Professional Documents
Culture Documents
Đất yếu
Đất yếu
Nền đất yếu là nền đất không đủ sức chịu tải, không đủ độ bền và biến dạng nhiều, do vậy không
thể làm nền thiên nhiên cho công trình xây dựng.
Khi xây dựng các công trình dân dụng, cầu đường, thường gặp các loại nền đất yếu, tùy thuộc vào
tính chất của lớp đất yếu, đặc điểm cấu tạo của công trình mà người ta dùng phương pháp xử lý
nền móng cho phù hợp để tăng sức chịu tải của nền đất, giảm độ lún, đảm bảo điều kiện khai thác
bình thường cho công trình.
Trong thực tế xây dựng, có rất nhiều công trình bị lún, sập hư hỏng khi xây dựng trên nền đất yếu
do không có những biện pháp xử lý phù hợp, không đánh giá chính xác được các tính chất cơ lý
của nền đất. Do vậy việc đánh giá chính xác và chặt chẽ các tính chất cơ lý của nền đất yếu (chủ
yếu bằng các thí nghiệm trong phòng và hiện trường) để làm cơ sở và đề ra các giải pháp xử lý nền
móng phù hợp là một vấn đề hết sức khó khăn, nó đòi hỏi sự kết hợp chặt chẽ giữa kiến thức khoa
học và kinh nghiệm thực tế để giải quyết, giảm được tối đa các sự cố, hư hỏng công trình khi xây
dựng trên nền đất yếu.
1.2. Một số đặc điểm của nền đất yếu
Thuộc loại nền đất yếu thường là đất sét có lẫn nhiều hữu cơ;
Sức chịu tải bé (0,5 – 1kG/cm2);
Đất có tính nén lún lớn (a> 0,1 cm2/kG);
Hệ sô rỗng e lớn (e > 1,0);
Độ sệt lớn ( B > 1);
Mo đun biến dạng bé (E< 50kG/cm2);
Khả năng chống cắt bé (ϕ, c bé), khả năng thấm nước bé;
Hàm lượng nước trong đất cao, độ bão hòa nước G> 0,8, dung trọng bé;
1.3. Các loại nền đất yếu thường gặp
+ Đất sét mềm: gồm các loại đất sét hoặc á sét tương đối chặt, ở trạng thái bão hòa nước, có
cường độ thấp;
+ Bùn: Các loại đất tạo thành trong môi trường nước, thành phần hạt rất mịn (<200μm) ở trạng thái
luôn no nước, hệ số rỗng rất lớn, rất yếu về mặt chịu lực;
+ Than bùn: Là loại đất yếu có nguồn gốc hữu cơ, được hình thành do kết quả phân hủy các chất
hữu cơ có ở các đầm lầy (hàm lượng hữu cơ từ 20 – 80%);
+ Cát chảy: Gồm các loại cát mịn, kết cấu hạt rời rạc, có thể bị nén chặt hoặc pha loãng đáng kể.
Loại đất này khi chịu tải trọng động thì chuyển sang trạng thái chảy gọi là cát chảy.
+ Đất bazan: Đây cũng là đất yếu với đặc diểm độ rỗng lớn, dung trọng khô bé, khả năng thấm
nước cao, dễ bị lún sập.
Có thể giảm trọng lượng nền đắp trên nền đất yếu bằng 2 cách:
- Giảm chiều cao nền đắp đến trị số tối thiểu cho phép căn cứ vào điều kiện địa chất thủy
văn(đảm bảo chiều cao tối thiểu của nền đường cũng như chiều cao tối thiểu trên mực nước tính
toán theo quy phạm). Nếu là nền đường ở bãi sông có thể giảm mực nước dâng bằng cách tăng
khẩu độ cầu
- Dùng vật liệu nhẹ để đắp. Vật liệu này phải đảm bảo các yêu cầu sau:
+ Dung trọng nhỏ
+ Không ăn mòn bê tông và thép
+ Có khả năng chịu nén tốt nhưng độ nén lún nhỏ.
+ Không gây ô nhiễm môi trường
Biện pháp này không áp dụng khi chiều dày đất yếu lớn hoặc trong các lớp đất yếu có nước
ngầm.
Khi đất yếu dưới nền đắp ở trạng thái bão hòa nước có chiều dày <3m và dưới lớp đất yếu là lớp
chịu lực tốt và đồng thời xuất hiện nước có áp lực cao dùng lớp đệm cát không thích hợp thì có thể
dùng đệm đá hốc, đá dăm, sỏi sạn
Bè có tác dụng mở rộng diện tích, truyền tải trọng và phân bố lại tải trọng tác dụng lên đất yếu
Phương pháp này có ưu điểm là thi công đơn giản, vật liệu dễ kiếm, rẻ tiền.
3.2 Tăng tốc độ cố kết của đất yêu bằng cách sử dụng đường thấm thẳng đứng
3.2.1 Mục đích
- Nền đất yếu có chiều dày lớn hoặc có hệ số thấm rất nhỏ thì quá trình lún cố kết của nền đất
yếu dưới tải trọng áp dụng sẽ rất lâu. Do vậy, để tăng nhanh tốc độ cố kết, người ta thường làm các
đường thấm thẳng đứng bằng cọ cát hoặc bằng bấc thấm nhằm tạo ra các dòng thấm ngang vào
cọc cát hoặc bấc thầm, tiếp tục thoát dọc theo cọc cát hoặc bấc thấm lên mặt đất sau đó thoát ra
ngoài qua tầng đệm cát.
3.2.2 Bản chất của phương pháp
- Đất yếu chặt lại, sức chịu tải, góc nội ma sát và lực dính đơn vị tăng lên là do thoát nước
của đất yếu (gọi là sự cố kết).
- Để nước trong đất yếu có thể thoát ra ngoài cần có 2 điều kiện:
+ Phải tạo ra một áp lực lớn hơn áp lực tiền cố kết (áp lực tiền cố kết là áp lực mà đất yếu đã
từng chịu trong lịch sử hình thành của nó).
+ Tạo ra một đường thoát nước
3.2.3 Dùng cọc cát
3.2.3.1 Ưu nhược điểm
- Ưu điểm:
+ Cọc cát không chỉ thoát nước mà còn có tác dụng làm chặt đất và cải tạo nền đất yếu. Nếu
đường kính cọc cát càng lớn thì nền đất yếu càng được cải thiện tốt.
+ Khi dùng cọc cát thì trị số mô đun biến dạng của cọc cát và vùng đất được nén chặt xung
quanh giống nhau nên sự phân bố ứng suất trong nền đất sẽ đồng đều.
+ Tận dụng vật liệu địa phương
+ Thoát nước khá tốt
+ Dùng cọc cát quá trình cố kết của nền tiến triển nhanh hơn so với khi dùng bấc thấm.
+ Nếu so với cọc cứng (cọc BTCT) thì cọc cát giá thành rẻ hơn rất nhiều.
- Nhược điểm
+ Tốc độ thi công chậm
+ Vùng xáo trộn lớn: Khi khoan lỗ để hạ cọc cát làm đất xung quanh cọ cát bị xáo trộn nhiều, làm
bịt chặt các lỗ thoát nước.
+ Đối với đất quá yếu cọc cát có thể bị gãy gây ra đứt đường thấm của nước cố kết.
3.2.3.2 Trình tự thi công
- Trải lớp vải địa kỹ thuật. Lớp này có tác dụng ngăn cách giữa lớp đất yếu và lớp đệm cát,
làm cho lớp đệm cát luôn sạch và thoát nước tốt. Trong trường hợp đất yếu không làm bẩn tầng
đệm cát thì không cần lớp vải địa kỹ thuật.
- Thi công tầng đệm cát có chiều dày khoảng 1m với 2 nhiệm vụ chính:
+ Làm đường thoát nước ngang.
+ Tạo điều kiện cho máy móc hoạt động dễ dàng trong quá trình thi công
+ Tầng đệm cát cũng phải chia thành từng lớp có chiều dày thích hợp và được đầm nén đến độ
chặt yêu cầu.
- Định vị tất cả các vị trí cọc cát theo hàng dọc và hàng ngang đúng với hồ sơ thiết kế, dùng
cọc tre đánh dấu từng vị trí đã định vị.
- Khoan tạo lỗ: Có thể dùng các phương pháp sau
+ Tạo lỗ bằng khoan ruột gà.
+ Tạo lỗ bằng phương pháp xói nước
+ Tạo lỗ bằng phương pháp nổ mìn dài
+ Tạo lỗ bằng cách đóng một ống thép xuống đất có mũi bằng gỗ hoặc bốn lá thép tự mở.
- Khi đến cao độ thiết kế, tiến hành nhồi cát vào trong ống và tưới nước cho cát chặt lại.
- Rút ống thép lên (nếu tạo lỗ bằng ống thép)
- Đắp nền đường lên trên.
3.2.4 Dùng bấc thấm.
3.2.4.1 Khái niệm
- Bấc thấm là thiết bị thoát nước thẳng đứng gồm 2 thành phần chính:
+ Vỏ bọc: Có chức năng chính là thấm nước qua lỗ rỗng theo chiều ngang và lọc không cho các
hạt đất chui vào làm tắc lõi. Thường làm bằng vải địa kỹ thuật không dệt.
+ Lõi: Có tác dụng chính là dẫn nước thấm dọc từ đất yếu lên mặt đất để thoát ra ngoài, đồng
thời là thành phần chính chịu lực căng khi lắp đặt và lực ngang của đất để không bị bẹp làm mất
khả năng thoát nước dọc. Thường làm bằng Polypropylence.
- Bấc thấm có chiều rộng 100mm, dày từ 4-7mm và được cuốn thành cuộn có tổng chiều dài
hàng trăm mét.
- Độ sâu bấc thấm có thể tới 40m, nhưng thường dùng là 15-20m
3.2.4.2 Ưu nhược điểm
- Ưu điểm:
+ Khối lượng vật tư gọn nhẹ hơn nhiều so với vật liệu cát.
+ Tốc độ thi công nhanh
+ Giá thành rẻ hơn so với cọc cát
+ Đơn giản, dễ thi công, vùng xáo trộn nhỏ
+ Có thể thích hợp với nhiều loại đất yếu do có thể chọn loại bấc thấm thích hợp với tính chất cơ
lý hóa của nền đất.
- Nhược điểm:
+ Vật liệu phải nhập ngoại
Trong trường hợp trên mặt gặp lớp đất tốt, máy cắm bấc thấm có thể hoạt động thì có thể làm
lớp đệm cát sau khi cắm bấc thấm.
- Định vị tất cả các vị trí cắm bấc thấm theo hàng dọc và hàng ngang đúng với hồ sơ thiết kế,
dùng cọc tre đánh dấu từng vị trí đã định vị.
- Lắp neo vào đầu bấc thấm. Các đầu neo phải có kích thước phù hợp với bấc thấm, kích
thước của đầu neo thường là 85x150mm bằng tôn dày 5mm. Đầu neo có tác dụng giữ đầu bấc
thấm khi bấc thấm được cắm đến độ sâu thiết kế. Đầu bấc thấm được gập lại tối thiểu 30cm.
- Cắm bấc thấm bằng máy cắm bấc thấm. Máy cắm bấc thấm có các đặc trưng kỹ thuật như
sau:
+ Trục dùng để lắp và cắm bấc thấm có tiết diện 60x120mm, dọc trục có vạch chia đến cm để
theo dõi chiều sâu cắm bấc thấm và có qủa dọi để kiểm tra độ thẳng đứng khi cắm bấc thấm.
+ Máy phải có lực đủ lớn để cắm bấc thấm đến độ sâu thiết kế.
- Khi bấc thấm đến độ sâu thiết kế thì kéo ống cắm bấc thấm lên sau đó cắt bấc thấm. Đầu
bấc thấm phải cao hơn tầng đệm cát 20cm.
- Thi công tầng lọc ngược: làm bằng sỏi đá, cấp phối chọn lọc hoặc vải địa kỹ thuật.
- Đắp nền đường lên trên.