣c đô ̣ng pha ̣m đào xới, cải táng hay phá hủy, đồ ng thời đươ ̣c cấ p
100 mẫu ruô ̣ng để là m phầ n cúng tế , và con cháu giòng dõi hế t thảy đươ ̣c miễn
thuế là m xâu, đi liń h cùng các ta ̣p dicḥ khác. Nhưng con cháu nhà ho ̣ Pha ̣m
cũng như dân ha ̣t Gò Công không phải vì thế mà quên đươ ̣c cái nhu ̣c mấ t nước,
không chủ quyề n, nên người ta đứng dâ ̣y để kháng chiế n đế n cùng.
Theo mấ y nhà phong thủy danh tiế ng thì Gò Công là đấ t quý mà các
long mạch đề u tu ̣ la ̣i gò Sơn Quy.
Nhưng không phải phát rồ i thì hế t, long ma ̣ch còn chuyể n hướng đề u
đề u có thể phát nữa, và cón phát nhiề u thêm, nhưng có điề u là phát không đươ ̣c
bằ ng lúc tiên khởi mà thôi. (Theo tài liê ̣u của Thanh Liên cư si).̃
6. Cho ̣n vơ ̣ cho vua
Như chúng ta đã biế t, triề u đình nhà Nguyễn từ triề u Gia Long lên ngồ i
Hoàng đế , những bà vơ ̣ của vua đề u đươ ̣c cho ̣n từ khi vua còn nhỏ, tức là từ thời
còn là Hoàng tử nên đa số các vua Triề u Nguyễn đề u có vơ ̣ trước khi lên ngôi
vua. Vì vâ ̣y khi đã lên ngôi vua rồ i, ông nào cũng có thêm hàng chu ̣c cung nữ
đươ ̣c tiế n vào cung để hầ u ha ̣ và làm thiế p cho vua. Trong cung vì có nhiề u
thiế p, mă ̣c dầ u vua đã có mô ̣t bà chính thấ t do gia điǹ h lấ y cho rồ i, nhưng các
bà sau hơ ̣p nhãn vua nên đươ ̣c chiề u chuô ̣ng và yêu mế n hơn các bà khác. Vì
vâ ̣y nhà vua sơ ̣ các bà tranh nhau quyề n nên không bà nào đươ ̣c phong là m
Hoàng hâ ̣u mà chỉ sau khi vua ta ̣ thế , hoă ̣c bà nào đó đươ ̣c vua thương mế n mớ i
đươ ̣c phong làm Hoàng hâ ̣u sau khi bà đó ta ̣ thế .
Triề u điǹ h Nhà Nguyễn cũng sơ ̣ viê ̣c tranh quyề n, như bà vơ ̣ chính thấ t
của vua mà không có con trai, bà thứ có con trai khi vua ta ̣ thế người con trai
của bà thứ sẽ đươ ̣c phong làm Thái tử để đươ ̣c nố i ngôi và khi đó bà thứ có con
trai mới đươ ̣c phong làm Hoàng hâ ̣u.
Bảo Đa ̣i là niên hiê ̣u của Nguyễn Phúc Viñ h Thu ̣y (cũng có tên là
Nguyễn Phước Thiê ̣n) lên ngôi kế nghiê ̣p vua cha Khải Đinh ̣ ta thế năm 1925.
Bảo Đa ̣i sinh ngày 22-10-1913 ta ̣i Huế .
Năm 1920, vua Khải Đinh ̣ đã ban sắ c xuố ng đổ i Tiề m Đế thành An
Đinh
̣ cung cho Hoàng trưởng tử Viñ h Thu ̣y ở. Sắ c ban ngày 20-2-1920, Khả i
Đinh
̣ năm thứ 5. Ngày 28-3-1922, Khải Đinh ̣ sách lâ ̣p Viñ h Thu ̣y làm Đông
cung Hoàng Thái tử, nghiã là người sẽ kế ngôi vua cha.
Nước Pháp trong thời kỳ đang cai tri ̣ Viê ̣t Nam, nghiã là chế đô ̣ thực
dân Pháp đang toàn tri ̣ xứ Đông Dương, triề u điǹ h nước Viê ̣t chỉ “hữu danh vô
thực”, tấ t cả quyề n hành, từ chiń h tri ̣ đế n quân sự, xã hô ̣i, giáo du ̣c… đề u do
chính quyề n Pháp đă ̣t ra cho triề u đình Viê ̣t thi hành. Vì vâ ̣y, người Pháp muố n
tương lai nước Viê ̣t sẽ có mô ̣t ông vua da vàng mũi te ̣t, nhưng có đầ u óc Tây
phương, nế p số ng và tình cảm Tây phương do Pháp đào ta ̣o. Cho nên chin ́ h
quyề n Pháp đã ngỏ ý với Khải Đinh ̣ là cho Viñ h Thu ̣y đươ ̣c đi du ho ̣c bên Pháp
để đào ta ̣o văn hóa, nhưng sự thực là đi ho ̣c “nghề làm vua” do chính quyề n
Pháp đào ta ̣o.
Năm 1922, Viñ h Thu ̣y xuấ t ngoa ̣i cùng thân phu ̣ Khải Đinh ̣ sang Pháp
và ở la ̣i để nhâ ̣p trường Lycee Condorcet rồ i sau đó là trường Sciences Po.
(É cole libre des Siences Politique) ta ̣i Paris, thủ đô nước Pháp. Tháng 2 năm
1920, cựu Khâm sứ Huế của Pháp là Charles đươ ̣c Khải Đinh ̣ phong tước Tế
Nam công vì Charles đã có công với triề u đình Huế và cũng là người nhâ ̣n là m
cha nuôi đỡ đầ u cho Viñ h Thu ̣y sang Pháp du ho ̣c. Trong thời gian theo ho ̣c ở
Paris, Viñ h Thu ̣y đươ ̣c ở nhà vơ ̣ chồ ng Charles và đươ ̣c da ̣y cách số ng theo Tây
phương.
Tháng 12-1925, Viñ h Thu ̣y trở về nước tho ̣ tang cha. Ngày 8-1-1926
triề u đình tôn Hoàng Thái tử Viñ h Thu ̣y lên ngôi Hoàng đế kế nghiê ̣p vua cha
vừa ta ̣ thế . Nguyễn Phúc Viñ h Thu ̣y lấ y niên hiê ̣u là Bảo Đa ̣i và là ông vua thứ
13 triề u Nguyễn. Năm này Bảo Đa ̣i cũng vừa đúng 13 tuổ i.
Sau khi đã ho ̣c xong trường Hattemer, Viñ h Thu ̣y đươ ̣c đổ i sang ho ̣c
trường Khoa ho ̣c Chin ́ h tri ̣ (Sciences Po), mô ̣t trường chuyên đào ta ̣o những
người tương lai sẽ ra nắ m những chức vu ̣ quan tro ̣ng trong các quố c gia thuô ̣c
điạ của Pháp cai tri.̣ Viñ h Thu ̣y bước vào trường Sciences Po từ niên khóa 1930.
Tháng 9 năm 1932, Bảo Đa ̣i đã ho ̣c xong và trở về nước để chính thức cầ m
quyề n ngôi vua mà trước đó Bảo Đa ̣i vắ ng mă ̣t đã ủy quyề n cho cu ̣ Tôn Thấ t
Hân là Chủ tich ̣ Tôn Nhân Phủ và cũng là Phu ̣ chánh Đa ̣i thầ n để lo những viê ̣c
triề u chiń h trong khi nhà vua vắ ng mă ̣t.
Năm 1932 cũng là năm Bảo Đa ̣i đã 19 tuổ i nên trong triề u ai cũng đã
nghi ̃ tới viê ̣c cho ̣n vơ ̣ cho vua Bảo Đa ̣i hồ i loan.
Theo tư liê ̣u của nhà nghiên cứu Nguyễn Đắ c Xuân viế t thì: Trước khi
về nước, ta ̣i Huế đã có nhiề u cô gái trong những gia đình quyề n quý đã để mắ t
tới mô ̣t nhà vua trẻ, đe ̣p trai và có ho ̣c nước ngoài. Và bà Từ Cung, thân mẫu
của Bảo Đa ̣i cũng đã cho ̣n cô Ba ̣ch Yế n là con ông Thươṇ g Nguyễn Đình Tiên,
người làng Chí Long, quâ ̣n Phong Điề n (Thừa Thiên) để cho ̣n vào tiế n cung
chuẩ n bi ̣là m vơ ̣ Bảo Đa ̣i. Trước đó, cô Ba ̣ch Yế n cũng đã đươ ̣c chỉ da ̣y đàn ca,
thơ phú, và cách xã giao ăn nói, đi đứng theo cung cách của mô ̣t vương phi. Rồ i
hàng ngày cô Ba ̣ch Yế n còn đươ ̣c chăm sóc tắ m rửa bằ ng sữa cho thân người
đươ ̣c trắ ng và làn da thơm mát…
Nhưng viê ̣c không ngờ, có biế t đâu ngay từ những ngày du ho ̣c ở Pháp,
vơ ̣ chồ ng cựu Khâm sứ Charles là cha nuôi của Bảo Đa ̣i đã có ý đinh ̣ sẽ cho ̣n
mô ̣t thiế u nữ Viê ̣t, có Tây ho ̣c, con nhà giàu la ̣i có đa ̣o Công giáo để kế t hơ ̣p
làm vơ ̣ cho Bảo Đa ̣i. Mu ̣c đić h của người Pháp là phải đào ta ̣o Bảo Đa ̣i thành
mô ̣t ông vua số ng theo nế p số ng Tây phương, vơ ̣ phải có ho ̣c và có đa ̣o Công
giáo để tương lai các con của Bảo Đa ̣i sinh ra sẽ theo đa ̣o Công giáo, rồ i nghiễm
nhiên khi kế vi ̣ ngôi vua sẽ là mô ̣t ông vua có đa ̣o Công giáo đúng ý đồ của
người Pháp.
Vơ ̣ chồ ng cự Khâm sức Charles vố n đã quen biế t với gia đình ho ̣ Lê
Phát An từ khi còn ở Nam bô ̣ nên đã ngỏ ý để người cháu gái bên ngoa ̣i của Lê
Phát An là cô nữ sinh Marie Thérèse Nguyễn Hữu Hào (tức Nguyễn Hữu Thi ̣
Lan) là con của gia điǹ h cự phú Nguyễn Hữu Hào sẽ làm vơ ̣ của Bảo Đa ̣i.
Pierre Nguyễn Hữu Hào thuở nhỏ đi tu, ho ̣c trường dòng, nhưng không
làm tu si ̃ mà sau ra đời làm doanh thương, gia đình cũng không phải giàu nế u so
sánh với đình Huyê ̣n Sy.̃ Nhưng vì gia đình Nguyễn Hữu hào đa ̣o dong, và la ̣i
ngoan đa ̣o nên gia đình Huyê ̣n Sỹ đã gả con gái là Marie Lê Thi ̣ Bình cho
Nguyễn Hữu Hào. Như chúng ta đã từng nghe nói: “Nhấ t Sy,̃ nhì Phương, tam
Xường, tứ Đinh”,̣ Ngươ ̣c la ̣i gia đình Huyê ̣n Sỹ tuy giàu nứt đố đổ vách ta ̣i Nam
bô ̣, nhưng cũng không có chức tro ̣ng quyề n cao gi,̀ mà chỉ có chức Huyê ̣n, hà m
đươ ̣c chính quyề n Pháp ban cho vì có công với người Pháp trong viê ̣c tri ̣ nhâ ̣m
thời Pháp mới sang cai tri ̣xứ Nam Kỳ.
Pierre Nguyễn Hữu Hào nhờ bên vơ ̣ giúp đỡ vố n buôn bán nên sau trở
thành giàu có và vào làng Tây. Vơ ̣ chồ ng Nguyễn Hữu Hào đã sinh đươ ̣c hai
người con gái. Người con gái đầ u là Agnès Nguyễn Hữu Hào; người con gái thứ
nhì là Jeanne Mariette Nguyễn Hữu Hào, nhưng sau này ghi trong giấ y khai
̣ Viê ̣t đề là Nguyễn Hữu Thi ̣ Lan, và tên Pháo tich
sinh quố c tich ̣ la ̣i ghi thêm là
Marie Thérèse (là tên bổ n ma ̣ng - còn tên Pháp tich ̣ phải ghi thêm là Jeanne
Mariette Thérèse, nhưng viế t tắ t là Mariette Jeanne).
Để cho đôi trai tài gái sắ c đươ ̣c biế t nhau trước khi về nước, vơ ̣ chồ ng
Charles đã khôn khéo tới trường nữ trung ho ̣c Couvent des Oiseaux ta ̣i Paris
gă ̣p bà giá m đố c trường này và ngỏ ý ngày làm lễ mãn khóa niên ho ̣c năm 1932
sẽ mời Hoàng đế Bảo Đa ̣i của nước Viê ̣t tới dự và cho ̣n nữ sinh Nguyễn Hữu
Thi ̣ Lan đế n tă ̣ng hoa dâng kính Hoàng đế Viê ̣t Nam. Di ̃ nhiên giữa hai bên, nữ
tu Giám đố c của trường và cựu Khâm sứ Charles cũng đã bàn nhau về viê ̣c ý
đinḥ cho ̣n cô gái đấ t Nam bô ̣, có đa ̣o để có thể làm vơ ̣ vua Bảo Đa ̣i khi nhà vua
về nước cầ m quyề n.
Khi Bảo Đa ̣i tới chủ to ̣a lễ mãn khóa đúng như sự sắ p xế p từ trước, mô ̣t
thiế u nữ xinh xắ n đã ôm bó hoa tươi thâ ̣t đe ̣p tới dâng kính vua Bảo Đa ̣i, và
đươ ̣c nhà vua chú ý.
Và khi cô nữ sinh Nguyễn Hữu Thi ̣ Lan tới trường Convent des
Oiseaux để từ giã Me ̣ Giám tin ̉ h (nữ tu Giám đố c dòng), thì nữ tu Ambroise đã
khuyên Nguyễn Hữu Thi ̣ Lan: “Con ơi! Nế u Chúa khiế n cho ông vua thấ y con,
rồ i lấ y con làm vơ ̣ và con trở thành Hoàng hâ ̣u thì con nghi ̃ sao?” Lúc đó,
Nguyễn Hữu Thi ̣ Lan chỉ nghi ̃ câu đó là lời vui miê ̣ng của Me ̣ Bề trên mà thôi.
Nhưng không ngờ, câu nói trên la ̣i đúng là “đinh ̣ mê ̣nh” đã báo trước.
7. Bảo Đa ̣i - Nguyễn Hữu Thi ̣Lan gă ̣p nhau lầ n đầ u ở đâu?
Theo mô ̣t số tài liê ̣u cho rằ ng thì chính chuyế n tàu mà Bảo Đa ̣i về nước
và Nguyễn Hữu Thi ̣ Lan về nghỉ hè là chuyế n tàu “đinh ̣ mê ̣nh” cho că ̣p tin ̀ h
duyên này.
Ở đây chúng tôi không cho là “đinh ̣ mê ̣nh” đươ ̣c, mà là có sự đa ̣o diễn
của con người, hay đúng hơn của vơ ̣ chồ ng cha nuôi Bảo Đa ̣i là Charles. Chính
Charles đã cho ̣n ngày giờ và con tàu mang tên d’Artagnan của hãng
Messagegies Maritimes để mua vé cùng ngày giờ với vơ ̣ chồ ng ông Lê Phát An
cùng cô cháu gái Nguyễn Hữu Thi ̣ Lan cùng đi về Viê ̣t Nam. Đây là có sự bàn
ba ̣c giữa hai bên, nhà trai mà vơ ̣ chồ ng Charles là đa ̣i diê ̣n; còn đằ ng gái là do
vơ ̣ chồ ng Denis Lê Phát An đa ̣i diê ̣n.
Có thể , với Nguyễn Hữu Thi ̣ Lan thì không biế t có bàn tay sắ p đă ̣t của
người lớn, nhưng với Bảo Đa ̣i thì chắ c chắ n đã có sự rỉ tai của vơ ̣ chồ ng ông bà
mố i Charles trước đó rồ i. Nghiã là vơ ̣ chồ ng Charles đã báo cho Bảo Đa ̣i biế t là
chuyế n tàu hồ i hương này sẽ có gia đình cô nữ sinh xinh đe ̣p Nguyễn Hữu Thi ̣
Lan cùng về trên chuyế n tàu.
Ở trên tàu d’Artagnan hẳ n đã có bữa cơm thân mâ ̣t của gia đình Denis
Lê Phát An mời vơ ̣ chồ ng cựu Khâm sứ Pháp Charles và không thể thiế u đôi trẻ
nữ sinh Nguyễn Hữu Thi ̣ Lan và chàng trai trẻ Viñ h Thu ̣y, tức Hoàng đế Bảo
Đa ̣i của Viê ̣t Nam. Và trong dip̣ bữa cơm ở trên tàu đã làm cho đôi trẻ quen
nhau gầ n hơn, trò chuyê ̣n thoải mái, tự do mà nế p số ng phương Tây đã có?!
Đầ u tháng 9 năm 1932 tàu d’Artagnan câ ̣p bế n cảng Cap Saint Jacques
(Vũng Tàu). Ta ̣i đây gia đình Nguyễn Hữu Hào và gia đình ho ̣ Lê Phát đã đón
ông bà Lê Phát An cùng cô Nguyễn Hữu Thi ̣ Lan về biê ̣t thự Montjoye (La ̣c
Sơn) ở số 37 đường Tabert (số 109 Nguyễn Du - Quâ ̣n 1 ngày nay). Còn Hoàng
đế Bảo Đa ̣i thì đươ ̣c chuyể n sang mô ̣t chiế m ha ̣m nhỏ có tên là Dumont
d’Urville, nhưng trên chiế n ha ̣m này đã đươ ̣c trang hoàng đầ y đủ mô ̣t “phòng
khách sang tro ̣ng” để dành cho nhà vua nghỉ trong mô ̣t tuầ n lễ từ Vũng Tàu ra
Tourane (Đà Nẵ ng).
Khi chiế n ha ̣m Dumont d’Urville câ ̣p bế n Tourane thì người Pháp đã
bắ n 21 phát súng đa ̣i bác để nghênh chào Hoàng đế nước Viê ̣t hồ i loan. Còn
trên bờ, bế n cảng Touranne thì đầ y đủ các quan ta, quan Pháp, ông Tây bà đầ m.
Sau đó, Hoàng đế Bảo Đa ̣i lên xe hơi cùng đoàn tùy tùng các quan trong triề u đi
đón cũng từ Đà Nẵng trở ra Kinh đô Huế , nơi có bà Từ Cung, thân mẫu của
Hoàng đế đang ở đó.
Còn theo Hồ i ký của Bảo Đa ̣i thì cuô ̣c hô ̣i ngô ̣ đầ u tiên giữa Bảo Đa ̣i và
Nguyễn Hữu Thi ̣Lan diễn ra ở Đà La ̣t.
Sau thời gian ở Huế thăm thân mẫu và các quan trong triề u từ cu ̣ Đa ̣i
thầ n Tôn Thấ t Hân đế n cu ̣ Thươṇ g thư Nguyễn Hữu Bài. Hoàng đế Bảo Đa ̣i
đươ ̣c Khâm sứ Pháp ngỏ ý mời Bảo Đa ̣i vào Đà La ̣t để nghỉ mát it́ tuầ n.
Ngày mà Bảo Đa ̣i vào Đà La ̣t nghỉ là mùa hè năm 1933 và theo sự chỉ
thi ̣của toàn quyề n Pháp là Pasquier ra lê ̣nh cho viên Đố c lý (thi ̣trưởng) Đà La ̣t
là Darles tổ chức mô ̣t buổ i da ̣ tiê ̣c ta ̣i Tòa Đố c lý (nhưng có tư liê ̣u la ̣i ghi là
Hotal Palace - khách sa ̣n Lang Bian). Sau này, những ngày cuố i đời cựu hoàng
Bảo Đa ̣i có nhắ c đế n chuyê ̣n tham dự buổ i da ̣ tiê ̣c ta ̣i Tòa Đố c lý như sau: “Sau
lầ n hô ̣i ngô ̣ đầ u tiên ấ y, thin
̉ h thoảng chúng tôi la ̣i gă ̣p nhau để trao đổ i tâm tình.
Marie Thérèse thường nhắ c đế n những kỷ niê ̣m ở trường Convent des Oiseaux
mô ̣t cách thić h thú. Cũng như tôi, Marie Thérèse rấ t thić h thể thao và âm nha ̣c.
Cô ta có vẻ đe ̣p diụ dàng của người miề n Nam pha mô ̣t chút Tây phương. Do
vâ ̣y mà tôi đã cho ̣n từ kép Nam Phương để đă ̣t danh hiê ̣u cho nàng. Các vi ̣Tiên
đế của tôi cũng thường hướng về những người đàn bà miề n Nam.”
“Nế u tôi nhớ không sai thì trước Hoàng hâ ̣u Nam Phương, có đế n bảy
phu ̣ nữ miề n Nam đã từng là chủ nhân của Hoàng thành Huế . Khi cho ̣n phu ̣ nữ
miề n Nam làm vơ ̣ hin
̀ h như đức Tiên đế và tôi đề u nghi ̃ rằ ng trước kia đức Thế
tổ Cao Hoàng (tức Gia Long) đã đươ ̣c nhân dân miề n Nam yể m trơ ̣ trong viê ̣c
khôi phu ̣c giang sơn. Chin ́ h đó là sự ràng buô ̣c tiǹ h cảm giữa Hoàng triề u Huế
với người dân miề n Nam”. (Theo Con rồ ng Viê ̣t Nam - Nxb Plon - Paris, 1980).
Còn bà Nam Phương thì sau này kể la ̣i với ông Nguyễn Tiế n Lăng, Bí
thư riêng của bà, về “cái thuở ban đầ u lưu luyế n ấ y” khi bà gă ̣p ông Bảo Đa ̣i ở
Đà La ̣t: “Hôm đó ông Darle, Đố c lý thành phố Đà La ̣t có gởi giấ y mời câ ̣u
Denis Lê Phát An tôi (Lê Phát An, là anh ruô ̣t của bà Lê Thi ̣ Bình, tức bà
Nguyễn Hữu Hào) và tôi đế n dự da ̣ tiê ̣c ở Hotel Palace. Tôi không muố n đi
nhưng câ ̣u An tôi năn nỉ và hứa với tôi là chỉ đế n tham dự mô ̣t chút và vái chào
nhà vua xong là về nên tôi phải đi mô ̣t cách miễn cưỡng và tôi cũng chỉ trang
điể m sơ sài thôi. Chúng tôi đế n trễ nên buổ i tiê ̣c đã bắ t đầ u tự lâu. Câ ̣u tôi kéo
ghế đinh ̣ ngồ i ngoài hiên thì ông Darle trông thấ y, ông ta cha ̣y đế n chào chúng
tôi rồ i năm tay câ ̣u tôi kéo chúng tôi vào nhà. Vừa đi ông vừa nói “Ông và cô
phải đế n bái yế t Hoàng thươṇ g mới đươ ̣c.”
“Khi cánh cửa phòng khách mở ra, tôi thấ y vua Bảo Đa ̣i ngồ i trên chiế c
ghế bành chính giữa nhà. Ông Darle bước tới bên ca ̣nh Vua rồ i nghiêng mình
cúi chào và kính cẩ n nói:
- Votre Magesté, Monsieur Le Phat An et sa niêc, Mademoiselle Marie
Thérèse. (Tâu Hoàng thươṇ g, đây là ông Lê Phát An và người cháu gái, cô
Marie Thérèse).
Rồ i sau này M.Thérèse Nguyễn Hữu Thi ̣ Lan nhắ c la ̣i: “Nhờ các nữ tu
ở trường Convent des Oiseux khi trước đã từng chỉ da ̣y nên tôi biế t phải làm gì
để tỏ lòng tôn kính đố i với bâ ̣c Quân vương, vì vâ ̣y tôi đã không ngầ n nga ̣i đế n
trước mă ̣t Hoàng đế quỳ gố i và cúi đầ u sát nề n nhà cho đế n khi thấ y bàn tay câ ̣u
tôi kéo tôi dâ ̣y mới đứng lên. Vua gâ ̣t đầ u chào tôi đúng lúc tiế ng nha ̣c vừa trỗ i
theo nhip̣ Tango, Ngài ngỏ lời mời và diù tôi ra sàn nhảy rồ i chúng tôi bắ t đầ u
nói chuyê ̣n.
“Về sau, khi đã trở thành vơ ̣ chồ ng, Ngài mới cho tôi biế t hôm đó Ngày
rấ t chú ý cách phu ̣c sức đơn sơ của tôi. Tôi nghi ̃ rằ ng tôi đươ ̣c nhà vua lưu ý
mô ̣t phầ n do trong suố t buổ i da ̣ tiê ̣c chỉ có tôi là người đàn bà Viê ̣t Nam duy
nhấ t nói tiế ng Pháp và theo cung cách lễ nghi Âu tây đố i với Ngài.”
Đo ̣c la ̣i những lời tâm sự trên của Bảo Đa ̣i lẫn Nam Phương, chúng ta
biế t là buổ i da ̣ tiê ̣c trên có sự sắ p đă ̣t của Toàn quyề n Pháp, và do viên Đố c lý
Darle đa ̣o diễn với Denis Lê Phát An mà chắ c khi đó cô thiế u nữ Nguyễn Hữu
Thi ̣Lan vẫn chưa biế t đây là dip̣ coi mắ t của nhà vua muố n gă ̣p mă ̣t để trực tiế p
tiế p câ ̣n tìm hiể u xem cô thiế u nữ đấ t Nam bô ̣ có chiụ làm vơ ̣ Hoàng đế không.
Và chắ c chắ n giữa lúc hai người nói chuyê ̣n, Bảo Đa ̣i có hứa he ̣n là sẽ phong
Hoàng hâ ̣u ngay sau khi cưới và cũng sẽ cho các con cái nhâ ̣p đa ̣o Công giáo.
Vì vâ ̣y sau ngày trên, Bảo Đa ̣i trở về Huế bàn viê ̣c cưới hỏi đã gă ̣p sự ngăn cản
của Hoàng tô ̣c và Triề u đình Huế .
Tóm la ̣i, dù “cái thuở ban đầ u” của Bảo Đa ̣i và Nam Phương diễn ra
trên chuyế n tàu d’Artagnan hay ta ̣i buổ i da ̣ tiê ̣c ở Đà La ̣t thì đề u có mô ̣t sự thâ ̣t
là do bàn tay đa ̣o diễn của người Pháp.
8. “Lấ y vơ ̣ cho tôi hay cho triề u đình?”
Trong đêm da ̣ tiê ̣c và khiêu vũ chắ c Bảo Đa ̣i đã dùng tiế ng Pháp để nói
chuyê ̣n và chắ c đã làm xiêu lòng cô thiế u nữ miề n Nam dễ mế n nên Bảo Đa ̣i
không còn để ý đế n mô ̣t bông hoa nào khác mà gia đình trước đó đã sắ p đă ̣t sẽ
cưới làm vơ ̣. Hơn nữa, chắ c chắ n trước ngày tới dự buổ i da ̣ tiê ̣c, vơ ̣ chồ ng cựu
Khâm sứ Charles với vai trò “ông tơ bà nguyê ̣t” cũng đã hỏi ý kiế n và dă ̣n dò
Bảo Đa ̣i nhiề u điề u gì nữa mà không ai biế t đươ ̣c. Vì vâ ̣y, khi hai người Bảo
Đa ̣i và Thi ̣ Lan vừa sánh đôi qua bản khiêu vũ ho ̣ đã không rời nhau nữa bước
mà chỉ ngồ i tâm sự to nhỏ với nhau.
Sau ngày dự tiê ̣c, những ngày sau ho ̣ còn gă ̣p nhau trên sân quầ n vơ ̣t ta ̣i
tòa Đố c lý Đà La ̣t vào những buổ i chiề u nên đã tìm hiể u nhau nhiề u hơn. Mấ y
ngày sau Bảo Đa ̣i phải trở ra Huế , còn cô Thi ̣ Lan thì theo gia đình trở về Sài
Gòn.
Khi Bảo Đa ̣i về Huế , bà Từ Cung đã ngỏ ý về viê ̣c cưới vơ ̣ cho Bảo
Đa ̣i, và nói là đã cho ̣n đươ ̣c mô ̣t thiế u nữ gố c Huế , con mô ̣t vi ̣ quan Thươṇ g
trong Triề u là cô Ba ̣ch Yế n. Nhưng Bảo Đa ̣i từ chố i và xin đươ ̣c để Bảo Đa ̣i tự
cho ̣n người là m vơ ̣. Đó là cô Marie Thérèse Nguyễn Hữu Thi ̣Lan, cháu của gia
điǹ h Lê Phát Sỹ (tức Lê Phát Đa ̣t).
Denis Lê Phát Sy,̃ mô ̣t gia đình nổ i tiế ng giàu bâ ̣c nhâ ̣t Viê ̣t Nam thời
đó. Bà Từ Cung và cu ̣ Tôn Thấ t Hân đề u không chấ p nhâ ̣n viê ̣c để tự ý Bảo Đa ̣i
cho ̣n vơ ̣ và bắ t Bảo Đa ̣i phải chấ p nhâ ̣n lấ y cô Ba ̣ch Yế n mà Hoàng tô ̣c cùng
Triề u điǹ h đã đinh
̣ sẵn. Nhưng Bảo Đa ̣i nhấ t quyế t không chấ p nhâ ̣n sự xế p đă ̣t
này và nói: “Tôi lấ y vơ ̣ cho tôi hay cho Triề u đình?”. Vì Bảo Đa ̣i nói như vâ ̣y
nên sau đó cả triề u đình, từ bà Từ Cung đế n các quan đa ̣i thầ n, phu ̣ chánh cũng
im lă ̣ng để tự Bảo Đa ̣i quyế t đinh
̣ cho ̣n ai làm vơ ̣ tùy ý nhà vua.
9. Dòng họ của bà Nam Phương
Người dân Nam bộ và Bắc bộ thời những năm 30 thường nói: “Nhất
Sỹ, nhì Phương, tam Xường, tứ Định”, nghĩa là người đứng đầu tỷ phú là Lê
Phát Sỹ, người thứ nhì là Tổng đốc Đỗ Hữu Phương, người thứ ba là Bá hộ
Xường, người gốc Minh Hương, tên thật của Hộ Xường là Lý Tường Quan,
xuất thân thông ngôn. Người thứ tư là Hộ Định, mang họ Trần (?). Về sau,
những năm 20-30 tại đất Bắc kỳ có một người cũng từ bàn tay trắng lập nên sản
nghiệp có mấy chục cái tàu thuỷ chạy đường sông, vì vậy họ gọi ông là: Bạch
Thái Bưởi - vua đường sông mà hiện nay sử sách đánh giá Bạch Thái Bưởi là
nhà tư sản dân tộc, và câu nói “Nhất Sỹ, nhì Phương, tam Xường, tứ Bưởi” đã
được từ Nam chí Bắc công nhận.
Theo chúng được biết, Lê Phát Sỹ nguyên là cháu chắt của Mathiéu Lê
Văn Gẫm. Tư liệu của L.m Phan Phát Huồn C.S.S.P, trong VNGS 1 (1533-
1933), Cứu Thế Tùng Thư xuất bản năm 1965 tại Sài Gòn đã viết: “Mathiéu Lê
Văn Gẫm sinh ở Gò Công, tên thật là Lê Văn Bôi, lúc Giám mục Lefebre phải
về Huế, Mathiéu Gẫm phải giam ở Sài Gòn và phải án tử. Lê Văn Bôi đã lỗi luật
nước vì theo tà đạo, vì buôn bán với người ngoại quốc, và đã đem Tây Dương
đạo trưởng vào nước. Nó không chịu quá khoá, nó không chịu hối cải. Vì vậy
qua sang năm nó sẽ bị trảm quyết, chiếu theo đạo dụ của Hoàng đế”.
Câu chuyện còn kể lại trong gia đình là: Ngày 11-5-1847, ông Mathiéu
Lê Văn Gẫm được dẫn đến pháp trường “Da Còm” (Chợ Quán), cái tin đó làm
lương dân hiện diện rất đông. Ba người em của Lê Văn Gẫm, cũng cùng đức tin,
bị hành hình cùng lúc là Toma Trọng, Phaolo Bạng và Ine Nguyễn cũng có mặt
trong cuộc xử anh mình. Ông đội Bạng và ông trùm Phước phải xô đẩy đám
đông để đưa cha Thăm đến gần giải tội lần cuối cho vị tử đạo. Ông đội cũng
tặng viên đao phủ ba quan tiền để anh ta chém thật gọn, giúp anh mình đỡ đau
đớn.
Dân gian kể, khi nghe tiếng chuông trống đổ hồi và thấy thái độ thương
tiếc của nhiều người tham dự, viên đao phủ không còn giữ được bình tĩnh, hắn
phải chém đến ba phát, đầu chứng nhân mới lìa khỏi cổ. Các người em vị tử đạo
Mathiéu Gẫm và tín hữu ùa vào, ráp đầu vị chứng nhân với thân mình, khâu lại,
thay áo trắng, lấy khăn xanh quấn cổ, rồi đặt lên võng khiêng về an táng tại họ
Chợ Đũi.
Và theo cụ Vương Hồng Sển viết trong “Sài Gòn năm xưa”, thì: “Gần
Ngã sáu đường Võ Tánh (Nguyễn Trãi) quận 1, còn thấy ngày nay ngôi mộ Lê
Văn Gẫm tử đạo đời Thiệu Trị, bị hành hình hồi năm 1847. Mộ này nay nhà phố
xung quanh che gần bịt mất và mộ lún sụt xuống thấp hơn mặt đường lộ có một
thước sáu, suy ra đường phố mãi đắp lên cho khỏi ngập lụt nay mới cao làm
vậy, còn đất xóm này khi xưa lấy mực mộ Lái Gẫm là đủ biết thấp và nước thế
nào”.
Đến đời con cháu của Lái Gẫm là Lê Phát Sỹ ở họ đạo Cầu Kho - Sài
Gòn nhưng vì gia đình không khá giả nên phải bỏ đất Sài Gòn về cư ngụ tại họ
đạo ở dốc Cầu Dây thuộc thị xã Tân An để sinh sống. Ở xã Tân An có một ngôi
nhà thờ nhỏ bằng tre lá, những người có đạo tại xã này thuộc xứ đạo Ba Giồng ở
xã Tân Lý Tây huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho do một linh mục thừa sai người
Pháp là cha Ramon đến họ đạo dốc Cầu Dây làm lễ hàng tuần. Tới năm 1893 thì
họ đạo này có một cố đạo Tây tên là Moulin về làm cha sở ở họ đạo.
Gia đình họ Lê vốn có lòng mộ đạo, vì đã có một ông cố tử vì đạo là
Mathiéu Lê Văn Gẫm. Gia đình Lê Phát Sỹ lúc này vẫn chưa khá giả gì nên Lê
Phát Sỹ cũng làm nghề lái đò chở lương thực thuê cho dân làng. Cố đạo Moulin
biết gia đình họ Lê có người đã tử vì đạo, và Philippe Lê Phát Sỹ lại hiền lành
đạo đức nên đã nhận Lê Phát Sỹ làm con đỡ đầu để nuôi cho ăn học vì thấy Sỹ
lanh lợi và thông minh, có chí học hành.
Gia đình họ Lê lúc đó cũng vì hoàn cảnh còn khó khăn nên đã đồng ý
cho Sỹ theo cố Moulin để nhập trường dòng và hy vọng sau này sẽ trở thành
một tu sĩ hay linh mục. Lê Phát Sỹ học hết bậc tiểu học ở Sài Gòn rồi được cố
Moulin gửi sang Pesnang, nơi đào tạo những tu sĩ cho xứ Đông Dương và các
nước vùng Đông Nam Á.
Trong thời gian theo học tại chủng viện Pesnang, tại đây có một vị giáo
sĩ cũng có tên là Sỹ, hàng ngày giảng dạy cho Lê Phát Sỹ nên nhà dòng đã cho
cải tên Lê Phát Sỹ là Lê Phát Đạt. Hàng ngày Đạt được học tiếng Latinh, tiếng
Pháp, Bồ Đào Nha và chữ quốc ngữ. Lê Phát Đạt (Sỹ) tỏ ra một học sinh rất
thông minh và hiếu học, lại học giỏi nhất lớp trong số các chủng sinh đang theo
học.
Đến khi tốt nghiệp, Lê Phát Đạt không được ơn kêu gọi của Chúa để
làm tu sĩ hay linh mục nên đã phải trở về nước làm thông ngôn cho chính quyền
Pháp. Lúc đó người Pháp đang cần những người thông thạo tiếng Pháp nên Lê
Phát Đạt được làm việc ngay tại tỉnh lỵ Tân An, và được người Pháp ban cho
nhiều bổng lộc và quyền lợi. Lại gặp ngay thời Tây mới qua, dân còn tản mác
nên người Pháp đã cho phát mãi ruộng đất vô thừa nhận, giá bán rẻ mạt mà vẫn
không có người mua. Pháp ép nài Đạt mua, vì lúc đó Đạt đã có ít tiền lương và
vay thêm tiền làm vốn mua liền mấy chục ngàn mẫu ruộng hoang. Nào ngờ vận
đỏ, ruộng trúng liên tiếp mấy năm liền, không mấy chốc, Lê Phát Đạt trở nên
giáu có.
Đến lúc này Lê Phát Đạt đã trở thành một nhà triệu phú nên được người
Pháp ban cho chức Huyện hàm để gọi là có chút danh với đời. Lê Phát Đạt đã
được dân trong vùng gọi là Huyện Sỹ, và Sỹ (Đạt) thôi không làm cho chính
quyền Pháp “sáng vác ô đi, chiều vác ô về” mà ở nhà để trông ruộng đất và hoạt
động xã hội như xây trường học, viện tế bần, nhà thương, nhà thờ, … để làm
việc công ích cho xã hội.
Vốn là họ đạo dòng, từ đời cha ông tổ tiên, nên khi Huyện Sỹ đã giàu
có và dư thừa tiền bạc, Huyện Sỹ bỏ tiền mua đất ở khu Chợ Đũi. Đó là miếng
đất diện tích mấy mẫu ở nơi đã xử Lê Văn Gẫm tử đạo năm 1857, chỗ cây Đa
để xây một nhà thờ. Ngôi nhà thờ này dài 25 thước, và cất theo kiến trúc Roman
rất đẹp, chỉ kém nhà thờ Đức Bà Sài Gòn mà thôi. Khi nhà thờ này được hoàn
tất đã được gọi tên là Giáo xứ họ Chợ Đũi, nhưng dân gian gọi là nhà thờ Huyện
Sỹ, vì ông Sỹ là người bỏ tiền ra xây cất ngôi giáo đường này và cho tới nay
cũng ít ai gọi là nhà thờ họ Chợ Đũi.
Hiện nay trước sân nhà thờ Chợ Đũi có để một tượng của Mathiéu Lê
Văn Gẫm.
Rồi nhân việc rắc rối năm 1907, Giám mục Mossard (có tên Việt là
Mão) gặp chuyện không hay với chính quyền Pháp (nhóm Tam Điểm - Thệ
phản - France Monnerie) vì chính quyền thuộc địa Pháp tại Nam Kỳ đòi lấy lại
nhà thờ Đức Bà để họ làm Viện Bảo tàng Sài Gòn, khi đó nhà thờ Đức Bà chưa
xây dựng lớn như hiện nay.
Lo ngại nhà thờ Đức Bà sẽ bị lấy làm Viện Bảo tàng nên Giám mục
Mossard đã dự định sẽ chọn nhà thờ Chợ Đũi (Huyện Sỹ) làm nhà thờ chính toà
của địa phận Sài Gòn. Nhưng sau việc rắc rối cũng qua đi, vì nhờ có ba người là
thẩm pháp người Pháp là ong Napard, ông bác sĩ Angier và thương gia Lacaze
đã đi thuyết phục được một số Pháp kiều ở Sài Gòn đừng phản bội Hội Thánh
Công giáo mà bỏ phiếu chống lại nhóm Tam Điểm. Kết quả cuộc bỏ phiếu,
nhóm Tam Điểm thiểu số nên số phận Nhà thờ Đức Bà đã thắng và không bị lấy
đi.
Ngoài việc cúng đất và xây nhà thờ Chợ Đũi, Huyện Sỹ còn dâng cúng
600 hecta đất ở vùng Chí Hoà để xây cất dưỡng đường cho các cha bổn quốc
người Việt già, ốm về hưu.
Huyện Sỹ khi đã trở nên giàu có, vào hàng triệu phú (thời đó chưa gọi
là tỷ phú) đã cùng gia đình con cháu xin nhập quốc tịch Tây. Huyện Sỹ sinh
được bốn người con. Thứ nhất là Denis Lê Phát An, có vợ là Anna Trần Thị
Thơ. Denis An sinh năm 1868 tại Tân Lập (Tân An - vì vậy mới có tên là An).
Người con thứ hai sinh tại Sài Gòn năm 1879 là con gái tên Lê Thị Bình, cũng
là để nhớ đến chữ Bình Lập. Và người thứ ba là Lê Phát Vĩnh, người thứ tư là
Lê Phát Thanh. Tất cả những người con của Lê Phát Sỹ đều được cho đi du học
bên Pháp để tạo thành những thương nhân về nước mở thương nghiệp. Như
Denis Lê Phát An được sang Marseille học về ngành kinh tế và kỹ nghẹ. Đến
khi trở về nước đã hoạt động ngành thương mại dưới sự điều khiển chỉ dẫn của
thân phụ nên chẳng bao lâu D.Lê Phát An cũng trở nên giàu có vào hàng triệu
phú của đất Sài Gòn. Lê Phát An đã tậu nhiều đồn điền cao su và café rồi còn
mở nhà máy dệt bông vải.
Lê Phát An cũng noi gương thân phụ làm việc xã hội, cúng tiền bạc cho
nhà thờ, miếu đình và nhà thương, viện tế bần tại Tân An và Sài Gòn, Gia Định.
Việc đầu tiên là vợ chồng D.Lê Phát An bỏ tiền ra mua đất xây cất nhà thờ tại
xã Hạnh Thông Tây, quận Gò Vấp (Gia Định)…
Còn người con thứ hai là Maria Lê Thị Bình thì Lê Phát Sỹ đã gả cho
Pierre Nguyễn Hữu Hào, nguyên quán đất Gò Công. Nguyễn Hữu Hào vốn thủa
nhỏ học trường dòng, lớn lên được sang Pháp du học về ngành công nghệ và
canh nông. Khi trở về nước ông mở mang việc trồng trọt lớn và sau khi làm rể
Lê Phát Sỹ, chẳng mấy chốc gia đình ông trở nên giàu có nhất tỉnh Gò Công.
Đồng thời gia đình Nguyễn Hữu Hào còn mua nhiều đồn điền ở Đà Lạt - Lâm
Đồng. Ngoài việc kinh doanh, Nguyễn Hữu Hào còn thích văn nghệ nên nhà
ông thường có nhiều văn nghệ sỹ tới chơi và ông cũng sẵn sàng giúp đỡ nhiều
văn nhân, thi sỹ … tiền bạc để làm văn nghệ với mục đích khuyến khích họ
sáng tác. Bà Maria Lê Thị Bình vì là mẹ vợ của vua Bảo Đại nên sau này được
phong là Long Mỹ quận công.
Sau này, cũng vì gia đình họ Lê Phát Sỹ, Lê Phát An, Lê Thị Bình, rồi
đến con cháu là bà Nam Phương Hoàng hậu đã có nhiều công đức làm việc
phúc giúp đời, giúp đạo nên khi mất hai vợ chồng ông bà Pierre Lê Phát Sỹ (tức
Lê Phát Đạt) và bà Agnès Huỳnh Thị Tài đều được an táng ngay trong nhà thờ
họ Chợ Đũi. Khi đi tìm hiểu để nghiên cứu về gia đình họ Lê Phát Sỹ, tới nhà
thờ Huyện Sỹ chúng tôi đã được linh mục chánh xứ nơi đây dẫn đi và cho biết,
sau cung thánh trong giáo đường, mộ hai ông bà và các con họ Lê đều được an
táng tại đây. Trước tiên là một tượng bán thân, có tấm bia cẩm thạch với hàng
chữ ghi: Pierre Lê Phát Đạt 1841-1900 (tức là năm sinh và năm tạ thế). Rồi
ngay cạnh là một tượng nằm dài hơn thước cũng là ông P.L.Đạt để tay trên ngực
với tượng Chúa cùng nhánh hoa huệ là phần mộ ông Đạt. Cách khoảng 3 thước,
phía tay trái có tượng bà Agnès Huỳnh Thị Tài, tượng bán thân đề chữ: Agnès
Huỳnh Thị Tài 1845-1920, và cũng có một tượng như thế nằm dài, trên tay để ở
trên ngực với xâu chuỗi cùng nhánh hoa huệ. Chúng tôi đi lần tới, cách đó một
thước, thấy trên cao có để hình bán thân ghi trên bia đá cẩm thạch là: Jean
Baptiste Lê Phát Thanh 6/9/1864-29/11/1948. Và bên cạnh, phía trên gần tượng
bà A. Huỳnh Thị Tài, cũng có một tượng bán thân hình ghi: Đỗ Thị Thao 1865-
1922, là vợ ông Lê Phát Thanh, tức con dâu của ông bà Lê Phát Đạt. Có lẽ hai
người này cũng có công đức với giáo đường Huyện Sỹ (Chợ Đũi) nên mới có
tượng đặt ở nhà thờ này.
Khi còn sinh thời, ông P.Lê Phát Đạt cũng được người Pháp cho chức
Hội đồng thuộc địa Nam kỳ nên đã được trao tặng huân chương Dragon
d’Annam.
10. Lễ cưới của Bảo Đại và Nam Phương
Không thuyết phục được Bảo Đại, Triều đình và bà Từ Cung đành chấp
thuận, đồng ý để Bảo Đại lấy con gái của Nguyễn Hữu Hào. Lễ cưới đã diễn ra
ngày 20 tháng 3 năm 1934. Năm đó Bảo Đại 21 tuổi, còn Nguyễn Hữu Thị Lan
vừa 19 tuổi. Trong triều đình lúc đó duy chỉ có một mình cụ Nguyễn Hữu Bài
quan Thượng thư Bộ Lại kiêm Viện trưởng Viện Cơ Mật là người đồng tình với
nhà vua trong việc Bảo Đại lấy Thi Lan vì ông vốn cũng là người Công giáo.
Và cũng vì có sự bất đồng trong triều đình, hoàng tộc nên đám cưới đã
có vài trục trặc diễn ra khi rước dâu. Đến đây chúng ta đọc lại một bài phóng sự
của nhà báo lão thành Hoàng Phố đã viết trong Hồi ký làm báo (bản thảo chưa
in mà tôi đang lưu giữ.PTL).
“Hồi năm 1933, tôi làm chủ bút tờ Lục Tỉnh Tân Văn của ông huyện
Nguyễn Văn Của (là nhạc phụ của dược sĩ La Thanh Nghệ) ở xéo Vương Cung
Thánh Đường Sài Gòn. Lục Tỉnh Tân Văn số 1 ra đời tôi còn ở phương trời nào
chưa vào bụng mẹ. Nay tôi làm được chủ bút một tờ báo già hơn tôi, hãnh diện
làm sao.
Không mặc đồ Tây, tôi lại luộm thuộm với chiếc áo dài đen và đôi giày
hàm ếch, như quan chủ bút trước là cụ huyện Nguyễn Chánh Sắt đã về “hưu”.
Tôi bận như thế để cho ra vẻ nho phong và ra vẻ quan chủ bút luôn thể, nhứt là
để cho ít tốn tiền giặt ủi, vì hồi ấy gặp nạn khủng hoảng kinh tế, lúa có 3 cắc
một giạ.
Thuở đó, ai cũng mặc đồ Tây, riêng các quan lớn chủ quản đi hầu quan
Thống đốc mới mặc áo dài, khăn đóng. Thật ra, hàng ngày tôi ra vào ở dinh
Thống đốc, dinh Gia Long ở mặc áo dài kể cũng không phải là việc lạ đối với
cặp mắt mọi người, nhất là tôi lại là quan chủ bút số dzách.
Một ngày nọ, vào năm 1934, chủ nhân, ông huyện Nguyễn Văn Của
gọi tôi vào phòng bảo:
- Chiều nay, thầy đi với tôi! Nhớ khăn đóng và giày ếch-cat-ba đen
nghe.
- Dạ thưa, đi ăn tiệc Toàn quyền hay Thống đốc?
- Không! Đi dự bữa tiệc thân mật ở đường Taberd (bây giờ là đường
Nguyễn Du) chỉ năm, mười người thôi! Đằng gái đưa dâu, thầy kín miệng nghe.
Đây là việc cơ mật, Hoàng đế Bảo Đại cho quan Triều đình vào rước Hoàng hậu
về Huế. Hoàng hậu là con gái ông Nguyễn Hữu Hào. Cháu ông Huyện Sỹ
v.v…, và v.v…
À, té ra mình đi “họ” đây mà.
Chiều đến, biệt thự ông Nguyễn Hữu Hào ở đường Taberd (nay là toà
lãnh sự Đại Hàn), quan khách vỏn vẹn mười người. Tiệc thân mật. Ngoài quan
chủ bút Lục Tỉnh Tân Văn ra có quan chủ bút Lê Trung Nghĩa là hai quan báo.
Còn lại toàn quyền là "quan lớn" (lớn thật) trong đó có ông Đốc phủ Lê Quang
Liêm tức Bảy Liêm phải ngồi chung với tôi cho đủ cặp, vì tôi cũng khăn đóng
áo dài.
Rồi quan triều (hai vị) đến bắt tay tôi, phải “rua” cả hai tay và nghiêng
mình quá xá. Mấy thuở trong Nam có kẻ mặc áo dài bông bạc. Ý hẳn quan triều
tưởng tôi là quan lớn thiệt.
Sâm-banh nổ! Bánh đầy bàn. Cô Nguyễn Hữu Thị Lan đi mời rượu
từng người, tới tôi:
- Xin quan lớn dùng chút rượu và bánh.
Nhà gái cũng đến mời:
- Xin quan lớn dùng.
Nhìn quanh khắp phòng, chỉ có ông Đốc phủ Bảy, hai quan triều và tôi
mới thật là quan lớn mà thôi.
Không phải người ta kêu tâng bốc đâu các bạn!
Người ta thành thật gọi quan lớn đấy mà!
Nhưng thưa các bạn, các bạn muốn hiểu sao thì hiểu, vì lúc đó tôi đang
giương oai có một bộ mặt “quan lớn” thật tình.
Mấy hôm sau, đưa ra đến đèo Hải Vân, các quan từ Huế vào đến tiếp.
Quan khách đưa không mấy người, đều mặc đồ Tây cả. Riêng ông Đốc phủ Bảy
và tôi mặc quốc phục.
Lúc đó, không có giới thiệu, nên không làm sao lòi cái mặt “quan báo”
được. Mọi người đều tưởng (chắc chắn là như vậy) tôi làm gì lớn … lớn lắm ở
trong Nam, nên họ tiếp ông Đốc phủ Bảy và tôi “long trọng” hơn các người đi
họ khác.
Có lẽ ông Đốc phủ Bảy cũng muốn tôi có dịp giương oai chơi, nên ông
không bao giờ giới thiệu tôi là anh viết báo. Ông cứ vẫn đi cặp tôi (đi riêng sao
được, vì chỉ có hai mống bệ vệ trong bộ quốc phục) và rồi có lúc cũng gọi tôi là
quan lớn.
Ông gọi đùa tôi, nhưng tôi thấy sung sướng lạ!
Bây giờ nước đã trôi qua dưới cầu! Cuộc đời nhiều xáo trộn. Làng báo
ngày mọt đông thêm. Rất nhiều vị chủ bút ra đời. Song có bạn nào đã được làm
quan chủ bút để giương oai với quan thiệt của Triều đình chăng?
Còn một vài tờ báo nữa ở trong Nam thời đó cũng có đăng tin về việc
nước dâu trên, nhưng họ nói sở dĩ họ đàng trai (phía Hoàng tộc) chỉ có lèo tèo
vài người vào đèo Hải Vân đón nhà gái vì bên Hoàng tộc (họ nhà trai) không ai
chịu đi đón dâu nên cuộc đi đón bị trễ mất một ngày, làm họ nhà gái phải chờ ở
giữa đèo Hải Vân. Rồi hai họ cũng đã gặp nhau giữa đèo và đoàn xe nhập làm
một để trực chỉ về Huế. Tới Huế họ nhà gái được mời vào trong cung Trú Tất
nghỉ để chờ ngày 20 tháng 3 mới cử hành hôn lễ.
Buổi sáng mùa thật đẹp, hôn lễ được cử hành. Tại cung Trú Tất,
Nguyễn Hữu Thị Lan mặc áo thụng gấm đỏ thêu vàng, đội khăn màu thiên
thanh quấn nhiều vành, đi bên cạnh Thị Lan là bà chị ruột đã lấy chồng là một
võ quan Pháp (đại tá Didelot-PTL). Hai người cùng bước lên xe hơi để vào Đại
nội, ở đó Bảo Đại đang chờ cô dâu tới để làm lễ hợp cẩn trình diện Hoàng tộc,
các quan trong Triều và Khâm sứ Pháp”
Còn theo cuốn hồi ký “Con rồng An Nam” của Bảo Đại, thì:
“Lễ cưới được tổ chức trước sự hiện diện của đình thần và đại diện
nước Pháp. Đây là một lễ cưới đổi mới, trước kia, chưa từng có trong cung đình.
Tôi cũng quyết định sau khi cưới, sẽ tấn phong cho vợ tôi làm Hoàng hậu - danh
hiệu mà trước đó chỉ phong cho Thái hậu sau khi vị Hoàng đế qua đời”
Bốn ngày sau lễ đại hôn mới kết thúc và sau đó Nguyễn Hữu Thị Lan
được Bảo Đại tuyên bố sách lập là Nam Phương Hoàng hậu.
Ngày mùng 10 tháng 2 (tức 24-3-1934) lễ tấn phong Hoàng hậu được
diễn ra rất trọng thể ở điện Dưỡng Tâm. Và một đạo Dụ của nhà vua phong
Hoàng hậu tước vị Nam Phương Hoàng hậu. Bảo Đại giải thích thêm trong
“Con rồng An Nam” như sau:
“Tôi đã chọn tên trị vì cho bà Hoàng hậu mới, từ đó gọi là Nam
Phương - Nam Phương có nghĩa là hương thơm của miền nam” (berfume). Và
tôi, ra một chỉ dụ đặc biệt cho phép bà được phục sức màu vàng - màu dành
riêng cho Hoàng đế”
Tất nhiên, điều chúng ta cần biết nhất là lễ cưới đã diễn ra như thế nào?
Về điều này, Bảo Đại không quên và ông đã kể lại:
“Lễ cưới được tổ chức ngay trong phòng tiếp tân của điện Cần Chánh.
Cũng giống như lễ đăng quang, triều thần đứng sắp hàng dọc theo một tấm thảm
đỏ và vàng dành riêng cho Hoàng đế. Lần đầu tiên trong lịch sử triều Nguyễn có
một người phụ nữ xuất hiện giữa triều đình. Nam Phương mặc chiếc áo rộng
thùng thình, chân đi hài mũi cong, đầu đội vương miện có đính vàng ngọc châu
báu óng ánh. Nàng đi một mình đến giữa tấm thảm, tất cả triều thần cúi chào.
Với một vẻ đẹp tuyệt vời nàng đi thẳng vào các phòng lớn, tôi đang ngồi chờ
nàng trên một cái ngai thấp ở đó. Nàng đến đứng trước mặt tôi, cúi đầu chào tôi
ba lần rồi ngồi ở cái ngai bên phải của tôi. Buổi lễ ngắn ngủi chấm dứt. Hoàng
hậu đã ở bên tôi, chúng tôi sánh vai nhau bước đi trong tiếng nhạc mừng qua Tử
Cấm Thành vào điện Kiến Trung - nơi ở và làm việc của chúng tôi”. (Hồi ký
Bảo Đại Sđđ).
Đến đây chúng ta có thể kết luận là cuộc hôn nhân giữa Bảo Đại với
Thị Lan là có sự sắp đặt khéo léo và tinh vi của Toàn quyền Pasquier, của vợ
chồng cựu Khâm sứ Trung kỳ là ông bà Charles ngay từ khi Bảo Đại còn đang
theo học ở bên Pháp, lúc đang học “nghề làm vua”. Vì vậy, sau đám cưới, Bảo
Đại hay Thị Lan có bào chữa thế nào, thì rõ ràng là họ không phải chỉ mới biết
nhau tại Đà Lạt mà trong cuộc hôn nhân này có sự sắp đặt từ trước với những
âm mưu chính trị, thâm sâu của chính quyền thực dân Pháp. Như cụ Phạm Khắc
Hoè, cựu Đổng lý Ngự tiền Văn phòng của Bảo Đại, năm 1983 đã viết trong hồi
ký “Từ Triều đình Huế đến Chiến khu Việt Bắc”, trong đó cũng có đoạn nói về
cuộc hôn nhân của Bảo Đại:
“… Trong cuộc kết hôn giữa Bảo Đại với Nguyễn Hữu Thị Lan lý trí
nặng hơn tình cảm nhiều. Cô Lan lấy Bảo Đại chủ yếu là để lên ngôi Hoàng
hậu. Bảo Đại lấy cô Lan chủ yếu là để đào mỏ. Về mặt tình cảm nếu có thì cũng
chỉ là bề ngoài: hai người đều khoẻ mạnh, yêu thể thao và quen sống lối phương
Tây. Còn về tính tình, tâm tư thì hầu như trái ngược nhau. Bảo Đại nông cạn,
ngây thơ, nhu nhược, thích ăn chơi hơn là quyền bính. Ông ta có thể phục thiện
nhưng rất dễ bị bọn cơ hội lợi dụng. Trái lại, Nam Phương là người kín đáo,
trầm tĩnh, sâu sắc, có cá tính, có đầu óc suy nghĩ, thích đọc sách, nguyên cứu
hơn là ăn chơi … thích uy quyền và có nhiều tham vọng chính trị”.
Tham vọng của Nam Phương là khi có con trai sẽ phong làm Thái tử để
nối ngôi và quyền bính sẽ do bà Thái hậu là Nam Phương “thi thố tài năng”,
nhát là làm vừa lòng mẫu quốc Pháp, vừa lòng Toà thánh La Mã hằng mong đợi
nước Việt Nam tương lai sẽ có một ông vua có đạo Công giáo.
Và mặc dầu, khi vợ chồng Charles viết thư xin phép Toà thánh cho
Nam Phương được kết hôn với Bảo Đại, và mỗi người giữ đạo riêng. Nhưng
Giáo hoàng thứ XI đã không chấp nhận. Việc đã lỡ rồi, nên đám cưới của Bảo
Đại với Thị Lan vẫn cứ tiến hành. Vì vậy Giáo hoàng đã rút phép thông công
(phạt vạ) không cho Nam Phương xưng tội và rước lễ như trước khi lấy Bảo
Đại. Sau khi lễ cưới xong, Bảo Đại nghe theo lời của vợ chồng Charles là nên
tặng huy chương cho mấy Giám mục người Pháp, người Ý và Khâm sứ Toà
thánh ở Huế để lấy lòng Toà thánh thì tương lai sẽ được Toà thành tha phạt vạ
bà Nam Phương.
Và quả đúng như vậy. Năm 1939, Giáo hoàng Pio (Pius) XI qua đời
ngày 10-2-1939, và ngày 12-3-1939 Giáo hoàng Pio (Pius) XII lên kế vị nên đã
xét lại và chấp nhận cho Bảo Đại cứ giữ đạo Phật, còn Nam Phương cứ giữ đạo
Công giáo, nhưng các con khi sinh ra phải được rửa tội để nhập đạo Công giáo
theo người mẹ là bà Nam Phương. Vì thế, sau đó hai vợ chồng Bảo Đại và Nam
Phương đã sang ngay La Mã xin yết kiến để cảm ơn Giáo hoàng Pio XII (như
hình đã chụp).
Sau này, có người hỏi bà Nam Phương tại sao bà lại lấy một ông vua
không có đạo, lại ăn chơi trác táng, rồi sau đó còn năm thê bảy thiếp, không
kém gì những oong vua tiên đế. Bà Nam Phương trả lời là: Việc này do Chúa
định, tôi biết nói làm sao được.
Còn cô Bạch Yến, khi biết Bảo Đại lấy vợi rồi nên đã được gia đình gả
cho ông Phạm Đình Ái, người gốc Quảng Nam, là một kỹ sư hoá học mới tốt
nghiệp ở bên Pháp về nước. Gia đình kỹ sư Phạm Đình Ái rất hạnh phúc, sau
này có người con là bác sĩ Phạm Đình Vy, có thời gian làm chủ nhiệm tờ báo
Tình thương là bạn đồng nghiệp với chúng tôi, hồi đó bác sĩ Vy in báo Tình
thương - tờ báo của sinh viên Y khoa Sài Gòn năm 1964, tại nhà in của chúng
tôi ở đường Nguyễn An Ninh, Sài Gòn.
11. Chuyện về người chuyên vấn khăn vành dây cho Nam Phương
Hoàng Hậu
Theo tư liệu của tác giả Trịnh Bách kể lại: “Vào cuối Xuân 1931, nhà
báo Mỹ W.Robert Moore đã mục kích tại kinh đô Huế lễ đón tiếp Vua và Hoàng
hậu Thái Lan sang thăm Việt Nam. Bà Hoàng Thái Hậu phải đảm nhiệm việc
tiếp khách, vì vua Bảo Đại còn đang du học tại Pháp. Những nghi lễ và sự
hoành tráng của các buổi tiếp tân, yến tiệc đã khiến ông Moore hồi tưởng lại
những dịp lễ tương tự ở đế đô Bắc Kinh trước cách mạng Tân Hợi 1911.
Nhưng kỷ niệm thú vị nhất của nhà báo Mỹ này khi ở Huế là việc ông
được một vị Trưởng Công chúa triều Nguyễn tiếp kiến tại phủ riêng của bà. Ông
Moore kể lại rằng: “Vị ái nữ xinh đẹp của bà Chúa đã rộng lượng cho chúng tôi
được thưởng thức tài nghệ đàn tranh của cô. Sau đó cô cùng vị giáo sư già
khiếm thị và nhạc sĩ đàn dây khác trong phủ hợp tấu, trong khi các ca công trẻ
hát những bài ca Huế …”. Nàng công nữ xinh đẹp ấy có cái tên rất “Huế” là Mệ
Bông. Theo tục lệ cổ của triều Nguyễn, tất cả các thành viên của Hoàng tộc đều
được gọi là Mệ, và kèm theo một cái tên nghe thật bình dân. Tiếng Mệ dần dà
đã trở thành một cái âm thanh biểu tượng rất dễ thương của Huế.
Thân mẫu Mệ Bông là công chúa Công Tằng Tôn Nữ Tôn Tuỵ, trưởng
nữ của Cung Tôn Huệ Hoàng đế Dục Đức (1883). Bà trở thành Trưởng công
chúa khi em trai bà là Hoàng đế Thành Thái lên ngôi năm 1889. Bà được sắc
phong tước hiệu Mỹ Lương Công chúa năm 1897, thường được gọi là Bà Chúa
Nhất. Công chúa Mỹ Lương có công rất lớn đối với nghệ thuật tuồng cung đình
của Việt Nam vào đầu thế kỷ 20. Đội ca vũ tuồng cung đình do bà lập ra và
huấn luyện trong phủ của bà đã trình diễn trong hoàng cung từ cuối triều Thành
Thái, qua các triều Duy Tân, Khải Định và nhất là Bảo Đại. Bà Chúa cũng là
một trong những sáng lập viên và Mạnh Thường quân chính của Hội Lạc Thiện,
lập ra để cứu tế, giúp đỡ đồng bào khốn khổ, và các nạn nhân bị thiên tai quanh
đế đô. Thân phụ của mệ Bông là Thượng Thứ Nguyễn Kế, con trai của Diên
Lộc Quận công, một vị trưởng phụ chính nổi tiếng cuối triều nhà Nguyễn.
Mệ Bông bây giờ đã là một bà lão ở tuổi cửu tuần, nhưng Mệ vẫn chỉ
trả lời những câu hỏi liên quan đến tuổi tác bằng những nụ cười thật hiền. Khi
tôi (Trịnh Bách) ngỏ lời muốn được gặp và phỏng vấn Mệ Bông vào đầu tháng
9 - 2001, thân quyến của Mệ tỏ ra lo ngại cho tôi. Sau khi bị tai biến mạch máu
não, Mệ đã nằm liệt giường gần 2 năm, nói năng rất khó và Mệ không còn nhớ
gì … Thực ra, Mệ Bông còn nhớ mọi chuyện rất rõ. “Lúc nào trong phủ Đức Bà
cũng nuôi năm chục người. Họ vừa là người giúp việc, vừa là tài tử, đào hát của
đoàn tuồng. Người ca giỏi nhất trong đoàn là Mụ Liễu. Ngoài ra con Quý này,
Ninh này, Thanh này, Yến này … đông lắm! Đức Bà cho họ huấn luyện cả ngày
cả đêm …” Mệ cũng kể đến một điệu múa mà các vũ công trên đầu vấn khăn,
trong mặc áo bào xiêm, ngoài khoác áo lá tua. Đây là điệu múa Nữ Tướng mà
cậu của Mệ là vua Thanh Thái rất ưa thích. Qua điệu múa có tính chất tuồng
này, nhà vua đã biểu lộ một cách thụ động hoài bão của mình trong việc cứu đất
nước ra khỏi ách thống trị của người Pháp.
Tuy Mệ Bông rất thành thạo về đàn tranh và ca Huế, Mệ chỉ học và tự
tiêu khiển thôi. Phần lớn thì giờ của Mệ được dành cho các công việc trong
cung. Trong khi bà Tiên cung Thái hoàng Thái hậu, bà nội ruột của Hoàng đế
Bảo Đại phải chăm sóc việc nghi lễ, tiếp khách thì bà Chính cung Thái hoàng
Thái hậu, tức bà Thánh Cung thường phải nằm nghỉ trong cung Trường Sinh do
bị bệnh khớp nặng. Từ thuở nhỏ, Mệ Bông đã phải vào đọc sách, truyện giải sầu
cho Bà Thánh Cung. Vì Mệ rất thân với Hoàng Thái tử Thiền (Tức Hoàng đế
bảo Đại sau này) nên bà Thánh Cung coi Mệ như cháu bà.
Các bà trong nội cung cũng đều thích được Mệ Bông vấn khăn vành
dây cho họ. mệ Bông đã một thời nổi tiếng về tài vấn khăn này. Khăn làm bằng
nhiễu mỏng, dài từ 10 đến 20 thước tây. Khăn rộng khoảng 45 phân tây, được
xếp lại còn chiều rộng chừng 5 phân tây. Người có tước phẩm càng cao thì khăn
càng dài. Trước hết một đoạn khăn vấn được bao vào tóc để làm nền, rồi khăn
vành dây được cuộn tiếp theo, phủ ra ngoài. Khăn vành dây có vị trí rất quan
trọng trong nghi lễ của triều đình Huế. Bà Đệ Tam Điểm Tần của vua Khải
Định đã phải ngủ ngồi nhiều ngày trong các dịp đại kỵ để khỏi phải vấn khăn
lại. Mệ Bông rất hãnh diện về tài vấn khăn nhanh của Mệ, chỉ mất khoảng hơn
nửa giờ. “Hoàng hậu Nam Phương thường mặc âu phục, nhưng mỗi lần cần đến
triều phục thì bà lại cho vời tôi vào cung để vấn khăn cho bà”.
Các Hoàng đế cũng cần đến Mệ Bông vì tài bếp núc của Mệ. Khi cựu
hoàng Thành Thái về thăm Huế năm 1953 sau suốt 3 thập kỷ bị nhà cầm quyền
Pháp an trí ở đảo Reunion ở bên Châu Phi, ông đã quyết định “Ở tại phủ chị
Chúa để con Bông nó nấu cho ăn”. Trái với sự tưởng tượng của mọi người, các
Hoàng đế ở Huế không chuộng những món yến tiệc cầu kỳ cho lắm. Các đại
yến 60 món, trung yến 49 món, tiểu yến 30 món với ảnh hưởng của Trung
Quốc, thường được dùng để đãi quốc khách hay các quan. Còn mỗi món ăn
hàng ngày để Hoàng đế ngự thiện có thể nói là đạm bạc. Trong cung có 2 ông
bếp chính là ông Lợi người Bắc, và ông Nghĩa người Quảng Nam để nấu các cỗ
Âu. Nhưng mỗi khi trong cung cần đến tiệc Việt Nam thì Mệ Bông lại phải vào
phụ Mã Thông, Mã Trọn, hai người bếp của các món Huế trong cung.
Đối với Mệ Bông thì thời gian đã dừng lại khi nhà Nguyễn cáo chung
với việc Bảo Định thoái vị năm 1945. Sự mất mát lớn nhất trong đời Mệ Bông
xảy ra vào năm 1948, khi chiến tranh cướp đi người chồng trẻ yếu quý của Mệ
Bông, Mệ không bao giờ tái giá nữa. Niềm an ủi của mệ bây giờ là Cung An
Định ở An Cựu, nơi Hoàng Thái Hậu Từ Cung và một số mệnh phụ còn giữ lại
được phần nào nếp sống xưa. Mệ vẫn hay vào cung sống với Bà, và giúp Bà với
hai công việc ưa thích của Mệ là vấn khăn vành dây và bếp núc.
Năm 1954 lại biến đổi đời Mệ Bông thêm lần nữa. Người con gái độc
nhất của Mệ Bông đã tuổi 18 một hôm biết tích. Tìm con đến tận Sài Gòn cũng
không ra. Mệ gần như điên loạn. Mãi hai năm sau Mệ mới nhận được thơ của cô
gửi từ Hà Nội cho biết cô đã tập kết ra Bắc để tham gia cách mạng. Rồi sự bình
yên của Cung An Định cũng không còn khi ông Ngô Đình Diệm ra lênh quốc
hữu hoá cung này. Sau đó ông Diệm lại triệu Mệ Bông về Sài Gòn để nhờ Mệ
cố vấn cho các bữa yến tiệc trong Dinh Độc Lập. từ đó Mệ không bào giờ trở về
sống ở Huế nữa.
Khi đất nước thống nhất 1975, người con gái tập kết năm xưa lặn lội
vào Sài Gòn tìm mẹ. Mệ Bông như được hồi sinh. Mệ xuống tóc để tạ ơn Trời
Phật và từ đó Mệ chỉ vui với con cháu, ít khi ra ngoài. Lần cuối cùng Mệ Bông
trổ tài vấn khăn vành dây là vào dịp đám cưới người cháu gái năm 1985. Các
hình bóng một thời thân thương cũng dẫn dần ra đi. Hoàng hậu Nam Phương
mất bên Pháp năm 1963. Bà Chúa Nhất mất năm 1964. Bà An Phi, vợ chính của
vua Khải Định mất năm 1978, bà Hoàng Quý Phi Mai Thị Vàng, vợ vua Duy
Tân mất năm 1980. Rồi Hoàng Thái Hậu Từ Cung cũng mất năm 1980. Hoàng
đế Bảo Đại, người anh em họ của Mệ cũng mất tại Pháp năm 1997.
Khi tôi đến thăm và phỏng vấn Mệ Bông vào đầu tháng 9, như có một
phép lạ, Mệ đã ngồi dậy được để mặc cái áo mệnh phụ tứ thân, giống như áo Bà
Chúa Nhất mặc năm xưa, và chụp ảnh lưu lại cho con cháu. Mệ cười thật tươi
và đùa rằng nay Mệ được sắc phong.
Và khi bài này được đăng lên khuôn in, tôi nhận được tin Mệ Bông, tức
Tôn Nữ Nguyễn Thị Cẩm Hà, nhân chứng cuối cùng của cung vàng điện ngọc
Nguyễn Triều đã qua đời ngày 19 tháng 9 năm 2001 (Theo tư liệu của Trịnh
Bách).
12 -
Hoàng hậu hạ sinh Hoàng tử, Công chúa
Sau khi cưới, vợ chồng Hoàng đế Bảo Đại và Nam Phương Hoàng hậu
sống rất hạnh phúc, đi đâu cũng có nhau. Hàng tuần, Bảo Đại đích thân lái chiếc
xe hơi thể thao đưa Nam Phương Hoàng hậu lên núi nghỉ mát, hay tắm biển và
câu cá. Cũng có lúc đi săn trong rừng có cả Nam Phương đi cùng.
Theo hồi ký của ông Phạm Văn Bính, cựu Bí Thư của Bảo Đại trước
đây (Sau đó ông Bính ra làm báo) xuất bản trước năm 1975, ông Bính đã viết về
những ngày ở bên cạnh Bảo Đại và bà Nam Phương như sau:
“Những năm đầu Bảo Đại rất quý trọng bà Nam Phương. Hàng tuần
đích thân Hoàng đế lái chiếc xe Mercury bỏ mui màu nâu nhạt đưa Nam
Phương đi lên khu bạch Mã ở Huế hay vô Nha Trang hoặc lên Đà Lạt thăm
phong cảnh hoặc đi săn thú ở Buôn Mê Thuột, Bảo Lộc … Nhưng từ khi Nam
Phương Hoàng hậu sinh hạ Hoàng tử Bảo Long thì Hoàng đế hay vắng nhà để
đi du hý một mình”.
Ba năm sau ngày lấy nhau, Nam Phương mới sinh con đầu lòng, lại là
con trai nên vua và hoàng hậu cũng như triều đình rất vui mừng vì sẽ có người
kế vị sau này.
1. Hoàng tử Bảo Long:
Đêm ngày 4 tháng 1 năm 1936, người dân kinh đo Huế nghe thấy tiếng
súng đại bác bắn mừng báo tin Nam Phương Hoàng hậu đã hạ sinh hoàng tử.
Tiếng súng chào mừng bắn vào ban đêm nên người dân không đếm được bao
nhiêu phát. Nhưng đến tờ mờ sáng người dân kinh thành Huế lại nghe thấy tiếng
súng thần công bắn lần thứ hai. Họ lắng tai nghe và đếm từng phát một. Bảy
phát súng thần công bắn đi đã lay động cả kinh thành Huế, người dân biết ngay
là Hoàng Hậu đã hạ sinh Hoàng Nam chứ không phải Hoàng nữ. Vì nếu sinh
Hoàng nữ Công chúa thì sẽ có 9 tiếng đại bác. Theo như lệ cổ người ta tin rằng
đàn bà có 9 vía còn đàn ông thì có 7 vía.
Rồi ngày hôm sau những tờ báo trong nước đã loan tin nước nam đã có
một hoàng tử để sau này kế nghiệp vua cha. Tiếp theo là những bức điện của
Thượng thơ thuộc địa, của Toàn quyền Robin, Khâm sứ Trung, Nam và bắc kỳ
gửi vào Huế với lời chào mừng Hoàng hậu hạ sinh mẹ tròn con vuông, và nhất
là sinh Hoàng Tử.
Hoàng tử mới sinh được đặt tên là Nguyễn Phúc Bảo Long (ở ngoài đời
người ta vẫn viết và nói là Hoàng Tử Bảo Long). Theo tư liệu của một giáo sư
sử học Công giáo cho biết “Bảo Long đã được chịu phép rửa tội (âm thầm) và
được đặt tên theo bổn mạng (tên Thánh) là Phillipe. Có lẽ vì lý do chính trị nên
người ta đã không công khai việc Bảo Long đã được phép rửa tội nhập Công
Giáo, nhất là phải giữ kín không có những người trong hoàng tộc biết việc này,
mà chỉ có bà Nam Phương được biết thôi. Vì vậy nên có nhiều người thân cận
trong Hoàng tộc không dám khẳng định việc Bảo Long nhập đạo Công Giáo có
hay không? Nhưng chúng tôi đã đến hỏi một trong ba sư huynh Lasan là thầy
dạy (Thái phó precepteur du prince) Bảo Long, từ 4 tuổi cho tới khi khôn lớn,
tại trường D’Adran Đà Lạt, sư huynh dạy Thái tử đã khẳng định sự việc nói trên
là đúng” (G.H.C.G.V.N - 19977 - của linh mục Bùi Đức Sinh).
Về việc Bảo Long được rửa tội giữ kín, nên bà Nam Phương theo hình
thức vẫn để bảo Long được giáo dục theo tinh thần Phật giáo, nhưng đã khéo
léo không để cho Bảo Long xuất hiện tham dự nhiều trong các lể nghi cổ truyền
trong triều theo Phật giáo và Khổng giáo.
Và bà Nam Phương còn phản đối kịch liệt không chấp nhận để Bảo
Long đeo bùa ở cổ tay mà bà Thái hậu từ Cung bắt đeo, vì dù sao bảo Long
cũng là đứa cháu nội cưng của bà và Hoàng tộc.
Chính vì vấn đề trên nên đã gây ra mối bất hoà giữa mẹ chồng và một
nàng dâu theo tây học và lại có đạo thiên chúa nhiều đời. Cuộc chiến tuy bề
ngoài không ồn ào nhưng bên trong vẫn âm ỉ, vì giữa hai bà: một là bà Thái
Hậu, một là bà Hoàng hậu. Vì cả hai bà đều có quyền nhất trong hoàng gia, nên
không ai chịu ai. Cũng vì vậy sau này bà Từ Cung mới chấp nhận bà Mộng
Điệp làm thứ phi của Bảo Đại, vì bà Mộng Điệp ăn nói khéo lại mộ đạo Phật.
Những nghi lễ trong hoàng cung sau này đều do bàn tay bà Mộng Điệp lo cả.
Theo một vị cận thần của Bảo Đại người Công Giáo là cụ Nguyễn Đệ,
nguyên Đổng lý văn phòng của Bảo Đại, và con gái của cụ là nữ tu Nguyễn Thị
Nghĩa, dòng kinh sĩ Thánh Augustino (Ở Việt Nam người ta quen gọi là dòng
các mẹ trường Couvent des Oiseaux, và các nữ tu được gọi là Mẹ - tu phục là
màu trắng toàn thân từ khăn trùm đến áo choàng, trông như con chim câu). Bà
Nam Phương, vốn là cựu học sinh Couvent des Oiseaux nên rất mộ đạo. Hàng
ngày bà bắt Hoàng tử Bảo Long tối đến phải vào phòng bà để đọc kinh cầu
nguyện, và hàng tuần có linh mục tới làm lể riêng cho Nam Phương Hoàng hậu
dự lể cùng Hoàng Tử Bảo Long. Vì vậy ngay từ nhỏ Bảo Long đã thuộc kinh
bổn đạo Chúa rất thành thạo, và siêng năng đọc kinh cầu nguyện với mẹ.
Những lúc ở trong nhà, hai mẹ con Nam Phương và Bảo Long nói
chuyện với nhau đều dùng tiếng Pháp, vì vậy bà từ Cung cũng chẳng hiểu hai
mẹ con nói chuyện gì. Những lúc nói chuyện bằng tiếng Pháp là những lời bà
Nam Phương dạy con về luật giữ đạo, về tín điều của Đạo công giáo. Nếu các
quan trong triều muốn nói chuyện với bà Nam Phương và Bảo Long cũng phải
dùng tiếng Pháp vì bà Nam Phương rất ít dùng tiếng Việt. Bảo Long cũng ít
thích dự những nghi lễ Phật Giáo trong triều mà chỉ thích đi dự những nghi lể
theo lối Tây phương để Bảo Long còn được nói tiếng Pháp với các quan Tây.
Bảo Long là người trầm tĩnh nên cũng ít thích nói chuyện với mọi người, chỉ
khi có ai hỏi thì mới trả lời mà thôi.
Sau năm 1945 vì xảy ra cuộc cách mạng tháng 8, Bảo Đại thoái vị và
được Hồ Chủ Tịch của Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng Hoà mời
ra Hà Nội làm cố vấn nên bà Nam Phương cùng các con ở lại Huế. Rồi cuộc
chiến tranh Việt - Pháp xảy ra, tới năm 1947 bà Nam Phương đưa các con sang
Pháp tránh chiến tranh.
Khi đến Pháp, bà Nam Phương đã cho Bảo Long học ở College des
Roches tại Maslacq, thành phố Paul. Đây là một trong hai trường nổi tiếng ở
Pháp, nơi đã đào tạo những nhân tài sau này.
Tại đất Pháp, bảo Long cũng đã tới tuổi trưởng thành nên cũng ham ăn
chơi, lại sẵn gia đình bà Nam Phương giàu có do ông bà Lê Phát An tài trợ
những số tiền rất lớn nên Bảo Long đã đòi thân mẫu phải sắm cho một chiếc xe
hơi thể thao đời mới hiêuJaguar XK 120.
Năm 1950 Bảo Long đúng 14 tuổi đang ở với gia đình ở thành phố
Cannes thì tờ báo L’Aurore đã đăng tin ngày 2 - 3 - 1950 có một tổ chức bí mật
đã âm thầm bắt cóc thái tử Bảo Long, con trai trưởng của quốc trưởng Bảo Đại.
Vụ bắt cóc xảy ra tại Thành phố Paul (Pháp. Nhưng nhà chức trách địa phương
này đã kịp thời can thiệp nên Bảo Long đã thoát nạn. Sau đó mỗi khi Bảo Long
ra khỏi nhà là có một toán an ninh Pháp bảo vệ với đoàn xe hộ tống chặt chẽ.
Những giờ đi học, Bảo Long không sử dụng chiếc xe hơi thường ngày mà phải
thay đổi xe luôn luôn để tránh bọn bắt cóc mai phục.
Sau khi tốt nghiệp trung học tại Paul thì Bảo Long được nhập học
Lycee Condoreet, khoa Science - Politique (Khoa học chính trị và Luật).
Trường này cũng là trường mà thân phụ khi sang Pháp học “nghề làm vua”.
Người Pháp cũng có ý đồ đào tạo để Bảo Long sau này trở nên một ông vua Tây
học như thân phụ, và cũng theo đường lối của nước Pháp. Nghĩa là mẫu quốc
Pháp muốn duy trì cái chế độ thực dân tại Việt Nam lâu dài để đè đầu cởi cổ
dân Việt.
Đang khi theo học thì Bảo Long được lệnh nhập ngũ quân đội Pháp, vì
Bảo Long mang quốc tịch Pháp như thân mẫu (Có nhiều người đã nói, chính
Bảo Đại cũng có quốc tịch Pháp - nhưng vì vấn đề chính trị nên không được
công khai nói ra - cũng vì vậy nên sau này Bảo Đại lấy bà đầm Baudot thì Bảo
Đại chính thức tuyên bố gia nhập Công Giáo và mang tên quốc tịch Pháp là
Jean Robert).
Năm 1953, Bảo Long được phong là Hoàng Thái Tử Bảo Long để sửa
soạn kế vị khi vua cha tạ thế. Sau đó, nhân dịp Elisabeth được phong nữ hoàng
Anh quốc, Bảo Đại đã cử Hoàng thái tử Bảo Long sang Luân đôn dự lễ đăng
quang nữ hoàng Anh Elisabeth II ngày 2 - 6 - 1953. năm nay Bảo Long đã 17
tuổi.
Năm Bảo Long 18 tuổi đã có lần ngỏ lời với thân phụ và thân mẫu là
muốn gia nhập trường Võ bị Đà Lạt của người Việt Nam tại Việt Nam. Nhưng
Bảo Đại không cho và bắt phải nhập ngũ trường võ bị của người Pháp. Tuy vậy
bảo Đại cũng cho Bảo Long vận quân phục ngự lâm của Việt Nam và mang
hàm đại tá để chụp ảnh in lên con tem phát hành tại Việt Nam vào năm 1953.
Sự thật Bảo Long chưa là sĩ quan Ngự Lâm Quân bao giờ, mà chỉ bận quân
phục có một giờ chụp ảnh để cho oai thôi.
Đến tháng 10 - 1954, Bảo Long mới chính thức nhập ngũ trường võ bị
Saint Cyr ở Coetquidan (Pháp). Bảo Long theo học tại trường võ bị của Pháp,
nhưng với tư cách là sinh viên của quân đội Việt Nam nên sau khoá học mãn
khoá có thể tự chọn đơn vị mà không phải gửi ra mặt trận chiến đấu. Bảo Long
những ngày học ở quân trường vì thích môn cưỡi ngựa nên khi mãn khoá Bảo
Long học tiếp khoá tu nghiệp về ngành thiết kỵ của trường Saumur.
Theo những tư liệu và người thân kể lại: Những ngày còn học ở quân
trường, Bảo Long tỏ ra rất buồn và chán đời. Bảo Long rất ít trò chuyện với
những sinh viên đồng khoá. Rồi khi mãn khoá, đã lặng lẽ xin tình nguyện gia
nhập binh đoàn Lê dương ngành thiết kỵ để sang chiến đấu ở Algerie, nơi đang
diễn ra cuộc chiến sôi động năm đó. Tại chiến trường Algerie khi đó, bảo Long
đã chỉ huy một chiến xa trinh sát trong đoàn EBR (Engins Blindes
raconnaissance) và có hai tấm huân chương lục lạc được Pháp trao tặng. ở quân
ngũ gần 10 năm tới khi bị thương thì bảo Long được giải ngũ, nhưng Bảo Long
vẫn ngõ ý muốn ở lại quân ngũ để được ra mặt trận, có chết cũng chẳng ân hận
gì, vì Bảo Long có một ẩn ức gì trong lòng mà những người trong gia đình cũng
không hiểu nổi.
Sau năm 1954, bảo Đại trao quyền cho Ngô Đình Diệm về làm Thủ
Tướng và có ý định để sau đó sẽ cho Bảo Long về nắm ghế Quốc trưởng do Bảo
Đại tuyên bố nhường ngôi. Nhưng ý định chưa thành thì Ngô Đình Diệm đã cho
tổ chức cuộc trưng cầu dân ý phế bảo Đại khỏi ngôi Quốc trưởng để anh em nhà
họ Ngô năm toàn quyền và suy tôn Ngô Đình Diệm lên làm Tổng thống miền
Nam từ năm 1956 đến 1963, sau đó bị nhóm tướng tá người Việt làm tay sai cho
ngoại bang được Mỹ cho đô la và hứa hẹn chức vụ để đảo chánh chế độ Ngô
Đình Diệm rồi hạ sát ba anh em nhà họ Ngô (1 - 11 - 1963).
Còn Bảo Long khi biết thân phụ đã bị truất phế thì xin vào làm ở một
ngân hàng. Bảo Long cũng giống thân phụ chỉ mê gái, nhưng cái số Bảo Long
lại không được hưởng thụ gái đẹp như thân phụ mà lại lấy phải một gái goá
người Pháp, không có gì là đẹp đẽ cho lắm. Bà này có một đời chồng rồi nên
khi lấy bảo Long cũng chẳng có thêm đứa con nào cho Bảo Long. Theo một
người thân trong hoàng tộc ở Pháp về thăm gia đình đã cho chúng tôi biết: Bảo
Long đã lấy một bà Đầm tên Isabel Ebey, bà này đã có 2 con, là gái nạ dòng,
làm nghề trang trí nội thất ở Paris
Những năm sau này vì Hoàng tử bảo Long ăn chơi quá đà nên nên ông
phải nghĩ đến việc phân chia gia tài giữa thân phụ (Bảo Đại) và ông lấy tư cách
là con trưởng nên được quyền thừa kế những báu vật của cha để lại. Hơn nữa,
sau này vì Bảo Đại chính thức kết hôn với một cô đầm nên bảo Long sợ những
báu vật của triều Nguyễn lọt vào tay người ngoại quốc.
Những ngày Bảo Long còn ở chung với thân mẫu thì không có chuyện
gì xảy ra. Nhưng từ khi ông bảo Đại chính thức ở với bà M. Baudot thì trong gia
đình đã xảy việc rối rắm. Nào các con ông phản đối cha lấy vợ kế, rồi những
báu vật như thanh kiếm, quốc ấn … mạnh ai người đó giữ. Khi Bảo Đại in cuốn
“Con rồng An Nam” gọi điện thoại đến Bảo Long cho ông mượn chiếc ấn để
ông in lên trang bìa và trong sách, nhưng Bảo Long nhất quyết không đưa cho
mượn. Vì vậy, quan hệ giữa Bảo Long với thân phụ cũng tẻ nhạt từ đó, không ai
liên lạc với ai nữa. Mạnh ai người đó sống và Bảo Long cũng chẳng mấy khi gọi
điện thoại hỏi thăm sức khỏe thân phụ.
Sau đó ít lâu, các báo tại Paris đưa tin: Tại địa chỉ nhà Binche ở đường
Boetie thuộc quận 8 Paris, Bảo Long có bán đấu giá 306 món cổ vật do thân
mẫu để lại (sau khi bà Nam Phương tạ thế). Những cổ vật này gồm có nào là thẻ
bài, vương miện, kim khánh, ngân tiền rồi các vòng ngọc, bạc rồi các bình men
sứ. Các bức ảnh, tranh của các nhíp ảnh gia, hoạ sĩ tên tuổi trong và ngoài nước
chụp, vẽ hoàng gia từ những ngày Bảo Đại mới sinh, lên ngôi … Những bức
tranh đáng giá và quý hiếm như tranh của hoạ sĩ Mai Trung Thứ, Lê Phổ … là
những bức tranh không thể có bức thứ hai. Trong những cổ vật, có cuốn cổ thư
đáng quý nhất là cuốn “Cathechismus” của linh mục Alexandre de Rhedes in
cách đây mấy thế kỷ, được một người ngoại quốc tặng cho vua Khải Định làm
kỷ niệm. Rồi đến bức tượng gỗ hình một người Việt Nam có tựa là “Người đàn
ông đeo sắc và chóng dù”. Nhưng không rõ bức tượng này do ai tạc?
Một bức ảnh đáng quý nữa là bức chụp Hoàng hậu Nam Phương với
hoàng tử Bảo Long do nhà Ora chụp. Bức này chỉ bán với giá bèo là 600 quan
Pháp (Nếu tính tiền Việt Nam chỉ có gần 1tr đồng). Bức tranh sơn dầu của các
hoạ sĩ tên tuổi như Mai Trung Thứ vẽ một người phụ nữ ngồi. Rồi một bức
tượng Chàm có từ thế kỷ 12 là tượng Bodhisattva. Mấy thứ này cũng bán quá rẻ
có hơn trăm ngàn quan Pháp. Cả những món quà mừng đám cưới, mừng sinh
nhật của Nam Phương, của Bảo Long cũng được đem ra bán tuốt luốt để gom
tiền sinh sống cuối đời, vì lúc này Bảo Long cũng đã “Thất thập cổ lai hy” rồi.
Về cặp kiếm của bảo Đại thì theo bà Mộng Điệp tiết lộ với nhà nghiên
cứu Huế ông Nguyễn Đắc Xuân như sau: “Hiện nay hai báu vật (Cặp kiếm và
chiếc ấn Nguyễn triều Chi bảo đang nằm trong tay Bảo Long. Nhiều lần cựu
hoàng Bảo Đại muốn lấy lại một cái dấu ấn để in vào cuốn “con rồng An Nam
(Hồi ký của Bảo Đại, nhưng ông bảo Long vẫn không cho. Có tin đồn Bảo Long
đã bán cái kiếm rồi, người ta kể có một người Pháp mua cái kiếm ấy. Người
mua cầm cái kiếm đứng giữa, bắt hai vợ chồng Bảo Long đứng hai bên chụp
ảnh. Còn cái ấn nghe nói Bảo Long sẽ bán trong cuộc đấu giá sắp tới”
Tất cả những bảo vật của Bảo Đại mà Bảo Long có được là do bà Nam
Phương gìn giữ. Nay bà Nam Phương tạ thế và bảo Long có quyền thừa kế nên
muốn làm gì thì làm. Và theo liệt kê trong cuốn “Art du VietNam”, Colletion de
S.A.I.Le prince Bao Long, Binoche 22, Novembre 1955, có rất nhiều bảo vật
quý giá của Hoàng gia mà gia đình Bảo Đại mang ra nước ngoài. Nếu bây giờ
nhà nước ta mua lại những báu vật trên để mang về trưng bày trong Viện bảo
tàng Việt Nam thì quý giá biết mấy. Dù những bảo vật trên là của thời quân chủ
phong kiến, nhưng đó là những cổ vật của triều Nguyễn một thời trị vì nước
Việt.
2. Công chúa Phương Mai:
Sinh hoàng tử Bảo Long được 1 năm thì năm sau ngày 1-8-1937 Bảo
Đại - Nam Phương sinh người con thứ nhì là Phương Mai. Công chúa Phương
Mai đã lấy một người chồng Pháp gốc Do Thái, và đã sinh được một đứa con có
tên là Benjamin Phương. Nhưng người chồng Do Thái này đã chia tay với
Phương Mai vì không moi được của “hồi môn” của gia đình vợ. Chắc tại cái
anh chàng Do Thái này nghĩ rằng lấy con của cựu hoàng lắm của nhiều tiền nên
mới lao đầu vào lấy. Nhưng không ngờ Cựu hoàng cũng rách “bao tử” phải
sống nhờ bạn bè.
Theo tư liệu của ông Nguyễn Đắc Xuân, thì Phương Mai đã lấy anh tài
xế lái máy bay của Bảo Đại, sau đó anh phi công này đã để lại một giọt máu rơi
cho Phương Mai nuôi. Phương Mai lại đi bước nữa lấy một người trong hoàng
tộc Ý. Nhưng cái số Phương Mai lận đận trong việc chồng con, nhưng chỉ ít lâu
sau người chồng thứ nhì này lại tạ thế và cũng để lại cho Phương Mai mấy
người con. Hiện nay Phương Mai là một quả phụ nuôi mấy người con không
cha. Kể cũng tội một cô công chúa hết thời và hết tình!
3. Công chúa Phương Liên:
Cũng một năm sau, ngày 3-11-1938, Nam Phương lại hạ sinh một cô
công chúa và đặt tên là Phương Liên. Công chúa Phương Liên kết hôn với một
người Pháp tên Bernard Soulain làm ở ngân hàng và đồng lương khá giả nên hai
vợ chồng Phương Liên cũng gửi tiền về biếu thân phụ (Bảo Đại). Hai vợ chồng
Phương Liên làm việc ở tận Hồng Kông nên cũng ít có dịp về thăm thân phụ và
thân mẫu ở Pháp.
4. Công chúa Phương Dung:
Đến 5 năm sau, 5-12-1942 Nam Phương mới sinh thêm một công chúa
và đặt tên là Phương Dung. Công chúa Phương Dung làm nghề giữ trẻ ở Paris
với đồng lương chẳng có thể dư dã được nên đã không thể trợ giúp thân phụ.
Không rõ chồng con của Công chúa ra sao?
5. Hoàng tử Bảo Thắng:
Một năm sau, 9-12-1943, nam Phương sinh thêm một Hoảng tử đặt tên
bảo Thắng. Bảo Thắng ngay từ nhỏ đã có thân hình to béo, lớn lên càng ngày
càng béo phì nên ông không lấy vợ mà chỉ thích chơi nhạc và vẽ tranh. Hiện
Bảo Thắng sống ở Paris.
Nỗi lo của Nam Phương hoàng hậu sau Cách mạng Tháng 8-1945
Nam Phương là một phụ nữ, từ khi lọt lòng mẹ đến khi đi học rồi lấy
chồng làm vua, lên ngôi Hoàng hậu đều được sống trong nhung lụa, kẻ hầu
người hạ. nên khi Cách mạng Tháng 8 nổ ra, toàn dân đứng lên lật đổ ngai vàng,
lật đổ chế độ phong kiến và kháng chiến chống Pháp để dành độc lập tự do thì
bà Nam Phương rất lo sợ. Khi nghe tin phái đoàn Chính phủ Lâm thời Việt Nam
vào Huế để yêu cầu vua Bảo Đại thoái vị và phải nộp ấn kiếm cho Cách Mạng
thì bà Nam Phương lại càng lo sợ hơn nữa.
Đến 2 giờ chiều ngày 26 tháng 8 năm 1945, vua Bảo Đại đã loan báo
việc đồng ý thoái vị và trao ấn kiếm cho phái đoàn Chính phủ tới tiếp nhận. Bảo
Đại triệu tập các quan trong triều đúng giờ trên phải có mặt ở Thế Miếu, nơi thờ
tiên đế nhà Nguyễn để vua báo cáo trước tổ tiên. Nhưng tới giờ phút chót các
quan văn võ đều lẫn tránh, chỉ có 4 người tới dự.
Khi lễ báo cáo yết Liệt Thánh tất, thì quan văn võ mới lục đục kéo nhau
vào điện Kiến Trung để làm lễ bái biệt vua và hoàng hậu. Bảo Đại và hoàng hậu
Nam Phương đều đứng, còn các quan văn võ đều xếp hàng ngang và chấp tay
cúi đầu vái ba vái. Lúc đó, Bảo Đại mặt lạnh như tiền, còn bà Nam Phương thì
tỏ vẻ buồn, hai hàng nước mắt nhỏ từng giọt xuống gò má. Lễ xong mọi người
ra về, không ai nói với nhau đều gì, chỉ cúi đầu im lặng lủi thủi đi.
Đến sáng ngày 27-8, ông Phạm Khắc Hòe vẫn đến văn phòng làm việc
như thương lệ. Nhưng độ mươi phút sau thì có người thị vệ của bà Nam Phương
khệ nệ bê cái khay có phủ tấm vải vàng và để chiếc mũ Cửu Phượng của bà trên
đó, chiếc mũ này có đính 9 con Phượng bằng vàng ròng. Chiếc khay đặt trước
mặt ông Phạm Khắc Hòe và người thị vệ thưa:
- Dạ bẩm, Ngài Hoàng ban đưa mũ Cửu Phượng “trả” lại cho cụ.
Ông Hòe ngơ ngác hỏi:
- Sao lại “Trả” cho tôi, ông đưa về tâu với Ngài rằng tôi không dám
nhận và xin phép Ngài cho tôi qua chầu để nói rõ lý do.
Độ hai mươi phút sau, bà Nam Phương tiếp ông Hòe ở điện Kiến
Trung. Và bà hỏi:
- Tại sao tôi cho người đưa cái mũ Cửu Phượng qua trả mà ông lại
không nhận?
Ông Hòe thưa lại:
- Tâu, chúng tôi không dám nhận, vì đó không phải là của ngự tiền văn
phòng, và hơn nữa cũng không phải là của riêng chúng tôi. Theo thiển ý chúng
tôi, thì từ nay, trừ những cái thật sự là của riêng Ngài, của Hoàng đế, của Đức
Từ và các quan chức nhân viên thường trú trong đại nội, tất cả mọi thứ trong
hoàng thành này từ cung điện, nhà cửa, ngọc ngà, châu báu, kiệu, xe, tán, lọng,
áo xiêm, hài cho đến bàn ghế, giường tủ, hồ sơ, sách báo, dụng cụ văn phòng,
dụng cụ nhà bếp … đều là của chính quyền nhân dân, phải được kiểm kê đối
chiếu sổ sách và bàn giao lại đầy đủ cho các nhà chức trách mới … Vậy, cho
nên đối với tất cả những tài sản, những vật dụng ở điện Kiến Trung mà không
phải của riêng Hoàng gia, xin đề nghị Ngài ra lệnh cho người chầu hầu phải xếp
đặt lại mọi thứ đúng theo chỗ của nó, chớ không nên mang đi nới khác, lỡ ra
mất phải truy cứu trách nhiệm thì phiền lắm.
Cuộc nói chuyện giữa bà Nam Phương với ông Phạm Khắc Hòe đang
diễn ra thì Bảo Đại ở trong đi ra. Nhìn thấy Bảo Đại xuất hiện ông Hòe vội
đứng dậy, nhưng Bảo Đại vẫy tay bảo ông Hòe cứ ngồi, rồi Bảo Đại cùng ngồi
bên cạnh bà Nam Phương, bảo bà cứ tiếp tục câu chuyện. Bà Nam Phương nhìn
ông Hoà và nói:
- Qua những lời ông nói, tôi càng thêm trách ông.
Ông Hòe thưa:
- Tâu, chúng tôi chưa hiểu ý Ngài muốn nói chi? Nếu chúng tôi có lỗi
lầm chi đáng trách, thì xin Ngài cho biết rõ để chúng tôi nhận lỗi.
Bà Nam Phương thong thả và chậm rãi nói:
- Tôi muốn nói rằng, ông là người của Việt Minh cài vào Đại Nội đã từ
lâu. Điều này, tối hậu thư ngày 23-8 của Việt Minh đã thể hiện khá rõ. Hôm
nay, qua cách ông sắp xếp và bàn giao tài sản cho Việt Minh, tôi càng thấy rõ
hơn vai trò của ông. Ấy thế mà ông không hề nói cho tôi biết trước một chút xíu
chi cả. Việc chi cũng phải nước đến chân mới nhảy …
Nhưng ông Hòe nói:
- Tâu, nếu chúng tôi quả thật là “người của Việt Minh cài vào Đại Nội
đã từ lâu” thì đó là một vinh dự cho chúng tôi. Chúng tôi không can chi mà phải
chối. Nhưng sự thật chúng tôi không có chân trong tổ chức Việt Minh, chúng tôi
chỉ làm việc theo mong muốn của Tổ Quốc, theo sự thúc giục của lương tâm và
với tấm lòng thiết tha mà chúng tôi đã tích cực vận động Hoàng đế thoái vị và
chúng tôi vô cùng sung sướng khi ngài chấp nhận lời khuyên của chúng tôi.
Theo lương tâm của chúng tôi thì cuộc vẫn động kéo dài gần hai tuần lễ là cả
một quá trình báo cho hoàng gia biết trước những gì sẽ xảy ra để hoàng gia khỏi
bị bất ngờ, tránh được tình trạng nước đến chân mới nhảy. Nếu chúng tôi cứ để
cho hoàng đế ngã theo những người như Phạm Quỳnh, Nguyễn Duy Quang …
thì chắc chắn chúng tôi đã chẳng có hạnh phúc được ngồi hầu chuyện với hai
Ngài một cách thân mật và thẳng thắn như ngày hôm nay.
Vợ chồng Bảo Đại, Nam Phương nghe ong Hòe nói như trên thì ngồi
im và tỏ vẻ cảm động cùng nhìn nhau. Sau đó, bà Nam Phương quay sang nhìn
ông Hòe và nói “Câu chuyện hôm nay đã làm cho tôi hiểu và quý ông hơn. Để
tỏ mối thiện cảm ấy, tôi có một vật kỷ niệm nhỏ tặng ông”. Sau đó, bà Nam
Phương trao cho ông Hòe một chiếc cặp da bóng loáng, và còn liếc nhìn Bảo
Đại. Thấy bà vợ có hành động như vậy, Bảo Đại vội đứng dậy đi vào trong nhà
và mấy mấy phút sau trở ra nói: “Tôi cũng tặng ông một chút kỷ niệm nhỏ” rồi
trao cho ông Hòe một bộ nút áo chẽn bằng đá xanh có núm bịt vàng
Ông Hòe cảm động, cảm ơn Bảo Đại và Nam Phương rồi cáo từ ra về.
13. Nỗi lo của Nam Phương hoàng hậu sau Cách mạng tháng 8-1945
Nam Phương là một phụ nữ, từ khi lọt lòng mẹ đến khi đi học rồi lấy
chồng làm vua, lên ngôi Hoàng hậu đều được sống trong nhung lụa, kẻ hầu
người hạ. nên khi Cách mạng Tháng 8 nổ ra, toàn dân đứng lên lật đổ ngai vàng,
lật đổ chế độ phong kiến và kháng chiến chống Pháp để dành độc lập tự do thì
bà Nam Phương rất lo sợ. Khi nghe tin phái đoàn Chính phủ Lâm thời Việt Nam
vào Huế để yêu cầu vua Bảo Đại thoái vị và phải nộp ấn kiếm cho Cách Mạng
thì bà Nam Phương lại càng lo sợ hơn nữa.
Đến 2 giờ chiều ngày 26 tháng 8 năm 1945, vua Bảo Đại đã loan báo
việc đồng ý thoái vị và trao ấn kiếm cho phái đoàn Chính phủ tới tiếp nhận. Bảo
Đại triệu tập các quan trong triều đúng giờ trên phải có mặt ở Thế Miếu, nơi thờ
tiên đế nhà Nguyễn để vua báo cáo trước tổ tiên. Nhưng tới giờ phút chót các
quan văn võ đều lẫn tránh, chỉ có 4 người tới dự.
Khi lễ báo cáo yết Liệt Thánh tất, thì quan văn võ mới lục đục kéo nhau
vào điện Kiến Trung để làm lễ bái biệt vua và hoàng hậu. Bảo Đại và hoàng hậu
Nam Phương đều đứng, còn các quan văn võ đều xếp hàng ngang và chấp tay
cúi đầu vái ba vái. Lúc đó, Bảo Đại mặt lạnh như tiền, còn bà Nam Phương thì
tỏ vẻ buồn, hai hàng nước mắt nhỏ từng giọt xuống gò má. Lễ xong mọi người
ra về, không ai nói với nhau đều gì, chỉ cúi đầu im lặng lủi thủi đi.
Đến sáng ngày 27-8, ông Phạm Khắc Hòe vẫn đến văn phòng làm việc
như thương lệ. Nhưng độ mươi phút sau thì có người thị vệ của bà Nam Phương
khệ nệ bê cái khay có phủ tấm vải vàng và để chiếc mũ Cửu Phượng của bà trên
đó, chiếc mũ này có đính 9 con Phượng bằng vàng ròng. Chiếc khay đặt trước
mặt ông Phạm Khắc Hòe và người thị vệ thưa:
- Dạ bẩm, Ngài Hoàng ban đưa mũ Cửu Phượng “trả” lại cho cụ.
Ông Hòe ngơ ngác hỏi:
- Sao lại “Trả” cho tôi, ông đưa về tâu với Ngài rằng tôi không dám
nhận và xin phép Ngài cho tôi qua chầu để nói rõ lý do.
Độ hai mươi phút sau, bà Nam Phương tiếp ông Hòe ở điện Kiến
Trung. Và bà hỏi:
- Tại sao tôi cho người đưa cái mũ Cửu Phượng qua trả mà ông lại
không nhận?
Ông Hòe thưa lại:
- Tâu, chúng tôi không dám nhận, vì đó không phải là của ngự tiền văn
phòng, và hơn nữa cũng không phải là của riêng chúng tôi. Theo thiển ý chúng
tôi, thì từ nay, trừ những cái thật sự là của riêng Ngài, của Hoàng đế, của Đức
Từ và các quan chức nhân viên thường trú trong đại nội, tất cả mọi thứ trong
hoàng thành này từ cung điện, nhà cửa, ngọc ngà, châu báu, kiệu, xe, tán, lọng,
áo xiêm, hài cho đến bàn ghế, giường tủ, hồ sơ, sách báo, dụng cụ văn phòng,
dụng cụ nhà bếp … đều là của chính quyền nhân dân, phải được kiểm kê đối
chiếu sổ sách và bàn giao lại đầy đủ cho các nhà chức trách mới … Vậy, cho
nên đối với tất cả những tài sản, những vật dụng ở điện Kiến Trung mà không
phải của riêng Hoàng gia, xin đề nghị Ngài ra lệnh cho người chầu hầu phải xếp
đặt lại mọi thứ đúng theo chỗ của nó, chớ không nên mang đi nới khác, lỡ ra
mất phải truy cứu trách nhiệm thì phiền lắm.
Cuộc nói chuyện giữa bà Nam Phương với ông Phạm Khắc Hòe đang
diễn ra thì Bảo Đại ở trong đi ra. Nhìn thấy Bảo Đại xuất hiện ông Hòe vội
đứng dậy, nhưng Bảo Đại vẫy tay bảo ông Hòe cứ ngồi, rồi Bảo Đại cùng ngồi
bên cạnh bà Nam Phương, bảo bà cứ tiếp tục câu chuyện. Bà Nam Phương nhìn
ông Hoà và nói:
- Qua những lời ông nói, tôi càng thêm trách ông.
Ông Hòe thưa:
- Tâu, chúng tôi chưa hiểu ý Ngài muốn nói chi? Nếu chúng tôi có lỗi
lầm chi đáng trách, thì xin Ngài cho biết rõ để chúng tôi nhận lỗi.
Bà Nam Phương thong thả và chậm rãi nói:
- Tôi muốn nói rằng, ông là người của Việt Minh cài vào Đại Nội đã từ
lâu. Điều này, tối hậu thư ngày 23 - 8 của Việt Minh đã thể hiện khá rõ. Hôm
nay, qua cách ông sắp xếp và bàn giao tài sản cho Việt Minh, tôi càng thấy rõ
hơn vai trò của ông. Ấy thế mà ông không hề nói cho tôi biết trước một chút xíu
chi cả. Việc chi cũng phải nước đến chân mới nhảy …
Nhưng ông Hòe nói:
- Tâu, nếu chúng tôi quả thật là “người của Việt Minh cài vào Đại Nội
đã từ lâu” thì đó là một vinh dự cho chúng tôi. Chúng tôi không can chi mà phải
chối. Nhưng sự thật chúng tôi không có chân trong tổ chức Việt Minh, chúng tôi
chỉ làm việc theo mong muốn của Tổ Quốc, theo sự thúc dục của lương tâm và
với tấm lòng thiết tha mà chúng tôi đã tích cực vận động Hoàng đế thoái vị và
chúng tôi vô cùng sung sướng khi ngài chấp nhận lời khuyên của chúng tôi.
Theo lương tâm của chúng tôi thì cuộc vẫn động kéo dài gần hai tuần lễ là cả
một quá trình báo cho hoàng gia biết trước những gì sẽ xảy ra để hoàng gia khỏi
bị bất ngờ, tránh được tình trạng nước đến chân mới nhảy. Nếu chúng tôi cứ để
cho hoàng đế ngã theo những người như Phạm Quỳnh, Nguyễn Duy Quang …
thì chắc chắn chúng tôi đã chẳng có hạnh phúc được ngồi hầu chuyện với hai
Ngài một cách thân mật và thẳng thắn như ngày hôm nay.
Vợ chồng Bảo Đại, Nam Phương nghe ong Hòe nói như trên thì ngồi
im và tỏ vẻ cảm động cùng nhìn nhau. Sau đó, bà Nam Phương quay sang nhìn
ông Hòe và nói “Câu chuyện hôm nay đã làm cho tôi hiểu và quý ông hơn. Để
tỏ mối thiện cảm ấy, tôi có một vật kỷ niệm nhỏ tặng ông”. Sau đó, bà Nam
Phương trao cho ông Hòe một chiếc cặp da bóng loáng, và còn liếc nhìn Bảo
Đại. Thấy bà vợ có hành động như vậy, Bảo Đại vội đứng dậy đi vào trong nhà
và mấy mấy phút sau trở ra nói: “Tôi cũng tặng ông một chút kỷ niệm nhỏ” rồi
trao cho ông Hòe một bộ nút áo chẽn bằng đá xanh có núm bịt vàn.g
Ông Hòe cảm động, cảm ơn Bảo Đại và Nam Phương rồi cáo từ ra về.
14. Bà Nam Phương trả lời báo “Quyết Tiến”
Theo tư liệu của nhà báo, nhà văn Trần Thanh Địch, phóng viên của
báo Quyết Tiến - một tờ báo của Cách mạng xuất bản trong những đầu Cách
mạng tháng Tám 1945 tại Huế, mà trong Kiến Thức Ngày Nay số 142 đã thuật
lại, cùng tài liệu của Daniel Grandclement trong cuốn “Bảo Đại ou les derniers
jours de L’Empire D’ Annam” đã viết như sau:
Khi Vĩnh Thuỵ đã được Hồ Chủ tịch mời ra Hà Nội để làm Cố vấn Tối
cao cho Chánh phủ Lâm thời Việt Nam, thì bà Nam Phương, người vợ của Bảo
Đại ở lại Huế với các con. Để dân chúng khỏi dị nghị về việc Bảo Đại ra Hà
Nội, còn bà Nam Phương và các con ở lại Huế ra sao, nên ông Lê Chưởng, là
chủ nhiệm báo Quyết Tiến đã ký giấy giới thiệu cho hai nhà thơ, nhà báo Chế
Lan Viên và Trần Thanh Địch đến cung An Định để gặp bà Nam Phương xin
phỏng vấn.
Nhà thơ Chế Lan Viên và ông Trần Thanh Địch vì không báo cho bà
Nam Phương biết trước, nên khi hai ông đến cung An Định thì thấy một cậu bé
con là Hoàng tử Bảo Long đang ngồi câu cá bên hồ. Cái cần câu mà Bảo Long
dùng là chiếc ba-toong của Bảo Đại. Khi hai ông Chế Lan Viên và Trần Thanh
Địch hỏi thăm xin gặp bà Nam Phương thì Bảo Long chỉ vào nhà.
Vào trong nhà, có ông Nguyễn Duy Quang ra tiếp tại phòng khách của
cung An Định. Khi hai nhà báo đưa giấy giới thiệu ra để xin được gặp bà Nam
Phương xin phỏng vấn, sau ít phút ông Quang trả lời là bà Nam Phương đang
bận trong phòng tắm, và xin nhà báo để lại những câu phỏng vấn để bà Nam
Phương sẽ trả lời và hẹn ngày hôm sau vì bữa nay bà Nam Phương đang bận.
Hai ông Chế Lan Viên và Trần Thanh Địch ngồi bàn với nhau về
những câu hỏi để viết ra giấy gửi lại. Đại ý mấy câu sau đây:
- Bà có hay nhận được thư ông Cố vấn ở Hà Nội gửi về không?
- Sức khỏe của ông Cố vấn có được bình thường không?
- Còn riêng bà Cố vấn đối với việc “Ông được mời ra cộng tác tại Hà
Nội cùng với nhiều vị khác trong Chính phủ”, bà thấy thế nào?
- Đất nước nay đã đã được độc lập rồi, vai trò người phụ nữ rất quan
trọng, bà Cố vấn có ý kiến gì về vấn đề này?
- Những dự định của bà với công việc tham gia công tác xã hội?
Y hẹn, hôm sau hai ông Chế Lan Viên và Trần Thanh Địch trở lại cung
An Định, và hai ông đã được ông Nguyễn Duy Quang ra tiếp đón mời vào
phòng khách.
Phòng khách được trang hoàng rất nguy nga, ghế bàn được trang trí cổ
điển theo kiểu Pháp.
Ông Nguyễn Duy Quang mời hai nhà báo uống nước và cho biết bà
Nam Phương sẽ ra tiếp hai ông ngay. Nói xong, ông Quang rút lui khỏi phòng
khách vì đã nhìn thấy bà Nam Phương từ trong nhà nhẹ nhàng đi ra.
Hai nhà báo thấy bà Nam Phương đi ra thì vội đứng lên chào và sửa
soạn đưa tay ra để bắt tay bà Nam Phương. Nhưng không ngờ, bà Nam Phương
lại đứng thẳng người, bàn tay phải bà Nam Phương nắm lại như một quả đấm và
đưa lên mang tai: “Chào nghiêm”. Đây là kiểu chào của cán bộ và đồng chí
trong những ngày đầu Cách mạng chào nhau. Hai nhà báo đã không ngờ lời
chào đó đã thâm nhập vào tận cung điện hoàng gia. Do bị bất ngờ nên hai nhà
báo cũng phải đáp lễ bằng cách giơ nắm tay lên chào lại. Rồi bà Nam Phương
mời hai nhà báo ngồi xuống ghế và dùng nước.
Bà Nam Phương khẽ hé một nụ cười, trên tay bà Nam Phương cầm tờ
giấy có ghi mấy câu hỏi mà hôm trước bà nhận được do hai nhà báo viết và ông
Quang trình lại. Bà Nam Phương không để mất thì giờ lâu, và bà đã trả lời ngay.
Từ hôm Người (tức ông Vĩnh Thuỵ) được Cụ Hồ kêu ra miền Bắc làm
việc, thỉnh thoảng Người cũng có biên thư vô thăm đầy đủ. Sức khỏe của Người
vẫn được an khang. Người luôn luôn ca ngợi Cụ Hồ: Tuy Cụ già nhưng còn
mạnh giỏi lắm. Có bữa công việc nhiều phải về trễ giờ, Cụ biểu anh em dọn
cơm ra, cơm canh không còn nóng nữa, nhưng Cụ vẫn ăn uống tự nhiên, thiệt là
bình dân… Còn về nhiệm vụ phuy ni (phụ nữ), trong khi nước nhà đã hoàn toàn
độc lập, tui cũng thấy rằng giới phuy ni (tiếng Nam lai Huế nên bà Nam Phương
đọc phụ nữ thành phuy ni) cũng phải đảm đang công tác xã hội. Không công
việc này thì công việc khác, tuỳ sức tuỳ tài mà tham gia…
Nghe đến đây nhà báo họ Chế vội đưa tay ra có ý ngắt lời và nói:
- Thưa bà Cố vấn…!
Nhưng bà Nam Phương giơ tay như có ý bảo: “Để cho tui nói dứt đã”,
và bà nói tiếp:
- Ngày nay nước nhà độc lập rồi, tất cả chị em phuy ni khắp ba Kỳ đều
có bổn phận chung vai gánh vác tuỳ sự phân công của Nhà nước mình. Tui cũng
đang sẵn sàng chờ đợi. Mỗi khi biên thư ra ông Cố vấn, tui đều có kể đến
chuyện này. Do vậy mà Người rất vui vẻ phấn khởi…
Ông Trần Thanh Địch định hỏi thêm về Hoàng tử Bảo Long và Công
chúa Phương Mai hiện nay ra sao nhưng bà Nam Phương vẫn tiếp tục câu trả lời
dang dở:
- Vừa rồi tui cũng đang viết dở dang cái thư cho Ngài Cố vấn, báo cáo
tình hình gia đình hiện nay trong này vẫn được an khang. Tiện đây cũng xin
cám ơn hai ông nhà báo Quyết Tiến đã có nhã ý đến phỏng vấn tui hôm nay.
Nói xong, bà Nam Phương đứng dậy rời khỏi ghế như cử chi chấm dứt
cuộc hỏi chuyện. Hai nhà báo Chế Lan Viên và Trần Thanh Địch cũng chưa kịp
hỏi câu gì thêm thì bà Nam Phương đã đứng dậy tiễn đưa hai nhà báo ra về. Lần
này bà Nam Phương không đưa tay lên chào như lúc đầu mới gặp, mà bà đưa
tay ra bắt với một nụ cười thân thiện…
Hưởng ứng “Tuần lễ vàng”
Ông Vĩnh Thuỵ đã ra Hà Nội gần một tháng, được Cụ Hồ giao cho
chức Cố vấn Chánh phủ. Ở Huế, bà Nam Phương cũng được tin tức hàng ngày
về ông Vĩnh Thuỵ ở Hà Nội rất thoải mái, chánh phủ đã lo đầy đủ chổ ở và việc
ăn uống cho Cố vấn. Cụ Hồ cũng gặp ông Vĩnh Thuỵ nhiều lần để bàn bạc việc
nước. Ở Huế tình hình chính trinh cũng sôi sục, hàng ngày có những cuộc biểu
tình của nhân dân Huế hoan hô Cách mạng và hô hào toàn dân đứng lên giành
độc lập. Cuộc Cách mạng phôi thai cần nhiều thứ, tiền bạc để mua súng đạn và
trả lương cho nhân viên Chính phủ. Một “Tuần lễ vàng” được tổ chức tại Huế.
Ông Trần Hữu Dực được chính phủ Cách mạng Lâm thời Việt Nam cử
vào Huế để lo tổ chức đoàn thể ủng hộ Cách mạng và lo tổ chức bộ máy chính
quyền Cách mạng tại Trung bộ. “Tuần lễ vàng” được tổ chức và kêu gọi mọi
người dân đóng góp của cải như vàng bạc và quý kim. Nghe lời hô hào của
Chánh phủ, nhân dân Huế tự động kẻ ít người nhiều, mọi người tự động đóng
góp để chánh quyền mua súng đạn chi viện cho cuộc kháng chiến của nhân dân
Nam bộ. Tờ Quyết Tiến thời đó đã viết là: “Một phân vàng là một cây súng tối
tân, một ly vàng là một viên đạn lớn”. Và ngay khi “Tuần lễ vàng” khai mạc thì
bà Nam Phương là người tới trước nhất để ủng hộ.
Từ khi Bảo Đại thoái vị và trở về làm “Công dân Vĩnh Thuỵ”, thì bà
Nam Phương ăn mặc rất giản dị. tuy bà ăn mặc giản dị nhưng trông bà vẫn có
nét đẹp và sang trọng như trước. Nhưng hôm tới khai mạc “Tuần lễ vàng” thì
người ta rất ngạc nhiên tại sao hôm nay bà Nam Phương lại ăn mặc rất trịnh
trọng. Quần áo dài với khăn vàng trên đầu, lại đeo chiếc kiềng vàng trên cổ, hai
tai cũng đeo bông vàng, và hai cổ tay cũng đeo hai đôi xuyến vàng. Mười đầu
ngón tay có mười chiếc nhẫn. Mấy bà mệnh phụ đi theo thấy sự lạ về cách trang
sức của bà Nam Phương nên họ khẽ hỏi bà:
- Bây giờ Cách mạng rồi, Ngài còn ăn diện làm chi rứa?
Bà Nam Phương im lặng không nói gì.
“Tuần lễ vàng” khai mạc vào ngày 17 tháng 9 năm 1945 bên bờ phía
nam sông Hương. Khi bà Nam Phương vừa tới thì lễ khai mạc bắt đầu. Dược sĩ
Phạm Doãn Điềm là Trưởng ban tổ chức “Tuần lễ vàng”, đã mời bà Nam
Phương hưởng ứng đầu tiên ủng hộ.
Bà Nam Phương được hướng dẫn tới một chiếc bàn có trải tấm vải đỏ.
Bà dừng lại bên chiếc bàn và từ từ cởi bỏ chiếc kiềng, đôi bông tai, đôi xuyến
vàng và mười chiếc nhẫn vàng mà bà đã tháo từ mười ngón tay ra rồi tất cả
những thứ quý kim trên bà Nam Phương đặt vào mặt bàn. Người thư ký ngồi ở
bản kiểm kê xong và ghi một tờ biên nhận có chữ kỹ của ông dược sĩ Phạm
Doãn Điềm trưởng ban tổ chức.
Lúc này mấy bà mệnh phụ đi theo mới hiểu rõ nguyên nhân tại sao hôm
nay bà Nam Phương ăn vận khác thường với những đồ trang sức đầy trên người.
Khi bà Nam Phương đã làm xong nhiệm vụ mọi người chứng kiến đều vỗ tay
hoan hô bà nhiệt liệt. Bà Nam Phương được gắn một huy hiệu có in hình cờ đỏ
sao vàng. Sau đó ông Trần Hữu Dực mời bà Nam Phương làm chủ toạ “Tuần lễ
vàng” tại Huế, từ hôm đó đến ngày 24-9-1945 mới bế mạc. Vì bà Nam Phương
đứng chủ toạ nên sau đó nhiều bà mệnh phụ tại Huế đã theo gương bà Nam
Phương tới hưởng ứng. Kết quả “Tuần lễ vàng” tại Huế đã nhận được 925 lượng
vàng. Người thứ nhì đóng góp nhiều là ông Nguyễn Duy Quang (cựu Ngự tiền
văn phòng của Hoàng đế Bảo Đại trước đó) đã ủng hộ 42 lượng, người thứ ba là
ông Ưng Quang 40 lượng.
Ngoài việc đứng chủ toạ “Tuần lễ vàng”, bà Nam Phương còn kêu gọi
mọi người hãy giúp đỡ quần áo, chăn màn để cho những người nghèo lao động
đang thiếu mặc bởi mùa đông gió rét tại miền Trung đang diễn ra. Bà Nam
Phương cũng tuyên bố với mấy nhà báo khi phỏng vấn bà như sau: “Tôi rất vui
mừng và cảm ơn Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã đối
đãi rất tử tế với gia đình chúng tôi. Chúng tôi rất vui mừng thấy chị em đã tiến
rất mau trên con đường cứu nước. Từ trong nội mới dọn sang, nhà cửa xếp đặt
chưa xong, hiện nay tôi chưa làm gì được nhiều, song nay mai khi nào chị em
có việc gì cần đến tôi, tôi sẽ rất sung sướng mà gánh lấy một phần công việc.”
(Theo báo Quyết Tiến ngày 18-9-1945).
15. Bức thông điệp của bà Nam Phương
Tại Huế không những bà Nam Phương tích cực hưởng ứng “Tuần lễ
vàng” mà bà còn viết một bức thư ngỏ gửi các bạn bè năm châu để báo về độc
lập tự do của nước Việt Nam mới giành được độc lập. Và thư ngỏ này, bà Nam
Phương gửi cho các bạn bè ở Châu Âu, nó như một thông điệp (Message) để tố
cáo sự trở lại của quân đội Pháp tại Nam bộ, làm đổ máu nhân dân Việt Nam.
Tờ Thông điệp này được đăng trong cuốn sách mang tựa “Ho-Chi-Minh Abd
El-Krim” của Jean Raenaud, và do Guy Boussac xuất bản năm 1949 tại Paris,
và mới đây cuốn “BAO DAI ou les denriers jours de l’Empire d’Annam” của
tác giả D.Grandclement cũng có in lại. Bản Thông điệp này được viết và gửi đi
ngày 18-11-1945, và nguyên văn như sau:
“Nước Việt Nam đã thoát khỏi ách nô lệ… Chính phủ Lâm thời Dân
chủ Cộng hoà dã thành lập. Chồng tôi, ông Vĩnh Thuỵ tức cựu Hoàng đế Bảo
Đại đã từng tuyên bố: “Vui lòng làm dân một nước tự do hơn làm một vua một
nước nô lệ” nên đã đồng ý thoái vị. Tôi cũng đã đồng ý với chồng tôi, nên
chồng tôi đã làm Cố vấn trong Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà. Riêng tôi. Tôi cũng đã cùng với các chị em phụ nữ giúp nhiều việc
trong công việc xã hội ở nước chúng tôi. Chúng tôi chỉ đinh ninh sự phục vụ
cho Tổ quốc của chúng tôi. Nhưng từ lâu nay bọn thực dân Pháp được sự che
chở của phái bộ Anh đã xâm chiếm đất nước chúng tôi và miền Nam nước Việt
Nam hiện giờ, nơi chôn rau cắt rốn của tôi đang bị chìm đắm trong vòng khói
lửa.
Đồng bào chúng tôi trong ấy có cả thân quyến của tôi bị giết, bị hành
hạ bởi sự tham tàn của bọn người xâm lược. Những bạn bè của tôi ở nhiều nước
châu Âu, các ông các bà đã quen biết tôi, tất cả những người yêu chuộng tự do
công lý, các người kêu gọi chính phủ của các người cương quyết can thiệp để
ngăn cản bàn tay đẫm máu của thực dân Pháp ở miền Nam nước Việt Nam là
các người đã làm ơn cho dân tộc chúng tôi, làm ơn cho tất cả phụ nữ chúng tôi
và cho cả tôi nữa. Các người hãy tin chắc chắn rằng mỗi cảm tình nồng nàn của
dân tộc chúng tôi, của riêng tôi đối với các người sẽ nhờ đó mà tồn tại mãi mãi.
Thay mặt cho mười ba triệu bạn gái của nước Việt Nam, một lần nữa
tôi kêu gọi lòng bác ái nhân đạo của các người. Tôi mong mỏi các người không
để cho chúng tôi phải thất vọng.
Bà Vĩnh Thuỵ
Cựu Hoàng hậu Nam Phương
Những hành động đáng trọng của Nam Phương hoàng hậu
Bà Nam Phương Hoàng hậu vốn xuất thân là con cháu một gia đình đạo
hạnh gốc miền Nam nên khi về nhà chồng làm dâu nhà Nguyễn, sống trong
triều đình lại nhiều lễ nghi, tập tục theo tinh thần Khổng giáo, Phật giáo nhưng
bà Nam Phương đã biết hoà nhập với nếp sống mới và những lễ nghi kính trên
nhường dưới trong Hoàng Tộc. Với bà Từ Cung, thân mẫu của Bảo Đại, mẹ
chồng của Nam Phương, thì luôn luôn bà Nam Phương kính trọng mẹ chồng,
với các vị quan triều lớn tuổi thì bà lễ phép, không tỏ dấu kiêu căng là kẻ bề
trên. Với con cái thì bà dạy dỗ chúng rất khuôn phép, và giáo dục theo lề giáo
Việt Nam. Theo tư liệu của Nguyễn Đắc Xuân viết thì: “Hoàng hậu Nam
Phương được giao phụ trách việc dạy dỗ con cái. Các con bà đều có nơi ăn, nơi
ngủ riêng. Hoàng tử Bảo Long, sau khi được phong Hoàng thái tử (1938) được
ra học tại lầu Tứ Phương Vô Sự ngay trên thành nhìn ra cửa Hoà Bình phía sau
điện Kiến Trung. Hoàng hậu Nam Phương được một cô sẩm (Trung Hoa) giúp
chăm sóc các con nhỏ, một phụ nữ người Thuỵ Sỹ làm khán hộ, một bà giáo
người Pháp dạy tiếng Pháp cho các con bà. Từ năm 1942, triều đình đã mời thầy
Ưng Quả làm “Đông cung giáo đạo” (thầy giáo của Hoàng Thái tử). Thầy Ưng
Quả là cháu nội của Miên Trinh Tuy Lý vương, thầy giáo nổi tiếng giỏi nhất
thời bấy giờ. Thầy Ưng Quả dạy chữ Hán và văn minh văn hoá Đông Tây cho
các con bà. Mặc dù đã có thầy dạy ngay trong điện Kiến Trung, Hoàng hậu
Nam Phương vẫn cho các con gái bà học trường nữ Đồng Khánh để cho các con
bà được hoà nhập với cuộc sống đời thường. Nhiều hôm theo xe đi đón con bà
bắt gặp các Công chúa bị các bà giáo trường Đồng Khánh phạt quỳ úp mặt vào
tường. Bà rất đau lòng nhưng phải ngoảnh mặt đi để tỏ lòng cung kính đối với
sự dạy dỗ của các bà giáo.
Ngoài việc dạy dỗ con cái, lo việc gia đình trong điện Kiến Trung,
Hoàng hậu Nam Phương còn phải cùng với bộ Lễ lo lễ tiết, cúng kỵ trong Nội,
thăm hỏi sức khỏe của các bà Tiên Cung, Thánh Cung (bà nội của vua Bảo Đại)
và bà Từ Cung (mẹ vua). Bà là hình ảnh mẫu mực của một “nàng dâu” hiếu thảo
thời bấy giờ”. (Theo Nguyễn Đắc Xuân - viết theo tư liệu của Nguyễn Tiến lãng
và Ưng Thuyên).
Những vua chúa thời xưa, trước thời Bảo Đại, mỗi khi các vua chúa
tiếp đón những khách ngoại quốc tới thăm thường ít khi có bà vợ đi theo nên
việc tiếp đón cũng dễ dàng, không phải nhờ đến một người phụ nữ. Nhưng từ
thời Bảo Đại, tuy là chế độ phong kiến quân chủ, nhưng Bảo Đại đã theo lễ nghi
của nước Tây phương là phải có phu nhân đón tiếp các vị lãnh đạo nước bạn tới
thăm viếng, vì đa số họ đi đâu đều có vợ chồng cùng đi.
Những bà vợ của các nước Tây phương người ta thường gọi là Đệ nhất
phu nhân, vì là vợ của một Quốc trưởng, một Tổng thống, còn Thủ tướng, vợ
không được gọi là Đệ nhất phu nhân mà chỉ gọi là Phu nhân Thủ tướng. Nhưng
cũng có trường hợp một ông Quốc trưởng, hay một Tổng thống mà không có vợ
để đón tiếp thì cũng hơi khó và phiên toái. Vì vậy, thời chế độ Sài Gòn, Ngô
Đình Diệm làm Tổng thống mà lại không có vợ gì nên những khi tiếp đón một
quốc khách (Tổng thống, Quốc vương) có Đệ nhất phu nhân đi theo, Ngô Đình
Diệm đã phải nhờ cô em dâu là Trần Lệ Xuân (vợ Ngô Đình Nhu - Cố vấn
chính trị của Diệm) để nhờ Lệ Xuân đón tiếp và nói chuyện với các vị quốc
khách. Cũng vì lý do trên nên người ta đã gọi Trần Lệ Xuân là Đệ nhất phu
nhân. Nhưng xưng danh như vậy là không đúng, vì Trần Lệ Xuân có là vợ của
Ngô Đình Diệm đâu mà gọi là phu nhân được. Như vậy cuộc tiếp đón vua Thái
Lan và Hoàng hậu Thái Lan sang thăm Sài Gòn, Ngô Đình Diệm đã phải nhờ
Lệ Xuân đón tiếp và nói chuyện với Hoàng hậu Thái Lan. Kể ra nếu có một phụ
nữ nước chủ nhà tiếp đón một nữ quốc khách tới thăm và trong lúc dự dạ tiệc thì
cũng vui và ngoại giao dễ thông cảm nhau hơn, nhất là người phụ nữ đón tiếp
giỏi ngoại ngữ thì giải quyết được nhiều vấn đề để hai quốc gia xích lại gần
nhau hơn.
Quay về triều Bảo Đại, năm 1942 vợ chồng Quốc vương xứ Campuchia
sang thăm Việt Nam theo lời mời của Bảo Đại, thì khi tiếp đón Hoàng đế và
Hoàng hậu xứ Chùa Tháp, bà Nam Phương Hoàng hậu đã tiếp đón và gây được
nhiều cảm tình, vì bà Nam Phương rất thông thạo Pháp ngữ và ăn nói dịu dàng
nên vợ chồng ông hoàng Sihanouk rất tâm đắc khi viếng cố đô Huế. Và sau đó
một năm, cũng theo lời mời của vợ chồng ông Hoàng xứ Chùa Tháp, Bảo Đại
đã sang thăm Campuchia, đi bằng xe hơi, để bà Nam Phương Hoàng hậu ngồi
bên cạnh.
Cuộc ngự du của Bảo Đại và Nam Phương Hoàng hậu vào Sài Gòn, đi
Gò Công và đi Nam Vang. Cuộc hành trình diễn tiến cũng gặp mấy vấn đề khó
xử khi nhà vua An Nam vào Sài Gòn.
Theo “Một nửa đời hư” hồi ký của cụ Vương Hồng Sển, Nxb thành phố
Hồ Chí Minh 1992, có đoạn cụ Sển đã viết: “… Về sau, khi ông về lên ngôi kế
vị cho cha, lúc tuyển chánh cung, bà Nam Phương đem tiền hồi môn về là một
triệu đồng bạc mặt, do cậu ruột là ông Lê Phát An dâng tặng cho cháu gái. Số
tiền này thuở đó là khổng lồ, nếu so sánh với bạc hiện nay, thì số tỷ vẫn chưa
vừa vì tỷ giá ngày nay có hiếm, chớ như hồi năm một ngàn chín trăm hai mươi
ngoài, đầu thể kỷ hai mươi, tờ giấy xăng (100$00) có người trọn đời chưa từng
thấy, và giàu bạc muôn, tức trong nhà có được mười ngàn, đã là giàu bạc nứt đố
đổ vách.
“… Ấy đúng ngày 19-11-1942, vua Bảo Đại và bà Nam Phương ngự du
Sài Gòn, và chính bữa trưa ngày thứ sáu 20-11-1942, tôi đứng dưới gốc ga trước
dinh Gia Long (nay là Bảo tàng Lịch sử thành phố - đường Lý Tự Trọng hiện
nay - PTL) và đã diện kiến long nhan đức Bảo Đại như thế này:
a/ Độ chừng một tháng trước ngày ngự du, thống đốc Nam Kỳ gởi ra
Huế một công văn, mời hoàng thượng ngự du Sài GÒn và nhắc lại rằng ông thái
tử nước bạn (Cao Miên) vừa rồi, đã có ngự hành như vậy, và thần dân trong
Nam, Tây như Việt, ngưỡng mộ ngài lắm.
b/ Bức chiếu văn từ Huế trả lời rất gẫy gọn: “Bằng lòng Nam du, nhưng
sẽ dùng làm hành cung, đại dinh Toàn quyền đường Norodom (nay là dinh
Thống Nhất - tức Phủ Tổng thống của chế độ cũ Sài Gòn.
Được bức thư này, nội các thống đốc đều kinh sợ, hội nghị mật bàn kế,
một mặt đánh mật mã khẩn mời Đơ Ku (Decoux) bay vô chiếm trước dinh Toàn
quyền, một mặt trả lời Hoàng thượng viện cớ dinh đã có quan đầu xứ Đông
dương đến ở, và ân cần xin Hoàng thượng đoái tình, tạm nhận lưu trú nơi dinh
đường Lê Quý Đôn (Bảo tàng chứng tích chiến tranh ngày nay - PTL), là dinh
đầy đủ tiện nghi và trước đây đã làm chỗ ngự cho Tân vương Thái tử.
“Hoàn thượng trả lời vắn tắt: “Không có dinh toàn quyền thì ta ngự
dinh Mont-Joye ở Hạnh Thông Tây là dinh của quốc cựu Lê Phát An.
“Phải nói câu trả lời vừa đúng lễ ngoại giao và thật khéo, vì vừa giúp
biệt thự này trang bị điện lực để Hoàng thượng khỏi cảnh thắp đèn dầu, thêm
giữ được thể thống nhà vua, chớ không chịu lép vế đại như hàng tiểu chư hầu
như ông Thái tử kia thì hèn quá.
“Thế là phải làm đêm làm ngày, dựng cột đá và gắn dây cáp đem điện
lên nhà ông tỷ phủ Lê Phát An, không tốn một xu trả cho hãng đèn. Một đắc
thắng theo kiểu trong Tam quốc, Khổng Minh mượn tên giúp Ngô chống Nguỵ.
“Và cái ngày kiết nhựt” tiếp kiến Hoàng thượng” đã đến: 20-11-1942.
Ăn quen theo thói trước, các quan viên và mạng phụ Pháp tề tựu đông đủ tại
mặt tiền dinh Thống đốc (dinh Gia Long), để ý như tiên lễ sẽ bắt tay (ngang
hàng) vừa tạ cũng như đã bắt tay mấy tháng trước đây, vị thái tử nọ. Trong
chương trình ghi là đúng ngọ đãi tiệc ra mắt vua Nam.
“Tôi làm việc trong toà dinh này, và trông mau tới ngọ, hết giờ làm
việc, còi điện nhà dây thép chánh vừa hú, là tôi thu xếp giấy má và ra chực nơi
dưới gốc đa quen thuộc, để phen này coi lén “long nhan đức Hoàng thượng”.
“Tôi thấy đủ mặt, các bà đầm vợ công chức cao cấp Pháp đứng theo
một bên, bà tay cầm quạt quạt phạch phạch, bà che dù như sợ nắng ăn da, bà
hỉnh mũi” tay đây là mạng phụ triều đình”, bà bên Pháp vừa qua chưa quen thói
thuộc địa, vẫn dễ thường như người dân thành phố văn minh, dĩ hà nhứt thể, ở
đâu cũng là tự do (liberte) bình đẳng (egalite), bác ái (fraternite).
“Đúng ngọ, chiếc xe Delage C.20 có hai tài xế mặc sắc phục ngồi
trước, đưa Hoàng thượng từ Hành Thông Tây đến. Xe ngừng, nhạc trổi quốc
thiều y như lần trước rước Tân vương Thái tử. Trước tấu quốc thiều Pháp La
Marseillaise, tiếp theo đổi lại thay vì quốc thiều Miên là bản quốc thiều của
triều đình Huế. Chiếc xe Delage bóng loáng, một người cao lớn dình giàng (ông
cao 1m80) đứng giữa xe tay đỡ lên ngang trán chào theo điều nhà binh Tây
phương, mình vận một bộ y phục trắng hết sức đúng thời trang, trán rộng mũi
cao, cặp mắt có điện, và toàn thân chiếu ra một nghi biểu khác phàm. Tiếng
nhạc chót vừa dứt, người tài xế phụ y như cái máy, chạy xuống khép nép mở
cửa xe. Ông bước xuống. Các bà đầm chạy lại, miệng người nào người nấy như
hoa nở, hí hửng toan bắt tay vua. Vua làm như không thấy, ngực ông đã cao,
ông ểnh càng cao thêm, mặt chăm chỉ ngó ngây, chơn ông cứ bước vội bước.
Khiếp quá, các bà mạng phụ lật đật cúi đầu, và quên hết lời dặn dò của các đấng
phu quân, đã khép nép tay nắm vạt áo dài trào (phần nhiều mặc bun-rền) đầu cúi
mọp trước đức vua Việt y như các tổ tiên họ đã đến phen trước, phen này đứng
trước một ông vua oai nghi quá, mấy bà đã mất hết bình tĩnh, nên đã có cứ chỉ
như đã kể trên, làm cho các đấng phu quân cũng khớp luôn và mạnh ai nấy chào
theo nghi lễ đối với một quân vương: ông thống đốc đứng đầu hàng, nghiêng
mình kính cẩn, ông chưởng lý toà thượng thẩm cũng bắt chước theo, trung
tướng bộ binh và hải quân đại tá chào theo nhà binh, kỳ dư chủ tịch viện có mặt,
viên quản hạt, phòng thương mại và các quan viên Tây có mặt tại đó đều răm
rắp cúi chào theo nghi lễ và khi ông qua khỏi rồi, đều ngó nhau trơ trẽn, quả ông
đi đứng “long hành hổ bộ” rõ ràng. Khi ông bước đến bệ trên cửa điện, ông
cũng không ngó lại chào và vẫn tiếp tục bước ngay vô trong. Thống đốc Rivoal
mất hết bình tĩnh, không đợi tuỳ giá quan làm việc này, đã chạy theo vua, kéo
ghế danh dự ra cho vua ngự. Bữa tiệc dùng trong một sự lặng lẽ kính cẩn chưa
từng có và mãn tiệc rồi, tại phòng khách vừa mới đây thống đốc trình diện quan
khách và khi ấy vua mới có câu cởi mở đối với mọi người.”
Sau ngày ra mắt tại dinh Gia Long, Bảo Đại trở về dinh ở Hành Thông
Tây để nghỉ một ngày rồi sáng hôm sau cùng bà Nam Phương xuống Gò Công
để thăm viếng quê ngoại và viếng mồ mả tổ tiên họ ngoại.
Khi đã thăm viếng quê ngoại xong xuôi, Bảo Đại bảo tài xế lái xe trực
đường sang nước láng giềng Cao Miên thăm Quốc vương Sihanouk để đáp lễ
mà mới đây Quốc vương và Hoàng hậu xứ Chùa Tháp đã sang thăm nước ta.
Bảo Đại và bà Nam Phương khi tới xứ Chùa Tháp đã được Hoàng gia
nước bạn mời đi thăm kỳ quan Đế Thiên Đế Thích và những thắng cảnh khác
của xứ Chùa Tháp. Bà Nam Phương Hoàng hậu đã được bà Hoàng xứ Chùa
Tháp tiếp đón rất nồng hậu và tương đắc vì cả hai cùng nói chuyện trực tiếp với
nhau bằng ngôn ngữ Pháp mà hai bà rất thông thạo, còn Bảo Đại và Sihanouk
thì cùng đàm đạo với nhau bằng ngôn ngữ Pháp rất thân thiện và cảm tình.
Bà Nam Phương Hoàng hậu là một người đàn bà nhân hậu, lại biết suy
nghĩ chín chắn nên cứ mỗi lần người Pháp muốn Bảo Đại phải thi hành những
vấn đề có lợi cho mẫu quốc và có hại đến nền kinh tế và chính trị hay xã hội
Việt Nam thì Bảo Đại đều bàn bạc với bà Nam Phương. Những lúc đó, bà Nam
Phương cư xử rất khôn khéo, vì biết nếu Bảo Đại mà gặp người Pháp thì khó trả
lời nhận hay không nhận những điều kiện mà Pháp đưa ra. Vì vậy, bà Nam
Phương đã đề ng hị mỗi khi gặp trường hợp khó xử với người Pháp thì ông nên
tránh đi xa ít ngày, như vào rừng săn thú hay đi tắm biển đâu đó. Có thể đi kinh
lý thăm các tỉnh phía bắc miền Trung, như tỉnh Quảng Trị, Quảng Bình, Nghệ
An, Thanh Hoá…
Rồi đến việc Toà thánh La Mã thời Giáo hoàng Pio XI đã phạt vạ bà
Nam Phương vì đã lấy chồng theo đạo Phật. Nay Giáo hoàng Pio XI vừa tạ thế
tháng 2-1939, thì Nam Phương Hoàng hậu đề nghị Bảo Đại gửi điện chia buồn
đến Toà thánh La Mã, và đồng thời gửi điện chức mừng vị Giáo hoàng mới lên
ngôi là Đức Pio XII vừa đăng quang vào ngày 12-3-1939. Sau đó, Bảo Đại còn
trao tặng huy chương Kim Khánh của Triều đình Huế cho vị Khâm sứ Toà
thánh Việt Nam đang làm việc tại Huế. Đồng thời Bảo Đại còn ngỏ ý đưa vợ và
gia đình ngoại sang tận La Ma để xin yết kiến Giáo hoàng Pio XII mới lên ngôi
ban phép lành.
Hành động trên của bà Nam Phương Hoàng hậu đã giải toả được sự xa
lánh giữa Giáo hội Công giáo với Bảo Đại và Triều đình Huế. Giáo hoàng Pio
XII đã nhận lời xin yết kiến của vợ chồng Bảo Đại và còn đứng chụp hình
chung với Bảo Đại. Bà Nam Phương Hoàng hậu cùng phái đoàn Việt Nam.
Và sau cuộc yết kiến trên, Giáo hoàng Pio XII đã ra sắc tha phạt vạ bà
Nam Phương, và cho phép đạo ai người đó giữ, nhưng các con của Bảo Đại với
bà Nam Phương đều phải được rửa tội theo đạo Công giáo. Việc rửa tội công
khai hay bí mật là tuỳ nghi ở sự sắp đặt của bà Nam Phương với các linh mục
địa phận Huế.
Về vấn đề xã hội, bà Nam Phương cũng tham dự để thăm viếng nhiều
cơ quan xã hội tại Huế, Đà Lạt, Hà Nội… Tại Huế, bà Nam Phương đã tới thăm
trường Đồng Khánh, nơi các con bà đang theo học. Theo hồi ký của nữ sĩ Đạm
Phương thì chính bà Nam Phương là người đã đề nghị đưa môn học nữ công gia
chánh vào trường học. Bà Nam Phương cũng noi gương ông ngoại và chú, bác,
cậu… bà thường đến thăm những nhà thờ nghèo ở Huế giúp đỡ tài chính để tu
bổ nhà thờ, nhà dòng. Một hành động nữa đáng khen là bà nhớ lại Couvent des
Oiseaux là trường mà bà đã theo học bên Pháp khi xưa, nên nay bà muốn có
một ngôi trường của nhà dòng Kinh sĩ Augustino do các nữ tu phụ trách để đào
tạo giáo dục cho các trẻ em người Việt Nam lẫn người Pháp tại Việt Nam.
Bà Nam Phương đã giới thiệu cho mẹ (Mere) Alix Le Clerc là nếu
muốn mua một miếng đất tại Đà Lạt để mở trường thì bà (Nam Phương) sẽ mua
giá rẻ giúp nhà dòng mở trường. Vì vậy, sau đó dòng Couvent Oiseaux đã đồng
ý và mua được một miếng đất khá rộng ở Lang Biang để mở trường Couvent
des Oiseaux đầu tiên tại Việt Nam năm 1935, rồi sau đó bà Nam Phương còn
thúc giục các Mẹ dòng Couvent des Oiseaux mở thêm tại Hà Nội một nhà dòng
nữa cũng để làm trường học giáo dục các con em Việt - Pháp.
16. Nam Phương hoàng hậu ghen
Cựu hoàng Bảo Đại sau khi thoái vị, ông đã ra Hà Nội theo lời mời của
Hồ Chủ tịch để Công dân Vĩnh Thuỵ làm Cố vấn. Ra tới Hà Nội, Cụ Hồ đã ra
lệnh cho nhân viên Chính phủ lo đầy đủ nhà ở, người giúp việc cho ông Vĩnh
Thuỵ, và cũng cung cấp một số tiền cho cựu hoàng tiêu xài. Nhưng với thói
quen của Vĩnh Thuỵ thì tiền bạc triệu cũng không đủ vì Vĩnh Thuỵ ham ăn chơi,
hơn nữa lúc đó Vĩnh Thuỵ đã ra Hà Nội “ngồi chơi xơi nước”, lại không có vợ
bên cạnh nữa. Phải nói trước năm 1945, khi còn ngồi ngai vua, Bảo Đại tỏ ra rất
trung thành với bà Nam Phương. Đi đâu nghỉ mát, hoặc đi câu cá ở Lăng Cô,
hay lên Bạch Mã nghỉ hè cũng có bà Nam Phương đi cùng. Thời gian này, Bảo
Đại còn giữ lời thề không bao giờ có thứ phi và giữ trọn đạo một vợ một chồng
như bà Nam Phương đã yêu cầu trước khi cưới.
Thời gian đầu cách mạng còn thiếu đủ thứ, nhất là tiền bạc trả nhân
viên chính phủ, cán bộ, vì cần nhất là cần tiền mua súng đạn để sửa soạn chống
Pháp gây hấn trở lại. Vì vậy, để có thể chiếm tiền tiêu xài Bảo Đại đã phải nhờ
vào tiền trợ cấp của mấy nhà triệu phú loại “buôn vua”, như ông Mai Văn Hàm,
Lưu Đức Trung.
Theo hồi ký của cụ Phạm Khắc Hoè đã kể: Có một buổi tối bất ngờ
thấy Vĩnh Thuỵ lái xe tới nơi ông Hoè ở và ngồi ở trong xe bóp còi có ý muốn
gọi gia chủ. Ông Hoè thấy khách “quý” tới nhà bất ngờ nên vội vàng ra mở
cổng để mời Cố vấn vào nhà. Nhưng Cố vấn Vĩnh Thuỵ bảo ông Hoè lên xe
ngồi để nói chuyện cho tiện. Ông Hoè lên xe ngồi bên cạnh, nghe Vĩnh Thuỵ
khẽ nói:
- Hôm ra đi tôi chỉ mang theo có một nghìn bạc, nay tiêu hết cả rồi. Tôi
muốn nhờ ông về Huế đưa cái thư này cho “Ngài Hoàng” (tức Nam Phương -
PTL) để lấy một ít tiền đưa ra cho tui.
- Nay tôi đã là nhân viên Bộ Nội vụ, phải được Bộ Nội vụ cho phép tôi
mới đi được.
Nhưng Vĩnh Thuỵ nói:
- Ông làm việc không lương thì cần gì phải xin phép.
Ông Hoè trả lời:
- Theo ý tôi thì đây không phải là vấn đề “lương tiền” mà là vấn đề
“lương tâm”. Nên nhất định phải được Bộ Nội vụ cho phép tôi mới đi được.
Vĩnh Thuỵ sốt ruột, sợ ông Hoè không chịu đi ngay nên thúc giục:
- Thì mai sớm ông đi xin phép đi là được. Tui chắc thế nào Bộ Nội vụ
cũng để cho ông đi. Vậy ông cầm luôn cái thư này tui mới viết để mai được
phép là ông đi ngay cho.
Ông Phạm Khắc Hoè chậm rãi nói:
- Hơn bảy giờ tối mai mới có tàu suốt. Sớm mai tôi xin được phép thì
trưa mai lại lấy thư cũng còn thì giờ.
Đến đây Vĩnh Thuỵ như tỏ vẻ không bằng lòng, nhưng không dám nói
ra mà chỉ nói:
- Nhớ trưa mai ghé lại nhà tôi để lấy thư.
Ồng Phạm Khắc Hoè chia tay Vĩnh Thuỵ rồi đi đến Bộ Nội vụ gặp ông
Hoàng Minh Giám để trình bày câu chuyện Cố vấn Vĩnh Thuỵ nhờ ông về Húe
để mang lá thư và lấy tiền. Ông Hoàng Minh Giám bảo ông Hoè:
- Anh có biết mọi chi phí về cơm nước, xăng dầu và tiền tiêu vặt… ở
đằng nhà ông Vĩnh Thuỵ là do ai trả không?
Ông Hoè đáp:
- Tôi biết chứ. Chính Mai Văn Hàm đã khoe với tôi rằng hắn bao tuốt.
Hắn hỏi tại sao không ở luôn đằng ấy mà ăn cho sướng… rồi hắn còn rỉ tai tôi
có cần tiền không… Nhưng tôi lắc đầu.
Ông Hoàng Minh Giám hỏi:
- Thế sao anh không bảo hắn đưa thêm tiền cho Vĩnh Thuỵ xài?
Ông Hoè đưa ra ý kiến:
- Vì tôi nghĩ không nên để cho Vĩnh Thuỵ bị Mai Văn Hàm thao túng
hoàn toàn. Vả lại theo tôi thì Vĩnh Thuỵ cũng còn biết tự trọng đến chừng mực
nào đó.
Sau đó ông Hoè còn kể cho ông Giám nghe câu chuyện Vĩnh Thuỵ viết
thư về cho Đức Từ nói là Hồ Chủ tịch thương Vĩnh Thuỵ như con.
Ông Hoàng Minh Giám nghe vậy cho đó là câu chuyện đáng quý và
bảo ông Hoè nên tới báo cáo với Cụ Hồ rồi xin ý kiến Hồ Chủ tịch xem có nên
đi hay không. Ông Hoè thì muốn đi một tuần lễ vào Huế nhân thể thăm gia đình
luồn và đưa thư cho bà Nam Phương. Nhưng ông Giám thì muốn ông Hoè đi về
sớm càng tốt vì ở Hà Nội còn nhiều việc bề bộn chưa giải quyết xong.
Ông Phạm Khắc Hoè sang dinh Chủ tịch và xin Hồ Chủ tịch cho tiếp ít
phút. Hồ Chủ tịch khi đó đang bận tiếp khách, người ra người vào là Trung
Quốc có, Anh có, Mỹ có… họ tới lui không ngừng, hết người này ra người khác
tiếp vào. Khi Hồ Chủ tịch tiễn họ ra cửa thì gặp ông Hoè đang ngồi đợi ở cửa
phòng khách. Hồ Chủ tịch hỏi:
- Ông cần gì nào?
Sau đó Hồ Chủ tịch cầm tay ông Hoè dẫn vào phòng để hỏi chuyện.
Ông Hoè cũng trình bày lại câu chuyện Cố vấn Vĩnh Thuỵ viết thư về Huế nói
với Đức Từ là Hồ Chủ tịch thương Vĩnh Thuỵ như con, nhưng muốn có ít tiền
đánh bài và tiêu vặt nên nhờ ông Hoè về lấy tiền ở bà Nam Phương. Hồ Chủ
tịch biết gia đình ông Hoè còn ở lại Huế nên hỏi:
- Ông có muốn tiện về Huế để thăm vợ con không?
Ông Hoè sợ Hồ Chủ tịch không đồng ý cho đi vì lúc này ở Bộ Nội vụ
còn bao nhiêu việc bề bộn, nên ông Hoè ngập ngừng thưa:
- Dạ, hiện chúng tôi còn làm dở một số công việc ở Bộ Nội vụ, không
muốn đi Huế, nhưng nếu Cụ thấy nên đi thì chúng tôi cũng xin đi.
Hồ Chủ tịch không chấp nhận hẳn mà nói:
- Đi hay không là hoàn toàn tuỳ ông, miễn sao giữ được mối quan hệ
tốt theo hướng tiến bộ giữa ông và ông Cố vấn. Ông còn vấn đề gì nữa không?
Nghe Hồ Chủ tịch nói vậy, ông Hoè xin cáo lui ra về.
Ông Hoè ra về và cả buổi trưa đó cứ phân vân trong đầu không biết xử
trí làm sao cho Vĩnh Thuỵ khỏi giận ông. Còn nếu làm Vĩnh Thuỵ hài lòng thì
ông Hoè phải đi vào Huế để đưa thư và lấy tiền hộ Vĩnh Thuỵ. Như vậy sẽ tạo
điều kiện cho Vĩnh Thuỵ vào vòng truỵ lạc trai gái, cờ bạc. Ông Hoè cũng suy
nghĩ là hay ông cứ gặp Mai Văn Hàm rồi nói hết mọi chuyện là Vĩnh Thuỵ cần
tiền. Nhưng biết đâu nói thật như vậy thì bọn đầu cơ sẽ chụp lấy đển lén lút đưa
tiền, đưa gái cho Vĩnh Thuỵ thì sao. Ông Hoè cũng suy nghĩ hay là cứ về Huế
rồi nói hết mọi chuyện cho bà Nam Phương nghe và may ra bà viết thư khuyên
Vĩnh Thuỵ bớt truỵ lạc. Hoặc nếu có thể xin Cụ Hồ cho bà Nam Phương và các
con ra Hà Nội ở cùng sẽ ngăn cản được Vĩnh Thuỵ chăng? Và ông còn nhớ có
lần Hồ Chủ tịch đã ngỏ lời khéo khuyên Vĩnh Thuỵ là: Cố vấn nên bớt bớt
chuyện trai gái đi, kẻo bên ngoài họ dị nghị. Tuy Hồ Chủ tịch đã có lần khuyên
Vĩnh Thuỵ như vậy, nhưng ông Vĩnh Cẩn và một số tay chơi cứ dắt Vĩnh Thuỵ
đi tối ngày. Mà Bảo Đại không đi thì họ dắt gái tới cho Vĩnh Thuỵ.
Về nhà ông Hoè suy nghĩ nát óc để tìm cách đối phó với Vĩnh Thuỵ thì
ông nghe thấy tiếng xe hơi chạy vào sân nhà và thấy Vĩnh Thuỵ vào, chưa kịp
chào hỏi và nói câu gì thì Vĩnh Thuỵ dã hỏi:
- Chiều nay có đi được không?
Ông Hoè đành phải trả lời:
- Dạ được.
Vĩnh Thuỵ nét mặt đang tỏ ra buồn rầu bỗng tươi tỉnh hẳn lại, vội đưa
tay vào túi lấy phong thư ra và nói:
- Ông cứ cầm thư này đưa cho “Ngài Hoàng”, và không cần nói gì
thêm. Khi “Ngài Hoàng” đưa tiền thì ông cầm ngay mang ra cho tui, nếu sớm
càng tốt.
Ông Hoè cầm phong thư đã dán kín. Vĩnh Thuỵ bắt tay ông Hoè và nói
một câu tiếng Pháp có ý: Thế là tốt, chúc ông đi đường mạnh khoẻ và mau trở
về.
Ngày 20 tháng 10 năm 1945, chuyến xe lửa từ ga Hàng Cỏ ở Hà Nội đã
vào đến Huế. Đi đúng 24 giờ. Chuyến xe lửa này chở khách đi chơi hay buôn
bán thì ít, nhưng chở bộ đội thì nhiều vì lúc này cần chở người vào chi viện cho
mặt trận Nam Bộ. đây là cuộc Nam tiến, nên chuyến xe lửa này phải đi tốc hành
cho mau và số chuyến cũng tăng gấp đôi.
Ông Phạm Khắc Hoè tới ga Huế thì trời đã tối nên ông phải nghỉ ở nhà
mình, sáng hôm sau mới tới cung An Định gặp bà Nam Phương để trao thư.
Sáng ngày 21 tháng 10, ông Hoè tới cung An Định để gặp bà Nam Phương. Khi
tới đây thấy cổng đóng then cài không thấy bóng người. Ông Hoè gõ cửa rồi
kêu nhưng chẳng thấy ai lên tiếng. Bỗng từ xa có tiếng chân người đi lại, thì ra
bà Nam Phương vừa đi chợ hay đi nhà thờ về vì lại thấy bà về cùng với hai
người một nam một nữ đi theo bà tay xách giỏ đồ ăn. Khi nhìn thấy ông Hoè, bà
Nam Phương lên tiếng hỏi:
- Ông mới về à? “Hoàng đế” có khỏe không?
Ông Hoè trả lời:
- Chúng tôi mới về tối hôm qua. Ông Cố vấn khoẻ lắm và có thư cho
Ngài.
Ông Hoè trả lời xong, thò tay vào cặp da lấy bao thư ra đưa cho bà
Nam Phương. Bà Nam Phương nhận thư và gửi lời cảm ơn rồi mời ông Hoè vào
phòng khách uống nước để nói chuyện.
Vào phòng khách bà Nam Phương lịch sự xin lỗi ông Hoè mấy phút để
bà bóc lá thư ra đọc xem ông Vĩnh Thuỵ nói gì và dặn điều gì. Ông Hoè thấy lá
thư của Vĩnh Thuỵ viết bằng tiếng Pháp trên ba trang giấy màu xanh. Ông Hoè
cho biết khi bà Nam Phương đọc xong là thư thì nét mặt bà ta buồn buồn, nước
mắt như muốn trào ra. Trầm ngâm một giây lát, bà Nam Phương hỏi ông Hoè:
- Ông có biết Vĩnh Thuỵ cần tiền để làm chi và cần bao nhiêu không?
Ông Hoè không dám nói thật ông Vĩnh Thuỵ cần tiền để làm gì và cần
bao nhiêu mà chỉ nói:
- Ông Cố vấn nói đưa thư này cho bà, không cần nói chi thêm. Ngài nói
đưa bao nhiêu cũng nhận và đưa ngay ra. Càng sớm càng tốt.
- Thế ông định bao giờ trở ra Hà Nội?
- Chúng tôi định ngày mai ra. Xin Ngài viết thư và chuẩn bị tiền, bốn
giờ chiều nay tôi sẽ trở lại nhận.
Nghe ông Hoè trả lời vậy, bà Nam Phương đứng ngay dậy bắt tay chào
ông Hoè. Ông Hoè khẽ liếc nhìn thấy khoé mắt bà Nam Phương có giọt lệ chảy
ra, và bà ta nói:
- Thôi! Hẹn bốn giờ chiều nay.
Ông Hoè cho biết đây là lần đầu tiên thấy bà Nam Phương đưa tay cho
một người đàn ông bắt, còn trước đây chỉ thấy bà đưa tay ra cho người ta cúi
xuống đỡ và hôn tay, dù đối với viên Toàn quyền, Khâm sứ và mấy ông Thượng
thư…
Đúng bốn giờ chiều y hẹn, ông Hoè trở lại cung An Định để gặp bà
Nam Phương lấy thư xem bà ta có dặn dò thêm gì không. Tới nới trông thấy bà
Nam Phương đang buồn thiu. Nhưng khi trông thấy ông Hoè đến thì bà ta đứng
dậy và làm ra vẻ vui mừng, đưa tay ra bắt tay ông Hoè, rồi mời ông Hoè ngồi
nói chuyện. Bà Nam Phương kéo ghế ngồi sát ông Hoè vì bà vốn lãng tai từ nhỏ
phải ngồi gần mới nghe rõ. Bà Nam Phương nói với giọng nhỏ nhẹ đầy cảm
động:
- Ông Hoè! Chắc ông biết tôi rất tin ông, quý trọng ông, trước cũng như
nay. Cho nên tôi muốn ông cho biết tất cả sự thật về việc ông Vĩnh Thuỵ mê
con Lý (Lý Lệ Hà).
Ông Hoè bị hỏi một câu bất ngờ nên cũng ngập ngừng không dám trả
lời thẳng, sau đành nói:
- Chúng tôi rất tiếc không biết rõ vấn đề ấy mà chỉ nghe người ta nói
qua loa thôi.
- Người ta nói thế nào?
- Người ta bảo ông Vĩnh Thuỵ có nhân tình là cô Lý.
Bà Nam Phương như muốn hỏi rõ vấn đề Lý Lệ Hà nên hỏi:
- Ông có biết con Lý nhiều không? Và con ấy người như thế nào?
Cũng khó trả lời nên ông Hoè đành trả lời chung chung:
- Chúng tôi chưa bao giờ thấy mặt cô Lý, chỉ nghe nói là cô ấy đẹp.
Còn về đạo đức thì tất nhiên là xấu rồi.
Nghe ông Hoè nói là Lý Lệ Hà đẹp, mắt bà Nam Phương hơi đỏ lên và
bà còn hỏi nhiều chuyện lặt vặt nữa. Nhưng ông Hoè không bao giờ dám trả lời
thẳng vào câu hỏi mà chỉ nói chung chung thôi. Bà Nam Phương tỏ ra hơi bực,
và bảo:
- Rõ ràng ông không muốn nói thật.
- Quả thật chúng tôi không biết chi hơn, vì ra Hà Nội tôi chỉ ở chung
một nhà với ông Cố vấn có hai ngày, sau tôi đi ở chỗ khác. Hằng ngày đi làm
việc ở Bộ Nội vụ tối về phải lo đọc sách, đọc báo. Tôi không có thì giờ và cũng
không muốn mất thì giờ tìm hiểu những việc riêng tư của người khác.
Câu chuyện đang nói đến đây thì bị ngưng vì trong nhà bà Từ Cung đi
ra và lên tiếng hói:
- Ủa! Ông Đổng lý về khi mô rứa? Hoàng đế có khoẻ không? Có thư từ
chi cho tui không?
Ông Hoè vội đứng dậy chào bà Từ Cung, và thưa:
- Dạ chúng tôi mới về hôm qua. Ông Cố vấn rất khoẻ và đã có thư cho
Ngài qua bưu điện rồi.
Bà Từ Cung tỏ vẻ như quên cái thư qua bưu điện rồi nên gật đầu nói:
- Chắc là cái thơ ca ngợi Cụ Hồ phải không? Thư ấy nhận được gần
một tháng rồi. Và từ hôm ấy đến nay lúc nào tôi cũng tụng kinh cầu Phật phù hộ
cho Cụ Hồ và cho chính phủ Cách mạng. Khi mô ông ra Hà Nội thì nhớ “tâu”
với Cụ Hồ chuyện ấy và nói tôi xin kính chúc Cụ “vạn tuế”.
Nói xong bà Từ Cung quay vào nhà trong và để bà Nam Phương cùng
ông Hoè tiếp tục câu chuyện. Bà Nam Phương ngồi lại xuống ghế, ông Hoè lên
tiếng:
- Trời gần tối rồi, xin Ngài cho nhận thư và tiền để mai chúng tôi có thể
đi Hà Nội.
Mặc dù ông Hoè xin cáo lui vì trời đã ngả bóng đêm, nhưng bà Nam
Phương còn muốn cầm chân ông Hoè ngồi lại ít phút để bà ta hỏi thêm về Vĩnh
Thuỵ sống ra sao và sống với ai khi ra Hà Nội. Tuy nhiên cũng sợ bất tiện nên
bà nói:
- Thư tôi viết chưa xong và tôi muốn hỏi ông nhiều chuyện lắm nhất là
muốn ông cho biết ý kiến về cách giải quyết vấn đề con Lý. Bây giờ ông về kẻo
tối, nhưng chín giờ sáng mai thế nào cũng mời ông chịu khó trở lại.
Như được giải thoát, ông Hoè thưa:
- Dạ, sáng mai chúng tôi xin trở lại. Còn vần đề cô Lý tôi thấy cách giải
quyết tốt nhất là Ngài đă các Mệ ra Hà Nội cùng ở với ông Cố vấn. Đề nghị
Ngài suy nghĩ về việc này và mai sáng xin cho biết ý kiến để khi ra Hà Nội
chúng tôi có thể báo cáo với Hồ Chủ tịch.
Nghe vậy bà Nam Phương gật đầu tỏ ra có lý rồi nét mặt bà tươi tắn
hẳn lên. Bà đứng dậy bắt tay ông Hoè tỏ ý để ông Hoè ra về. Bà còn dặn thêm:
- Nhớ chín giờ sáng mai nghe!
Về tới nhà ông Hoè nằm suy nghĩ cả đêm để tìm ra giải pháp làm sao
cho Vĩnh Thuỵ không buồn, và bà Nam Phương cũng vui lòng. Nhưng tất cả
mọi việc của Vĩnh Thuỵ và bà Nam Phương ông Hoè nghĩ đều phải báo cáo cho
Cụ Hồ biết để tránh xa ra trường hợp không hay. Vì Vĩnh Thuỵ là một ông “Tây
con”, bản tính thích ăn chơi, cờ bạc, trai gái, còn việc chính trị thì không có gì
sâu sắc. Bà Nam Phương tuy là một phụ nữ Tây học nhưng bà là người hấp thụ
đạo Công giáo một cách sâu xa, bề ngoài ngó thấy hiền thục, nhưng lại suy nghĩ
tường tận về gia đình, thời thế. Vì vậy bà không thể không biết chuyện quan hệ
lăng nhăng của Vĩnh Thuỵ với Lý Lệ hà. Bà có những người tâm phúc tâu với
mình chuyện của chồng trong khi ông Hoè chưa chắc đã biết rõ được. Nói
chung ai là người dẫn lỗi đưa đường, ai là người chi tiền cho Vĩnh Thuỵ tiêu xài
nhất nhất bà đều biết rõ dù ở xa mấy trăm cây số.
Ông Phạm Khắc Hoè suy nghĩ mãi để tìm cách gỡ rối cho cả hai người,
nhưng đồng thời cũng đừng để Cụ Hồ buồn vì việc Cố vấn Vĩnh Thuỵ sa đoạ,
việc nước đang cấp bách, đang cần giải quyết, thì việc nhà lại tan nát vì cảnh
ghen tuông. Nếu để bà Nam Phương ra Hà Nội thì có yên không? Hay lại xảy ra
vụ đánh ghen như báo chí một thời đăng bà Nam Phương rút súng bắn què giò
Hoàng đế ở khu rừng Ban Mê Thuột dạo nào.
Sáng hôm sau, đúng chín giờ mười lăm phút ông Phạm Khắc Hoè đã
tới cung An Định để gặp bà Nam Phương.
Vừa tới sân, ông đã nghe bà Nam Phương từ cổng đi vào, lên tiếng hỏi:
- Ông bạn đến sớm quá vậy?
- Lần đầu tiên ông Hoè nghe hai tiếng “ông bạn” nên tỏ ra ngượng
ngùng, song ông lấy lại bình tĩnh và trả lời:
- Hôm nay thứ hai mà Ngài cũng đi nhà thờ à?
Bà Nam Phương trả lời:
- Ngày nào… mà… tôi… chả… đi… lễ.
Cả hai cùng thủng thẳng bước vào phòng khách. Bà Nam Phương kéo
ghế mời ông Hoè ngồi để nói chuyện cho rõ và bà cũng nêu lý do tai bà bị lãng
như thế nào, rồi hỏi:
- Có phải Cụ Hồ bảo ông bàn với tôi đem cả gia đình ra Hà Nội không?
Ông Hoè vội nói:
- Dạ không. Ý kiến đó là tự tôi đề ra với Ngài. Câu trả lời đó làm bà
Nam Phương hơi buồn, hỏi:
- Thế Cụ hồ có biết chuyện ông Cố vấn mê con Lý không?
Ông Hoè cũng không dám trả lời thẳng vào câu hỏi, mà chỉ nói:
- Chúng tôi không rõ. Hồ Chủ tịch chưa có lúc nào hỏi hoặc nói về việc
ấy với tôi cả.
Bà Nam Phương im lặng như suy nghĩ điều gì, rồi bảo:
- Ông Hoè này! Tôi cũng muốn ra Hà Nội để vợ chồng con cái cùng ở
với nhau cho hạnh phúc. Nhưng tôi ngại hai điều: một là sẽ làm tốn kém thêm
cho Nhà nước trong lúc đầu chính phủ đang còn nghèo, lo trăm chuyện; hai là
làm cho Hoàng đế đang vui sướng trở thành đau khổ, gò bó. Thôi! Tôi đành
chịu đựng riêng một mình để cho người ta vui sướng.
Nói vừa dứt câu, bà Nam Phương đứng dậy quay gót vào nhà và nói xin
lỗi ông Hoè mấy phút để có chút việc. Sau đó bà trở ra, cầm chiếc phong bì
chưa dán kín và nói:
- Đây! Ông xem thư và kiểm lại tiền đi.
Ông Hoè lịch sự trả lời:
- Xin ngài cứ dán kín lại, chúng tôi không muốn biết việc riêng của
Ngài.
Nhưng bà Nam Phương rút trong phong thư ra hai tờ giấy bạc năm trăm
đồng của Ngân hàng Đông Dương giờ ra cho ông Hoè nhìn thấy, sau đó bỏ vào
giữa lá thư màu hồng, rồi dặn lại và hỏi thêm:
- Ông có nhất định chiều nay đi không?
- Nếu không kịp tối nay thì tối mai nhất định phải đi, vì không thể trễ
hơn được nữa.
Bà Nam Phương sợ ông Hoè chưa đi nên nói:
- Nếu tối nay ông đi thì chúc ông lên đường mạnh khoẻ, bình an, và
mong được gặp lai nhau trong hoàn cảnh vui vẻ hơn. Nếu tối mai ông mới đi,
thì sáng mai chín giờ mời ông trở lại, tôi muốn nói chuyện với ông nhiều lắm.
- Dạ, nếu tối nay chưa đi thì sáng mai chúng tôi xin trở lại thăm Ngài.
Tối ngày 22 tháng 10 ông Hoè đã về tới Hà Nội và 8 giờ sáng hôm sau
đã đến gặp Vĩnh Thuỵ để trao phong thư.
Khi gặp ông Hoè, Vĩnh Thuỵ mừng rỡ, nét mặt tươi cười và hỏi:
- Ông đi mau quá hè!
Ông Hoè trao phong thư, Vĩnh Thuỵ vội bóc ngay ra thấy trong đó chỉ
có hai tờ giấy bạc. Nét mặt đang vui bỗng trở nên buồn. Vĩnh Thuỵ hỏi:
- Chỉ có thế thôi à?
- Dạ, bao nhiêu chắc “Ngài Hoàng” đã có viết rõ trong thư.
Vĩnh Thuỵ đọc lá thư Nam Phương viết và sắc mặt ông cứ tái dần đi.
Nhưng ông cố trấn tĩnh và hỏi:
- Ông có gặp “Đức Từ” không? Ngài có khoẻ không?
- Dạ, có gặp chừng mươi phút. Ngài mạnh khoẻ vui vẻ và chăm tụng
kinh niệm Phật lắm.
Vĩnh Thuỵ không quên nhắc:
- Ông có thấy các con tôi không?
- Dạ không.
Vĩnh Thuỵ lại hỏi:
- Ông gặp “Ngài Hoàng” có lâu không? Ông thấy Ngài thế nào?
- Dạ, chúng tôi gặp “Ngài Hoàng” ba lần. Ngài buồn lắm và gầy đi rất
nhiều!
Vĩnh Thuỵ có vẻ thắc mắc và hỏi:
- Làm chi mà phải gặp đến ba lần?
Ông Hoè vội thưa:
- Tóm lại “Ngài Hoàng” thắc mắc rất nhiều về vấn đề cô Lý và trách tôi
không nói tất cả sự thật. Nhưng sự thật thì chính nhờ gặp “Ngài Hoàng” mà tôi
mới biết được nhiều chuyện cụ thể về vấn đề cô Lý, chớ khi ở Hà Nội này tôi
chỉ nghe những lời đồn đãi bàn tán của thiên hạ và tôi cũng không tin (1)
Chú thích:
(1) Theo hồi ký của Phạm Khắc Hoè, Sđd
17. Hồ Chủ Tịch cử người vấn an bà Nam Phương
Kể từ ngày ông Vĩnh Thuỵ ra Hà Nội để nhận chức Cố vấn do Chủ tịch
Hồ Chí minh mời, ở Huế bà Nam Phương rất lo lắng vì có nhiều tin đồn thất
thiệt, hơn nữa lại được những người thân cận là tín đồ Công giáo báo tin vào
Huế cho bà Nam Phương biết là từ khi ra Hà Nội ông Cố vấn được bạn bè dẫn
đường chỉ lối đi ăn chơi, nhảy đầm lại cờ bạc rồi trai gái tùm lum. Hết cặp cô
này đến cô gái khác. Cô nào cũng đẹp nên Vĩnh Thuỵ đều chết mê chết mệt.
Vì vậy, để trấn an bà Nam Phương khỏi bị dao động do bọn chống đối
Việt Minh tung ra có ý đồ lôi kéo bà Nam Phương vào chính trị nên Hồ Chủ
tịch đã cử mấy cán bộ tin cẩn vào Huế để vấn an bà Nam Phương. Phái đoàn
này gồm có ông Lê Văn Hiến, ông Nguyễn Khoa Văn (tức nhà văn Hải Triều),
và một người nữa.
Và th eo một hồi ký của ông Lê Văn Hiến đã kể lại sau này trong tập
Hồi ký “Bình Trị Thiên Tháng Tám Bốn Lăm” do nhà xuất bản Thuận Hoá ấn
hành năm 1985, đại ý như sau:
Khoảng 9 giờ sáng ngày 10 tháng 12 năm 1945, bà Nam Phương hẹn sẽ
tiếp phái đoàn. Y hẹn, 9 giờ các ông Hiến, Văn và một người nữa (?) đã đến
cung An Định, nơi bà Từ Cung, bà Nam Phương và gia đình mới dọn về đây để
ở sau khi Bảo Đại thoái vị.
Khi phái đoàn vừa tới, bấm chuông cổng thì thấy bà Nam Phương đã ra
sân đón phái đoàn vào phòng khách. Nơi phòng khách được trang hoàng theo
kiểu trang trí châu Âu thời cổ điển.
Bà Nam Phương vốn con cháu nhà giàu, lại được đi học bên Pháp khi
mới 12 tuổi nên đã được hấp thụ cách xã giao rất lịch thiệp. Khi đó bà Nam
Phương đã 33 tuổi, nhưng với sắc đẹp, và vẫn giữ được phong cách một bà
Hoàng nên trông bà rất lịch sự, xứng đáng một mẫu nghi.
Khi các ông Hiến, Văn… đã an toạ, bà Nam Phương tự tay rót nước trà
và mới khách rồi bà hỏi thăm sức khoẻ của phái đoàn trên đường đi từ Hà Nội
vào Huế có mạnh không, vì đi đường hoả xa chắc vất vả lắm?
Ông Lê Văn Hiến trả lời:
- Cám ơn bà, sức khoẻ chúng tôi vẫn bình thường. Và trước khi vào
Huế, chúng tôi đã đến gặp Cố vấn và thấy ngài vẫn khoẻ mạnh.
Khi ông Lê Văn Hiến nói chuyện thì bà Nam Phương kéo ghế ngồi tới
sát cạnh ông Hiến để nghe cho rõ, vì bà Nam Phương vốn nặng tai từ nhỏ. Khi
đó, ông Hải Triều đã nhanh ý ghé sát tai ông Hiến và nói: Bà nặng tai nên ông
phải nói lớn một chút thì bà Nam Phương mới nghe rõ.
Bà Nam Phương cầm tách nước trà đưa lên miệng khẽ nhấp và tỏ vẻ
nghe rõ từng câu mà ông Hiến đang nói. Bà tỏ lòng cảm ơn.
Đoạn, ông Lê Văn Hiến nói chuyện tiếp:
- Thưa bà Cố vấn, tôi được Chủ tịch Hồ Chí Minh uỷ thác vào gặp bà
nói lên lời hỏi thăm của Người về sức khoẻ của bà và các con bà. Đồng thời Hồ
Chủ tịch cũng có ý định mời bà và các cháu ra Hà Nội ở cùng với ông Cố vấn
để cho gia đình được đoàn tụ vui vẻ hơn cảnh như lâu nay mỗi người mỗi ngả.
Chánh phủ sẽ lo chu tất mọi việc cho ông bà.
Khi bà Nam Phương nghe ông Lê Văn Hiến chuyển lời mời của Hồ
Chủ tịch với ý nghĩa trên, bà Nam Phương tỏ vẻ rất phấn khởi và vui mừng. Và
bà cũng ngỏ lời cảm ơn đến Hồ Chủ tịch và Chánh phủ đã lo lắng đầy đủ cho
ông Cố vấn. Còn về vấn đề Hồ Chủ tịch có ý định để đưa tôi và các cháu ra Hà
Nội thì tôi xin có ý kiến để các ông về trình lại với Hồ Chủ tịch. Và bà Nam
Phương nói:
- Hiện nay ông Cố vấn một mình ở Hà Nội, với phong cách và lối sống
của ông. Nhà nước đã chu toàn cho đầy đủ cũng phải tốn kém lắm rồi. Hơn nữa
chánh phủ mới thành lập, trăm nghìn việc phải tốn kém bao nhiêu! Cần tránh
những gánh nặng khác. Tôi và 4 con tôi trong này, sống tạm đủ. Với cuộc sống
bình thường, chúng tôi vẫn có khả năng tự lo liệu cũng được. Nếu mẹ con chúng
tôi ra sống chung với ông Cố vấn, Nhà nước phải tốn kém gấp đôi, tôi nghĩ như
vậy là không đúng. Xin Hồ Chủ tịch cứ để mẹ con chúng tôi tạm nương náu
trong này, khi nào tình hình nước nhà ổn định và tốt dần lên, bấy giờ sẽ đặt vấn
đề đoàn tụ của gia đình chúng tôi cũng không muộn. Vậy nhờ ông Bộ trưởng
(Chánh phủ Lâm thời Việt Nam thành lập tại Hà Nội ngày 23-8-1945, ông Lê
Văn Hiến giữ chức BBộ trưởng Lao động) thưa lại với Hồ Chủ tịch hộ cho.
Chúng tôi rất cảm ơn.
Và theo ông Lê Văn Hiến thuật lại thì bà Nam Phương đã thoái thác
một cách rất khéo léo và lịch sự. Tuy thâm tâm của bà ra sao, chưa biết chắc
chắn, nhưng cách lập luận của bà tỏ ra có lý vừa có nhân hậu. Khi ông Lê Văn
Hiến thấy không còn có cách gì thuyết phục được để bà Nam Phương đồng ý ra
Hà Nội, nên ông Hiến đành phải chấp nhận để sẽ về báo cáo lại với Hồ Chủ
tịch.
Ông Lê Văn Hiến cũng đoán tưởng đến đây là chấm dứt câu chuyện
nên có ý định đứng dậy xin cáo từ ra về. Nhưng bà Nam Phương đã vội vàng
đưa tay mời các vị ngồi lại một chút, và bà Nam Phương nói: “Mời ông Bộ
trưởng nán lại một chốc, tôi sẽ báo cáo với bà Từ Cung, người sẽ vui mừng tiếp
ông Bộ trưởng. Vừa nói xong, bà Nam Phương vội vào nhà trong.”
Ông Lê Hải Triều nói với ông Lê Văn Hiến: Bà Từ Cung là vợ của
Khải Định, và là mẹ của Bảo Đại. Và ông Hiến đang suy nghĩ trong đầu là khi
gặp bà Từ Cung sẽ nói thế nào đây? Thì trong nhà bà Nam Phương đi ra và mời
các ông Lê Văn Hiến, Hải Triều… vào nhà trong.
Phòng khách của bà Từ Cung thì lại được trang trí theo kiểu cách Đông
phương là một cái bàn dài được chạm trổ bằng gỗ quý, mặt bàn bóng loáng,
chung quanh bàn có sáu chiếc ghế cũng được trạm trổ công phu. Và bà Nam
Phương đã mời phái đoàn ngồi ở ghế bên phải, còn bà Nam Phương ngồi ghế
bên trái.
Bà Từ Cung từ trong phòng bên cạnh bước ra phòng khách, nghe thấy
tiếng cửa của bức tường kéo ra. Bà Từ Cung năm đó cũng gần sáu chục tuổi rồi.
Bà Từ Cung mặc áo thêu nhiều màu sắc, đầu chít khăn vàng và bà bước ra ngồi
trên một chiếc ghế cũng chạm trổ, trông như một chiếc ngai vàng. Bà Nam
Phương thấy bà Từ Cung đi ra, thì bà vội đứng dậy, các ông Hiến, Văn,… cũng
đứng dậy theo.
Bà Từ Cung khi đã ngồi xuống ghế rồi, bà Nam Phương đưa tay mời
khách ngồi. Ông Lê Văn Hiến còn đang lúng túng chưa biết phải chào bà Từ
Cung thế nào? Không lẽ nói: Thay mặt Hồ Chủ tịch đến thăm sức khoẻ bà Khải
Định? Nếu nói vậy không ổn?
Có lẽ biết ý ông Hiến còn đang lúng túng chưa biết chào thế nào nên bà
Nam Phương đã đưa tay giới thiệu: Xin phép Đức Từ được giới thiệu đây là ông
Bộ trưởng Lao động của Chánh phủ Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đi
công cán ở miền Nam, nay xin đến chào Đức Từ Cung và gia đình ông Cố vấn.
Ông Lê Văn Hiếu thấy bà Nam Phương giới thiệu rất khôn khéo, nên
đã lên tiếng xin phép nói:
- Được uỷ nhiệm vào công cán trong này, trước khi ra đi tôi có đến
thăm ông Cố vấn, ngài luôn luôn mạnh khoẻ và ngài có nhắn lời thăm gia đình.
Tôi đã gặp bà Cố vấn và được bà giới thiệu vào thăm Từ Cung. Chúng tôi xin
ngỏ lời chúc Đức Từ Cung luôn luôn khoẻ mạnh và trường thọ.
Bà Từ Cung khẽ nhếch miệng cười và tỏ lời cảm ơn, rồi bà đưa tay mời
mọi người dùng trà. Và bà Từ Cung hỏi:
- Ông Cố vấn làm việc có được Chủ tịch Hồ Chí Minh thương mến
không?
- Quan hệ giữa Hồ Chủ tịch và Cố vấn luôn luôn tốt đẹp.
Nghe ông Hiến nói vậy, cả hai bà Từ Cung và Nam Phương đều tỏ lòng
vui mừng và xin gửi lời cám ơn đến Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Bà Từ Cung thấy không cần hỏi thăm gì nhiều nên đứng dậy để lui về
phòng, nhưng bà không quên ra lệnh cho bà Nam Phương ngồi tiếp chuyện.
Thấy câu chuyện thăm hỏi tới đây cũng tạm đủ nên ông Hiến cũng cáo
từ xin ra về. Bà Nam Phương tỏ ra lịch thiệp chân thành tiễn khách ra tận cổng
cung An Định.
18. Bà Nam Phương và gia đình giữa ngã ba đường
Vào khoảng giữa tháng 12 năm 1946 tình hình chính trị và quân sự
giữa Việt và Pháp đã tới giai đoạn căng thẳng. Những cuộc điều đình giữa Pháp
và Việt không có kết quả nào như ý muốn của người Việt là Việt Nam phải
được độc lập tự do hoàn toàn và thống nhất Nam - Trung - Bắc một nhà. Quân
đội Pháp vừa trở lại chiếm đóng nhiều đô thị do quân đội Nhật đầu hàng Đồng
minh đã bị quân Tưởng Giới Thạch tới giải và trao cho Pháp chiếm đóng. Tại
Huế bà Nam Phương biết được nhiều tin tức từ nhiều người mang lại cho thế
nào cuộc chiến tranh Việt - Pháp cũng nổ ra, chiến sự sẽ vô cùng khốc liệt.
Tháng 3 năm 1946, Cố vấn Vĩnh Thuỵ đã đi sang Trung Quốc và được
tin là ông ở lại bên đó cùng với Lý Lệ Hà. Ở Huế bà Nam Phương thấy tuyệt
vọng, vì nếu ra Hà Nội thì ông Cố Vấn Vĩnh Thuỵ chưa chắc sẽ trở về đoàn tụ
với gia đình, vì biết tánh ông Vĩnh Thuỵ nhẹ dạ và đa tình. Có thể ở Trung Hoa
ông đã bị một số người ngoại quốc mua chuộc ông để dùng làm bình phong
chính trị cho lá bài Việt Nam sau này, hoặc bị những người đẹp dụ dỗ ông ở lại
ăn chơi cờ bạc để giải buồn vì ông đã mất ngai vàng rồi.
Bà Từ Cung đã tản cư về vùng quê, còn bà Nam Phương và các con
vẫn đang ở trong cung An Định. Bảo Long đang học ở Đà Lạt ở với bà bác (bà
Didelot) thì cũng được đưa về Huế để sống chung với gia đình vì ở Đà Lạt sợ bị
bắt cóc làm con tin của nhiều phía.
Bà Nam Phương cũng nghĩ xa, nghĩ gần bây giờ ông Vĩnh Thuỵ đã bỏ
đi rồi, tức là không còn giữ chức Cố vấn nữa. Như vậy chính phủ Việt Nam
chưa chắc đã có hành động gì để giúp đỡ gia đình bà. Vì vậy bà phải tự tìm cách
để sống giữa làn đạn bắt đầu nổ ở ngoài đường phố. Bà Nam Phương đã ngỏ ý
thưa với bà Từ Cung là để quản lý thì hy vọng mũi tên hòn đạn không xen vào
nhà thờ. Nhưng bà Từ Cung phản đối kịch liệt, và lúc đó giữa hai mẹ con, mẹ
chồng và nàng dâu trở nên đối chọi nhau. Còn với chính quyền Cách mạng khi
đó thì cũng không có thái độ gì khắt khe với hoàng gia và còn cho bộ đội canh
giữ cung An Định nơi gia đình hoàng gia đang cư ngụ.
Bây giờ biết đi đâu để lánh nạn? Giữa ngã ba đường: Ở lại cung An
Định thì nguy vì chiến tranh hòn đạn, quả bom… không từ nơi nào. Còn đi tản
cư về vùng quê thì cũng vất vả, nhất là quen nếp sống vương giả từ nhỏ, các con
cái của bà Nam Phương cũng khó hoà nhập được với những đứa trẻ đồng quê.
Còn đưa các con vào một trại lính của Pháp chiếm đóng để tạm trú thì cũng
không được. Như vậy là con bà Hoàng tử Bảo Long sẽ hết hy vọng lên ngôi kế
vị thân sinh, vì lại sa vào vết chân cũ mà thân sinh đã theo Pháp, may mà thân
sinh được sự khoan hồng của Hồ Chủ tịch, của nhân dân, chứ không thì cũng
theo chân Phạm Quỳnh, Ngô Đình Khôi, Ngôi Đình Huân… đã bị nhân dân
Huế xử tử rồi. Bây giờ chỉ còn có cách là cho Bảo Long vào trú ẩn trong nhà
dòng Chúa Cứu Thế, nơi các linh mục người nước ngoài là Canada quản trị, một
nước trung lập không theo Pháp hay Mỹ, Nga…
Bà Nam Phương đã suy nghĩ kỹ, và bà cho Bảo Long đi trước rồi gia
đình sẽ đi sau. Những ngày ở cung An Định những người lính bảo vệ, nhất là
cán bộ chính trị viên của đơn vị canh gác tại cung An Định cũng biết ý định của
bà Nam Phương sẽ không sớm thì muộn sẽ rời cung An Định đi một nơi nào đó
để tránh nạn. Đã có lần người chính trị viên ngỏ ý phản đối kịch liệt về ý định
bà Nam Phương đưa gia đình đi khỏi cung An Định, nhưng bà Nam Phương đã
khéo léo giải thích với người cán bộ nên sau đó họ cũng làm ngơ để tuỳ bà
quyết định lấy.
Cung An Định chỉ cách nhà thờ dòng Chúa Cứu Thế có một quãng
ngắn, và cũng cách nhà thờ Thiên Hựu không xa, nơi quân đội Pháp đang chiếm
đóng. Khi mới chạy vào nhà dòng Chúa Cứu Thế, mới đầu vị linh mục người
Canada là cha Larouste bề trên nhà dòng thấy cả gia đình bà Nam Phương và
các con vào đó, linh mục bề trên cũng lo ngại, vì sợ quân đội Việt Minh sẽ lấy
cớ gia đình cựu hoàng ẩn trốn trong này thì họ sẽ đem quân đội tới giải thoát và
làm khó dễ nhà dòng. Và cũng có thể họ sẽ bắt Bảo Long đi để khỏi lọt vào tay
người Pháp dùng sau này.
Ngay từ hôm được tạm trú ở nhà dòng, gia đình bà Nam Phương và các
con đã biết hoà nhập vào đời sống tản cư, đầy người tứ xứ tới tạm trú. Tại tu
viện có nhiều chúng sinh bằng tuổi Bảo Long, và cả những đứa trẻ ngoài đời
cũng cùng gia đình chạy vào tạm trú trong nhà dòng nên Bảo Long tỏ ra rất
thích được sống hoà đồng với những bạn trai cùng lứa tuổi nơi đây.
Vốn nhà dòng đã quen biết thân thiết với hoàng gia từ nhiều năm trước,
nhất là sáng nào bà Nam Phương cũng đi lễ tại nhà thờ dòng Chúa Cứu Thế,
nên nay tới tạm trú nhà dòng đã dành riêng cho gia đình bà Nam Phương và 4
người con cùng một cô hầu phòng duy nhất đi theo gia đình bà. Đời sống tạm
trong tu viện cũng thật gian khổ, sáng sáng các con bà phải tự đi tìm nước để rót
vào ca đem rửa mặt.
Cuộc chiến giữa Việt và Pháp thực sự nổ ra, quân đội hai bên đang dàn
trận để chiến đấu rất khốc liệt. Tiếng súng nổ nhiều ngả đường, máy bay Pháp
luôn luôn quần trên bầu trời Huế ngày đêm để thả dù tiếp tế và quân đội.
Sau nhiều tuần lễ, tiếng súng chỉ nổ lẻ tẻ, quân đội Việt Minh bao vây
những nơi quân đội Pháp trú đóng, còn Pháp thì chưa được tiếp tế quân đội tới
để giải vây và tiếp tế súng đạn nhiều. Một bữa, Phòng Nhì Pháp đã cho người
tới liên lạc với bà Nam Phương và cho biết nếu cuộc tấn công lớn xảy ra nay
mai thì quân đội Việt Minh sẽ bắt cóc Bảo Long đi để họ đề phòng người Pháp
trở lại Việt Nam thì họ sẽ dùng Bảo Long để tái lập nền quân chủ và đưa Bảo
Long ra nhiếp chính trong khi Bảo Đại còn đang lưu vong ở xứ người. Và quân
đội Pháp cũng chỉ biết nếu quân đội Việt Minh mà tấn công chiếm đóng nhà
dòng thì quân đội Pháp sẽ tới đánh gỉải vây ngay.
Nhà dòng thấy rất nguy kịch đến nơi nên đã bàn nhau là phải che dấu
Bảo Long ngay từ bây giờ, và phải cắt tóc ngắn cho Bảo Long cùng đặt một cái
tên mới cho Bảo Long là Nguyễn Ngọc Bảo để dễ trà trộn với những chúng sinh
và những đứa trẻ đang trốn trong nhà dòng. Linh mục ở nhà dòng còn nghĩ đến
cách cải trang cho mấy hoàng nữ ăn mặc theo lối con nông dân và người giúp
việc cho nhà dòng, nhưng bà Nam Phương cũng còn lo nghĩ là không biết có bị
lộ tông tích không?
Những tiếng súng bắn sẻ vào nhà dòng làm những linh mục và những
người đang trú ẩn trong đó lo sợ, còn bà Nam Phương thì cũng thấy tình thế
nguy kịch đến nơi nên bà đã nghĩ: Nếu cứ ở trong nhà dòng thì cũng nguy đến
nơi, còn chạy vào trại lính Pháp trú ẩn thì không thể được vì bà cũng đã lên
tiếng ủng hộ Việt Minh và đã có lần hô hào nhân dân thế giới hãy ủng hộ Việt
Nam để chống thực dân Pháp trở lại Đông Dương, nhất là chống quân đội Pháp
đang chiếm đóng đất Nam bộ nơi quê hương bà đang bị bom đạn của giặc Pháp.
Vì vậy bà Nam Phương đã nghĩ phải tìm đến một nơi nào trung lập, không phải
trại lính Pháp. Và sau này Bảo Long còn kể lại: “Người Pháp cũng khéo chơi,
thông qua các tu sĩ Cứu Thế, họ ra sức lung lạc tinh thần mẹ tôi. Cứ xem cách
Việt Minh đối xử và che chở cho bà nội tôi, Đức Hoàng Thái hậu Từ Cung lúc
này đang đi tản cư, tôi thiết nghĩ rằng họ sẽ đến tìm và sẽ đón mẹ tôi và các em
đi tản cư trong vùng họ kiểm soát. Bởi lẽ chúng tôi đứng về phía họ, họ sẽ càng
được nhân dân ủng hộ” (Theo sđd của D. Grandclément).
Thấy tính thế ở trong nhà dòng không ổn, tới tháng 4 năm 1947, bà
Nam Phương quyết định rời nhà dòng nơi bà và gia đình đang tạm trú dưới sự
che chở của các linh mục người Canada. Bấy giờ mà bà chấp nhận sự giúp đỡ
của người Pháp, thì có nghĩa là dưới con mắt Việt minh, và của tất cả mọi người
dân Việt Nam kể cả thế giới nữa, bà Nam Phương Hoàng hậu đã chạy theo gót
chân người Pháp rồi.
Còn Bảo Long, cũng tiết lộ sau này: “Nhưng nếu mẹ tôi ngả theo Việt
Minh thì sao? Tôi cho rằng nếu được như vậy thì vị thế của Việt Minh trước
người Pháp sẽ được củng cố khá mạnh và có thể máu sẽ đổ ít hơn. Việc mẹ tôi
rời khỏi sự che chở của người Canada chắc chắn đã không giúp được gì cha tôi
mà chỉ khiến ông càng dứt khoát rời khỏi Cụ Hồ. Về mẹ tôi, tôi thấy bà là một
người phụ nữ hiền thục, có phẩm hạnh đáng quý, vào thời điểm thúc bách đó chỉ
một mực lo làm sao cho các con được yên ổn, chứ không có tham vọng gì về
chính trị. Và cũng có thể lúc này cha tôi đang ở quá xa, bà không có cách nào
liên lạc được. Còn trường hợp cha tôi sau này thì khác, ông đã đắn đo rất nhiều
trước khi quay về hợp tác với người Pháp.
Không phải chỉ có bà Nam Phương lo sợ, mà chính các linh mục nhà
dòng Chúa Cứu Thế lúc đó cũng lo ngại, nhưng họ không dám nói ra thôi. Và
sau này, có người hỏi lại diễn tiến trong thời gian đó, thì linh mục Bề trên nhà
dòng thời đó đã kể lại: “Chính các cha xứ Canada gốc Pháp hồi đó đã giảng giải
cho bà Nam Phương thông cảm ý muốn của họ là gia đình bà nên rời nhà dòng
để tránh phiền phức cho họ sau này.”
Do người Pháp đã liên lạc với bà Nam Phương trước đó, nên đến nửa
đêm quân đội Pháp đang cố thủ ở trường Thiên Hựu đã dàn quân ra ngoài
đường để mở lối bảo vệ cho bà Nam Phương và gia đình chạy sang phía bên kia
đường nơi có quân đội Pháp đang canh giữ. Và theo sự sắp đặt, đúng nửa đêm
bà Nam Phương và các con cùng người hầu đã chờ sẵn ở trong cổng nhà dòng
để chờ tín hiệu báo ra là đào tẩu. Cả gia đình mỗi người đeo một cái túi vải sau
lưng để chứa những vật dụng cần thiết. Theo lời kể của gia đình bà Nam
Phương thì: “Như thường lệ, Bảo Long là người đi đầu tiên. Phải chạy vài chục
thước mới đến chỗ lính Pháp đang bố trí che chắn. Tại sao lại chọn Bảo Long đi
đầu tiên? Rõ ràng ai cũng biết phải tận dụng yếu tố bất ngờ, người đi đầu sẽ
không có nguy cơ bị dính đạn, như người thứ hai hoặc thứ ba, đối phương đã
kịp đề phòng. Người Pháp cũng đã tính toán. Phải đảm bảo an toàn cho Bảo
Long trước tiên để sau này còn có người giữ ngôi báu”. Và mọi người đã dự
kiến nhiều biện pháp để đề phòng để tạo thuận lợi cho việc vượt qua được con
phố, nhưng họ quên mất việc để cho Bảo Long cải trang, mà lúc đó lại vẫn để
Bảo Long mặc chiếc quần soọc lửng màu trắng như mọi hôm, và như vậy sẽ tạo
ra một vệt sáng trong đêm tối. Như vậy mục tiêu dễ bị lộ. Nhưng mặc kệ Bảo
Long cứ nhắm một lối đi qua hàng rào thép gai bao quanh trường Thiên Hựu để
chạy thục mạng, và suýt vấp té, nhưng cuối cùng th ì cũng qua được sang phía
lính Pháp một cách an toàn. Sau đó bà Nam Phương cũng dắt mấy đứa con nhỏ
chạy theo. Lúc đó bộ đội Việt Minh quá bất ngờ nên họ không phát hiện kịp để
ngăn chặn được, hoặc họ còn nhân đạo nên không nỡ xả súng vào những người
vô tội, nhất là có mấy đứa trẻ thơ. Khi đã chạy vào trường Thiên Hựu, nơi quân
đội Pháp đang trú đóng thì có mấy xe bọc thép của quân đội Pháp đã tới nơi để
bảo vệ và chờ lệnh sẽ đưa gia đình bà Nam Phương đi đâu đó.
Người Pháp báo tin cho bà Nam Phương biết là chiến cuộc nay mai sẽ
xảy ra ác liệt, khu nhà dòng Cứu Thế sẽ ở giữa hai làn đạn, rất nguy hiểm nên
họ đã tìm được một nơi an toàn và kiên cố để đưa mẹ con bà Nam Phương tới
lánh nạn trong Ngân hàng Đông Dương. Nơi này cũng là chỗ quen biết của bà
Nam Phương vì bà đã gửi tiền bạc trong Nhà băng này, và vị Giám đốc Nhà
băng cũng đã gặp bà Nam Phương một đôi lần rồi. Nhà băng tuy không phải là
trại lính, nhưng nơi này có một hầm kiên cố dưới lòng đất đã xây để chứa bạc,
vàng, châu báu… của khách hàng gửi trước đây. Nơi này bây giờ để mẹ con bà
Nam Phương tạm ở được và an tâm.
Theo như tài liệu của D. Grandclément đã tả thì: “Chiếc scout-car bọc
thép qua ngã tư đại lộ Jules Ferry, quẹo trái, chạy tiếp một quãng trên đại lộ
Clemenceau dọc theo bờ sông Hương, rồi vượt qua cổng vào sân. Xe gắn súng
máy đỗ ngoài đường đợi. Bọn lính đi bảo vệ nhìn chăm chăm về phía thành nội
bên kia sông, nơi đang tập trung lực lượng Việt Minh, cũng là nơi xuất phát các
cuộc tiến công vào các vị trí Pháp ở bên này sông.
“Trong sân, chiếc scout-car lăn bánh chầm chậm trên sỏi đến một nền
cao, xây kín ba mặt nằm giữa nhà băng và dãy nhà phụ đằng sau, xa đường, bên
ngoài không thể nhìn thấy được. Nhưng xe vừa dừng thì người lái thay đổi ý
kiến, lui xe và dừng lại trước lối vào chính, chân cầu thang lớn, nơi ông Fafard,
giám đốc nhà băng đang đứng đợi sẵn.
“Bà Nam Phương đã biết ông này từ lâu. Hai năm trước đây, khi ông
mới đến nhậm chức bà đã gặp hôm ông vào bệ kiến Nhà Vua. Bữa nay bà thấy
ông có vẻ khô khan, nghiêm nghị hơn như thường lệ, trong ánh sáng lờ mờ lọt
qua cửa bên trên gác lửng rồi xuống bậc tam cấp. Bà Nam Phương chú ý đưa
mắt tìm bà Fafard nhưng chỉ thấy một mình ông đứng đó. Còn cả gia đình đang
ở trên gác nấp sau cánh cửa chớp đóng kín. Các con ông bà Fafard vận quần áo
chỉnh tề, sạch sẽ, gọn gàng theo đúng tác phong của một gia đình công chức
Pháp phải đối phó với tình huống bất hạnh. Cử chỉ gần như anh hùng mà không
biết. Sẵn sàng được giới thiệu khi bà Hoàng hậu tới trú ẩn trong nhà băng.
“Suốt chiều nay, khi được biết gia đình cựu Hoàng đế đến ẩn náu trong
nhà mình các cô gái đã tập các cử chỉ đón chào sao cho cung kính, lễ phép.
Chúng tập nhún chân khi nghiêng mình chào khách, ôn lại cách đi đứng, chào
hỏi cho đúng phép tắc. Dù đang lúc chiến sự diễn ra ác liệt, các quả đạn trái phá
75 ly từ hoàng thành bên kia sông bắn qua đầu sang phía trường Thiên Hựu, các
cô gái vẫn hớn hở rối rít chờ đón sự có mặt của gia đình Nhà Vua trong nhà
mình. Những người trong gia đình ông chủ nhà băng Đông Dương ở Huế vẫn
coi việc mẹ con bà Hoàng đến lánh nạn ở nhà mình là một vinh dự đặc biệt. Đối
với họ, coi như không có chuyện Nhà Vua thoái vị. Ông Fafard thuộc phái ủng
hộ chính phủ Vichy thân Đức, ông còn là bạn thân của Toàn quyền Decoux,
không thể một sớm một chiều quên ngay hình ảnh về chế độ quân chủ cũ.”
(Theo tư liệu của D. Grandclément, Nguyễn Văn Sự dịch, nxb Phụ Nữ).
Sống tạm trú ở nhà băng Đông Dương được ít lâu, bà Nam Phương
thấy thiếu thốn và cũng lo sợ nếu chiến tranh lan rộng không biết phe nào chiếm
đóng được nhà băng, hay bắn phá vào nhà băng thì cũng nguy đến tính mạng
của những người đang trú ẩn trong đó. Vì vậy bà Nam Phương lại nghĩ cách cho
người liên lạc với người chị của bà đang ở Đà Lạt để có thể bà (Nam Phương)
sẽ tìm đường đưa cả gia đình về Đà Lạt tạm sống qua ngày để tránh bom đạn.
Vì vậy, bà Nam Phương lại tạm rời khỏi nhà băng Đông Dương để trở
lại nhà dòng Chúa Cứu Thế tá túc vài ngày rồi tìm đường về Đà Nẵng và để từ
đó nhờ máy bay vào Đà Lạt.
Theo tài liệu SDECE- Service de Documentation Exterieure er Contre-
Espionnage, của Cơ quan tình báo và phản gián Pháp, đã cho biết là họ đã đến
thăm dò bà Nam Phương xem ý định của bà ra sao. Nhưng khi gặp bà Nam
Phương, bà đã không có một lời ca tụng sự chiến thắng của người Pháp, nhưng
bà Nam Phương lại nói: “Những hy sinh của tôi chẳng là gì cả so với những khổ
cực hiện nay của nhân dân”. Đây là một câu nói chính trị và giáo điều.
Ở nhà dòng mấy ngày thì có một đoàn xe quân đội Pháp tới để hộ tống
cho một chiếc xe hàng chở gia đình bà Nam Phương, gồm mấy người con và
người hầu đi kèm. Với những chiếc xe bọc thép, súng ống đầy đủ để bảo vệ xe
dân sự đi từ Huế vào Đà Nẵng không bị quân đội Việt Minh phục kích ngăn
chặn được. Nhưng trong khi đi bằng xe đò vì say xe nên Bảo Long và mấy công
chúa bị nôn, chóng mặt và cảm sốt. Tới đỉnh đèo Hải Vân xe phải ngưng lại để
chờ mấy tiểu thư và hoảng tử lấy lại sức khoẻ và uống thuốc cảm cho qua khỏi
cơn sốt và ói mửa. Khi xe dừng lại, những chiếc xe bọc thép quay súng ra bìa
rừng để bảo vệ nếu có du kích trong rừng rậm ra tấn công thì họ sẵn sàng trả
đũa để ngăn chặn.
Tới Đà Nẵng cả gia đình được vô sự tốt lành. Rồi từ Đà Nẵng bà Nam
Phương xin đi nhờ máy bay của quân đội Pháp vào Đà Lạt. Vào tới Đà Lạt đáng
lẽ gia đình bà tới ở biệt điện của Bảo Đại có sẵn, nhưng bà Nam Phương đã
không ở đấy mà về về ở voíư bà chị ruột là bà Didelot cũng có một biệt thự lớn
và đầy đủ tiện nghi. Ở Đà Lạt được ít tháng thì năm 1947 bà Nam Phương đưa
các con sang Pháp sống.
19. Vì muốn Bảo Long lên ngôi, bà Nam Phương suýt về Việt Nam làm
“phụ chính”
Tháng 7-1949, Pháp bê Bảo Đại về Việt Nam làm Quốc Trưởng. Sau
khi thành lập rồi giải tán Chính phủ Nguyễn Phan Long rồi Trần Văn Hữu đến
Nguyễn Văn Tâm và tiếp theo là Bửu Lộc vẫn chưa ổn, năm 1954, trước áp lực
của người Mỹ, Bảo Đại phải cử Ngô Đình Diệm về Sài Gòn thành lập chính phủ
mới.
Trước khi về Sài Gòn, Ngô Đình Diệm còn hứa với bà Nam Phương và
Bảo Đại là sau khi nhậm chức Thủ tướng, sẽ mời bà Nam Phương về làm phụ
chính, sau đó sẽ cho Hoàng thái tử Bảo Long lên nối ngôi và thiết lập nền quân
chủ lập hiến giống như Anh quốc.
Vì quyền lợi của Thái tử Bảo Long và cả tin, bà Nam Phương đã định
khăn gói về nước. Nhưng Chính phủ Pháp vì không muốn bà Nam Phương tiếp
tay cho Mỹ đã kịp thời ngăn chặn. Theo bà Mộng Điệp thứ phi của Bảo Đại kể
với ông Nguyễn Đắc Xuân thì có lẽ đây là âm mưu của Hồng y Spelman với Mỹ
bày ra mà bà Nam Phương không hiểu hết ý nghĩa chính trị của nó. Cũng may
bà Nam Phương đã không về, nếu không bà sẽ phải chuốc nỗi nhục bởi Ngô
Đình Diệm về nước sau khi đã làm chủ được tình thế đã có kế hoạch lật lọng,
dự định tổ chức một cuộc biểu tình phản đối và hạ nhục bà Nam Phương để qua
đó hạ nhục Bảo Đại.
Từ đó bà Nam Phương và các con không bao giờ có ý định trở lại Việt
Nam nữa.
Ấn tượng về Nam Phương hoàng hậu
Bây giờ mà nhắc lại chuyện bà Hoàng hậu Nam Phương chắc chắn
nhiều người, giới trẻ coi là huyền thoại. Nhưng với những người lớn tuổi, đã
một thời sống ở Hà Nội, Huế hay Sài Gòn thi coi bà Nam Phương như thần
tượng một thời, vì bà là một người phụ nữ có nụ cười bí hiểm như Mona Lisa,
với khuôn mặt đài các mà chúng ta đã thấy in trên con tem năm 50-52 được phát
hành tại Việt Nam (vùng chiếm đóng của quân đội Pháp). Chân dung bà Nam
Phương Hoàng hậu bận quốc phục, đầu quấn khăn vàng, quả xứng đáng là “đệ
nhất phu nhân”. Nhìn gương mặt bà mà không kiêu, hiền mà không tầm thường,
dễ dãi. Nụ cười mỉm kín đáo nhưng không quá e lệ. Đôi mắt nhỏ mà tinh anh.
Chiếc cổ tròn thon và cao hợp với khuôn mặt.
Nếu chúng ta so sánh bà Nam Phương với những vị đệ nhất phu nhân
trên thế giới, như Hoàng hậu xứ Monaca, Jackie Kennedy, phu nhân Tổng thống
Juelde Marcos (Phi Luật Tân)… thì chắc chắn bà Nam Phương phải được chấm
giải nhất. Nhất không phải vì sắc đẹp, mà nhất về tư cách, đạo đức và cách sống
của bà từ ngày trở thành Hoàng hậu cho tới ngày tạ thế. Nếu có người chê trách
Bảo Đại là “Ông vua giang hồ”… thì trai lại không thấy ai chê trách hay than
phiền về bà Nam Phương.
Ngoài đời theo lệ người ta thích được đánh giá tên tuổi, nên nếu ai có
số lấy được người quyền cao chức trọng là nhất rồi, hơn nữa lại được làm vợ
vua thì không cứ danh vị tột đỉnh mà ai cũng nghĩ là có nhiều tiền bạc châu báu.
Nhưng với bà Nam Phương thì có nhiều người lại nói: Bảo Đại có diễm phúc
mới lấy được bà M.Nguyễn Hữu Thị Lan (Nam Phương), vì bà xứng đáng là
một “mẫu nghi” cuối cùng của Triều Nguyễn.
Những năm đầu, người ta thấy Bảo Đại và Nam Phương sống thật hạnh
phúc. Những ngày nghỉ lễ nhà vua thường đích thân lái xe hơi đưa bà Nam
Phương đi đây đi đó, lúc thì đi tắm biển, lúc đi nghỉ mát.
Ngoài việc phá lệ tấn phong danh hiệu Hoàng hậu cho Nam Phương và
ra chỉ dụ đặc biệt cho phép bà bận sắc phục màu vàng, màu mà trước đây chỉ có
vua mới được phép dùng, sau ngày cưới Bảo Đại còn cho thợ đúc đồng đúc
tượng Nam Phương để giữ lại vẻ đẹp tuyệt thế giai nhân của bà. Bức tượng bà
Nam Phương bán thân nặng 4,8kg, cao 30cm, ngang 22cm, đầu vấn khăn nhìn
nghiêng về bên phải. Bức tượng nghe đâu hiện nay đang lưu lạc ở Kiên Giang.
Và theo hồi ký của cụ Phạm Văn Bính, một thời đã làm bí thư cho Bảo
Đại, cụ Bính đã kể lại: Trong đời bà Nam phương có hai kỷ niệm khó quên là
ngày bà xuất hiện trước công chúng ở ngoài Bắc Việt khi ra khánh thành hội
chợ tại Hà Nội và những ngày bà kẹt ở Huế năm 1945.
Trong lần ra Hà Nội cùng với Bảo Đại, có một hôm khi lên xe bà đã
đánh rơi chiếc hài và ông “Quan thị” Nguyễn Tiến Lãng lúc đó là bí thư riêng
của bà Nam Phương, ông Lãng đã quỳ xuống nhặt chiếc hài, kính cẩn dâng lên
để bà xỏ vào chân.
Theo nhận định của chúng tôi thì bà Nam Phương Hoàng hậu có một số
cái nhất (đầu tiên) như sau:
- Là bà hoàng Tây học đầu tiên của triều Nguyễn, ảnh hưởng nếp sống
nếp nghĩ phương Tây, song bà vẫn là dâu hiền của triều Nguyễn. Ngoài việc dạy
dỗ con cái, lo việc gia đình, Hoàng hậu Nam Phương còn phải cùng với bộ Lễ lo
lễ tiết, cúng kỵ trong Nội, thăm hỏi các bà Tiên Cung, Thánh Cung (bà nội của
Bảo Đại), bà Từ Cung (mẹ Bảo Đại)…
- Là bà hoàng đầu tiên xuất cung tham gia các hoạt động xã hội, như
thăm cô nhi viện, trường nữ trung học Đồng Khánh, Nữ công học hội. Hằng
năm, vào dịp cuối niên học bà thường đến nhà tiếp tân L’Accueil phát phần
thưởng danh dự cho các học sinh giỏi Trung Kỳ. Nhờ những hoạt từ thiện mà bà
Nam Phương không những nổi tiếng ở Việt Nam mà còn được các tổ chức quốc
tế biết đến như Hội chữ thập đỏ quốc tế, Viện Hàn lâm Pháp…
- Là đệ nhất phu nhân đầu tiên ở nước ta cùng nhà vua đón tiếp khách
quốc tế.
- Là phụ nữ Công giáo đầu tiên ở nước ta có ngôi vị Hoàng hậu.
20. Những ngày trên đất Pháp
Năm 1949, Bảo Đại trở về Việt Nam ngồi ghế “Quốc trưởng”, nhưng
bà Nam Phương vẫn ở bên Pháp… Những ngày nghỉ lễ, bà Nam Phương
thường đi phố cùng các con để mua đồ chơi cho chúng hoặc đi coi chớp bong
với Hoàng tử Bảo Thắng, Công chúa Phương dung là hai người con nhỏ nhất.
Tại Pháp ban đầu bà Nam Phương ở lâu đài Thorenc tại Cannes. Ở đây, bà Nam
Phương cho con cái nhập học trường Couvent des Oiseaux, trường này mà trước
đó bà Nam Phương đã theo học tới khi về lấy chồng.
Cũng có những lúc Bảo Đại về Pháp, bà Nam Phương cùng đi với Bảo
Đại tới Casino để xem ông chơi baccarat, hoặc roulette cho vui. Những lần có
bà cùng đi, nếu được bạc thì Bảo Đại tặng hết cho bà để sắm sửa quần áo. Nam
Phương Hoàng hậu ưa thời trang của hang Christian Dior và Balmin. Bà cũng là
một người rất sành điệu ăn mặc và màu tím nhạt là màu bà ưa thích nhất. Có lẽ
vì cuộc đời của bà buồn nhiều hơn vui nên bà đã chọn màu tím chăng.
Hàng ngày sinh hoạt của bà là chăm lo cho các con hay đọc sách báo
hoặc ra vườn trồng hoa, tỉa lá. Buổi tối bà thích đánh dương cầm cho các con
nghe. Bà cũng là người ưa mỹ thuật. Trong phòng bà người ta thấy treo những
bức hoạ của Renoir, Buffet. Bà không thích tranh lập thể của Picasso vì tâm hồn
bà không hợp với trường phái hội hoạ này cũng như siêu thực. Bà rất thích nuôi
chó. Trong nhà bà có cả một đàn chó, và trong đó có một con thuộc giống Saint
Berard, loại chó to như con cọp, loại chó này để sử dụng tìm người mất tích
trong rừng, trong khi đi trượt tuyết. Về thể thao bà có thể chơi bong bàn, quần
vợt, và golf nhưng không giỏi lắm.
Sau năm 1955, Bảo Đại trở thành phế đế nên ông buồn bỏ nhà đi giang
hồ và để bà Nam Phương ở nhà một mình với mấy người con. Khi đó các con
bà đã lớn, mỗi người đi làm một nơi. Những năm sau này bà Nam Phương rời
lâu đài Thorenc ở Cannes để về sống ở lâu đài Domain de la Perche ở
Chabrignac thuộc vùng Trung Tây nước Pháp, cách Paris chừng bốn năm trăm
cây số. Nơi này có một trang trại lớn của riêng bà Nam Phương mà trước đây
gia đình bà (ông bà Nguyễn Hữu Hào) đã tậu cho. Nhà của bà ở cách biệt với
những nhà dân ở vùng này, vì là làng quê nên mọi người ít có dịp giao thiệp với
nhau.
Những ngày gần đất xa trời mà thấy Bảo Đại còn đi giang hồ nên bà
Nam Phương đã chọn một nơi yên tĩnh để sống những ngày cuối đời được thanh
thản. Và đã có lần bà Nam Phương ngỏ ý được trở về Việt Nam để được chết và
an tang bên cạnh hai mộ thân sinh và thân mẫu ở Đà Lạt. Nhưng Bảo Đại và các
con của bà phản đối không cho bà về.
Về đời sống vật chất thì bà Nam Phương không lúc nào thiếu thốn khi
sống ở xứ người. Tài sản riêng do gia đình Nguyễn Hữu Hào tậu cho bà gồm
một chung cu lớn tại Neuilly và một chung cư ở đại lộ Opera. Ngoài ra bà còn
nhiều nhà đất ở bên xứ Maroc, Congo… Nhưng những bất động sản này bà
không quan tâm mà đã chia cho các con mỗi đứa một phần riêng, bà chỉ giữ lại
trang trại ở Charbrignac, gồm 160 mẫu đất với một đàn bò gần trăm con và một
vườn hồng lúc nào cũng nở hoa rất đẹp.
Những người dân ở gần nhà bà Nam Phương cho biết rất ít khi thấy ông
Bảo Đại trở về đây thăm vợ con. Hoạ hoằn lắm một năm mới có một, hai lần
ông ghé về rồi lại đi ngay. Duy nhất trong dịp đám cưới Công chúa Phương
Liên thì cựu Hoàng có vé để cùng bà Nam Phương đứng chủ hôn cho cô
Phương Liên rồi mấy ngày sau ông lại biến mất.
Chết nơi xứ người
Những năm sau này bà Nam Phương ít đi ra ngoài và gặp gỡ ai. Cũng
có đôi khi bà Nam Phương đi Paris để thăm các con đang học và làm ăn ở đó.
Và ngược lại những dịp hè thì các con có về đây thăm mẹ ở ít ngày chơi với bà
cho bà khỏi buồn. Thời gian này bà bị bệnh tim nặng làm khó thở. Ngày 14
tháng 9 năm 1963, sau khi ra nắng bị cảm lại đi tắm bà bị sốt cao, vì bệnh viện ở
xa, bác sĩ không tới kịp nên bà đã ra đi vào lúc 5 giờ chiều. Lúc bà lâm chung
ngoài hai người giúp việc không có ai là ruột thịt bên cạnh. Các con bà lúc đó
đang đi học hoặc làm việc tại Paris, còn Bảo Đại thì đang sống tại miền Nam
nước Pháp.
Khi được tin bà Nam Phương tạ thế ông Bảo Đại có trở về ngay và đã
mua một chiếc quan tài bằng gỗ sồi, loại ván quý giá nhất của người Pháp để an
tang người vợ hiền thục, nhân từ và đạo đức… tới cuối đời không để lại một sự
chê trách hay than phiền của mọi người. Ngay cả ông Bảo Đại cũng chưa bao
giờ dám trách vợ về việc trai gái, vì kể từ ngày ly thân với Bảo Đại, bà Nam
Phương không có một người nhân tình nào, dù là đi khiêu vũ hay đi tắm biển
với một người đàn ông nào khác. Có lẽ bà Nam Phương được sinh ra trong một
gia đình đạo đức nên bà giữ đạo rất nghiêm khắc ngay cả với các con của bà
nữa.
Đám tang của bà Nam Phương được cử hành theo nghi thức đạo Công
giáo, và tổ chức rất đơn giản. Đám tang vỏn vẹn chỉ có mặt Bảo Đại, các Hoàng
tử, Công chúa và một số bạn bè thân thiết của gia đình. Tại địa phương có vị
Tỉnh trưởng và dân biểu địa phương bà Nam Phương cư ngụ tới chia buồn và dự
tang lễ. Đặc biệt có sự tham dự của Công chúa Như Lý, là con gái của vua Hàm
Nghi. Công chúa Như Lý cũng ở gần nơi bà Nam Phương cư ngụ, nhưng chưa
bao giờ khi bà Nam Phương còn sống bà Như Lý tới thăm, mà duy nhất lần này
bà Nam Phương tạ thế Công chúa tới dự đám tang.
Linh cữu của bà Nam Phương được an táng ngay nghĩa trang Công
giáo tại Chabrignac. Trên mộ của bà có tấm bia ghi những dòng chữ:
Ici Repose l’Imperatrice d’Anamnée
Jeanne-Mariette Nguyen Huu Hao
(4-12-1914 - 15-9-1963)
Và mặt sau bia mộ có viết dòng chữ Hán:
“Đại Nam Nam Phương Hoàng hậu chi mộ”
(Dịch là: Mộ phần của bà Hoàng hậu Nam Phương nước Đại Nam).
Chúng tôi đã so sánh nhiều tư liệu thấy dòng chữ ghi trên bia mộ của bà
Nam Phương có mấy điểm khác nhau như:
Ngày tạ thế của bà Nam Phương là khoảng 5 giờ chiều ngày 14 tháng 9
năm 1963 mới đúng. Nhưng trên mộ bia lại viết là ngày 15-9-1963. Và theo ông
Nguyễn Đắc Xuân viết, năm 1988(?) ông Xuân đã tới thăm mộ bia viết dòng
chữ Pháp với tên bà Nam Phương như sau:
Ici repose l’Imperatric d’Annamnée
Jeanne Mariette Nguyen Huu Hao.
Nhưng tới năm 1999, ông Tôn Thất An Cựu có đến thăm mộ bà Nam
Phương thì lại thấy mộ bia ghi là:
“Ici repose l’Imperatric d’Annamnée
Marie Thérèse Nguyen Huu Thi Lan”
(Có nghĩa “ Đây là nơi an nghỉ của bà Hoàng Hậu Việt Nam tên Marie
Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan).
Còn ngày ghi trên mộ bia, lẽ ra phải ghi ngày 14-9-1963 mới đúng. Còn
ngày 15-9-1963 là ngày an táng bà Nam Phương.
Nghe nói, trước đây mấy năm mộ của bà Nam Phương đã bị kẻ lạ mặt
đêm tôi vào đào nhiều lỗ để tìm của cải vàng bạc châu báu xem bà có mang theo
không. Và chúng có lấy được gì thì không ai biết rõ, chỉ có gia đình con, cháu
bà mới biết mà thôi.
Mộ phần của thân sinh và thân mẫu của bà Nam Phương là ông bà
Nguyễn Hữu Hào được chôn cất ở Đà Lạt rất nguy nga, như một cái lăng, vì
được xây cất trên cao, có bậc đá đi lên mộ, nhưng trước đây có kẻ lạ mặt đã đào
lên để tìm báu vật.
Thật buồn cho số phận bà Nam Phương, lúc trẻ thật hạnh phúc và sung
sướng về vật chất cũng như danh vọng. Vậy mà cuối đời bà đã mất trong sự cô
đơn lạnh lẽo nơi xứ người ở cái tuổi còn khá trẻ. Bà Nam Phương Hoàng hậu
sinh năm 1914 và mất năm 1963, khi vừa được 49 tuổi, cái tuổi theo người Việt
gọi là tuổi xui, như dân gian thường nói: “Bốn chín chưa qua năm ba đã tới”.
Tuy nhiên, với vẻ đẹp phúc hậu và tấm lòng nhân từ của mình, dù bà
Nam Phương Hoàng hậu mất đã lâu nhưng những câu chuyện về cuộc đời của
bà sẽ vẫn còn được người đời nhắc tới.
Lý Nhân PHAN THỨ LANG
TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ TRÍCH DẪN
- Trong khuê phòng, Tuần báo từ 1930 - 1939, Sài Gòn.
- Con rồng An nam, Hồi ký của Bảo Đại, bản Việt ngữ của Nguyễn
Phước tộc dịch và xuất bản tại Mỹ năm 1990
- Hồi ký của Phạm Văn Bính, Bản thảo chưa in, Sài Gòn 1970
- Kể chuyện vua quan nhà Nguyễn của Phạm Khắc Hòe, NXB Thuận
Hoá, Huế 1986
- Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc, Hồi ký của Phạm Khắc
Hòe, NXB Hà Nội, 1983
- Chuyên nội cung Cựu hoàng Bảo Đại, Nguyễn Đắc Xuân, NXB
Thuận Hoá, Huế 1999
- Chuyện các bà trong cung Nguyễn, Nguyễn Đắc Xuân, NXB Thuận
Hoá, Huế 1996
- Bảo Đại ou les dernieres jours de l’Empirer d’Annam par
D.Grandclément, J.C.Lattès 1997. Bản dịch Việt Ngữ của Nguyễn Văn Sự - Bảo
Đại hay những ngày cuối cùng của vương quốc An Nam, NXB Phụ Nữ, Hà Nội
2006
- Những nẻo đường cách mạng của Hán Thu Nguyễn Tiến Lãng, Y
Việt xuất bản, Paris 1989
- Indochinne Hebdomadaire lllustré, từ số 1 đến số 200 (1938 - 1993)
- Việt Nam khảo cổ, Tập san, số 5-1968, Sài Gòn
- Tử Vi nghiệm lý (Lý mệnh học) của Thiên Lương, Sài Gòn 1974
- Gò Công xưa và nay của Huỳnh Minh, Sài Gòn 1969
- Bí mật hậu trường chính trị miền Nam (1954-1975) tập 2, của Đặng
Văn Nhâm, xuất bản tại Mỹ 1999
- Và một số báo tạp chí xuất bản tại Việt Nam từ 1930 đến 2005
Tác giả Lý nhân PHAN THỨ LANG
Tên thật Phan Kim Thịnh
Sinh năm Mậu Dần
Quê quán: Thọ mai - Lý Nhân - Hà Nam
Bút hiệu: Lý Nhân, Phan Thứ Lang
Từng là Thư ký toà soạn Nguyệt san Quê Hương (Sài Gòn 1960-1962)
Chủ nhiệm kiêm chủ bút Tạp chí Văn Học (Sài Gòn 1962-1975)
TÁC PHẨM ĐÃ XUẤT BẢN
- Một phù thuỷ làm quân sư cho Ngô Đình Diệm, NXB Văn Học, Sài
Gòn 1970
- Trần Lệ Xuân - giấc mộng chính trường, NXB Công an nhân dân,
1998
- Bảo Đại - vị vua triều Nguyễn cuối cùng, NXB Công An nhân dân,
Hà Nội 1999
- Thiệu - Kỳ, một thời hãnh tiến, một thời suy vong, NXB Công An
nhân dân, 2002
- Sài gòn vang bóng, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 2002
- Giai thoại và sự thật về Bảo Đại - vua cuối cùng triều Nguyễn, NXB
Đà Nẵng - 2002; NXB Văn Nghệ (tái bản có sửa chữa và bổ sung), Tp.HCM,
2006
- Nguyễn Cao Kỳ - đứa con trở về đất mẹ, NXB CAND, Hà Nội 2006
______________________
Số phận kỳ lạ của hai bà hoàng Triều Nguyễn
4:30, 08/12/2008
Họ là cái bóng của hai khuynh hướng đối ngược nhau. Công chúa Như
Lý là con gái thứ hai của Vua Hàm Nghi - người được lịch sử khắc tên như một
biểu tượng đấu tranh chống Pháp quyết liệt. Ngược lại, Nam Phương Hoàng hậu
là vợ của cựu hoàng Bảo Đại - đại biểu cuối cùng trong số những ông vua bị
xem là bù nhìn, được người Pháp nuôi dưỡng, giáo dục, đặt lên ngai vàng và
cuối cùng bị nhân dân phế truất.
Thật oái oăm, về cuối đời, hai người phụ nữ ấy lại trở thành hàng xóm
của nhau, trong một vùng quê hẻo lánh miền Tây Nam nước Pháp. Thế nhưng,
trong suốt 5 năm làm “hàng xóm”, hai bà hoàng ấy vẫn không một lần gặp mặt
thăm viếng nhau.
Rời kinh thành Huế ngày 6/7/1885, Vua Hàm Nghi đã bôn ba khắp các
vùng rừng núi từ Tân Sở (Quảng Trị), sang tận châu Mường Mahasay (tỉnh
Khăm Muộn, Lào) rồi vòng về Hương Khê (Hà Tĩnh), ban hịch Cần Vương và
làm biểu tượng tinh thần cho phong trào sĩ phu chống Pháp. Tháng 2/1886,
trước khi lên đường sang Trung Quốc cầu viện nhà Thanh, Đại thần Tôn Thất
Thuyết đã giao việc hộ giá ông vua trẻ cho hai con trai là Tôn Thất Đạm và Tôn
Thất Thiệp đảm trách. Tôn Thất Đạm được Vua Hàm Nghi cử làm Khâm sai,
chịu trách nhiệm liên lạc với các lực lượng nghĩa quân kháng chiến và huy động
lương thực. Tôn Thất Thiệp thì ngày cũng như đêm, luôn có mặt bên cạnh để
bảo vệ nhà vua. Khi vua trẻ dừng chân tại làng Thanh Lạng, Tuyên Hoá, Quảng
Bình, đội ngũ hộ giá còn có thêm hai người nữa là Nguyễn Định Trình, người
đã theo vua từ năm 1885 và Trương Quang Ngọc, một người địa phương rất
giỏi bắn cung, được vua ban chức Lãnh binh.
Không dập tắt được tinh thần đấu tranh chống Pháp của Vua Hàm
Nghi, người Pháp đã tìm cách dụ dỗ, mua chuộc những bộ tướng thân tín của
ông. Với anh em Tôn Thất Đạm và Tôn Thất Thiệp thì âm mưu này hoàn toàn
thất bại. Gần như người Pháp không có con đường nào để có thể tiếp cận, thuyết
phục và làm lay chuyển lòng trung quân ái quốc của họ. Nhưng với các cận
tướng dưới quyền họ thì âm mưu của Pháp đã thành công. Từ mùa hè năm
1888, lần lượt Nguyễn Định Trình rồi Trương Quang Ngọc và một số người
khác đã ra đầu thú, khai báo với Pháp nhiều điều về đường đi nước bước của
đoàn hộ giá.
Đêm 1/11/1888, Trương Quang Ngọc và Nguyễn Đình Trình đã dẫn
theo khoảng 20 tên phản bội bất ngờ tập kích vào nơi ở của Vua Hàm Nghi.
Trương Quang Ngọc đã đâm chết Thống chế Nguyễn Thuỳ và con trai ông. Tôn
Thất Thiệp cũng bị một tên phản bội khác là Cao Viết Lượng giết chết. Vua
Hàm Nghi bị bắt. Trước khi bị giải nộp cho viên Đại uý Pháp Boulangier, Vua
Hàm Nghi đã nói với Trương Quang Ngọc: “Ngươi hãy giết ta đi, còn hơn nộp
ta cho quân Pháp”. Từ đó, mang thân phận một người chiến bại, nhà vua vẫn
thường xuyên tỏ thái độ bất hợp tác với Pháp. Ngày 12/12/1888, ông bị thực
dân Pháp đày sang Algérie ở Bắc Phi.
Tại Alger, thủ đô của Algérie, ông hoàng mất ngôi được bố trí sống tại
Villa des Pins (Biệt thự Ngàn thông) khá tiện nghi. Cuộc sống của ông không
đến nỗi chật vật. Rất đông các nhân vật có thế lực trong chính quyền sở tại, các
văn nhân, nghệ sĩ tên tuổi trong vùng thường đến làm khách tại nhà ông. Mang
tinh thần bài Pháp cực đoan và nặng tình cố quốc, mỗi khi tiếp khách, ông vẫn
khăn vấn áo the và nói chuyện với các “ông Tây” bằng… tiếng Việt, thông qua
người phiên dịch tên là Trần Bình Thanh. Phải mất đúng một năm sau, khi nhận
ra rằng người Pháp sở tại không hề “đáng ghét” như những người Pháp thực dân
ở cố hương, nhà vua mới thay đổi quan niệm. Ông bắt đầu học tiếng Pháp, học
văn hoá, đọc sách của “Tây dương”. Cần mẫn và thông minh, nhà vua tiến bộ
rất nhanh. Vài năm sau, ông đã trở nên rất giỏi tiếng Pháp và tỏ ra là một người
nghệ sĩ đa tài trong các lĩnh vực vẽ tranh, nặn tượng, từng tổ chức triển lãm cá
nhân.
Hơn 15 năm sau ngày định cư tại Alger, tháng 11/1904, cựu hoàng mới
lập gia đình. Ông cưới bà Marcelle Laloe (sinh năm 1884, người Pháp), con gái
của ngài Chánh án Toà án Alger. Thời gian không làm phai lạt nguồn gốc trong
tâm trí cựu hoàng. Ngày cưới, chú rể vẫn khăn đóng áo dài.
Bà Laloe lần lượt sinh hạ cho ông 3 người con, đều mang tên Việt là
Công chúa Như Mai, sinh năm 1905, Công chúa Như Lý, sinh năm 1908 và
Hoàng tử Minh Đức, sinh năm 1910. Vị hoàng tử này đã chọn binh nghiệp làm
sự nghiệp, từng tốt nghiệp Trường võ bị Sant Cyr năm 1935 và phục vụ trong
quân đội Pháp suốt 10 năm sau đó.
Hai cô con gái Như Mai, Như Lý cũng được gửi sang Pháp ăn học
trong nhiều năm. Công chúa Như Lý sau đó đã kết hôn với một quý tộc người
Pháp, trở thành bà Bá tước De La Besse và theo chồng về sống tại lâu dài De La
Nauche ở làng Thonac thuộc vùng Vigeois. Ngoại trừ những người trong gia
đình, hầu như không mấy ai trong làng biết bà Bá tước De La Besse đã từng là
một công chúa của đất nước An Nam xa xôi.
Bà Mộng Điệp (trái) và con gái Phương Thảo trong buổi gặp với phóng
viên Tiền phong chiều 12/11.
Ảnh: Minh Tuấn
-----------------
Tiền phong có cuộc trò chuyện cùng bà Mộng Điệp.
Quê ở Bắc Ninh nhưng lớn lên và học tại Hà Nội. Đã bao lâu bà mới
trở lại đây?
Đã lâu lắm, hơn 50 năm rồi tôi mới trở lại Hà Nội. Hơn chục năm
trước, tôi có về nước nhưng chỉ về Huế rồi đi ngay, chưa thăm được Hà Nội.
Nhà tôi hồi trước ở sau khu Đấu xảo. Bây giờ thay đổi, tôi chả biết đi đâu, hỏi
thăm thì người ta bảo: “Thưa bà lúc đó chưa có chúng con”. Chỉ đi dọc đường
nhìn cây Hà Nội. Nhớ nhà lắm. Hà Nội đông người hơn nên đông đúc chật chội
hơn ngày xưa. Lúc tôi đi cả nước chỉ có 25 triệu người.
Được biết, bà muốn về định cư tại Hà Nội?
Về thì muốn về lắm, nhưng nhà cửa tôi chẳng còn gì. Người thân cũng
chẳng còn. Tôi năm nay 84 tuổi. Lần này về Việt Nam cùng con gái là Phương
Thảo, con rể và em nuôi.
Thông tin về Việt Nam đến với bà có nhiều không?
Có chứ. Bà con đi về ai cũng cho tôi thông tin. Tôi biết hết nhưng
không có cơ hội về. Bây giờ về, nửa buồn nửa vui. Cây cỏ vẫn xanh rì, đẹp. Tôi
vừa đi xem hồ Tây và hồ Trúc Bạch. Lúc nào được về ở hẳn thì tốt hơn. Người
mình bao giờ cũng vậy. Chỉ mong được chết trên mảnh đất của mình.
Hôm gặp lãnh đạo UBND TP Hà Nội, tôi mệt nên con gái đi thay. Họ
chưa thể quyết định. Nhưng về thì tôi muốn về. Tôi đi lâu quá rồi, do hoàn cảnh,
địa vị bắt buộc.
Tôi đi từ trước khi trận Điện Biên Phủ diễn ra cơ mà. Tôi lúc đó có
mang, sang Pháp để mổ rồi bị kẹt lại. Sự thật là như vậy. Tôi đã mất hai người
con trai là Bảo Hoàng và Bảo Sơn. Đáng lẽ tôi đã có 5 người con.
Nhiều tài liệu nói, những ngày cuối cùng của Bảo Đại trên đất Pháp là
những ngày rất buồn. Bà có ý kiến gì?
Có nhiều chuyện bên đó lắm, nói mấy ngày cũng không hết. Tôi không
muốn nói về những ngày ấy. Khúc buồn ấy nên để lịch sử phán xét, không nói
trước được.
Khi ông ấy lấy bà Monique Marie Eugene Baudot (vốn là một nhân
viên buồng phòng khách sạn), chúng tôi không liên hệ nữa. Còn gì liên quan
đâu. Nhưng con cái bà Nam Phương thì có.
Bên kia, bà còn lưu giữ nhiều tài liệu về cựu hoàng Bảo Đại không?
Không có, thời Ngô Đình Diệm mấy người chạy loạn nên mất hết. Tôi
chỉ có đôi chút tư liệu, thư từ về cuộc đời của tôi với ông ấy thôi. Còn tài liệu
chính trị thì tôi không biết.
Vừa rồi, có một hội thảo lớn đánh giá lại công lao của triều Nguyễn. Bà
có quan tâm không?
Nói thật tôi lớn tuổi rồi, dính líu gì nữa đâu, để cho những người trẻ họ
bàn. Tôi sắp “tạch” rồi (cười).
Cuộc sống của bà tại Paris thế nào?
Không có gì sáng đẹp lắm đâu. Sống phải ngoại quốc không phải như
người mình. Cái gì mình cũng phải tự làm lấy. Ở đây không có tiền mình cũng
sướng, cái gì cũng dễ dàng hơn.
Ở ngoại quốc dù có tiền cũng khổ, không có người làm, không có trăm
thứ. Từ lâu tôi đã phải sống như thế, khó khăn thì nhiều lắm. Lúc đầu mới sang
tôi cũng kinh doanh bằng cách mua nhà cũ, sửa chữa rồi bán.
Giờ đây, tôi đã có cháu có chắt nhưng không thể gọi là tứ đại đồng
đường, vì mỗi người sống một nơi. Tôi và Phương Thảo- mỗi người sống một
đầu Paris.
Tại Pháp, có ai biết bà từng là thứ phi của hoàng đế Bảo Đại?
Có, nhưng tôi giấu vì không muốn người ta làm phiền. Mình cứ thu lại,
để sống cho yên thân. Sống ở nước ngoài phải liệu cái thân mình, tức là phải
theo mà sống, chứ không như trong nước mình muốn làm gì thì làm.
Xin cảm ơn bà.
Trích:
Chị Phương Thảo - con gái bà Mộng Điệp cho biết, chị đã hợp tác với
UNESCO trong việc tu tạo lăng Minh Mệnh tại Huế. Theo bà Mộng Điệp, bà và
gia đình vẫn liên hệ với hoàng tộc. Những người này lập hội hoàng tộc, nhưng
cũng không am hiểu nhiều về Bảo Đại và những câu chuyện của triều Nguyễn.
http://www.tienphong.vn/Tianyon/Inde…48&ChannelID=7
Thứ phi của vị vua cuối cùng triều Nguyễn qua đời
(Dân trí) - Nhà nghiên cứu Huế - Nguyễn Đắc Xuân cho biết, bà Bùi
Mộng Điệp, thứ phi của cựu hoàng Bảo Đại - vị vua cuối cùng triều Nguyễn
vừa qua đời vào ngày 26/6 tại Pháp sau ca phẫu thuật tim không thành công.
Hoàng nữ Phương Thảo con gái của Cựu hoàng Bảo Đại vừa điện về
cho biết, bà Bùi Mộng Điệp 87 tuổi, một trong những “thứ phi” của Cựu hoàng
Bảo Đại đã qua đời vào lúc 12 giờ ngày chủ nhật 26.6 tại bệnh viện Saint
Antonie Pháp sau ca phẫu thuật tim không thành công.
Bà Mộng Điệp (quê ở Bắc Ninh) là vợ thứ 2 của vua Bảo Đại, mẹ của 2
hoàng nam Bảo Sơn, Bảo Hoàng và hoàng nữ Phương Thảo. Tuy không được
học hành nhiều, vào làm dâu nhà Nguyễn vào thời kỳ đã suy tàn nhưng “thứ
phi” Mộng Điệp trước sau như một vẫn giữ vững cung cách của một “bà phi”.
Năm 1953, trong lúc chiến tranh xảy ra bà Mộng Điệp được Bảo Đại
giao nhiệm vụ mang cặp ấn kiếm và một số báu vật triều Nguyễn qua Pháp giao
cho Hoàng hậu Nam Phương.
Lúc đầu bà mướn nhà ở gần lâu đài Thorenc, sau đó lên Paris định cư
cho đến ngày mất. Những năm cuối đời bà có nguyện vọng được về sống tại quê
nhà, khi trăm tuổi được an táng gần cạnh lăng mộ Đức Từ Cung và hiến tặng
những tài liệu, hiện vật của cựu hoàng Bảo Đại. Tuy nhiên, do tuổi già sức yếu,
nguyện vọng của bà chưa thể thực hiện được.
Thứ phi Bùi Mộng Điệp - Ảnh tư liệu của nhà nghiên cứu Huế -
Nguyễn Đắc Xuân.
Được biết, ngày 1/7 tới, thi thể của bà Mộng Điệp sẽ được mai táng tại
nghĩa trang Thiais ở Paris, nơi đã có phần mộ của Bảo Sơn và Bảo Hoàng.
Đồng thời, dự kiến vào 10h sáng cùng ngày tại phủ Kiên Thái Vương (TP Huế)
sẽ diễn ra lễ cầu siêu bà Mộng Điệp.
Vợ chính của vua Bảo Đại là hoàng hậu Nam Phương (quê ở Gò Công,
Tiền Giang). Trong quãng đời trị vị vương triều cuối cùng nhà Nguyễn, vua Bảo
Đại có nhiều vợ và người tình. Theo tác giả Lý Nhân Phan Thứ Lang trong cuốn
sách “Giai thoại và sự thật về Bảo Đại, vua cuối cùng triều Nguyễn” - NXB Văn
Nghệ TP HCM (2006) thì ngoài Nam Phương Hoàng Hậu và Bùi Mộng Điệp,
vua còn có những người sau: Monique Marie Eugene Baudot (Pháp), có hôn
thú, không có con; Lý Lệ Hà (quê Thái Bình), vũ nữ, không hôn thú, không có
con; Hoàng Tiểu Lan (Jenny Woong), vũ nữ Trung Hoa tại Pháp, không hôn
thú, có 1 con gái; Lê Thị Phi Ánh (Huế), không hôn thú, có 2 người con; Vicky
(Pháp), không hôn thú, có 1 con gái...
Đại Dương
______________________
Ngày 26/6 tại Pháp, bà Mộng Điệp, thứ phi của vua Bảo Đại đã qua
đời, thọ 87 tuổi. Dù có 3 người con với Bảo Đại, nhưng những năm cuối đời, bà
thứ phi phải sống trong cô quạnh nơi đất khách.
Là người chuyên nghiên cứu về triều Nguyễn, nhà nghiên cứu Huế
Nguyễn Đắc Xuân đã nhiều lần sang Pháp tìm gặp bà Mộng Điệp.
"Bà Mộng Điệp còn lưu giữ nhiều tài liệu quý về cựu hoàng Bảo Đại.
Dù xa quê hương bà vẫn lo hương khói cho Đức Từ Cung và vua Bảo Đại trong
chính căn nhà của mình trên đất Pháp", ông Xuân nói.
Theo ông Xuân, sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí
Minh mời cựu hoàng Bảo Đại ra Hà Nội làm cố vấn cho Chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa. Một trí thức ở đây đã sắp xếp cho bà Mộng Điệp gặp Bảo
Đại.
Sinh năm 1924 tại Bắc Ninh, bà Điệp từng có một đời chồng, một con
trai. Nhưng nhan sắc mặn mà của người phụ nữ Kinh Bắc đã khiến cựu hoàng
vội quên lời hứa "một vợ một chồng" với hoàng hậu Nam Phương. Lời hứa này
đã được ông thực hiện suốt thời gian ngồi trên ngai vàng (1932-1945).
Cựu hoàng và bà Mộng Điệp về chung sống tại căn hộ số 51 đường
Trần Hưng Đạo. Tháng 3/1946, cựu hoàng Bảo Đại được Hồ Chủ tịch cử sang
Trung Quốc và lưu lại nước ngoài trong một sứ mệnh ngoại giao. Ở Hà Nội bà
Mộng Điệp sinh hoàng nữ Phương Thảo.
Bà đã cùng bác sĩ Phạm Ngọc Thạch đem tiền vàng sang Hong Kong
cho Bảo Đại tiêu dùng và về lại Việt Nam trong hoàn cảnh chuẩn bị chiến tranh.
Khi Pháp chiếm Hà Nội bà bị bắt, nhưng nhờ sự phản đối của cựu hoàng Bảo
Đại ở nước ngoài nên bà được trả tự do.
Ở nước ngoài, không chịu được thử thách của hoàn cảnh Bảo Đại trở
lại cộng tác với Pháp năm 1948, làm Quốc trưởng Chính phủ Quốc gia. Năm
1949, bà Mộng Điệp được đón lên Đà Lạt, rồi lên Buôn Mê Thuột giúp tổ chức
đời sống cho cựu hoàng ở Tây Nguyên.
Quãng thời gian ở Buôn Mê Thuột (1949-1953) là những tháng ngày bà
Mộng Điệp và cựu hoàng Bảo Đại sống hạnh phúc nhất. Nhờ tài tổ chức đời
sống, tháo vát, biết lái xe hơi, cưỡi voi, đi săn nên bà rất hợp với ông vua thích
săn bắn.
Mặc dù làm vợ thứ và không được tổ chức cưới xin nhưng nhờ chăm lo
việc thờ cúng tổ tiên của hoàng tộc rất chu đáo nên bà Mộng Điệp luôn được
Đức Từ Cung quý mến. Bà cũng được ban áo mũ để thay mặt Hoàng hậu Nam
Phương trong các cuộc tế lễ (vì bà Nam Phương là người theo Thiên Chúa
giáo).
Năm 1953, bà được Bảo Đại giao nhiệm vụ mang cặp ấn kiếm và một
số báu vật của triều Nguyễn qua Pháp giao cho Hoàng hậu Nam Phương. Hoàn
thành nhiệm vụ nhưng do chiến tranh ác liệt, bà ở lại luôn bên đó.
Trên đất Pháp, bà tiếp tục có với Bảo Đại hai người con trai, đặt tên là
Bảo Hoàng (sinh được một năm thì mất) và Bảo Sơn. Cuộc sống nơi đất khách
có lúc khó khăn về kinh tế nhưng bà sống tự lập, không nhờ vả đến sự giúp đỡ
của chính phủ Pháp.
Khi cựu hoàng Bảo Đại đi theo những tình nhân và những cuộc vui thì
chính các con là nguồn hạnh phúc lớn nhất với bà. Thế nhưng Bảo Sơn, người
con bà Mộng Điệp yêu quý và tự hào nhất khi tốt nghiệp các trường mũi nhọn
kỹ thuật của Pháp lại bị tai nạn năm 1987, khi mới ngoài 30 tuổi. Con gái
Phương Thảo thì bị bệnh tim, suýt chết nhiều lần.
Trong phòng khách của bà ở quận 12, Paris lúc nào cũng được trang trí
một bức tranh lớn do họa sĩ người Pháp vẽ vua Bảo Đại khi ông mới lên làm
vua cùng nhiều đồ cổ của nhà Nguyễn. Trên bàn thờ tổ tiên, ở vị trí trung tâm,
bà Mộng Điệp dành thờ bà Từ Cung, vua Bảo Đại và hai người con trai của
mình. Nhưng quan trọng nhất là tờ giấy quy y Phật giáo của vua Bảo Đại (quy y
tại chùa Bảo Quốc Huế).
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân cho biết, những năm tháng cuối đời,
bà Mộng Điệp sống trong cô quạnh. Bà từng mong được về sống tại quê nhà để
khi khuất núi sẽ được táng gần lăng mộ Đức Từ Cung ở Huế, nhưng cuối cùng
không thực hiện được.
Mới đây, bà bị ngã gây chấn thương ở cổ. Khi phẫu thuật tại Bệnh viện
Saint Antoine, các bác sĩ phát hiện bà bị bệnh tim nên cuộc phẫu thuật không
thành công. Bà qua đời lúc 12h trưa chủ nhật 26/6, thọ 87 tuổi. Bà sẽ được an
táng tại nghĩa trang Thiais ở Paris, nơi có mộ phần của hai người con trai vào
sáng 1/7.
Tại Việt Nam, vào 10h sáng mai, Phủ Kiên Thái Vương (Huế) sẽ tổ
chức lễ cầu siêu cho bà.
Văn Nguyễn
______________________
Người hầu cận vua Bảo Đại ở Đà Lạt
Thứ sáu, 1/12/2006, 14:33 GMT+7
Mười ba tuổi Nguyễn Đức Hòa đã vào cung giúp việc cho thái hậu Từ
Cung ở Huế. Năm 1949, ông theo hầu vua Bảo Đại ở Đà Lạt. Qua bao năm
tháng và biến cố, đến tận bây giờ, đã 78 tuổi ông vẫn gắn bó với Dinh 3, Đà Lạt,
cần mẫn với việc gìn giữ những kỷ vật nơi này.
Ông Nguyễn Đức Hòa, người hầu cận thái hậu Từ Cung, vua Bảo Đại.
Giọng gốc Huế nhè nhẹ và chậm rãi, ông Hòa kể: "Năm lên 13 tuổi, vì
nhà nghèo nên tôi xin vào cung Diên Thọ (Huế) giúp việc". Lúc ấy, nhờ có
người bác họ trông coi đội kỵ mã cho vua Bảo Đại giới thiệu nên ông Hòa mới
được lọt vào. Ông Hòa bảo rằng mình con nhà nghèo ở quê, được vào làm việc
trong cung vua như trúng phải vàng.
Lúc đầu vào cung chỉ làm những công việc sai vặt của thái hậu Từ
Cung, mỗi tháng chỉ được trả vài chục đồng không đáng kể, nhưng có công ăn
việc làm từ nhỏ là ổn. Ông Hòa cho biết, những năm tháng phục vụ thái hậu Từ
Cung ở Huế được bà yêu quý nên mỗi khi đi đâu cũng gọi ông Hòa theo.
Năm 1949, Pháp đưa vua Bảo Đại về Đà Lạt, thái hậu Từ Cung sai
Nguyễn Đức Hòa theo vào phục vụ vua. Khi ấy cùng đi với ông Hòa cả thảy có
20 tùy tùng, nhưng ông được giao nhiệm vụ chính. Ông Hòa kể rằng, vua Bảo
Đại rất thích săn bắn, lần nào đi cũng có ông Hòa theo giúp việc.
Có đợt vua Bảo Đại đi săn tận Đắk Lắk cả tháng mới về. Mỗi chuyến đi
săn dài ngày của vua Bảo Đại rất bài bản, tháp tùng đoàn gần 20 người gồm bộ
phận nấu ăn, phục vụ nghỉ ngơi, mang vũ khí và lái xe... Có khi vua Bảo Đại đi
săn trong rừng bằng voi. Thế mới có thời kỳ Bảo Đại được một thượng khách
biếu một con voi trắng rất quý để đi chơi. Nhưng sau đó con voi này đã đi mất
vào rừng...
Ngoài thú săn bắn, vua Bảo Đại cũng có khá nhiều phụ nữ gần gũi,
nhưng trong đó có 3 phụ nữ gắn duyên nhiều nhất là Mộng Điệp, Ra Ni và Phi
Ánh. Ông Nguyễn Đức Hòa kể rằng, mình được vua quý nên hay giao nhiều
việc và cả chuyện gần gũi nhất với vua như chuẩn bị giường gối để vua ngủ...
Ngày Nguyễn Đức Hòa cưới vợ, vua Bảo Đại cho 2.000 đồng (lúc này
là một khoản tiền khá lớn). Không chỉ phục vụ thái hậu Từ Cung, vua Bảo Đại
mà sau này Dinh 3 được tiếp quản qua các thời kỳ như Ngô Đình Diệm, Dương
Văn Minh, Nguyễn Văn Thiệu và sau ngày đất nước hoàn toàn độc lập 1975 đến
giờ, ông Nguyễn Đức Hòa vẫn luôn được giữ lại làm người phục vụ ở đây.
Ông Hòa kể, hồi năm 1954, bà Trần Lệ Xuân, vợ Ngô Đình Nhu có sai
người hầu dọn một số vật dụng từ Dinh 3, Đà Lạt về Sài Gòn phục vụ cho bà
nhưng ông không dám cản. Nguyễn Đức Hòa cũng chính là người trao 2 két sắt
đựng nhiều vật quý, châu báu ngọc ngà của thái hậu Từ Cung cho chính quyền ở
Lâm Đồng sau này...
Cuộc đời ông "gắn duyên" với nghề như định mệnh. 78 tuổi đời, 65
năm phục vụ dinh vua mà bây giờ cả gia đình ông vẫn "bám trụ" với một căn
nhà tập thể bên Dinh 3, Đà Lạt từ thời Bảo Đại đến giờ. Sau ngày nghỉ hưu, ông
Hòa vẫn được giữ lại làm hợp đồng ở Dinh 3, phục vụ du khách đến đây tham
quan. Hàng ngày ông vẫn luôn sẵn sàng với những công việc cắm hoa, sửa soạn
bàn ghế, sắp xếp thật ngăn nắp ở các phòng trong dinh cho thật đẹp và giữ được
nét đặc trưng như thời vua Bảo Đại ở.
Ngày ngày, hàng ngàn lượt khách đến Dinh 3, Đà Lạt vẫn luôn bắt gặp
một ông lão với tác phong điềm đạm giới thiệu cho du khách hiểu về ngọn
nguồn từng diễn ra ở dinh. Nếu nói về Dinh 3, có lẽ bây giờ không còn ai khác,
ngoài ông Nguyễn Đức Hòa - nhân vật lịch sử sống còn sót lại ở đây.
Năm nay đã bước sang tuổi 78, tuy đôi tai hơi nặng bởi tuổi tác về già,
nhưng ông Nguyễn Đức Hòa vẫn không bao giờ tự thỏa mãn với cách phục vụ
của mình mà vẫn luôn thấy cần phải sửa, học thêm nữa để chu tất hơn trong
công việc. Ông vừa kể chuyện, cắm hoa, giới thiệu du khách tham quan đều đều
mỗi ngày. Một đời làm người phục vụ ở dinh, trải qua nhiều đời quản lý, ông
Nguyễn Đức Hòa nếm trải gần như đủ mọi thứ của cuộc đời, nhưng có điều ông
tâm niệm là làm cái gì, nghề gì cũng phải tận tâm, đam mê và trung thực.
Theo Đặng Ngọc
______________________
Ngôi nhà lưu niệm của Hoàng Thái hậu Từ Cung
TPCN - Ngôi biệt thự có số nhà 79B, nay đổi số mới là 147, ở đường
Phan Đình Phùng – thành phố Huế, hướng mặt tiền ra sông Lợi Nông (sông An
Cựu) từ vài chục năm nay người Huế quen gọi là nhà Đức Từ Cung.
Sân quần vợt của vua Bảo Đại trước khi phục hồi. (Ảnh: H.V.M)
Tại kinh đô Huế, chính vua Bảo Đại đã cho xây dựng đến ba sân quần
vợt ở ba địa điểm khác nhau. Đặc biệt, chính Bảo Đại là người cho xây dựng
sân vận động Tự Do của Huế - sân vận động đầu tiên của Đông Nam Á có lòng
chảo để tổ chức đua xe đạp. Trước khi đổi thành Tự Do, sân có tên là Bảo Long
và cũng được khánh thành vào năm 1936, khi hoàng tử Bảo Long - con cả của
vua Bảo Đại và Nam Phương Hoàng hậu chào đời.
Sân có nền bằng bê tông trên diện tích 43,60x18,30m. Bên ngoài sân có
một dải sân phụ chạy bao quanh. Sân chia thành hai phần: phần trong hình chữ
nhật, kích thước 29,80x11,50m, phần ngoài cũng hình chữ nhật, kích thước
43,60x18,30m.
Mặt sân lát bê tông dày 12cm, trong đó lớp vữa trên bề mặt dày 2cm.
Lớp này gồm hai phần, dưới màu trắng ngà, làm bằng xi măng và cát thô, lớp
trên mịn hơn, màu đỏ huyết. Sân có 6 cột đèn điện chiếu sáng và hiện 5 cột còn
khá nguyên vẹn.
Đặc biệt, sân không có mái che, lưới bao, khán đài, phòng thay quần áo
hay những thiết bị mang tính chuyên nghiệp khác.
Trở lại với sân quần vợt trong Đại nội. Trong cuốn hồi ký Le Dragon
D’AnNam (Con Rồng An Nam), Bảo Đại từng viết: “Tôi còn nhiều thời giờ
rảnh để hoạt động về thể thao. Đầu tiên là chơi quần vợt. Chẳng những tôi chỉ
có chơi cho cá nhân tôi, mà còn khuyến khích thành phong trào ở Việt Nam. Vì
vậy, tôi đặt ra một “Cup” mang tên tôi. Cup này theo thể lệ như Cup Davis, và
được thực hiện chẳng phải chỉ có ở Trung kỳ, mà còn ở Bắc Kỳ và Nam Kỳ và
thêm cả Lào và Miên nữa”.
Trên báo “Trong Khuê Phòng”, xuất bản tại Sài Gòn (số tháng 3/1936),
tác giả A.M (Nguyễn Tiến Lãng) đã viết một đoạn liên quan đến sân quần vợt
và sở thích quần vợt của Bảo Đại rất thú vị: “Ten - nít cũng là một sở thích của
nhà vua. Ngài là một cây vợt cứng, có thể đối thủ với Nhánh hay Nữa (là hai tay
vợt nổi danh Đông Dương thời đó). Trong Nội thành có làm sân Ten - nit, khi
nào không đi thuyền, Đức Bảo Đại hay tập dượt với ông Nguyễn Duy Quang
hoặc với cô Yến, vô địch Trung Kỳ. Ngài đã đặt ra cúp Bảo Đại cũng vì ham mê
quần vợt...”.
Trong cuốn “Bảo Đại vị vua cuối cùng của triều Nguyễn”, tác giả Lý
Nhân Phan Thứ Lang cho biết mối tình của vua Bảo Đại và cô Nguyễn Hữu Thị
Lan (Nam Phương Hoàng hậu sau này) cũng bắt đầu từ những rung động khi cả
hai cùng chơi tennis ở Đà Lạt. Điều này cũng được Bảo Đại thừa nhận trong
cuốn “Con Rồng Annam”.
Và không chỉ có Nam Phương Hoàng hậu, theo tác giả Lý Nhân Phan
Thứ Lang: Sau năm 1945, khi đã thoái vị và trở thành “công dân Vĩnh Thuỵ”,
được Bác Hồ mời ra sống ở Hà Nội, cũng trên sân quần vợt, Bảo Đại gặp và yêu
một vũ nữ tên là Bùi Mộng Điệp. Hai người có với nhau một người con gái tên
là Phương Thảo.
Sau năm 1949, khi được người Pháp đưa trở lại Việt Nam với chức
Quốc trưởng, “đóng đô” ở Đà Lạt, Bảo Đại cho sửa sang lại dinh Công sứ ở
Buôn Mê Thuột để đón Mộng Điệp lên ở. Hàng tuần, Bảo Đại từ Đà Lạt lên đó
nghỉ ngơi và đánh quần vợt với Mộng Điệp. Bởi vậy thời gian đó, trong dân
gian đã xuất hiện một bài thơ mỉa mai về trò quần vợt của Bảo Đại với Mộng
Điệp và những người đẹp khác:
“Cuộc chơi bày đặt từ phương Tây
Tơ - nit vừa lòng cả gái trai
Banh nắm hai hòn nhồi đúng điệu
Vợt cầm một cán đánh cho hay
“Cúp - pê” sát lưới nằm trong mức
“Xì - mách” vô khuôn chớ xỉa ngoài
Rồi “xét” mồ hôi ra ướt áo
Xệ đùi, mỏi gối lại phồng tay”.
Phục hồi sân tennis chỉ để xem
Sân quần vợt của Bảo Đại trong Đại nội được phục hồi theo hướng
trùng tu thích nghi (bổ sung thêm một số chi tiết và tiêu chuẩn của sân quần vợt
mới), với tổng mức đầu tư gần 400 triệu đồng. KTS Phùng Phu - Giám đốc
Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế cho rằng: “Đây là một di tích đặc biệt
quan trọng tại khu vực Tử cấm thành, gắn liền với đời sống sinh hoạt mang cách
tân của vị hoàng đế cuối cùng của triều Nguyễn”.
Sân quần vợt của vua Bảo Đại sau khi phục hồi
Việc phục hồi và đưa vào sử dụng sân quần vợt của vua Bảo Đại sẽ góp
phần tăng sức hấp dẫn về du lịch của khu vực Đại Nội, tạo một sân chơi mới
hấp dẫn đối với các đối tượng là thương gia, chính khách trong nước và quốc tế
khi đến thăm Huế.
Tuy vậy, theo KTS Phùng Phu thì vấn đề chính là ý nghĩa văn hoá của
công trình chứ không phải là việc sử dụng, khai thác nó như thế nào. “Sân quần
vợt của vua Bảo Đại cũng là một phần của điện Kiến Trung (nơi ở chính của gia
đình vua Bảo Đại hiện đã bị sập do chiến tranh). Cho nên khi cho phục hồi sân
quần vợt này, chúng tôi coi đây như là việc đặt nền móng, hướng đến việc phục
dựng lại điện Kiến Trung sau này” - ông nói. (Còn tiếp)
Theo Hoàng Văn Minh
______________________
Quốc ấn của vua Bảo Đại lưu lạc ở Pháp?
Cập nhật lúc 31/03/2011 06:25:00 AM (GMT+7)
Sau khi Hoàng hậu Nam Phương qua đời (1963), quốc ấn Hoàng đế
Chi Bửu nằm trong tay Hoàng thái tử Bảo Long. Khoảng năm 1982, sau ngày
Bảo Đại làm giấy hôn thú với bà Monique Baudot (người Pháp), ông nhận lại
chiếc ấn từ con trai mình. Từ đó, không còn thấy ai nhắc gì tới chiếc ấn này nữa.
Ông hoàng Bảo Đại tên húy là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy, sinh ngày
22/10/1913 (ngày 23 tháng 9 năm Quý Sửu) tại Huế. Với chiếc ấn Hoàng đế Chi
Bửu, vị hoàng đế cuối cùng của nhà Nguyễn đã ban hành nhiều chiếu chỉ
cải cách triều chính.
Cụ thể, năm 1926, sau khi lên ngôi, vua Bảo Đại đã ra chiếu chỉ cho bỏ
một số tập tục mà các tiên vương đã bày ra như: thần dân không phải quỳ lạy
mà có thể ngước nhìn long nhan nhà vua khi nhà vua tới; mỗi khi vào chầu các
quan Tây không phải chắp tay xá lạy mà chỉ bắt tay vua; các quan ta cũng
không phải quỳ lạy...
Năm 1932, cũng với chiếc ấn này, Bảo Đại đã ban hành một đạo dụ cải
tổ nội các, quyết định tự mình chấp chính và sắc phong các thượng thư xuất
thân từ giới học giả và hành chính. Ông thành lập Viện Dân biểu trình bày
nguyện vọng lên nhà vua và quan chức bảo hộ Pháp và cho phép Hội đồng tư
vấn Bắc Kỳ được thay mặt Nam triều trong việc hợp tác với chính quyền bảo
hộ, tháng 12 năm 1933, Bảo Đại ngự du Bắc hà thăm dân chúng…
Tiếp đó, năm 1934, Bảo Đại làm đám cưới với Marie Thérèse Nguyễn
Hữu Thị Lan và tấn phong bà làm Nam Phương Hoàng hậu. Đây là một việc
làm phá lệ bởi vì kể từ khi vua Gia Long khai sáng triều Nguyễn cho đến vua
Khải Định, các vợ vua chỉ được phong tước Vương phi, sau khi mất mới được
truy phong Hoàng hậu.
Quốc ấn Ấn Hoàng đế Chi Bửu.
Sau khi Nhật đảo chính Pháp và tuyên bố trao trả độc lập cho Việt
Nam, ngày 11 tháng 3 năm 1945, Bảo Đại ra đạo dụ Tuyên cáo Việt Nam độc
lập, tuyên bố hủy bỏ Hòa ước Patenôtre ký với Pháp năm 1884, khôi phục chủ
quyền Việt Nam....
Chiếc ấn đỏ từng hiện diện trên hàng ngàn văn bản thể hiện sức mạnh
quyền uy của vị vua thứ 13 triều Nguyễn cũng như số phận của vị đế
vương. Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công. Bảo Đại thoái vị. Tự tay
ông đã trao quốc ấn Hoàng đế Chi Bửu và thanh kiếm bạc nạm ngọc cho đại
diện của chính phủ lâm thời. Hoàng đế Bảo Đại trở thành công dân Vĩnh Thụy
và quốc ấn Hoàng đế Chi Bửu từ đây cũng như trở thành "cổ vật".
Số phận long đong của Hoàng đế Chi Bửu
Theo nhiều tài liệu ghi lại, năm 1952, khi Pháp tấn công Hà Nội, ấn
Hoàng đế Chi Bửu và kiếm ngọc được chính phủ cách mạng lâm thời chôn ở
Bắc Bộ phủ, không mang ra chiến khu.
Nguyễn Phúc Vĩnh Cẩn (阮福永𧯢; sinh 1914), người bạn tâm giao
của Bảo Đại và là người được Bảo Đại tin tưởng nhất
Nguyễn Hữu Hào, mẹ là Lê Thị Bính, cháu ngoại của Lê Phát Đạt (tục gọi
là Huyện Sỹ) ở Nam Kỳ, là người giàu nhất nước Việt Nam những năm đầu của thế kỷ
20
Hoàng tử Vĩnh Cẩn và Vua Bảo Đại tại nhà ông Charles, cựu khâm sứ Trung Kỳ, cha
đỡ đầu của Bảo Đại trong 10 năm du học tại Pháp. Hình chụp năm 1926 khi vua Khải Định đã
mất, và Bảo Đại sau khi về Huế chịu tang và làm lễ đăng quang đã trở lại Pháp học tiếp, đến
năm 1932 mới về nước.
Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy sinh ngày 22 tháng 10 năm 1913 tại kinh
thành Huế, là người con trai duy nhất của vua Khải Định, mẹ là Hoàng Thị Cúc.
Về thân thế của Bảo Đại cho đến nay vẫn còn nhiều nghi ngờ, vì Khải Định bị
mang tiếng là bất lực và không thích gần đàn bà
Ngày 28 tháng 4 năm 1922, khi được 9 tuổi, ông được xác lập làm
Đông cung Hoàng Thái tử. Ngày 15 tháng 6 năm 1922, ông cùng Khải Định lần
đầu sang Pháp để thưởng ngoạn cuộc triển lãm hàng hóa tại Marseille, Pháp.
Tháng 6 năm 1922, Vĩnh Thụy được vợ chồng cựu Khâm sứ Trung kỳ
là Jean François Eugène Charles nhận làm con nuôi và học ở trường Lycée
Condorcet rồi sau ở trường Sciences Po (École libre des sciences politiques),
Paris. Tháng 2 năm 1924, ông về nước để dự Lễ tứ tuần đại khánh của Khải
Định, đến Tháng 11 trở lại nước Pháp để tiếp tục học.
Ngày 6 tháng 11 năm 1925, Khải Định mất, Vĩnh Thụy về nước thọ
tang. Ngày 8 tháng 1, khi mới 12 tuổi, Vĩnh Thụy được tôn lên kế vị làm hoàng
đế kế nhiệm, ông lấy niên hiệu Bảo Đại. Tháng 3 cùng năm, Bảo Đại trở lại
Pháp để tiếp tục học tập. Từ niên khóa 1930, Bảo Đại theo học trường Khoa học
Chính trị (Sciences Po).
Sau 10 năm đào tạo ở Pháp, ngày 16 tháng 8 năm 1932, Bảo Đại xuống
tàu D Artagnan về nước. Ngày 19 tháng 9 năm 1932, Bảo Đại ra đạo dụ số một
tuyên cáo chấp chính và khẳng định chế độ quân chủ Đại Nam hoàng triều. Văn
bản này hủy bỏ "Quy ước" ngày 16 tháng 11 năm 1925 lập ra sau khi Khải Định
mất không lâu.
Ngày 28 tháng 4 năm 1922, khi được 9 tuổi, ông được xác lập làm
Đông cung Hoàng Thái tử. Ngày 15 tháng 6 năm 1922, ông cùng Khải Định lần
đầu sang Pháp để thưởng ngoạn cuộc triển lãm hàng hóa tại Marseille, Pháp.
______________________
Đôi dòng lịch sử Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy sinh ngày 22 tháng 10 năm
1913 tại kinh thành Huế, là người con trai duy nhất của vua Khải Định, mẹ là
Hoàng Thị Cúc. Về thân thế của Bảo Đại cho đến nay vẫn còn nhiều nghi ngờ,
vì Khải Định bị mang tiếng là bất lực và không thích gần đàn bà
Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy sinh ngày 22 tháng 10 năm 1913 tại Huế, là
người con trai duy nhất của vua Khải Định, mẹ là Hoàng Thị Cúc, sau là Từ
Cung Hoàng thái hậu, tức Từ Dũ. Ở Sài gòn có một bệnh viện mang tên bà
Ngày 28-4-1922, khi được 9 tuổi, Vĩnh Thuỵ được xác lập làm Đông
cung Hoàng Thái tử.
Ngày 15-6-1922, Vĩnh Thuỵ cùng cha là vua Khải Định lần đầu sang
Pháp để thăm Triển lãm thuộc địa tại Marseille, Pháp.
Đi cùng với Vĩnh Thuỵ là Hoàng thân Vĩnh Cẩn (sinh 1914), người mà
Vĩnh Thuỵ tin cẩn và thân thiết. Cả hai học cùng nhau ở Pháp.
Tháng 6-1922, Vĩnh Thụy được vợ chồng cựu Khâm sứ Trung kỳ là
Jean François Eugène Charles nhận làm con nuôi và học ở trường Lycée
Condorcet rồi sau ở trường Sciences Po (École libre des sciences politiques),
Paris. Tháng 2-1924, Hoàng tử Vĩnh Thuỵ về nước để dự Lễ tứ tuần đại khánh
của Khải Định, đến tháng 11-1924, ông trở lại nước Pháp để tiếp tục học.
Một năm sau, ngày 6-11-1925, vua Khải Định mất. Hoàng tử Vĩnh
Thụy về nước thọ tang.
Ngày 8-1-1926, khi mới 12 tuổi, Vĩnh Thụy được tôn lên kế vị làm
Hoàng đế kế nhiệm, ông lấy niên hiệu Bảo Đại.
Hai tháng sau, tháng 3-1926, Bảo Đại trở lại Pháp để tiếp tục học tập.
Từ niên khóa 1930, Bảo Đại theo học trường Khoa học Chính trị (École libre
des sciences politiques), Paris.
Sau 10 năm học hành ở Pháp, ngày 16-8-1932, Bảo Đại xuống tàu D
Artagnan về nước.
Ngày 19-9-1932, Bảo Đại ra đạo dụ số một tuyên cáo chấp chính và
khẳng định chế độ quân chủ Đại Nam hoàng triều. Văn bản này hủy bỏ "Quy
ước" ngày 16-11-1925 lập ra sau khi Khải Định mất không lâu.
______________________
Tàu Porthos của Hãng vận tải biển Messageries Maritimes từng đưa vua Khải Định đi
Pháp năm 1922 tại bến Nhà Rồng, Sài gòn
21-6-1922 - tàu Porthos của Hãng vận tải biển Messageries Maritimes đưa vua Khải
Định đi Pháp vừa cập cảng Marseille
21-6-1922 – quan chức Annam chờ đón vua Khải Định tại cảng Marseille
21-6-1922 – Bộ trưởng Bộ thuộc địa Albert Sarraut chờ đón vua Khải Định tại cảng
Marseille
21-6-1922 – Bộ trưởng Bộ thuộc địa Albert Sarraut đón vua Khải Định (cùng Hoàng
tử Vĩnh Thuỵ và Hoàng thân Vĩnh Cẩn) tại cảng Marseille
Từ Marseille, vua Khải Định (cùng Hoàng tử Vĩnh Thuỵ và Hoàng thân
Vĩnh Cẩn) đến Paris bằng xe lửa, xuống ga Bois de Boulogne, Paris
21-6-1922 –vua Khải Định (cùng Hoàng tử Vĩnh Thuỵ bước lên xe song
mã
______________________
Monique Baudot (30 tháng 4, 1946 - ?) tên đầy đủ là Monique Marie
Eugene Baudot, là một người vợ chính thức của cựu hoàng Bảo Đại ở Pháp[1].
Hai người có hôn thú nhưng không có con.
Monique Baudot là người Pháp sinh ra vào ngày 30 tháng 4 năm 1946.
Báo chí Pháp viết rằng, bà từng làm tuỳ viên báo chí làm việc tại Phòng Báo chí
của toà Đại sứ nước Cộng hòa Zair tại Paris. Các chính khách từng làm việc với
cựu hoàng và sau năm 1975 có nhiều dịp gặp ông, như tướng Trần Văn Đôn, thì
bảo Monique chỉ là một cô hầu phòng. Chính nhờ làm hầu phòng ở Cao ốc 29
Fresnel nên cô mới biết được có một "ông vua lưu vong" bệnh tật không người
lo, cô đến giúp đỡ và trở thành người thân cận nhất của cựu hoàng suốt mấy
thập niên cuối đời. Bà Monique như là một người bạn, mà những người không
ưa bà gọi bà là thư ký riêng, một quản gia hay một người hầu phòng của cựu
hoàng Bảo Đại.
Tại Paris khoảng năm 1971, Cựu hoàng và Baudot bắt đầu sống với
nhau. Hai người chính thức kết hôn ngày 18 tháng 1 năm 1982 tại quận 16,
Paris, ngay trước chuyến đi sang Hoa Kỳ của Bảo Đại. Trước kia, Bà Monique
kể lại: "Khi tôi đang làm Lãnh sự Danh Dự của nước Cộng Hòa Zair, Trung Phi,
thì tôi nghe nói cựu hoàng An Nam đang sống độc thân trong cơn túng bấn, gần
như bị bỏ rơi". Thế rồi bà đến với ông. Sau khi cưới, với tư cách là vợ chính
thức của cựu hoàng, bà tự nhận là Hoàng phi Vĩnh Thụy.
Bà có mẫu thuẫn với những người con của Bảo Đại. Do đó, trong thời
gian cuối đời, Bảo Đại bị các con của mình cô lập. Tuy bị các con của Bảo Đại
ghẻ lạnh nhưng hoàng nam Bảo Ân cũng công nhận bà cũng chăm sóc cho Bảo
Đại nhiều năm trời, chịu nhiều khổ cực.
Năm 1997, Bảo Đại hoàng đế qua đời, bà tự xưng tước vị là Thái
Phương hoàng hậu (泰芳皇后).
Cựu hoàng rơi vào bi kịch sống với gái điếm, cưới cô bồi phòng
Thứ Ba, 1/10/2013 07:10 GMT+7
Ngoài lâu đài Thorenc, Bảo Đại còn sở hữu nhiều dinh thự, nhà phố
trang trại sang trọng, có nhiều người tình đủ mọi quốc tịch, trong đó có ba bà vợ
người Pháp. Tất cả những người tình này đều để lại cho Bảo Đại những kỷ niệm
đắng cay. Cay nghiệt nhất là theo luật lệ của Pháp, người vợ chính thức của vua
Bảo Đại chỉ là một cô bồi phòng.
[links()]Ngoài lâu đài Thorenc, Bảo Đại còn sở hữu nhiều dinh thự, nhà
phố trang trại sang trọng, có nhiều người tình đủ mọi quốc tịch, trong đó có ba
bà vợ người Pháp. Tất cả những người tình này đều để lại cho Bảo Đại những
kỷ niệm đắng cay. Cay nghiệt nhất là theo luật lệ của Pháp, người vợ chính thức
của vua Bảo Đại chỉ là một cô bồi phòng.
Bảo Ðại và bà vợ Monique Baudot
Bảo Ðại và bà vợ Monique Baudot
Bê bối sống chung với gái điếm, gái bán ma túy
Nhưng sau khi bị Ngô Đình Diệm truất phế, “đế chế” Bảo Đại sụp đổ
tan tành. Hình ảnh về đôi giai nhân tài tử lúc nào cũng cặp kè bên nhau trong
những chuyến du ngoạn, những cuộc tiếp tân long trọng biến mất. Bà Nam
Phương sống riêng ở một toàn lâu đài khác cho đến khi qua đời. Bảo Đại tiếp
tục cuộc sống mờ nhạt ở Cannes. Do bài bạc hoang phí lâu đài Thorenc cũng bị
bán đi.
Bảo Đại mua một trang trại ở Alsace. Ông không bỏ được thú đi săn
bắn. Đối với ông đó là một nhu cầu thiết yếu, như thú đánh bạc. Nhu cầu đàn bà
cũng vậy. Trong những cuộc chung chạ đó ông sống với cô vợ “hờ” người Pháp
tên là Vicky mấy năm và sinh hạ được một con gái đặt tên là Phương Từ thì hai
người chia tay. Bảo Đại phải rời khỏi Alsace bỏ lại nhà cửa đồ đạc cho Vicky.
Theo lời kể của thứ phi Mộng Ðiệp, sau khi bị truất phế, ông đã có một
thời gian bị trầm uất, mất ngủ và phải dùng thuốc an thần. Bảo Đại hút thuốc lá
liên miên, và thường bỏ nhà đi “bụi đời”, không biết đi đâu, chỉ những lúc đau
ốm hay cạn tiền mới trở về với bà Mộng Ðiệp.
Có lần ông lên cơn sốt rét nằm trên băng ghế, dưới hầm metro, cảnh sát
đem ông về đồn và gọi điện thoại cho Hoàng tử Bảo Long đến bảo lãnh ông về,
rồi khi hết bệnh ông lại đi nữa. Có một lần ông bị cảnh sát tạm giữ khi đang ở
nhà một gái điếm tên là Clément làm ở nhà hàng Le Moulin Rouge (Cối xay đỏ)
trong khu ăn chơi ở Paris dính dáng đến buôn lậu. Nhờ Mộng Điệp can thiệp,
ông được thả trong tình trạng ốm yếu, mệt mỏi vì uống nhiều thuốc ngủ.
Tài sản của ông, các tài sản đồ sộ, đã nằm lại trên các bàn đỏ đen, trong
các câu lạc bộ, các sòng bạc. Một phần tài sản nằm trong tay những người đàn
bà đã đẩy ông vào cảnh nghèo khổ.
Cô đơn xứ người
Theo Hoàng tử Bảo Ân (con Bảo Đại với bà Phi Ánh), năm 1967, Công
chúa Phương Minh sang Pháp theo sự sắp xếp hôn nhân của gia đình nhưng
không thành, thấy hoàn cảnh của vua cha cô đơn và tội nghiệp, nên cô tình
nguyện ở lại để săn sóc cha.
Lúc này cựu Hoàng đã dùng thuốc ngủ rất nặng, có lần uống thuốc
xong, nằm vắt tay lên trán, vừa suy nghĩ vừa hút thuốc. Khi thuốc ngấm, ông
ngủ hồi nào không biết, điếu thuốc trên tay rơi xuống áo cháy phỏng cả ngực,
nên lần sau mỗi lần ông dùng thuốc ngủ, cô Phương Minh đứng đó canh chừng
đến khi ông ngủ rồi mới dám đi làm công việc.
Tuy ở Paris, Phương Minh cũng chỉ gặp Hoàng tử Bảo Long (con Bảo
Đại với bà Nam Phương) một lần và chưa hề giáp mặt Bảo Thăng và các công
chúa Phương Mai, Phương Liên và Phương Dung. Bảo Ðại có nhiều vợ và
nhiều dòng con, khi Nam Phương Hoàng Hậu qua đời, ông cũng không hay biết,
điều đó đã tạo thêm sứt mẻ trong gia đình.
Ðời sống ở Paris cũng khó khăn, vất vả, cô Phương Minh phải đi làm
tiếp viên trong một nhà hàng Trung Hoa để có phương tiện để sống gần cha và
chính cô, cũng phải nhận sự trợ giúp từ mẹ ở Sài Gòn. Theo lời cô Phương
Minh kể lại, khi có tiền thì hai cha con rủ nhau đi nhà hàng, khi hết tiền thì
nhiều ngày chỉ có một bữa ăn. Nhiều khi cạn tiền, túng thế, cựu Hoàng phải bảo
Phương Minh chạy đi “vay mượn” những người quen biết. Cho mãi đến năm
1971, Phương Minh hay tin mẹ đau nặng, cô trở về Sài Gòn.
Cũng năm này, Bảo Ðại kết hôn với Monique Baudot, một phụ nữ Pháp
kém hơn 30 tuổi (Monique Baudot sinh năm 1946.) Bảo Ðại vào đạo Thiên
Chúa, có tên thánh là Jean - Robert. Về tiểu sử của Monique có nhiều nguồn.
Báo chí Pháp viết cô từng làm tuỳ viên báo chí trong một tòa đại sứ. Các chính
khách từng làm việc với Bảo Đại và sau năm 1975 có nhiều dịp gặp ông (như
tướng ngụy Trần Văn Đôn) thì bảo Monique chỉ là một cô bồi phòng ở cao ốc
29 Fresnel.
Người "chiếm độc quyền" Bảo Đại
Từ khi hai người ăn ở với nhau, Monique chạy xin cho cựu Hoàng
được một trợ cấp cho người già, mỗi tháng lãnh khoảng trên dưới 7.000 franc.
Sau này ông J. Chirac lên làm thị trưởng Paris, tăng phụ cấp cho cựu hoàng lên
12.000franc nhưng vẫn không giải quyết hết khó khăn. Sống trong hoàn cảnh
vật chất thiếu thốn, cựu Hoàng không hề than vãn.
Hằng ngày bà Monique ôm quần áo bẩn đi giặt ở các máy giặt công
cộng. Buổi sáng Bảo Đại ăn pain sec (bánh mì không). Bà Monique Baudot tìm
mọi cách để có thu nhập thêm. Bà đòi tiền những người muốn đến gặp và phỏng
vấn. Bà mời tướng Fond viết giúp hồi ký cho cựu Hoàng và bán cho Nhà xuất
bản Plon. Để có đủ tư cách pháp lý “chiếm độc quyền” Bảo Đại, nhiều lần
Monique yêu cầu Bảo Đại làm giấy kết hôn với bà. Nhưng chuyện ấy không
thực hiện được ngay vì bà Từ Cung - đang còn sống ở Huế không đồng ý.
Bà Monique Baudot với Bảo Long xung khắc như nước với lửa, đã
choảng nhau, kiện tụng vì cái ấn kiếm. Cặp Ấn kiếm – Mệnh danh là Nguyễn
Triều Chi Bảo do vua Bảo Đại truyền chỉ cho thứ phi Mộng Điệp đã đem từ
Việt Nam cùng hơn 600 món bảo vật đến tận tay bà Nam Phương Hoàng Hậu
bảo quản. Khi bà còn sinh tiền đã nhắc nhở Thái tử Bảo Long rằng: Đừng bao
giờ mở tủ kiếng mà tách hai bảo vật này ra hai nơi.
Đến khi Bảo Đại viết xong cuốn hồi ký, muốn mượn con dấu để đóng
lên quyển sách cho thêm phần giá trị thì Bảo Long nhất quyết không cho, viện
dẫn lý do là mẹ đã dặn. Vì thế mà có cuộc tranh chấp kiện tụng ra tòa. Tòa xử:
“Bảo Đại giữ Quốc Ấn, còn Bảo Long được giữ Quốc Kiếm”. Đến nay không
biết hai báu vật – hai linh vật này đang ở đâu?.
Năm 1982, Bảo Đại nhận lời mời đi Mỹ thăm con, bà Monique nghe
vậy liền bắt chẹt: Nếu Bảo Đại không làm giấy kết hôn với bà và không cho bà
đi Mỹ thì bà sẽ không cho Bảo Đại ra khỏi nhà. Lúc này bà Từ Cung đã qua đời,
không còn trở ngại nào nữa, Bảo Đại và Monique Baudot ra Tòa Đốc lý quận
16, Paris đăng ký kết hôn.
Hai ông bà được cấp giấy kết hôn với nội dung: “Hôm nay là ngày
19/1/1982 đã diễn ra việc thành hôn của Hoàng thân Vĩnh Thụy cũng gọi là
Hoàng thân Bảo Đại, sinh ở Huế (Việt Nam) vào ngày 23/10/1913, con trai của
Khải Định và Từ Cung (đều đã mất); và cô Monique Marie Eugène Baudot, sinh
tại Saint Amand Montrond vào ngày 30/4/1946, con gái của ông Lucien Henri
Baudot và Hélène Marie Madeleine Legeai. Giấy đăng ký kết hôn gửi từ ngày
14/1/1982”.
Monique đã trở thành vợ chính thức của cựu hoàng Bảo Đại. Hoàng
hậu Nam Phương được triều đình nhà Nguyễn đứng ra cưới cho Bảo Đại vào
năm 1934 nhưng không làm giấy kết hôn. Các bà “thứ phi” có con với cựu
hoàng nhưng không ai có giấy kết hôn cả. Theo luật pháp nước Pháp, chỉ những
người có giấy kết hôn mới được công nhận là vợ chính thức. Do đó, người Pháp
chỉ công nhận Monique Baudot là vợ của Hoàng thân Vĩnh Thụy mà thôi.
Ở nhà là vợ, ra ngoài là thư ký
Trong chuyến đi Mỹ, Bảo Đại vào thăm cửa hàng Thanh Lan của người
Việt. Vợ chồng chủ cửa hàng tặng cho cựu hoàng một món quà sáng giá và
không để ý gì đến Monique Baudot. Vừa ra khỏi cửa hàng, Monique Baudot nói
với Bảo Đại: “Dân của ông không ra gì''. Những người trong ban tổ chức đón
tiếp cựu hoàng nghe thế không ai hiểu vì sao lại có sự thể như thế.
Tiếp đến cựu hoàng dự một buổi tiệc do ông bà Robert Kane khoản đãi
tại nhà riêng Tiburon vùng San Francisco. Trong số thực khách có cả ông bà
Brochand, Tổng Lãnh sự Pháp, và một số người Mỹ biết nói tiếng Pháp. Bà
Kane chủ tọa một bàn tiếp Bảo Đại và một số thực khách, bàn thứ hai do ông
Kane chủ tọa tiếp Monique và một số thực khách khác.
Không ngờ, khi ngồi vào bàn Monique tỏ ra bực bội, vặn vẹo hỏi mọi
người tại sao không sắp xếp cho bà ngồi gần Bảo Đại: ''Dù sao tôi cũng là vợ
của ông Bảo Đại kia mà!''. Một người có trách nhiệm đưa Bảo Đại đi thăm
viếng các nơi trả lời: ''Đây là cái phòng tiệc chứ không phải phòng ngủ. Chủ nhà
người ta sắp xếp như vậy là phải”.
Monique tức giận, nắm cái chéo khăn trải bàn ăn kéo một cái xoạt, thức
ăn dọn trên bàn ngả nghiêng, đổ tung tóe ra bàn. Cả phòng tiệc vô cùng ngạc
nhiên. Riêng Bảo Đại thì ngồi thản nhiên xem như không có chuyện gì xảy ra.
May mắn ông Kane tế nhị xin lỗi mọi người và nhận lỗi vô ý đã trải cái khăn
bàn không đúng cách nên mới có chuyện không hay này. Buổi tiệc mất vui.
Hôm sau, ban tổ chức đón tiếp chất vấn Bảo Đại:
- Hôm qua bà Monique nói bà ấy là vợ của ngài. Vậy có đúng không?
Bảo Đại thản nhiên đáp:
- Đúng. Trước khi qua Mỹ một ngày, bà ấy và tôi đã có giấy kết hôn!
- Vậy, tại sao ngài không nói cho chúng tôi biết trước để chúng tôi sắp
đặt nghi lễ, nếu bà ấy là vợ ngài thì chúng tôi đã sắp đặt đúng phép sẽ không
xảy ra những chuyện vừa qua.
Bảo Đại trả lời :
- Phần nghi lễ, tùy theo trường hợp, lúc là thư ký, lúc là vợ.
Đến lúc đó người ta mới hiểu đối với Bảo Đại, lúc ở nhà Monique
Baudot là vợ, khi đi ra ngoài, trong các cuộc tiếp tân, bà ấy chỉ là một cô thư ký.
Đó là cách đối xử tồn tại hàng chục năm qua của Bảo Đại dành cho Monique
Baudot.
Nhưng từ sau khi Monique Baudot nắm được cái giấy kết hôn trong tay
rồi thì bà không cho phép Bảo Đại đối xử với bà như thế nữa. Chính vì thái độ
không dứt khoát của Bảo Đại về bà vợ Monique Baudot mà chuyến sang Mỹ
của Bảo Đại đã phải chấm dứt sớm.
Bảo Đại là quốc trưởng của một nước nghèo, ăn lương của Pháp, vì sao
ông ta lại giàu có xài sang hơn cả những ông hoàng Thụy Điển, Ấn Độ là những
nước giàu có hơn?. Con đường, cung cách làm giàu và tiêu tiền của Bảo Đại ra
sao?. Xa lộ Pháp luật sẽ giới thiệu trong bài viết trên số báo tới.
(1)
Trong cuốn Thuyền ai đợi bến Vân Lâu của Nguyễn Lý Tưởng có
đặt vấn đề vua Bảo Đại là con ai? Xét ra cũng là một đề tài lý thú để bàn. Do sự
quan hệ với một vài liên hệ với hoàng tộc, tài liệu cho biết, Bảo Đại là con vua
Khải Định, nhưng mẹ là bà Hoàng Thị Cúc vốn chỉ là người hầu trong cung.
Khải Định hình như không có con, nhưng khi bà Hoàng Thị Cúc có mang thì
Thái Hậu, Đức Chánh Cung tra khảo đánh đập, hoàng tử Bửu Đảo, tức Khải
Định đã đứng ra xin như sau: "Thưa A, thai nhi trong bụng Hoàng Thị Cúc
chính là con của hài nhi. Vì dòng dõi của mình (vua Đồng Khánh) hiếm muộn,
nên ả tha cho Hoàng Thị Cúc và cho phép hài nhi được cười nàng làm thiếp. Ấy
là theo lời kể lại của bà Nguyễn Thị Vy, cháu nội ông Nguyễn Hữu Độ (Phụ
chính đại thần vua Đồng Khánh). Một dẫn chứng khác qua lời nói lại của ông
Bửu Uyển thì trước 75, bà Từ Cung (mẹ vua Bảo Đại), lúc đó đã ngoài 80, đã kể
lại cho con cháu nghe, trong đó ông Bửu Uyển cũng có mặt. Theo đó, Đức Từ
Cung cho biết, lúc làm gái hầu cho Ngọc Lâm Công Chúa, con vua Đồng
Khánh. Công Chúa thường sai bà mang thư cho Bửu Đảo, (hai nguời trao đổi
thơ xướng họa với nhau). Hai người ăn nằm với nhau, sau đó bà có thai và sinh
ra Vĩnh Thụy, tức vua Bảo Đại sau này. Cả hai nguồn tin đều xác nhận Bửu Đảo
ăn ở với Hoàng Thị Cúc, rồi có con. Chính sử không có, đành tin vào những
nhân chứng sống. Điều chính là bà Hoàng Thị Cúc, sau này là Đức Từ Cung là
mẹ vua Bảo Đại. Chừng đó đủ rồi. (Xem Thuyền Ai Đợi Bến Vân Lâu, trang
395-401, của Nguyễn Lý Tưởng).
(2)
Theo Hoeffel, trích trong Indochine "Bài La région Saigon, Cholon".
Sài Gòn, Chợ Lớn lúc bấy giờ chỉ rộng có 5000 mẫu Tây, chiều dài từ Đông
sang Tây là 15 kilô mét và chiều rộng có vỏn vẹn 6 kilô mét.
(3)
"La naissance de Dalat", của ông A.Baudrit viết: Đà Lạt được khám
phá ra vào năm 1893. Sau đó mãi đến năm 1898, người ta mới khai thác được
một vùng để làm một cái vườn với mục đích cung cấp rau cho đoàn nguời lên
công tác. Vì thế, vườn rau đặt tên là "Ferme de Dankin". Sau đó, tác giả tự đặt
câu hỏi "Est-ce alors que commenca la création de Dalat". Hỏi rồi tự mình trả
lời: "Pas encore". Nhưng điều sau đây mới thực sự quan trọng và có ý nghĩa.
Trong một bài báo khác giấy nhiều chỗ đã mủn và rách, vừa đọc, vừa đoán mò
không rõ tên tác giả có ghi chép: vào năm 1934, Giáo Hoàng Pio 11 mới yêu
cầu mẹ bề trên Cả của dòng đưa các sơ ra hải ngoại. Cái duyên là họ đã quyết
định sang truyền giáo ở bên Việt Nam. Vì thế, họ đã thiết lập hai trường: một ở
Đà Lạt, một ở Hà Nội, khu Ngọc Hà. Nhưng mãi đến năm 1937, trường sở mới
được xây dựng xong. Trong khi đó Cô Nguyễn Hữu Thị Lan đã làm đám cưới
với vua Bảo Đại từ năm 1934. Như thế cả hai chị em quả thực không thể nào
học Couvent des Oiseaux được. Chỉ có sau này, khi đã lên ngôi Hoàng Hậu, bà
có ghé thăm trường mà thôi.
(4)
Năm 1927, có bài viết "Le mariage d'une princesse d'Annamite" trên
báo Thần Kinh. Tờ Nam Phong , năm 1923, số 69 cũng có bài viết tương tự.
Năm 1934, trên Bulletin des Amis du vieus Hue (BAVH), trang 145-168 , trong
một bài viết có nhan đề "Cérémoniale d'autrefois pour le mariage des princesses
d'Annam" của L. Sogny. Khi các công chúa được 16 tuổi thì bắt đầu phải để ý
đến chuyện gả chồng cho các cô rồi. Thoạt đầu, người ta chọn ra một danh sách
các con, cháu, ngay cả đến chắt các công thần nộp lên vua. Vua chấm dấu đỏ
vào tên anh nào, anh đó có may mắn được làm phò mã. Sự cố xảy ra sau đây
thêm phiền phức vô kể. Lúc Thiệu Trị mất theo tục lệ, mọi chuyện cưới hỏi phải
ngưng để tang vua cha. Đến Tự Dức thứ tư, nghĩa là năm 1854, số các công
chúa chưa chồng trong 3 năm lên đến 30 cô, tất cả gồm các con của Minh
Mạng, Thiệu Trị gom lại. Lúc đó, nhiều công chúa đã quá tuổi 16 thuộc loại già
cỗi (Abricot murissant), chưa có ai rước đi. Trong số các công chúa, nhiều cô
xấu xí lại càng khó kiếm chồng hơn. Dư luận thời đó đồn thổi có nhiều con trai
các công thần sợ phải lấy mấy công chúa hoặc vì quá lớn tuổi, hoặc xấu không
hợp nhãn đành đánh bài ba chân bốn cẳng chốn mất dạng. Triều đình không biết
làm thế nào đành phá lệ tuyển bổ xuống hàng quan lại thường. Nào đã xong,
còn xem tuổi tác công chúa có hợp không đã. Rồi cho tên tất cả những ứng viên
đó vào trong hộp sắt, lắc đều, công chúa bắt trúng tên ai thì nguời đó đuợc làm
phò mã. Công chúa chỉ biết mặt lúc đám cưới nên cũng tìm đủ cách để xem mặt
phò mã tương lai là ai. Cũng nhiều cảnh cuời ra nước mắt. Thủ tục cưới hỏi
cũng nhiêu khê phiền toái lắm, vất vả lắm. Từ lễ nạp thai đến vấn danh, rồi nạp
trưng, nạp cát, sau đến lễ thân nghinh và hiệp cẩn, công chúa và phò mã ăn
chung một miếng thịt một con vật, rồi uống rượu. Mọi chuyện xong thì mỗi phò
mã được thưởng 3 nghìn lạng bạc để mua nhà ở, gọi là phủ, cộng với 3 vạn lạng
để sắm sửa quần áo, đồ dùng và đồ trang sức v.v.. Ngoài ra, phò mã còn có 50
người hầu, có một đội trưởng do triều đình ứng trả chi phí lương bổng. Ôi trùng
trùng điệp hết lễ này đến lễ kia. Cưới xong cũng trầy da, chóc vẩy. Cũng nên
nhớ, chỉ có vua là có cung phi cung nữ, bao nhiêu cũng được. Còn phò mã thì
không được quyền có vợ hai, chỉ trừ khi công chúa không có con.
(5)
Nhân đây, có đọc được một bài báo khá lý thú, đề cập đến đến
chuyện du xuân đặc biệt của vua Đồng Khánh. Bài báo còn lý thú hơn nữa là tác
giả Phan Thuận An, tự nhận là "nhà nghiên cứu Huế". Gọi là nghiên cứu chứ
thật ra ông đã dịch và chép nguyên con một bài của Cosserat, trong BAVH, Huế
từ trang 301 đến trang 306, có nhan đề là "Les Fêtes du Tết en 1886 à Hue.
Promenade du roi". Trong đó, Cosserat chép lại bài tường thuật của phóng viên
báo Figaro, lúc đó cũng có mặt ở Huế. Thật ra chả nên làm thế để làm gì. Nội
dung bài báo lại tỏ ra không nắm vững cho lắm. Từ lúc thay thế vua Hàm Nghi,
Đồng Khánh chỉ là thứ bù nhìn dễ sai bảo của người Pháp. Vì thế tướng
Prudhomme, lúc đó đang ở Huế đã yêu cầu nhà vua phải xuất hiện ngoài hoàng
cung để cho dân chúng biết là vua không bị quản thúc. Mục đích của
Prudhomme chỉ có vậy. Và đơn giản chỉ có vậy.