You are on page 1of 20

HỌ VÀ TÊN: NGUYỄN QUANG HƯNG ĐỀ CƯƠNG THẢO LUẬN

LỚP: H492 MÔN: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
(PHẦN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC)
Một số nội dung thảo luận phần Kinh tế chính trị

Câu 1: Trình bày những điều kiện khách quan và điều kiện chủ quan quyết định sứ mệnh lịch sử toàn Thế giới của giai cấp công nhân ? Liên hệ
với thực tiễn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay.
Câu 2: Phân tích quan điểm của Đảng ta đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt
Nam và chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại (Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ 11 trang 68,69).
Câu 3. Bản chất Dân chủ XHCN
Câu 4: Phân tích thực trạng khối liên minh công – nông dân – trí thức ở Việt Nam hiện nay ? Chỉ rõ những vấn đề đặt ra và giải pháp củng cố,
xây dựng khối liên minh công – nông dân – trí thức ở Việt Nam hiện nay.

Câu 4. Nội dung cơ bản của liên minh a. Định nghĩa “liên minh”
công -nông - trí thức trong thời kỳ Liên minh công - nông - trí thức trong thời kỳ quá độ lên CNXH là sự đoàn kết,
quá độ lên CNXH. Tính tất yếu và hợp lực, hợp tác, liên kết… giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
tầm quan trọng của liên minh công thức nhằm thực hiện những nhiệm vụ, giải quyết những vấn đề về lợi ích không chỉ cho
-nông - trí thức một lực lượng mà còn cho cả các lực lượng tham gia, đồng thời góp phần vào sự nghiệp
chung xây dựng CNXH.
Sự nghiệp giải phóng, thống nhất Tổ quốc, xây dựng CNXH và công cuộc đổi mới
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã trải qua rất nhiều khó khăn, gian khổ
nhưng đã đạt được những thành tựu to lớn, rất quan trọng và vẻ vang. Một trong những
nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng là liên minh công – nông – trí thức tạo nên
sức mạnh vô địch, là bản lĩnh, trí tuệ và sự dũng cảm phi thường của con người Việt Nam.
- Liên minh công - nông - trí thức: là sự đoàn kết, hợp lực, hợp tác, liên kết.. giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức nhằm thực hiện những nhiệm
vụ, giải quyết các vấn đề vì lợi ích không chỉ cho một lực lượng mà cho tất cả các lực
lượng tham gia.
Nếu trong giai đoạn cách mạng trước, liên minh công – nông – trí thức mang tính
tất yếu rõ nhất là tập hợp những lực lượng cách mạng căn bản để giành chính quyền, giải
phóng dân tộc…, thì bước vào thời kỳ quá độ, từ một nước nông nghiệp, lên CNXH, bỏ
qua chế độ TBCN thì tính tất yếu kinh tế - kỹ thuật của liên minh lại nổi lên với tư cách là
một vấn đề trung tâm của giai đoạn mới, phù hợp với yêu cầu khách quan và ngày nay,
trong xu thế toàn cầu hoá và kinh tế tri thức đòi hỏi phải có một nền kinh tế công nông
nghiệp hiện đại với khoa học và công nghiệp tiên tiến, do đó rất cần có liên minh vững
chắc công - nông - trí thức, nhằm vượt qua thách thức, tận dụng những thời cơ để phát
triển.
Trong nội dung này chúng tôi tập trung đề cấp đến nội dung cơ bản của liên
minh giữa công nhân với nông dân và trí thức trong thời kỳ quá độ lên CNXH:

- Nội dung chính trị của liên minh công - nông - trí thức trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội:
+ Nội dung chính trị của liên minh này, trong thực tế, là sự đoàn kết, hợp lực của
công nhân, nông dân, trí thức để xây dựng và bảo vệ vững chắc chế độ chính trị, giữ vững
độc lập dân tộc và định hướng đi lên CNXH của đất nước.
Ở nước ta, nội dung chính trị của liên minh công - nông - trí thức thực chất là đảm
bảo nghĩa vụ và quyền lợi chính trị cho công nhân, nông dân và trí thức nhằm:
+ Động viên công nhân, nông dân, trí thức tham gia xây dựng hệ thống chính trị
(Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội...). Sự tham gia này
bằng nhiều hình thức khác nhau: phát biểu trên thông tin đại chúng, thông qua các buổi
tiếp dân, tiếp cử tri của chính quyền, bằng lá phiếu bầu cử...
+ Xây dựng và bồi dưỡng để công nhân, nông dân, trí thức ngày càng có khả năng
trở thành những thành viên tích cực trong hệ thống chính trị. Qua đó phát huy vai trò lãnh
đạo và quản lý đất nước theo định hướng XHCN.
+ Nêu cao sự sáng tạo và gương mẫu của công nhân, nông dân, trí thức trong thực
hiện chính sách của Đảng và Nhà nước, trong thực hiện Quy chế và Pháp lệnh thực hiện
dân chủ ở cơ sở, kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện tiêu cực, cơ hội ... và âm mưu
“diễn biến hoà bình”.
+ Đoàn kết công nhân, nông dân, trí thức sẵn sàng tham gia chiến đấu khi cần thiết
để bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN.
- Nội dung kinh tế của liên minh công - nông - trí thức trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội:
Nội dung kinh tế của liên minh này, trong thực tế, là sự liên kết, hợp tác của công
nhân, nông dân, trí thức để xây dựng nền kinh tế mới XHCN mà ở thời kỳ quá độ là nền
kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN.
Ở nước ta, nội dung kinh tế của liên minh công - nông - trí thức thực chất là đảm
bảo nghĩa vụ và quyền lợi kinh tế cho công nhân, nông dân và trí thức thông qua giải
quyết những vấn đề cơ bản sau đây:
+ Xác định và đáp ứng đúng những nhu cầu kinh tế của công nhân, nông dân, trí
thức. Những nhu cầu này có thể thay đổi trong những giai đoạn khác nhau và nằm trong
tổng thể điều kiện của nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN.
+ Xây dựng một cơ cấu kinh tế công, nông nghiệp hợp lý từ địa phương đến trung
ương. Hai ngành kinh tế cơ bản ấy là nơi tập trung đông đảo công - nông - trí thức và nếu
trở thành một cơ cấu và hiện đại hoá là sự thể hiện liên minh chặt chẽ của công - nông - trí
thức.
+ Nâng cao kết quả chuyển giao khoa học, kỹ thuật mới vào sản xuất công, nông
nghiệp, mà qua đó trong thực tế, trí thức liên kết được với công nhân, nông dân, trên lĩnh
vực kinh tế.
+ Xây dựng mối quan hệ bình đẳng, liên kết chính đáng, cạnh tranh lành mạnh giữa
các thành phần kinh tế. Điều này thể hiện rõ sự liên minh công - nông - trí thức, bởi công
nhân, nông dân, trí thức ngày càng có mặt ở các thành phần kinh tế khác nhau và có
những thành phần kinh tế là biểu trưng cho sức mạnh của giai cấp hoặc tầng lớp nào.
+ Đảm bảo hài hoà tỷ giá trao đổi giữa hàng công nghiệp, nông nghiệp, khoa học,
nếu không đảm bảo lợi ích chính đáng trong trao đổi sản phẩm lao động của công nhân,
nông dân, trí thức sớm hay muộn sẽ làm giảm hoặc phá vỡ liên minh của các lực lượng
này.
- Nội dung văn hóa - xã hội của liên minh công - nông - trí thức trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
Nội dung văn hóa - xã hội của liên minh này, trong thực tế, là sự đoàn kết, hợp lực
của công nhân, nông dân, trí thức để xây dựng nền văn hoá mới, con ngưòi mới và XH
văn minh.
Ở nước ta, nội dung văn hóa - xã hội của liên minh công - nông - trí thức, thực chất
là đáp ứng nghĩa vụ và quyền lợi, trước hết về đời sống văn hoá tinh thần, của công nhân,
nông dân, trí thức và thông qua những vấn đề cơ bản sau đây:
+ Động viên công nhân, nông dân, trí thức giữ gìn những giá trị văn hoá truyền
thống và hiện đại (trong đó trí thức, giữ vai trò quan trọng), qua đó góp phần xây dựng
nền văn hoá tiên tiến đạm đà bản sắc dân tộc.
+ Xây dựng, bồi dưỡng công nhân, nông dân, trí thức để tham gia sáng tạo những
giá trị văn hoá mới, trong đó trí thức giữ vai trò quan trọng và qua đó làm giàu cho đời
sống tinh thần của mình, góp phần làm cho nền văn hoá nước nhà ngày càng phong phú...
+ Phát huy vai trò của công nhân, nông dân, trí thức trong xây dựng khu dân cư văn
hoá, nhất là nông thôn mới. Nông thôn mới với điện - đường - trường - trạm là kết quả từ
nhiều lực lượng, nguồn lực của công nhân, nông dân, trí thức.
+ Đoàn kết công nhân, nông dân, trí thức trong việc nâng cao dân trí, bảo vệ sức
khoẻ, nâng cao chất lượng sống để góp phần xây dựng con người Việt Nam nói chung.
Xây dựng con người cũng là kết quả lâu dài từ nhiều lực lượng, nguồn lực của công nhân,
nông dân, trí thức...
Tóm lại liên minh công - nông - trí thức là toàn diện, những trong đó liên minh
kinh tế là thường xuyên, quan trọng nhưng cũng khó khăn hơn. Sự liên minh này, trong
thực tế sinh động, có thể trực tiếp giữa những người lao động, bộ phận lao động của công
nhân, nông dân, trí thức với nhau hoặc thông qua những đại biểu của họ (doanh nghiệp,
hợp tác xã, hội nông dân, viện nghiên cứu... ).lợi ích là yếu tố quan trọng đảm bảo cho
quá trình liên minh, lâu dài chặt chẽ. Tất nhiên, nhiều trường hợp, trong liên minh phải
“vô tư “ với nhau, nhất là đối với nông dân. Sau nữa, quá trình liên minh công - nông - trí
thức rất cần đến vai trò của Nhà nước để định hướng, động viên, trọng tài...
b. Tất yếu khách quan của liên minh
Vấn đề liên minh giai cấp công nhân vì giai cấp công dân và các tầng lớp lao động
xã hội khác trong cuộc cách mạng của giai cấp công nhân đấu tranh chống giai cấp tư sản,
do Mác, Ăngghen phát hiện xây dựng, được Lênin vận dụng phát triển trong quá trình
cách mạng XHCN và bước đầu xây dựng CHXH ở nước Nga, là một nguyên lý căn bản
trong lý luận CNXH KH.
Tính tất yếu khách quan về sự liên minh của giai cấp công nhân với giai cấp nông
nhân và tầng lớp trí thức trong thời kỳ quá độ lên CHXH, không phải xuất phát từ ý chí
chủ quan của các nhà kinh điển hay của các ĐCS mà nó đặt trên cơ sở chín muồi của
những yếu tố, điều kiện khách quan. Khi phân tích cơ cấu xã hội – giai cấp trong CNTB,
C.Mác chỉ ra, ngoài g/c công nhân là giai cấp đang phát triển mạnh mẽ cùng với nền công
nghiệp hiện đại thì còn các giai cấp và tầng lớp lao động xã hội khác thống nhất với lợi
ích cơ bản của giai cấp công nhân và cùng đối lập với lợi ích cơ bản của giai cấp tư sản.
Từ những cuộc đấu tranh mang tính đối đầu, đầu tiên của g/cấp công nhân với g/cấp tư
sản bị thất bại, như công xã Pari là do công nhân chiến đấu đơn độc, chưa liên hệ được
với nông dân nên trở thành “bài ca ai điếu”.
- Hiện nay, hầu hết các nước trên thế giới, trong đó có những nước ở trong thời kỳ
quá độ lên CNXH mức độ phân công lao động xã hội còn rõ rệt giữa công, nông và trí
thức. Công nhân vẫn là lực lượng cơ bản trong sản xuất vật chất gắn với quy trình công
nghiệp hiện đại; dù còn là sản xuất nhỏ nhưng nông dân vẫn còn là lực lượng chủ yếu tạo
ra lương thực cho xã hội; trí thức vẫn là bộ phận nòng cốt trong hoạt động khoa học, sản
xuất tinh thần.
Cụ thể:
Đối với giai cấp công nhân: do vị trí lịch sử quy định, là giai cấp ngày càng đông
đảo theo sự phát triển của nền kinh tế công nghiệp trong nước cũng như trên thế giới. Họ
có những đặc điểm riêng, có ưu việt mà không có giai cấp nào có được. Trong thời đại
ngày nay, thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi thế giới, là giai cấp đại biểu
cho phương thức sản xuất tiên tiến, có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo, đi đầu trong việc giải
phóng con người, giải phóng xã hội. Giai cấp công nhân phải tổ chức lực lượng cách
mạng, vì sự nghiệp cách mạng nào cũng là sự nghiệp của quần chúng. Việc tìm đến với
giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức là một nhu cầu tự thân.
Giai cấp nông dân có vai trò to lớn trong mỗi chế độ xã hội, là lực lượng cách
mạng của giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất tiến bộ của các giai đoạn lịch sử.
Giai cấp nông dân đã được giai cấp công nhân giải phóng khỏi chế độ áp bức bóc lột, nhu
cầu tìm đến với giai cấp công nhân cũng là nhu cầu tự thân của họ, nên là người bạn tự
nhiên, gần gũi nhất của giai cấp công nhân. Đây chính là mối quan hệ đồng hành, gắn bó
khách quan tạo ra sự cố kết chặt công – nông.
Tầng lớp trí thức là một tập đoàn những người lao động xã hội đặc biệt bằng trí óc,
phương thức lao động chủ yếu là lao động trí tuệ cá nhân, tạo ra những sản phẩm khoa
học, trí tuệ tinh thần. Khi đã thấy được vị trí vai trò tiên phong lãnh đạo của giai cấp công
nhân thì họ sẵn sàng tự giác đứng về phía công nhân và dân tộc để thực hiện sự nghiệp
giải phóng xã hội chung, trong đó có bản thân mình.
- Nội dung của thời kỳ quá độ lên XNXH rất phong phú và đa dạng, do đó cần phát
huy nguồn lực con người, trong đó, đông đảo là công, nông và trí thức.
- Công, nông và trí thức đều là những giai tầng của những người lao động có nhiều
nhu cầu, khát vọng cơ bản là thống nhất cho nên họ dễ dàng đồng cảm, đoàn kết.
- Quá độ lên CNXH là vận động tự thân, cách mạng là ngày hội của quần chúng.
- Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hoá và kinh tế tri thức đòi hỏi các dân tộc phát
triển theo định hướng XHCN phải có được một nền kinh tế công, nông hiện đại với khoa
học và công nghiệp tiên tiến, do đó rất cần có liên minh vững chắc công, nông, trí thức
nhằm vượt qua những thách thức, tận dụng được những thời cơ để phát triển.
c. Tầm quan trọng của liên minh
Trong cách mạng Tháng Mười và sau khi g/c công nhân đập tan chính quyền của
g/c thống trị bóc lột, Lênin khẳng định: “Chuyên chính vô sản là một hình thức đặc biệt
của liên minh giai cấp vô sản, đội tiền phong của những người lao động với đồng đảo
những tầng lớp lao động không phải vô sản (tiểu tư sản, tiểu chủ, nông dân, trí thức)”.
- Liên minh là vấn đề chiến lược của cách mạng vô sản nói chung và của thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội nói riêng, vừa mang tính cơ bản, vửa trước mắt, vừa lâu dài
và quyết định đến sự thành bại của cách mạng.
- Liên minh là cơ sở chính trị - xã hội tin cậy để đảm bảo trong thực tế sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản đối với toàn xã hội, để xây dựng được nhà nước thật sự của dân, do
dân và vì dân.
- Thực chất của liên minh cũng như đại đoàn kết toàn dân tộc là tạo nên sức mạnh
tổng hợp, động viên được tối đa các nguồn lực trong nhân dân dười sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản.
Chính vì thế mà trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thức X, Đảng ta nêu
rõ: “Đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường lối chiến lược của cách
mạng Việt Nam; là nguồn gốc sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết
định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Như vậy, cả giai cấp công nhân, giai cấp nông nhân và tầng lớp trí thức đều là
những lực lượng lao động sản xuất, lực lượng chính trị - xã hội với những đặc điểm, vai
trò xác định. Họ có những đặc điểm chung là người lao động bị áp bức bóc lột, cùng có kẻ
thù chung, cùng có nguồn gốc xuất thân, gần gũi, có chung truyền thống dân tộc đoàn kết
gắn bó lâu dài và chung hết họ cùng nguyện vọng không còn áp bức bóc lột, dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. Họ là những giai cấp, tầng lớp đông đảo
nhất trong thời kì quá độ lên CNXH đặc biệt đối với các nước tiền tư bản, nông nghiệp lạc
hậu quá độ bỏ qua chế độ TBCN đi lên CNXH đây là lực lượng cách mạng chủ yếu. Với
tư cách là giai cấp lãnh đạo, giai cấp công nhân mà đứng đầu là Đảng CS phải nắm bắt
được những yếu tố khách quan từ các giai cấp tầng lớp, để tổ chức thành liên minh vững
chắc, khi đó không chỉ giành được thắng lợi mà cũng “không có thế lực nào phá vỡ nổi”.
Liên minh muốn được phát huy và cũng cố hơn phải lấy kinh tế làm cơ sở. Phải xuất phát
từ yêu cầu khách quan về kinh tế - kĩ thuật của một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên
CNXH, mà nhiệm vụ trung tâm là CNH, HĐH. Do đó phải gắn công nghiệp với nông
nghiệp và khoa học công nghiệp hiện đại. Về tất yếu kinh tế - kỹ thuật , Lênin chỉ rõ: nếu
không có kinh tế nông nghiệp làm cơ sở thì một nước nông nghiệp không thể xây dựng
được nền công nghiệp. Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ về tính tất yếu này: biến nền kinh tế lạc
hậu thành một nền kinh tế XHCN với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học kỹ
thuật tiên tiến.

Câu 3. Bản chất Dân chủ XHCN Khái niệm dân chủ
Dân chủ là khái niệm dùng để chỉ một chế độ xã hội, ở đó nhân dân là chủ thể của
mọi quyền lực, đó là một trong những hình thức tổ chức xã hội có giai cấp mà những đặc
trưng là việc thừa nhận nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số, thừa nhận việc thực hiện
quyền tự do, bình đẳng của nhân dân, thừa nhận nhân dân là cội nguồn của quyền lực.
Như chúng ta đã học tập quán triệt Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI của Đảng Cộng sản, nội dung Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định: "Dân chủ xã hội chủ
nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất
nước".
Sự khẳng định trên đây đã chỉ rõ: Nước ta đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, vì
vậy, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là vấn đề quan trọng xuyên suốt trong quá
trình cách mạng của nước ta.
Ngay từ khi Đảng ra đời (1930) để lãnh đạo cách mạng; trong cương lĩnh chính trị
đầu tiên đã nhất quán chủ trương, đường lối trong giai đoạn cách mạng giải phóng dân tộc
phải xây dựng và phát triển chế độ dân chủ nhân dân mà mục tiêu cốt lõi của nó là “Độc
lập dân tộc, người cày có ruộng” và thực hiện quyền phổ thông đầu phiếu trong lĩnh vực
chính trị. Khi chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa dựa trên cơ sở kế thừa
nền dân chủ nhân dân đã có, phải tiến hành ngay việc xây dựng, phát triển nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa mà mục tiêu xuyên suốt là:”Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Thật vậy theo quan niệm của Lênin: Dân chủ là sự thống trị của đa số thì có thể
hiểu dân chủ được nhìn nhận như một quyền lực mà tất cả quyền lực thuộc về đa số người
dân chứ không phải của một nhóm người, quyền lực này được nhân dân giao cho nhà
nước của mình, là người đại diện cho mình. Theo Lênin dân chủ được nhìn nhận như là
một hình thức tổ chức nhà nước, trong đó thừa nhận sự tham gia của đông đảo quần chúng
nhân dân vào công việc quản lý nhà nước để thực hiện sự thống trị đối với thiểu số những
kẻ vi phạm dân chủ của nhân dân. Mức độ, phạm vi tham gia thật sự của quần chúng nhân
dân vào công việc quản lý nhà nước phản ánh trình độ phát triển của nền dân chủ, phản
ánh những vấn đề cốt lỗi nhất của dân chủ.
Trong lịch sử phát triển với tư cách là một nhà nước một chế độ chính trị thì có ba
nền dân chủ đó là: nền dân chủ chủ nô, gắn với chế độ chiếm hữu nô lệ; nền dân chủ tư
sản, gắn với chế độ tư bản chủ nghĩa; nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, gắn với chế độ xã hội
chủ nghĩa. Tuy nhiên muốn biết một nhà nước dân chủ có thực sự dân chủ hay không phải
xem xét nhà nước ấy dân là ai và bản chất của chế độ xã hội ấy như thế nào. Như vậy
thuật ngữ dân chủ chỉ xuất hiện khi trước đó đã tồn tại ba yếu tố: nhân dân, quyền lực
công cộng và mối quan hệ giữa chúng. Thực ra các yếu tố cấu thành nội dung của khái
niệm dân chủ đã tồn tại suốt chiều dài lịch sử (trừ chế độ nguyên thuỷ), nhưng bản chất
của dân chủ không nằm trong các yếu tố đó mà nằm trong mối quan hệ xác định giữa
chúng: quan hệ sở hữu và chi phối quyền lực công cộng từ phía nhân dân.
Ngoài các nghĩa trên dân chủ còn được hiểu là một nguyên tắc tổ chức, phương
thức sinh hoạt của một tổ chức chính trị- xã hội, một cộng đồng dân cư, theo nguyên tắc
thiểu số phục tùng đa số.
Khi xã hội phân chia thành giai cấp và có nhà nước thì không có dân chủ chung
chung, dân chủ phi giai cấp, siêu giai cấp, dân chủ thuần tuý. Trái lại, dân chủ mang bản
chất giai cấp thống trị xã hội. Dân chủ còn là một phạm trù chính trị vì nó thể hiện bản
chất của chế độ chính trị, của giai cấp thống trị mà ở đó nó tồn tại, phản ánh bản chất và
lợi ích của giai cấp thống trị.
Bản chất của dân chủ XHCN
Dân chủ mang những giá trị nhân văn, nhân đạo. Thành quả của dân chủ đạt được
trong xã hội trước hết tuỳ thuộc vào thành quả đấu tranh của nhân dân, do đó những giá trị
dân chủ đạt được trong các cuộc đấu tranh đều mang tính nhân dân.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa được xác lập sau khi giai cấp công nhân thông qua đội
tiên phong của mình là Đảng Cộng sản giành được chính quyền, tiến hành cải tạo và xây
dựng chủ nghĩa xã hội thông qua cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
- Là sự lãnh đạo chính trị của giai cấp công nhân thông qua đảng của nó đối với
toàn xã hội, nhưng có sự thống nhất giữa tính giai cấp công nhân với tính dân tộc và tính
nhân dân, do lợi ích của giai cấp công nhân phù hợp với lợi ích của dân tộc và của đại đa
số nhân dân lao động.
- Do Đảng Cộng sản lãnh đạo đây là yếu tố quan trọng để đảm bảo quyền lực thực
sự thuộc về nhân dân, bỡi vì Đảng Cộng sản đại biểu cho trí tuệ, lợi ích của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc. Với ý nghĩa này dân chủ xã hội chủ nghĩa mang
tính nhất nguyên về chính trị. Sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng
sản đối với toàn xã hội về mọi mặt mà Lênin gọi là sự thống trị chính trị.
- Nhân dân lao động là những người làm chủ mọi quan hệ chính trị trong xã hội. Họ
có quyền giới thiệu các đại biểu tham gia vào bộ máy chính quyền từ trung ương đến địa
phương, tham gia đóng góp ý kiến xây dựng chính sách, pháp luật, xây dựng bộ máy và
cán bộ nhân viên nhà nước. Mục đích của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là xây dựng nhà
nước của dân, do dân, vì dân, tạo điều kiện cho nhân dân làm chủ xã hội chủ nghĩa.
Quyền được tham gia rộng rãi vào công việc quản lý nhà nước chính là nội dung dân chủ
trên lĩnh vực chính trị.
- Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ
yếu đáp ứng sự phát triển cao của lực lượng sản xuất hiện đại nhằm thoả mãn ngày càng
cao nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân. Trước hết đảm bảo quyền làm chủ của
nhân dân về các tư liệu sản xuất chủ yếu; quyền làm chủ trong quá trình sản xuất kinh
doanh, quản lý và phân phối.
- Dưới góc độ kinh tế dân chủ xã hội chủ nghĩa được biểu hiện là sự đảm bảo về lợi
ích kinh tế, phải coi lợi ích của người lao động là động lực cơ bản nhất có sức thúc đẩy
kinh tế xã hội phát triển. Thực chất của việc tổ chức, quản lý nền kinh tế - xã hội chính là
sắp xếp sao cho hài hoà các quan hệ lợi ích của các giai cấp, các tầng lớp và của những
người lao động. Lợi ích kinh tế phải thực hiện bỡi lao động, mọi người đều có quyền lao
động và đều có quyền được hưởng thành quả lao động của mình.
Bản chất chất kinh tế đó chỉ được bộc lộ đầy đủ qua một quá trình phát triển ổn
định về kinh tế và chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng Mác Lênin và sự quản lý, hướng
dẫn của nhà nước xã hội chủ nghĩa; là sự kế thừa và phát triển mọi thành tựu mà nhân loại
đã tạo ra trong lịch sử, đồng thời lọc bỏ những nhân tố lạc hậu, tiêu cực, kìm hãm của các
chế độ kinh tế trước, nhất là bản chất tư hữu, áp bức bóc lột, bất công đối với đa số nhân
dân lao động.
- Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lấy hệ tư tưởng Mác-Lênin, hệ tư tưởng của giai
cấp công nhân làm nền tảng; đồng thời là sự kế thừa, phát huy những tinh hoa văn hoá
thuyền thống các dân tộc; tiếp thu những giá trị tiến bộ, văn minh mà nhân loại đã đạt
được. Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhân dân được làm chủ những giá trị văn hoá
tinh thần; được nâng cao trình độ văn hoá, có điều kiện để phát triển các nhân.
Ở khía cạnh văn hoá, sự phát triển của dân chủ xã hội chủ nghĩa và những thành
quả đạt được trong công cuộc đấu tranh cho dân chủ được coi như một quá trình sáng tạo
văn hoá, một thành tựu văn hoá của loài người.

Câu 1. Nội dung sứ mệnh lịch sử của a. Khái niệm giai cấp, giai cấp công nhân
giai cấp công nhân. Liên hệ với giai * Giai cấp:
cấp công nhân Việt Nam trong sự Định nghĩa giai cấp của Lênin:
nghiệp CNH - HĐH gắn với kinh tế "Giai cấp là những tập đoàn người to lớn khác nhau về địa vị của họ trong một hệ
tri thức. thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thì
những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với tư liệu sản xuất, về vai
trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ
và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn
người mà tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác do chỗ các tập đoàn
có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế - xã hội nhất định".
* Các giai cấp có địa vị khác nhau trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định; có
quan hệ khác nhau đối với tư liệu sản xuất; có vai trò khác nhau trong tổ chức lao động xã
hội; có phương thức và quy mô khác nhau trong thu nhập của cải xã hội.
* Giai cấp công nhân
- Quan niệm Mác - Lênin về giai cấp CN trong chế độ TBCN: là g/c sản xuất vật
chất là chủ yếu, là sản phẩm và là chủ thể của nền đại công nghiệp.
- Giai cấp công nhân trong chế độ TB đương đại: G/c công nhân vẫn mang bản chất
và những đặc điểm truyền thống; g/c CN vẫn là lực lượng sản xuất hàng đầu, g/c quyết
định sự tồn tại và phát triển của xã hội hiện đại, là g/c bị trị trong xã hội tư bản.
- Giai cấp công nhân trong XHCN: là lực lượng sản xuất hàng đầu, giai cấp tiên
tiến nhất, năng suất lao động cao, đóng góp phần quan trọng nhất cho tăng trưởng tổng
sản phẩm trong nước (GDP) và là g/c đại biểu cho các dân tộc đang phát triển theo định
hướng XHCN.
b. Nội dung sứ mệnh lịch sử của g/c công nhân: là tổ chức lãnh đạo XH thông
qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản để đấu tranh giải phóng mình và giải phóng toàn XH
khỏi mọi ách áp bức, bất công, xóa bỏ CNTB, xây dựng CNXH và CN cộng sản.
Nội dung kinh tế: G/c CN trở thành lực lượng sản xuất cơ bản và là g/c quyết định
tồn tại XH hiện đại và qua đó tạo cơ sở vật chất cho sự ra đời của xã hội XHCN.
Nội dung chính trị: dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, g/c CN cùng với nhân dân
lao động tiến hành đấu tranh giành chính quyền, xác lập, bảo vệ và phát triển chế độ
XHCN, quyền làm chủ của nhân dân…
Nội dung văn hóa tư tưởng: G/c CN đấu tranh với hệ tư tưởng phi vô sản, xác lập
địa vị thống trị của hệ tư tưởng g/c CN, xây dựng nền văn hóa và con người mới …
c. Giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp đẩy mạnh CNH-HĐH trong
nền phát triển kinh tế tri thức:
- Thực trạng giai cấp công nhân Việt Nam :
+ Thuận lợi:
- Giai cấp công nhân VN là sản phẩm của quá trình khai thác thuộc địa của CN thực
dân Pháp, vừa chịu ách bóc lột của CNTB vừa chịu ách nô lệ của người dân mất nước.
Cũng vì vậy G/c công nhân VN có ý thức sâu sắc về sự gắn bó lợi ích của g/c và lợi ích
của dân tộc.
- Được Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn dắt, sớm có tổ chức Đảng, g/c công nhân tuy còn
non trẻ nhưng đã sớm trưởng thành và trở thành g/c lãnh đạo dân tộc giành được nhiều
thắng lợi trong cuộc CM giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.Sự trưởng thành của g/c
công nhân VN cả về số lượng và chất lượng. Từ 3,7 triệu công nhân năm 1986 đến nay là
9,5 triệu (chưa kể gần 0,5 triệu công nhân xuất khẩu lao động) và đang không ngừng tăng
lên. Trong đó công nhân doanh nghiệp nhà nước chiếm 22%, các doanh nghiệp ngoài nhà
nước chiếm 61%, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 16,5% và tỷ lệ công
nhân nữ chiếm 43,6% quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động theo hướng CNH-
HĐH đã khiến cho giai cấp công nhân nước ta có mặt trong hầu khắp các lĩnh vực kinh tế
và các thành phần kinh tế (đóng góp 70% GDP và 60% ngân sách nhà nước) cả về chính
trị-xã hội.
- Quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử trong những năm đổi mới g/c công nhân nước
ta có những chuyển biến quan trọng, đã hình thành và phát triển bộ phận công nhân trí
thức đang tiếp tục phát huy vai trò là g/c lãnh đạo CM thông qua đội tiền phong là Đảng
Cộng sản Việt Nam, g/c tiên phong trong sự nghiệp xây dựng CNXH, lực lượng đi đầu
trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, lực lượng nồng cốt
trong liên minh công –nông –trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng, đóng góp trực tiếp vào
sự phát triển của đất nước.
+ Hạn chế:
- Sự phát triển g/c CN chưa đáp ứng cả về số lượng, cơ cấu và trình độ học vấn,
chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, thiếu các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi,
công nhân lành nghề. Một bộ phận công nhân chậm thích nghi với cơ chế thị trường, giác
ngộ g/c và bản lĩnh chính trị chưa đồng đều, việc làm, đời sống vật chất và tinh thần có
nhiều khó khăn, bức xúc.
- Đảng có chú trọng xây dựng g/c công nhân nhưng chưa quan tâm đầy đủ, chưa
ngang tầm với vị trí, vai trò của g/c CN trong thời kỳ mới. Chính sách, pháp luật còn
nhiều hạn chế, bất cập. Tổ chức công đoàn và các tổ chức chính trị -xã hội hoạt động chưa
cao.
- Phát triển giai cấp công nhân VN để xứng đáng g/c đi đầu trong sự nghiệp
đẩy mạnh CNH-HĐH trong nền phát triển kinh tế tri thức:
Quan điểm chỉ đạo:
1. Kiên định quan điểm g/c công nhân là g/c lãnh đạo CM thông qua đội tiền phong
là Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. G/c đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến nhất, là lực lượng nồng cốt trong
liên minh công - nông - trí thức và đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng.
3. Chiến lược xây dựng g/c công nhân lớn mạnh phải gắn kết chặt chẽ với chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội, CNH-HĐH đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế.
4. Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt. Đặc biệt quan tâm xây dựng thế
hệ trẻ, công nhân trẻ có học vấn, chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp cao, ngang tầm khu
vực và quốc tế.
5. Xây dựng g/c công nhân lớn mạnh là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của
toàn xã hội và sự nỗ lực vươn lên của mỗi người công nhân, sự tham gia đóng góp tích
cực của người sử dụng lao động. Trong đó sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước
có vai trò quyết định, Công đoàn có vai trò quan trọng trực tiếp trong chăm lo xây dựng
g/c CN.
* Nhiệm vụ, giải pháp:
- Nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, pháp triển lý luận về g/c CN qua đó đề ra chủ
trương, giải pháp xây dựng g/c CN phát triển toàn diện trong thời kỳ mới.
- Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng đào tạo nghề, từng bước tri thức hóa g/c CN để
nước ta có một đội ngũ CN có trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp ngày
càng cao đáp ứng nhu cầu năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả sản xuất kinh
doanh.
- Quan tâm bồi dưỡng, ý chí vươn lên thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu.Quyết tâm xây
dựng tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động, lương tâm nghề nghiệp… cho công
nhân.
- Xây dựng và thực hiện nghiêm hệ thống chính sách, pháp luật để đảm bảo quyền,
lợi ích chính đáng của CN, chăm lo cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho CN tương
xứng với năng suất lao động và những đóng góp của họ.
- Đề cao trách nhiệm, tính tự giác của người sử dụng lao động, đồng thời tăng
cường công tác kiểm tra, giám sát của Nhà nước, tổ chức Công đoàn và các tổ chức chính
trị - xã hội khác. Có chế tài xử lý nghiêm các tổ chức và cá nhân vi phạm quyền và lợi ích
hợp pháp chính đáng của người lao động./.

Câu 2: Phân tích quan điểm của Đảng ta Xét trên tiến trình phát triển của lịch sử loài người, chủ nghĩa xã hội xuất hiện là
đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của một hướng đi hoàn toàn mới đưa loài người tới sự giải phóng. Thế nhưng trên một thời
nhân dân ta là sự lựa chọn đúng đắn của gian dài tồn tại và phát triển bên cạnh những thành tựu to lớn chưa từng có trong việc giải
Đảng Cộng sản Việt Nam và chủ tịch Hồ quyết vấn đề con người, các nước xã hội chủ nghĩa cũng không tránh khỏi những hạn chế
Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển trong việc phát huy nhân tố con người trong đó có Việt Nam.
của thời đại (Văn kiện Đại hội Đảng lần
thứ 11 trang 68,69). *Những hạn chế trong việc phát huy nhân tố con người ở Việt Nam:
Một là: Trong một thời gian khá dài chúng ta đã tuyệt đối hóa mặt xã hội mà quên
đi mặt tự nhiên trong con người dẫn đến không quan tâm đến lợi ích, nhu cầu chính đáng
của con người, do vậy đã làm giảm tính sáng tạo năng động sáng tạo của con người trong
quá trình xây dựng đất nước.
Hai là: Có lúc chúng ta đề cao tính giai cấp mà quên đi giá trị dân tộc thể hiện qua
nhân tố con người, xem nhẹ tính nhân loại… làm cho nhân tố con người phát triển không
toàn diện.
Ba là: Tình trạng quan liêu của một bộ phân cán bộ đảng viên trong Đảng và bộ
máy nhà nước làm giảm sút lòng tin của dân đối với Đảng, đối với chế độ, ảnh hưởng đến
tính năng động sáng tạo và sức cống hiến của con người cho đất nước.
Bốn là: Trình độ lao động có chuyên môn kỹ thuật còn ít, kém về chất lượng, thiếu
về số lượng, có nhiều bất hợp lý trong cơ cấu lao động…không đáp ứng kịp thời nhu cầu
của thị trường.
Năm là: Con người Việt Nam còn ảnh hưởng khá nặng nề thói quen, tâm lý của
người sản xuất nhỏ, điều đó ảnh hưởng đến việc thực hiện cơ chế thị trường và hội nhập
kinh tế quốc tế.
Sáu là: Đầu tư vào giáo dục còn thấp, nhưng tiêu cực trong giáo dục còn nhiều,
trình độ người giảng dạy còn hạn chế…ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo con người và
phát huy nguồn nhân lực.
*Trong khi đó vai trò của nhân tố con người là rất to lớn trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội:
- Theo chủ nghĩa Mác Lênin: con người vừa là sản phẩm của tự nhiên và xã hội,
vừa là chủ thể tích cực cải biến tự nhiên và xã hội. Con người là yếu tố quan trọng nhất
trong lực lượng sản xuất, cách mạng là sự nghịêp của quần chúng, quần chúng nhân dân
là lực lượng quyết định sự phát triển của lịch sử của xã hội.
- Quán triệt chủ nghĩa Mác Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm kiêng định vai trò
của nhân tố con ngưòi và sự cần thiết phải chăm lo bồi dưỡng và phát triển con người, đó
là vấn đề có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Người nói: “Vì lợi
ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Muốn xây
dựng chủ nghĩa xã hội thì phải có con người xã hội chủ nghĩa, con người xã hội chủ nghĩa
là con người vừa có đạo đức (cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, có lòng yêu nước,
thương dân…), vừa có tài ( trình độ, chuyên môn, khoa học kỹ thuật…).
- Trong quá trình khai thác nhưng yếu tố tự nhiên sẽ dần cạn kiệt đi, song nhân tố
con người nếu biết cách sử dụng thì năng lực con người ngày càng cao, và con người
chính là chủ thể khơi dậy tiềm năng của các nguồn lực khác.
Trong giai đoạn hiện nay, khoa học kỹ thuật và nền kinh tế tri thức phát triển mạnh
thì tri thức sẽ là yếu tố quan trọng, tri thức lại do con người làm chủ thể vì vậy phát huy
nhân tố con người là yếu tố quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia.
*Để phát huy có hiệu quả nhân tố con người Việt Nam cần thực hiện một số
phương hướng cơ bản sau:
- Thứ nhất: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền với phát triển kinh tế
tri thức. Đặc trưng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sử dụng một cách phổ biến nguồn
nhân lực có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao dựa trên sự phát triển của công nghiệp và
tiến bộ của khoa học kỹ thuật nhằm tạo năng suất lao động cao. Chủ trương thực hiện
CNH-HĐH là nhằm tạo cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết cho chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam,
thực hiện CNH, HĐH để từng bước chuyển sang nền kinh tế tri thức là có căn cứ khoa
học và phù hợp với xu thế của thời đại. Song điều này chỉ làm được khi biết phát huy
nhân tố con người có hiệu quả. Như vây CNH- HĐH vừa là điều kiện để phát huy nhân
tố con người vừa đặt ra yêu cầu khách quan phải huy nhân tố con người.
- Thứ hai: Xây dựng và từng bước hoàn chỉnh một hệ thống chính sách xã hội phù
hợp. Thực hiện tốt chính sách xã hội hướng tới con người, vì con người, tạo điều kiện cho
con người phấn đấu vì sự phát triển của đất nước. Để đảm bảo điều đó phải “tăng trưởng
kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và trong suốt quá trình
phát triển”.
Thứ ba: Từng bước xây dựng và không ngừng hoàn thiện cơ chế quản lý của chế độ
xã hội chủ nghĩa. Chế độ xã hội chủ nghĩa là chế độ quyền lực thực sự thuộc về nhân dân,
nhân dân làm chủ trên mọi lĩnh vực. Do vậy xã hội phải tạo điều kiện thuận lợi để nhân
dân tích cực tham gia vào công việc quản lý xã hội, quản lý kinh tế, quản lý nhà nước, qua
đó nhân tố con người được phát huy một cách có hiệu quả vào quá tình phát triển.
Thứ tư: Thực hiện cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực văn hóa tư
tưởng. Cuộc cách mạng tư tương - văn hóa có nhiệm vụ trang bị chủ nghĩa Mác Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh cho quần chúng lao động. Thực hiện cuộc cách mạng này là nhằm bồi
dưỡng phát triển và phát huy tốt hơn nữa nhân tố con ngươi Việt Nam trong quá trình xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
*Để phát huy nhân tố con người cần thực hiện một số giải pháp sau đây:
Thứ nhất: Trên lĩnh vực kinh tế xác lập địa vị làm chủ của người lao động trong quá
trình lao động sản xuất (làm chủ tư liệu sản xuất). Phát huy sáng kiến của người lao động,
thực hiện phân phối cân bằng công khai và dân chủ. Khai thác thế mạnh tiềm năng của cá
nhân, địa phương, đất nước, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa góp
phần giải quyết những khó khăn của đất nước.
Thứ hai: Trên lĩnh vực chính trị Đảm bảo ổn định chính trị, xây dựng môi trường
chính trị dân chủ, lành mạnh tạo điều kiện cho việc phát triển và phát huy có hiệu quả
nhân tố con người vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội, hướng tới mục tiêu vì con
người, vì xã hội. Thực hiện tốt pháp lệnh dân chủ ở cơ sở tạo động lực kích thích tính
năng động sáng tạo của người dân. Tăng cường vai trò kiểm tra giám sát của quần chúng
đối với Nhà nước. Giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc, bản lĩnh chính trị…Đấu
tranh chống mọi âm mưu thâm độc của kẻ thù.
Thứ ba: Trên lĩnh vực giáo dục đào tạo Đại hội X khẳng định; “Đổi mới toàn diện
giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao” nhằm góp phần tạo sức
mạnh nội sinh đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH gắn vớí phát triển kinh tế tri thức, đồng thời
tạo nên nguồn nhân lực chất lượng cao và phát huy nhân tố con người Việt Nam trong quá
trình phát triển. Để đáp ứng yêu cầu của đất nước và thời đại cần đổi mới nội dung và
phương pháp giáo dục. Tiếp tục thực hiện tốt các mục tiêu: nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài.
Thứ tư: Trên lĩnh vực xã hội Giải quyết những lợi ích chính đáng của người lao
động, thực hiện tốt các chính sách chăm sóc sức khỏe cộng đồng, bỏ dần những phong tục
lạc hậu, đoàn kết tương trợ giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Thứ năm: Trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống những
tư tưởng phản động, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, ngăn chặn suy thoái về đạo
đức…Gìn giữ giá trị truyền thống văn hóa của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, tạo điều kiện văn
học nghệ thuật phát triển, xây dựng lối sống lành mạnh, văn minh.

You might also like