You are on page 1of 225

HỌC VIỆN CÔNG NGHỆ BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG

BÀI GIẢNG

CÔNG NGHỆ TRUY NHẬP QUANG

KHOA VIỄN THÔNG 1

Tác giả: TS. Nguyễn Đức Nhân


ThS. Trần Thủy Bình

HÀ NỘI 12-2017

i
LỜI MỞ ĐẦU

Trong những năm vừa qua đã chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ công nghệ
truy nhập quang FTTx để đáp ứng kịp nhu cầu truy nhập băng rộng của người
dùng. Do vậy cuốn bài giảng “Công nghệ truy nhập quang” được viết nhằm cung
cấp cho sinh viên những kiến thức bổ ích liên quan đến môn học tự chọn cùng tên
thay thế môn tốt nghiệp của sinh viên năm cuối. Tài liệu gồm 6 chương với các
nội dung cơ bản như sau:

 Chương 1: Trình bày tổng quan về công nghệ truy nhập băng rộng bao gồm
cả các công nghệ truy nhập hữu tuyến đến vô tuyến.

 Chương 2: Giới thiệu về mạng lai ghép HFC bao gồm kiến trúc mạng và
giao thức DOCSIS để triển khai dịch vụ dữ liệu tốc độ cao trên mạng HFC.

 Chương 3: Trình bày tổng quan về công nghệ mạng PON trong đó tập trung
vào các vấn đề cơ bản của mạng TDM-PON bao gồm kiến trúc mạng, các
thành phần tích cực và các thành phần thụ động sử dụng trên mạng, hoạt
động truyền dẫn của mạng.

 Chương 4: Trình bày về các công nghệ TDM-PON đã được chuẩn hóa bởi
ITU-T và IEEE bao gồm BPON, GPON và EPON. Các hoạt động liên lạc
MAC trong mỗi chuẩn này cũng được đề cập đến.

 Chương 5: Giới thiệu về quá trình phát triển tiếp theo của mạng PON, một
só giải pháp công nghệ có thể sử dụng cho các mạng PON thế hệ sau. Một
số đặc tính kỹ thuật của các chuẩn NG-PON1 và NG-PON2 cũng được
trình bày.

 Chương 6: Trình bày một số vấn đề trong thiết kế và đo kiểm mạng truy
nhập quang FTTx. Các vấn đề thiết kế tập trung vào tính toán các tham số
của tuyến sợi quang. Các vấn đề cơ bản trong đo kiểm mạng FTTx cũng
được trình bày cùng với các thiết bị đo liên quan.
Chúng tôi hy vọng rằng cuốn bài giảng không chỉ là tài liệu tham khảo hữu
ích cho sinh viên chuyên ngành viễn thông năm cuối mà còn cung cấp các kiến
thức bổ ích về mạng truy nhập quang cho các kỹ sư trên mạng lưới và những

ii
người quan tâm khác. Đây cũng là phiên bản đầu tiên được viết trong thời gian
ngắn do vậy sẽ không tránh khỏi những sai sót. Chúng tôi rất mong nhận được ý
kiến đóng góp của các quí thầy cô, các bạn sinh viên và những người quan tâm để
hoàn thiện hơn cuốn tài liệu này.

TM Nhóm tác giả


TS. Nguyễn Đức Nhân

iii
MỤC LỤC

DANH SÁCH THUẬT NGỮ VIẾT TẮT viii


Chương 1 Tổng quan công nghệ truy nhập băng rộng 1
1.1 Lịch sử phát triển 1
1.2 Công nghệ DSL 6
1.2.1 Các tiêu chuẩn DSL 6
1.2.2 Các phương pháp điều chế 8
1.3 Công nghệ HFC 9
1.3.1 Modem cáp 10
1.3.2 DOCSIS 10
1.4 Công nghệ PLC 11
1.4.1 PLC 12
1.4.2 Modem BPL 13
1.4.3 Các thách thức trong BPL 14
1.5 Công nghệ truy nhập vô tuyến 14
1.5.1 Các mạng lưới Wi-Fi 15
1.5.2 Mạng truy nhập WiMAX 17
1.5.3 Mạng di động 18
1.5.4 Hệ thống vệ tinh 20
1.5.5 Hệ thống LMDS và MMDS 22
1.6 Công nghệ truy nhập quang 24
1.7 Tổng kết chương 32
Câu hỏi/bài tập chương 1 32
Chương 2 Công nghệ HFC 33
2.1 Kiến trúc mạng HFC 33
2.2 Giao thức DOCSIS 36
2.2.1 Các phần tử mạng DOCSIS 37
2.2.2 Lịch sử phát triển 41
iv
2.2.3 Lớp vật lý DOCSIS 44
2.2.4 Quá trình đồng bộ và định khoảng cách 51
2.2.5 Phân lớp MAC DOCSIS 55
2.3 DOCSIS trên mạng PON 59
2.4 Truyền tín hiệu RF trên sợi quang 62
2.5 Tổng kết chương 68
Câu hỏi/bài tập chương 2 68
Chương 3 Mạng truy nhập quang thụ động 70
3.1 Kiến trúc mạng PON 70
3.1.1 Mô hình tham chiếu 70
3.1.2 Kiến trúc cơ bản 71
3.1.3 Truyền dẫn hai chiều trong TDM-PON 74
3.1.4 Truyền dẫn xếp chồng tín hiệu truyền hình cáp tương tự 78
3.2 Các thành phần PON tích cực 80
3.2.1 Khối OLT 80
3.2.2 Khối ONU/ONT 81
3.3 Các thành phần thụ động 82
3.3.1 Bộ ghép WDM 82
3.3.2 Bộ chia tách công suất 87
3.3.3 Cáp quang cho hệ thống PON 89
3.3.4 Kết nối quang 91
3.4 Bộ thu phát PON 96
3.4.1 Chế độ truyền dẫn kiểu burst 96
3.4.2 Các công nghệ thu phát 100
3.5 Tổng kết chương 104
Câu hỏi/bài tập chương 3 104
Chương 4 Các công nghệ TDM-PON 106
4.1 Giới thiệu 106
4.2 Công nghệ BPON 107

v
4.2.1 Kiến trúc BPON 107
4.2.2 Đặc tính hoạt động của BPON 109
4.2.3 Điều khiển lưu lượng trong BPON 115
4.3 Công nghệ GPON 119
4.3.1 Kiến trúc GPON 119
4.3.2 Đặc tính của GPON 123
4.3.3 Lớp hội tụ truyền dẫn 126
4.4 Công nghệ Ethernet trong mạng truy nhập quang 138
4.4.1 Kiến trúc EPON 139
4.4.2 Chức năng MPCP 143
4.4.3 Ethernet điểm – điểm 148
4.5 Tổng kết chương 149
Chương 5 Công nghệ PON thế hệ mới 151
5.1 Xu hướng phát triển mạng PON 151
5.2 Các công nghệ PON miền quang khác 153
5.2.1 WDM-PON 153
5.2.2 CDMA-PON 158
5.2.3 OFDM-PON 160
5.3 Công nghệ NG-PON1 163
5.3.1 Kiến trúc mạng XG-PON 163
5.3.2 Các tiêu chuẩn liên quan đến lớp vật lý 165
5.3.3 Lớp hội tụ tuyền dẫn và cấu trúc khung 167
5.3.4 Sửa lỗi tiến (FEC) 171
5.3.5 Phương pháp đóng gói tin XG-PON (XGEM) 171
5.3.6 Quản lý XG-PON 173
5.3.7 Bảo mật trong XG-PON 173
5.4 Công nghệ NG-PON2 174
5.4.1 Yêu cầu chính đối với NG-PON2 174
5.4.2 Lựa chọn công nghệ cho NG-PON2 175

vi
5.4.3 Tiêu chuẩn ITU-T cho NG-PON2 177
5.5 Tổng kết chương 181
Chương 6 Một số vấn đề thiết kế và đo kiểm mạng FTTx 183
6.1 Các tiêu chuẩn thiết kế 183
6.1.1 Các yêu cầu cơ bản 184
6.1.2 Dự trữ hệ thống 185
6.1.3 Các mức bù công suất 186
6.2 Quỹ công suất tuyến 188
6.2.1 Tính quỹ công suất 189
6.2.2 Quỹ công suất cửa sổ 1310 nm 191
6.2.3 Quỹ công suất cửa sổ 1490 nm 194
6.3 Ước tính dung lượng tuyến 196
6.3.1 Công thức cơ bản 196
6.3.2 Thời gian lên của tuyến 198
6.4 Các chế độ bảo vệ mạng 199
6.5 Đo kiểm mạng FTTx 201
6.5.1 Các thiết bị đo kiểm cơ bản 202
6.5.2 Các phép đo kiểm tham số quang cơ bản 203
6.6 Tổng kết chương 209
Tài liệu tham khảo 212

vii
DANH SÁCH THUẬT NGỮ VIẾT TẮT

Ký hiệu Tiếng Anh Tiếng Việt

A
ADM Add Drop Multiplexer Bộ ghép kênh xen rẽ

APON ATM Passive Optical Network Mạng quang thụ động dùng ATM

ATM Asynchronous Tranfer Mode Chế độ truyền tải không đồng bộ


AUI Attchment Unit Interface Cáp nối với thiết bị

B
BER Bit Error Rate Tỷ lệ bit lỗi
BPON Broadband Passive Optical Mạng quang thụ động băng rộng
Network

C
CDM Code Division Multiplexing Ghép kênh theo mã

CE Customer Equipment Thiết bị khách hàng

CIR Constant Information Rate Tốc độ thông tin tốt nhất

CO Central Office Tổng đài trung tâm

CRC Cyclic Redundancy Check Kiểm tra vòng dư

Carrier sense Multiple access Đa truy nhập cảm nhận sống


CSMA/CD
collision detect mang/tách xung đột

D
DA Destination Address Địa chỉ đích
DCE Data Communications Thiết bị thông tin số liệu
Equipment
DCS Digital Crossconect Bộ nối chéo số

DFSM Dispersion Flattened single Sợi tán sắc phẳng


Mode

viii
DLC Digital Loop Carrier Sóng mang vòng số

DSL Digital Subcriber Loop Vòng thuê bao số


DSSM Dispersion Shifted Single Mode Sợi tán sắc dịch chuyển

DTE Data Terminal Equipment Thiết bị đầu cuối số liệu


Dense Wavelength Division Ghép bước sóng với mật độ cao
DWDM
Multiplexing

E
E-LAN Ethernet Local Area Network Mạng LAN Ethernet

E-Line Ethernet Line Đường Ethernet

EMS Element Management System Phần tử quản lý hệ thống


Ethernet Passive Optical Mạng quang thụ động
EPON
Network dùngEthernet
EVC Ethernet Virtual Connection Kết nối ảo Ethernet

F
FCS Frame Check Sequence Dãy bit kiểm tra khung

FDM Frequency Division Multiplexing Ghép kênh theo tần số

FSAN Full Service Access Network Tập dịch vụ mạng truy nhập

FTTB Fiber to the Building Cáp quang nối đến toà nhà
FTTC Fiber to the Curb Cáp quang nối đến cụm dân cư

FTTH Fiber to the Home Cáp quang nối tận nhà

H
Hybrid Fiber Coax Television Hệ thống phân phối tín hiệu
HFC System truyền hình lai ghép cáp quang-
cáp đồng trục

I
IFG Inter Frame Gap Khoảng cách giữa hai khung liền
kề
IP Internet Protocol Giao thức Internet

ix
IPG Inter Packet Gap Khoảng cách hai gói liền kề

ISO International Organization for Tổ chức tiêu chuẩn quốc tế


Standardization

L
LAN Local Area Network Mạng nội bộ

LLC Logical Link Control Điều khiển liên kết logic

Local MultiPoint Disttribution Hệ thống phân bố đa điểm cục bộ


LMDS
System
LTE Line Terminal Equipment Thiết bị kết cuối đường dây

M
MAC Medium Access Control Điều khiển truy nhập môi trường

MAN Metro Area Network Mạng diện rộng


MAU Media Access Unit Khối truy nhập môi trường

MDI Medium Dependent Interface Giao diện độc lập môi trường

Diễn đàn về Ethernet trong mạng


MEF Metro Ethernet Forum
diện rộng

MEN Metro Ethernet Network Mạng diện rộng dùng Ethernet

MIB Management Information Base Cơ sở thông tin quản lý


MII Medium Independent Interface Giao diện phụ thuộc môi trường

Multi Channel Multi Point Hệ thống phân bố đa kênh, đa


MMDS
distribution System điểm

MPCP MultiPoint Control Protocol Giao thức điều khiển đa điểm


MPLS Multi Protocol Label Switching Chuyển mạch nhãn đa giao thức

N
NIC Network Interface cards Card giao diện mạng

NLP Normal Link Pulse Xung báo hiệu liên kết bình
thường

x
OLT Optical Line Terminal Thiết bị kết cuối đường quang

ONT Optical Network Terminal Thiết bị kết cuối mạng quang

P
PCS Physical Coding Sublayer Lớp con mã hoá vật lý
PDU Protocol Data Units Đơn vị số liệu giao thức

PMA Physical Layer Attachment Truy nhập lớp vật lý

PMD Physical Medium Dependent Phụ thuộc môi trường vật lý


PON Passive Optical Network Mạng quang thụ động
PVC Permanent virtual Circuit Mạch ảo bán cố định

S
SA Source Address. Địa chỉ nguồn
SFD Start of Frame Delimiter Ranh giới bắt đầu khung

SME Station Management Entity Thực thể quản lý trạm

SMF Single Mode Fiber Sợi quang đơn mode


SSM Standard Single Mode Sợi đơn mode chuẩn

T
TCP Transport Control Protocol Giao thức điều khiển truyền tải
TDM Time Division Multiplexing Ghép kênh theo thời gian

U
UNI User Network Interface Giao diện mạng-người dùng

UTP Unshielded Twisted Pair Cáp trần xoắn đôi

V
VLAN Virtual Local Area Network Mạng LAN ảo
VPN Virtual Private Network Mạng riêng ảo

W
WAN Wide Area Network Mạng diện rộng

xi
WDM Wavelength Division Ghép kênh theo bước sóng
Multiplexing

xii
Chương 1 Tổng quan công nghệ truy nhập
băng rộng

Trong những thập kỉ qua đã chứng kiến nhiều sự thay đổi về công nghệ
mạng truy nhập để đáp ứng nhu cầu người dùng. Chương này sẽ trình bày tổng quan
các mạng truy nhập băng rộng hiện có, từ đó thấy được vai trò và sự phát triển của
mạng truy nhập quang.

1.1 Lịch sử phát triển


Mạng truyền thông toàn cầu ngày nay là một hệ thống vô cùng phức tạp và
bao phủ một vùng địa lý rất lớn tất cả trên thế giới và thậm chí ngoài không gian.
Một hệ thống phức tạp như vậy được xây dựng và được quản lý trong một cấu trúc
phân cấp gồm các mạng diện rộng, diện đô thị, diện truy nhập, cục bộ. Tất cả các
lớp mạng phối hợp để thực hiện siêu nhiệm vụ: truyền thông liên lạc trên bất cứ
phương tiện nào, bất cứ đâu, bất cứ lúc nào và cho bất cứ ai.

Hình 1-1 Kiến trúc phân cấp của hạ tầng mạng truyền thông toàn cầu.

1
- Mạng cục bộ: Các mạng cục bộ (LAN) kết nối chính các máy tính và các
thiết bị điện tử khác (máy chủ, máy in, v.v.) trong một văn phòng, một
tòa nhà hoặc một vài tòa nhà lân cận. Do đó, vùng phủ địa lý của LAN là
rất nhỏ trải từ vài mét đến vài trăm mét. Các LAN nhìn chung không phải
là một phần của các mạng công cộng nhưng được sở hữu và vận hành bởi
các tổ chức tư nhân. Các cấu hình chung của LAN là bus, vòng, sao hoặc
cây. Các LAN phổ biến nhất là các phần của Ethernet hỗ trợ vài trăm
người dùng có các tốc độ bit điển hình ở 10 hoặc 100 Mb/s.
- Mạng truy nhập: Các máy tính và thiết bị liên lạc khác của một tổ chức tư
nhân luôn luôn được kết nối với một mạng viễn thông công cộng thông
qua các mạng truy nhập. Các mạng truy nhập tạo cầu nối những người
dùng đầu cuối đến các nhà cung cấp dịch vụ thông qua cặp đôi dây xoắn
(đường dây điện thoại), cáp đồng trục, hoặc các đường dây thuê riêng
(như OC3 thông qua sợi quang). Khoảng cách điển hình bao phủ bởi một
mạng truy nhập là một vài km lên tới 20 km. Đối với người dùng đầu
cuối cá nhân, các mạng truy nhập sử dụng công nghệ DSL hoặc modem
cáp có tốc độ truyền dẫn cỡ một vài Mbit/s; đối với người dùng doanh
nghiệp, các mạng sử dụng các tuyến sợi quang điểm-điểm tại hàng trăm
Mbit/s hoặc Gbit/s.
- Mạng vùng đô thị: Các mạng vùng đô thị (MAN) tập hợp lưu lượng từ
các mạng truy nhập và truyền tải dữ liệu tại tốc độ cao hơn. Vùng bao
phủ điển hình của một MAN trải rộng trên một khu vực đô thị hoặc một
vùng nhỏ ở ngoại thành. Cấu hình của MAN thường là một cấu hình vòng
sợi quang kết nối nhiều tổng đài với tốc độ truyền dẫn điển hình là 2,5
hoặc 10 Gbit/s.
- Mạng diện rộng: Các mạng diện rộng (WAN) mang một lượng lớn lưu
lượng giữa các thành phố, các quốc gia và các lục địa. MAN ghép lưu
lượng từ các LAN và truyền tải lưu lượng tổng tại tốc độ dữ liệu cao hơn
nhiều, điển hình hàng chục Gbit/s hoặc cao hơn khi sử dụng công nghệ
ghép kênh phân chia theo bước sóng (WDM) trên sợi quang. Trong khi
một WAN bao phủ khu vực của một quốc gia hoặc trong một số trường
hợp là nhiều quốc gia, một tuyến thông qua một MAN có thể dài cỡ vài
ngàn km. Vượt ngoài MAN, các tuyến cáp biển kết nối các lục địa với
nhau. Nhìn chung, các hệ thống thông tin quang biển là các tuyến điểm –
điểm có dung lượng lớn và khoảng cách dài từ vài ngàn lên tới cả 10000

2
km. Vì các tuyến này được thiết kế cho khoảng cách siêu dài và vận hành
dưới biển, các yêu cầu thiết kế nghiêm ngặt hơn nhiều so với các tuyến
trên đất liền. Hiện tại, các tuyến thông tin quang biển được sử dụng qua
các đại dương Thái Bình Dương và Đại Tây Dương. Một số các tuyến
thông tin quang biển ngắn hơn cũng được sử dụng rộng rãi ở các khu vực
Địa Trung Hải, Châu Á Thái Bình Dương và Châu Phi.
- Hội tụ dịch vụ: Trong lịch sử, các mạng truyền thông cung cấp chủ yếu ba
loại dịch vụ: thoại, dữ liệu và video (triple play). Đàm thoại sử dụng điện
thoại truyền thống là một tín hiệu tương tự liên tục 3,4 kHz được mang
bởi các kênh điểm – điểm hai chiều có yêu cầu trễ rất ngặt nghèo. Tín
hiệu TV tiêu chuẩn là một tín hiệu tương tự liên tục 6 MHz thường được
phân phối kiểu phát quảng bá điểm – đa điểm. Truyền dữ liệu điển hình
dạng chùm gói tin có băng thông và yêu cầu trễ biến đổi. Vì các đặc tính
lưu lượng của thoại, dữ liệu và video và các yêu cầu tương ứng của chúng
như chất lượng dịch vụ (QoS) cơ bản khác nhau, nên ba kiểu mạng chính
đã được phát triển cụ thể để phân phối các dịch vụ này theo một kiểu hiệu
quả về chi phí: PSTN (Mạng thoại chuyển mạch công cộng) cho liên lạc
thoại, mạng HFC (lai ghép cáp đồng trục sợi quang) cho phân phối video,
và Internet cho truyền dữ liệu. Mặc dù các mạng HFC được tối ưu cho
phát quảng bá video, liên lạc một chiều là không phù hợp với dữ liệu
hoặc thoại hai chiều. PSTN lựa chọn công nghệ chuyển mạch kênh để
mang thông tin có băng tần hoặc tốc độ dữ liệu xác định như các tín hiệu
thoại. Tuy nhiên các mạng chuyển mạch kênh không hiệu quả cho việc
mang lưu lượng dữ liệu dạng burst. Với chuyển mạch gói, Internet có thể
hỗ trợ truyền dữ liệu dạng burst, nhưng nó rất khó đáp ứng được các đòi
hỏi trễ ngặt nghèo cho các ứng dụng xác định. Do đó, không có mạng
đơn nào có thể thỏa mãn tất cả các yêu cầu dịch vụ. Các ứng dụng đa
phương tiện đang nổi lên như video theo yêu cầu, e-learning và trò chơi
tương tác đòi hỏi truyền dẫn đồng thời thoại, dữ liệu và video. Kích thích
bởi nhu cầu người dùng và sự cạnh tranh gay gắt, các nhà cung cấp dịch
vụ đang dịch chuyển hướng tới một mạng hội tụ cho các ứng dụng đa
phương tiện, cái sử dụng các công nghệ giao thức Internet (IP) để cung
cấp các dịch vụ triple-play. Vì VoIP (thoại trên nền IP) đã được phát triển
trong vài năm quá khứ và gần đây hơn IP TV đã trở thành một công nghệ
chín muồi, nên tất cả các dịch vụ mạng sẽ hội tụ trong một nền tảng dịch

3
vụ dựa trên IP. Hơn nữa, sự tích hợp các công nghệ quang và vô tuyến sẽ
làm dịch vụ quadruple-play (thoại, dữ liệu, video và di động) thành thực
tế trong tương lai gần.
Mạng truy nhập truyền thống bao gồm các kết nối có dây điểm – điểm giữa
các thuê bao điện thoại và một hệ thống chuyển mạch hoặc ghép kênh điện tử.
Mạng truy nhập ban đầu đã sử dụng một đôi dây riêng biệt (được xem như là đường
cáp đồng hoặc mạch vòng) giữa thuê bao và tổng đài trung tâm (CO – central
office). Khi chi phí công nghệ ghép kênh giảm xuống, nó trở nên kinh tế hơn trong
nhiều trường hợp để kết nối các thuê bao đến một thiết bị đầu cuối xa. Thiết bị đầu
xa (RT) này sẽ ghép các cuộc gọi từ nhiều thuê bao trên lên một số lượng đường
dây nhỏ hơn để kết nối với CO. Chi phí mạng được giảm xuống bằng việc sử dụng
các cặp đôi dây ít hơn từ CO đến các khu vực xa. Khi công nghệ tiến triển từ ghép
kênh miền tần số tương tự (FDM) sang ghép kênh số miền thời gian (TDM), các hệ
thống RT trở thành các hệ thống gọi là nhà mạng mạch vòng số (DLC).
Truy nhập dữ liệu đến mạng điện thoại đã bắt đầu bằng cách đưa các modem
băng tần thoại có thể phát dữ liệu như là một tín hiệu điều chế trong tần số thông dải
băng tần thoại 4 kHz theo danh định. Các đường dây mạch vòng ngắn hơn bởi DLC
đã làm các công nghệ điều chế hiệu suất lớn hơn trở thành thiết thực. Tuy nhiên,
dung lượng dữ liệu cực đại của các modem thoại bị giới hạn ở 33,6 kbit/s hoặc 56
kbit/s dưới hoàn cảnh đặc biệt.
Như một kết quả, các công nghệ ngoài băng được giới thiệu phát các tín hiệu
trên đường cáp đồng tại các tần số ngoài băng tần thoại. Vì các công nghệ này gửi
thông tin số trong các tín hiệu ngoài băng, chúng được gọi chung là công nghệ
đường dây thuê bao số (DSL).
Vì các đường dây thuê bao được triển khai trên các đôi dây xoắn, với nhiều
đường dây chia sẻ cùng một cáp mà không có được che bảo vệ điện từ với nhau,
nên có các giới hạn về băng thông có thể thực hiện được bằng DSL. Vì lí do này,
các nhà cung cấp mạng trở nên quan tâm đến các giải pháp công nghệ thay thế
đường dây thuê bao để cung cấp truy nhập băng rộng. Ba công nghệ chính cạnh
tranh là công nghệ kết nối cáp đồng trục, cáp sợi quang và vô tuyến không dây.
Các mạng cáp đồng trục đã được sử dụng bởi các công ty truyền hình cáp
(CATV) để cung cấp dịch vụ phân phối video quảng bá. Vì các khả năng băng
thông cao của cáp đồng trục, chúng có tiềm năng để cung cấp các dịch vụ băng rộng
cho các thuê bao. Để cung cấp các dịch vụ dữ liệu băng rộng, các công ty CATV đã

4
tiến triển các mạng của chúng để hỗ trợ truyền dẫn dữ liệu hướng lên và đưa vào
cáp sợi quang cho hiệu năng cao hơn trong phần cáp gốc (feeder) của mạng.
Các nhà cung cấp mạng điện thoại đã đáp lại các ưu điểm băng rộng tiềm
năng của các công ty CATV bằng việc sử dụng sợi bổ sung trong các mạng truy
nhập của họ. Các công ty điện thoại đã sử dụng sợi trực tiếp tới mỗi nhà thuê bao
trong một số khu vực. Các công ty khác đang sử dụng sợi quang tới các đầu cuối đủ
gần nhà thuê bao để các dịch vụ băng rộng có thể được cung cấp bởi các công nghệ
DSL tốc độ cao mới nhất. Đặc điểm hấp dẫn nhất ở sợi quang là dung lượng băng
thông không bị giới hạn. Nhược điểm cơ bản là chi phí tương đối cao của mạng và
các thành phần quang liên quan.
Truy nhập không dây ban đầu không phải là công nghệ cạnh tranh có nghĩa
cho truy nhập băng rộng. Tuy nhiên khi các mạng di động trở nên được sử dụng
rộng rãi và các công nghệ và các giao thức mới đã được phát triển, truy nhập băng
rộng không dây đã ngày càng trở nên quan trọng. Nó đặc biệt hấp dẫn trong các
vùng thiếu cơ sở hạ tầng cáp có thể đáp ứng sự tiến triển của các dịch vụ băng rộng.
Các ví dụ các vùng như vậy bao gồm các quốc gia đang phát triển và các vùng nông
thôn. Nó cũng cho phép ưu điểm rất có nghĩa là cho phép cung cấp dịch vụ di động
mọi lúc mọi nơi hơn là giới hạn dịch vụ tại nhà thuê bao.
Vì một lượng phổ giới hạn sẵn có cho sử dụng trong các dịch vụ băng rộng,
các mạng để hỗ trợ điều này đang trở nên ngày càng phức tạp. Đối với hiệu suất
phổ, các mạng không dây sử dụng các lưới ăngten mà mỗi thuê bao chỉ cần đủ công
suất để đạt tới ăngten gần nhất. Vùng được bao phủ bởi mỗi ăngten được xem như
là một tế bào. Kết quả là cùng tần số có thể được sử dụng bởi các thuê bao trong các
tế bào không cạnh nhau, vì các tín hiệu của chúng không nên truyền đủ xa để gây
giao thoa với nhau. Các định dạng tín hiệu đã được tối ưu hóa trong các giao thức
mới nhất để tiếp cận giới hạn Shannon cho các bit dữ liệu được phát trên đơn vị
băng thông kênh truyền. Dung lượng được tăng thêm bằng việc tái sử dụng phổ
thông qua các tế bào nhỏ hơn và các công nghệ ăngten thông minh. Cả hai cộng
thêm chi phí và các tín hiệu vô tuyến luôn luôn dễ bị tác động bởi các kiểu giao thoa
khác nhau so với các công nghệ hữu tuyến.
.

5
1.2 Công nghệ DSL
Mạch vòng thuê bao số là một họ công nghệ truy nhập sử dụng đường dây
điện thoại (đôi dây xoắn) để cung cấp dịch vụ truy nhập băng rộng. Trong khi các
tín hiệu thoại được mang bởi hệ thống điện thoại bị giới hạn từ 300 đến 3400 Hz,
đôi dây xoắn kết nối người dùng với tổng đài có thể cho phép mang các tần số ngoài
giới hạn 3,4 kHz của hệ thống điện thoại. Phụ thuộc vào độ dài và chất lượng của
đôi dây xoắn, giới hạn trên có thể mở rộng lên tới hàng chục MHz. DSL tận dụng
băng thông không sử dụng này và truyền dữ liệu sử dụng các kênh đa tần. Như vậy,
một số kiểu DSL cho phép sử dụng đồng thời truy nhập thoại và băng rộng trên
cùng đôi dây xoắn.
Hình 1-2 cho thấy thiết lập điển hình của một cấu hình DSL. Tại tổng đài,
một thiết bị DSLAM (Bộ ghép kênh truy nhập DSL) gửi dữ liệu tới người dùng
thông qua các kênh hướng xuống. Tại phía người dùng, một modem DSL hoạt động
như một bộ điều chế/giải điều chế (tức thu dữ liêu từ DSLAM và điều chế dữ liệu
người dùng cho truyền dẫn hướng lên).

1.2.1 Các tiêu chuẩn DSL


DSL có các tiêu chuẩn khác nhau hỗ trợ các tốc độ hướng lên/hướng xuống
và khoảng cách truy nhập khác nhau. Các tiêu chuẩn DSL được quy định trong
ANSI T1 và khuyến nghị ITU-T G.992/993. Bảng 1.1 liệt kê các tiêu chuẩn DSL và
hiệu năng của chúng. Nhìn chung, các công nghệ DSL này được xem như là xDSL.
Hai tiêu chuẩn DSL được sử dụng phổ biến là ADSL và VDSL.

Hình 1-2 Mạng truy nhập DSL

6
Như tên cho thấy, ADSL hỗ trợ truyền dẫn bất đối xứng. Vì tỉ lệ bất đối xứng
lưu lượng điển hình là khoảng 2:1 tới 3:1, nên ADSL trở thành sự lựa chọn phổ biến
cho truy nhập băng rộng. Thêm nữa, có xuyên âm nhiều hơn từ các kênh khác tại
đầu cuối DSLAM. Khi tín hiệu hướng lên là yếu tại đầu DSLAM, nó dễ hiểu về mặt
kỹ thuật để có tốc độ hướng lên thấp hơn. Phụ thuộc vào độ dài và chất lượng (như
tỉ lệ tín hiệu trên nhiễu) của đôi dây xoắn, tốc độ hướng xuống có thể cao cỡ 10 lần
của hướng lên. Khoảng cách cực đại của ADSL là 5500 m. Trong khi ADSL1 có
thể hỗ trợ tốc độ hướng xuống lên tới 8 Mbit/s và một tốc độ hướng lên tới 896
kbit/s, ADSL2 hỗ trợ lên tới 15 Mbit/s hướng xuống và 3,8 Mbit/s hướng lên.
Bảng 1.1 Các tiêu chuẩn DSL

Để hỗ trợ các tốc độ bit cao hơn, tiêu chuẩn VDSL đã được phát triển sau
ADSL. Bù trừ khoảng cách truyền dẫn cho tốc độ dữ liệu, VDSL có thể hỗ trợ tốc
độ cao hơn nhiều nhưng có khoảng cách rất hạn chế. Tiêu chuẩn VDSL1 xác định
tốc độ dữ liệu cỡ 50 Mbit/s cho luồng xuống và 30 Mbit/s cho luồng lên. Khoảng
cách cực đại của VDSL1 bị giới hạn ở 1500 m. Bộ tiêu chuẩn VDSL mới hơn,
VDSL2 là một sự tăng cường của VDSL1 hỗ trợ tốc độ lên tới 100 Mbit/s (với
khoảng cách truyền dẫn cỡ 500 m). Tại khoảng cách 1 km, tốc độ bit sẽ giảm xuống
50 Mbit/s. Đối với các khoảng cách dài hơn 1,6 km, chất lượng VDSL2 xuống sát
với ADSL. Vì tốc độ dữ liệu cao hơn và khoảng cách dài như ADSL, VDSL2 được
coi như là giải pháp hứa hẹn cho việc nâng cấp hạ tầng ADSL hiện tại.

7
ADSL và VDSL được thiết kế cho các thuê bao nhà dân có nhu cầu băng
thông bất đối xứng. Đối với người dùng doanh nghiệp, các kết nối đối xứng thường
được yêu cầu. Hai tiêu chuẩn DSL đối xứng, HDSL và SHDSL, được phát triển cho
các khách hàng doanh nghiệp. Trong khi HDSL hỗ trợ tốc độ dữ liệu đường truyền
T1 tại 1,552 Mbit/s (gồm 8 kbit/s mào đầu) với khoảng cách cỡ khoảng 4000 m, thì
SHDSL có thể cung cấp tốc độ dữ liệu 6,696 Mbit/s với khoảng cách cực đại cỡ
5500 m. Tuy nhiên, HDSL và SHDSL không hỗ trợ dịch vụ thoại đồng thời vì hầu
hết các khách hàng doanh nghiệp không có đòi hỏi một kênh thoại đồng thời.

1.2.2 Các phương pháp điều chế


DSL sử dụng phương pháp điều chế đa tần rời rạc (DMT). Trong điều chế
DMT, khai triển Fourier đảo rời rạc chuyển đổi phức thành thực được sử dụng để
phân chia băng tần sẵn có của đôi dây sẵn thành 256 kênh con trực giao. DMT thích
ứng với chất lượng của đôi dây xoắn, do đó tất cả băng tần sẵn có được sử dụng
hoàn toàn. Tỉ số tín hiệu trên nhiễu của mỗi kênh con được giám sát liên tục. Dựa
trên tốc độ lỗi bít và mức nhiễu dư, một tập các kênh con được lựa chọn và một
khối bit dữ liệu được sắp xếp vào các kênh con. Trong mỗi kênh con, QAM (điều
chế biên độ cầu phương) với tốc độ ký hiệu 4 kHz được sử dụng để điều chế luồng
bít lên một sóng mang con dẫn đến tốc độ 60 kbit/s mỗi kênh. Điển hình dải tần
giữa 25 và 160 kHz được sử dụng cho truyền dẫn hướng lên, và 140 kHz đến 1,1
MHz được sử dụng cho truyền dẫn hướng xuống.

Hình 1-2 Mạng truy nhập DSL

DSL đã được thiết kế ban đầu để mang dữ liệu trên đường dây điện thoại và
tín hiệu DSL được tách khỏi tín hiệu thoại. Gần đây, các giao thức mới đã được đề
xuất để để gộp thoại và dữ liệu ở mức kênh. Với công nghệ mã hóa tiên tiến, một tín
hiệu thoại số hóa 64 kbit/s có thể được nén xuống 8 kbit/s hoặc nhỏ hơn, như vậy
cho phép nhiều kênh thoại hơn được mang trên cùng đường truyền thoại. Một cổng
kết nối thoại trên DSL (VoDSL) chuyển đổi và nén tín hiệu thoại tương tự thành
luồng bit số, do vậy các cuộc gọi này qua VoDSL không thể phân biệt với các cuộc
8
gọi truyền thống. Thông thường, 12 đến 20 kênh thoại có thể được mang trên một
đường DSL phụ thuộc vào khoảng cách truyền dẫn và chất lượng tín hiệu. Một hệ
thống VoDSL có thể được tích hợp vào các giao thức lớp cao hơn như IP và ATM.
Các mạng DSL đầu tiên đã sử dụng ATM để đảm bảo QoS, trong đó các kênh ảo
ATM đã được sử dụng cho lưu lượng thoại. Các mạng ADSL và VDSL dịch chuyển
sang truyền tải dựa trên gói và chúng sử dụng các kênh ảo dựa trên chuyển mạch
gói thay cho ATM.

1.3 Công nghệ HFC


Mạng cáp ban đầu được phát triển vì một lí do rất đơn giản: phân phối tín
hiệu TV. Do đó, các mạng cáp được tối ưu cho phát quảng bá các tín hiệu TV tương
tự một chiều điểm – đa điểm. Khi các hệ thống thông tin quang phát triển, hầu hết
các hệ thống truyền hình cáp đã được nâng cấp dần dần thành mạng lai ghép cáp
đồng trục sợi quang (HFC), loại bỏ rất nhiều các bộ khuếch đại điện dọc theo các
đường trung kế. Tuy nhiên, trước khi công nghệ truy nhập cáp có thể được sử dụng
thì một đường thông trở về phải được triển khai cho lưu lượng hướng lên. Để hỗ trợ
liên lạc hai chiều, các bộ khuếch đại song hướng phải được sử dụng trong các hệ
thống HFC mà ở đó các bộ lọc được sử dụng để tách các tín hiệu hướng lên và
hướng xuống cho khuếch đại riêng biệt.

Hình 1-3 Mạng HFC

Hình 1-3 cho thấy kiến trúc mạng của một mạng HFC điển hình. Trong các
mạng HFC, các tín hiệu TV tương tự được mang từ trạm trung tâm truyền hình
(headend) tới các nút phân phối sử dụng sợi quang, và từ các nút phân phối các
nhánh cáp đồng trục được sử dụng để phục vụ 500 tới 2000 thuê bao. Như cho thấy
trong hình, một mạng HFC là một hệ thống môi trường chia sẻ có cấu hình cây.
Trong một cấu hình như vậy, nhiều người dùng chia sẻ cùng hạ tầng HFC, do vậy
điều khiển truy nhập môi trường được yêu cầu trong truyền dẫn hướng lên trong khi

9
truyền dẫn hướng xuống sử dụng chế độ phát quảng bá. Một modem cáp được sử
dụng tại đầu cuối thuê bao cung cấp kết nối dữ liệu cho mạng cáp, trong khi tại
headend hệ thống kết cuối modem cáp kết nối với nhiều máy chủ dữ liệu và cung
cấp dịch vụ cho các thuê bao.
So với các đôi dây xoắn trong hệ thống điện thoại, các cáp đồng trục có băng
thông cao hơn nhiều (1000 MHz), như vậy có thể hỗ trợ tốc độ dữ liệu cao hơn
nhiều. Phụ thuộc vào tỉ lệ tín hiệu trên nhiễu trrên cáp đồng trục, tốc độ 40 Mbit/s
có thể được phân phối tới người dùng đầu cuối bằng sử dụng điều chế QAM. Đối
với truyền dẫn hướng lên, điều chế QPSK có thể phân phối tốc độ dữ liệu lên tới 10
Mbit/s. Tuy nhiên, vì hệ thống cáp là mạng môi trường chia sẻ, như vậy băng thông
được chia sẻ với tất cả các modem cáp được kết nối với mạng. Ngược lại, DSL sử
dụng các đôi dây xoắn riêng biệt cho mỗi người dùng, không có sự chia sẻ băng
thông cho những người dùng khác nhau. Hơn nữa, vì băng thông truyền dẫn phải
được chia sẻ bởi nhiều người dùng nên giao thức điều khiển truy nhập môi trường
phải được sử dụng để điều khiển truyền dẫn hướng lên. Nếu nghẽn xảy ra trong một
kênh xác định, thì headend phải có thể chỉ dẫn các modem cáp điều chỉnh bộ thu tới
một kênh khác.

1.3.1 Modem cáp


Các modem cáp đã được phát triển để truyền tải dữ liệu tốc độ cao tới và từ
người dùng đầu cuối trong mạng HFC. Phát quảng bá TV truyền thống chiếm vùng
tần số lên tới 1 GHz với mỗi kênh TV chiếm 6 MHz băng thông. Một modem cáp
sử dụng hai trong các kênh 6 MHz này để truyền dữ liệu. Đối với truyền dẫn hướng
lên, một modem cáp gửi dữ liệu người dùng tới headend nhờ sử dụng một băng 6
MHz giữa 5 và 42 MHz. Đồng thời, modem cáp phải điều chỉnh bộ thu của nó tới
một băng 6 MHz trong dải 450 đến 750 MHz để thu dữ liệu hướng xuống. Trong
khi một chế độ điều chế QAM được sử dụng cho dữ liệu hướng xuống, thì chế độ
QPSK thường được lựa chọn cho truyền dẫn hướng lên vì nó miễn nhiễm tốt hơn
với sự giao thoa gây ra từ phát quảng bá vô tuyến.

1.3.2 DOCSIS
DOCSIS (Đặc điểm giao diện dịch vụ dữ liệu trên cáp) được phát triển bới
Cable-Labs, một hiệp hội các nhà sản xuất thiết bị, là tiêu chuẩn hiện hành cho công
nghệ truy nhập cáp. DOCSIS định nghĩa các chức năng và các tính chất của modem
cáp tại nhà thuê bao và hệ thống kết cuối modem cáp tại headend. Như tên của nó

10
cho thấy, DOCSIS xác định các đặc tính lớp vật lý như tần số truyền dẫn, tốc độ bít,
định dạng điều chế và các mức công suất của modem cáp và hệ thống kết cuối
modem cáp, mà còn cả giao thức lớp liên kết dữ liệu như cấu trúc khung, điều khiển
truy nhập môi trường và bảo mật tuyến. Ba phiên bản khác nhau của DOCSIS đã
được phát triển trong thời gian qua và sau đó đã được phê chuẩn như là khuyến nghị
ITU-T J.112, J.122 và J.222. Mặc dù một số thỏa hiệp được cần vì mạng cáp là một
môi trường chia sẻ, DOCSIS cho phép các lớp dịch vụ khác nhau với điều khiển
truy nhập môi trường. Các đặc trưng QoS nổi bật trong DOCSIS có thể hỗ trợ các
ứng dụng (như VoIP) có yêu cầu trễ và băng thông nghiêm ngặt.
Lớp vật lý: Lớp PMD hướng lên hỗ trợ hai định dạng điều chế: QPSK và 16-
QAM, và các lớp PMD hướng xuống sử dụng 64-QAM và 256-QAM. Tốc độ ký
hiệu danh định là 0,16, 0,32, 0,64, 1,28, 2,56 hoặc 5,12 Mbaud. Do đó, tốc độ dữ
liệu hướng xuống cực đại là khoảng 40 Mbit/s và tốc độ dữ liệu hướng lên là
khoảng 20 Mbit/s. Để loại trừ ảnh hưởng của nhiễu và các ảnh hưởng xấu khác của
kênh truyền, mã hóa Reed-Solomon, bộ cân bằng khối phát và các chế độ đan xen
khả biến thường được sử dụng.
Lớp liên kết dữ liệu: Lớp liên kết dữ liệu DOCSIS xác định cấu trúc khung,
MAC và bảo mật tuyến. Cấu trúc khung được sử dụng trong mạng HFC tương tự
với Ethernet trong cả hai chiều lên và xuống. Đối với chiều xuống, các khung dữ
liệu được gắn vào trong các gói MPEG-2 188 byte (ITU-T H.222.0) có mào đầu 4
byte theo sau là 184 byte tải trọng. Luồng xuống sử dụng chế độ truyền dẫn TDM
đồng bộ với tất cả các modem. Trong chiều lên, TDMA hoặc S-CDMA được định
nghĩa cho điều khiển truy nhập môi trường. Một gói hướng lên bao gồm mào đầu
lớp vật lý, một từ mã độc nhất, mào đầu MAC, tải trọng gói và các byte FEC. Đặc
điểm lớp MAC cũng bao gồm quá trình đăng ký modem, định cỡ, cấp phát băng
thông, phát hiện xung đột và giải quyết tranh chấp, phát hiện lỗi và phục hồi dữ
liệu. Một cơ chế bảo mật truy nhập trong DOCSIS định nghĩa một giao diện riêng
tư gốc, giao diện hệ thống bảo mật và giao diện module bảo mật tháo được để đảm
bảo bảo mật thông tin trong mạng HFC.

1.4 Công nghệ PLC


Các đường cấp nguồn điện xoay chiều từ lâu đã được xem xét là môi trường
liên lạc có thể làm việc được. Trong nhiều thập kỷ, các công ty điện lực đã sử dụng
các đường dây điện cho báo hiệu và điều khiển, nhưng chúng được sử dụng chính
cho quản lý nội bộ các lưới điện, liên lạc hộ gia đình và điều khiển chiếu sáng. Khi

11
các quy định giới hạn hai ngành công nghiệp viễn thông và điện lực được dỡ bỏ vào
những năm 1990, thì truy nhập băng rộng trên các đường dây điện trở thành một
khả năng. Vì các đường dây điện thâm nhập đến nhà dân nhiều hơn bất kỳ môi
trường khác, nên nhiều nỗ lực đã được thực hiện để phát triển truy nhập tốc độ cao
trên đường dây điện. Một số giải pháp đã được đề xuất và được kiểm thử trên thực
tế. Mặc dù các công nghệ khác chiếm ưu thế trong dịch vụ truy nhập băng rộng,
truy nhập qua đường dây điện (PLC) có thể vẫn chiếm một phần nhất định trong thị
trường hiện tại. Ví dụ trong một số khu vực nông thôn, hạ tầng xây dựng để cung
cấp DSL hoặc HFC có thể rất đắt tiền, trong khi PLC có thể dễ dàng cung cấp các
dịch vụ băng rộng. Ở bất cứ đâu có điện ở đó có thể có dịch vụ băng rộng qua
đường dây điện. Thêm nữa, có một tiềm năng lớn để kết nối mạng tất cả các thiệt bị
điện dân dụng trong một hộ gia đình thông qua đường dây điện, như vậy cung cấp
một giải pháp nhà thông minh (smarthome). Tuy nhiên hiện tại công nghệ PLC và
tiềm năng thị trường của nó vẫn cần phải được phát triển thêm.

Hình 1-4 Mạng lưới phân phối điện

1.4.1 PLC
Hình 1-4 cho thấy cấu hình của mạng lưới phân phối điện. Nguồn điện ba
pha được tạo ra tại nhà máy điện đi vào phân trạm truyền dẫn mà ở đó nguồn điện
ba pha được tạo ra bởi các máy phát điện được chuyển đổi thành điện áp cao thế
(155 đến 765 kV) cho truyền dẫn đường dài trên lưới điện. Trong lưới điện truyền
dẫn, nhiều trạm điện chuyển đổi điện cao thế xuống điện áp trung thế cho phân phối
(nhỏ hơn 10 kV) và điện trung thế này được gửi qua một bus cái có thể tách nguồn

12
thành nhiều hướng. Dọc bus phân phối, có các dải biến áp cái điều khiển điện áp
trên đường dây để tránh tăng hoặc sụt áp, và các nhánh để gửi điện xuống các phố.
Tại mỗi tòa nhà hoặc nhà, có một tủ biến thế gắn với cột điện để giảm điện áp trung
thế (điển hình 7,2 kV) xuống điện áp sử dụng (110 hoặc 240 V).

Hình 1-5 Truy nhập băng rộng qua đường cấp điện

Truy nhập băng rộng trên đường dây điện sử dụng các đường dây điện trung
thế để phát dữ liệu đến và từ mỗi nhà như thể hiện ở hình 1-5. Điển hình, các bộ lặp
được lắp đặt dọc đường dây điện cho truyền dữ liệu khoảng cách lớn, và một số
thiết bị bypass cho phép các tín hiệu RF đi qua các bộ biến áp. Trong phần cuối của
truyền dữ liệu, các tín hiệu có thể được truyền tới mỗi nhà bằng đường dây điện
hoặc thay thế bằng sử dụng WiFi hoặc công nghệ không dây khác cho kết nối cuối
cùng.

1.4.2 Modem BPL


Một modem BPL cắm vào ổ điện thông thường trên tường, gửi và thu nhận
dữ liệu thông qua đường dây điện. Trên đầu khác, modem BPL kết nối với các máy
tính hoặc các thiết bị mạng khác bằng đường truyền cáp Ethernet. Trong một số
trường hợp, một bộ định tuyến không dây có thể được tích hợp trong modem BPL.
Các modem BPL phát ở dải trung đến cao tần từ một vài MHz đến hàng chục MHz.
Tốc độ dữ liệu điển hình được hỗ trợ bởi modem BPL nằm trong dải từ hàng trăm
kbit/s đến vài Mbit/s. Các chế độ điều chế khác nhau có thể được sử dụng cho PLC
bao gồm ASK, FSK và các công nghệ DMT, DSSS (trải phổ chuỗi trực tiếp) và
OFDM. Điều chế DMT, DSSS hoặc OFDM được ưu tiên lựa chọn trong các

13
modem BPL hiện nay vì nó khả năng chịu nhiễu và giao thoa mạnh mẽ của chúng.
Nghiên cứu gần đây đã chứng minh tốc độ dữ liệu Gbit/s trên đường dây điện sử
dụng sóng vi ba thông qua lan truyền sóng bề mặt. Công nghệ này có thể tránh được
các vấn đề giao thoa thường gặp trong các đường dây điện.

1.4.3 Các thách thức trong BPL


BPL là một công nghệ hứa hẹn, nhưng sự phát triển của nó tương đối chậm
khi so sánh với DSL và HFC. Có một số thách thức kỹ thuật cần phải được khắc
phục. Một đường dây điện không phải là một môi trường tốt cho truyền dữ liệu: Các
biến áp khác nhau được sử dụng trong lưới điện không cho các tín hiệu RF đi qua,
nhiều nguồn phản xạ tín hiệu (không phối hợp trở kháng, và thiếu kết cuối trở
kháng phù hợp) trên đường dây điện cản trở truyền dữ liệu, và nhiễu từ nhiều nguồn
(như các động cơ điện) làm ô nhiễm phổ truyền dẫn. Vì các đường dây điện bao
gồm dây không xoắn và không bọc, khoảng cách dài của chúng làm chúng trở thành
các ăngten lớn phát xạ các tín hiệu RF và giao thoa với các hệ thống liên lạc vô
tuyến khác. Hơn nữa, một đường dây điện là một môi trường chia sẻ nên giới hạn
băng thông được cấp phát cho mỗi người dùng và làm tăng các mối quan tâm về
bảo mật cho liên lạc riêng tư. Tất cả những vấn đề này phải được xác định đầy đủ
trước khi có thể được triển khai ở quy mô lớn. May mắn, nhiều tiến bộ đã được thực
hiện thông qua nghiên cứu mạnh mẽ trong những năm gần đây. BPL đã sẵn sàng để
trở thành công nghệ hứa hẹn thâm nhập vào thị trường có tính cạnh tranh cao hiện
nay.

1.5 Công nghệ truy nhập vô tuyến


Bắt đầu bằng liên lạc và truyền hình quảng bá RF, các công nghệ liên lạc
không dây đã có tác động ảnh hưởng mạnh mẽ trên toàn thế giới từ đầu thế kỷ 20.
Ngày nay, hệ thống phát thanh AM/FM và truyền hình quảng bá bao trùm mọi lục
địa ngoại trừ Nam Cực; các mạng thông tin di động cung cấp liên lạc thoại tới hàng
trăm triệu người dùng; hệ thống vệ tinh cung cấp các tuyến liên lạc và phát quảng
bá video trên toàn thế giới; Bluetooth và LAN không dây hỗ trợ dịch vụ di động tới
từng cá nhân. Các mạng không dây là ở mọi nơi. Sự phổ biến của các công nghệ
không dây chủ yếu vì tính di động, khả năng mở rộng, chi phí thấp và dễ sử dụng
của nó. Các công nghệ không dây sẽ tiếp tục vai trò quan trọng trong đời sống hàng
ngày của chúng ta, và các mạng không dây thế hệ thứ 4 sẽ có thể cung cấp
quadruple-play thông qua sự tích hợp liên thông của nhiều mạng không dây bao
gồm các mạng không dây cá nhân, LAN không dây, mạng truy nhập không dây,
14
mạng diện rộng di động và mạng vệ tinh. Trong những năm gần đây, một số công
nghệ vô tuyến đã được phát triển như là lựa chọn thay thế cho dịch vụ truy nhập
hữu tuyến truyền thống (DSL, HFC và PON). Ngoại trừ thông tin quang vô tuyến,
hầu hết các mạng truy nhập không dây sử dụng các tín hiệu RF để thiết lập các
tuyến liên lạc giữa tổng đài và các thuê bao. Trong phần này chúng ta đề cập đến
các công nghệ truy nhập vô tuyến băng rộng khác nhau và các đặc tính của chúng.
Sự lựa chọn các công nghệ truy nhập vô tuyến phụ thuộc nhiều vào các ứng dụng,
tốc độ dữ liệu yêu cầu, phổ tần sẵn có và khoảng cách truyền dẫn. Mặc dù các mạng
truy nhập vô tuyến không thể cạnh tranh với các công nghệ truy nhập hữu tuyến về
mặt tốc độ dữ liệu và độ tin cậy, nhưng chúng cho thấy tính linh hoạt và di động mà
các công nghệ khác không thể cung cấp. Do đó, các mạng truy nhập vô tuyến bù
đắp cho các công nghệ truy nhập hữu tuyến hiện tại và sẽ tiếp tục phát triển trong
tương lai.

1.5.1 Các mạng lưới Wi-Fi


Các mạng WiFi dựa trên các tiêu chuẩn IEEE 802.11 được phát triển trong
những năm 1990 cho các mạng cục bộ không dây, ở đó một tập các điểm truy nhập
không dây có chức năng như các trung tâm liên lạc (hub) cho các thiết bị khách
(client) di động. Vì tính linh động và chi phí sử dụng thấp của nó, WiFi đã trở thành
một lựa chọn kết nối mạng kinh tế và hiệu quả, trải rộng ở cả hai các hộ gia đình và
khu vực công nghiệp, và là một đặc tính tiêu chuẩn của các máy tính xách tay, PDA
và các thiết bị di động khác. Bây giờ WiFi sẵn có ở hàng ngàn điểm truy cập, hàng
triệu cơ sở trường đại học và công ty, và hàng trăm triệu ngôi nhà. Mặc dù các
mạng WiFi hiện tại bị giới hạn chủ yếu với liên lạc điểm – đa điểm giữa các điểm
truy nhập và các thiết bị di động, nhiều điểm truy nhập có thể được liên kết để hình
thành một mạng lưới không dây. Các điểm truy nhập không dây thiết lập các tuyến
không dây giữa chúng để thực hiện khám phá cấu hình tự động và cấu hình định
tuyến động. Các tuyến không dây giữa các điểm truy nhập hình thành một mạng
xương sống không dây được xem như là mesh backhaul. Liên lạc không dây đa
chặng trong mesh backhaul được sử dụng để chuyển tiếp lưu lượng tới và từ một
điểm truy cập Internet hữu tuyến và mỗi điểm truy nhập có thể cung cấp truy nhập
điểm – đa điểm tới người dùng được gọi là truy nhập lưới (mesh access). Do vậy,
một mạng lưới WiFi có thể cung cấp các dịch vụ truy nhập băng rộng theo một kiểu
tự tổ chức, tự cấu hình và tự phục hồi làm cho triển khai nhanh và bảo dưỡng dễ
dàng.

15
Bảng 1.2 Các tiêu chuẩn IEEE 802.11

Qua nhiều năm, một bộ tiêu chuẩn đã được xác định bởi nhóm làm việc
IEEE 802.11 bao gồm các tiêu chuẩn phổ biến nhất 802.11b/g. Bảng 1.2 so sánh các
thuộc tính chính của các tiêu chuẩn này. Tiêu chuẩn 802.11 gốc (được phê duyệt
năm 1997) hỗ trợ các tốc độ dữ liệu cỡ 1 hoặc 2 Mbit/s sử dụng FHSS (trải phổ
nhảy tần chuỗi trực tiếp) với điều chế GFSK hoặc DSSS (trải phổ chuỗi trực tiếp)
với điều chế DBPSK/DQPSK. Năm 1999 tiêu chuẩn 802.11b đã mở rộng tiêu chuẩn
802.11 gốc để hỗ trợ các tốc độ 5,5 và 11 Mbit/s bổ sung vào tốc độ 1 và 2 Mbit/s.
Tiêu chuẩn 802.11b sử dụng DSSS 8 chip với chế độ điều chế CCK (khóa mã bù)
tại băng tần 2,4 GHz. Cũng được phê duyệt năm 1999 bởi IEEE, tiêu chuẩn 802.11a
vận hành tại tốc độ bít lên tới 55 Mbit/s sử dụng OFDM với điều chế BPSK, QPSK,
16-QAM hoặc 64-QAM tại băng tần 5 GHz. Năm 2003, IEEE đã phê chuẩn một
tiêu chuẩn mới hơn, IEEE 802.11g, cung cấp tốc độ dữ liệu 54 Mbit/s tại băng tần
2,4 GHz. Tiêu chuẩn 802.11g có thể tương thích ngược với 802.11b. Tiêu chuẩn
mới IEEE 802.11n sẽ hỗ trợ tốc độ dữ liệu 248 Mbit/s vận hành ở băng tần 2,4 và 5
GHz. Thêm nữa, IEEE 802.11e cung cấp hỗ trợ QoS hiệu quả, và IEEE 802.11i hỗ
trợ bảo mật tăng cường trong LAN không dây. Mặc dù các mạng WiFi dựa trên
IEEE 802.11a/g/n có thể cung cấp tốc độ dữ liệu trên 50 Mbit/s, khoảng cách lớn
nhất của chúng rất hạn chế (< 500 m). Đối với giải pháp chặng cuối, các mạng lưới
WiFi với các tuyến đa chặng là cần thiết. Tuy nhiên, vì giao thoa RF, các tốc độ bít
trong thông tin vô tuyến đa chặng có thể thấp hơn nhiều tốc độ dữ liệu cực đại của
một tuyến đơn. Để hỗ trợ khoảng cách dài, IEEE 802.11y hiện đang được phát triển
cho tốc độ 54 Mbit/s với khoảng cách cực đại cỡ 5 km (môi trường ngoài trời).
Trong các mạng vô tuyến, sự giao thoa từ các bộ phát khác nhau có thể là
một vấn đề nghiêm trọng giới hạn thông lượng của toàn mạng. Trong các mạng
WiFi, điều khiển lớp MAC sử dụng truy nhập môi trường gọi là CSMA/CA (đa truy
nhập cảm nhận sóng mang với tránh xung đột) để giảm ảnh hưởng giao thoa và cải
thiện hiệu năng mạng. Tuy nhiên, vì tính ngẫu nhiên của thời gian đến của gói dữ

16
liệu và ban chất cạnh tranh của giao thức lớp MAC, thông lượng của mạng WiFi có
thể thấp hơn nhiều dung lượng cực đại của nó.

Hình 1-6 Cấu hình mạng WiMAX.

1.5.2 Mạng truy nhập WiMAX


Các mạng truy nhập WiMAX dựa trên các tiêu chuẩn IEEE 802.16 có thể
cung cấp truy nhập Internet băng rộng với chi phí tương đối thấp. Một trạm gốc
trong mạng WiMAX có thể hỗ trợ tốc độ dữ liệu lên tới 75 Mbit/s tới người dùng cá
nhân hoặc doanh nghiệp. Tuy nhiên, vì nhiều người dùng được phục vụ bởi một
trạm gốc, nên dữ liệu tải trọng đến người dùng đầu cuối chỉ đến 1 Mbit/s cho các
thuê bao cá nhân và một vài Mbit/s cho các khách hàng doanh nghiệp. So về khoảng
cách truyền dẫn cỡ vài trăm mét hỗ trợ bởi WiFi (802.11a/b/g/n), thì WiMAX hứa
hẹn khoảng cách truy nhập vô tuyến lên tới 50 km. Do đó, WiMAX có thể cung cấp
vùng phủ cả thành phố và các khả năng QoS, hỗ trợ các ứng dụng đa phương tiện từ
dữ liệu không thời gian thực đên thoại và video thời gian thực. Hơn nữa, như một
công nghệ vô tuyến dựa trên IP, WiMAX có thể được tích hợp thông suốt với các
kiểu mạng vô tuyến và hữu tuyến khác.
Bảng 1.3 Các tiêu chuẩn 802.16

Các đặc điểm nổi bật của một số tiêu chuẩn 802.16 phê chuẩn bởi IEEE được
cho thấy trong bảng 1.3. Tiêu chuẩn IEEE 802.16 gốc định nghĩa kết nối backhaul
điểm – điểm với tốc độ lên tới 134 Mbit/s sử dụng các tần số trong dải 10 đến 66

17
GHz, và IEEE 802.16d/e xác định truy nhập điểm – đa điểm tại các tốc độ lên tới 75
Mbit/s. Tiêu chuẩn mới nhất, IEEE 802.16m, hỗ trợ tốc độ dữ liệu lên tới 1 Gbit/s
nhưng ở khoảng cách truyền dẫn ngắn hơn nhiều.
Hình 1-6 cho thấy kiến trúc của một mạng WiMAX điển hình. Trong mạng
WiMAX, các trạm gốc được kết nối với các mạng hữu tuyến (thường là các mạng
quang vùng đô thị) sử dụng sợi quang, cáp đồng trục và các tuyến vi ba điểm điểm
tốc độ cao. Về lý thuyết, một trạm gốc có thể bao phủ một bán kính 50 km, nhưng
trong thực tế nó thường bị giới hạn chỉ 10 km. Trạm gốc phục vụ một số trạm thuê
bao (sử dụng tại các vị trí của người dùng cá nhân hoặc doanh nghiệp) sử dụng các
tuyến điểm – đa điểm. Một mạng Wi MAX có thể được thiết lập cấu hình với cấu
hình sao hoặc lưới; mỗi loại đều có ưu và nhược điểm. Trái với cấu hình sao có thể
hỗ trợ tốc độ dữ liệu cao thì cấu hình lưới cung cấp khoảng cách dài hơn và triển
khai nhanh hơn. Lớp MAC WiMAX cấp phát băng thông hướng lên và hướng
xuống cho các thuê bao theo nhu cầu băng thông của họ. Không như các mạng
WiFi, mạng WiMAX lựa chọn truy nhập được lập lịch sử dụng kỹ thuật ghép kênh
phân chia thời gian, nhưng khe thời gian được gán cho mỗi thuê bao có thể thay đổi
chiều dài phụ thuộc vào băng thông được cấp phát cho thuê bao đó. Vì giải thuật lập
lịch, mạng WiMAX hiệu quả băng tần cao hơn nhiều mạng WiFi.

1.5.3 Mạng di động


Trong suốt thập kỷ trước, các mạng di động đã trải rộng khắp toàn thế giới,
tiến triển từ thế hệ đầu tiên (1G) tới 2G và bây giờ dịch chuyển tới các hệ thống 3G
và 4G. Chức năng cơ bản của các mạng di động là thực hiện liên lạc thoại cho
những người dùng di động. Tuy nhiên, khi công nghiệp viễn thông dịch chuyển từ
mạng tập trung cho thoại sang mạng tập trung cho dữ liệu, thì các mạng di động đã
dần nâng cấp dung lượng của chúng cho các dịch vụ đa phương tiện như dữ liệu và
các ứng dụng video. Như mạng di động thế hệ đầu tiên, AMPS (Hệ thống điện thoại
di động tiên tiến) ở Bắc Mỹ và ETACS (Hệ thống liên lạc truy nhập hoàn toàn mở
rộng) ở Châu Âu và Chấu Á là các hệ thống tương tự chuyển mạch kênh hỗ trợ chỉ
liên lạc thoại. Các mạng thế hệ hai bắt đầu kỷ nguyên số. Các kỹ thuật mã hóa số
như CDMA, GSM và TDMA thâm nhập vào các mạng di động, và dịch vụ nhắn tin
đã trở thành một ứng dụng thông thường. Thêm nữa, GPRS (dịch vụ vô tuyến gói
chung) bổ sung chuyển mạch gói vào mạng GSM cho truyền dẫn dữ liệu tốc độ cao
(lên tới 171,2 kbit/s) và EDGE (tốc độ dữ liệu tăng cường cho phát triển GSM) đã
cải thiện tốc độ dữ liệu thêm nữa trong mạng GSM lên tới 473,6 kbit/s. Mạng di

18
động thế hệ ba dựa trên UMTS (hệ thống viễn thông di động toàn cầu) hoặc
WCDMA (đa truy nhập phân chia theo mã băng rộng) cung cấp dịch vụ dữ liệu có
tốc độ trên 144 kbit/s. Mạng thế hệ thứ tư là một hệ thống di động dựa trên IP kết
hợp nhiều công nghệ truy nhập vô tuyến như Bluetooth và LAN không dây thành
một mạng tích hợp. Tốc độ dữ liệu hỗ trợ bởi mạng 4G có thể lên hơn 100 Mbit/s,
như vậy cung cấp các dịch vụ truy nhập băng rộng khắp nơi một cách thực sự.

Hình 1-7 Kiến trúc mạng di động. MSC: Trung tâm chuyển mạch di động; HLR: Hệ thống
đăng ký vị trí thuê bao; BSC: Bộ điều khiển trạm gốc.

Hình 1-7 minh họa cấu hình của một mạng di động điển hình bao gồm một
bộ điều khiển trạm gốc, trung tâm chuyển mạch di động, bộ thu phát trạm gốc, và
các thiết bị di động. Để sử dụng phổ vô tuyến một cách hiệu quả, khu vực bao phủ
bởi mạng di động được phân chia thành các ô tế bào nhỏ (dạng tổ ong). Các tần số
được tái sử dụng trong các ô không kề nhau. Mỗi ô có một trạm gốc phát và thu các
tín hiệu từ các thiết bị di động trong ô đó. Một nhóm các trạm gốc được kết nối tới
một bộ điều khiển trạm gốc. Một nhóm bộ điều khiển trạm gốc lần lượt được kết
nối với một trung tâm chuyển mạch di động thông qua các tuyến vi ba hoặc sợi
quang. Bộ điều khiển trạm gốc điều khiển liên lạc giữa một nhóm trạm gốc và một
trung tâm chuyển mạch di động. Trung tâm chuyển mạch di động kết nối các mạng
điện thoại chuyển mạch công cộng (PSTN) cái chuyển mạch các cuộc gọi tới các
trạm di động hoặc điện thoại cố định khác. Để cung cấp dịch vụ dữ liệu, trung tâm
chuyển mạch di động cũng được kết nối với Internet thông qua các bộ định tuyến
biên.
Các công nghệ không tương thích và tốc độ dữ liệu thấp trong các mạng di
động hiện tại (2G hoặc 2,5G) cho thấy một vấn đề nghiêm trọng cho các ứng dụng
đa phương tiện đang nổi lên. Do vậy, mạng 3G đã được phát triển để cung cấp dữ

19
liệu trên 1 Mbit/s với các giao diện vô tuyến tương thích giữa nhiều quốc gia. Tuy
nhiên, các mối quan tâm kinh tế tạo ra mối nghi ngờ trong việc triển khai diện rộng
mạng 3G. Trong khi các công nghệ 4G đã nổi lên như một tiếp cận triển vọng cho
dịch vụ dữ liệu di động với tốc độ nhanh hơn 3G. Mặc dù tất cả các nỗ lực thực hiện
phát triển mạng di động trọng tâm dữ liệu, thì dịch vụ đa phương tiện băng rộng
trên mạng di động vẫn đi sau các mạng WiFi và WiMAX về mặt băng thông và
dung lượng mạng.

1.5.4 Hệ thống vệ tinh


Các vệ tinh đã thể hiện vai trò quan trọng trong việc cung cấp các tuyến liên
lạc số trên toàn thế giới trong vài thập kỷ qua. Ban đầu được phát triển cho thông tin
liên lạc liên lục địa khoảng cách lớn, các vệ tinh cũng đã được sử dụng cho phát
quảng bá video. Vì sự phát triển của VSAT (đầu cuối khẩu độ rất nhỏ), nên phát
video quảng bá trực tiếp đến nhà từ vệ tinh đã được sử dụng rộng rãi từ giữa thập kỉ
1990. Cho đến nay các tuyến vệ tinh đã đạt đến khoảng 100 triệu thuê bao và sử
dụng trải rộng các vệ tinh cho truy nhập băng rộng đã trở thành thực tế. Các hệ
thống vệ tinh có thể bao phủ một khu vực địa lí rộng và hỗ trợ nhiều ứng dụng băng
rộng làm cho nó trở thành một giải pháp truy nhập băng rộng hấp dẫn. Thực tế,
người dùng các hãng lớn đã sử dụng mạng vệ tinh để thiết lập mạng dữ liệu diện
rộng để phục vụ các văn phòng của hãng bị phân tán về địa lí từ những năm 1980.
Một kiểu mạng vệ tinh đặc biệt gọi là hệ thống định vị toàn cầu (GPS) đã tìm thấy
các ứng dụng phổ biến cho cả hai tìm đường quân sự và dân sự. Các nhà vận hành
vệ tinh cho phát quảng bá video đang dịch chuyển sang các ứng dụng đa phương
tiện và truy nhập Internet băng rộng.
Bay quanh trái đất, một vệ tinh phục vụ như một bộ lặp và thiết lập một
tuyến không dây giữa bất kì hai người dùng trên trái đất. Một vệ tinh thu tín hiệu từ
các trạm mặt đất ở hướng lên, khuếch đại tín hiệu này và sau đó phát chúng ở
hướng xuống tại một tần số khác. Các vệ tinh thế hệ đầu tiên hoạt động ở băng tần
C có tuyến xuống 4 GHz và tuyến lên 6 GHz. Tuy nhiên các ăngten đĩa khổ lớn
phải được sử dụng ở các trạm mặt đất để cải thiện độ nhạy bộ thu và giảm độ rộng
chùm vi ba. Khi nhu cầu băng thông tăng lên, băng tần Ku (12/14 GHz cho tuyến
xuống/lên) và băng tần Ka (20/30 GHz cho tuyến xuống/lên) đã được cấp phát bởi
Ủy ban truyền thông liên bang (FCC) của Mỹ cho thông tin vệ tinh. Sử dụng các tần
số cao hơn có thể hỗ trợ một tốc độ dữ liệu cao hơn và cho phép sử dụng các ăngten
khẩu độ nhỏ hơn. Gần đây, một băng tần vệ tinh tần số cao hơn, băng V có tuyến

20
xuống 40 GHz và tuyến lên 50 GHz đã được đồng ý bởi ITU-T. Với một vệ tinh
băng V, băng thông trên 2GHz là sẵn có nhưng suy hao khí quyển và mưa trở nên
nghiêm trọng hơn tại băng V so với băng tần thấp hơn.
Các vệ tinh liên lạc hiện đại sử dụng quỹ đạo địa tĩnh GEO với chu kì quỹ
đạo đúng bằng chu kì quay của Trái đất. Tại quỹ đạo đĩa tĩnh, một vệ tinh có thể bao
phủ một vùng địa lí rộng lớn (khoảng 40% bề mặt của trái đất). Vì quỹ đạo địa tĩnh
có một bán kính khoảng 42164 km, nên một độ trễ tín hiệu dài (khoảng 0,25 s cho
một lần trễ chu trình) và suy hao tín hiệu lớn là khó tránh khỏi. Thay vào đó, quỹ
đạo thấp LEO (cao độ 200 đến 2000 km) hoặc quỹ đạo trung MEO (cao độ 2000
đến 3000 km) có thể được sử dụng với trễ ngắn hơn và suy hao công suất thấp hơn.
Tuy nhiên vùng phủ của vệ tinh LEO/MEO nhỏ hơn nhiều.
Một trạm vệ tinh mặt đất bao gồm một modem vệ tinh, một bộ thu phát và
một ăngten. Một ăngten phản xạ parabol thường được sử dụng để phát và thu tín
hiệu vệ tinh. Một bộ thu phát bao gồm các bộ chuyển đổi tần số nhiễu thấp và các
bộ khuếch đại công suất được chế tạo từ các mạch tích hợp vi ba nguyên khối. Một
modem vệ tinh thực hiện mã hóa và điều chế dữ liệu. Vì các tuyến vệ tinh hầu hết
đều bị giới hạn công suất nên các chế độ mã hóa và điều chế phức tạp thường được
sử dụng để bù trừ băng thông cho hiệu năng tốt hơn.
Một tập các tiêu chuẩn mở gọi là DVB (phát quảng bá video số) đã được
phát triển cho truyền hình số, gồm DVB-S, DVB-S2 và DVB-SH cho phát quảng bá
video vệ tinh. Tuy nhiên, các tiêu chuẩn DVB này xác định rằng chỉ các tuyến
thông tin một chiều điểm – đa điểm được sử dụng cho phát quảng bá video. Với nhu
cầu truy nhập băng rộng tăng mạnh, hai tiêu chuẩn đã được đề xuất để hỗ trợ các
tuyến thông tin băng rộng hai chiều qua vệ tinh: DVB-RCS (hệ thống kênh trở về)
và DOCSIS-S. Trong DVB-RCS, tuyến thuận (từ nhà cung cấp dịch vụ đến thuê
bao) hoàn toàn tương thích với DVB-S. Nói cách khác, tuyến thuận có thể được sử
dụng cho quảng bá video hoặc truy nhập Internet. Thêm nữa, một kênh trở về được
xác định cho việc gửi dữ liệu người dùng tới nhà cung cấp dịch vụ, ở đó các gói như
ATM được sử dụng cho truyền dữ liệu. DOCSIS-S là một sự thích ứng của tiêu
chuẩn DOCSIS cho vệ tinh. Trong DOCSIS-S, QPSK hoặc SPSK kết hợp với mã
hóa turbo được thực hiện trên các tuyến vệ tinh và đóng gói IP được sử dụng cho
truyền dữ liệu làm băng tần sử dụng hiệu quả hơn và mào đầu ít hơn khoảng 10% so
với DVB-RCS.

21
1.5.5 Hệ thống LMDS và MMDS
Dịch vụ phân phối đa điểm cục bộ (LMDS) được phát triển bởi nhóm làm
việc IEEE 802.16.1 là công nghệ truy nhập vô tuyến điểm – điểm chặng cuối. Hình
1-8 cho thấy kiến trúc mạng của hệ thống LMDS. Ở Mỹ, một băng tần 1,3 GHz
giữa 28 và 31 GHz đã được cấp phát cho LMDS, trái lại ở Châu Âu LMDS có thể
sử dụng các băng tần khác nhau từ 24 đến 43,5 GHz. LMDS có thể phát 34 đến 38
Mbit/s dữ liệu bao phủ phạm vi 3 đến 5 km. Do đó, nhiều ô tế bào thường được yêu
cầu để phục vụ một khu vực đô thị. Trong mỗi ô, một trạm gốc với nhiều bộ thu
phát được lắp trên mái của một nhà cao tầng hoặc trên cây cột cao phát dữ liệu theo
kiểu điểm – đa điểm. Một tuyến trở về từ người dùng đến trạm gốc được thực hiện
bởi một tuyến điểm – điểm. Mặc dù lớp vật lý khác với các mạng cáp hữu tuyến,
nhưng LMDS đã lựa chọn các đặc tính DOCSIS.

Hình 1-8 Kiến trúc LMDS

Dịch vụ phân phối đa điểm đa kênh (MMDS) cũng được biết là dịch vụ
truyền hình cáp không dây, đã được phát triển trong những năm 1970 như là lựa
chọn thay thế cho truyền hình cáp. Nó có thể hỗ trợ 31 kênh tương tự (6 MHz mỗi
kênh) ở băng tần 200 MHz từ 2,5 đến 2,7 GHz. Một hệ thống MMDS cũng có thể
được sử dụng như một mạng truy nhập băng rộng mục đích chung. MMDS đã được
sử dụng cho truy nhập không dây Internet tốc độ cao ở các khu vực nông thôn mà ở

22
đó các kiểu truy nhập băng rộng khác không sẵn có hoặc chi phí cao. Hình 1-9 cho
thấy kiến trúc của một hệ thống MMDS. Trong một hệ thống MMDS, các tín hiệu
video tương tự hoặc các tín hiệu dữ liệu QAM/OFDM phát quảng bá từ các tháp vi
ba tại headend. Tại nhà thuê bao, các ăngten trên mái nhà thu tín hiệu quảng bá và
chuyển đổi xuống các tần số kênh truyền hình cáp. Một thiết bị cổng kết nối được
sử dụng để định tuyến các tín hiệu khác nhau tới các thiết bị mạng trong nhà. Về
tổng thể, kiến trúc MMDS giống LMDS. Tương tự, hệ thống MMDS đã lựa chọn
các đặc tính của DOCSIS. DOCSIS được biến đổi cho băng rộng không dây được
xem như là DOCSIS+. Các hệ thống MMDS có thể cung cấp một tốc độ dữ liệu
trên 10 Mbit/s cho một người dùng. Truyền hình MMDS có thể phát công suất tín
hiệu lên tới 30 W và bao phủ một đường kính khoảng 50 km lớn hơn nhiều hệ thống
LMDS.

Hình 1-9 Kiến trúc MMDS

Trong quá khứ, mặc dù DSL và cáp đồng trục đã chiếm ưu thế thị phần truy
nhập băng rộng, LMDS và MMDS đã cho thấy một số mặt hứa hẹn như là giải pháp
không dây. Tuy nhiên do cả hai lí do về kĩ thuật và kinh tế, các hệ thống LMDS và
MMDS chưa bao giờ được lựa chọn rộng rãi cho truy nhập băng rộng. Khi mà các
tiêu chuẩn WiMAX đang phát triển, thì LMDS và MMDS đã bị WiMAX vượt qua
cả hai về chất lượng kĩ thuật và tiềm năng thị phần. Do đó LMDS và MMDS đã trở
nên lỗi thời trong giai đoạn hiện nay.

23
1.6 Công nghệ truy nhập quang
Lợi nhuận các công ty điện thoại từ POTS bị suy giảm như là kết quả của
mất một số khách hàng POTS sang điện thoại di động và các công ty CATV. Để
tăng lợi nhuận tiềm năng tương lai của họ, các công ty điện thoại tin rằng họ cần có
thể cung cấp các dịch vụ triple-play tốt nhất gồm thoại, dữ liệu (đặc biệt truy nhập
internet) và video. Cùng lúc đó, các công ty điện thoại đã xem xét ý tưởng sử dụng
cùng kiểu mạng HFC của các nhà cung cấp CATV. Một nhược điểm đối với tiếp
cận này là các mạng đồng trục điển hình có độ tin cậy kém cho dịch vụ thoại. Một
nhược điểm chính khác là chúng cũng giống vậy cho video và dữ liệu nên không có
ưu điểm gì hơn so với các công ty CATV.

Hình 1-10 Kiến trúc mạng truy nhập quang FTTx

Mô hình bây giờ được các công ty điện thoại ưu tiên là dựa trên tiếp cận
truyền thống của họ hoặc tránh môi trường chia sẻ hoàn toàn hoặc giới hạn lượng
chia sẻ. Đối với môi trường không chia sẻ, các dịch vụ triple-play sẽ được cung cấp
thông qua kiến trúc sợi quang tới nút mạng (FTTN). Với FTTN, như được thấy
trong hình 1-10, một kết nối sợi quang tốc độ cao tồn tại giữa CO và một nút đầu xa
đủ gần với thuê bao để cho phép kết nối VDSL tới mỗi thuê bao được phục vụ bởi
nút đó. Các biến thể của FTTN là Sợi quang tới vỉa hè/tủ cáp/tòa nhà
(FTTC/FTTCab/FTTB). FTTN rất hấp dẫn khi nhiều thuê bao đủ gần với nhau để
sử dụng được VDSL. Khi các thuê bao cách xa nhau hoặc đòi hỏi băng thông hướng

24
lên rất lớn, giải pháp sợi quang tới nhà thuê bao (FTTP/FTTH) trở nên hấp dẫn hơn.
Cụ thể:
a. FTTH

FTTH (Fiber To The Home): Trong kiến trúc này cáp quang được kéo đến
tận hộ gia đình, trong đó thiết bị đầu cuối mạng (ONT) được đặt tại thuê bao. ONT
là điểm phân phát dịch vụ cho phép các nhà khai thác cung cấp các dịch vụ số liệu,
thoại và hình ảnh trên cùng một sợi.
FTTH có khả năng cung cấp băng tần lớn, tuy nhiên chi phí cho việc xây
dựng mạng lại rất cao, cần phải xem xét cụ thể khi thiết kế. Nhìn chung, để tiến tới
phương án FTTH cần có chiến lược phát triển mạng và kế hoạch triển khai cụ thể để
có được các bước thực hiện và đầu tư hợp lí. Phương thức này đặc biệt phù hợp khi
cần phải lắp đặt các mạng cáp mới hoặc thay thế mạng cáp cũ
b. FTTB

FTTB (Fiber To The Building): Trong kiến trúc này, sợi quang được kéo tới
một thiết bị đầu cuối mạng thường gọi là ONU đặt trong tòa nhà. Các khách hàng
có thể truy cập Internet theo các kết nối đến ONU thông qua LAN nhờ các cáp
UTP-5. Chiều dài của phần cáp đồng thường không lớn hơn 10m
Để tận dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên cũ thì phương thức FTTB+LAN
được xem là tiết kiệm tối đa chi phí xây dựng mạng. Hơn nữa khoảng cách ngắn
giữa ONU và thiết bị đầu cuối thuê bao cũng cho phép phát triển từng bước từ
FTTB+LAN sang FTTH.
Mô hình FTTB phù hợp với các tòa nhà có mật độ lớn, các khách hàng là
doanh nghiệp vì họ có nhu cầu đặc biệt lớn về băng tần, đặc biệt các tòa nhà này
đều có LAN xây dựng trên mạng cáp UTP-5.
c. FTTC

FTTC (Fiber To The Curb): Cáp quang đến một khu vực dân cư. Sợ quang
đươc kéo tới một ONU đặt ở vỉa hè. Một hoặc nhiều tòa nhà kết nối ONU bằng cáp
đồng, khoảng cách từ ONU tới thuê bao khoảng 100 m.
Phương thức FTTC được khuyến nghị sử dụng cho các vùng dân cư có mật
độ dân tương đối cao, đặc biệt là ở những nơi có thể sử dụng lại mạng cáp đồng,
hoặc những nơi khó lắp đặt cáp quang. Đây cũng là một phương thức truy nhập phù

25
hợp cho các khách hàng có nhu cầu đối với các dịch vụ VoIP. Truy nhập Internet
tốc độ cao.
d. FTTN

FTTN (Fiber To The Node): Phương thức này cũng giống như FTTC, nhưng
khoảng cách từ ONU tới khách hàng rất lớn, có thể đến vài km.
Như đã đề cập, theo xu hướng kiến trúc FTTH dần trở nên hấp dẫn và phổ
biến hơn. Khi xây dựng môt mạng FTTH, việc đánh giá các kiến trúc FTTH có thể
phù hợp để chấp nhận là rất quan trọng. Có hai kiến trúc chính hiện tại đang được
quan tâm cụ thể là kiến trúc điểm - điểm (P2P) và điểm - đa điểm (P2MP), các kiến
trúc P2M được phân loại chi tiết hơn là mạng quang tích cực (AON) và mạng quang
thụ động (PON).
r -
Trong kiến trúc này, như tên đã đặt, sợi quang riêng lẻ chạy từ đầu cuối
tuyến quang OLT tới mỗi đầu cuối mạng quang ONU (tại thuê bao). Nói cách khác,
sơi quang riêng lẻ chạy cho tới mỗi nhà (bởi vậy chũng thường được gọi là sợi
quang chạy về nhà). Hình 1-11 là một minh họa của kiến trúc P2P trong đó một đôi
cáp quang riêng lẻ được đặt OLT đến ONU.

Hình 1-11 Kiến trúc điểm – điểm

Kiến trúc P2P có những ưu điểm của nó cũng như những nhược điểm chủyếu
nhất định. Một ưu điểm là có cơ hội để cung cấp dung lượng tối đa và thỏa mãn các
yêu cầu của khác hàng một cách đầy đủ. Đôi dây sợi quang riêng lẻ cũng có ý nghĩa
tính mềm dẻo cao hơn trong việc cung cấp dịch vụ tới các khác hàng. Tuy nhiên, có

26
một vài các nhược điểm chính với kiến trúc P2P. Tại OLT, nhu cầu đối với thiết bị
hub sẽ tỷ lệ với số ONU ( nghĩa là số lượng thuê bao hoặc số lượng nhà). Bên cạnh
chi phí thu được, các thiết bị này cũng có có thể gây ra các vấn đề về tiêu thụ công
suất và tốn không gian. Giải pháp P2P cũng yêu cầu nhiều đôi cáp quang và cùng
với tất cả các cài đặt và bảo dưỡng chúng.
q
AON được đặc trưng hóa bởi một sợi quang đơn mang toàn bộ lưu lượng tới
node điều khiển ở xa (R) gần với các đầu cuối người dùng từ điều khiển trung tâm.
Nó cũng thường được ám chỉ như là mạng Ethernet tích cực do thiết bị cần để cung
cấp TV, thoại và Internet được kết nối qua chuẩn Ethernet chung.

Hình 1-12 Mạng quang tích cực (AON)

Node điều khiển ở xa chứa một thành phần tích cực xử lý các khung dữ liệu
được gửi đến từ đầu cuối tuyến quang trung tâm đến node điều khiển ở xa, và
chuyển tiếp chỉ các gói đến các ONU tương ứng. Từ nút điều khiển từ xa tới các
ONU, các sợi quang riêng lẻ được chạy tới mỗi tủ thiết bị, nhà, tòa nhà,... dựa trên
loại giải pháp được cài đặt. Hình 1-12 thể hiện các thành phần và các chức năng
chính của kiến trúc mạng quang tích cực
So với kiến trúc P2P, ưu điểm chính của kiến trúc AON là ở chỗ nó chỉ sử
dụng một cáp quang chia sẻ để bảo phủ một vùng nhất định bởi vậy giảm được chi
phí cáp. Nó cũng chiếm không gian ít hơn mô hình P2P.
q
Trong kiến trúc này, nút tích cực trong AON được thay thế bởi một bộ
chia/bộ kết hợp công suất quang thụ động (chỉ được chú thích như bộ chia từ đây

27
trở về sau); xem hình 1-13. Bộ chia được xem là phần tử thụ động do nó không cần
cấp nguồn và chỉ quảng bá tất cả các dữ liệu mà nó nhận. Giống như trong AON, có
một sợi quang đơn được chia sẻ từ OLT tới bộ chia. Các chức năng quang trọng
nhất mà OLT thực hiện là lập biểu đồ lưu lượng, điều khiển đệm và cấp phát băng
thông. Do nhiệm vụ xử lý dữ liệu thêm vào nên các ONU trong mô hình PON
thường kinh tế hơn trong AON.

Hình 1-13 Mạng quang thụ đông (PON)

Ngày nay, có hai loại chính trong các công nghệ mạng quang thụ động đã
chuẩn hóa là các mạng quang thụ động Ethernet (EPONs) và các mạng quang thu
động dung lượng Gigabit (GPONs). EPON được chuẩn hóa bởi IEEE và phân loại
các mạng dựa trên kỹ thuật Ethernet. Một EPON thì kết hợp với thiết bị Ethernet giá
thấp và cơ sở hạ tầng sợi quang, và truyền trực tiếp các khung dữ liệu Ethernet. Nó
có thể cung cấp dung lượng 1Gbps theo cả hai hướng lên và xuống, và bao phủ một
khoảng cách lên tới 20 km và hỗ trợ khoảng cách chênh lệch tối đa là 20 km. Các
chức năng này có thể giúp EPONs truyền lưu lượng dữ liệu, thoại và video một
cách hiệu quả trong một mạng tích hợp. Ngược lại, GPON phát triển từ kĩ thuật
ATM PON (APON/BPON) và được chuẩn hóa bởi ITU-T dưới sự làm việc của
nhóm mạng truy nhập dịch vụ đầy đủ (FSAN). So với EPONs thì một GPON có thể
hỗ trợ tốc độ dữ liệu cao hơn lên tới 2.488Gbps cho cả luồng upstream và
downstream. Nó có thể bao phủ một khoảng cách dài hơn lên tới 60 km và hỗ trợ
một khoảng cách chênh lệch 20 km.
Luồng hướng lên từ các thuê bao khác nhau đến OLT nhất thiết phải được
cấp phát bởi một số kỹ thuật đa truy nhập để tránh va chạm giũa các luồng khác
nhau. Tất cả các tiêu chuẩn PON đã đề cập ở trên sử dụng các kĩ thuật ghép kênh

28
phân chia theo thời gian (TDM) nghĩa là các gói hướng lên được đan xen trong
miền thời gian, qua sợi quang chia xẻ.
Ngoài TDM ra, còn có ba loại kỹ thuật ghép kênh chủ yếu khác cho các
mạng truy nhập sợi quang là ghép kênh phân chia theo bước sóng (WDM), ghép
kênh theo sóng mang con (SCM) và ghép kênh phân chia theo mã quang (OCDM).
Trong WDM-PONs, mỗi OUN sử dụng một kênh bước sóng khác nhau để gửi các
gói dữ liệu của nó đến OLT. Kênh cùng bước sóng có thể sử dụng thông tin cả
luồng hướng lên và hướng xuống. Trong một mạng PON dựa trên SCM, mỗi ONU
điều chế luồng gói của nó trên một tần số sóng mang điện khác nhau rồi sau đó điều
chế cường độ ánh sáng của diode laser của mỗi ONU. Điều này nghĩa là các luồng
gói được đặt trong các dải tần số khác nhau. Trong mang PON dựa trên OCDM,
mỗi ONU sử dụng một chuỗi tín hiệu các xung quang khác nhau. Chuỗi tín hiệu này
được điều chế bật- tắt với dữ liệu sẽ phát.
Hiện nay, TDM là phương thức ghép kênh phổ biến nhát cho việc xây dựng
một cơ sở hạ tầng PON. Điều này kết hợp với thực thế rằng công nghệ TDM có một
độ phức tạp kỹ thuật vừa phải, chi phí cài đặt ít hơn các kĩ thuật khác. Mặt khác,
trong khi ở thời điểm hiện tại thỏa các mạng PON dựa trên TDM xuất hiện để thỏa
mãn nhu cầu băng thông hiện tại thì các đề án và các xu hướng độ rộng băng tương
lại trong miền băng rông chỉ ra rằng các kỹ thuật ghép kênh khác sẽ có thể có lợi ích
hơn cho một mạng truy nhập sợi quang thỏa mãn tốt hơn các nhu cầu trong tương
lai.
So sánh m ng PON và AON
Có rất nhiều yếu tố để so sánh ưu điểm và nhược điểm của hai kỹ thuật PON
và AON. Tuy nhiên, ở đây chúng ta sẽ xem xét một số thông số quan trọng như
băng thông, khả năng điều khiển luồng, khoảng cách… là những thông số về kỹ
thuật. Ngoài ra, có hai chỉ tiêu rất quan trọng khi người ta đánh giá mức độ khả thi
của một dự án chính là vốn đầu tư cho thiết bị và kinh phí cho khai thác, vận hành
và bão trì hệ thống.
Về băng thông và lưu lượng
Ngày càng có nhiều dịch vụ viễn thông y êu cầu tốc độ cao như IPTV, VOD,
Conference meeting… Do đó băng thông là một vấn đề vô cùng quan trọng. Các
chuẩn của mạng PON được nghiên cứu rộng rãi cho phép băng thông cấp phát đến
các port tại OLT là giống nhau. Và để điều chỉnh băng thông và lưu lượng của một

29
thuê bao thì rất khó vì nó phụ thuộc vào cấu trúc của mạng PON. Điều này có thể
được cải tiến nếu cấu trúc mạng PON có cấu hình dự phòng n +1.
Mạng AON: với mỗi một thuê bao sử dụng riêng một đường cáp quang thì
băng thông có thể nằm trong khoảng từ 100Mbps đến 1Gbps (đối với hộ gia đình
hoặc một công ty). Việc điều chỉnh băng thông khá dễ dàng. Khi một node truy cập
được cấu tạo từ các module thì người ta có thể nâng cấp được băng thông cho một
thuê bao nào đó bằng cách can thiệp vào phần cứng.
Bảng 1.4 So sánh AON và PON về giá thành thiết bị

AON PON Giá Thành


Giá thành thiết bị đầu cuối

Cao
Thấp
Cấu trúc mạng không giống những
Bởi vì các chuẩn Ethernet
mạng truyền thống nên phải xây dựng AON ưu thế
đã được sử dụng nên thiết
các chuẩn mới nên thiết bị đầu cuối hơn
bị đầu cuối tại phía nguời
cũng khó khăn hơn trong việc nghiên
sử dụng tương đối rẻ.
cứu chế tạo.

Giá thành các thành phần cấu thành nên mạng (các thiết bị chủ động)
Cao
Một thuê bao cần có một Thấp
port laser tại node truy cập Bởi vì một port trên OLT có thể cung
PON chiếm ưu
nên một đường quang được cấp cho nhiều thuê bao nên khi số
thế
chia ra làm nhiều kết nối lượng thuê bao tăng lên người ta có
thì công suất của các thiết thể sử dụng các splitter
bị cũng phải tăng lên.

Giá thành các thành phần mạng (các thiết bị thụ động và cấu trúc hạ tầng)

Cao
Thấp
Số lượng các giao diện PON ưu thế
Vì mỗi một nguồn laser trên OLT sẽ
quang trên các node truy hơn
chia sẻ cho nhiều thuê bao.
cập khá lớn.

30
Kinh phí cho khai thác vận hành và bảo trì hệ thống:
Bảng 1.5 So sánh AON và PON về chi phí vận hành và bảo trì hệ thống.

AON PON Đánh giá


Nguồn điện tiêu thụ
Lớn Nhỏ PON tốt hơn
Chi phí bảo dưỡng

Mỗi một node truy cập yêu Trong một cabinet đặt ở ngoài PON tốt hơn vì có
cầu một nguồn điện riêng. trời, splitter gần như không cần ít thiết bị thụ động
Do đó khó bảo dưỡng và bảo dưỡng và cũng không cần hơn trong cấu hình
chi phí bảo dưỡng cao. nguồn ngoài để cung cấp cho thiết mạng.
bị này

Giá thành các thành phần mạng (các thiết bị thụ động và cấu trúc hạ tầng)
Cao Thấp PON ưu thế hơn
Bởi vì số lượng các giao Vì mỗi một nguồn laser trên OLT
diện quang trên các node sẽ chia sẻ cho nhiều thuê bao
truy cập là khá lớn.

Tóm lại, mỗi cấu hình mạng đều có những ưu điểm riêng của nó. Tùy vào
khả năng tài chính của từng nhà cung cấp dịch vụ cũng như các điều kiện khác mà
lựa chọn mạng PON hay là AON. Tuy nhiên với những ưu điểm đặc biệt, mạng
PON đang dần chiếm lĩnh thị trường băng rộng.
Vì băng thông cực lớn và suy hao thấp nên các sợi quang đã được sử dụng
rộng rãi cho các mạng diện rộng và các mạng vùng đô thị. Ở một phạm vi nào đó,
các sợi đa mode cũng đã được sử dụng trong các tòa nhà văn phòng cho mạng cục
bộ. Mặc dù các sợi quang là môi trường lí tưởng cho các hệ thống và mạng thông
tin tốc độ cao, nhưng chi phí sử dụng được xem là yếu tố hạn chế trong khu vực
truy nhập và cáp đồng vẫn chiếm ưu thế trong thị phần hiện tại. Tuy nhiên, các ứng
dụng đa phương tiện đang nổi lên đã tạo ra nhu cầu băng thông lớn mà các công
nghệ cáp đồng đã đạt đến giới hạn băng thông của chúng. Trong khi đó, các thành
phần quang tử chi phí thấp và kiến trúc mạng quang thụ động đã làm sợi quang trở
thành giải pháp hấp dẫn. Trong vài năm trước, các công nghệ và kiến trúc PON
khác nhau đã được nghiên cứu bởi công nghiệp viễn thông và một vài tiêu chuẩn

31
PON đã được phê chuẩn bởi ITU-T và IEEE. FTTx trở thành một công nghệ trưởng
thành trong cuộc đua cạnh tranh trực tiếp với cáp đồng. Sự thật, việc sử dụng ở quy
mô lớn đã bắt đầu ở Châu Á, Bắc Mỹ và Châu Âu và hàng triệu thuê bao đang
hưởng thụ những lợi ích của công nghệ PON.
Mạng truy nhập quang thụ động PON như tên gọi của nó, không có thành
phần tích cực giữa tổng đài và các nhà thuê bao. Các thiết bị tích cực chỉ tồn tại ở
tổng đài và tại nhà thuê bao. Từ tổng đài, một sợi quang đơn mode tiêu chuẩn (sợi
cáp gốc) chạy tới một bộ tách công suất quang thụ động 1:N gần các nhà thuê bao.
Các cổng đầu ra của bộ tách thụ động kết nối tới các thuê bao qua từng sợi quang
đơn mode (các sợi phân phối). Khoảng cách truyền dẫn trong một mạng quang thụ
động bị giới hạn trong phạm vi 20 km như được xác định trong các tiêu chuẩn hiện
tại. Sợi quang và các thành phần thụ động giữa tổng đài và nhà thuê bao thường
được gọi mạng phân phối quang. Số lượng người dùng được hỗ trợ bởi một PON có
thể từ 2 đến 128 phụ thuộc vào quỹ công suất, nhưng điển hình là 16, 32 hoặc 64.

1.7 Tổng kết chương


Chương 1 đã cung cấp những vấn đề tổng quan về các công nghệ mạng truy
nhập băng rộng hiện nay. Có nhiều công nghệ cạnh tranh để cung cấp các dịch vụ
băng rộng bao gồm DSL, HFC, PLC và truy nhâp vô tuyến không dây băng rộng.
Mỗi công nghệ đều có những ưu điểm và những hạn chế của nó. Nhờ những ưu
điểm về băng thông và giá thành các linh kiện quang giảm xuống giúp cho mạng
truy nhập quang sử dụng PON trở nên hấp dẫn và phát triển nhanh chóng.

Câu hỏi/bài tập chương 1


1-1/ Trình bày và phân tích những giới hạn của công nghệ truy nhập DSL ?
1-2/ Trong hệ thống DSL, truyền dẫn song công được thực hiện bằng cách nào ?
1-3/ Việc sử dụng công nghệ truy nhập PLC có những ưu nhược điểm gì ?
1-4/ Trình bày và phân tích những giới hạn của công nghệ truy nhập HFC ?
1-5/ Phân tích những ưu nhược điểm công nghệ truy nhập quang sợi ?

32
Chương 2 Công nghệ HFC

Mạng HFC ban đầu chỉ sử dụng cho việc phân phối tín hiệu truyền hình cáp.
Việc triển khai cung cấp các dịch vụ băng rộng trên mạng HFC đòi hói cần có một
số thay đổi trong đó có giao thức thực hiện liên lạc hai chiều. Chương này giới thiệu
về công nghệ HFC, đặc biệt các đặc điểm của giao thức DOCSIS một giao thức để
đảm bảo cung cấp dịch vụ dữ liệu băng rộng hai chiều trên mạng HFC.

2.1 Kiến trúc mạng HFC


Các công ty truyền hình cáp thường được gọi là các nhà vận hành đa hệ
thống/dịch vụ (MSO) chuyên phân phối các tín hiệu video tới các thuê bao. Để cạnh
tranh với các nhà vận hành mạng điện thoại để cung cấp dịch vụ triple-play, các
MSO đã nâng cấp mạng của họ để hỗ trợ dịch vụ thoại và dữ liệu băng rộng. Một
phần tử then chốt của nâng cấp này là sử dụng một mạng dữ liệu lõi dựa trên IP.
Mạng này cho phép truy nhập dữ liệu tốc độ cao cái trở thành dịch vụ hấp dẫn cho
các MSO. Các ứng dụng khách hàng sử dụng các mạng IP tốc độ cao bao gồm trò
chơi trực tuyến, thu và chia sẻ âm nhạc, nhắn tin, và phân phối video. Dịch vụ phân
phối video theo yêu cầu IPTV là một dịch vụ đi tiên phong bởi MSO. Thoại qua IP
(VoIP) cũng đã trở thành một ứng dụng MSO quan trọng. Đặc điểm giao diện dịch
vụ dữ liệu trên cáp DOCSIS là trung tâm của việc cung cấp các dịch vụ dựa trên IP
qua mạng truy nhập tới các thuê bao.
Lúc ban đầu, mạng truyền hình ăngten cộng đồng (CATV) hay mạng truyền
hình cáp đã được thiết kế cho việc phân phối dịch vụ quảng bá. Mạng đã được xây
dựng với một tổng đài headend cung cấp các tín hiệu TV quảng bá trên mạng phân
phối cáp đồng trục tới từng thuê bao. Cáp đồng trục đã được sử dụng theo kiểu cấu
hình bus với các kết nối nhánh đồng trục tới từng thuê bao. Cáp đồng trục đã có
tiềm năng cung cấp băng thông cao hơn nhiều các đôi dây xoắn của các công ty
điện thoại. Các mạng cáp thời kì đầu tuy nhiên đã được xây dựng cho truyền dẫn
đơn hướng (hướng xuống) của các tín hiệu truyền hình tương tự được ghép kênh
theo tần số. Khi truy nhập Internet tốc độ cao trở thành một dịch vụ quan trọng, các
công ty vận hành cáp đã bắt đầu nâng cấp mạng của họ để hỗ trợ kết nối dữ liệu số

33
hai chiều. Vì các công ty truyền hình cáp bắt đầu hỗ trợ các dịch vụ thoại và dữ liệu
trên mạng của họ nên họ được gọi là các MSO.

Hình 2-1 Kiến trúc mạng HFC

Khả năng cung cấp dịch vụ số hai chiều đã yêu cầu một sự nâng cấp mạnh
mạng cáp. Mạng cáp lúc đầu đã sử dụng các bộ khuếch đại để nâng mức tín hiệu
tương tự hướng xuống, và truyền dẫn dữ liệu hai chiều đã đòi hỏi trang bị thêm các
nút khuếch đại này để bao gồm các bộ lặp số hai chiều để hỗ trợ truyền dẫn dữ liệu
hướng lên. Nhu cầu băng thông dữ liệu ngày càng tăng lên và chi phí truyền dẫn
quang sợi giảm xuống đã thúc đẩy mạng sử dụng sợi quang để kết nối từ headend
tới các nút quang đặt gần hơn các thuê bao, với cáp đồng trục tiếp tục sử dụng cho
kết nối tới các thuê bao. Các mạng này được gọi là các mạng lai ghép sợi – cáp
đồng trục (HFC), cho phép băng thông dịch vụ dữ liệu tăng lên bằng việc giảm số
lượng thuê bao chia sẻ mỗi phần cáp gốc đồng trục. Trong khi lên tới 2000 thuê bao
có thể được kết nối tới một điểm nhánh đồng trục, thì với HFC chỉ có 500 hoặc ít
hơn số thuê bao kết nối với cáp đồng trục từ một nút quang. Để hỗ trợ tốc độ dữ liệu
trên mỗi thuê bao tăng lên thì các công ty truyền hình cáp đang dịch chuyển tới 64
thuê bao trên mỗi cáp đồng trục. Các MSO cũng đã bắt đầu sử dụng các kỹ thuật
khác để tăng dung lượng dữ liệu của mạng HFC như đòi lại các kênh tương tự thêm
vào và sử dụng phương pháp truyền multicast chuyển mạch thay cho quảng bá. Khi
các MSO triển khai sử dụng rộng rãi kết nối dữ liệu, thoại qua IP (VoIP) đã cung
cấp một cơ chế tự nhiên để cho phép họ cung cấp các dịch vụ thoại. Vì cáp đồng
34
trục gốc là môi trường được chia sẻ bởi tất cả các thuê bao đấu nối vào cáp đó nên
một giao thức MAC được yêu cầu để cho phép các thuê bao truyền dẫn theo hướng
lên. Các giao thức để cho các thuê bao có được truyền dữ liệu hai chiều trên mạng
cáp gồm cả MAC đã được phát triển bởi CableLabs. Các giao thức lõi được định
nghĩa trong DOCSIS.
Mạng HFC được sử dụng bởi các MSO được cho thấy trong hình 2-1, mặc
dù có sự khác nhau đáng kể về chi tiết triển khai thực tế của các MSO khác nhau.
Các trạm hub điển hình là các vị trí của các headend và các kết nối tới các nhà cung
cấp dịch vụ Internet (ISP). Các trạm hub thứ cấp thường bao gồm thiết bị chuyển
mạch thoại (tổng đài), các máy chủ cho video cached cục bộ, các giao diện dịch vụ
dữ liệu tương tác, và thiết bị hệ thống kết cuối modem cáp CMTS. Mạng lõi liên kết
các nút hub thường được xây dựng bởi các vòng (ring) sợi quang và các nút nối
chéo. Tương tự với các mạng điện thoại, các mạng vòng cung cấp cơ chế định tuyến
phân tập để cho phép bảo vệ tự động khi có sự cố mạng và nút mạng.
Các nút sợi quang (Fiber Node - FN) kéo dài từ các trạm hub thứ cấp như các
nút nhánh biên theo kiểu cấu hình sao. Chức năng cơ bản của FN là để chuyển đổi
các tín hiệu từ miền quang của sợi quang sang miền điện của cáp mạng phân phối
đồng trục kết nối với modem cáp (CM) tại mỗi nhà người dùng. FN điển hình được
thiết kế dạng hộp kín cho việc lắp đặt trên cột hoặc ngoài trời với việc cấp nguồn
mạng trực tiếp. FN cũng cung cấp nguồn điện AC (50 hoặc 60 Hz) trên cáp đồng
trục để sử dụng cấp nguồn cho các bộ khuếch đại tín hiệu cho truyền dẫn trên
khoảng cách cáp đồng trục dài. Thường các công ty vận hành cáp sử dụng không
quá 5 bộ khuếch đại trên một đường chạy cáp đồng trục.
Khoảng cách giữa các bộ khuếch đại có thể biến đổi phụ thuộc vào các yếu
tố bao gồm công nghệ bộ khuếch đại, kiểu cáp đồng trục, số lượng nhánh và tần số
cực đại của tín hiệu RF. Tuy nhiên, một khoảng cách 0,53 km giữa các bộ khuếch
đại là điển hình với công nghệ hiện tại. Yêu cầu nguồn điện và bảo dưỡng của các
bộ khuếch đại và chi phí công nghệ quang sợi ngày càng giảm xuống dẫn đến các
MSO lắp đặt sợi quang gần nhà thuê bao hơn. Kiến trúc “fiber deep” đặt FN gần sát
với các thuê bao để chỉ ít hoặc không cần bộ khuếch đại sử dụng trên đoạn cáp đồng
trục. Trong các ứng dụng này, các thuê bao thường trong phạm vi 1,5 km của FN thì
yêu cầu 3 bộ khuếch đại hoặc trong phạm vi 0,2 km thì không cần bộ khuếch đại
trên cáp đồng trục.

35
Chú ý rằng trong khi DOCSIS hỗ trợ khoảng cách cực đại trên 150 km giữa
CMTS đặt tại một trạm hub phân phối hoặc headend và một CM tại nhà khách
hàng, thì tổng khoảng cách cỡ hơn 20 km là điển hình.
Headend điều biến tín hiệu sóng mang tần số vô tuyến (RF) bằng tín hiệu
video kết hợp với kênh RF đó. Các tín hiệu RF này sau đó được kết hợp thông qua
ghép kênh theo tần số (FDM). Ở khu vực Bắc Mỹ, mỗi kênh RF chiếm băng tần 6
MHz, trong khi băng tần 8 MHz thường được sử dụng ở Châu Âu. Dải tần tổng
cộng lên tới 750 và 860 MHz đã được quy định từ giữa thập kỉ 1990 với tần số cực
đại là 1128 MHz được giới thiệu năm 2008. Một hệ thống 860 MHz cung cấp lên
tới 120 kênh với khoảng cách kênh 6 MHz hoặc 100 kênh với khoảng cách kênh 8
MHz và một hệ thống 1128 MHz cung cấp 179 kênh với khoảng cách 6 MHz.
Thông tin điều khiển bao gồm thông tin về chương trình và nhận dạng kênh có thể
được gửi cùng băng với mỗi kênh hoặc ngoài băng trên một kênh RF tách biệt. Tín
hiệu FDM kết hợp điều biến một laser tuyến tính cho truyền dẫn trên mạng quang.
Trong khi các tín hiệu video ban đầu là các tín hiệu tương tự, thì bây giờ nó
thường hỗ trợ truyền dẫn các tín hiệu video mã hóa số. Các luồng video số này sử
dụng một giao thức nén như MPEG2 hoặc MPEG4 và được điều chế lên kênh RF
bằng điều chế biên độ cầu phương (QAM). Kỹ thuật nén MPEG cho phép mang lên
tới 5 kênh video số độ nét tiêu chuẩn (SD) hoặc 2 kênh video độ nét cao (HD) trong
một kênh đơn 6 MHz. Chú ý rằng các kênh video bổ sung có thể được mang ở mức
chất lượng thấp hơn vì mức nén MPEG nhiều hơn.
Các mạng phân phối nhà thuê bao (PDN) mang thông tin dữ liệu và video
trong phạm vi nhà của thuê bao. PDN có thể sử dụng Ethernet, LAN không dây, cáp
đồng trục, đường dây điện thoại hoặc đường dây điện. Các thiết bị gọi là các bộ
thích ứng điện thoại được sử dụng để chuyển đổi các tín hiệu điện thoại thành một
định dạng như VoIP để có thể được mang trên mạng cáp. Các thiết bị như vậy cũng
được xem như là các cổng kết nối thoại. Một thiết bị có khả năng chuyển đổi nhiều
kiểu thông tin cho truyền tải qua mạng cáp được gọi là một bộ thích ứng đầu cuối
đa phương tiện (MTA) hoặc thiết bị truy nhập tích hợp (IAD). CMTS liên lạc với
MTA nhờ sử dụng một phần kênh dữ liệu.

2.2 Giao thức DOCSIS


DOCSIS xác định các giao thức lớp vật lý và lớp MAC, và một khung quản
lý và điều khoản liên quan. Tại lớp vật lý, DOCSIS xác định cách dữ liệu hướng lên
và hướng xuống được mang trên các kênh RF bao gồm cả định dạng điều chế và mã
36
đường. Vì cáp đồng trục là một môi trường chia sẻ nên DOCSIS xác định giao thức
MAC bằng cách mà các thuê bao có thể truy nhập môi trường theo hướng lên. Tại
mức dịch vụ, DOCSIS định nghĩa các kiểu luồng dịch vụ khác nhau dựa trên hiệu
năng thỏa thuận mức dịch vụ (SLA) yêu cầu cái phải được đáp ứng. DOCSIS cũng
xác định giao thức mật mã hạn chế các thuê bao truy nhập dữ liệu của các thuê bao
khác trên môi trường chia sẻ. Các giao thức xác thực modem cáp DOCSIS cho phép
thuê bao thu được các dịch vụ mà họ đăng ký chứ không phải dịch vụ họ không
đăng ký. Giao thức xác thực cũng cho phép một thuê bao chuyển modem cáp tới các
vị trí khác nhau trong mạng MSO và vẫn thu được dịch vụ.

2.2.1 Các phần tử mạng DOCSIS


Các phần tử mạng DOCSIS được cho thấy trong hình 2-2. CMTS là hệ thống
chủ của giao thức DOCSIS và modem cáp là thiết bị đầu cuối khách hàng kết nối
thiết bị của thuê bao với mạng DOCSIS. CMTS và CM được kết nối với nhau qua
mạng HFC. Hai phần tử mạng khác trong HFC là nút sợi quang (FN) và bộ kết hợp
RF, chức năng của chúng gồm các chuyển đổi quang – điện (O/E) và điện – quang
(E/O). Giá bộ kết hợp RF kết nối với CMTS qua cáp đồng trục trong tổng đài hub.
Các chức năng của mỗi hệ thống này được mô tả trong phần còn lại của phần này.

Hình 2-2 Cấu trúc một mạng DOCSIS

a. CMTS

37
CMTS là hệ thống chủ DOCSIS sinh ra giao thức DOCSIS luồng xuống cho
các CM và kết cuối các tín hiệu DOCSIS luồng lên từ các CM. Như mô tả trong
hình 2-3, CMTS bao gồm một giao diện với mạng dữ liệu MSO, các card đường
truyền để cung cấp giao tiếp DOCSIS với HFC, một chuyển mạch gói, và các giao
diện với các hệ thống quản lý và vận hành khác nhau. Mạng dữ liệu MSO là một
mạng IP sử dụng Ethernet cho các lớp thấp hơn. Các giao tiếp mạng điển hình ngày
nay là Gigabit Ethernet (GE), nhưng sẽ được dịch chuyển lên 10 G Ethernet
(10GE). Vì số lượng thuê bao bị ảnh hưởng bởi sự cố giao tiếp mạng nên các khối
thiết bị này sẽ được bảo vệ.

Hình 2-3 Mô tả mạng truy nhập DOCSIS

CMTS sử dụng một chuyển mạch Ethernet để định tuyến các gói dữ liệu giữa
giao tiếp mạng và kết nối HFC thích hợp. Các khối chuyển mạch này điển hình
cũng sử dụng cấu hình dự phòng để bảo vệ khi có sự cố về thiết bị.
Các khối đường truyền CMTS cung cấp phần dữ liệu của giao diện với mạng
HFC, gửi và thu các tín hiệu RF trên giao tiếp đồng trục tới giá bộ kết hợp RF.
Trong hướng luồng xuống, cùng tín hiệu RF được phát quảng bá tới nhiều FN.
Trong hướng luồng lên khi mà băng thông HFC bị giới hạn hơn nên thường mỗi FN
sẽ sử dụng sợi quang riêng và kết nối RF tới CMTS hoặc trên một sợi quang tách
biệt hoặc một tập bước sóng tách biệt trên một sợi quang chia sẻ. Các khối đường
truyền thường được bảo vệ theo kiểu 1:n sử dụng một giá chuyển mạch chuyển tiếp
bên ngoài để thực hiện kết nối đồng trục RF tới n khối đường truyền hoạt động hoặc
tới một khối đường truyền bảo vệ. Giá chuyển mạch chuyển tiếp ngoài được điều
khiển bởi CMTS.

38
CMTS làm việc với bộ điều khiển truy nhập bảo mật để xác định dịch vụ nào
mà một CM được phép thu từ MSO đó. Đây là một điểm nổi bật của DOCSIS cái
cho phép một thuê bao chuyển CM tới bất kỳ vị trí nào được phục vụ bởi MSO đó
(tức là bất kì nhà nào nằm trong miền của hệ thống quản lý DOCSIS đó) và thu
được các dịch vụ phù hợp. Đặc điểm này ngược với thiết bị tại nhà khách hàng DSL
hoặc PON, cái bị gắn với một vị trí hơn là một thuê bao.
Một thay đổi của CMTS đưa vào trong DOCSIS 3.0 là CMTS kiểu module
(M-CMTS). M-CMTS phân chia các chức năng CMTS thành các phần thiết bị dạng
module riêng biệt, mỗi phần được đặt trong giá của nó. Các chức năng này bao gồm
các giao tiếp RF luồng xuống, giao tiếp RF luồng lên, định tuyến và tạo dạng lưu
lượng, và định thời/đồng bộ. Ví dụ, phân tách các phần luồng lên và luồng xuống
của CMTS cho phép mỗi phần được định cỡ riêng biệt dựa trên các kiểu nhu cầu
hơn là yêu cầu nâng cấp toàn bộ một CMTS. Sự phân tách này đặc biệt hấp dẫn với
dung lượng băng thông hướng xuống DOCSIS 3.0 lớn hơn nhiều từ việc liên kết
kênh, mặc dù nó cũng có thể được sử dụng với DOCSIS 2.0.
Sự tách biệt xử lý tín hiệu luồng xuống trong một module riêng biệt cho phép
triển khai ít hơn các thiết bị QAM biên (EQAM) đối với các tín hiệu dữ liệu nhanh
hơn, như vậy cung cấp một sự giảm chi phí thiết bị đáng kể. Việc có một module
EQAM riêng biệt cho phép chia sẻ băng thông HFC giữa các dịch vụ video MPEG-
TS và DOCSIS. Tương tự, tỉ lệ các khối giao tiếp RF và bộ định tuyến hoặc dung
lượng quả lý có thể được phối hợp với nhu cầu của ứng dụng. Máy chủ giao tiếp
định thời DOCSIS (DTIS) là module cung cấp đồng hồ chính xác và đồng bộ nhãn
thời gian giữa các module luồng xuống và luồng lên riêng biệt. Tiếp cận M-CMTS
cũng cho phép các nhà sản xuất thiết bị khác nhau cung cấp các thành phần module
khác nhau.
b. Modem cáp (CM)
CM cung cấp kết cuối phía thuê bao cho giao thức DOCSIS. Trong chiều
hướng xuống, nó giải điều chế tín hiệu RF, nhận dạng các gói tin dự định cho CM
đó, và chuyển đổi các gói thành tín hiệu giao diện thuê bao phù hợp. Đối với lưu
lượng dữ liệu, giao diện thuê bao có thể là Ethernet hoặc một giao thức mạng trong
nhà như tiêu chuẩn MOCA (Đa phương tiện truyền trên liên kết cáp đồng trục) sử
dụng kết nối cáp truyền hình trong nhà như là lớp vật lý của một LAN cho phân
phối dữ liệu. Như đề cập trước đó, thoại được mang trên mạng DOCSIS như dịch
vụ VoIP. CM cung cấp xử lý VoIP và một giao diện thoại thông thường cho chuê

39
bao. Tín hiệu video điển hình được cho qua CM tới một bộ giải mã (STB – set-top
box). Trong chiều hướng lên, CM tham gia vào giao thức MAC DOCSIS để thu
được băng thông hướng lên, thực hiện ghép kênh gói tin và phát dữ liệu hướng lên
tại thời điểm thích hợp bằng việc điều chế nó lên kênh RF phù hợp.

Hình 2-4 Ngăn xếp lớp giao thức DOCSIS

Ngăn xếp giao thức được xử lý bởi CM được cho thấy trong hình 2-4. CM
bắc cầu giữa giao thức DOCSIS (cái kết cuối/khởi đầu phía mạng) và giao diện
Ethernet/LAN cung cấp cho thuê bao. Các lớp cao hơn của ngăn xếp giao thức cung
cấp chức năng cần cho OAM&P và duy trì SLA cho các luồng dữ liệu khách hàng.
Chú ý rằng ngược với các đầu cuối DSL và các ONU của PON, DOCSIS có
thể kết nối với nhiều CM trong một nhà đơn. Nói cách khác, không có sự tương
đương DOCSIS của các chức năng cổng kết nối được thực hiện bởi thiết bị nhà
khách hàng DSL hoặc PON.
c. Nút sợi quang (FN)
FN cũng đã được mô tả ở trên là một nút đơn giản chỉ có chức năng quản lý
cơ bản. Trong chiều hướng xuống, nó thực hiện chức năng O/E và phát tín hiệu
hướng xuống trên mạng cáp đồng trục. Nó cũng cung cấp việc cấp nguồn cho bất kì
các bộ khuếch đại được sử dụng trên mạng đồng trục. Mạng đồng trục hoạt động
song hướng. Trong chiều hướng lên, FN tách các tín hiệu RF từ các thuê bao và
thực hiện chức năng E/O để phát chúng về CMTS. Tính đơn giản, kích cỡ và tiêu
thụ công suất thấp là những xem xét quan trọng.
d. Giá kết hợp RF

40
Trong chiều hướng xuống, giá kết hợp RF lấy các tín hiệu RF từ CMTS và
tín hiệu video, thực hiện trộn RF và chuyển đổi điện – quang (E/O) để gửi tín hiệu
tổng hợp trên mạng HFC. Trong chiều hướng lên, giá kết hợp RF thực hiện chuyển
đổi quang – điện (O/E) và gửi các tín hiệu RF tới CMTS.

2.2.2 Lịch sử phát triển


DOCSIS là một họ các giao thức thường được bổ sung các chức năng trong
mỗi phiên bản phát hành mới. Các chức năng được bổ sung của các phát hành chính
được tóm tắt ở đây.
Một trong những mặt quan trọng của mỗi phiên bản DOCSIS là một CMTS
hoặc CM hỗ trợ phiên bản mới có khả năng tương thích ngược với bản sao chỉ hỗ
trợ một phiên bản trước đó. Ví dụ một CMTS hỗ trợ DOCSIS 2.0 có thể liên lạc
xuyên suốt với một CM chỉ hỗ trợ DOCSIS 1.0 và ngược lại.
a. DOCSIS 1.0
DOCSIS 1.0 là phiên bản đầu tiên. Mục đích cơ bản ban đầu của nó là cung
cấp truy nhập Internet băng rộng và phiên bản này đã xác định các đặc điểm tối
thiểu đòi hỏi thiết lập để hỗ trợ dịch vụ đó. Trong việc hỗ trợ dịch vụ đó, nó đã định
nghĩa một tiêu chuẩn thiết lập giao thức dựa trên giao thức cấu hình động máy chủ
(DHCP) và giao thức truyền tệp thường (TFTP). Nó cũng định nghĩa một giao thức
quản lý mạng được xây dựng trên giao thức quản lý mạng đơn giản (SNMP). Quá
trình lọc cổng và địa chỉ cũng đã được đưa vào DOCSIS 1.0. Vì cáp đồng trục là
một môi trường chia sẻ, nên nó rất quan trọng để cung cấp bảo mật lớp tuyến từ sự
khởi đầu DOCSIS 1.0. Giới hạn tốc độ cũng là một đặc điểm quan trọng của
DOCSIS 1.0 cho môi trường đồng trục chia sẻ.
b. DOCSIS 1.1
Phiên bản DOCSIS 1.1 đã mở rộng DOCSIS thêm một số khả năng. Hỗ trợ
đảm bảo chất lượng dịch vụ (QoS) là một sự bổ sung then chốt. Các đảm bảo này
bao gồm băng thông, trễ và jitter (rung pha). Hỗ trợ việc tạo và xóa dịch vụ động
cũng được bổ sung. Để tăng hiệu năng mạng, lớp MAC được tăng cường cho hiệu
quả băng thông cao hơn. Một sự tăng cường như vậy là sự hỗ trợ cho việc kết chuỗi
các khung dữ liệu, do đó nhiều khung/gói dữ liệu có thể được gửi trong chỉ một cấp
phép băng thông hướng lên mà không đòi hỏi một cấp phép riêng biệt cho mỗi gói.
Một sự tăng cường khác là sự hỗ trợ việc phân mảnh các gói dữ liệu dài để giảm
thiểu tác động của chúng đến trễ và jitter của các luồng gói khác. Sự chặn tiêu đề tải

41
trọng cũng được bổ sung để tăng hiệu suất băng thông cho các dịch vụ có các tiêu
đề mỗi gói lớn khác nhau chút ít từ gói này sang gói khác.
Giao thức quản lý đã được nâng cấp để sử dụng SNMPv3. Sự nâng cấp này
đã bổ sung một mô hình điều khiển truy nhập dựa trên lượt xem (VACM) cho quản
lý SNMP. Nó cũng hỗ trợ khả năng xác thực và bảo mật. Thêm nữa, nó sử dụng các
giá trị khởi tạo MIB cái cho phép CMTS xác định khóa mật công khai của CM và
để bắt đầu phiên trao đổi để thiết lập xác thực và các khóa riêng mà nó sẽ sử dụng
với CM đó.
Khả năng thay đổi kênh động (DCC) cho phép CMTS thay đổi kênh RF
hướng lên hoặc hướng xuống nào CM sử dụng. Hỗ trợ IP Multicast đã được bổ
sung để hỗ trợ tốt hơn việc phân phối các dịch vụ video. Một mặt quan trọng của
DOCSIS 1.1 là bảo mật tăng cường thông qua một phương pháp mã hóa mạnh hơn
và một giao thức xác thực CM. Tải xuống phần mềm bảo mật tới các CM cũng
được bổ sung. Các MIB mới bao gồm hỗ trợ cho QoS, BPI+ và IGMP.
Các đặc điểm nổi bật khác của DOCSIS 1.1 là các chức năng quản lý thuê
bao, quản lý tài khoản và quản lý lỗi.
c. DOCSIS 2.0
DOCSIS 2.0 duy trì mọi thứ từ DOCSIS 1.1 và bổ sung các khả năng lớp
MAC và lớp vật lý mới.
Các kênh hướng lên của DOCSIS 2.0 hỗ trợ hai mode hoạt động khác nhau.
Mode đầu tiên là Advanced TDMA (A-TDMA) là sự mở rộng trực tiếp của
DOCSIS 1.0 và 1.1. Mode khác là công nghệ CDMA đồng bộ (S-CDMA) mới. S-
CDMA chia sẻ kênh RF bằng việc các thuê bao phát liên tục trong băng thông chia
sẻ sử dụng kỹ thuật trải phổ phân chia theo mã hơn là sử dụng phương pháp chia sẻ
thời gian của TDMA. A-TDMA và S-CDMA cho phép sử dụng các vùng phổ
không thể sử dụng trước đó.
Một sự tăng cường MAC được đưa vào DOCSIS 2.0 là khái niệm các kênh logic
cho chiều hướng lên. Một kênh logic là một thực thể MAP (sơ đồ gán băng thông
hướng lên) thu nhận các cấp phát băng thông thông qua một bản tin MAP kết hợp
với ID kênh duy nhất của nó. Nó hoàn toàn được mô tả bởi các bản tin MAP và
UCD (Upstream Channel Descriptor) của nó. Nhiều kênh logic có thể được hỗ trợ
trên cùng kênh vật lý.

42
DOCSIS 2.0 cũng cung cấp cân bằng tải tự động. Trong suốt thời gian mà
một CM được đăng ký, CMTS sử dụng đặc điểm này để điều khiển các thay đổi
kênh động theo chiều hướng lên và hướng xuống cho CM đó. CMTS điều khiển sự
thay đổi kênh thông qua các bản tin quản lý (các bản tin DCC).
d. DOCSIS 3.0
Một trong các đặc điểm quan trọng của DOCSIS 3.0 là khả năng liên kết các
kênh vật lý đơn với nhau để tạo ra các kênh logic băng thông cao hơn. Sự liên kết
kênh được hỗ trợ theo cả hai chiều hướng lên và hướng xuống. Cơ chế này cho
phép tốc độ dữ liệu cao hơn nhiều (vd: trên 100 Mbit/s hướng xuống), nhưng cũng
có thể tương thích với các CM cũ.
DOCSIS 3.0 bổ sung hỗ trợ nhóm kênh liên kết cho đặc điểm cân bằng tải tự
động. Các CM hỗ trợ chỉ một kênh đơn theo cả hai chiều hướng lên và xuống được
gọi là các CM đơn kênh cái được vận hành cùng kiểu như với DOCSIS 2.0. CMTS
điều khiển cân bằng tải của các kênh được sử dụng bởi các CM đa kênh thông qua
các bản tin thay đổi liên kết động (Dynamic Bonding Change - DBC). Cân bằng tải
đối với các CM đơn kênh đòi hỏi dịch chuyển CM tới một kênh hướng lên và/hoặc
hướng xuống khác nhau. Ngược lại đối với các CM đa kênh, CMTS dịch chuyển
luồng dịch vụ tới một tập các kênh luồng lên hoặc luồng xuống khác nhau.
Một đặc điểm quan trọng khác của DOCSIS 3.0 là sự hỗ trợ cho IPv6. IPv6 cung
cấp một không gian địa chỉ mở rộng rất lớn và cho phép các khả năng vận hành cải
thiện. IPv6 cũng thực hiện hỗ trợ cho các Set-top Box IP thực tế hơn.
IP-Multicast là một đặc điểm quan trọng khác của DOCSIS 3.0. Ứng dụng
thúc đẩy là các dịch vụ kiểu IPTV. Việc sử dụng IP multicast cho phép sử dụng các
giao thức tiêu chuẩn để quản lý các dịch vụ video IP theo kiểu video được chuyển
mạch. Hiệu suất băng thông đạt được bằng việc chỉ phân phối các chương trình
video cho thuê bao khi người xem có mặt. IP multicast cũng cho phép thiết lập QoS,
do đó chất lượng video không bị tác động bởi nghẽn mạng.
Một đặc điểm DOCSIS 3.0 khác là sự hỗ trợ cho bảo mật lưu lượng mạnh
hơn. DOCSIS 3.0 hỗ trợ AES 128 bit thay cho mã hóa DES 56 bit được sử dụng ở
các thế hệ DOCSIS trước. Nó sử dụng mode CBC (cipher block chaining) ở đó
phần dư của mã hóa một khối là nguồn cho mã hóa của khối tiếp theo.

43
2.2.3 Lớp vật lý DOCSIS
Phổ tần hệ thống cáp MSO điển hình được cho thấy ở hình 2-5. Băng tần phổ
điển hình tín hiệu video tương tự bắt đầu từ dưới quanh 54 MHz. Dưới tần số này,
các suy giảm do tạp âm là quá lớn cho truyền dẫn video tương tự chất lượng. Tuy
nhiên, băng tần 5 – 42 MHz là đủ mạnh mẽ cho các định dạng điều chế số và là
vùng phổ được chọn cho truyền dẫn DOCSIS hướng lên. Một sự tăng cường cho
phổ tần video tương tự gốc ban đầu là sự bổ sung các kênh tần số mới cao hơn để
hỗ trợ các tín hiệu số. Các tín hiệu số được mang trên các kênh này bao gồm các
kênh video được mã hóa số và các kênh DOCSIS hướng xuống.

Hình 2-5 Băng tần phổ trong DOCSIS.

a. Truyền dẫn DOCSIS hướng xuống


Các tham số của các tín hiệu DOCSIS hướng xuống được tóm tắt trong bảng
2.1. Các MSO khu vực Bắc Mỹ đi theo các tiêu chuẩn ITU-T J.83-B, trong khi các
MSO khu vực châu Âu đi theo các tiêu chuẩn truyền hình kỹ thuật số (DVB) ETSI
EN 300 429. Một trong các khác biệt chính giữa các hệ thống cáp Bắc Mỹ và châu
Âu là độ rộng một kênh 6 MHz được sử dụng ở Bắc Mỹ, trong khi các kênh 8 MHz
được sử dụng ở châu Âu. Sự khác nhau này rõ ràng ảnh hưởng tốc độ dữ liệu khả
thi trên mỗi kênh. Cả hai vùng sử dụng điều chế 256-QAM cho các kênh có tỉ số tín
hiệu trên tạp âm đủ lớn và giảm xuống 64-QAM trên các kênh không thể hỗ trợ
256-QAM.
Cả hai vùng cũng sử dụng các mã sửa lỗi tiến (FEC) Reed-Solomon, mặc dù
mỗi vùng đã chọn một FEC cụ thể khác nhau. Quá trình sửa lỗi thực hiện bởi FEC
làm tăng tỉ số tín hiệu trên tạp âm hiệu dụng của kênh, như vậy cho phép một sự
tăng tốc độ dữ liệu vượt xa phần băng tần mà mào đầu FEC bổ sung tiêu tốn.
RS(204,188) của châu Âu cung cấp khả năng sửa lỗi tốt hơn RS(128,122) của Bắc

44
Mỹ nhưng độ phức tạp bộ giải mã lớn hơn. RS(204,188) sửa lên tới 8 lỗi ký hiệu,
trong khi RS(128,122) sửa lên tới 3 lỗi ký hiệu. Tiêu chuẩn Bắc Mỹ cũng hỗ trợ
điều chế mã hóa lưới (TCM).
Bảng 2.1 Các tham số lớp vật lý hướng xuống trong DOCSIS

Phụ thuộc vào chất lượng của kênh, DOCSIS như vậy hỗ trợ tốc độ dữ liệu
mỗi kênh cỡ khoảng 27-39 Mbit/s ở Bắc Mỹ và 38-51 Mbit/s ở châu Âu.

Hình 2-6 Định dạng gói MPEG sử dụng trong DOCSIS.

DOCSIS định nghĩa phân lớp hội tụ truyền dẫn (TC) hướng xuống cung cấp
một giao diện giữa MAC và phân lớp phụ thuộc môi trường vật lý (PMD). Phân lớp
TC này cho phép ghép và tách video MPEG và dữ liệu DOCSIS trên phân lớp
PMD. Tín hiệu TC hướng xuống là một luồng liên tục các gói MPEG dài 188 byte.
Như cho thấy trong hình 2-6 khung MPEG bắt đầu bằng một tiêu đề 4 byte để nhận
dạng khung chứa một tải trọng video MPEG hay tải trọng MAC DOCSIS. Tiêu đề
phù hợp với tiêu chuẩn MPEG, nhưng việc đưa vào trường thích ứng là không được
phép trong các gói MPEG này.
Khi các gói MPEG mang dữ liệu DOCSIS thì tải trọng DOCSIS chiếm vùng
tải trọng gói MPEG. Một khung MAC DOCSIS có thể bắt đầu bất cứ đâu trong gói
MPEG. Mỗi gói MPEG có thể mang một khung MAC DOCSIS đơn có độn để điền
đầy phần còn lại của vùng tải trọng gói MPEG hoặc nó có thể chứa nhiều khung
MAC DOCSIS cái hoặc được kết chuỗi với nhau hoặc được cách biệt bởi các byte
độn tùy chọn. Nó cũng có thể cho độ dài khung MAC DOCSIS vượt quá chiều dài
của tải trọng gói MPEG.

45
Các đồng chỉnh khác nhau của khung MAC DOCSIS với gói MPEG được
điều khiển bởi trường con trỏ. Nếu bộ chỉ thị bắt đầu khối tải trọng của tiêu đề
MPEG được thiết lập thì trường con trỏ chiếm byte đầu tiên sau tiêu đề MPEG.
Trường con trỏ chỉ cho CM biết bao nhiêu byte gói tiếp sau đó phải bỏ qua trước
khi bắt đầu khung MAC DOCSIS. Nó cũng chỉ cho CM biết có các byte độn nào
trong khung DOCSIS. DOCSIS sử dụng các byte độn toàn bit 1 để điền đầy bất kỳ
khoảng trống nào giữa các khung MAC DOCSIS tiếp giáp nhau.
b. Truyền dẫn DOCSIS hướng lên
Các tham số truyền dẫn hướng lên trong DOCSIS được tóm tắt trong bảng
2.2 cho thấy sự tăng cường khả năng được đưa vào bởi DOCSIS 2.0. Như mô tả
trong hình 2-5, các kênh hướng lên được sắp xếp trong băng tần từ 5 – 42 MHz. Bộ
phát hướng lên được mô tả trong hình 2-7 trong đó có các khối chỉ duy nhất với các
mode A-TDMA và S-CDMA. Tín hiệu hướng lên được trộn để thực hiện cân bằng
xác suất cho tất cả các điểm chòm sao của tín hiệu hướng lên. Bộ trộn sử dụng đa
thức trộn g(x) = x15 + x14 + 1 và nó được thiết lập lại tới một giá trị nguồn tại điểm
bắt đầu của mỗi burst hướng lên. Giá trị nguồn được tính theo bản tin mô tả kênh
hướng lên (UCD) từ CMTS.
Bảng 2.2 Các tham số lớp vật lý hướng xuống trong DOCSIS

Vì các kênh hướng lên chiếm một phần tạp âm tương đối của phổ tần cáp
đồng trục nên chúng được xác định để hỗ trợ một dải rộng các tùy chọn kiểu điều
chế. Điều chế hiệu suất cao nhất có thể được hỗ trợ bởi kênh sẽ được lựa chọn.
Các bộ lọc cân bằng thích ứng trước được xác định để thích ứng với méo
tuyến tính của cáp đồng trục trong dải tần số này. Có khoảng 1 đến 4 nhánh bộ lọc
trên mỗi ký hiệu. CMTS xác định các đặc tính kênh hướng lên và gửi các hệ số bộ
cân bằng trước tới CM trong bản tin trả lời định cỡ khoảng cách (RNG-RSP). Một
thiết lập hệ số bộ cân bằng trước mặc định được sử dụng trước khi CM thu được trả

46
lời định cỡ ban đầu của nó hoặc bất cứ khi nào nó thay đổi kênh hướng lên hoặc tốc
độ ký hiệu.

Hình 2-7 Bộ phát hướng lên DOCSIS.

Một dải mã FEC Reed-Solomon được xác định cho tín hiệu hướng lên. Kích
thước khối mã và tỉ lệ các bit dữ liệu trên các bit kiểm tra lỗi được xác định bởi các
đặc tính và các suy giảm gặp phải trên kênh. DOCSIS 2.0 cũng đưa vào tùy chọn
điều chế mã lưới TCM để cải thiện hiệu năng chống lỗi. Một mã lưới n/n+1 nhân
đôi số lượng bit được mã hóa thành mỗi ký hiệu phát đi, nhưng thực hiện tăng tỉ số
tín hiệu trên tạp âm một cách hiệu quả băng việc kiểm tra nhiều ký hiệu nối tiếp
tuần tự để xác định chuỗi ký hiệu giống nhất được sinh ra bởi bộ mã hóa lưới. Dải
tốc độ dữ liệu hướng lên mỗi kênh không gồm mào đầu FEC trong phạm vi từ 110
Kbit/s đến 30,72 Mbit/s.
CM có thể sử dụng hoặc một độ dài cố định cho tất cả các từ mã FEC hướng
lên hoặc nó có thể sử dụng một từ mã bị rút gọn cho từ mã cuối của burst tin. Như
có thể thấy từ tham số k trong bảng 2.2, số lượng byte thông tin tối thiểu trong từ
mã là 16 và một từ mã đầy đủ có 253 byte. Nếu một từ mã cuối bị rút ngắn được sử
dụng, từ mã cuối vẫn sẽ chứa cùng số lượng bit như một từ mã đầy đủ nhưng nó sẽ
độn bit 0 giữa điểm cuối của byte thông tin và vị trí byte kiểm tra FEC.
b.1. Mode truyền dẫ ướng lên TDMA
Mode TDMA tương tự mode sử dụng trong các mạng PON. Trong khi tín
hiệu hướng xuống phát quảng bá tới tất cả các CM, các CM chia sẻ thời gian băng
thông hướng lên bằng các khe thời gian truyền dẫn được cấp phép. Chỉ một CM
phát tại một thời điểm trên một kênh xác định và nó sử dụng toàn bộ băng thông của

47
kênh trong suốt quá trình truyền dẫn. Burst truyền dẫn hướng lên từ một CM bao
gồm một preamble, burst dữ liệu và thời gian bảo vệ. Preamble cho phép CMTS
thích ứng việc thiết lập độ lợi bộ thu cân bằng tới mức tín hiệu của burst CM, và để
đạt được quá trình đồng bộ cho việc khôi phục đồng hồ và dữ liệu để thu được phần
dữ liệu của burst. Preamble có thể dài lên tới 1024 bit. Như với các hệ thống PON,
thời gian bảo vệ được cấp phát để loại bỏ sự chồng lấn truyền dẫn từ các CM khác
nhau tại CMTS vì sự khác biệt về tuyến truyền dẫn giữa CMTS và các CM vượt quá
khả năng giải quyết bởi giao thức định cỡ khoảng cách (ranging).
Ưu điểm cơ bản của TDMA là cung cấp khả năng miễn nhiễm với các nhiễu
băng hẹp (các nguồn tạp âm tần số thấp). A-TDMA của DOCSIS 2.0 sử dụng độ
rộng kênh lớn nhất cỡ 6.4 MHz và nó bổ sung hỗ trợ cho điều chế 8-QAM, 32-
QAM và 64-QAM. Thêm nữa, nó xác định một bộ cân bằng trước 24 nhánh được
cải thiện nhiều và mã sửa lỗi Reed-Solomon tăng cường với kỹ thuật đan xen tùy
chọn. Kết quả thu được thông lượng và hiệu năng truyền dẫn dữ liệu hướng lên cao
hơn nhiều. Hiệu năng mạnh mẽ kháng lại các suy giảm đường truyền cáp cho phép
sử dụng các phần vùng phổ hướng lên không được sử dụng trước đó.
b.2. Mode truyền dẫ ướng lên S-CDMA
S-CDMA là một kỹ thuật trải phổ chuỗi trực tiếp cho phép nhiều CM phát
đồng thời trên cùng một kênh. Truyền dẫn trải phổ được kết hợp với TDMA sao cho
các CM có thể có thời gian truyền dẫn burst xếp chồng dài hơn. Nói cách khác S-
CDMA duy trì hầu hết các điểm nổi bật của A-TDMA nhưng bổ sung trải phổ
CDMA với điều chế mã lưới tùy chọn. Bằng việc cho phép truyền dẫn liên tục dài
hơn thay cho truyền dẫn burst tương đối ngắn, S-CDMA tránh băng thông bị lãng
phí bởi preamble và thời gian bảo vệ của nhiều burst ngắn hơn. Kết quả là thu được
một truyền dẫn hướng lên hiệu quả hơn. CDMA cũng cung cấp khả năng miễn
nhiễm tốt hơn với nhiễu burst.
S-CDMA sử dụng một tập gồm 128 mã trực giao với điều chế 128-QAM và
điều chế mã lưới tùy chọn. Cụ thể, khung S-CDMA được mô tả trong hình 2-8 có
thể thiết lập cấu hình lên tới 128 mã bởi K khoảng trải phổ trên mỗi khung. Như mô
tả trong hình 2-9, các phân khe (mini-slot) của khung S-CDMA được xác định bởi
một sự tổ hợp số khung và mã trải CDMA có các phân khe được sắp xếp lên một
nhóm mã liên tiếp. Một khoảng trải là số lượng các điểm dấu thời gian cần để phát
một ký hiệu CDMA. Các dạng sóng phát của các CM khác nhau được đồng bộ
trong thời gian 1 ns để duy trì tính trực giao của chúng. Lớp vật lý sắp xếp các phân

48
khe tới các khung. Một CM thực hiện đồng bộ thông qua sự kết hợp của quá trình
khôi phục đồng hồ 10,24 MHz từ tín hiệu hướng xuống gửi bởi CMTS và giao thức
định cỡ khoảng cách xác định khoảng cách từ CMTS đến CM.

Hình 2-8 Cấu trúc khung S-CDMA DOCSIS.

Hình 2-9 Mô tả phân khe và nhãn thời gian khung S-CDMA.

b.3. Liên k t kênh DOCSIS


Như đề cập ở trên, DOCSIS 3.0 đưa vào một cơ chế để liên kết nhiều kênh
RF với nhau giữa CMTS và một CM. Các kênh RF này là giống như các kênh được

49
sử dụng ở các phiên bản trước của DOCSIS. Một tập kênh liên kết được xem như
một tập kênh phát (TCS) và/hoặc tập kênh thu (RCS). Các gói liên quan với cùng
luồng dịch vụ được phân phối trên tập các kênh này. Cơ chế này cho phép tốc độ dữ
liệu cao hơn nhiều, nhưng vẫn có thể tương thích với các CM đời trước. Đối với các
hệ thống Bắc Mỹ, từng các kênh vật lý hướng xuống 6 MHz hỗ trợ 40 Mbit/s và
từng các kênh hướng lên 6,4 MHz hỗ trợ 30 Mbit/s. DOCSIS 3.0 hỗ trợ ít nhất 160
Mbit/s hướng xuống và 120 Mbit/s hướng lên, trong mỗi trường hợp liên kết bốn
kênh vật lý với nhau. Thêm vào tốc độ dữ liệu cao hơn, phân phối động các gói qua
các kênh khác nhau trong một nhóm liên kết hướng xuống còn cho phép tối đa hóa
độ lợi ghép kênh thống kê thực hiện được.
Sự khác biệt độ trễ giữa các kênh có thể gây ra các gói được gửi trên các
kênh khác nhau lệch khỏi chuỗi. Một số chuỗi được thêm vào mỗi gói để cho phép
bộ thu phục hồi luồng gói phù hợp trước khi chuyển tiếp nó. Các số chuỗi cũng cho
phép phát hiện các gói bị mất. Một kênh trong một tập kênh phát hoặc thu có thể trở
thành không thể sử dụng, ví dụ nếu một CM mất một kênh hướng lên và/hoặc
hướng xuống trong quá trình hoạt động bình thường. Tình huống này cũng có thể
xảy ra nếu CM không thể thu được kênh đó trong quá trình đăng ký và /hoặc DBC.
Mode hoạt động CM này được xem như mode dịch vụ từng phần trong kênh hướng
lên hoặc hướng xuống tương ứng. CM thông tin tình huống này tới CMTS bằng
việc hoặc không đưa ra phản hồi (ví dụ: REG-ACK hoặc DBC-RSP) khi không thể
thu được kênh đó hoặc thông qua bản tin CM-STATUS trong sự kiện một kênh bị
mất trong lúc hoạt động bình thường. Đối với trường hợp dịch vụ từng phần kênh
hướng lên, CM không phát bất cứ gì trên kênh hướng lên không thể sử dụng ngoại
trừ việc nó sẽ trả lời các cơ hội định cỡ khoảng cách unicast đối với kênh đó để thử
thiết lập lại liên lạc trên nó. Khi CMTS nhận thức được tình huống nó sẽ cung cấp
các cơ hội truyền ranging unicast cho CM đối với kênh hướng lên đó. Đối với dịch
vụ từng phần kênh hướng xuống, một CM sẽ tiếp tục cố gắng thu được một kênh
không sơ cấp đã bị mất. Nếu một kênh sơ cấp hướng xuống bị mất, CM sẽ khởi tạo
lại MAC của nó. Nếu điều này xảy ra trong khi hoạt động bình thường thì nó sẽ
thoát việc phát dữ liệu trên tất cả các kênh hướng lên trong khi cố gắng thu lại được
kênh sơ cấp hướng xuống. CMTS không gửi các gói unicast trên một kênh hướng
xuống không thể sử dụng. Dịch vụ từng phần có thể được giải quyết hoặc bằng thu
thập lại các kênh hoặc sử dụng DBC để chuyển mạch tới tập kênh khác.

50
2.2.4 Quá trình đồng bộ và định khoảng cách
Các CM DOCSIS được đồng bộ với CMTS để hỗ trợ CMTS khôi phục các
burst dữ liệu hướng lên và tối đa hóa việc sử dụng băng thông hướng lên. Định thời
truyền dẫn ký hiệu hướng lên của các CM được phối hợp bởi CMTS dựa trên sự kết
hợp quá trình đồng bộ hóa và kiến thức về khoảng cách CM từ CMTS.
a. Quá trình đồng bộ hóa
Các khối cơ bản của quá trình đồng bộ hóa CM và CMTS được mô tả trong
hình 2-10. CMTS là nguồn đồng hồ chủ cho mạng cùng với các CM thu được đồng
hồ và tín hiệu định thời ký hiệu từ tín hiệu hướng xuống. Quá trình đồng bộ hóa và
giải điều chế hướng xuống tuân theo khuyến nghị ITU-T J.83 phụ lục A, B, C.
Đồng hồ chủ CMTS 10,24 MHz và tốc độ ký hiệu của nó được khóa với nhau. Mối
quan hệ giữa đồng hồ và chu kì ký hiệu được định nghĩa như tỉ lệ của M và N với M
và N là các số nguyên 16 bit được xác định bới các tham số TLV trong bản tin
UCD.

Hình 2-10 Sơ đồ khối đồng bộ DOCSIS.

Mỗi CM cũng duy trì một bộ đếm nhãn thời gian cục bộ cái được khởi tạo
bởi bản tin SYNC từ CMTS. Nhãn thời gian cục bộ được sử dụng bằng cơ chế
ranging để cung cấp thông tin độ lệch định thời (timing offset). Cơ chế bộ đếm nhãn
thời gian DOCSIS cho ranging tương tự như cơ chế sử dụng cho EPON. Cụ thể,
nhãn thời gian là một bộ đếm 32 bit chạy bởi một đồng hồ có tần số cỡ 10,24 MHz
± 5 ppm được cấp từ ngoài cho cả hai PHY và MAC hướng lên. Lớp MAC CMTS
duy trì bộ đếm khe thời gian chủ, trong khi các bộ đếm khung chủ và phân khe chủ
nằm trong lớp PHY. Nhãn thời gian tại CMTS đặc trưng cho giá trị bộ đếm tại một
thời điểm cố định tương ứng với thời điểm mà một byte đầu tiên của bản tin quản lý
MAC đồng bộ hóa thời gian được truyền tới phân lớp phụ thuộc môi trường vật lý

51
hướng xuống từ phân lớp hội tụ truyền dẫn hướng xuống (thời gian lệch có thể là 0
hoặc một giá trị cố định). Tất cả trong phân lớp PHY được đồng bộ với giá trị nhãn
thời gian MAC bằng việc sử dụng một xung đồng bộ hóa khung. Tại mỗi đường
giới hạn khung, PHY bắt được nhanh một nhãn thời gian cái sẽ sẵn sàng cho truyền
dẫn trong một UCD.
Hoặc CMTS hoặc CM có thể có điểm tham chiếu bắt đầu và điểm tham
chiếu kết thúc. Bất cứ cái nào có điểm tham chiếu bắt đầu sẽ duy trì trường này như
một bản sao nhãn thời gian cục bộ của nó. Nếu CM có được điểm tham chiếu bắt
đầu, thì CMTS đặt tất cả bit 0 trong trường bắt đầu nhãn thời gian và, nếu CMTS có
được nó thì CM sao chép giá trị từ trường giống nhau của bản tin DPV-REQ (đề
nghị kiểm tra tuyến DOCSIS) vào trường bắt đầu nhãn thời gian. Timestamp Start
sau đó trao đổi giá trị nhãn thời gian khi người gửi đưa một gói DPV vào luồng dữ
liệu tại điểm tham chiếu DPV. Trường kết thúc nhãn thời gian (Timestamp End)
được khởi tạo tất cả về 0 bởi CMTS. CM sao chép vào trường TE hoặc nhãn thời
gian cục bộ của nó nếu nó có được điểm tham chiếu kết thúc, hoặc nói cách khác
giá trị đồng nhất từ bản tin DPV-REQ.
CMTS thiết lập một tham chiếu định thời toàn cục cho các kênh TDMA bằng
việc phát các bản tin SYNC hướng xuống tại tần số danh định. Vì bản tin SYNC
chứa nhãn thời gian, nên CM biết chính xác khi nào CMTS gửi bản tin đó. CM so
sánh nhãn thời gian thu được với thời điểm tại đó nó được thu thực sự và cập nhật
tham chiếu đồng hồ cục bộ của nó tương ứng. CMTS thiết lập một tham chiếu định
thời toàn cục bổ sung cho các kênh S-CDMA bằng cách gửi cả hai bản tin SYNC và
MAC UCD hướng xuống tại tần số danh định.
Nói chung, CM thực hiện đồng bộ hóa MAC sau khi nó thu được ít nhất hai
bản tin SYNC trong 200 ms (khoảng SYNC lớn nhất) và kiểm chứng độ chính xác
đồng hồ thu được trong giới hạn xác định. Trong chế độ khóa “Locked”, CM đồng
bộ (khóa) theo đồng hồ ký hiệu hướng xuống thu được để thu được đồng hồ truyền
dẫn hướng lên. Trong chế độ “Not Locked”, CM không sử dụng đồng hồ ký hiệu
hướng xuống thu được, nhưng thay vào đó thu được gốc thời gian hướng lên từ các
bản tin SYNC thu được.
Trong các cấu hình một CM sử dụng nhiều kênh hướng xuống và hướng lên,
thông tin nhãn thời gian có thể được gửi hoặc trên một kênh hướng xuống hoặc trên
nhiều kênh. Nếu các nhãn thời gian kênh hướng xuống không đồng bộ thì sau đó
mỗi kênh hướng lên phải được gắn chặt với một kênh hướng xuống để có được

52
thông tin nhãn thời gian, và mỗi kênh hướng xuống chỉ nên gửi các bản tin định thời
cho các kênh hướng lên liên quan với kênh hướng xuống đó. Nếu tất cả các kênh
hướng xuống được đồng bộ (tức nhãn thời gian thu được từ một gốc thời gian và
đồng hồ chung), thì khi đó các bản tin định thời cho tất cả các kênh hướng lên được
gửi trên tất cả các kênh hướng xuống, và một kênh hướng lên có thể sử dụng bất kỳ
kênh hướng xuống nào cho thông tin nhãn thời gian.
Với DOCSIS 3.0, CMTS sử dụng mỗi kênh hướng xuống CM sơ cấp cho
liên lạc tham chiếu định thời toàn cục với nó. CM sử dụng tham chiếu định thời này
như gốc thời gian cho định thời burst hướng lên trên tất cả các kênh hướng lên mà
nó dùng.
b. Quá trình ranging
CMTS xác định khoảng cách giữa nó và mỗi CM để xem xét cho định thời
cấp phép truyền dẫn burst hướng lên mà nó gửi cho mỗi CM. Như đã đề cập,
TDMA và S-CDMA có các yêu cầu ranging khác nhau. Giao thức ranging hỗ trợ
một trễ (một chiều) đầu cuối tới đầu cuối cực đại giữa CMTS và CM cỡ 800 s,
tương ứng khoảng 161 km. Có hai bước cho quá trình ranging. Bước đầu tiên là một
bước bảo dưỡng ban đầu cung cấp đồng chỉnh định thời thô. Bước thứ hai là một
quá trình bảo dưỡng trạm tuần hoàn cung cấp quá trình đồng chỉnh định thời tinh. Lí
do cho việc thực hiện các kiểm tra tần số, nguồn và ranging một cách tuần hoàn là
để thích ứng với các biến đổi vật lý hệ thống cáp HFC trong ngày. Ví dụ hệ thống
cáp có thể bị tác động bởi biến đổi nhiệt độ và kéo dãn cáp.
Trong giai đoạn đầu tiên của ranging, CM thực hiện đồng bộ hóa định thời
theo luồng ký hiệu hướng xuống và phân tích một bản tin mô tả kênh hướng lên
MAC (UCD-MAC) để xác định các đặc tính kênh hướng lên. Tiếp theo, CM quét
bản tin cấp phát băng thông MAP cho một vùng bảo dưỡng quảng bá ban đầu
(BIMR-Broadcast Initial Maintenance Region) mà CMTS lập lịch sao cho nó đủ lớn
để thích ứng trễ roundtrip trường hợp tệ nhất. CMTS lập lịch các cơ hội phát
Broadcast Initial Maintenance để đồng chỉnh theo và mở rộng khoảng một số
nguyên lần khung S-CDMA. CM sau đó phát bản tin ranging phù hợp trong một
BIMR. Nó gửi đề nghị ranging liên kết ban đầu (B-INIT-RNG-REQ) nếu phát hiện
một bộ mô tả miền MAC (MAC Domain Descriptor) trên kênh sơ cấp hướng xuống
ứng cử của nó và thực hiện ranging ban đầu sau khi bật nguồn hoặc khởi tạo lại trên
kênh hướng lên đầu tiên. Nó gửi một đề nghị ranging ban đầu (INIT-RNG-REQ)
nếu UCD chỉ thị rằng kênh hướng lên hỗ trợ DOCSIS 2.0 (kênh hướng lên kiểu 3)

53
hoặc DOCSIS 3.0 (kênh hướng lên kiểu 4) và CM sẽ không thực hiện ranging ban
đầu sau khi bật nguồn hoặc khởi tạo lại trên kênh hướng lên đầu tiên, và MAC
Domain Descriptor không có mặt. Bản tin INIT-RNG-REQ được sử dụng khi một
CM khởi tạo trên một kênh thứ cấp (tức kênh trên đó CM cố gắng để định khoảng
cách sau khi nó thu được một phản hồi ranging trên một kênh khác, trừ phi phản hồi
ranging đó chứa một Upstream Channel ID Override). Nói cách khác CM sẽ gửi
bản tin đề nghị ranging (RNG-REQ).
CM sử dụng trễ nội của nó như giá trị ban đầu cho độ lệch định thời (tức
lượng trễ xảy ra nếu CM ở ngay cạnh CMTS không có trễ đường truyền cáp). Nó sử
dụng tham số Ranging Backoff Start như điểm bắt đầu cho cửa sổ back-off truyền
dẫn contention ranging ban đầu, và Ranging Backoff End như giá trị cửa sổ cuối
cùng. Giá trị tham số (0-15) đặc trưng cho giá trị hàm lũy thừa 2 biểu thị kích thước
cửa sổ.
CMTS phản hồi lại bản tin đề nghị ranging của CM bằng bản tin Ranging
Response (RNG-RSP) được chỉ định cho CM đó. Nếu CM chưa thu được một SID
trước đó thì RNG-RSP gán hoặc một SID tạm thời hoặc một Ranging SID cho CM
tới khi hoàn thành quá trình đăng kí. Các hiệu chỉnh cho mức công suất và tần số
cũng như hiệu chỉnh độ lệch định thời cũng được gửi trong bản tin RNG-RSP.
Tóm lại, giai đoạn đầu tiên của cơ chế ranging bắt đầu với CM gửi một bản
tin đề nghị ranging và CMTS phản hồi bằng một bản tin phản hồi ranging chứa hiệu
chỉnh định thời cùng với thông tin hiệu chỉnh mức công suất và tần số và các tham
số bộ cân bằng trước.
Bước thứ hai bắt đầu với CM chờ đợi cho vùng bảo dưỡng ban đầu unicast
(Unicast Initial Maintenance) được gán cho SID mà nó đang dùng ban đầu. SID này
có thể là SID tạm thời hoặc Ranging SID được gán trong suốt quá trình ranging giai
đoạn đầu, hoặc một SID được gán trước đó nếu ranging xảy ra vì một Upstream
Change Request (UCC), Dynamic Change Request (DCC) hoặc Upstream Channel
Descriptor (UCD) thay đổi. Sau cái này, khoảng cách trạm được duy trì thông qua
CM phản hồi các bản tin bảo dưỡng trạm gửi tới nó. Trong mỗi trường hợp này,
CM phản hồi bằng việc sử dụng SID hiện tại của nó để gửi một bản tin RNG-REQ
bao gồm cả méc công suất và các hiệu chỉnh độ lệch định thời nếu chúng được yêu
cầu. CMTS phản hồi các bản tin RNG-REQ này bằng việc gửi bất kì sự tinh chỉnh
tinh được yêu cầu bổ sung trong một bản tin RNG-RSP. CM và CMTS tiếp tục trao
đổi các bản tin RNG-REQ và RNG-RSP cho tới khi hoặc CMTS gửi một chỉ thị

54
ranging thành công hoặc CMTS abort ranging. Sau khi hoàn thành quá trình
ranging, CM tham gia luồng lưu lượng hướng lên thông thường.
Đối với truyền dẫn TDMA, mục đích là để hạn chế các burst hướng lên từ
các CM khác nhau xếp chồng lên nhau tại bộ thu CMTS, trong khi giảm thiểu
khoảng thời gian bảo vệ giữa các burst để tối đa hóa sử dụng băng thông hướng lên.
Các mục đích này cũng giống như PON và các hệ thống vô tuyến sử dụng TDMA.
Kết quả truyền dẫn TDMA hướng lên đòi hỏi chỉ quá trình đồng chỉnh đồng bộ thô
hướng lên cỡ ±800 ns.
Trong trường hợp truyền dẫn S-CDMA hướng lên, các yêu cầu đồng bộ chặt
chẽ hơn. Quá trình ranging S-CDMA cũng rất quan trọng để đồng bộ các thời điểm
tới của các kí hiệu CDMA hướng lên được phát đi. Đồng bộ hóa các thời điểm tới
CDMA tại bộ thu CMTS là quan trọng cho việc duy trì tính trực giao tương đối của
các mã CDMA được sử dụng bởi các CM khác nhau do đó CMTS có thể phân biệt
các ký hiệu từ mỗi CM khi chũng xếp chồng về thời gian. Cụ thể, các kí hiệu S-
CDMA phải được đồng chỉnh trong khoảng ±1 ns tại CMTS để đảm bảo các mã từ
các CM là trực giao nhau.
Như lưu ý ở trên, quá trình đồng bộ định thời CM, tần số phát và công suất
phát cũng được thiết lập trong suốt quá trình ranging. Tại thời điểm kết thúc thủ tục
ranging, sai số tần số phát phải nhỏ hơn 10 Hz và sai số mức công suất phát ít hơn 1
dB.
Khoảng thời gian giữa các cơ hội bảo dưỡng tuần hoàn phải không nhiều hơn
T4 giây, mặc dù nó thông thường đối với CMTS cung cấp các cơ hội thường xuyên
hơn nhiều. T4 thường điển hình là 30 giây mặc dù một tùy chọn nhân 10 lần được
phép để cho một T4 = 300 giây. CM thông báo một lỗi hết thời gian nếu nó không
thể phát hiện được một cơ hội ranging trong T4 giây.

2.2.5 Phân lớp MAC DOCSIS


CMTS sử dụng phân lớp MAC DOCSIS để điều khiển truy nhập tới các
kênh lớp vật lý trong cả hai chiều hướng lên và hướng xuống. Các kênh hướng lên
và hướng xuống là các kênh vật lý riêng biệt (các tần số riêng biệt) có tất cả các liên
lạc giữa CMTS và các CM. Nói cách khác không có liên lạc ngang hàng CM và CM
trực tiếp.

55
Như mô tả trong hình 2-11, các khung MAC DOCSIS bao gồm một tiêu đề
MAC và một trường tải trọng tùy chọn để mang một đơn vị dữ liệu giao thức (PDU)
độ dài thay đổi. Các trường tiêu đề được định nghĩa như sau:
FC là trường điều khiển khung xác định kiểu và định dạng PDU. Bốn kiểu
PDU được hỗ trợ bởi DOCSIS bao gồm:
- Các gói độ dài thay đổi (18 – 1518 byte)
- Các tế bào ATM (n x 53 byte)
- Tiêu đề MAC cụ thể không có PDU và
- Kiểu PDU dự trữ cho tương lai
Năm loại tiêu đề MAC cụ thể là:
- Tiêu đề định thời;
- Tiêu đề quản lý MAC;
- Khung đề nghị (request)
- Tiêu đề phân mảnh và
- Tiêu đề kết chuỗi.
Tiêu đề định thời được sử dụng với PDU dữ liệu gói hướng xuống để trao
đổi tham chiếu định thời toàn cục với CM. CMTS gửi một nhãn thời gian trong mỗi
bản tin SYNC để chỉ ra thời điểm chính xác nó gửi bản tin và CM hiệu chỉnh đồng
hồ nội của nó theo nhãn thời gian đó.

Hình 2-11 Định dạng khung MAC tổng quát của DOCSIS

Trường MAC_PARM được sử dụng cho điều khiển MAC. Việc sử dụng cụ
thể của nó phụ thuộc vào kiểu khung được xác định bởi trường FC. Trường
MAC_PARM chỉ ra:
56
- Số lượng các khung MAC kết chuỗi cho một tiêu đề MAC kết chuỗi;
- Lượng băng thông đề nghị cho một bản tin REQ;
- Một trường độ dài tiêu đề mở rộng nếu EHDR_ON = 1.
Trường LEN điển hình chỉ ra độ dài của khung MAC. Trường hợp ngoại lệ
là bản tin REQ, trong đó trường LEN mang SID của CM.
Trường tiêu đề mở rộng (EHDR) là một sự mở rộng tùy chọn đối với định
dạng khung MAC. Nó được sử dụng để hỗ trợ các chức năng bổ sung như phân
mảnh khung và bảo mật tuyến dữ liệu.
HCS là một trường chuỗi kiểm tra tiêu đề CRC-16 để phát hiện lỗi trong tiêu
đề lớp MAC. Nó sử dụng đa thức sinh CRC g(x) = x16 + x12 + x5 +1.
Nó thông thường cho các bản tin MAC để sử dụng các trường kiểu-độ dài-
giá trị (TLV – Type-Length-Value) trong đó byte đầu tiên của trường chỉ ra kiểu
thành phần xác định bởi TLV, byte thứ hai chỉ ra độ dài của TLV, và byte còn lại
mang thông tin được liên lạc bởi TLV. Định dạng TLV thông thường được sử dụng
trong IP cung cấp một cơ chế đơn giản cho việc bổ sung liên lạc của các tham số
mới. Một CM hoặc CMTS mà không hiểu một TLV sẽ bỏ qua nó.
a. MAC hướng xuống
Các khung MAC DOCSIS được gửi theo hướng xuống được đóng gói thành
một luồng gói MPEG. CMTS sẽ lập lịch truyền dẫn hướng xuống của nó. Điều
khiển QoS được cung cấp bởi mức ưu tiên lưu lượng, các tốc độ dữ liệu dành trước
và giới hạn tốc độ token bucket cho việc ra chính sách.
Trước DOCSIS 3.0, DOCSIS đã cung cấp hỗ trợ giới hạn truyền dẫn
multicast. Khả năng multicast hướng xuống được tăng cường bởi DOCSIS 3.0 để
hỗ trợ các dịch vụ đa phương tiện như IPTV cái dựa trên IP Multicast. Đặc điểm
mới được bổ sung để đảm bảo tính tương thích ngược được đảm bảo với kiểu
multicast DOCSIS 2.0. Các điểm mới bổ xung là:
- Sự chuyển tiếp lưu lượng SSM (Source Specific Multicast) cho các thiết bị
IGMPv3 và MLDv2.
- Hỗ trợ lưu lượng multicast liên kết.
- Hỗ trợ thiết lập QoS cho lưu lượng multicast.
- Hỗ trợ lưu lượng multicast IPv6

57
- Theo dõi các CPE rõ ràng khi chúng là một phần của một nhóm multicast
tại CMTS để hỗ trợ tốt hơn các chức năng bao gồm dò tìm sử dụng, tính
hóa đơn và cân bằng tải.
DOCSIS 3.0 sử dụng các cơ chế được đơn giản hóa tại CM. Các bản tin
khách hàng IGMP/MLD tới CM sẽ được chuyển tiếp trong suốt tới CMTS. Cơ chế
điều khiển lớp 2 CMTS thiết lập chuyển tiếp các gói multicast hướng xuống tới các
giao diện CM cụ thể bằng cách đánh nhãn tất cả các gói multicast bằng bộ nhận
dạng dịch vụ hướng xuống (DSID). CMTS liên lạc DSID và các thuộc tính chuyển
tiếp nhóm liên quan với CM và sử dụng DSID để nhận dạng tập các CM được chỉ
định để thu các gói multicast bằng DSID đó. CM sử dụng DSID để nhận dạng các
giao diện phía CPE mà gói cần được chuyển tiếp. Cơ chế chuyển tiếp và lọc DSID
này dựa trên cơ chế định nghĩa cho lưu lượng multicast IPv6.
b. MAC hướng lên
Như mô tả trong hình 2-12, kênh hướng lên được phân chia thời gian thành
các phân khe cái được đánh số tương ứng với đồng hồ chủ CMTS. Bất kì phân khe
nào trong đó một CM được phép bắt đầu quá trình phát tạo nên một cơ hội phát
hướng lên. CMTS đồng bộ đánh số phân khe tại các CM bằng việc gửi các gói
SYNC. Đối với mode TDMA, các phân khe là khoảng (2n)(6,25 s), trong đó n = 1,
…, 7 và 6,25 s là nghịch đảo của tốc độ kí hiệu thấp nhất (160 kHz). Độ dài cực
đại của một burst hướng lên là 255 phân khe.

Hình 2-12 Mô tả định dạng khung hướng lên DOCSIS

Trong khi các truyền dẫn TDMA hướng lên chỉ được tách biệt theo thời gian,
thì các truyền dẫn S-CDMA hướng lên được tách biệt bởi cả hai theo thời gian và
mã trải phổ CDMA. Lớp vật lý sắp xếp các phân khe vào các khung. Các khung
MAC DOCSIS hướng lên đi trước bởi một tiêu đề PMD chỉ ra biên giới phân khe
với lớp MAC. Việc truyền dẫn khung MAC phải bắt đầu tại một ranh giới phân khe.
58
Hoạt động MAC hương lên liên quan đến hai hoạt động chính đó là: quá
trình yêu cầu băng thông hướng lên và cấp phát băng thông hướng lên. CMTS cấp
phép thời gian truyền dẫn hướng lên cho các CM thông qua các bản tin MAP được
truyền phát theo hướng xuống. CMTS phát một bản tin MAP cho mỗi kênh hướng
trong mỗi khoảng thời gian MAP. Khoảng MAP có thể được thiết lập điển hình từ
2-5 ms. Quá trình điều khiển truy nhập dựa trên việc dành trước. Một trong những
cơ chế dành trước lập lịch trước các đặt trước cho truyền dẫn hướng lên tại các
khoảng tuần hoàn. Một cơ chế khác là cho các CM gửi đi các yêu cầu dành trước
của chúng trong các khe xung đột được biết như là cơ chế “Slotted-ALOHA”.
CMTS sẽ xếp hàng và đặ mức ưu tiên các bản tin đề nghị khác nhau và dành trước
các phân khe hướng lên tương laic ho các CM liên quan để gửi dữ liệu của chúng.
Giải thuật lập lịch sẽ xem xét các tham số bao gồm lớp dịch vụ yêu cầu và các đề
nghị có tính cạnh tranh từ các CM khác cho cùng kênh hướng lên. Bản tin MAP từ
CMTS chỉ cho CM biết các phân khe nào nó có thể sử dụng để phát dữ liệu trong
khung hướng lên của một kênh xác định. Bản tin MAP cũng trao đổi các phân khe
nào sẵn có cho truyền dẫn yêu cầu hướng lên dựa trên nghẽn và các phân khe nào
sẵn có cho các CM mới để thông báo cho CMTS biết.

2.3 DOCSIS trên mạng PON


Các công ty truyền hình cáp MSO sử dụng DOCSIS để cung cấp truy nhập
băng rộng trên các mạng HFC. Trong khi DOCSIS 3.0 cho phép thực hiện các kết
nối băng thông lớn trên cáp đồng trục, thì nó rõ ràng rằng FTTH cung cấp mạng
truy nhập hiệu năng cao nhất và linh hoạt nhất. Do vậy các MSO cũng quan tâm đến
công nghệ PON. Có nhiều ứng dụng làm sử dụng PON trở nên hấp dẫn. Ứng dụng
đầu tiên là để phục vụ các khách hàng doanh nghiệp. EPON hoặc mạng 10G EPON
để cho các khách hàng doanh nghiệp có thể được sử dụng trực tiếp mà không phải
tích hợp vào các hệ thống DOCSIS. Một ứng dụng khác là sử dụng khu vực dân cư
xanh như phát triển khu vực nhà ở mới mà ở đó các nhà xây dựng muốn một hạ
tầng FTTH như một điểm bán hàng cho vùng lân cận. Vì nó đòi hỏi bảo dưỡng định
kỳ ít hơn cáp đồng trục nên sợi quang cũng hấp dẫn trong một số ứng dụng khu vực
cải tạo. Thêm nữa, có áp lực cạnh tranh đang tăng lên các MSO từ các công ty viễn
thông khi họ đang sử dụng các mạng FTTH của họ để cạnh tranh các dịch vụ mới.
Hai tiếp cận FTTH sẵn có cho các MSO. Tiếp cận thứ nhất là giao thức RF
over Glass (RFoG) của SCTE. RFoG thay thế phần cáp đồng trục của mạng HFC
bằng sợi quang và ngoài ra sử dụng cùng các giao thức và định dạng tín hiệu

59
DOCSIS. Tiếp cận thứ hai là sử dụng giao thức PON như EPON hoặc 10G EPON
cho lớp 1 và tích hợp các lớp trên của hệ thống PON vào hệ thống quản lý DOCSIS.
Ưu điểm của tiếp cận RFoG là nó có thể được sử dụng trong thời hạn gần sử dụng
cùng CM, CMTS và cấu trúc quản lý DOCSIS như trong các mạng HFC hiện tại.
Nhược điểm đối với RFoG là thông lượng bị giới hạn tại tốc độ DOCSIS 3.0 và nó
không thể hỗ trợ tốc độ dữ liệu tiềm năng cao hơn của EPON hoặc GPON có thể
nâng cấp lên 10G EPON hoặc XG-PON.
Các MSO cũng đang theo đuổi tiếp cận thứ hai thông qua sự kết hợp hai dự
án tiêu chuẩn. Một trong số này là sự phát triển đặc tính kỹ thuật triển khai DOCSIS
của EPON (DPoE) mới được ban hành bởi CableLabs, và thứ hai là sự tham gia tích
cực của CableLabs và các MSO trong IEEE SIEPON. DPoE là một sự mở rộng tự
nhiên của mạng DOCSIS theo một cấu hình vật lý dựa trên FTTH.
EPON và 10G EPON đã được lựa chọn vì phù hợp tốt hơn cho các ứng dụng
MSO PON so với các giao thức của ITU. Một lí do là MAC EPON đặc biệt với sự
mở rộng tùy chọn nhiều-LLID được hỗ trợ bởi các tiêu chuẩn SIEPON đang nổi
lên, vận hành giống như MAC DOCSIS hơn là MAC GPON. Lí do thứ hai là các
tham số lớp vật lý EPON cho phép sử dụng các thành phần chi phí thấp hơn. Nhưng
một lí do khác là vì các nhà mạng viễn thông hầu như bị buộc cam kết với GPON,
nên có thể xuất hiện phản ứng “me-too” nếu các MSO cũng sử dụng GPON.
DPoE
DPoE khai thác các giao thức DOCSIS và EPON đang tồn tại cùng với hệ
sinh thái tương ứng của chúng bằng việc kết hợp chúng lại với nhau. Giao thức
EPON được sử dụng cho kết nối mạng lớp 1, trong khi các giao thức DOCSIS được
phỏng tạo bởi mạng EPON để giống như mạng HFC DOCSIS thông thường đối với
cả hai hệ thống quản lý DOCSIS và CPE. Một ONU DOCSIS (D-ONU) cư xử theo
cùng một kiểu như một CM theo các khả năng dịch vụ. Để cho D-ONU cư xử như
một CM thì nó phải có một kết nối với hệ thống quản lý DOCSIS. Ví dụ, hệ thống
quản lý cần nhận ra được các khả năng của nó và cấu hình nó để chuyển tiếp lưu
lượng thích hợp. Vì hệ thống EPON không mang các kênh DOCSIS và do vậy
không thể được chạm đến trực tiếp bởi hệ thống quản lý DOCSIS, nên nó rất cần
thiết để phát triển một phương pháp tiêu chuẩn cho việc dịch thông tin này để
truyền tải được trên giao thức EPON. Hệ thống DPoE cái bao gồm OLT của PON
cung cấp dịch vụ biên dịch giữa giao thức DOCSIS cho giao tiếp với hệ thống quản
lý DOCSIS và các giao thức EPON cho việc liên lạc với một ONU.

60
DPoE cung cấp cả hai dịch vụ thoại và dữ liệu (truy nhập internet) đối với cả
hai khách hàng cá nhân và doanh nghiệp. Các dịch vụ dữ liệu cho người dùng cá
nhân cũng giống như các dịch vụ được hỗ trợ bởi DOCSIS. Các dịch vụ dữ liệu
hãng doanh nghiệp DPoE được xây dựng trên các định nghĩa dịch vụ MEF (Metro
Ethernet Forum). Chúng bao gồm các định nghĩa dịch vụ MEF cho E-Line, E-LAN
và E-Tree. Công nghệ Ethernet VLAN (Virtual LAN) được sử dụng cho việc định
tuyến lưu lượng Ethernet, như vậy đòi hỏi D-ONU phải có khả năng xử lý VLAN.
DPoE triển khai các dịch vụ DOCSIS IP thông qua các kênh ảo Ethernet
(EVC) giữa một cổng Ethernet trên một DPoE ONU độc lập (S-ONU) và một chức
năng bộ định tuyến IP trong hệ thống DPoE. Các dịch vụ này thỉnh thoảng được gọi
là các dịch vụ dữ liệu IP tốc độ cao (IP-HSD) được định nghĩa trong DOCSIS 3.0.
Các dịch vụ thoại cho người dùng cá nhân được cung cấp thông qua VoIP
theo cùng một kiểu như với DOCSIS. Đây cũng là một tùy chọn cho các khách
hàng doanh nghiệp. Một lựa chọn khác, một khách hàng doanh nghiệp có thể có
được dịch vụ thoại thông qua kết nối DS1 (ví dụ từ một PABX) đến CPE của nó.
Trong trường hợp này, DS1 được đi qua mạng DPoE bởi một dịch vụ phỏng tạo
kênh (CES) trên Ethernet.
Các dịch vụ video có thể hoặc được cung cấp như lưu lượng được gói hóa
(hoặc như video over IP hoặc video trực tiếp trên Ethernet) hoặc như một tín hiệu
RF trên một bước sóng tách biệt của PON. Tiếp cận IPTV truyền phát video tới một
ONU như một dịch vụ dữ liệu dựa trên IP sử dụng các tham số QoS thích hợp. Tiếp
cận này không có tác động trực tiếp lên các giao thức PON hoặc DOCSIS. Nó cũng
phù hợp tốt hơn nhiều đối với video theo yêu cầu (VoD) và chức năng VCR (Máy
ghi video cassette) ảo so với tiếp cận xếp chồng video. Khả năng dữ liệu gói tốc độ
cao của EPON phù hợp tốt với tiếp cận DOCSIS cho việc cung cấp tất cả các kiểu
dịch vụ qua IP. Tuy nhiên đây là sự khác biệt quan trọng giữa các mạng DOCSIS và
DPoE. Trong đó DOCSIS sử dụng IP như phương thức chung cho tất cả các dịch
vụ, thì DPoE sử dụng Ethernet. Vì các dịch vụ DOCSIS được xây dựng trên truyền
tải IP nên chúng phải thực hiện phỏng tạo Ethernet để cung cấp các dịch vụ
Ethernet. Ngược lại, DPoE sử dụng Ethernet đơn thuần có thể hoặc cung cấp các
dịch vụ Ethernet trực tiếp hoặc phục vụ như giao thức lớp 2 để cung cấp các dịch vụ
IP.

61
2.4 Truyền tín hiệu RF trên sợi quang
Có hai kiểu ứng dụng gửi tần số vô tuyến hoặc thông tin vô tuyến qua mạng
truy nhập quang sợi. Ứng dụng đầu tiên là cho các mạng truy nhập vô tuyến kết nối
các trạm gốc mạng di động với tổng đài phục vụ. Ứng dụng thứ hai là truyền các
kênh video của một mạng truyền hình cáp. Trong khi kết nối giữa một trạm gốc vô
tuyến (BTS) và mạng thường được xem như một tuyến backhaul, còn các kết nối
giữa một BTS và một thiết bị vô tuyến đối diện thường được xem như fronthaul.
Để tăng dung lượng trên mỗi người dùng của các hệ thống truy nhập không
dây và giảm công suất tín hiệu vô tuyên trên bộ phát, nó rất quan trọng để dịch
chuyển ăngten vô tuyến càng sát với thuê bao càng tốt (tức tạo ra ô tế bào nhỏ hơn).
Nó có thể sử dụng các nguồn laser tuyến tính để mang các tín hiệu RF qua sợi
quang. Các yêu cầu tuyến tính cho truy nhập không dây ít nghiêm ngặt hơn một
chút. Truyền tải tín hiệu di động RF như một tín hiệu quang được biết như là kỹ
thuật Radio over Fiber (RoF). Tiếp cận khác sử dụng một tín hiệu số băng gốc hơn
là một tín hiệu RF tương tự.
Ứng dụng truyền hình cáp mở rộng phần sợi quang của mạng CATV tới thuê
bao hơn là sử dụng giao tiếp cáp đồng trục được biết như là RFoG.
a. Truyền tín hiệu vô tuyến qua sợi quang (RoF)
Độ phức tạp và mức tiêu thụ công suất của thiết bị tại các vị trí trạm vô tuyến
có thể được giảm có nghĩa nếu một tín hiệu RF được phân phối tới vị trí đó. Sợi
quang là môi trường thực tế nhất để mang các tín hiệu RF này mà không tạo ra hay
gặp phải các vấn đề nhiễu điện từ. Các sợi quang được kết nối với một nút trung
tâm cái điều biến dữ liệu lên các tín hiệu sóng mang tần số cao. Tiếp cận này được
gọi là RoF. Một ứng dụng khác của RoF là phân phối các tín hiệu video trên PON.
Việc phát các tín hiệu tương tự qua sợi quang có méo nhỏ nhất đòi hỏi các
nguồn và bộ thu có tính tuyến tính cao. Chú ý rằng một tín hiệu băng tần RF hoặc
băng tần IF có thể được sử dụng để điều biến sóng mang quang. Khi điều biến băng
IF được sử dụng thì đôi khi một tín hiệu tần số tham chiếu RF được phát để đơn
giản hóa bộ thu.
Điều biến cường độ của bước sóng sóng mang tương đối rõ ràng. Tuy nhiên
tán sắc trong sợi quang có thể gây ra tương tác của các băng bên (sideband) dẫn đến
pha đinh. Các kỹ thuật khác nhau tồn tại để khắc phục vấn đề pha đinh này bao gồm
kỹ thuật heterodyne và truyền dẫn đơn băng (SSB), nhưng các kỹ thuật này bổ sung

62
thêm độ phức tạp. Nói cách khác, truyền dẫn qua sợi quang thu được ít suy giảm
hơn truyền dẫn qua cáp đồng trục.
Một kỹ thuật liên quan được biết như là Microwave over Fiber (MoF) trong
đó một tín hiệu sóng mang vi ba được điều biến trên bước sóng mang quang để
mang các tín hiệu cho các trạm gốc WiMAX. Tín hiệu vi ba này là tín hiệu tương tự
giữa trạm gốc và ăngten. Với WDM-PON, tín hiệu cho mỗi ăng ten sử dụng một
bước sóng riêng biệt. Xếp chồng lên một TDMA-PON đòi hỏi sự dịch tần số tín
hiệu vi ba do đó chúng tạo ra các sóng mang con quang duy nhất trên PON.
Khi TDMA-PON được sử dụng để mang các tín hiệu tới một trạm gốc tích
hợp như trạm cho WiMAX thì trạm gốc thường được xem như là một cổng kết nối
vô tuyến. Tiềm năng tồn tại với kiến trúc này cho việc tích hợp các giải thuật cấp
phát băng thông vô tuyến và PON. Ví dụ nếu một TDMA-PON ONU và một trạm
gốc WiMAX được tích hợp, ONU có thể có ưu điểm biết được bao nhiêu băng
thông trạm gốc được cấp phép cho những người dùng WiMAX của nó khi nó thực
hiện đề nghị băng thông lên OLT. Kết quả thu được là việc cấp phát băng thông
hiệu quả hơn và trễ ngắn hơn vì tránh được một đề nghị độc lập tuần tự cho trạm
gốc và ONU.
b. Các giao diện vô tuyến số băng gốc qua sợi quang
Ngược với RoF, hai chuẩn đặc tính kỹ thuật trong công nghiệp đã được phát
triển cho truyền phát một tín hiệu số băng gốc giữa trạm thu phát gốc (BTS) và một
đầu xa RF (RRH) hơn là sử dụng một tín hiệu RF. Một chuẩn kỹ thuật là giao diện
vô tuyến công cộng chung (CPRI). CPRI đã được phát triển bởi một sự hợp tác giữa
5 nhà sản xuất BTS lớn và chuẩn kỹ thuật này đã được phát hành công khai. Một
chuẩn kỹ thuật khác là một phần của chuẩn sáng kiến kiến trúc trạm gốc mở
(OBSAI). OBSAI cũng đã được phát triển bởi một tổ chức công nghiệp gồm nhiều
thành viên. Mục đích của OBSAI bao phủ hầu hết các mặt của kiến trúc BTS, tuy
nhiên đặc tính RP3 có phạm vi tương tự CPRI.

63
Hình 2-13 Cấu trúc khung cơ bản giao thức CPRI.

Có hai ưu điểm chính cho việc truyền tín hiệu số băng gốc. Quan trọng nhất
nó tránh được các thách thức khác nhau liên quan đến việc truyền phát tín hiệu RF
tương tự. Ví dụ các yêu cầu tuyến tính của thành phần hệ thống không phải là yếu tố
quan trọng đối với tín hiệu số. Tương tự, pha đinh tín hiệu do tán sắc không phải là
một vấn đề. Ưu điểm thứ hai là nó cho phép các kênh chẩn đoán đi kèm cho
OAM&P của tuyến RRH và sợi quang. Một ưu điểm thứ cấp là mào đầu đi kèm cho
phép đo chính xác trễ tuyến cái có thể được sử dụng bởi một BTS cho việc chuyển
giao tốt hơn giữa các vị trí ô tế bào.
Một nhược điểm sử dụng tín hiệu số băng gốc là các thành phần điện tử bổ
sung đầu xa được đòi hỏi tại ăngten để chuyển đổi giữa tín hiệu băng gốc số và tín
hiệu RF của ăng ten. Chú ý rằng tốc độ bit được chọn cho các tín hiệu số băng gốc
là tốc độ để cho phép RRH thu được đồng hồ RF ổn định cao cho giao diện không
gian từ đồng hộ được khôi phục của tín hiệu số băng gốc.
Có một số điểm tương tự giữa CPRI và OBSAI RP3. Ví dụ cả hai đã được
thiết kế để hỗ trợ hoặc môi trường quang hoặc điện và để hỗ trợ các cấu hình mạng
bao gồm điểm-điểm, đường thẳng, cây và nhánh, và vòng (ring).
CPRI hỗ trợ các tín hiệu vô tuyến UMTS, LTE và WiMAX. Như mô tả ở
hình 2-13 cấu trúc khung CPRI được xây dựng từ các phân khung 16 từ mã gọi là
các khung gốc (BF-Base Frame) trong đó dữ liệu tải trọng người dùng được mang
trong 15 từ mã và một từ mã được sử dụng cho thông tin điều khiển. Tín hiệu CPRI
phát các BF tại tốc độ chip vô tuyến UMTS 3,84 MHz. Vì mỗi từ mã dữ liệu cho
tốc độ gốc là 1 byte cái được mã hóa đường truyền 8B/10B nên tốc độ gốc thu được
là 614,4 Mbit/s. CPRI cũng hỗ trợ nhiều tốc độ gốc này (1,2288 Gbit/s, 2,4576
Gbit/s, 3,072 Gbit/s, 4,9152 Gbit/s, 6,144 Gbit/s và 9,8304 Gbit/s) cho sự tăng
trưởng về băng thông. Mỗi tốc độ cao hơn này vẫn truyền phát BF tại cùng tốc độ

64
3,84 MHz, nhưng kích thước từ mã được tăng lên 2, 4, 5, 8, 10 và 16 byte tương
ứng.
Một siêu khung (HF) gồm 256 BF và sử dụng kí tự dấu phẩy 8B/10B K28.5
như từ mã điều khiển trong BF đầu tiên như bộ khử giới hạn HF. Các HF có thể
được kết hợp thành các khung vô tuyến lớn hơn. Ví dụ, khung vô tuyến UMTS gồm
150 siêu khung. Các từ mã điều khiển trong 250 BF khác được cấu trúc như các
phân kênh được ghép theo thời gian cấp phát cho việc mang thông tin điều khiển,
quản lý, nhà sản xuất và đồng bộ giao diện không gian. Cấu trúc đa khung được sử
dụng bởi CPRI để hỗ trợ sắp xếp khác nhau cho mỗi kiểu dữ liệu ứng dụng.
Phần tải trọng của BF gồm các mẫu băng gốc I/Q. Các mẫu I và Q cho mỗi
mẫu IQ đầu tiên được ghép xen bit, sau đó các mẫu ghép xen bit này được ghép vào
tải trọng BF thành các khe thời gian cố định liên quan đến mỗi sóng mang ăngten
được hỗ trợ. Dữ liệu băng gốc được đồng chỉnh theo chu kì khung giao diện không
gian liên quan băng việc sử dụng dữ liệu từ phân kênh đồng bộ hóa từ mã điều
khiển.
Giao tiếp điện CPRI sử dụng hoặc giao tiếp điện áp thấp Ethernet XAUI cho
tất cả các tốc độ hoặc 1000Base-CX cho điện áp cao hơn. Giao tiếp quang điển hình
sử dụng các bộ thu phát Ethernet hoặc Fiber Channel.
ITU-T SG15 đã bổ sung một sự sắp xếp cho các tín hiệu CPRI vào tải trọng
OTN G.709. Sự sắp xếp này đã được đề nghị bởi nhiều nhà mạng đặc biệt là China
Mobile. Có hai ứng dụng chính kích thích sự quan tân đến sự sắp xếp này. Một ứng
dụng là để cho phép một nhà mạng vô tuyến thuê một kết nối thông qua một mạng
truy nhập hoặc metro của nhà mạng có dây để cung cấp tuyến CPRI. Bằng việc thuê
kết nối này, nhà mạng vô tuyến có thể tránh hoặc trì hoãn nhu cầu xây dựng hạ tầng
sợi quang của nó trong các khu vực này.
Ứng dụng thứ hai cho việc mang CPRI qua OTN là để hỗ trợ truy nhập
WDM tốt hơn mà ở đó các tín hiệu CPRI chia sẻ hạ tầng PON cung cấp cả hai tuyến
CPRI tới các vị trí RRH và tuyến EPON/GPON tới những người dùng khác. Các ví
dụ mà ở đó các tuyến EPON/GPON kết nối bao gồm các khách hàng doanh nghiệp
và các ONU ở khu vực dẫn cư để phục vụ các LAN không dây. Ứng dụng này cho
phép một nhà mạng vô tuyến xây dựng một mạng truy nhập sợi quang linh hoạt cho
nhiều ứng dụng khác nhau sử dụng cùng công nghệ OTN mà họ quy hoạch sử dụng
cho các ứng dụng mạng lõi và backhaul của họ. Một ưu điểm khác của việc dùng
OTN trong ứng dụng này là nó cung cấp một phương pháp TDM cho việc kết hợp

65
nhiều các tín hiệu CPRI trên cùng bước sóng, như vậy tránh được một số chi phí
liên quan đến việc sử dụng các bước sóng tách biệt cho mỗi tín hiệu CPRI.
Một tín hiệu CPRI 614,4 Mbit/s hoặc 1,2288 Gbit/s sẽ được sắp xếp như một
tín hiệu CBR trong một đơn vị dữ liệu quang mức 0 (ODU0) và tín hiệu CPRI
2,4576 Gbit/s sẽ được sắp xếp vào ODU1. Các tín hiệu CPRI tốc độ cao hơn sẽ
được sắp xếp vào ODUflex mới cho truyền tải tín hiệu CBR. Các tín hiệu ODU0,
ODU1 và ODUflex(CBR) sau đó có thể được ghép thành một tín hiệu truyền tải
OTN tốc độ cao hơn.
Trở ngại chính để sử dụng OTN là CPRI có các yêu cầu vô cùng nghiêm
ngặt thời gian định thời được sinh ra từ nhu cầu hỗ trợ chuyển giao di động giữa các
vị trí ăngten. Về độ chính xác tần số, tuyến downlink CPRI phải đảm bảo chính xác
trong phạm vi ±0.002ppm. Để phối hợp các tín hiệu giữa các vị trí ăngten, CPRI
bao gồm một giao thức đo trễ cũng phải đảm bảo vô cùng chính xác. Ví dụ đối với
các ứng dụng UMTS, phép đo trễ phải chính xác trong khoảng ±0,03125 chip cho
downlink và ±0,0625 chip cho một roundtrip. Hỗ trợ độ chính xác trễ và tần số mức
này trên OTN là rất thách thức vì các khách hàng OTN khác cho phép một mức độ
jitter và wander lớn hơn nhiều. Nó vẫn chưa rõ ràng về việc hiệu quả chi phí không
khi sử dụng OTN cho truyền tải các tín hiệu CPRI.
c. Truyền tần số vô tuyến qua mạng truyền hình (RFoG)
Tiêu chuẩn RFoG (SCTE IPS SP 910) đã được phát triển bởi ủy ban kỹ thuật
của hiệp hội kỹ sư cáp viễn thông (SCTE) để cung cấp tùy chọn hạ tầng FTTH cho
các tín hiệu video CATV và DOCSIS. Hệ thống RFoG là một mạng PON cho phép
các nhà mạng truyền hình cáp sử dụng cùng thiết bị tại cả hai vị trí nhà người dùng
và headend như được sử dụng với các mạng HFC truyền thống của họ với chỉ phần
truy nhập cáp đồng trục bây giờ được thay thế bằng sợi quang.

66
Hình 2-14 Mô tả kiến trúc RFoG

Như mô tả trong hình 2-14, phần tử tích cực cuối cùng được gọi là bộ tập
trung quang (Optical Hub) và đầu cuối thuê bao tại nhà người dùng được gọi là đơn
vị mạng quang RFoG (R-ONU). Tiêu chuẩn RFoG bao phủ ODN giữa Optical Hub
và R-ONU, xác định khoảng cách và tổn hao quang của phần này trên mạng và R-
ONU tới giao tiếp RF đồng trục tại thiết bị thuê bao. Cấu trúc Optical Hub xác định
theo ứng dụng, do đó nó không được xác định bởi tiêu chuẩn RFoG. Bằng việc tập
trung vào R-ONU, tiêu chuẩn RFoG cho phép sự tương thích với các R-ONU từ
nhiều nhà sản xuất thiết bị trên một ODN.
R-ONU bao gồm:
- Một bộ lọc WDM để tách biệt các bước sóng hướng lên và hướng xuống.
- Bộ thu quang hướng xuống và bộ phát hướng lên.
- Một bộ ghép quang song công có các bộ lọc thông thấp và thông cao để
giao tiếp giữa giao diện đồng trục hai hướng và các module OE hướng
xuống và EO hướng lên.
- Một bộ tách tín hiệu cho truyền dẫn hướng lên cho phép laser hoạt động
khi phát hiện tín hiệu hướng lên đi tới từ giao diện cáp đồng trục.
Hai bước sóng hướng lên được phép với RFoG là 1310 nm và 1610 nm.
Bước sóng 1310 nm cung cấp cho việc sử dụng các laser rẻ tiền tại R-ONU khi
ODN chỉ mang lưu lượng DOCSIS hướng lên. Sử dụng bước sóng 1610 nm cho
phép các tín hiệu RFoG hướng lên cùng hoạt động trên cùng ODN với hoặc EPON,
67
10G EPON, GPON hoặc XG-PON vì tất cả các mạng này sử dụng 1310 nm cho
truyền dẫn hướng lên. Tuy nhiên, nó yêu cầu một bộ lọc notch (hoặc riêng biệt hoặc
tích hợp) tại R-ONU để lọc sóng mang 1577 nm.
Đặc tính kỹ thuật RFoG hỗ trợ tỉ lệ tách lên tới 1:32 và khoảng cách từ 0 –
20 km với quỹ suy hao quang cực đại cỡ 25 dB. Sự bù trừ có thể được thực hiện
giữa tỉ lệ tách và khoảng cách để hỗ trợ nhiều R-ONU hơn hoặc khoảng cách dài
hơn. Các triển khai tiềm năng có thể hỗ trợ quỹ suy hao tuyến cao hơn, tuy nhiên
điều này sẽ làm phức tạp thêm cho việc dịch chuyển để chia sẻ ODN với các hệ
thống EPON hoặc GPON. Tiêu chuẩn RFoG cũng xác định các tham số giao diện
đồng trục RF tại R-ONU bao gồm các điểm tách biệt băng tần RF giữa các tín hiệu
RF hướng lên và hướng xuống. Cả hai định dạng điều chế FM và AM đều được hỗ
trợ trên tín hiệu hướng lên. Phần R-ONU của tiêu chuẩn RFoG bao gồm các yêu cầu
về nguồn điện đầu vào hệ thống, đặc tính vật lý và môi trường cho việc sử dụng
trong nhà và ngoài trời.

2.5 Tổng kết chương


Mạng HFC đã được sử dụng rông rãi trong cung cấp tín hiệu truyền hình cáp.
Các dịch vụ dữ liệu băng rộng có thể được cung cấp cho người dùng đầu cuối bằng
việc triển khai công nghệ DOCSIS trên hạ tầng mạng HFC. Tuy nhiên vì giới hạn
băng tần của cáp đồng trục nên thông lượng toàn bộ mạng có thể bị hạn chế cho cả
hướng lên và hướng xuống. Các xu hướng thay đổi theo chiều sử dụng hoàn toàn
sợi quang trên mạng phân phối thay cho cáp đồng trục. Một số giải pháp công nghệ
theo hướng tiếp cận này cũng đã được giới thiệu trong chương.

Câu hỏi/bài tập chương 2


2-1/ Để cung cấp các dịch vụ băng rộng trên mạng HFC cần có những thay đổi gì?
2-2/ Trình bày chức năng của các phần tử trong mạng DOCSIS?
2-3/ Trình bày sự khác biệt giữa các phiên bản chuẩn DOCSIS từ 1.0 đến 3.0?
2-4/ Giải thích tại sao trong giao diện vật lý hướng lên chuẩn DOCSIS sử dụng
nhiều kiểu điều chế?
2-5/ Giải thích quá trình đồng bộ hướng lên trong DOCSIS?

68
69
Chương 3 Mạng truy nhập quang thụ động

Mạng truy nhập quang thụ động PON (Passive Optical Network) được phát
triển và triển khai nhanh chóng như một giải pháp cho mạng FTTx. Chương này sẽ
giới thiệu những đặc điểm cơ bản nhất của mạng PON bao gồm từ kiến trúc,
phương thức truyền dẫn và các thành phần cơ bản của một hệ thống PON.

3.1 Kiến trúc mạng PON

3.1.1 Mô hình tham chiếu


Mạng quang thụ động PON là một hình thức truy cập mạng cáp quang FTTx,
mạng kết nối thường theo kiểu Điểm - Đa điểm (P2M), các sợi quang làm cơ sở tạo
kiến trúc mạng. Do vậy kiến trúc mạng PON cũng tuân theo mô hình tham chiếu
mạng truy nhập quang như mô tả trong hình 3-1. Các phần tử cơ bản trong mô hình
tham chiếu bao gồm: Đầu cuối đường quang (OLT – Optical Line Terminal), Đơn
vị mạng quang (ONU – Optical Network Unit) hoặc Đầu cuối mạng quang (ONT –
Optical Network Terminal), và Mạng phân phối quang (ODN – Optical Distribution
Network). Khối OLT đặt tại phía tổng đài trung tâm của nhà cung cấp dịch vụ, khối
ONU được đặt tại phía thuê bao, kết nối giữa OLT và ONU được thực hiện qua
ODN. Mô hình cũng có thêm khối chức năng thích ứng (AF – Adaptive Function)
để chuyển đổi định dạng phù hợp với giao tiếp các thiết bị đầu cuối dịch vụ người
dùng. Ngoài ra mô hình cũng định nghĩa các điểm tham chiếu bao gồm: điểm S –
điểm truy nhập quang về phía mạng (điểm phát quang), điểm R – điểm truy nhập
quang về phía thiết bị (điểm thu quang), điểm tham chiếu đầu cuối thuê bao (T),
điểm tham chiếu giữa các nút dịch vụ (V), điểm tham chiếu mạng quản lý (Q3). Các
giao diện chính của mô hình mạng gồm có: giao diện giữa thuê bao và mạng (UNI),
giao diện giữa mạng và nhà cung cấp dịch vụ (SNI), và giao diện quản lý mạng
(Q3).
Mô hình tham chiếu mô tả chung phần kết nối trong mạng truy nhập quang
theo cả hai kiến trúc tích cực và thụ động. Đối với mạng thụ động PON, thành phần
ODN chịu trách nhiệm phân phối tín hiệu giữa OLT và ONU theo hình thức thụ
động tức không cần cấp nguồn.

70
Q3

Các ch?c nang qu?n lý h? th?ng m?ng truy nh?p

S/R R/S
ONU

ODN OLT Các ch?c nang


nút d?ch v?

AF ONU

(a) Ði?m tham chi?u


(T) Ði?m tham chi?u (V) Ði?m tham chi?u
UNI SNI
Phía thuê bao Phía m?ng

Hình 3-1 Mô hình tham chiếu mạng truy nhập quang

3.1.2 Kiến trúc cơ bản


Đặc trưng của PON là không chứa các phần tử tích cực tồn tại trong tuyến
truyền dẫn giữa nút nguồn và nút đích, mà thay vào đó là các thiết bị quang thụ
động. Các phần tử thụ động của PON đều nằm trong mạng phân phối quang ODN
(hay còn gọi là mạng ngoại vi) bao gồm các phần tử như sợi quang, các bộ
tách/ghép quang thụ động, các đầu nối và các mối hàn quang. Sở dĩ gọi là thụ động
vì các thiết bị mạng quang nằm giữa các bộ thu phát quang không phải là các thiết
bị tích cực, tức là không có các thiết bị cần nguồn điện. Các thiết bị quang thụ động
nằm giữa một khối thiết bị đường quang OLT đặt tại nhà cung cấp dịch vụ và các
khối mạng quang ONU đặt gần thuê bao hay các hệ thống đầu cuối của hệ thống
PON. Thiết bị này có nhiệm vụ điều khiển các hướng lưu lượng trên mạng giữa
OLT và ONU hoặc ONT. Các tín hiệu trong PON có thể được phân ra và truyền đi
theo nhiều sợi quang hoặc được kết hợp lại và truyền trên một sợi quang thông qua
bộ ghép quang, phụ thuộc vào tín hiệu đó là đi theo hướng lên hay hướng xuống của
PON.
Kiến trúc cơ bản của PON dựa trên phương thức truyền dẫn sử dụng trên hệ
thống có thể phân thành hai kiểu chính: PON ghép kênh theo thời gian (TDM-PON)
và PON ghép kênh theo bước sóng (WDM-PON). Trong cả hai kiến trúc như mô tả
trong hình 3-2, hệ thống phân phối tín hiệu từ OLT tới các ONU đều hoàn toàn thụ
động. Một TDM-PON sử dụng một bộ chia công suất thụ động tại nút đầu xa. Cùng
tín hiệu từ OLT phát quảng bá tới các ONU khác nhau bằng bộ chia công suất này.
Các tín hiệu cho các ONU khác nhau được ghép trong miền thời gian. Các ONU

71
nhận ra dữ liệu của chúng thông qua các nhãn địa chỉ đi kèm trong tín hiệu. Còn
một WDM-PON sử dụng một bộ ghép WDM thụ động tại nút đầu xa. Các tín hiệu
cho các ONU khác nhau được mang trên các bước sóng khác nhau và được định
tuyến bởi bộ ghép WDM tới ONU phù hợp. Vì mỗi ONU chỉ thu nhận bước sóng
của nó, nên WDM-PON có tính bảo mật và khả năng mở rộng tốt hơn. Tuy nhiên
các linh kiện WDM thường đắt hơn nhiều, do vậy làm cho WDM-PON ít hấp dẫn
hơn tại giai đoạn ban đầu. Do vậy hầu hết các hệ thống PON hiện tại đều theo kiểu
TDM-PON.

Hình 3-2 Kiến trúc của (a) TDM-PON, và (b) WDM-PON

Một mạng quang thụ động TDM-PON là một mạng truy nhập quang điểm-đa
điểm mà không chứa phần tử tích cực trên cả toàn bộ đường truyền tín hiệu từ
nguồn tới đích. Các OLT đặt tại tổng đài trung tâm kết nối mạng truy nhập quang
tới mạng vùng đô thị MAN (Metropolitan area network) hoặc mạng diện rộng
WAN (Wide area network). Mặt khác mỗi ONU có thể được đặt lề đường (FTTC)
hoặc các tòa nhà (FTTB) hoặc sợi quang tới tận nhà (FTTH), và phân phối dịch vụ
thoại, dữ liệu, dịch vụ video tới các thuê bao.

72
Hình 3-3 Các kiến trúc chia tách trong một TDM-PON: (a) Chia tách một tầng, và (b) Chia
tách hai tầng, (c) Bus quang.

Kiến trúc mạng TDM-PON cụ thể liên quan đến cấu hình chia tách công suất
sử dụng trên mạng. Mục đích của chia tách công suất bao gồm: (1) chia sẻ chi phí
và băng thông của OLT giữa các ONU và (2) giảm chi phí cáp sợi quang trên hệ
thống. Hình 3-3 cho thấy một số kiến trúc chia tách công suất cơ bản sử dụng trong
TDM-PON. Ngoài kiểu chia tách một tầng đơn giản (hình 3-3a), các bộ chia tách
cũng có thể được mắc nối tiếp trên hệ thống như hình 3-3b. Trong trường hợp cực
đoan nhất, sợi cáp quang gốc hình thành một bus quang và các ONU được kết nối
vào tại các vị trí khác nhau dọc theo tuyến thông qua các bộ chia tách nhánh 1:2
như ở hình 3-3c.
Kiến trúc chia tách thực phụ thuộc vào phân bố dân cư của người dùng và
chi phí để quản lý nhiều bộ chia tách. Từ quan điểm quản lý, nó thực sự đơn giản
hơn với kiến trúc một bộ chia tách đơn cho việc phân phối tín hiệu cái làm cho việc
hàn nối dễ dàng hơn và giảm tối thiểu các tổn hao hàn nối và connector. Trong kiến
trúc kiểu bus, nếu tất cả các bộ chia tách có cùng tỉ lệ tách công suất thì ONU xa
nhất sẽ chịu tổn hao chia tách và truyền dẫn nhiều nhất và trở thành điểm nút cổ
chai của hệ thống. Các bộ chia tách có tỉ lệ tách không đều có thể được sử dụng để
cải thiện toàn bộ quỹ công suất hệ thống. Tuy nhiên, việc tối ưu hóa như vậy đòi hỏi

73
các bộ chia tách không đều và do đó khó quản lý. Vì vậy cấu hình mạng TDM-PON
được sử dụng phổ biến nhất là cấu hình cây.

3.1.3 Truyền dẫn hai chiều trong TDM-PON


Các hệ thống thông tin quang thông thường sử dụng hai sợi quang riêng biệt
cho liên lạc hai chiều. Đây là tiếp cận hai sợi hoặc gọi là song công phân chia theo
không gian. Phương pháp này rõ ràng không yêu cầu tách biệt các tín hiệu hướng
lên và hướng xuống trong miền thời gian, tần số hoặc bước sóng và đơn giản để
triển khai. Trong hệ thống TDM-PON, tiếp cận hai sợi đòi hỏi hai bộ chia tách công
suất quang trên hệ thống, còn trong hệ thống WDM-PON có thể cần sử dụng một
hoặc hai bộ ghép WDM trên hệ thống.

Thường đối với các PON chia công suất trên hai sợi, bước sóng 1,3 m được
sử dụng cho cả truyền dẫn hướng lên và hướng xuống vì các laser F-P chi phí thấp
sẵn có ở bước sóng này và chúng có thể được sử dụng mà không lo lắng về ảnh
hưởng của tán sắc. Mặc dù tính đơn giản của nó, nhưng vì đòi hỏi thêm sợi và cần
thiết để kết cuối và quản lý một bộ chia thứ hai, nên giải pháp hai sợi chi phí cao
hơn các giải pháp một sợi theo cả hai quan điểm chi phí và vận hành.
Một tiếp cận khác là sử dụng chỉ một sợi quang cho cả hai kết nối hướng lên
và hướng xuống. Một coupler định hướng 3dB đơn giản được sử dụng tại OLT và
ONU để phân tách tín hiệu quang hướng lên và hướng xuống như trong hình ….
Vấn đề của tiếp cận này là các couplẻ 3 dB gây ra một sự tổn hao tín hiệu cỡ 3,5 dB
trên mỗi đầu tuyến truyền dẫn và suy giảm quỹ công suất. Hơn nữa, tín hiệu phát có
thể bị tán xạ trong bộ thu cục bộ như xuyên âm đầu gần (NEXT) như mô tả ở hình
…Khi cường độ tín hiệu hướng xuống thu được bị sụt giảm bởi coupler quang tại
RT và công suất bộ phát cục bộ thường sẽ cao, NEXT đặ ra yêu cầu nghiêm ngặt về
điều khiển sự phản xạ. Thêm nữa, nếu các bước sóng ONU và OLT xảy ra rất sát
nhau thì NEXT sẽ sinh ra xuyên âm kết hợp làm cho nguy hại hơn.
Trong tiếp cận song công phân chia thời gian, OLT và ONU tuần tự sử dụng
sợi quang theo kiểu luân phiên cho truyền dẫn hướng lên và hướng xuống. Tương tự
tiếp cận song công một sợi đơn bước sóng, các coupler định hướng được sử dụng tại
OLT và các ONU để tách biệt các tín hiệu quang hướng lên và hướng xuống. Ảnh
hướng NEXT được tránh bằng việc tách tín hiệu hướng lên và hướng xuống theo
thời gian với giá phải trả là giảm thông lượng toàn bộ hệ thống khoảng 50%. OLT

74
điều phối các khe thời gian gán cho truyền dẫn hướng lên và hướng xuống. Các bộ
thu kiểu burst được yêu cầu tại cả hai OLT và ONU.

Hình 3-4 (a) Truyền dẫn song hướng đơn bước sóng trên một sợi, và (b) Xuyên âm đầu gần
(NEXT).

Phương pháp ghép song công phân chia theo bước sóng phân tách các tín
hiệu truyền dẫn hướng lên và hướng xuống bằng việc sử dụng các bước sóng khác
nhau. Để dễ dàng điều khiển bước sóng, một chế độ ghép song công bước sóng
1,3/1,5 m được chọn để tách biệt các tín hiệu hướng lên và hướng xuống. Cửa sổ
tại mỗi bước sóng được tạo đủ lớn để không cần điều khiển nhiệt độ để ổn định các
bước sóng đầu ra laser.

Hình 3-5 Ghép song công phân chia theo bước sóng trên một sợi.

Một trong các ưu điểm của ghép song công phân chia bước sóng là ánh sáng
hướng xuống bị phản xạ từ các cổng bộ chia tách cũng được lọc bởi bộ ghép song
công tại OLT. Điều này giảm các yêu cầu phản xạ connector tại bộ chia công suất
nút đầu xa. Trong suốt giai đoạn sử dụng ban đầu của một hệ thống PON, hầu hết

75
các cổng đầu ra bộ chia công suất có thể không sử dụng. Không có bộ ghép song
công bước sóng thì có thể sinh ra nhiều nhiễu giao thoa không mong muốn tới tín
hiệu hướng lên thu được tại OLT nếu các connector này không được kết cuối phù
hợp. Do vậy các hệ thống TDM-PON đều sử dụng chế độ truyền dẫn ghép song
công theo bước sóng trên một sợi quang cho truyền dẫn hai chiều.

Hình 3-6 Kiến trúc của (a) TDM-PON, và (b) WDM-PON

Hình 3-6 cho thấy kiến trúc mạng TDM-PON tiêu chuẩn hiện nay. Trong cấu
trúc này, một OLT được kết nối với các ONU thông qua bộ chia tách 1:N. Khoảng
cách truyền dẫn lớn nhất bao phủ thường là 10 – 20 km. Lưu lượng hướng lên từ
ONU được mang trên bước sóng 1,3 m và lưu lượng hướng xuống từ OLT trên
bước sóng 1,49 m. Một ONU có một hoặc nhiều cổng cho kết nối thoại và dữ liệu
(10/100BASE-T Ethernet). Các kết nối thoại có thể là các cổng T1/E1 cho khách
hàng doanh nghiệp và POTS cho người dùng cá nhân. Nhiều OLT trong CO được
liên kết với một chuyển mạch hoặc kết nối chéo kết nối với mạng đường trục. Các
OLT thường được xây dựng như các card đường truyền lắp trên một giá thiết bị.
Khung giá thiết bị này cũng có thể lắp chuyển mạch/kết nối chéo và cung cấp liên
kết với các OLT thông qua tấm mạch tốc độ cao.

76
Hình 3-7 Hoạt động ghép kênh theo thời gian hướng xuống.

Trong truyền dẫn hướng xuống, OLT sử dụng ghép kênh theo thời gian
(TDM) để kết hợp các luồng dữ liệu và thoại định cho người dùng trên PON. Như
một ví dụ đơn giản, nếu có N luồng thông tin độc lập tới OLT, mỗi luồng chạy ở tốc
độ R bit/s, thì chế độ TDM ghép xen trong miền điện thành một luồng chung hoạt
động ở tốc độ cao hơn cỡ NxR bit/s. Tín hiệu được ghép hướng xuống được phát
quảng bá tới tất cả các ONU. Mỗi ONU sẽ loại bỏ hoặc thu nhận các gói thông tin
đi tới phụ thuộc vào địa chỉ tiêu đề gói. Mã hóa mật có thể cần thiết để đảm bảo bảo
mật người dùng.
Truyền lưu lượng hướng lên phức tạp hơn vì tất cả người dùng phải chia sẻ
thời gian trên cùng bước sóng. Hệ thống TDM-PON sử dụng giao thức đa truy nhập
phân chia theo thời gian TDMA để tránh xung đột giữa truyền dẫn của người dùng
khác nhau. OLT điều khiển và điều phối lưu lượng từ mỗi ONU bằng việc gửi sự
cho phép cho chúng để phát trên một khe thời gian xác định. Các khe thời gian được
đồng bộ để các burst truyền dẫn từ người dùng khác nhau không xung đột nhau. Vì
mỗi đầu cuối được đặt tại các khoảng cách khác nhau tính từ CO, nên OLT sử dụng
kỹ thuật định cỡ khoảng cách để đo khoảng cách logic giữa người dùng và OLT. Kỹ
thuật này cho phép mỗi ONU điều chỉnh định thời truyền dẫn của nó một cách thích
hợp để tránh xung đột lưu lượng.

77
Hình 3-8 Hoạt động giao thức đa truy nhập phân chia theo thời gian

3.1.4 Truyền dẫn xếp chồng tín hiệu truyền hình cáp tương tự
Bổ sung thêm vào phân phối dữ liệu băng rộng, phân phối tín hiệu truyền
hình cũng đã được xem xét như là dịch vụ PON cơ bản. Các dịch vụ truyền hình cáp
tương tự đã được phân phối sử dụng bước sóng 1550 m trong hệ thống HFC trong
một thời gian dài. Mặc một số hạn chế của nó, việc truyền quảng bá một chiều tín
hiệu video tương tự là một phương pháp đơn giản và hiệu quả để phân phối các dịch
vụ video tới một lượng lớn người dùng.

Hình 3-9 Xếp chồng các dịch vụ TV tương tự trên hệ thống PON

Một phương pháp nhanh và dễ dàng để cung cấp dịch vụ TV trên TDM-PON
là phát quảng bá trực tiếp tín hiệu truyền hình tương tự tới người dùng đầu cuối trên
bước sóng 1550 nm nhờ sử dụng thêm một bộ ghép bước sóng. Như chỉ ra ở hình 3-
9, bước sóng 1550 nm có thể được khuếch đại bằng một EDFA tại CO để phát
78
quảng bá tới nhiều hệ thống PON để thực hiện chia sẻ tốt hơn các tài nguyên TV
tương tự. Tín hiệu TV tương tự được tách tại ONU và chuyển đổi thành tín hiệu RF
thông thường trên cáp đồng trục nhờ sử dụng một STB, cái cung cấp chức năng
chuyển đổi OE đơn giản. Trong thực tế chức năng chuyển đổi tương tự được thực
hiện ở ONU cung cấp một giao diện cáp đồng trục 75 . Hơn nữa, một bộ ghép tam
công 1,3/1,49/1,55 m được sử dụng thay cho hai bộ ghép song công nối tiếp như
trong hình 3-9.
Một vấn đề tiềm năng trong cấu hình như vậy là sự suy giảm các tín hiệu
sóng mang con TV tương tự trên bước sóng 1550 nm bởi tín hiệu số hướng xuống
1490 nm, cái hoạt động như một nguồn bơm Raman đối với tín hiệu tương tự 1550
nm. Vì bước sóng hướng xuống bị điều biến nên nó làm suy giảm tỉ số sóng mang
trên tạp âm (CNR) của tín hiệu tương tự đặc biệt đối với các kênh sóng mang con
tần số thấp.
Trong vài năm trước, các dịch vụ số và IPTV theo yêu cầu tăng trưởng nhanh
chóng và thay thế dần các dịch vụ TV tương tự truyền thống. Xu hướng hiện tại là
tận dụng ưu điểm của mạng IP hội tụ và công nghệ Ethernet chi phí thấp để mã hóa
các tín hiệu TV thành các gói MPEG/IP/Ethernet. Xu hướng này thúc đẩy sự hợp
nhất mạng phân phối TV với các mạng dữ liệu, cái không chỉ giảm vốn đầu tư
CAPEX mà còn đơn giản hóa quản lý mạng.
Ở nhiều nước hiện nay, các MSO đã và đang cho dừng các dịch vụ tương tự.
Bằng cách điều khiển QoS thích hợp, các dịch vụ IPTV số được phân phối hiệu quả
chi phí hơn nhiều thông qua kênh dữ liệu. Kỹ thuật xếp chồng tương tự 1550 nm
trong thực tế không phổ biến trên các mạng PON vì một số lí do:
- Bộ ghép tam công và bộ thu RF làm tăng chi phí ONU.
- Dịch vụ tương tự xếp chồng tạo ra các phức tạp quản lý bổ sung. Các
MSO có thể tận dụng ưu điểm của hệ thống HFC đã được phát triển và
đang sử dụng của họ. Tuy nhiên, đối với các nhà mạng viễn thông đang
thâm nhập vào thị trường đa dịch vụ triple-play, nó sẽ tốt hơn nhiều để
nhảy thẳng tới công nghệ IPTV số vì họ không phải bận tâm đến các hệ
thống phân phối TV tương tự.
- Các quy định khung pháp lí trên thế giới hiện nay không còn hỗ trợ cho
quảng bá TV tương tự nữa mà thay thế bằng các dịch vụ số.

79
3.2 Các thành phần PON tích cực
Trong mạng PON các thành phần tích cực là những thiết bị đặt tại hai đầu
cuối của hệ thống đòi hỏi cần cấp nguồn để hoạt động. Các thành phần này bao gồm
OLT tai CO và các ONU/ONT tại phía người dùng.

3.2.1 Khối OLT


Khối đầu cuối đường quang OLT đặt tại CO phía nhà cung cấp dịch vụ cung
cấp giao diện quang phía mạng phân phối và ít nhất một giao diện phía mạng dịch
vụ tùy theo loại dịch vụ cung cấp. Sơ đồ khối cấu trúc tổng quat khối OLT được mô
tả trong hình 3-10. Một OLT bao gồm các lớp thành phần chính: lớp thích ứng dịch
vụ, lớp kết nối chéo, lớp MAC và lớp phụ thuộc môi trường vật lý PMD.
Lớp PMD bao gồm bộ thu phát quang và bộ ghép song công WDM. Lớp
MAC thực hiện lập lịch quyền cho phép sử dụng môi trường vật lý, do đó tránh
được nghẽn hay xung đột trên tuyến sợi chia sẻ giữa các ONU khác nhau. Trong
một hệ thống PON, lớp MAC tại OLT đóng vai trò điều khiển. OLT xác định thời
điểm bắt đầu và kết thúc mà một ONU cụ thể được phép truyền phát. Một OLT có
thể có nhiều lớp MAC và PMD do đó nó có thể được kết nối với nhiều hệ thống
PON. Lớp kết nối chéo trong OLT cung cấp chức năng kết nối và chuyển mạch giữa
các hệ thống PON, các ONU khác nhau và mạng trục. Lớp thích ứng dịch vụ trong
một OLT cung cấp chức năng chuyển đổi giữa các định dạng tín hiệu mạng trục và
các tín hiệu trên PON. Giao tiếp từ một OLT tới mạng trục được gọi là giao diện
mạng dịch vụ (SNI).

80
Hình 3-10 Sơ đồ cấu trúc tổng quát thiết bị đầu cuối đường quang OLT.

3.2.2 Khối ONU/ONT


Khối đơn vị mạng quang ONU hoặc đầu cuối mạng quang ONT được đặt tại
phía thuê bao cung cấp một kết nối quang trên hệ thống PON và giao diện điện với
thiết bị đầu cuối khách hàng. ONU có thể hỗ trợ nhiều loại dịch vụ khác nhau bao
gồm dịch vụ Ethernet, các kết nối thoại T1/E1, DS3/E3, các giao diện ATM và các
định dạng video tương tự và số. Sơ đồ cấu trúc tổng quát một ONU/ONT được cho
thấy trong hình 3-11.
Một ONU cung cấp kết nối tới OLT trong hệ thống PON thông qua các lớp
MSC và PMD ONU. Lớp thích ứng dịch vụ trong ONU cũng cung cấp chức năng
chuyển đổi giữa định dạng tín hiệu yêu cầu cho kết nối thiết bị thuê bao và định
dạng tín hiệu PON. Giao tiếp từ một ONU với thiết bị mạng khách hàng được gọi là
giao tiếp mạng người dùng (UNI). Phần MUX/DEMUX dịch vụ cung cấp chức
năng ghép kênh cho các giao tiếp khách hàng khác nhau. Thông thường, nhiều UNI
sẵn có từ một ONU cho các kiểu dịch vụ khác nhau. Mỗi UNI có thể hỗ trợ một
định dạng tín hiệu khác nhau và đòi hỏi lớp thích ứng dịch vụ tương ứng. Lớp PMD
của ONU tương tự như của OLT. Lớp MAC tại ONU đóng vai trò khách phụ thuộc
sự quản lý và điều khiển của OLT.

Hình 3-11 Sơ đồ cấu trúc tổng quát ONU/ONT

Đôi khi sự phân biệt giữa ONU và ONT chỉ là vị trí lắp đặt thiết bị, còn về
chức năng hoạt động thì tương tự nhau. ONT thường được đặt trong nhà trực tiếp
tại cơ sở của khách hàng. Nhiều kiểu thiết kế và cấu hình giá máy thiết bị ONT sẵn
có để đáp ứng các mức nhu cầu khác nhau. Kích thước của một ONT có thể từ
phạm vi một hộp đơn giản được gắn bên ngoài nhà tới khối thiết bị phức tạp lắp

81
trong một khung giá tiêu chuẩn sử dụng trong các tòa nhà hay văn phòng. Một ONU
thường lắp đặt ngoài trời. Do vậy ONU đòi hỏi các tủ bảo vệ cần đảm bảo để ONU
hoạt động trong các điều kiện môi trường thay đổi khác nhau.

3.3 Các thành phần thụ động


Các thành phần thụ động được mô tả ở đây cho hệ thống PON bao gồm các
bộ ghép lựa chọn bước sóng, bộ chia tách công suất, connector quang, hàn nối và
cáp quang.

3.3.1 Bộ ghép WDM


Một thành phần WDM cơ bản là bộ ghép bước sóng kết hợp các luồng tín
hiệu trên các bước sóng khác nhau truyền trên cùng một sợi quang. Hệ thống PON
sử dụng kỹ thuật ghép bước sóng mật độ thấp (thưa) với ba bước sóng cụ thể để
mang các tín hiệu quang cho các kiểu dịch vụ khác nhau. Các bước sóng này là
1310 nm, 1490 nm và 1550 nm. Để kết hợp hoặc phân tách các bước sóng này
thành các kênh thu hoặc phát khác nhau thì coupler lựa chọn bước sóng được sử
dụng có thể là coupler 1x2 hoặc 1x3.
Hai công nghệ sử dụng để chế tạo bộ ghép bước sóng cho hệ thống PON là
các bộ lọc màng mỏng và cách tử nhiễu xạ truyền qua. Lưu ý rằng các thiết kế đóng
gói đặc biệt có thể làm cho các linh kiện này không phụ thuộc nhiệt độ, do đó không
cần điều khiển tích cực nhiệt độ để duy trì độ ổn định.
a. B lọc màng mỏng
Một bộ lọc màng mỏng (TFF) là một bộ lọc thông dải quang, nó cho phép
một băng tần bước sóng cụ thể đi qua và phản xạ tất các ánh sáng khác. Phụ thuộc
vào thiết kế TFF, dải băng thông này có thể chỉ hẹp cỡ 50 GHz (hoặc tương đương
băng tần phổ 0,5 dB cỡ 0,2 nm tại bước sóng 1550 nm). Thay vào đó, một TFF có
thể được sử dụng như một bộ chia tách băng để phân tách hai vùng bước sóng. Đối
với hệ thống PON, kiểu bộ ghép này cung cấp một độ cách ly cao (> 45 dB) giữa
kênh hướng lên 1310 nm và các kênh hướng xuống 1410 và 1550 nm (Hình 3-12).
Hình 3-13 mô tả ví dụ hoạt động của bộ ghép tại ONU. Ở đây tín hiệu hướng lên
1310 nm đi vào cổng truyền qua bên trái và đi ra cổng chung phía bên phải kết nối
với sợi quang, các tín hiệu tại 1490 và 1550 nm đi vào từ cổng chung bị phản xạ
trong bộ ghép và đi ra khỏi cổng phản xạ bên phải.

82
Hình 3-12 Đặc tính hàm truyền công suất của bộ ghép/tách bước sóng

Cơ sở nguyên lý của linh kiện TFF tương tự như cấu trúc hộp cộng hưởng
Fabry-Perot (F-P). Đối với một TFF, hộp cộng hưởng được hình thành bởi hai bề
mặt phản xạ song song trên các mặt đối diện của một màng mỏng điện môi như mô
tả trong hình 3-14. Cấu trúc này được gọi hoặc là bộ giao thoa F-P hoặc là etalon.
Xét một ánh sáng tín hiệu đi vào bề mặt bên trái của etalon, sau khi ánh sáng đi qua
hộp cộng hưởng và chạm vào bề mặt bên trong bên phải, một phần ánh sáng rời
khỏi hộp cộng hưởng và một phần bị phản xạ. Lượng ánh sáng bị phản xạ phụ thuộc
vào hệ số phản xạ R của bề mặt. Nếu khoảng cách lộ trình giữa hai gương là một số
nguyên lần bước sóng  thì tất cả phần ánh sáng tại các bước sóng này đi qua bề
mặt bên phải được kết hợp đồng pha, tức giao thoa cộng hưởng tại chùm đầu ra.
Các bước sóng như vậy được gọi là các bước sóng cộng hưởng của hộp cộng
hưởng. Etalon sẽ phản xạ tất cả các bước sóng khác.

Hình 3-13 Hoạt động của một bộ tách băng sóng tại ONU

83
Hình 3-14 Cấu trúc bộ giao thoa Fabry-Perot hay etalon.

Hàm truyền T của một etalon lí tưởng trong đó không có sự hấp thụ ánh sáng
bởi các gương là một hàm Airy xác định bởi:

(3.1)

trong đó R là hệ số phản xạ của gương,  là độ dịch pha một lộ trình của chùm
sáng. Nếu bỏ qua sự dịch pha tại bề mặt gương, thì độ dịch pha đối với một bước
sóng  là

(3.2)
trong đó n là chiết suất của lớp điện môi hình thành gương, D là khoảng cách giữa
các gương, và  là góc tới của chùm sáng.

Hình 3-15 Đặc tính hàm truyền (hàm Airy) của bộ lọc TFF.

84
Hình 3-15 biểu diễn đồ thị tổng quát của biểu thức (3.1) trong phạm vi -
33. Vì  tỉ lệ với tần số f = 2/ nên đồ thị cho thấy tính tuần hoàn theo f của
hàm truyền T. Các đỉnh gọi là băng thông xảy ra tại các bước sóng thỏa mãn điều
kiện N = 2nD với N là số nguyên. Như vậy đối với một bước sóng đơn để được
lựa chọn bởi bộ lọc từ một dải phổ cụ thể thì tất cả các bước sóng phải nằm giữa hai
dải thông liên tiếp của hàm truyền. Nếu một vài bước sóng nằm ngoài dải này thì bộ
lọc sẽ truyền qua một vài bước sóng. Khoảng cách giữa hai đỉnh phổ lân cận gọi là
dải phổ tự do (FSR) và được xác định:

(3.3)
Một tham số quan trọng khác là đại lượng độ rộng băng thông tại nửa cực đại
(FWHM). Tỉ lệ FSR/FWHM cho ước tính gần đúng số lượng bước sóng mà bộ lọc
có thể xử lý. Tỉ lệ này gọi là độ mịn F của bộ lọc và được xác định:

(3.4)
Một TFF điển hình gồm các lớp bọc màng mỏng đa lớp có vật liệu chiết suất
cao và thấp đan xen luân phiên như SiO2 và Ta2O5 như mô tả ở hình 3-1.. Các lớp
thường được tráng trên một đế thủy tinh. Mỗi lớp điện môi hoạt động như một bề
mặt phản xạ không hấp thụ, do đó cấu trúc là một chuỗi các hộp cộng hưởng. Khi số
lượng các hộp cộng hưởng tăng lên, dải thông của bộ lọc dốc hơn để tạo ra đỉnh
phẳng, một đặc tính mong muốn cho một bộ lọc thực tế. Trong hình 3-16, bộ lọc
được chế tạo để nếu phổ đầu vào chứa các bước sóng 1 đến N thì chỉ k đi qua bộ
lọc còn tất cả các bước sóng khác bị phản xạ. Khi tách nhiều kênh bước sóng khác
nhau các bộ lọc TFF có thể kết nối nối tiếp để tách lần lượt từng kênh. Các bộ lọc
màng mỏng sẵn có cho một dải rộng băng thông từ 50 tới 800 GHz hay cao hơn cho
các kênh khoảng cách lớn.

85
Hình 3-16 Mô hình Simulink để giải phương trình vi phân (3.1)

b. Cách tử nhiễu x truyền qua


Một cách tử nhiễu xạ là một linh kiện quang quen thuộc để phân tách theo
không gian các bước sóng khác nhau trong cùng chùm sáng. Linh kiện này bao gồm
một tập các phần tử nhiễu xạ như các khe hoặc rãnh hẹp song song có chu kì cỡ bậc
bước sóng ánh sáng. Các phần tử nhiễu xạ này có thể hoặc là phản xạ hoặc là truyền
qua, do đó hình thành cách tử phản xạ hay cách tử truyền qua tương ứng. Việc phần
tách và kết hợp các bước sóng trong cách tử nhiễu xạ là một quá trình song song,
ngược với quá trình nối tiếp sử dụng trong TFF. Một cách tử nhiễu xạ có xuyên âm
kênh lân cận rất thấp thường nhỏ hơn 30 dB, Tổn hao xen điển hình nhỏ hơn 3 dB
và độ đồng đều trong phạm vi 1 dB trên số lượng lớn kênh bước sóng. Một dải
thông cỡ 30 GHz ở mức gợn sóng 1 dB trở thành tiêu chuẩn.

Hình 3-17 Cấu trúc của một bộ cách tử nhiễu xạ truyền qua.

Nguyên lý hoạt động của một cách tử truyền qua như là cách tử pha được mô
tả trong hình 3-17. Đặc tính chính là nó bao gồm các biến đổi tuần hoàn chiết suất
của cách tử có chu kỳ . Khi phổ của các sóng phẳng đi vào cách tử tại một góc i,
từng các bước sóng k trong phổ sẽ đi ra khỏi cách tử tại các góc lệch e(k) khác
nhau. Các góc này được xác định bởi phương trình cách tử

(3.5)
trong đó q là bậc nhiễu xạ của cách tử. Thường chỉ bậc một (q = - 1) được xem xét.
Nếu góc i nhỏ, đó là khi bước sóng <<, biểu thức (3.5) có thể gần đúng

(3.6)

86
Sau khi phổ các kênh bước sóng đi qua cách tử (từ trái sang phải), chúng có
thể được hội tụ vào các sợi quang nhận riêng biệt vì mỗi bước sóng đi ra tại một góc
khác nhau. Hoạt động của linh kiện này có thể đảo chiều, tức theo chiều ngược lại
cách tử hội tụ từng bước sóng đi vào trên mảng sợi bên phải vào một sợi bên trái.

3.3.2 Bộ chia tách công suất


Một bộ ghép (coupler) hoặc chia tách (splitter) NxN là một dạng tổng quát
của bộ ghép 2x2 như mô tả trong hình 3-18. Linh kiện này là một thành phần then
chốt trong hệ thống PON cho việc phân phối các tín hiệu quang tới các khách hàng
từ cùng phần cáp gốc sợi quang. Trong ứng dụng phổ biến nhất, các bộ ghép sao kết
hợp các chùm sáng từ hai hoặc nhiều sợi đầu vào và phân chia chúng thành một số
sợi đầu ra. Trong trường hợp tổng quát, sự chia tách được thực hiện đồng đều cho
tất cả các bước sóng, do đó mỗi N đầu ra thu nhận 1/N phần công suất đi vào linh
kiện.

Hình 3-18 Bộ ghép/chia tách hình sao

a. Tổn hao chia tách


Trong một bộ ghép sao lí tưởng, công suất quang từ bất kì đầu vào được chia
tách đồng đều giữa các cổng đầu ra. Tổn hao tổng cộng hay tổn hao xen của linh
kiện bao gồm tổn hao chia tách cộng tổn hao trội trong mỗi đường truyền qua bộ
ghép sao. Tổn hao chia tách được xác định theo dB bởi

(3.7)
Mở rộng biểu thức cho bộ ghép 2x2 đối với bộ ghép sao, đối với một đầu
vào công suất Pin và N công suất đầu ra, tổn hao trội theo dB được xác định bởi

(3.8)

87
Tổn hao xen và mức xuyên âm có thể được tính toán tương ứng.

Hình 3-19 Khái niệm cấu trúc sử dụng bộ ghép sợi nóng chảy để chế tạo bộ chia tách
quang 1x8.

b. Cấu trúc b chia tách quang


Các bộ chia tách quang chất lượng cao có thể được chế tạo bằng việc sử
dụng hoặc công nghệ mạch quang phẳng (PLC) hoặc kết chuỗi các bộ ghép đơn
mode sợi quang nóng chảy 2x2. Hình 3-19 và 3-20 mô tả các kiểu cấu trúc bộ chia
tách sử dụng sợi nóng cháy và PLC tương ứng để chế tạo bộ chia tách công suất
quang 1x8. Khi xây dựng một bộ chia tách sử dụng các bộ ghép sợi nóng chảy 2x2,
chỉ một nhánh đầu vào được sử dụng. Bộ chia tách dựa trên PLC bao gồm một
chuỗi các ống dẫn sóng bộ ghép chữ Y ghép với nhau. Hoạt động của các linh kiện
này có tính nghịch đảo, tức chúng có thể hoạt động như các bộ chia tách công suất
quang để chia tách tín hiệu đi vào thành N nhánh hoặc như các bộ ghép công suất
để ghép các luồng tín hiệu quang từ từng sợi vào một sợi chung. Các bộ chia tách
dựa trên PLC cho kích thước nhỏ gọn hơn các bộ chia tách dựa trên sợi trong các
tính huống kích thước là một vấn đề cần chú ý. Cả hai kiểu bộ ghép đều sẵn có ở
các cấu hình 1x4, 1x8, 1x16 hay 1x32. Bảng 3.1 cho thấy một số tham số hiệu năng
của các bộ chia tách quang 1x8 và 1x32.

88
Hình 3-20 Khái niệm cấu trúc sử dụng PLC để chế tạo bộ chia tách quang 1x8. Dạng bộ
chia tách trong thực tế (ảnh dưới).

Bảng 3.1 Một số đặc tính kỹ thuật của bộ chia tách quang PLC 1x8 và 1x32

3.3.3 Cáp quang cho hệ thống PON


Sợi quang sử dụng chủ yếu cho PON là kiểu sợi đơn mode G.652c hoặc
G.652d. Các sợi quang này sẽ được bện thành một số kiểu cấu trúc cáp để cung cấp
khả năng bảo vệ cơ lý. Các kiểu cáp khác nhau được sử dụng phụ thuộc nơi mà
PON được triển khai và phương thức lắp đặt cáp. Để hạn chế kéo căng quá mức,
quá trình bện cáp thường bao gồm các thành phần gia cường như các sợi tơ nylon,
các dây thép và các thanh sợi thủy tinh.
a. Cấu trúc cáp
89
Hai cấu trúc cáp cơ bản là cấu trúc cáp sợi đệm chặt và cáp sợi đệm lỏng.
Như cho thấy trong hình 3-21 cho cáp một sợi, theo kiểu cấu trúc đệm chặt mỗi sợi
được bọc đệm nhựa có đường kính 900 m. Đặc điểm này làm cáp đệm chặt có
hiệu năng chống ẩm và nhiệt độ tốt và cũng cho phép dễ dàng gắn các connector
quang. Bao bọc quanh cấu trúc 900 m này là một lớp vật liệu gia cường như sợi
aramid. Một lớp vỏ bọc ngoài bằng nhựa PVC sẽ hoàn thiện cấu trúc này.

Hình 3-21 Mặt cắt cáp một sợi đệm chặt.

Hình 3-22 Khái niệm cấu trúc cáp ống đệm lỏng

Trong cấu trúc cáp ống đệm lỏng, một hoặc nhiều đơn vị gồm các sợi quang
tiêu chuẩn đã có bọc đệm 250 m với các vật liệu bện cáp như các dải băng quấn và
các thành phần gia cường được bọc đệm trong một ống nhựa. Đường kính trong ống
nhữa lớn hơn nhiều đường kính sợi quang như cho thấy trong hình 3-22 và nói
chung chứa các vật liệu chống nước. Các module sợi trong ống dài hơn độ dài cáp.
Kiểu bện cáp này cách ly các sợi quang khỏi cáp và cho phép chúng dịch chuyển tự
do trong ống. Điều này cho phép cáp bị kéo căng mà không sợ tác động lên sợi.

Hình 3-23 Cáp dạng băng dẹt được xếp lớp 64 sợi.

90
Các cáp sử dụng sợi đệm chặt thường được sử dụng trong nhà, trong khi cấu
trúc đệm lỏng được sử dụng ở ngoài trời. Để đơn giản hoạt động hàn nối cáp chứa
nhiều sợi ngoài hiện trường, các nhà thiết kế cáp đã đưa ra cấu trúc băng sợi
(ribbon). Như cho thấy trong hình 3-23, cáp băng sợi là một dạng sắp xếp các sợi
quang thẳng hàng một cách chính xác với nhau và sau đó được bọc trong một lớp
đệm hoặc vỏ nhựa để hình thành một băng dài liên tục. Số lượng sợi trong một băng
thường trong dải từ 4 đến 12. Các dải này có thể được xếp chồng lên nhau để hình
thành một cấu trúc mật độ sợi lớn trong cáp. Cấu trúc dải cũng có ưu điểm trong các
lắp đặt PON ngoài hiện trường khi kết nối cáp với các bộ chia tách quang.
Bảng 3.2 Mã mầu ống đệm lỏng và vỏ đệm sợi quang tiêu chuẩn

b. Mã mầu vỏ ệm và sợi
Để phân biệt giữa các sợi khác nhau trong cáp, mỗi sợi được chỉ định bởi
một mầu bọc đệm riêng biệt. Tiêu chuẩn TIA/EIA-598-B đưa ra quy định một tập
chung các mầu sợi quang. Vì có tới 12 cốt sợi trong một nhóm, cốt 1 đến 12 được
mã mầu duy nhất như liệt kê trong bảng 3.2. Nếu có nhiều hơn 12 sợi trong một
nhóm thì cốt 13 đến 24 sẽ lặp lại cùng mã mầu cơ bản như cốt 1 đến 12 với sự bổ
sung một đường liền nét hoặc đứt nét mầu đen hoặc mầu vàng. Đối với các cáp có
nhiều hơn một ống đệm chứa một nhóm sợi, các ống đệm cũng được mã mầu cùng
một kiểu như sợi.

3.3.4 Kết nối quang


Một yếu tố quan trọng trong lắp đặt hệ thống sợi quang là yêu cầu kết nối các
sợi với suy hao thấp. Các kết nối này xảy ra tại nguồn quang, tại bộ tách sóng
quang, tại các điểm trung gian trong một cáp hai sợi nối với nhau và tại các điểm

91
trong một tuyến hai cáp nối với nhau. Kỹ thuật cụ thể để nối các sợi quang phụ
thuộc vào mong muốn một kết nối vĩnh viễn hay một kết nối có thể tháo lắp. Một
kết nối vĩnh cửu được xem như kiểu hàn sợi, còn kết nối tháo lắp được tại đầu cuối
của cáp được biết như là connector.
a. Các connector quang
Nhiều kiểu connector quang sẵn có cho nhiều loại ứng dụng khác nhau. Việc
sử dụng chúng có thể trải từ các connector đơn kênh trong điều kiện tốt tới các
connector đa kênh sử dụng dưới điều kiện môi trường khắc nghiệt. Các connector
sẵn có trong các thiết kế kiểu vặn chốt, xoắn hoặc cắm tại chỗ. Thiết kế kiểu cắm
chốt là được sử dụng phổ biến nhất cho hệ thống PON. Các thiết kế bao gồm cả hai
tổ hợp đơn kênh và đa kênh cho các kết nối cáp với cáp và cáp với card thiết bị.

Hình 3-24 Cơ chế kết nối connector: các đầu ferrule được ghép khớp với adaptor.

Phần lớn các connector sử dụng cơ chế ghép nối chạm đầu sợi như mô tả
trong hình 3-24. Các phần tử cho thấy trong hình là chung cho hầu hết các
connector. Thành phần quan trọng là một hình trụ dài mỏng làm bằng thép không
gỉ, thủy tinh, gốm hoặc nhựa được gọi là đầu ferrule và một ống tay áo chính xác
mà đầu ferrule vừa khớp. Ống tay áo này còn được gọi là adaptor. Trung tâm của
ferrule có một lỗ chính xác vừa khớp với kích thước của đường kính vỏ sợi. Điển
hình kích thước lỗ là 125 ± 1,0 m. Sợi được gắn chặt trong lỗ này bằng epoxy và
đầu của ferrule được mài nhẵn và đánh bóng tới khi phẳng nhẵn. Một vòng đệm dẫn
điều khiển ferrule được lắp vào adapter sâu bao nhiêu. Các thách thức cơ khí trong
chế tạo đầu ferrule bao gồm việc đảm bảo cả hai kích thước của đường kính và vị trí
của lỗ với bề mặt ngoài ferrule.
Một connector trong đó mặt sợi quang được đánh nhẵn vuông góc với trục
của sợi gọi là connector đánh nhẵn thẳng (SPC). Để giảm phản xạ ngược tại
connector, mặt đầu sợi có thể được đánh nhẵn tại một góc nghiêng. Góc này thường
cỡ 8o so với trục sợi. Một connector như vậy gọi là một connector đánh nhẵn
nghiêng (APC).
92
Hầu hết các đầu ferrule sử dụng trong các connector quang được là từ vật
liệu gốm vì nó có một số đặc tính đáng mong muốn. Các đặc tính này bao gồm tổn
hao xen thấp yêu cầu cho truyền dẫn quang, rất chắc chắn, hệ số đàn hồi nhỏ, điều
khiển dễ dàng các đặc tính sản phẩm, và đề kháng tốt với sự thay đổi điều kiện môi
trường như nhiệt độ.
Nhấn mạnh thêm vào việc giảm kích thước các connector cho mật độ kết nối
cao hơn đã tạo ra nhiều khái niệm về các kiểu connector cỡ nhỏ (SFF). Sự khác biệt
lớn nhất giữa các connector SFF là liệu chúng sử dụng các ferrule nhựa hay gốm.
Như tên gọi của chúng các connector SFF là nhỏ và được thiết kế để kết nối nhanh.

Hình 3-25 Connector SC đơn và adaptor của nó (trái); và connector LC đơn và kép (phải)

Hai loại connector phổ biến trong PON là kiểu SC và LC. Connector SC đã
được phát triển bởi NTT của Nhật. Connector này được lắp bằng một phương pháp
cắm chốt đơn giản và có thể được tháo ra bằng cách ấn vào chốt và kéo connector
ra. Các connector SC sẵn có theo kiểu cấu hình đơn hoặc kép. Hình 3-25 cho thấy ví
dụ một connector SC đơn và adaptor của nó. Connector SC sử dụng một ferrule
gốm zirconi chính xác. Đối với sợi đa mode, điều này thu được tổn hao xen điển
hình cỡ 0,4 dB khi đánh nhẵn thủ công hoặc 0,2 dB khi đánh nhẵn bằng máy tự
động. Các connector đơn mode điển hình thực hiện tổn hao xen cỡ 0,3 dB và tổn
hao trở về 40 dB khi sử dụng phương pháp đánh bóng thủ công. Đặc điểm tổn hao
và tháo lắp cho phép connector này sử dụng trong không gian chật hẹp. Các
connector SC đơn có bọc ngoài bằng nhựa được mã mầu theo chuẩn TIA/EIA-568-
B.3. Các connector SC kép được sử dụng rộng rãi trên các dây nhảy hai sợi và được
thiết kế để đảm bảo phân cực cáp sợi quang. Phân cực ở đây muốn nói rằng các đầu
93
cáp được khớp nối thích hợp cho các chức năng phát và thu. Về cơ bản, cấu hình
kép kết hợp hai connector SC tiêu chuẩn trong một vỏ bọc chung để đảm bảo phân
cực sợi và cung cấp khả năng tháo lắp cặp connector trơn tru.
Lucent đã phát triển connector LC để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng kết
nối sợi quang kích cỡ nhỏ mật độ cao trên khay giá thiết bị, trong các tấm phân phối
và trên vách tường. Connector này có kích thước bằng một nửa của SC. Hai công
nghệ đã được kết hợp trong connector LC là công nghệ ferrule gốm và giao tiếp
cắm điện thoại RJ-45. Ưu điểm của bọc giữ RJ-45 cung cấp cơ chế chốt chắc chắn
và tin cậy cho LC. Connector LC có đặc điểm tinh chỉnh sáu vị trí để đạt được tổn
hao xen thấp bằng cách tối ưu việc đồng chỉnh lõi sợi. Tổn hao xen điển hình của
connector LC là 0,1 dB. Các connector LC sẵn có trong cả hai cấu hình đơn và kép
như cho thấy ở hình 3-25. Các adapter LC đơn và kép với ống hoặc bằng kim loại
hoặc bằng gốm sẵn có trong các mầu chuẩn công nghiệp.
b. Tổn hao connector
Mỗi kỹ thuật kết nối trong các điều kiện xác định đều có thể gây ra mức độ
tổn hao công suất khác nhau tại điểm kết nối. Các tổn hao này phụ thuộc vào các
yếu tố như vị trí đồng chỉnh giữa hai sợi, sự khác biệt về đặc tính hình học và dẫn
sóng của hai đầu sợi tại điểm nối và chất lượng bề mặt đầu sợi.
Sự sai lệch đồng chỉnh thông thường nhất trong thực tế cũng gây ra tổn hao
công suất lớn nhất là lệch trục. Độ lệch trục này giảm diện tích xếp chồng của hai
đầu sợi như mô tả ở hình 3-26 và kết quả làm giảm lượng công suất có thể ghép cặp
từ sợi này sang sợi khác. Trong thực tế, độ lệch trục ít hơn 1 m có thể thực hiện
được cho các sợi đa mode gây ra tổn hao nhỏ hơn 0,1 dB. Đối với các sợi đơn
mode, lệch trục ít hơn 0,1 m gây ra tổn hao nhỏ hơn 0,1 dB. Phần diện tích xếp
chồng của hai sợi chiết suất bậc giống nhau có bán kính a và bị lệch trục bởi khoảng
cách d được xác định bởi

(3.9)
Tổn hao ghép nối do lệch trục được xác định bởi

(3.10)

94
Hình 3-26 Độ lệch trục làm giảm phần diện tích chung của hai mặt đầu sợi

c. Hàn nối sợi quang


Một mối hàn nối sợi là một liên kết suy hao thấp giữa hai sợi quang có thể
được thực hiện bằng hàn nóng chảy hoặc hàn nối cơ khí. Đánh giá các mối hàn sợi
quang cần xem xét sự khác biệt giữa hai sợi, độ lệch đồng chỉnh hai đầu sợi và độ
chắc chắn của mối hàn.
Sự khác biệt vật lý giữa hai sợi dẫn đến tổn hao mối hàn gọi là tổn hao bên
trong. Sự khác biệt liên quan đến sợi bao gồm sự biến đổi đường kính lõi, độ méo
diện tích lõi và lệch tâm giữa lõi và vỏ của mỗi sợi. Các tổn hao ngoài phụ thuộc
vào các sợi được chuẩn bị tốt đến đâu trước khi hàn. Các yếu tố ở đây bao gồm lệch
đồng chỉnh hai đầu sợi, độ phẳng nhẵn và độ sạch đầu sợi, kĩ năng của người hàn
nối. Khi kết nối sợi được thực hiện phù hợp bằng việc sử dụng thiết bị hàn chất
lượng cao, tổn hao mối hàn tổng thường cỡ 0,05 đến 0,1 dB cho hàn nóng chảy và
khoảng 0,5 dB cho mối hàn cơ khí.
Các mối hàn nóng chảy được thực hiện bằng cách gắn nhiệt các đầu sợi đã
được chuẩn bị cẩn thận. Việc gắn kết này được thực hiện hoặc bằng một xung hồ
quang điện hoặc xung laser do đó các đầu sợi bị nóng chảy và gắn kết với nhau. Kỹ
thuật này có thể tạo ra các tổn hao mối nối thấp (thường trung bình nhỏ hơn 0,1
dB). Một vài nhà sản xuất thiết bị đã phát triển các thiết bị hàn nối xách tay nhỏ gọn
cho lắp đặt hệ thống PON. Hình 3-27 cho thấy ví dụ của thiết bị cầm tay gọn nhẹ
dùng nguồn pin hoặc nguồn 12V bên ngoài. Sau khi hàn xong các mối hàn được
bảo vệ bằng ống gia nhiệt trước khi đặt trong hộp măng xông bảo vệ.

95
Hình 3-27 Thiết bị hàn sợi nóng chảy cầm tay

3.4 Bộ thu phát PON


Trong mạng PON, bộ thu phát là thành phần có ý nghĩa quan trọng quyết
định chi phí của toàn bộ hệ thống. Với hoạt động song hướng trên một sợi quang
cùng với kiểu truyền dẫn khác nhau giữa hướng lên và hướng xuống sẽ đặt ra các
yêu cầu khác nhau đối với các bộ thu phát tại OLT và ONU.

3.4.1 Chế độ truyền dẫn kiểu burst


Trong hệ thống TDM-PON, OLT ghép đan xen các khung chỉ định cho các
ONU khác nhau như một luồng tín hiệu liên tục và phát quảng bá tới tất cả các
ONU. Mỗi ONU sẽ tách khung của nó dựa vào địa chỉ tiêu đề. Tuy nhiên truyền dẫn
theo hướng lên trở nên thách thức hơn, một OLT thu thập tất cả các lưu lượng
hướng lên từ nhiều ONU trên cùng kênh bước sóng. Để tránh xung đột dữ liệu giữa
các ONU thì lưu lượng hướng lên được quản lý bởi chế độ TDMA. OLT sẽ cấp phát
các khe thời gian truyền dẫn, tức cổng truyền dẫn (Gate) cho mỗi ONU. Khi một
ONU thu được khung Gate, ONU đó sẽ phát các khung MAC của nó với tốc độ
định sẵn trong suốt các khe thời gian được cấp phát. Toàn bộ hệ thống được đồng
bộ hóa, do đó dữ liệu từ các ONU khác nhau sẽ không giao thoa với nhau. Như một
kết quả, OLT luôn thu một luồng gói tin dạng burst được tách biệt bởi khoảng thời
gian bảo vệ mà trong suốt thời gian đó không có tín hiệu được phát bởi bất cứ ONU
nào như mô tả trong hình 3-28. Chế độ truyền dẫn hướng lên hoạt động theo chế độ
kiểu burst.

96
.

Hình 3-28 Hoạt động truyền dẫn kiểu burst hướng lên

a. Bộ thu kiểu burst


Trong TDM-PON, đặc tính hoạt động của bộ thu quang OLT khác nhiều so
với bộ thu quang thông thường. Điều này sinh ra là do biên độ và pha của các gói
thông tin thu được trong các khe thời gian liên tiếp từ các vị trí người dùng khác
nhau có thể biến đổi rất lớn từ gói này sang gói khác. Như minh họa trong hình 3-
29, điều này là chủ yếu vì các biến đổi khoảng cách lớn từ CO của các thuê bao.
Trong một trường hợp, nếu khách hàng gần nhất và xa nhất được gắn với một bộ
chia tách công suất cách nhau 20 km và nếu suy hao sợi quang là 0,5 dB/km, thì sẽ
có một sự khác biệt 10 dB trong biên độ tín hiệu tới OLT từ hai khách hàng này nếu
cả hai có cùng mức phát laser hướng. Nếu có thêm bộ chia tách công suất trong
tuyến truyền dẫn tới một trong các ONU thì độ lệch mức tín hiệu tới OLT có thể
biến đổi lên tới 20 dB. Chú ý rằng các biến đổi biên độ như vậy chỉ xảy ra tại OLT
vì tuyến hướng xuống từ một OLT tới một ONU là một tuyến điểm – điểm.
Hình 3-30 cho thấy hậu quả của ảnh hưởng này khi các mức mẫu tín hiệu
quang có thể đi đến OLT biến đổi biên độ từ gói này sang gói khác phụ thuộc
khoảng cách ONU với CO. Vì các bộ thu thông thường không thể đối phó tức thời
với sự thay đổi về biên độ tín hiệu và đồng chỉnh pha đồng hồ một cách nhanh
chóng, nên bộ thu kiểu burst cần được sử dụng tại OLT. Các bộ thu này có thể
nhanh chóng tách ngưỡng quyết định và xác định pha tín hiệu từ một tập các bit
mào đầu đặt tại điểm bắt đầu của mỗi burst gói tin. Tuy nhiên giải pháp này sinh ra
một mức thiệt thòi công suất độ nhạy bộ thu lên tới 3 dB.

97
Hình 3-29 Sự biến đổi khoảng cách khác nhau của các khách hàng tính từ CO

Các yêu cầu quan trọng của một bộ thu kiểu burst là độ nhạy cao, dải động
rộng và thời gian đáp ứng nhanh. Độ nhạy là quan trọng vì liên quan đến quỹ công
suất quang nên việc cải thiện độ nhạy có thể tăng tỉ lệ tách hay số lượng thuê bao.
Một dải động rộng là cần thiết cho khoảng cách mạng dài để thích ứng với những
người dùng ở vị trí sát và cách xa bộ chia tách. Việc sử dụng phương pháp ghép AC
thông thường là không thể trong một bộ thu kiểu burst vì điện tích dư trong tụ điện
ghép cặp theo sau bất kì burst dữ liệu cụ thể nào không thể phóng đủ nhanh để
không ảnh hưởng đến điều kiện ban đầu của burst tiếp theo. Bộ thu kiểu burst do đó
đòi hỏi mạch bổ sung để thích ứng hoạt động ghép cặp dc.

Hình 3-30 Sự thay đổi các mức tín hiệu quang từ các ONU đi tới OLT.

b. Bộ phát kiểu burst


Trong các hệ thông thông tin quang thông thường, một laser trong bộ phát
thường được định thiên ban đầu cỡ dòng ngưỡng để cho phép đầu ra quang được
bật nhanh chóng mà không có méo tín hiệu quang khi có tín hiệu điện kích thích.
Như vậy, nhìn chung tỉ lệ đầu ra quang tại điểm định thiên với đầu ra của mức bit 1
là khoảng 0,1 (tức mức đầu ra định thiên thấp hơn 10 dB so với mức tín hiệu). Kiểu
định thiên ban đầu này không thể thực hiện đối với laser sử dụng bởi ONU trong
PON. Đối với trường hợp này, trong chiều hướng lên, không có mức tín hiệu có thể

98
được phát bởi laser ONU ngoại trừ trong suốt khe thời gian mà ONU được phép
truyền phát. Điều này có nghĩa là laser cần phải tắt hoàn toàn khi không phát dữ
liệu. Nếu không làm điều này thì khi đó như là kết quả của bản chất kết hợp công
suất của bộ chia tách theo hướng lên, một phần công suất dư từ mỗi ONU sẽ được
thu bởi OLT trong mỗi khe thời gian. Hiệu ứng này sẽ được cộng tích lũy nền tạp
âm trong bộ thu OLT tới mức không thể chấp nhận được.
Trong một PON, mức công suất đầu ra ở trạng thái trống cần ít nhất thấp hơn
mức công suất phát ra xung bit 1 từ 20 đến 30 dB. Vì laser mất một thời gian ngắn
để ổn định nếu nó được bật tức thì từ trạng thái tắt, nên các chuẩn PON khác nhau
cho phép một khe thời gian cỡ vài bit trước một burst dữ liệu để laser chuyển tiếp
đến trạng thái định thiên ban đầu và ổn định mức công suất đầu ra. Thêm nữa, một
thời gian 1 bit được phép tại điểm cuối burst truyền phát để cho phép laser có thời
gian để tắt. Điều này được thực hiện do đó laser bị tắt đầu ra vì dòng đuôi dư không
giao thoa với burst gói tin tiếp theo từ một ONU khác. Do vậy, mạch bộ phát ONU
cần được thiết kế để thích hợp với các bộ kích thích laser kiểu burst.
c. Chế độ định thời trong truyền dẫn kiểu burst
Truyền dẫn kiểu burst trong chiều lên hệ thống PON đặt ra các yêu cầu định
thời nghiêm ngặt lên cả hai ONU và OLT. Hình 3-31 cung cấp phác thảo các định
nghĩa định thời cho truyền dẫn kiểu burst hướng lên tại lớp vật lý từ một bộ phát
ONU tới bộ thu OLT.

Hình 3-31 Các định nghĩa định thời kiểu burst lớp vật lý. TON – Thời gian bật Tx; TOFF –
Thời gian tắt Tx; TDSR – Thời gian phục hồi độ nhạy động Rx; TLR – Thời gian khôi phục
mức thu; TCR - Thời gian khôi phục đồng hồ Rx; TDL – Thời gian khử bộ giới hạn Rx.

Đa truy nhập hướng lên và đặc tính kiểu burst yêu cầu các bộ phát ONU phải
phát các tín hiệu gói được tạo cổng thời gian trong các khe thời gian cấp phát được
gán bởi lớp MAC. Điều này có nghĩa là các mức công suất laser và tỉ lệ phân biệt
phải được ổn định trong một thời gian ngắn và sau đó duy trì không đổi trước khi
khe thời gian kết thúc. Trong suốt các khe thời gian được cấp phát cho các ONU

99
khác, một bộ phát ONU cần đảm bảo tắt hoàn toàn và không được gửi ánh sáng
hướng lên hay thậm chí tạp âm mức thấp. Nói cách khác điều này sẽ tạo ra xuyên
âm và làm xáo trộn các dịch vụ hướng lên đang hoạt động. Điều này đòi hỏi chuyển
mạch bộ phát ONU phải nhanh, cái thường trong khoảng thời gian lên và xuống nhỏ
hơn ns sau khi bật nguồn hoặc tắt nguồn hoặc lần đầu kết nối với mạng.
Như đề cập ở trên, bộ thu OLT cũng phải có đáp ứng nhanh đối với các biến
đổi biên độ và thời gian ổn định ngắn, tức một hoạt động kiểu burst để khôi phục
nhanh chóng tín hiệu dạng burst. Tùy theo các chuẩn TDM-PON khác nhau, chúng
sẽ xác định các tham số định thời hoạt động kiểu burst cho phù hợp. Khoảng thời
gian bảo vệ giữa hai khe thời gian liên tiếp được xác định đủ lớn để đảm bảo các
hoạt động bật tắt laser tại bộ phát ONU và phục hồi bộ thu OLT không gây ra xuyên
âm tại OLT.

3.4.2 Các công nghệ thu phát


Các bộ thu phát quang được phân loại theo bước sóng, tốc độ, khoảng cách,
kiểu đóng gói, các giao diện điện và quang,.v.v. Các công nghệ thu phát quan trọng
quen thuộc dựa trên các thành phần, chip quang điện tử và công nghệ đóng gói đồng
trục. Chi phí của các bộ thu phát chính là một trong các rào cản chính để triển khai
số lượng lớn.
Các bộ thu phát PON là những thành phần linh kiện hai chiều sử dụng các
bước sóng khác nhau để phát và thu các tín hiệu giữa một OLT tại CO và các ONU
tại người dùng đầu cuối. Hiện tại có hai kiểu bộ thu phát tiêu chuẩn: bộ thu phát
song công (diplexer) và bộ thu phát tam công (triplexer). Hình 3-32 cho thấy một số
bộ thu phát quang sử dụng trong PON. Đối với các bộ thu phát song công, các bước
sóng được chỉ định phù hợp với tiêu chuẩn công nghiệp, 1310 nm cho hướng lên và
1490 nm cho hướng xuống. Đối với các bộ thu phát tam công, bước sóng 1550 nm
được cấp phát cho tín hiệu xếp chồng video tương tự quảng bá theo hướng xuống.
Nó cũng có thể rằng các tín hiệu video số được mang trên bước sóng hướng xuống
1490 nm nhờ sử dụng các công nghệ truyền video qua IP.

100
Hình 3-32 Các kiểu bộ thu phát sử dụng trong PON

Để triển khai nhanh chóng FTTH, nó rất quan trọng để giảm giá thành các bộ
thu phát quang. Đặc biệt, chi phí toàn bộ hệ thống PON bị tính trọng số nhiều hơn
về phía ONU vì chi phí OLT được chia sẻ giữa số lượng người dùng FTTH. Do đó
bộ thu phát ONU cần là mục tiêu chính để giảm chi phí bất cứ lúc nào có thể. Tóm
lại, các thách thức công nghệ trong các bộ thu phát PON bao gồm:
- OLT tại CO có độ nhạy cao và công suất phát quang cao để bù các tổn
hao gây ra bởi bộ chia tách quang và sợi truyền dẫn.
- Các công nghệ truyền dẫn quang kiểu burst cho tuyến hướng lên.
- Đóng gói hiệu quả chi phí các linh kiện quang.
- Tích hợp nhiều hơn các chức năng số và tương tự vào một IC đơn.
Hình 3-33 mô tả các khối thành phần chức năng của các bộ thu phát PON
theo dạng chipset lớp vật lý cho cả hai kiểu hoạt động liên tục và kiểu burst. Đây
cũng là nền tảng của các bộ phát, bộ thu và các phân hệ PON khác nhau. Phía ONU
bao gồm một bộ thu hướng xuống (Rx) và một bộ phát hướng lên (Tx), trong khi
phía OLT bao gồm một Tx hướng xuống và một Rx hướng lên. Tx hướng lên chứa
một bộ kích thích laser BM (BM-LDD) và một laser F-P dạng tổ hợp quang phát
TOSA. Rx hướng lên chứa một PIN hoặc APD/TIA trong định dạng tổ hợp quang
thu ROSA, một bộ khuếch đại giới hạn (khuếch đại sau) và khối đồng hồ/ khôi phục
dữ liệu kiểu burst (BM-CDR). Đối với cả hai ONU và OLT, các phần bộ phát và bộ
thu được kết hợp trên một sợi quang thông qua một bộ ghép WDM.
Ba chip kiểu burst được nhận diện như là những thành phần then chốt cho
truyền dẫn PON kiểu burst hướng lên: một chip BM-LDD có điều khiển mức công
suất nhanh và chính xác, chip PIN hay APD/TIA với khuếch đại sau có độ nhạy cao
và dải động rộng, và một chip BM-CDR cho khôi phục tín hiệu dữ liệu thu được

101
nhanh. Các chipset PON này là những thành phần rất quan trong và nhiều thách
thức kỹ thuật để đạt được hiệu năng hệ thống tối ưu.
Xét sơ đồ hình 3-33 theo một cách khác, các khối bộ thu phát có thể được
nhóm thành hai khối chính, một là khối quang và khối khác là khối điện. Khối
quang bao gồm hai PD và LD kiểu TO-CAN, một bộ lọc WDM và một vỏ kim loại,
được gọi là tổ hợp quang song hướng (BOSA) vì nó quen thuộc các linh kiện này
được tổ hợp và được kiểm tra cùng nhau. Bộ lọc WDM được nghiêng 45o so với
chùm ánh sáng tới, do đó nó có thể tách biệt (hoặc kết hợp) các tín hiệu hướng lên
và hướng xuống (1490 hoặc 1550 nm). Khối điện tử bao gồm các IC tương tự. Có
xu hướng tích hợp bộ khuếch đại giới hạn liên tục với bộ kích thích laser kiểu burst
trên một IC đơn. Tích hợp mức cao sẽ kết hợp các chức năng CDR và SerDes (nối
tiếp/song song) với bộ xử lý MAC PON.

Hình 3-33 Sơ đồ khối chức năng của bộ thu phát PON trên hai hướng.

Các bộ thu phát PON thường sử dụng kiểu dạng module SFF và SFP MSA,
các kiểu dạng module khác như GBIC và các thiết kế bộ ghép tam công cũng có thể
được xem xét. Từ quan điểm tái sử dụng và tương thích hệ thống TDM-PON, các
module thu phát có thể tách thành các khối gồm BOSA, tổ hợp điện (ESA), vỏ bọc
và quản lý nhiệt. Module BOSA phải thỏa mãn công suất phát quang, độ nhạy bộ
thu, v.v. Các xem xét về ESA bao gồm hiệu năng kích thích PMD kiểu burst, tín
hiệu điều khiển hệ thống có thể chấp nhận được, dải động và độ nhạy bộ thu lớn.
Các hiệu ứng xuyên âm giữa mạch bộ phát và bộ thu cũng cần được kiểm tra. Một
điểm quan trọng nhất là các mục đo kiểm đặc biệt như thời gian bật/tắt bộ phát và
thời gian ổn định bộ thu. Nó có tầm quan trọng đối với các nhà thiết kế hệ thống để
duy trì hiệu năng hệ thống và sử dụng khả năng xử lý dữ liệu hệ thống. Về mặt cơ
học, nhiều vấn đề quan trọng cần được xem xét như ảnh hưởng độ ẩm, nhiệt độ,
EMI, .v.v.

102
Hình 3-34 là một sơ đồ khối mẫu của module thu phát song công cho ONU.
Vì module thu phát ONU được kết hợp in thiết bị ONT đặt tại nhà thuê bao, nên nó
được thiết kế phù hợp với tiêu chuẩn SFF rẻ tiền hơn. Dây nhảy kiểu LC hay SC
thược được lựa chọn như là kết nối connector quang. Và module cắm vào connector
2x5 hoặc 2x7 chân cho kết nối điện ở board mạch hoạt động từ một nguồn 3,3 V ±
5%. Module ONU trong hình 3-34 bao gồm một case, một ổ cắm connector LC
hoặc SC và một board mạch in, một OSA và một mạch kích thích. Tổ hợp OSA là
hệ thống vi quang chứa một bộ lọc quang thông dải, một diode tách quang (PD),
một IC bộ khuếch đại truyền trở kháng (TIA) phía bộ thu, và một laser F-P, một PD
giám sát phía bộ phát. Một WDM ghép bộ phát và thu lên cùng một sợi. Việc sử
dụng IC được thiết kế riêng tích hợp nhiều thành phần để giảm số lượng có thể cho
phép mức công suất tiêu thụ của module thấp hơn chỉ cỡ 0,8 W. Hình 3-35 cho thấy
sơ đồ khối mẫu của module thu phát tam công tại ONU với việc có thêm một bộ thu
tại 1550 nm cho tín hiệu video tương tự.

Hình 3-34 Module thu phát song công tại ONU.

103
Hình 3-35 Module thu phát tam công tại ONU.

Ở phía OLT, module thu phát cần sử dụng laser DFB có bước sóng đơn
mode 1490 nm và công suất phát lớn. Vì lí do này, trong OSA đóng gói TO-CAN
được lựa chọn với thiết kế hiệu suất ghép nối cao nhờ sử dụng thấu kính phi cầu.
Phía bộ thu có cùng cấu trúc như OSA ở ONU, có một sợi quang với bộ lọc WDM,
PD thu và bộ khếch đại tập hợp trong một vỏ bao nhựa.

3.5 Tổng kết chương


Mạng truy nhập quang thụ động có nhiều ưu điểm nên được triển khai áp
dụng nhanh chóng. Chương này đã đề cập đến những vấn đề cơ bản nhất của mạng
PON bao gồm kiến trúc, mô hình hoạt động truyền dẫn trên mạng. Các chức năng
của các thành phần chính bao gồm từ các thành phần tích cực đến các thành phần
thu động cũng được trình bày trong chương này.

Câu hỏi/bài tập chương 3


3-1/ Cho coupler sợi quang 2x2. Giả sử rằng coupler không có suy hao trội, công
suất P2 được ghép sang sợi thứ hai trên độ dài x có thể được biểu diễn bởi biểu thức
P2 = P0sin2kx, trong đó k là hệ số ghép cặp mô tả tương tác trường điện từ trong hai
sợi.
a/ Hãy xác định biểu thức công suất P1 được ghép sang sợi thứ nhất. Tìm quan hệ
pha của hai tín hiệu P1 và P2?

104
b/ Cho tại bước sóng 1310 nm ta có k = /24,8 mm. Tính tỉ lệ ghép cặp của coupler
tại x = 10 mm.
3-2/ Cho một coupler sợi quang 2x2 có tỉ lệ tách 40:60, biết tổn ha oxen là 2,7 dB
cho kênh 60% và 4,7 dB cho kênh 40%.

a/ Nếu công suất đầu vào bằng P0 = 200 W, hãy tìm các mức công suất đầu ra P1
và P2.
b/ Xác định tổn hao trội của coupler.
c/ Từ các giá trị P1 và P2 tính đươc, hãy kiểm tra lại tỉ lệ tách 40:60.
3-3/ Một cách tử truyền qua bậc 1 được chế tạo có tần số rãnh là 1100 rãnh/mm.
a/ Hãy xác định dạng phương trình cách tử cho cách tử truyền qua này.
b/ Nếu góc của chùm sáng tới là 30o, hãy xác định các góc nhiễu xạ cho các bước
sóng 1530, 1540, 1550 và 1560 nm.

105
Chương 4 Các công nghệ TDM-PON

Hiện nay công nghệ TDM-PON đã được phát triển bởi một số tổ chức khác
nhau. Điều này đã dẫn tới các chuẩn công nghệ khác nhau khi triển khai. Chương
này sẽ trình bày về các chuẩn công nghệ TDM-PON hiện đã được sử dụng rộng rãi
bao gồm BPON, GPON và EPON. Các đặc đính kỹ thuật và hoạt động của mỗi
chuẩn công nghệ này cũng sẽ được trình bày chi tiết trong chương này.

4.1 Giới thiệu


Vào đầu những năm 1990, tổ chức FSAN đã nghiên cứu tính khả thi việc mở
rộng dịch vụ truy nhập quang sợi tới người dùng đầu cuối. ATM PON hay APON
đã được đề xuất chính thức năm 1995 bởi FSAN để cung cấp băng rộng đa dịch vụ
cho các khách hàng doanh nghiệp. ATM (đa dịch vụ) và PON (rẻ tiền) đã thể hiện
sự pha trộn tốt nhất để đạt được mục tiêu đặt ra. Tuy nhiên, ATM không tồn tại kéo
dài như mong đợi để trở thành giao thức mạng toàn cầu; thay vào đó IP và Ethernet
nhanh chóng phát triển thay thế. Như là một kết quả nhóm nghiên cứu 15 của ITU-
T (SG15) đã cân nhắc lựa chọn tên Broadband PON (BPON) để tránh tên liên hệ
đến công nghệ ATM. Do đó, BPON về bản chất vẫn dựa trên kỹ thuật mạng ATM.
BPON xác định một tốc độ đường truyền là nguyên lần 8 kHz, tốc độ lặp khung cơ
bản của SONET/SDH. Một OLT phân phối đồng hồ 8 kHz từ OLT tới một ONU để
hỗ trợ các dịch vụ TDM như các ứng dụng thoại dễ dàng hơn nhiều. Chuẩn BPON
G.983.1 của ITU đã được ban hành đầu tiên năm 1998 và được định nghĩa lại năm
2005 để bổ sung một tùy chọn tốc độ đường truyền cao hơn.
Vì cấu trúc cơ bản dựa trên ATM nên các ONU và OLT của BPON được yêu
cầu thực hiện các chức năng chuyển mạch ATM. ITU-T G.983 thực sự xác định các
OLT và ONU như một tổng thể để hoạt động như các chuyển mạch tuyến ảo (VP)
và kết nối ảo (VC). Hơn nữa, một sự chuyển đổi bổ sung giữa ATM và Ethernet cần
được thực hiện tại UNI ONU và SNI OLT. Sự phức tạp này làm thiết bị BPON
không thuận lợi về chi phí và cản trở sự tăng trưởng của hệ thống BPON trong lúc
thị trường băng rộng đang phát triển nhanh. Gigabit-capable PON (GPON) được
phát triển để thành công nghệ PON thế hệ kế tiếp được phát triển bởi ITU-T sau
BPON. GPON được xác định để có thể đối phó tốt hơn với sự thay đổi hướng tới

106
các công nghệ IP và Ethernet và đáp ứng nhu cầu băng thông tăng nhanh. Chuẩn
GPON đã được ban hành đầu tiên bởi chuẩn ITU-T G.984 năm 2003.
Cùng thời gian đó, chuẩn EPON đã được phát triển độc lập bởi tổ chức tiêu
chuẩn IEEE để mở rộng MAC Ethernet LAN cơ bản để hỗ trợ các lớp vật lý truy
nhập sợi quang mới. Công việc của EPON đã được bắt đầu tháng 3 2001 bởi nhóm
nghiên cứu FEM IEEE 802.3ah và hoàn thành vào tháng 6 2004. Bảng 3.1 tóm tắt
các tham số hoạt động cho các tiêu chuẩn BPON, GPON và EPON.
Bảng 4.1 Các tham số hoạt động của các chuẩn BPON, GPON và EPON

4.2 Công nghệ BPON


Các tiêu chuẩn công nghệ BPON được dựa trên khuyến nghị G.983 của ITU-
T xác định ATM như là giao thức báo hiệu và truyền tải. Mặc dù BPON hiện nay
không còn được triển khai nhưng các tiêu chuẩn kỹ thuật của BPON là nền tảng để
phát triển các chuẩn PON khác.

4.2.1 Kiến trúc BPON


Hình 4-1 cho thấy kiến trúc hoạt động cơ bản của BPON. Kiến trúc này cũng
tuân theo kiến trúc cơ bản của TDM-PON đã trình bày ở chương 3 với khoảng cách
truyền dẫn tối đa 20 km giữa OLT và một ONU/ONT.
Trong BPON truyền dẫn hướng xuống sử dụng bước sóng 1490 nm cho lưu
lượng thoại và dữ liệu kết hợp, cái được đóng gói thành các tế bào ATM bởi thiết bị
chuyển mạch tại OLT. Lưu lượng thoại và dữ liệu kết hợp được phát hướng lên bởi

107
ONU sử dụng bước sóng 1310 nm trên cùng sợi hướng xuống. Như vậy, lưu lượng
hướng xuống được truyền dẫn sử dụng ghép kênh TDM các tế bào ATM, còn lưu
lượng hướng lên cũng ở dạng tế bào ATM được truyền dẫn bằng sử dụng giao thức
TDMA. Cửa sổ băng cỡ 100 nm (±50 nm) đã được lựa chọn để cho băng tần sóng
đủ lớn sau khi xem xét ảnh hưởng tán sắc sợi quang và sử dụng các thành phần laser
F-P rẻ tiền cho tín hiệu hướng lên. Việc kết hợp và phân tách các kênh bước sóng
tại OLT và ONU được thực hiện bởi các bộ ghép WDM như mô tả ở chơng 3.
Trong một triển khai thực tế, các bộ ghép này có thể được đặt trong cùng giá thiết bị
mà OLT lắp đặt hoặc có thể ở trên giá phối dây quang (FDF) cái hoạt động như
điểm kết cuối các sợi quang trong cáp gốc đi vào CO từ hệ thống cáp ngoại vi.

Hình 4-1 Kiến trúc cơ bản của BPON.

Bảng 4.2 Các cặp tốc độ dữ liệu hướng xuống / hướng lên được phép của BPON

Tiêu chuẩn ITU-T G.983.1 ban đầu quy định tốc độ dữ liệu cho phép được
hỗ trợ là 155,52 Mb/s (OC-3) và 622,08 Mbit/s (OC-12) theo chiều lên hoặc chiều
xuống. Sau đó một tốc độ truyền dẫn 1244,16 Mbit/s (OC-24) được bổ sung để đáp
ứng nhu cầu băng thông đang tăng. BPON để cho nhà sản xuất thiết bị chọn lựa tổ

108
hợp tốc độ hướng xuống và hướng lên cụ thể và bảng 4.2 cho thấy các cặp tốc độ dữ
liệu hướng xuống/hướng lên được phép của BPON.
Một bước sóng 1550 nm tách biệt được sử dụng cho truyền dẫn hướng xuống
lưu lượng video từ OLT. Ứng dụng chính cho lưu lượng một chiều này là phân phối
video. Ứng dụng này cho phép người xem sử dụng một set-top-box để lựa chọn bất
kì một trong số lượng lớn kênh truyền hình nào. Lưu lượng video được gửi độc lập
với lưu lượng thoại và dữ liệu được đóng gói ATM. Các tín hiệu video này có thể
hoặc ở định dạng tương tự hoặc ở dạng số, và cả hai có thể được gửi đồng thời như
các kênh video độc lập trong các băng tần khác nhau. Thêm nữa, cả hai kênh truyền
hình độ nét tiêu chuẩn (SD) và độ nét cao (HD) có thể được gửi đồng thời trên cùng
sợi tại bước sóng 1550 nm.

Hình 4-2 Thiết bị OLT có thể quản lý 22 hệ thống BPON đồng thời.

Trong một mạng thực tế, một thiết bị OLT có thể quản lý một số hệ thống
PON riêng biệt đồng thời. Hình 4-2 mô tả điều này cho một OLT điều khiển 22
BPON. OLT này có thể được sử dụng trong các ứng dụng FTTx cung cấp các dịch
vụ tới nhà riêng, cụm dân cư, chung cư, văn phòng và các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Tối đa lên tới 32 người dùng đầu cuối có thể chia sẻ mỗi hệ thống BPON kết nối
với OLT. Như vậy nó có thể phân phối dịch vụ triple-play tới hơn 700 khách hàng.
Kích thước của giá thiết bị OLT tiêu chuẩn cho phép 4 thiết bị lắp vừa trong một giá
2 m, như vậy cho phép phân phối dịch vụ thoại, video và dữ liệu tới 2816 khách
hàng trên một khung thiết bị. Thêm nữa, một OLT thường kết hợp các mức cao nhất
của dự phòng lớp sóng mang được xác định cho chuyển mạch bảo vệ trong thiết bị
SONET/SDH khi có sự cố hỏng card đường truyền.

4.2.2 Đặc tính hoạt động của BPON


a. Cơ sở về ATM

109
Mode truyền không đồng bộ (ATM) là một công nghệ ghép kênh và chuyển
mạch hiệu suất cao cái sử dụng các gói có độ dài cố định để mang các kiểu lưu
lượng khác nhau. Chế độ ATM định dạng tất cả thông tin thành các gói độ dài cố
định (được gọi là các tế bào) bao gồm 48 byte tải trọng và 5 byte tiêu đề như mô tả
ở hình 4-3. Chức năng của tiêu đề 5-byte là để cho phép chuyển mạch tốc độ cao
hiệu quả. Nó chứa thông tin kiểu tải trọng, nhận dạng kênh ảo và chức năng kiểm
tra lỗi tiêu đề.

Hình 4-3 Định dạng tế bào ATM.

Ưu điểm của việc sử dụng kích thước tế bào cố định là để đảm bảo rằng
thông tin nhạy cảm thời gian như các dịch vụ thoại hoặc video tới đích đúng thời
điểm. Vì các gói thoại và video thường nhỏ so với các gói dữ liệu, nên việc trộn hai
kiểu lưu lượng sử dụng các kỹ thuật ghép kênh thông thường có thể gây ra trễ
không thể chấp nhận được trong lưu lượng nhạy cảm thời gian. Hình 4-4a cho một
ví dụ về điều này khi các gói thoại bị trễ lớn vì gói dữ liệu dài gây ra. Khi sử dụng
ATM, cả hai gói thoại và dữ liệu được phân chia thành các tế bào độ dài bằng nhau
như mô tả trong hình 4-4b, không có luồng tế bào nào trải qua trễ lớn. Hơn nữa, vì
ATM sử dụng các tuyến truyền dẫn tốc độ cao, các tế bào nhỏ 53 byte tới các đích
tương ứng trong cùng luồng liên tục như chúng tới tại bộ ghép, mặc dù đã được
ghép xen với các tế bào từ luồng lưu lượng khác. Thiết bị ATM tại đích tái tập hợp
các tải trọng tế bào thành các định dạng gói dữ liệu gốc ban đầu. Điều này muốn nói
rằng một mạng ATM có thể mang cả hai lưu lượng nhạy cảm thời gian như video
thời gian thực, và lưu lượng dữ liệu không nhạy về thời gian mà không có bất kì
người dùng nào cảm nhận được quá trình phân mảnh và tái hợp.

110
Hình 4-4 (a) Ghép kênh các gói kích thước khác nhau có thể gây trễ các gói nhỏ; (b) Ghép
các tế bào ATM loại bỏ trễ gây ra bởi các gói dài.

Một đặc tính quan trọng của ATM là nó có thể truyền một tập đa dạng các
kiểu lưu lượng đồng thời, bao gồm cả hai lưu lượng thời gian thực và không thời
gian thực. Các dịch vụ thời gian thực cần phân phối thông tin theo kiểu đúng thời
gian và như một luồng trơn tru liên tục. Bất kì trễ nào lớn hơn vài phần mười của
một giây hoặc bất kì khoảng trống do tổn hao trong luồng thông tin sẽ gây ra sự suy
giảm có nghĩa về chất lượng dịch vụ. Các dịch vụ không thời gian thực được sử
dụng cho những ứng dụng không có ràng buộc chặt chẽ về trễ hoặc biến động trễ, ví
dụ như truyền dữ liệu và ảnh tĩnh, đặt chỗ máy bay và các giao dịch ngân hàng.

Hình 4-5 PCR, SCR, và MCR.

Giao thức ATM có một tập thuộc tính QoS cái liên quan đến hiệu năng của
một kết nối mạng. Một trong số các thuộc tính này là định hướng người dùng, còn
lại các cái khác liên quan đến mạng. Các thuộc tính định hướng người dùng xác
định tốc độ tại đó một người dùng mong muốn gửi dữ liệu. Các ràng buộc tốc độ

111
này được thiết lập trong một hợp đồng dịch vụ và được xác nhận giữa người dùng
và mạng tại thời điểm thiết lập kết nối. Chúng bao gồm các tham số cơ bản sau:
− PCR: Xác định tốc độ tế bào cực đại tại đó một người dùng được phép để
truyền dẫn theo các quy tắc hợp đồng dịch vụ.
− SCR: Tốc độ tế bào trung bình được phép được đo trên một chu kỳ thời gian
dài.
− MCR: Tốc độ truyền dẫn đảm bảo cho một người dùng bởi nhà cung cấp
dịch vụ mà không quan tâm đến trạng thái tắc nghẽn mạng.
Các thuộc tính liên quan đến mạng xác định các đặc tính của mạng. Các
tham số quan trọng bao gồm như sau:
− Tỉ lệ mất tế bào (CLR): phần trăm số tế bào không được truyền tới đích. Các
tế bào này có thể bị mất mát hoặc được truyền tới quá trễ được coi như bị
mất. Sự mất mát trong mạng có thể vì tắc nghẽn hoặc do tràn bộ đệm.
− Tốc độ lỗi tế bào (CER): tỉ lệ các tế bào được truyền đi bị lỗi.
− Trễ truyền tế bào (CTD): trễ trải qua bởi một tế bào giữa thời điểm nó đi vào
mạng tại nguồn và thời điểm nó ra khỏi mạng tại đích. Nó bao gồm các trễ
truyền dẫn, trễ xếp hàng tại các chuyển mạch trung gian khác nhau và thời
gian phục vụ tại các điểm xếp hàng.
− Biến động trễ tế bào (CDV): đo độ lệch thời gian giữa CTD cực đại và cực
tiểu.
Để có thể truyền đồng thời các kiểu lưu lượng đa dạng, tiêu chuẩn ATM định
nghĩa 5 lớp dịch vụ. Hai trong số này liên quan đến các dịch vụ thời gian thực và ba
lớp khác liên quan đến các dịch vụ không yêu cầu thời gian thực. Các lớp dịch vụ
ATM có các đặc tính sau:
- Tốc độ bit không đổi (CBR): CBR cung cấp dịch vụ mức ưu tiên cao
nhất. Lớp dịch vụ này được thiết kế cho các thuê bao cần lượng băng
thông cố định trong suốt thời gian kết nối. CBR hỗ trợ các ứng dụng thời
gian thực như thoại, hội thảo truyền hình, dịch vụ đa phương tiện tương
tác,…
- Tốc độ bit biến đổi thời gian thực (rt-VBR): VBR được sử dụng cho các
nguồn lưu lượng dạng burst cái đòi hỏi các biến động trễ nhỏ. Lớp dịch
vụ này được chỉ định cho các ứng dụng thời gian thực như thoại định

112
dạng gói, video thời gian thực và gần thời gian thực, và dữ liệu nhạy cảm
về thời gian.
- Tốc độ bit biến đổi không thời gian thực (nrt-VBR): kết nối nrt-VBR
tương tự như rt-VBR chỉ khác biệt là mạng không đảm bảo hiệu năng trễ
tế bào. Các ứng dụng điển hình bao gồm dịch vụ chuyển tiếp khung,
audio và video không thời gian thực lưu giữ và chuyển tiếp, các ứng dụng
máy chủ - khách như giao dịch ngân hàng và các hệ thống đặt chỗ.
- Tốc độ khả dụng (ABR): Mạng chỉ đảm bảo phân phối các tế bào tại mức
hoặc dưới MCR. ABR phù hợp cho các ứng dụng như xác nhận thẻ tín
dụng, fax, email, truy nhập Internet và truyền tệp.
- Tốc độ bit không xác định (UBR): Đây là dịch vụ phân phối tế bào kiểu
best-effort. UBR được sử dụng cho cùng kiểu ứng dụng như ABR.
b. Luồng lưu lượng thoại và dữ liệu
OLT trong tổng đài là giao diện giữa mạng nhà cung cấp dịch vụ và các thuê
bao trên BPON. Khi nội dung thông tin trong dạng thoại hay dữ liệu tới OLT từ nhà
mạng, thì OLT gửi thông tin trong dạng các tế bào ATM tới tất cả các ONU trên
BPON sử dụng chế độ TDM. Tùy chọn tốc độ hướng xuống BPON cho trong bảng
4.2. Một cấu trúc khe thời gian và khung đặc biệt được sử dụng để gửi và thu nhận
các tế bào. Như cho thấy trong hình 4-6 cho tốc độ 155,52 Mbit/s, định dạng khung
hướng xuống bao gồm 56 tế bào có độ dài tế bào 53 byte. Có hai kiểu tế bào hướng
xuống. Các tế bào dữ liệu mang thông tin bao gồm dữ liệu người dùng, thông tin
báo hiệu, và thông tin vận hành, quản lý và bảo dưỡng (OAM) ATM. Kiểu thứ hai
là các tế bào OAM lớp vật lý (PLOAM), các tế bào này chịu trách nhiệm cho đồng
bộ hóa, điều khiển lỗi, an ninh, bảo dưỡng và cấp phát băng thông. Một khung
hướng xuống chứa hai tế bào PLOAM, một ở bắt đầu khung và tế bào khác ở giữa,
và 54 tế bào dữ liệu. Vì chỉ 54 trong 56 tế bào mang thông tin nên tốc độ hướng
xuống hiệu dụng là 54/56 x 155,52 Mbit/s = 149,97 Mbit/s. Tại tốc độ truyền dẫn
155,52 Mbit/s độ dài thời gian của khung là 152,67 s. Kích thước khung hướng
xuống sẽ nhân thêm 4 thành 224 tế bào cho tốc độ 622M và thêm 8 thành 448 tế bào
cho tốc độ 1,2G. Hai tốc độ cao hơn này chứa 8 và 16 tế bào PLOAM tương ứng.
Hình 4-6 cũng cho thấy định dạng khung hướng lên ở tốc độ 155M. Trong
trường hợp này có 53 tế bào, mỗi tế bào dài 56 byte. Ba byte bổ sung cho mỗi tế
bào là mào đầu (overhead) để cho OLT có thể lập trình cho các chức năng khác
nhau. Ba byte mào đầu chứa tối thiểu 4 bit thời gian bảo vệ, một preamble và một

113
trường bộ khử giới hạn (delimiter). Thời gian bảo vệ cung cấp một khoảng cách đủ
dài về thời gian giữa các tế bào để ngăn cản xung đột với các tế bào từ các ONU
khác. Thông tin trong trường preamble được sử dụng để tách pha của tế bào ATM
đi tới tương ứng với đồng hồ nội trong OLT và có thể được sử dụng để thu được
đồng bộ bit. Trường bộ khử giới hạn là một mẫu bit duy nhất chỉ ra điểm bắt đầu
của tế bào đi vào và có thể được sử dụng để thực hiện đồng bộ byte. Lưu lượng tế
bào hướng lên cũng chứa các tế bào PLOAM đi từ mỗi ONU. OLT xác định tốc độ
tế bào PLOAM cho mỗi ONU. Tốc độ nhỏ nhất là truyền một tế bào PLOAM cứ
mỗi 100 ms.

Hình 4-6 Khung truyền dẫn BPON (tại 155,52 Mbit/s).

114
Hình 4-7 Định dạng tế bào PLOAM của BPON.

Vì mỗi ONU sử dụng chế độ TDMA để gửi thông tin lên OLT, mỗi ONU
phải được đồng bộ với tất cả các ONU khác. Để thực hiện được điều này OLT sử
dụng quá trình ranging, xác định mỗi ONU cách OLT bao xa. Khi khoảng cách này
được biết, OLT gán một khe thời gian đã được đồng bộ hóa tối ưu trong đó mỗi
ONU có thể phát không có giao thoa với các ONU khác. Điều này được làm thông
qua việc đưa vào thông tin cấp phép truyền dẫn (grant) 1 byte chứa trong các tế bào
PLOAM hướng xuống như ở hình 4-7. Mỗi PLOAM có 27 grant mà bất cứ ONU
nào cũng có thể đọc. Tuy nhiên, mỗi khung chỉ cần 53 grant, cái được sắp xếp vào 2
tế bào PLOAM của khung hướng xuống 155M. Như là kết quả, grant cuối của
PLOAM thứ hai là một grant trống. Trong một trường hợp truyền dẫn bất đối xứng
(vd: 622M hướng xuống và 155M hướng lên), các trường grant của các tế bào
PLOAM 3 đến 8 được điền đầy bằng các grant trống mà một ONU sẽ không sử
dụng. Khi một ONU cần gửi thông tin, nó kiểm tra số grant dữ liệu trong hai tế bào
PLOAM đầu tiên và so sánh với số của chính nó. Nếu khớp nhau thì ONU có thể
gửi thông tin của nó.
c. Bảo vệ các thông tin cấp phép
Một phương pháp kiểm tra độ dư chu trình (CRC) được sử dụng để bảo vệ
tính toàn vẹn của nhóm 7 grant. Một CRC là một mã đa thức dựa trên quá trình chia
nhị thức. Quá trình mã hóa sử dụng một khối bit thông tin và một chuỗi các bit dư
để kiểm tra lỗi cho khối thông tin đó. Đối với tuyến BPON hướng xuống, CRC bảo
vệ một nhóm có 7 grant truyền dẫn trong một tế bào OLOAM. Đa thức sinh của
nhóm là

(4.1)
Một đa thức như vậy có thể bảo vệ lên tới 15 byte và có thể phát hiện lên tới 3 bit
lỗi. Trong tế bào PLOAM thứ hai grant trống thứ bảy cái được thêm vào sáu grant
thực được sử dụng như một phần tính toán CRC cho nhóm đó. Không có sửa lỗi
được thực hiện ở BPON. Do vậy, khi bộ thu có được một CRC không chính xác thì
toàn bộ khối bit thông tin được bỏ qua.

4.2.3 Điều khiển lưu lượng trong BPON


Các thuê bao trên một ONU có một dải rộng nhu cầu về dịch vụ và sử dụng
băng thông. Kết quả là các nhà cung cấp dịch vụ bán cho từng thuê bao một hợp
đồng dịch vụ dựa trên nhu cầu sử dụng mạng của họ. Ví dụ, sự phân chia mức dịch

115
vụ có thể được cung cấp theo mức tăng N x 64 kbit/s. Trong những triển khai PON
ban đầu, băng thông được cấp phát cho một người dùng cụ thể đã được đảm bảo tại
một giá trị cố định. Phương pháp này gây ra lượng băng thông còn lại không sử
dụng lớn vì các thuê bao thường không có thông tin để gửi trong các khe thời gian
được cấp phát. Một phương pháp hiệu quả hơn là để cấp phát băng thông cho người
dùng một cách động phụ thuộc vào nhu cầu cụ thể của họ tại thời điểm xác định.
a. Cấp phát băng thông cố định
Trong kịch bản cấp phát băng thông đơn giản nhất, mức tăng dịch vụ được
bán cho mỗi khách hàng cụ thể là cố định. Cấp phát băng thông cố định này được
biết như là băng thông không thay đổi. Tuy nhiên phương pháp này không phải là
phương pháp sử dụng băng thông hiệu quả. Nếu một thuê bao cụ thể không có
thông tin để gửi trong một số khoảng thời gian thì phần băng thông không sử dụng
đó trên mạng cũng không khả dụng cho các thuê bao khác, những người có thể có
lượng thông tin lớn đang đợi để gửi.
Hình 4-8 mô tả kịch bản này. Xét trường hợp mà mỗi một trong ba ONU cụ
thể trên PON được cấp phát băng thông cố định cỡ 5 Mbit/s, tức mỗi ONU có một
dịch vụ CBR 5 Mbit/s. Giả sử rằng ONU2 có một lượng lớn dữ liệu đang đợi xếp
hàng trong khi ONU3 không có thông tin để gửi. Trong trường hợp này chỉ một
phần nhỏ của băng thông ONU3 được sử dụng còn không sẽ gửi các tế bào trống để
giữ cho tuyến được đồng bộ. Tuy nhiên vì băng thông trên mỗi ONU là cố định nên
ONU2 không thể sử dụng các phần trống của ONU3 để chuyển lưu lượng đang chờ
đợi một cách nhanh hơn. Vì dữ liệu điển hình tới dạng burst nên một phần lớn băng
thông BPON có thể duy trì trạng thái không sử dụng với việc gán băng thông cố
định.

Hình 4-8 Cấp phát băng thông cố định.

b. Cấp phát băng thông động

116
Khi sử dụng một cấp phát băng thông cố định, các bộ đệm bắt đầu được điền
đầy tại một ONU nếu thông tin cần được gửi tới dạng burst. Điều kiện này gây ra
các biến động trễ nhỏ hoặc jitter trong lưu lượng tế bào, cái có thể gây suy giảm
chất lượng tín hiệu. Thêm nữa, khi các bộ đệm đầy, hậu quả nghẽn lưu lượng có thể
gây ra sự loại bỏ tế bào. Việc giảm tối thiểu các ảnh hưởng của jitter và nghẽn lưu
lượng để duy trì chất lượng dịch vụ cao trong một BPON có thể được thực hiện
bằng cấp phát băng thông động theo sự thay đổi yêu cầu truyền dẫn của từng ONU.
Cấp phát băng thông động (DBA) là một phương pháp cho phép tái phân bổ
nhanh chóng băng tần trên PON dựa vào các yêu cầu lưu lượng hiện tại. Quá trình
DBA được điều khiển bởi OLT, cái phát ra các bản tin cấp phép grant cho phép một
ONU truyền phát trong một khe thời gian xác định. Điều khiển lưu lượng hướng lên
được thực hiện bằng việc phân bổ các grant này tới từng container lưu lượng (T-
CONT) là các loại luồng lưu lượng xác định trong một ONU.
Để xác định bao nhiêu grant (tức bao nhiêu băng thông) để gán cho một
ONU, thì OLT cần biết trạng thái lưu lượng của T-CONT liên quan đến ONU đó.
Hai chế độ có thể để làm điều này đó là phương pháp báo cáo trạng thái (status
reporting) và thủ tục giám sát tế bào trống (idle-cell monitoring). Trong phương
pháp báo cáo trạng thái, như một phần của trạng thái lưu lượng của nó, một T-
CONT chỉ ra bao nhiêu gói tin đang đợi trong bộ đệm của nó. Khi OLT thu được
thông tin này, nó có thể tái phân bổ các grant cho các ONU khác nhau tương ứng.
Ngược lại, thủ tục giám sát tế bào trống được thực hiện chỉ tại OLT. Khi một ONT
không có thông tin đợi để truyền tải, dựa trên việc thu được một grant nó sẽ gửi tế
bào trống hướng lên để chi ra rằng bộ đệm của nó là trống. Điều này thông tin cho
OLT biết rằng các grant cho T-CONT đó có thể được gán cho các T-CONT khác.

Hình 4-9 Các loại mức ưu tiên.

Nếu một ONU có hàng đợi dài trong bộ đệm của nó thì OLT có thể gán
nhiều T-CONT cho ONU đó. Thêm nữa, các T-CONT có thể được phân ra thành 5
kiểu khác nhau phụ thuộc vào các tham số hoạt động chỉ ra trong SLA cho một
ONU cụ thể như mức ưu tiên dịch vụ và QoS. Mức ưu tiên dịch vụ được xác định
117
theo băng thông có thể gán và có phạm vi từ mức ưu tiên cao đến thấp như chỉ ra ở
hình 4-9. Băng thông cố định được đảm bảo và không thể điều khiển động. Tuy
nhiên vì nó cố định tại một giá trị không đổi khi có hay không việc liên lạc xảy ra,
nên nó có mức ưu tiên cao nhất. Băng thông đảm bảo cũng được bảo đảm nhưng
được gán động chỉ trong khi liên lạc thực xảy ra. Như vậy nó cũng có mức ưu tiên
cao. Các kiểu băng thông không đảm bảo và băng thông best-effort (tùy biến) được
gán động dưới sự điều khiển của chức năng DBA. Bảng 4.1 tóm tắt các kiểu và các
tham số hoạt động của T-CONT.
Bảng 4.3

Container lưu lượng Băng thông có thể Đặc tính


chuyển nhượng

T-CONT 1 Cố định Băng thông được đảm bảo cho các ứng
dụng nhạy cảm về thời gian; được quy
định trong G.983.1

T-CONT 2 Đảm bảo Băng thông được đảm bảo cho các ứng
dụng không nhạy cảm về thời gian

T-CONT 3 Không đảm bảo Băng thông được đảm bảo nhỏ nhất +
băng thông không được đảm bảo dư thừa
bổ sung thêm cho các ứng dụng không
nhạy cảm về thời gian.

T-CONT 4 Nỗ lực tốt nhất Băng thông dư thừa được gán động
không phụ thuộc băng thông đảm bảo

T-CONT 5 Tất cả Hỗn hợp tất cả các loại dịch vụ

4.3 Công nghệ GPON


Do nhu cầu sử dụng tốc độ cao hơn trong mạng truy nhập và việc sử dụng
rộng rãi cả hai ATM và Ethernet dẫn tới mong muốn phát triển một mạng PON linh
hoạt có định dạng khung có thể phát các gói có độ dài thay đổi một cách hiệu quả

118
tại tốc độ Gbit/s. Tổ chức FSAN đã bắt đầu nghiên cứu những nỗ lực như vậy từ
tháng 4 2001 và kết quả thu được là bộ khuyến nghị ITU-T G.984 về GPON.

4.3.1 Kiến trúc GPON


Hình 4-10 cho thấy kiến trúc cơ bản của một GPON cái cũng tuân theo kiến
trúc tổng quat TDM-PON mô tả trong chương 3. Nó cũng có nhiều chức năng tương
tự như BPON và EPON như gán băng thông động và các bản tin OAM. Tuy nhiên
ngược với các kiến trúc BPON và EPON cái đã được phát triển từ quan điểm nhà
sản xuất thiết bị, thì chế độ vận hành GPON là một kiểu thiết kế định hướng bởi
khách hàng hơn. Điều này phản ánh trong các đặc tính yêu cầu dịch vụ GPON
(GRS) mô tả trong G.984.1. Tài liệu này xem xét các yêu cầu có tính tập hợp của
các nhà cung cấp dịch vụ hàng đầu trên thế giới.

Hình 4-10 Kiến trúc cơ bản mạng GPON

Khuyến nghị G.984.1 đã được phê duyệt bởi ITU-T vào tháng 3 năm 2003.
Nó mô tả các đặc tính tổng quát như kiến trúc GPON, kiểu dịch vụ để thích ứng, các
tốc độ bit mong muốn, trễ truyền tín hiệu, tỉ lệ chia tách quang và bảo mật thông tin.
Chú ý rằng để có thể tương thích ngược với các hệ thống BPON cũ đang tồn tại,
G.984.1 duy trì một số các yêu cầu của khuyến nghị BPON G.983.1.
a. Đặc tính GRS

119
Bảng 4.4 tóm tăt các đặc tính GRS chính. Trước hết một GPON phải là một
mạng đầy đủ dịch vụ, tức nó có thể mang tất cả các kiểu dịch vụ. Cái này bao gồm
Ethernet 10- và 100-Mbit/s, điện thoại tương tự truyền thống, lưu lượng số T1/E1
(tức 1,544 và 2,048 Mbit/s), các gói ATM 155M, và lưu lượng kênh thuê riêng tốc
độ cao. Các tốc độ đường truyền danh định được xác định như 1,25G (1244,16
Mbit/s) và 2,5G (2488,320 Mbit/s) trong hướng xuống và 155M, 622M, 1,25G và
2,5G trong hướng xuống. Các tốc độ dữ liệu có thể hoặc đối xứng hoặc bất đối xứng
với các tốc độ cao hơn được gửi theo hướng xuống từ OLT tới ONU. Một nhà cung
cấp dịch vụ có thể cung cấp tốc độ hướng xuống thấp hơn tốc độ của GPON trong
đó lưu lượng hướng xuống lớn hơn nhiều so với hướng lên, như trong trường hợp
khi các thuê bao sử dụng dịch vụ dữ liệu IP chủ yếu cho các ứng dụng như lươt
Internet, tải xuống các tệp lớn.
Bảng 4.4 Tóm tắt các yêu cầu dịch vụ GPON

Tham số Các yêu cầu dịch vụ GPON (GSR)

Đầy đủ dịch vụ: 10/100 BASE-T Ethernet, điện thoại


Dịch vụ
tương tự, SONET/SDH TDM, ATM, …

Tốc độ truy nhập dữ Downstream: 1,244 và 2,488 Gbit/s; upstream: 155


liệu Mbit/s, 622 Mbit/s, 1,244 Gbit/s, 2,488 Gbit/s

Khoảng cách Tối đa 10 hoặc 20 km

Tỉ lệ tách Tối đa 64

Upstream voice/data: 1260 - 1310 nm; downstream


Các bước sóng voice/data: 1480 - 1500 nm; downstream video: 1550 -
1560 nm

Chuyển mạch bảo vệ Bảo vệ 1+1; bảo vệ 1:N

Bảo mật thông tin ở mức giao thức cho lưu lượng hướng
Bảo mật xuống: ví dụ sử dụng AES (Advanced Encryption
Standard)

Các bước sóng được xác định là trong dải 1480 tới 1500 nm cho hướng
xuống và 1260 và 1360 cho lưu lượng hướng lên tương ứng của nó. Như vậy, các

120
giá trị trung bình là các bước sóng 1490 và 1310 tiêu chuẩn như được sử dụng trong
các hệ thống PON khác. Thêm nữa dải bước sóng 1550 đến 1560 nm có thể được sử
dụng cho phân phối video hướng xuống. Phụ thuộc vào khả năng của các bộ thu
phát, khuyến nghị GPON xác định khoảng cách truyền dẫn cực đại cỡ 10 hoặc 20
km. Đối với một GPON, số lượng đường chia tách lớn nhất là 64.

b. Chuyển mạch bảo vệ GPON

Khuyến nghị ITU-T G.984.1 mô tả việc sử dụng một cơ chế chuyển mạch
bảo vệ cái tương thích với hoạt động BPON. Điều này cho phép một vài kiểu cấu
hình PON bao gồm dự phòng của tuyến và thiết bị cho bảo vệ mạng. Trong số này
là chế độ bảo vệ 1 + 1 dự phòng đầy đủ và bảo vệ 1:N dự phòng một phần. Hình 4-
11 cho thấy rằng trong bảo vệ 1+1 lưu lượng được phát đồng thời trên 2 đường
truyền sợi quang tách biệt từ nguồn tới đích. Thường hai đường truyền này không đi
chung tại bất cứ điểm nào, do đó nếu đứt cáp sẽ chỉ ảnh hưởng đến một đường
truyền. Trong chế độ 1+1, thiết bị thu sẽ lựa chọn một trong các đường như đường
làm việc (working fiber) để thu nhận thông tin. Trong trường hợp sợi tuyến đó bị
đứt hoặc thiết bị truyền dẫn trên tuyến đó bị hỏng thì bộ thu sẽ chuyển mạch sang
tuyến dự phòng (protection fiber) để tiếp tục thu nhận thông tin. Phương pháp bảo
vệ này cung cấp chuyển mạch bảo vệ nhanh khi sự cố và không đòi hỏi giao thức
báo hiệu giữa nguồn và đích. Tuy nhiên đòi hỏi số lượng sợi và thiết bị dự phòng
gấp đôi mỗi tuyến.

Hình 4-11 Bảo vệ 1+1

Thủ tục bảo vệ 1:N cung cấp việc sử dụng sợi và thiết bị kinh tế hơn. Như
cho thấy trong hình 4-12, một tuyến dự phòng được chia sẻ giữa N tuyến làm việc.
Điều này cho phép bảo vệ khi một trong các tuyến làm việc bị sự cố. Đối với hầu
hết các mạng khai thác, mức bảo vệ này là phù hợp vì các sự cố nhiều sợi là hiếm
(trừ phi tất cả các sợi trong cùng một cáp). Ngược với bảo vệ 1+1, trong chế độ bảo
vệ 1:N lưu lượng chỉ được phát trên tuyến làm việc khi hoạt động bình thường. Khi

121
có sự cố trên một tuyến, chuyển mạch ở cả nguồn và đích được chuyển sang tuyến
dự phòng. Điều này đòi hỏi một giao thức chuyển mạch tự động giữa các điểm đầu
cuối để có thể sử dụng tuyến dự phòng.

Hình 4-12 Bảo vệ 1:N

c. Bảo mật thông tin trong GPON


Cũng như với các kiến trúc PON khác, vì dữ liệu hướng xuống từ OLT được
phát quảng bá đến tất cả các ONU, mỗi bản tin phát đi có thể được nhìn thấy bởi tất
cả người dùng kết nối với GPON. Do vậy, tiêu chuẩn GPON mô tả việc sử dụng
một cơ chế bảo mật thông tin để đảm bảo rằng người dùng được phép truy nhập chỉ
dữ liệu dành cho họ. Thêm nữa, một cơ chế bảo mật như vậy đảm bảo không có mối
đe dọa nghe trộm xảy ra. Một ví dụ của một cơ chế mã hóa mật hay mật mã điểm –
điểm là AES cái được sử dụng để bảo vệ tải trọng thông tin của trường dữ liệu trong
khung GPON. Mật mã là kỹ thuật trong đó dữ liệu được chuyển thành một định
dạng khó hiểu ở đầu phát để bảo vệ chúng khỏi biến đổi, sử dụng trái phép khi
truyền qua mạng.
Giải thuật AES mã hóa và giải mã các khối dữ liệu 128 bit từ định dạng gốc
ban đầu gọi là plaintext thành một dạng khó hiểu được gọi là ciphertext. Các khóa

122
mật mã có thể có độ dài 128, 192 hoặc 256 bit làm cho mật mã khó giải. Một khóa
có thể được thay đổi tuần hoàn (ví dụ: một lần mỗi giờ) mà không ảnh hưởng đến
luồng tin. Quá trình giải mã chuyển đổi ciphertext thành dữ liệu gốc ban đầu.

4.3.2 Đặc tính của GPON


a. Hiệu năng quang
Một sự quan tâm chính của G.984.2 là để xác định hiệu năng bộ thu phát tại
các khoảng cách truyền dẫn 10 và 20 km. Đối với các tính toán quỹ công suất,
GPON sử dụng cùng các lớp quang giống như được xác định trong hệ thống BPON.
Các mức quỹ công suất quang này là:
• Lớp A (Class A optics): 5 – 20 dB
• Lớp B (Class A optics): 10 – 25 dB
• Lớp C (Class A optics): 15 – 30 dB

Bảng 4.5 Tóm tắt các đặc tính PMD GPON quan trọng

Tham số Đặc điểm GPM

Tốc độ truy nhập dữ Downstream: 1,244 và 2,488 Gbit/s; upstream: 155


liệu Mbit/s, 622 Mbit/s, 1,244 Gbit/s, 2,488 Gbit/s

Các lớp A, B, và C; cùng yêu cầu như đối với hệ thống


Các lớp quang
BPON

Mào đầu burst Được xác định tại mỗi tốc độ truyền

Đầu ra quang ONU có thể hoạt động ở 3 chế độ mức


Mức công suất
công suất để

Mã sửa lỗi trước (FEC) có thể được sử dụng như là một


Độ tin cậy dữ liệu
tùy chọn

Bao gồm cả trong các dải suy hao này là các tổn hao gây ra từ sợi quang, các
mối hàn, connector và các bộ chia tách quang. Thêm nữa, nhà thiết kế tuyến cần
xem xét khả năng xảy ra có thể các suy giảm tuyến khác như mối hàn và chiều dài
sợi bổ sung từ sửa chữa cáp, các ảnh hưởng của yếu tố môi trường lên chất lượng
cáp, và các suy giảm khó thấy trong bất kì thành phần thụ động.

123
b. Điều khiển định thời và công suất quang
Một phần quan trọng của G.984.2 là đặc tính của các tham số định thời kiểu
burst. Mặc dù GPON là một mạng đồng bộ trong đó OLT thông tin cho các ONU
biết khi nào chúng có thể phát tin, quá trình này có một số bất định về định thời.
Yếu tố này nghiêm trọng hơn với GPON vì hoạt động ở tốc độ cao.
Do thủ tục ranging có độ chính xác giới hạn, nên một khoảng thời gian bảo
vệ được đặt giữa các burst liên tiếp từ các ONU để tránh xung đột. Hình 4-13 mô tả
sự sắp xếp này. Khoảng thời gian bảo vệ phải đảm bảo chú ý các yếu tố như trễ bật
laser của burst thông tin tiếp theo, trễ tắt của laser và dòng dư của burst trước trong
bộ thu OLT, và tính phân mức của quá trình cân bằng trễ thời gian giữa các ONU
khác nhau trong GPON. Thời gian bảo vệ danh định này là 25,6 ns, cái muốn nói
rằng số lượng bít được cấp phát cho trường này sẽ lớn hơn khi tốc độ dữ liệu tăng
lên.

Hình 4-13 Thời gian bảo vệ giữa các burst liên tiếp để tránh xung đột.

Hình 4-14 Các gói liên tiếp tới OLT từ các ONU khác nhau có thể có sự biến đổi lớn mức
công suất quang.

124
Nếu một ONU có vị trí đặt sát với OLT, thì APD trong bộ thu OLT thu nhận
mức công suất quang đi vào tương đối cao từ ONU đó như mô tả trong hình 4-14.
Để tránh quá tải PD của bộ thu OLT trong các điều kiện như vậy, G.984.2 cho phép
thực hiện điều khiển công suất quang qua 3 chế độ mức công suất:
− Mode 1: Phát ở mức quang bình thường.
− Mode 2: Giảm đi 3dB so với mức 1
− Mode 3: Giảm đi 6dB so với mức 1
Như vậy nếu diode thu quang OLT thu được mức công suất quá mạnh, OLT có thể
ra lệnh cho ONU đang gửi tin giảm mức công suất quang đầu ra của nó.
c. Mã sửa lỗi tiến FEC
Như một tùy chọn nhằm giữ chi phí bộ thu phát thấp nhưng vẫn đảm bảo tính
toàn vẹn dữ liệu ở mức cao, G.984.2 xác định việc sử dụng FEC. Ứng dụng FEC
trong GPON là mong muốn vì tốc độ bít cao sẽ giảm quỹ công suất quang theo 2
cách: Thứ nhất nó sẽ làm giảm độ nhạy bộ thu vì độ rộng băng rộng hơn của bộ thu
gây ra tạp âm lớn hơn; Lí do khác là ảnh hưởng tán sắc lớn hơn sẽ gây ra mức bù
công suất lớn hơn trên tuyến quang. Như vậy FEC là hữu ích vì nó có thể bổ sung 3
– 6 dB vào quỹ công suất.
FEC là một kỹ thuật xử lý tín hiệu để mã hóa dữ liệu cho phép các lỗi được
phát hiện và được sửa. Trong kỹ thuật FEC, thông tin dư được phát cùng với thông
tin gốc. Nếu một số dữ liệu gốc bị mất hoặc thu bị lỗi thì thông tin dư được sử dụng
để khôi phục lại dữ liệu. Thường lượng thông tin dư là nhỏ, do đó chế độ FEC
không sử dụng thêm nhiều băng thông và như vậy duy trì được hiệu quả.
Hầu hết mã sửa lỗi thông thường là các mã chu trình: ký hiệu (m,n) với n –
số bít mã hóa đầu ra, m – số bít gốc trước khi mã hóa. Mặc dù nhiều kiểu mã đã
được xét trong nhiều năm trong các hệ thống điện, mã FEC Reed-Solomon (RS) là
phù hợp nhất cho các tín hiệu quang. Chúng có mào đầu thấp, độ lợi mã cao và có
thể sửa các lỗi chum. RS(255, 239) được sử dụng rộng rãi trong hệ thống quang sợi.
Mã này chuyển đổi 239 bit dữ liệu thành 255 bit để phát đi bằng việc bổ sung thêm
khoảng 7% mào đầu.

125
4.3.3 Lớp hội tụ truyền dẫn
Lớp hội tụ truyền dẫn GPON GTC (GPON Transmission Convergence) là
lớp giao thức chính trong ngăn xếp giao thức của GPON. Hình 4-15 mô tả cấu trúc
phân lớp mạng GPON.
Các khối truyền dẫn T-CONT (Transmission Containers): được sử dụng cho
việc quản lý phân định băng thông luồng lên trong khối PON của lớp hội tụ truyền
dẫn TC (Transmission Convergence).

Hình 4-15 Cấu trúc phân lớp mạng GPON

- T-CONT mang các thông tin ATM VPI/VCI và/hoặc cổng GEM và thông
báo các trạng thái bộ đệm của chúng cho các OLT tương ứng.
- T-CONT tự động thu nhận các gói tin cho phép được nhận dạng bởi
Alloc-ID từ OLT.
- Mỗi T-CONT có thể mạng lưu lượng ATM hoặc GEM với nhiều lớp dịch
vụ khác nhau.
- Mỗi T-CONT có thể cung cấp một hoặc nhiều hàng đợi vật lý và sắp xếp
chúng vào một bộ nhớ logic đơn.
Lớp hội tụ truyền dẫn được xếp ở vị trí giữa môi trường vật lý và các đối
tượng của GPON (ATM client, GEM client,…).
Hình 4-16 biểu diễn ngăn xếp giao thức của toàn hệ thống lớp TC trong
GPON (GTC). Lớp GTC gồm có 2 lớp con, lớp con tạo khung GTC (GTC Framing
Sublayer) và lớp con tương thích TC (TC Adaption Sub Layer).

126
Theo một quan điểm khác, GTC chứa mặt phẳng C/M quản lý các luồng lưu
lượng người dùng, an ninh, các thuộc tính OAM, và một mặt phẳng U mang lưu
lượng người sử dụng. Trong lớp con tạo khung GTC, phân vùng ATM, phân vùng
GEM, các phần quản lý vận hành bảo dưỡng lớp vật lý PLOAM (Physical Layer
Operations Administrations Maintenance) và OAM nhúng được nhận biết theo vị trí
trên khung GTC. Chỉ OAM nhúng được kết cuối tại lớp này để điều khiển qua lớp
con này, do thông tin của OAM nhúng được nhúng trực tiếp vào khung GTC.
Thông tin PLOAM được xử lý tại khối PLOAM được định vị như một client của
lớp con này.

Hình 4-16 Ngăn xếp giao thức của GTC

Các đơn vị chuyển từ/tới các Đơn vị giao thức dữ liệu PDU thông thường
(Protocol Data Unit) của ATM và GEM tại mỗi lớp con tương thích. Ngoài ra, các
PDU này chứa dữ liệu kênh OMCI. Dữ liệu này cũng được phân loại thành các mặt
phẳng C/M. Các SDU ngoại trừ OMCI trên các phân vùng ATM và GEM được
phân loại vào mặt phẳng U.
Lớp tạo khung GTC có cái nhìn bao quát tới tất cả dữ liệu được phát, và lớp
tạo khung GTC OLT trực tiếp ngang hàng với tất cả các lớp tạo khung GTC ONU.
Hơn nữa, khối điều khiển phân bổ băng thông động (DBA Control) được xem như

127
là khối chức năng chung. Hiện nay, khối này có khả năng đáp ứng toàn bộ DBA
thông báo ONU.
Trong hệ thống GTC, OLT và ONU không hoạt động đồng thời ở 2 trạng
thái.Chế độ nào được hỗ trợ sẽ được nhân biết tại thời điểm lắp đặt hệ thống. ONU
thông báo chế độ hoạt động cơ bản của nó là ATM hay GEM thông qua bản tin
Serial_ Number. Nếu OLT có khả năng giao diện tới ít nhất 1 trong các chế độ yêu
cầu, nó xử lý để thiết lập kênh OMCI, và thiết bị ONU được nhận ra theo cách
thông thường.

a. Định dạng khung GPON hướng xuống


Hình 4-17 minh họa cấu trúc khung GTC TC cho các hướng xuống. Khung
đường xuống bao gồm các phần: khối điều khiển vật lý luồng xuống PCBd
(Physical Control Block Downstream), phần ATM, phần GEM. Khung đường lên
gồm nhiều cụm truyền dẫn (Transmission Burst). Ngoài phần tải tin (Payload), mỗi
khung đường lên còn có thể chứa các phần/đoạn PLOAMu, PLSu và DBRu. Khung
đường xuống cung cấp thông tin về thời gian ham chiếu cho GPON và thực hiện
hoạt động báo hiệu điều khiển cho đường lên.

Hình 4-17 Định dạng khung GPON hướng xuống

Mỗi khung GTC xuống dài 125µs, chứa khối điều khiển vật lý luồng xuống
PCBd và phần tải dữ liệu.

128
Hình 4-18 chỉ ra chi tiết khuôn dạng của khung đường xuống.Phần mào đầu
của PCBd gồm phần cố định và phần thay đổi. Phần cố định gồm các trường:
Physical Sync, Ident và PLOAM. Các trường này được bảo vệ bởi 1 byte kiểm tra
BIP (Bit Interleaved Parity).Bốn byte đồng bộ vật lý (Physical Sync) chỉ thị bắt đầu
của khung đường xuống. Bốn byte trường Ident chỉ thị FEC được sử dụng hay
không, ngoài ra nó còn thực hiện nhóm bộ đệm siêu khung, được sử dụng để cung
cấp tín hiệu tham chiếu đồng bộ tốc độ thấp. 13 byte của trường PLOAM trong
PCBd được sử dụng để thông tin giữa các bản tin OAM lớp vật lý với các ONU.
Các chức năng của PLOAM gồm đăng ký và xóa ONU, định cỡ, điều chỉnh công
suất, cập nhật khóa mã hóa, thông báo lỗi lớp vật lý,v.v…

Hình 4-18 Định dạng chi tiết khung GPON hướng xuống

Phần thay đổi của PCBd gồm 2 trường Plend chỉ thị độ dài bản đồ băng
thông đường lên và phần thông tin ATM trong T-CONT. Mỗi ONU có thể được cấu
hình với nhiều T-CONT. Bản đồ US BW xác định băng thông đường lên được phân
định cho các thực thể truy nhập. Mỗi thực thể 8 byte truy nhập trong US BW bao
gồm Alloc-ID của T-CONT, thời gian bắt đầu và kết thúc phát T-CONT hướng lên
và 12 bit cờ chỉ thị cách thức phân định băng tần được sử dụng như mô tả ở hình 4-
19. Vì khung có khoảng thời gian là 125µs, nên với các tốc độ khác nhau thì chiều
dài khung sẽ khác nhau, ví dụ với tốc độ 1,24416Gbps khung có độ dài là
19,9440byte, với tốc độ 2,48832Gbps khung có độ dài là 38.880 byte. Tuy nhiên
khối PCBd là giống nhau đối với cả hai hệ thống.

129
Hình 4-19 Cấu trúc sơ đồ US BW và cấp phát băng thông hướng lên.

b. Định dạng khung GPON đường lên


Khung đường lên có độ dài 125µs, gồm các khung ảo hướng lên. Các khung
ảo hướng lên được tạo bởi các burst từ các ONU khác nhau. Mỗi burst bắt đầu với
trường mào đầu lớp vật lý hướng lên (PLOu).

Hình 4-20 Định dạng khung GPON đường lên

Mỗi khung chứa thông tin từ một hoặc nhiều ONU. BW map chỉ thị bản đồ
sắp xếp các thông tin này. Trong suốt quá trình phân bố tương ứng với hoạt động
điều khiển OLT, ONU có thể truyền từ một tới bốn byte các mào đầu GPON và dữ
liệu người dùng. Bốn byte mào đầu bao gồm: Mào đầu vật lý (PLOu); Các hoạt

130
động vận hành và quản trị các tham số vật lý ở đường lên (PLOAMu); điều khiển
công suất đường lên (PLSu) và thông báo băng thông động (DBRu).
PLOu bắt đầu với một tiền tố (Preamble) giúp cho máy thu chế độ burst tại
OLT đồng bộ với máy chủ phát tại ONU. Trường phân định (Delimiter) xác định sự
bắt đầu của burst hướng lên.

Hình 4-21 Cấu trúc các trường thông tin khung đường lên

Chiều dài và khuôn dạng của các trường tiền tố và phân định được xác định
bởi OLT sử dụng bản tin PLOAM. Trường Ind cung cấp các bào cáo về trạng thái
của ONU với OLT.
Mỗi ONU có thể được gán bởi nhiều T-CONT. Nếu một ONU được phân
định các khe thời gian kề nhau cho các T-CONT với cái Alloc-ID khác nhau, PLOu
chỉ cần phát một lần. Tiếp theo trương PLOu, có ba lựa chọn các trường mào đầu
trong mỗi burst:
- Vận hành lớp vật lý, quản trị, và quản lý luồng lên (PLOAMu).
- Điều chỉnh công suất luồng lên (PLSu).
- Báo cáo băng thông động luồng lên (DBRu).
Việc phát của các trường này được phân định bởi OLT qua các cờ trong bản
đồ phân định băng thông đường lên (US BW map) của trường PCB. Khi được yêu
cầu bởi OLT, 120 byte trường PLSu được gửi bởi ONU để đo công suất. Trường
DBRu được ghép vào mỗi T-CONT để báo cáo trạng thái lưu lượng hướng lên của
các T-CONT tương ứng. DBRu gồm các báo cáo DBA chỉ thị chiều dài hàng đợi
cho việc phân định băng thông rộng.
c. Đóng gói GEM
GPON xác định hai phương thức đóng gói ATM và GEM (GPON
Encapsulation Method). Các ONU và OLT có thể hỗ trợ cả T-CONT nền ATM
hoặc GEM. GEM sử dụng để đóng gói dữ liệu qua mạng GPON. GEM cung cấp

131
khả năng thông tin kết nối định hướng tương tự ATM. GPON cho phép hỗ trợ nhiều
loại hình dịch vụ khách hàng khác nhau. Khách hàng ATM được sắp xếp trong suốt
vào khung GEM trên cả hai hướng. Khách hàng TDM được sắp xếp vào khung
GEM sử dụng thủ tục đóng gói GEM. Các gói dữ liệu bao gồm cả các khung
Ethernet cũng được sắp xếp sử dụng thủ tục đóng gói GEM. GEM cũng hỗ trợ việc
phân mảnh hoặc chia nhỏ các khung lớn thành các phân mảnh nhỏ và ghép lại ở đầu
thu nhằm giảm trễ cho các lưu lượng thời gian thực. Lưu lượng dữ liệu bao gồm các
khung Ethernet, các gói tin IP, IPTV, VoIP và các loại khác giúp cho truyền dẫn
khung GEM hiệu quả và đơn giản. GPON sử dụng GEM mang lại hiệu quả cao
trong truyền dẫn tải tin IP nhờ sử dụng tới 93% băng thông cho phép trên kênh
truyền dẫn.
Cấu trúc p â o n GEM
Ở đường xuống, các khung được truyền từ OLT tới ONU sử dụng các phân
vùng GEM. Ở đường lên, các khung được truyền từ ONU tới OLT sử dụng thời
gian phân bổ GEM đã được cấu hình. Giao thức GEM có hai chức năng: hỗ trợ tạo
các khung dữ liệu người dùng và cung cấp số hiệu cổng để ghép kênh.
Ở đây thuật ngữ „khung dữ liệu người dùng‟ biểu thị các khung đến từ và đi
tới các người dùng. Các chức năng này được hỗ trợ bởi phần tiêu đề GEM như trên
hình 4-22. Tiêu đề GEM chứa các trường chỉ thị độ dài tải tin PLI (Payload length
Indicator), Port ID, trường chỉ thị loại tải tin PTI (Payload Type Indicator) và 13 bit
trường điều khiển lỗi tiêu đề HEC (Header error control).

Hình 4-22 Cấu trúc phân đoạn GEM

PLI chỉ thị độ dài, L tính theo byte của phần tải tin theo sau tiêu đề. PLI được
sử dụng để tìm tiêu đề kế tiếp trong dòng dữ liệu. Kích thước 12 bit của trường này
cho phép các phân mảnh có độ dài tới 4.095 byte. Nếu các khung dữ liệu người sử
dụng lớn hơn giá trị này, các khung sẽ được phân mảnh nhỏ hơn 4.095 byte.
Giá trị Port ID cung cấp 4.096 giá trị chỉ số lưu lượng duy nhất trong GPON
để thực hiện ghép kênh.

132
Trường PTI chỉ thị nội dung của tải tin được phân mảnh và cách thức xử lý
thích hợp. Mã hoá của 3 bit này giống với tiêu đề ATM. Truyền tải GEM chỉ diễn ra
trên các phân đoạn GPON, chứ không sử dụng cho mục đích OAM từ đầu cuối đến
đầu cuối. Đặc điểm này có thể thay đổi trong tương lai.
Hoạt động báo cáo nghẽn thông qua các mã 2 và 3 là cho các nghiên cứu
tương lai. Đối với mã 4, GEM sẽ tái sử dụng định dạng tế bào OAM hỗ trợ tải tin
phân mảnh với độ dài 48 byte giống như trong các chức năng OAM của ATM.
Cuối cùng, HEC cho phép phát hiện và sửa lỗi cho tiêu đề. HEC sử dụng kết
hợp mã BCH (39, 12, 2) và một bit chẵn lẻ (parity). Đa thức sinh cho mã này là x12
+ x10 + x8 + x5 + x4 + x3 + 1. Mã BCH được tính toán dựa trên chia modul 2 giá trị
của 39 bit đầu tiên trong tiêu đề cho đa thức sinh. Kết quả sẽ bằng không nếu không
có lỗi. Nếu một thanh ghi dịch được sử dụng để thực hiện phép chia, giá trị khởi tạo
ban đầu của thanh ghi dịch sẽ toàn các bit 0. Bit parity được thiết lập sao cho tổng
số các bit 1 trong toàn bộ tiêu đề (40 bit) là một số chẵn.
d. Quá trình ranging
Mục đích của định cỡ: Định cỡ (Ranging) được thực hiện để loại bỏ việc
phát lại không cần thiết, do vậy sử dụng băng tần hiệu quả và làm cho thời gian trễ
cực đại nhỏ nhất nhờ việc ngăn các tín hiệu từ các ONU khỏi sự xung đột. Khi các
khối mạng quang được nối tới một giao diện OLT trong hệ thống mạng quang thụ
động (PON), đặt ra nhu cầu cần một phương pháp ghép tín hiệu cho mỗi ONU.
RTD1/2

Data 1 Data 2 Data 1 Data 2


Vào OLT
Thời gian

Ra ONU 1 Data 1 Data 1


Thời gian

Data 2 Data 2
Ra ONU 2
Thời gian
RTD2/2

Hình 4-23 Đa truy nhập phân chia theo thời gian trong GPON

Xem trong hình 4-23, thời gian truyền tín hiệu của mỗi ONU được điều
chỉnh phù hợp với trễ khứ hồi (Round Trip Delay – RTD, đó là thời gian trễ cần
thiết để một tiến trình chuyền đi qua giữa OLT và ONU) sao cho tín hiệu từ ONU

133
tới ở các thời điểm khác nhau và không gây chồng lấn. TDMA ghép tín hiệu từ các
ONU vào các khe thời gian.
- Cửa số định cỡ: Khoảng cách giữa OLT và ONU thường khác với ONU
tới ONU. Nếu không xác định chính xác RTD thì không thể thiết lập được thời gian
phát. Nếu chúng ta kết nối với một ONU, đầu tiên ta phải đo RTD. Với yêu cầu của
hệ thống vận hành (OPS), hình 4-24 minh hoạ OLT tự động và đều đặn sử dụng cửa
sổ định cỡ để đo trễ và xác định một ONU để phát tín hiệu trong phép đo trễ.
Chiều dài cửa sổ định cỡ được thiết lập theo khoảng cách giữa OLT và ONU.
Nếu ONU được đặt cách OLT khoảng 5-10 km, chiều dài của cửa sổ định cỡ cần
nhỏ nhất là (10-5km)x2/(300.000km/sec/1,5) = 50 msec. Trong đó, 1,5 là hệ số
khúc xạ của sợi quang.
Sau khi đo RTD, thời gian phát của ONU phải được điều chỉnh. Đó là
khoảng thời gian (thời gian bảo vệ) giữa các tín hiệu do ONU nào đó và các ONU
khác phát. Thời gian bảo vệ phải đủ lớn để các tín hiệu từ các ONU khác nhau
không xung đột. Khoảng thời gian bảo vệ này được gọi là burst overhead (BOH).
Khi BOH tăng lên, nó làm giảm hiệu suất và mặt khác khi nó được rút ngắn, chi phí
thiết bị tăng lên. Các ảnh hưởng tới kích thước của BOH: Lỗi trong phép đo RTD;
Thay đổi RTD, sự biến đổi trong RTD là khoảng 36ps/km/8C; Thời gian ON/OFF
của laser. Thời gian để nguồn phát ổn định (laser on time) khi laser ONU được
chuyển sang ON và thời gian nguồn quang giảm đi một mức (không ảnh hưởng tới
việc nhận tín hiệu ONU tiếp theo) khi laser chuyển sang OFF (laser off time) phải
khả dụng.
Cửa sổ định cỡ

RTD của ONU mới


Data #1 Data #2 Data #1
Vào OLT Time

Data #1
Ra ONU#1 Time

Ra ONU#2 Data #2
Time

Ra ONU mới Time


Tín hiệu để đo trễ

Hình 4-24 Cửa sổ định cỡ

Máy thu thiết lập thời gian: Chúng ta phải đưa vào thời gian chuẩn để tách
dữ liệu và xung đồng hồ từ tín hiệu OLT nhận được. Nó gồm thời gian yêu cầu để

134
chỉnh mức nhận như thiết lập thời gian điều khiển độ tăng ích tự động, thời gian
đồng bộ bit tín hiệu nhận và thời gian đồng bộ mã.
- Thủ tục định cỡ: Có hai cách xác định ONU cho quá trình định cỡ là
phương pháp xác định duy nhất ONU đã đăng ký và phương pháp xác định tất cả
các ONU chưa đăng ký. Trong phương pháp thứ nhất, một ONU với số ID riêng
được xác định trong hệ thống vận hành. Trong phương pháp thứ hai OLT không
biết số ID riêng của mỗi ONU, khi đó sẽ có vài ONU có thể truyền tín hiệu cho quá
trình đo trễ diễn ra liên tục. Một biện pháp giảm xung đột trong quá trình định cỡ là
truyền tín hiệu cho quá trình đo trễ với một khoảng thời gian chờ ngẫu nhiên, gần
giống như phương pháp được sử dụng trong Ethernet (CSMA/CD). Thậm chí nếu
có xảy ra xung đột ngay bước đầu thì vẫn có thể tiến hành đo trễ bằng cách lặp lại
quá trình truyền dẫn hai hay ba lần. Vì dữ liệu thuê bao không được truyền trước
khi quá trình định cỡ kết thúc nên sẽ không làm tăng trễ truyền dẫn dữ liệu. Ngoài
ra thời gian chờ ngẫu nhiên được sử dụng để chống xung đột không được bao gồm
trong phép đo trễ khứ hồi RTD.
Thủ tục định cỡ của GPON được chia thành 2 pha. Ở pha thứ nhất xem hình
4-25, đăng ký số sêri cho ONU chưa đăng ký và cấp phát ONU-ID cho ONU đã
thực hiện. Số Sêri là ID xác định ONU và phải là duy nhất, đồng thời ONU-ID được
sử dụng để điều khiển, theo dõi và kiểm tra ONU.
Cửa sổ định cỡ

Data #2 Data #1
OLT Time
(1) ONU (4) Gán ONU-ID
ngừng truyền (2) Yêu cầu SN
ONU#1 Time

ONU#2
Time

(3) Phát SN
ONU mới Time

Trễ ngẫu nhiên

Hình 4-25 Thủ tục định cỡ pha 1

Trong pha tiếp theo, RTD được đo cho mỗi ONU đã đăng ký mới (xem hình
4-26). Pha này cũng được áp dụng cho các ONU bị mất tín hiệu trong quá trình
thông tin.

135
Cửa sổ định cỡ

RTD của ONU mới


Data #2 Data #1
OLT Time
(5) ONU (8) Bản tin định cỡ
ngừng truyền (6) Yêu cầu định cỡ
ONU#1 Time

ONU#2
Time

(7) Phát định cỡ


ONU mới Time
(9) Trễ cân bằng

Hình 4-26 Thủ tục định cỡ pha 2

ONU lưu giá trị trễ cân bằng và tạo trễ định thời cho chuỗi dữ liệu truyền dẫn
luồng lên với giá trị này.
e. Cấp phát băng thông động
Quá trình cấp phát băng thông động trong GPON tương tự như BPON. DBA
phân định băng thông cho mỗi ONU theo yêu cầu và nhu cầu lưu lượng luồng lên vì
vậy băng thông được sử dụng hiệu quả hơn. Hoạt động của DBA trong GPON có
thể được mô tả trong hình 4-27.

R R data
OLT
G G Thời gian

ONU R R data
Thời gian

Người sử data
dụng Thời gian
G Băng thông gán R Yêu cầu

Hình 4-27 Cấp phát băng thông động

Tiến trình hoạt động có thể diễn ra như sau:


- ONU lưu lưu lượng upstream nhận được từ người dùng vào bộ đệm.
- Tiếp theo, kích cỡ dữ liệu lưu trong bộ đệm được thông báo cho OLT như
một yêu cầu tại thời điểm do OLT quy định.

136
- OLT xác định thời gian bắt đầu truyền và khoảng thời gian khả dụng (=
cửa sổ truyền dẫn) tới ONU, xác định đặc tính dịch vụ và kích cỡ được
thông báo.
- ONU đợi tới thời gian được cấp phát và sau đó truyền kích cỡ dữ liệu đặc
trưng cho OLT.
Trong tiến trình thứ 3, đặc tính dịch vụ được đề cập ở đó liên quan tới băng
tần nhỏ nhất đảm bảo, băng tần tối đa, thời gian trễ tối đa… DBA liên quan trực tiếp
với đặc tính dịch vụ. Các dịch vụ khác nhau sẽ đòi hỏi thiết kế khác nhau hoàn toàn.
Ba yêu cầu rất quang trọng mà các thuật toán DBA cần đạt được đó là:
- Sự công bằng: phân định băng tần như nhau đối với mỗi người sử dụng
- Độ trễ thấp: có thể đạt được thời gian trễ tối đa nhỏ hơn độ trễ gán trước
và tối ưu hoá tối đa độ trễ.
- Hiệu suất cao: có thể tăng hiệu suất băng tần và tăng tốc độ đỉnh càng
nhiều càng tốt.

4.4 Công nghệ Ethernet trong mạng truy nhập quang


Ethernet đã trở thành giao thức được sử dụng rộng rãi cho các mạng LAN và
được mở rộng ra cả mạng MAN và WAN. Việc sử dụng Ethernet như công nghệ
truyền tải ở mạng truy nhập cho phép các kĩ sư xây dựng các mạng truy nhập dựa
trên IP và Ethernet vì dữ liệu được mang trong các khung Ethernet tiêu chuẩn. Điều
này tránh được chi phí và sự phức tạp của việc chuyển đổi giao thức như phải làm
khi triển khai BPON. Thêm nữa, sử dụng Ethernet trong phần truy nhập cho phép
các nhà quản lý mạng tận dụng ưu điểm của các công cụ phân tích và quản lý quen
thuộc và có sẵn được thiết kế cho việc giám sát và điều khiển mạng Ethernet.
Có ba chế độ truyền tải Ethernet trong mạng truy nhập có thể như mô tả
trong hình 4-28, trong đó một kiểu sử dụng phương pháp EPON và hai kiểu khác sử
dụng các tuyến điểm – điểm (P2P) hoặc trên cáp đồng hoặc trên sợi quang kết nối
trực tiếp người dùng và CO.

137
Hình 4-28 Các chế độ truyền tải vật lý dùng Ethernet

Bảng 4.8 cho thấy các đặc tính nổi bật của lớp vật lý của ba chế độ truyền
Ethernet trong mạng truy nhập. Các chế độ này được đề cập chi tiết trong bộ tiêu
chuẩn IEEE 802.3ah EFM đã được phê chuẩn tháng 6 2004.

Bảng 4.8 Các đặc tính chính lớp vật lý của ba chế độ EFM

Chế độ EFM Tùy chọn lớp vật lý

EPON Khoảng cách 10 km; 1 Gbit/s; bộ chia 1x32; 1 sợi đơn


mode cho 2 hướng.
Khoảng cách 20 km; 1 Gbit/s; bộ chia 1x16 hoặc 1x32; 1
sợi đơn mode cho 2 hướng.

P2P dùng sợi quang 1000BASE-LX: hệ thống quang mở rộng cho các tuyến
1Gbit/s.
1000BASE-X: 10km trên 1 sợi đơn mode 2 hướng cho
các tuyến 1Gbit/s.
100BASE-X: 10km trên 1 sợi đơn mode 2 hướng cho các
tuyến 100Mbit/s.

138
P2P dùng cáp đồng Khoảng cách 750 m; truyền dẫn 10 Mbit/s song công trên
một cặp đôi dây xoắn.

4.4.1 Kiến trúc EPON


Hình 4-29 cho thấy kiến trúc EPON cơ bản, kiến trúc này cũng tuân theo
kiến trúc chung của TDM-PON đã được mô tả trong chương 3. Mỗi hệ thống EPON
có thể kết nối tối đa với 32 ONU. Chuẩn IEEE 802.3ah EFM xác định các điều kiện
hoạt động cho khoảng cách truyền dẫn cực đại cỡ hoặc 10 hoặc 20 km giữa OLT và
một ONU. Khoảng cách truyền dẫn có thể thực hiện được phụ thuộc kích thước bộ
chia tách quang (16 hay 32 cổng) và vào tham số quang khoảng cách ngắn (lớp B)
hay khoảng cách dài (lớp C) được lựa chọn.
Triển khai EPON sử dụng các chipset lớp vật lý (PHY) và MAC Ethernet sẵn
có trên thị trường. Điều này dẫn đến một lợi ích kinh tế lớn vì mức độ khả dụng cao
và độ tin cậy được kiểm chứng các thành phần này. Tương tự chế độ BPON, một
EPON sử dụng bước sóng 1490 nm cho truyền dẫn hướng xuống của thoại và dữ
liệu tới các ONU và bước sóng 1310 nm cho tuyến hướng lên từ một ONU tới OLT.
Như vậy cửa sổ 1550 nm sẵn có cho dịch vụ khác như truyền video đa kênh từ OLT
tới người dùng. Vì nó dựa trên giao thức gigabit Ethernet tiêu chuẩn, một EPON có
một tốc độ danh định 1250 Mbit/s, cái được gửi nhờ sử dụng mã đường 8B10B.
Trong chế độ mã đường 8B10B, hai bit dư bổ sung được kết hợp với từng khối 8 bit
của dữ liệu để cung cấp thông tin định thời đầy đủ cho việc khôi phục tín hiệu và để
có khả năng giám sát lỗi. Bổ sung thêm vào 256 kí tự dữ liệu 8-bit trong một mã
8B10B, có 13 kí tự điều khiển 10-bit đặc biệt. Các kí tự này được sử dụng, ví dụ để
chỉ thị các bit thông tin là cho dữ liệu trống, các bản tin đo kiểm hay mô tả khung.

139
Hình 4-29 Kiến trúc cơ bản của EPON

a. Các chức năng OLT và ONU/ONT


Tương tự chức năng của nó ở các công nghệ PON khác, trong một EPON
một OLT hoạt động như bộ điều khiển mạng. Tất cả liên lạc xảy ra giữa OLT và các
ONU do đó không có tương tác trực tiếp giữa các ONU trên cùng EPON. Một số
chức năng quan trọng của một OLT bao gồm như sau:
- Xác định liên tục liệu bất kì ONU nào tham gia hoặc rời khỏi mạng. Đây
được xem như là quá trình khám phá.
- Điều khiển quá trình đăng kí của các ONU mới vào mạng.
- Gán các lượng băng thông biến đổi cho truyền dẫn hướng lên tới mỗi ONU
- Thức hiện quá trình ranging để tính trễ thời gian truyền dẫn giữa một OLT
và mỗi ONU.
- Phát ra các bản tin đánh nhãn thời gian cho mục đính tham chiếu thời gian
toàn cục.
b. Các luồng lưu lượng EPON
Dữ liệu EPON được mang trong các khung Ethernet tiêu chuẩn. Hình 4-30
cho thấy định dạng khung MAC Ethernet tiêu chuẩn, cái có thể biến đổi độ dài từ
72 đến 1526 byte. Các chức năng của 8 trường khung như sau:

140
- Preamble: bắt đầu khung dài 7 byte với mẫu 8 bit 10101010 lặp lại 7 lần.
Mẫu sóng vuông này cảnh báo hệ thống thu nhận rằng một khung đang
tới và cho phép bộ thu đồng bộ định thời của nó theo vị trí bắt đầu khung.
- Bộ phân chia bắt đầu khung (SFD): trường SFD 1 byte gồm chuỗi 10101011,
trong đó hai bit 1 liên tiếp báo hiệu sự bắt đầu 1 khung. Điều này cho phép
bộ thu tìm được bit đầu tiên của khung.
- Địa chỉ đích (DA): trường 6 byte chứa địa chỉ vật lý của đích đến tiếp theo
của gói tin. Bit DA đầu tiên phân biệt giữa các địa chỉ cho người dùng đơn
và địa chỉ sử dụng để multicast một khung tới một nhóm trạm. Bit thứ hai nói
cho biết đây là địa chỉ cục bộ hay địa chỉ toàn cục.
- Địa chỉ nguồn (SA): trường 6 byte chứa địa chỉ vật lý của thiết bị cuối cùng
chuyển tiếp gói tin. Đây có thể là trạm phát gốc hoặc bộ định tuyến gần nhất
đã thu và chuyển tiếp gói tin.
- Độ dài và kiểu PDU: trường 2 byte chỉ ra số byte trong đơn vị dữ liệu giao
thức (PDU) – trường dữ liệu của khung. Vì khung Ethernet dài nhất cho phép
là 1526 byte nên PDU có thể dài lên tới 1500 byte.
- Đơn vị dữ liệu giao thức (PDU): chứa dữ liệu điều khiển tuyến logic (LLC)
và trường thông tin có độ dài biến đổi. Chức năng của LLC là để cung cấp
địa chỉ và các cơ chế điều khiển để cho phép trao đổi dữ liệu giữa người sử
dụng cuối.
- Pad: trường pad chứa các byte được thêm vào để đảm bảo rằng kích thước
khung luôn dài ít nhất là 64 byte (độ dài đòi hỏi cho hoạt động phát hiện
xung đột phù hợp)
- Chuỗi kiểm tra khung (FCS): trường chứa các thông tin phát hiện lỗi của
khung. Nó dựa trên một quá trình CRC-32 để phát hiện lỗi trong khung.
CRC sử dụng các bit trong các trường DA, SA, độ dài và PDU để thực hiện
tính toán chia nhị phân tại trạm phát. Kết quả tính toán được bổ sung vào
khung và được kiểm tra lại tại đích đến. Nếu có sự khác nhau về kết quả
nghĩa là 1 lỗi đã xảy ra trong khung khi truyền dẫn và khung đó bị loại bỏ.

141
Hình 4-30 Định dạng khung Ethernet tiêu chuẩn

Trong một EPON không cần preamble vì bản chất hoạt động song công của
mạng. Yếu tố này có ưu điểm cho việc đính kèm địa chỉ ONU trong khung
Ethernet. Như vậy, thay cho việc tăng kích thước tiêu đề Ethernet để thích ứng một
thẻ nhận dạng cho việc chỉ ra ONU nào cần thu nhận khung, thì thông tin này thay
thế một số bit trong preamble của khung Ethernet tiêu chuẩn. Kết quả là khung
EPON có cùng kích thước và định dạng như của 1 khung Ethernet tiêu chuẩn ngoại
trừ các trường preamble và SFD được thay thế bởi các trường liên quan đến EPON
sau, như cho thấy trong hình 4-31:
- Một bộ phân biệt điểm bắt đầu gói tin (SPD) 1 byte: chứa thông tin đồng
hồ. Thông tin đánh dấu đồng bộ này được gửi cứ 2 ms một lần để đồng
bộ hóa các ONU theo OLT.
- Ba byte dành cho sử dụng tương lai.
- Một thẻ 2 byte được gọi là một bộ nhận dạng các tuyến logic (LLID).
- Một chuỗi kiểm tra khung (FCS) 2 byte chứa thông tin phát hiện lỗi cho
khung EPON.
Trong hướng xuống, OLT truyền quảng bá các khung Ethernet cho các
ONU. Điều này tương thích với bản chất phát quảng bá của giao thức Ethernet. Một
ONU thu nhận và lọc các khung dựa trên thẻ LLID được gắn cùng với khung bởi
OLT. Ví dụ một ONU sẽ loại bỏ các khung chỉ định cho các ONU khác và cũng bỏ
qua các khung quảng bá mà nó phát ra. Khi nó gửi dữ liệu ngược lại cho OLT, một
ONU đặt LLID được gán cho nó vào khung. Lưu ý LLID chỉ tồn tại trong EPON, vì
ONU sẽ loại bỏ LLID trước khi gửi gói tin tới thiết bị thuê bao.

142
Hình 4-31 Định dạng khung EPON

Một thủ tục đặc biệt cần để điều khiển lưu lượng hướng lên tránh xung đột
giữa các gói tin, cái có thể được phát đồng thời từ các ONU khác nhau trong EPON.
Thủ tục đó được điều khiển bởi giao thức điều khiển đa điểm (MPCP) được phát
triển một cách đặc biệt, cái phân giải truy nhập kênh giữa CO và các thuê bao
EPON. Chức năng MPCP là để gán băng thông động hướng lên cho người dùng
dịch vụ khác nhau. Thủ tục MPCP mô tả trong 802.3ah không xác định bất cứ giải
thuật cấp phát băng thông động nào, vì ý định của tiêu chuẩn là để việc thực thi quá
trình DBA dễ dàng hơn.

4.4.2 Chức năng MPCP


Một EPON sử dụng MPCP để điều khiển cả hai lưu lượng hướng lên và
hướng xuống. Các quá trình mà MPCP thực hiện bao gồm tự khám phá, đăng ký
ONU, định khoảng cách (ranging), thăm dò băng thông và gán băng thông. Một
EPON sử dụng các kiểu đặc biệt của bản tin điều khiển 64 byte cho các chức năng
này:
- Các bản tin GATE và REPORT được sử dụng để gán và yêu cầu băng
thông
- Các bản tin REGISTER_REQUEST, REGISTER và REGISTER_ACK
được sử dụng để thực hiện các quá trình tự khám phá, đăng ký mới
ONU/ONT và ranging.

143
Hình 4-32 cho thấy sự khác biệt chi tiết về định dạng khung EPON mang dữ
liệu và định dạng khung EPON chứa các bản tin điều khiển MPCP 64 byte.

Hình 4-32 Chi tiết sự khác biệt định dạng khung EPON mang dữ liệu và khung EPON
mang các bản tin điều khiển MPCP.

a. Quá trình tự khám phá


Một sự cần thiết quan trọng của một EPON là khả năng nhận biết sự có mặt
của một ONU và sau đó cho phép nó đăng ký, đàm phán các tham số vận hành, gán
một LLID, cấp phát băng thông truyền dẫn hướng lên và bù trễ thời gian lộ trình
(round-trip). Quá trình tự khám phá ở EPON cho phép các ONU đăng ký và kết nối
hay kết nối lại với hệ thống sau khi bật nguồn. Khi 1 ONU được bật hoặc khởi động
lại, nó sẽ đợi một bản tin GATE khám phá chứa một LLID khám phá từ OLT. OLT
phát quảng bá tuần hoàn một bản tin như vậy cho tất cả các ONU. Quá trình đăng
ký được thực hiện sau đó qua một loạt các bản tin GATE khám phá,
REGISTER_REQUEST, REGISTER và REGISTER_ACK. Sự bắt tay bản tin này
sẽ đăng ký cho một ONU thuộc về EPON đó bằng một LLID được gán duy nhất và
các khe thời gian băng thông cần thiết. Một ONU điển hình được đăng kí ít hơn 1
giây.
Quá trình tự khám phá chi tiết được mô tả ở hình 4-33 bao gồm các bước
sau:
- Một OLT tuần hoàn mở một cửa sổ khám phá (GATE khám phá). Bản tin
GATE khám phá thông báo một khe thời gian khám phá tới mỗi ONU chưa được
khởi tạo. Độ dài khe khám phá được lựa chọn để dài hơn kích thước
REGISTER_REQ của ONU. Kích thước nhỏ nhất của cửa sổ khám phá liên quan

144
đến khe thời gian khám phá. Lí do khe thời gian khám phá và cửa sổ khám phá nên
dài hơn yêu cầu kích thước tối thiểu để tránh xung đột hướng lên trong suốt quá
trình khám phá. Trong EPON, thời gian lộ trình RTT nhỏ nhất được giả định bằng
0. Xung đột hướng lên có thể trong quá trình tự khám phá vì có thể có nhiều hơn
một ONU chưa khởi tạo trong hệ thống và các khe khám phá của chúng có thể xếp
chồng nhau.
- ONU chưa khởi tạo phản hồi lại bản tin GATE khám phá
(REGISTER_REQ). Một ONU gửi bản tin REGISTER_REQ trong khe thời gian
khám phá sau một trễ ngẫu nhiên. Trễ ngẫu nhiên được thêm vào để tránh xung đột
cố chấp từ nhiều hơn một ONU chưa khởi tạo cái chia sẻ một khe khám phá xếp
chồng.
- OLT đăng kí cho ONU (REGISTER). Dựa trên việc thu được một bản tin
REGISTER_REQ đúng từ một ONU chưa khởi tạo, OLT sẽ gán một LLID duy
nhất cho ONU đó. Vì bản tin được gửi không có sự thiết lập một tuyến logic giữa
OLT và ONU (tức ONU vẫn chưa biết LLID của nó), nên bản tin có một trường
LLID quảng bá nhưng sử dụng địa chỉ ONU MAC trong DA.
- ONU xác nhận (REGISTER_ACK). Một ONU trả lời OLT bằng một bản
tin REGISTER_ACK để chỉ ra hoặc Nack hoặc Ack.

Hình 4-33 Quá trình tự khám phá EPON

b. Gán băng thông


Trong một mạng truy nhập, các thuê bao có xu hướng phát lưu lượng lên
mạng theo kiểu burst. Điều này ngược với một mạng MAN hay WAN, khi mà
luồng lưu lượng có xu hướng tương đối phẳng vì sự tập hợp của nhiều nguồn lưu

145
lượng. Để đối phó với vấn đề này trong một PON, băng thông hướng lên được chia
ra thành các đơn vị khe thời gian. OLT điều khiển và gán các đơn vị này cho các
ONU dựa trên yêu cầu truyền dẫn của chúng. Các đơn vị này có thể được gán động
khi cần bởi một ONU hoặc chúng có thể được dành sẵn trước. Bằng việc sử dụng
DBA, bất cứ đơn vị dành trước hoặc một phần các đơn vị băng thông cái không
được sử dụng có thể được gán lại bởi OLT cho các ONU khác có thể cần đến.

Hình 4-34 Định dạng bản tin GATE và REPORT.

Để gán và yêu cầu băng thông trong một EPON, MPCP sử dụng các bản tin
điều khiển GATE và REPORT 64 byte như cho thấy trong hình 4-34. Các ONU sử
dụng bản tin REPORT để chỉ ra các yêu cầu băng thông tới OLT. Thường điều này
được thực hiện ở dạng chiếm dụng các hàng đợi vì mỗi ONU có một tập các bộ đệm
lưu giữ các khung Ethernet xếp hàng, cái sẵn sàng cho truyền phát hướng lên tới
OLT. Một bản tin REPORT từ một ONU có thể chỉ ra trạng thái lên tới 8 hàng đợi
và mỗi hàng đợi có thể có nhiều ngưỡng. Một ONU cái báo cáo trạng thái 8 hàng
đợi có thể có tới hai ngưỡng mỗi hàng. Nếu ONU chỉ có một hàng đợi thì nó được

146
phép báo cáo tới 13 ngưỡng. Khi thu được một bản tin REPORT, OLT sẽ chuyển
bản tin đó đến thuật toán DBA. Thuật toán DBA này sau đó tính toán việc lập lịch
truyền phát hướng lên của tất cả các ONU. Khi hệ thống DBA hoàn thành lập lịch
hướng lên, OLT sẽ phát các bản tin GATE để cấp phép truyền dẫn cho các ONU.
Một bản tin GATE có thể hỗ trợ lên tới bốn grant truyền dẫn.
c. Định thời truyền dẫn
Đối với một ONU để phát trong một khe thời gian xác định thì nó cần được
đồng bộ với OLT và với các ONU khác. Quá trình định thời được thực hiện qua
một quá trình trao đổi các bản tin điều khiển đồng bộ được đánh nhãn thời gian giữa
OLT và ONU. Do đó một cấp phép truyền dẫn cho một ONU cũng xác định thời
điểm bắt đầu truyền dẫn và độ dài truyền dẫn cho ONU cụ thể đó. Mỗi ONU cập
nhật đồng hồ nội của nó nhờ sử dụng nhãn tem thời gian chứa trong mỗi grant thu
được. Bằng thủ tục này, mỗi ONU đạt được và duy trì sự đồng bộ hóa toàn hệ thống
với phần còn lại của EPON.

Hình 4-35 Thủ tục thiết lập thời gian toàn cục trong một EPON.

Hình 4-35 mô tả thủ tục thiết lập định thời toàn cục theo các bước sau:
- Đầu tiên OLT gửi một bản tin GATE tại thời điểm tuyệt đối T1, cái dựa
trên một đồng hồ hệ thống tại OLT.

147
- Một ONU thu được bản tin GATE tại thời điểm nội bộ TONT2 và thiết lập
lại đồng hồ nội của nó để đọc thời gian tuyệt đối T1.
- ONU sau đó gửi một bản tin REPORT ngược trở lại OLT tại thời điểm
TONT3, cái bây giờ là thời điểm tuyệt đối T2. Do đó, nhãn thời gian trên
bản tin REPORT này đọc T2.
- OLT thu được bản tin REPORT tại thời điểm tuyệt đối T3. Thời gian lộ
trình RTT sau đó được xác định RTT = (T3 – T1) – (T2 – T1) = T3 – T2.
Giá trị này sau đó được sử dụng bởi OLT để tính thời gian bù trề cho
ONU đó.

4.4.3 Ethernet điểm – điểm


Hình 4-36 cho thấy một lựa chọn thay thế cho mạng truy nhập quang
Ethernet điểm - điểm. Trong trường hợp này có các sợi quang dành sẵn chạy giữa
một CO và từng thuê bao. Một trường hợp như vậy đòi hỏi một số lượng lớn các
đường sợi quang với mỗi đường có bộ thu phát của riêng nó. Ví dụ cho rằng mạng
phục vụ 16 thuê bao. Nếu tuyến quang chạy tới từng thuê bao là song hướng thì chế
độ này cần 16 sợi quang. Trong trường hợp các tuyến là đơn hướng thì cần tổng
cộng 32 sợi. Vì mỗi tuyến thuê bao cần các bộ phát và bộ thu tại mỗi đầu, nên hệ
thống cần tổng cộng 32 bộ thu phát quang. Do đó, kiểu mạng này chỉ có ích nếu
mỗi thuê bao đòi hỏi sát với dung lượng được cung cấp bởi một đường Ethernet
dung lượng cao.

Hình 4-36 Kiến trúc mạng truy nhập quang Ethernet điểm – điểm (Home-run)

Lựa chọn khác là để chạy hoặc một sợi song hướng hoặc hai sợi đơn hướng
từ CO tới một chuyển mạch Ethernet đặt tại lân cận các thuê bao như hình 4-37.
Từng đường sợi quang sau đó có thể được chạy từ chuyển mạch tới mỗi thuê bao.

148
Bố trí kiểu mạng này giảm rất lớn số lượng sợi giao tiếp với CO, nhưng bây giờ
việc sử dụng một chuyển mạch Ethernet đòi hỏi nguồn điện trong hệ thống cáp
ngoại vi. Cũng vậy, thêm vào 32 bộ thu phát quang được sử dụng cho các tuyến
giữa các thuê bao và chuyển mạch Ethernet, hoặc hai hoặc bốn bộ thu phát quang
được cần cho tuyến chạy giữa CO và chuyển mạch.
Ngược với các cấu hình mạng P2P này, một EPON phục vụ 16 ONU đòi hỏi
một sợi từ CO tới một bộ chia tách, 17 bộ thu phát quang và không cần cấp nguồn
trên hệ thống cáp ngoại vi.

Hình 4-37 Kiến trúc mạng truy nhập quang Ethernet điểm – điểm sử dụng một chuyển
mạch

4.5 Tổng kết chương


Nội dung chương này đã trình bày những đặc điểm kỹ thuật và công nghệ
của ba chuẩn TDM-PON bao gồm BPON, GPON và EPON. Trong mỗi công nghệ
các vấn đề về kiến trúc, đặc tính kỹ thuật lớp vật lý và giao thức hoạt động MAC đã
được phân tích và giới thiệu.
.

Câu hỏi/ bài tập chương 4


4-1/ Vì thủ tục ranging có độ chính xác giới hạn nên một khoảng thời gian bảo vệ 25,6 ns
được đặt giữa các burst liên tiếp từ các ONU để tránh xung đột. Hãy xác định số bít dành
cho khoảng bảo vệ tại các tốc độ 622 Mbit/s, 1244 Mbit/s và 2,488 Gbit/s.

149
4-2/ Xét một tuyến Ethernet trong đó một trạm phát các khung có trường thông tin 1500
byte liên tục. Giả sử rằng một xung điện gây hư hỏng dữ liệu dài 1 ms xẩy ra trên đường
truyền, hãy tính số khung bị hỏng đối với tốc độ Ethernet là 10 và 100 Mbit/s.

4-3/ Trong mã RS(255,239) mào đầu của mã bao nhiêu? Mã RS(255,239) tác động
đến hiệu năng của tuyến như thế nào?
4-4/ Nếu độ dài tải trọng khung GEM cho truyền tải dữ liệu IP trung bình là 200
byte, hỏi hiệu suất của GEM ?
4-5/ Tính thời gian lộ trình của bản tin gửi qua tuyến sợi quang từ OLT đến các
ONU đặt cách xa 3 và 20 km? Ước tính độ lệch mức công suất tối thiểu giữa tín
hiệu đi tới bộ thu OLT từ hai ONU này?
.

150
Chương 5 Công nghệ PON thế hệ mới

Các mạng PON vẫn tiếp tục phát triển để đáp ứng các yêu cầu về băng thông
và khoảng cách phục vụ. Chương này sẽ đề cập đến xu hướng phát triển tiếp theo
của PON. Một số kỹ thuật tiềm năng có thể được sử dụng trong các chuẩn PON
tương lai cũng sẽ đề cập ở chương này.

5.1 Xu hướng phát triển mạng PON


Mạng PON có những ưu điểm như đơn giản trong thiết kế, chi phí vận hành
và bảo dưỡng thấp. Tuy nhiên, mạng PON cũng gặp phải những thách thức trong
quá trình triển khai dịch vụ. Để đáp ứng được nhu cầu thông tin ngày càng tăng và
sự phát triển không ngừng của các ứng dụng và dịch vụ thì mạng PON phải đáp ứng
được nhu cầu về băng thông là rất lớn. Vì vậy, việc tiếp tục phát triển hệ thống PON
là cần thiết.
Các hạn chế của hệ thống PON hiện tại:
- Băng thông bị hạn chế. Tiêu chuẩn EPON hiện tại, tốc độ dữ liệu đường
xuống và lên là 1.25 Gbit/s và tỷ lệ chia tối đa là 1: 32. Với GPON, tốc độ
đường xuống là 2.5 Gbit/s, tốc độ đường lên là 1.25 Gbit/s và tỉ lệ chia tối đa
là 1:64, tương đương lưu lượng trung bình cho mỗi ONU khoảng 40 - 80
Mbit/s.
- Triển khai dịch vụ không linh hoạt. Trong hệ thống TDM-PON hiện tại,
mỗi OLT chỉ có thể hỗ trợ 32 ONU trong phạm vi 10 - 20 km. Nói cách
khác, TDM-PON hiện tại cần một lượng lớn CO và các thiết bị để hỗ trợ một
số lượng lớn thuê bao. Mật độ cao về cơ sở hạ tầng dẫn đến khó khăn trong
công tác bảo trì. Mô hình này không linh hoạt và không kinh tế khi muốn mở
rộng quy mô.
- Sử dụng năng lượng không hiệu quả. Trong mạng truy nhập quang hiện
nay, một bộ chia thụ động được sử dụng và năng lượng được phân bổ đồng
đều giữa các người sử dụng. Điều này dẫn tới sự dư thừa năng lượng khá lớn
vì sẽ tồn tại các thuê bao không sử dụng nhưng vẫn nhận được một lượng
năng lượng như những thuê bao đang sử dụng.

151
- Dễ bị tấn công. Khi số lượng các dịch vụ và khách hàng được hỗ trợ tăng
nhanh hơn cơ sở hạ tầng truy cập cáp quang, các mạng truy nhập quang hiện
nay, do tính chất thụ động nên thiếu cơ chế để chống lại các cuộc tấn công
mạng.
Vì các yếu tố trên mà việc tiếp tục phát triển mạng truy nhập quang để có thể
đáp ứng được nhu cầu hiện tại và tương lai là hết sức bức thiết. Sau khi xây dựng
xong các khuyến nghị liên quan đến mạng GPON, bắt đầu từ năm 2007, FSAN và
ITU-T tiếp tục nghiên cứu PON thế hệ sau (NG-PON). Dựa trên nhu cầu về dịch vụ,
khả năng của công nghệ hiện tại cũng như trong tương lai, FSAN chia NG-PON
thành hai giai đoạn NG-PON1 và NG-PON2. Trong đó NG-PON1 là giai đoạn
trung gian, có khả năng tương thích với ODN của mạng G-PON hiện tại. NG-PON2
là mục tiêu dài hạn trong tiến trình phát triển của mạng PON. NG-PON2 có thể sẽ
triển khai trên mạng ODN mới, độc lập với các tiêu chuẩn của GPON.

Hình 5-1 Các giai đoạn phát triển của mạng PON

Các yêu cầu đối chung với NG-PON1 bao gồm: dung lượng tổng của hệ
thống lớn hơn, băng thông cho mỗi thuê bao lớn hơn, vùng phục vụ rộng hơn và
phục vụ được nhiều thuê bao hơn. NG-PON1 phải sử dụng được ODN của mạng
GPON hiện tại để giảm thiểu chi phí. Bên cạnh đó, do trong một thời gian dài nữa,
nhu cầu về lưu lượng đường xuống vẫn lớn hơn rất nhiều so với nhu cầu lưu lượng
đường lên, nên FSAN đã định nghĩa NG-PON1 là một hệ thống 10 Gbit/s bất đối
xứng: 10 Gbit/s cho đường xuống và 2.5 Gbit/s cho đường lên. Công nghệ sử dụng
cho NG-PON1 về căn bản vẫn là TDM-PON được phát triển lên từ công nghệ đã sử
dụng cho GPON.

152
Không giống như NG-PON1, một số công nghệ tiềm năng có thể sẽ được lựa
chọn cho NG-PON2 với mục tiêu là đạt được dung lương 40 Gbit/s. Các công nghệ
này đi theo một số hướng như sau:
- Tiếp tục sử dụng công nghệ TDM
- Mạng WDM-PON: sử dụng công nghệ CWDM và DWDM
- Mạng ODSM-PON: kết hợp sử dụng công nghệ TDMA và WDMA
- Mạng OCDMA-PON: sử dụng công nghệ OCDMA
- Mạng O-OFDM-PON: sử dụng công nghệ O-OFDM
Tuy nhiên, phần lớn các công nghệ này đều hiện đang trong giai đoạn nghiên
cứu, đánh giá trước khi có thể được ban hành thành các chuẩn cho mạng NG-PON2.

5.2 Các công nghệ PON miền quang khác


Các công nghệ PON miền quang là các công nghệ PON mà phần truy nhập
sử dụng công nghệ quang. Các công nghệ này cho phép truyền tải nhiều loại tín
hiệu có tốc độ và dạng tín hiệu khác trên cùng một mạng PON. Tuy nhiên, đứng ở
góc độ chi phí, các công nghệ PON miền quang sẽ đắt hơn các công nghệ TDM.
Các giải pháp để giảm giá thành của các công nghệ này hiện vẫn đang tiếp tục được
nghiên cứu. Một hạn chế khác nữa của tất cả các công nghệ PON miền quang so với
công nghệ TDMA là không thực hiện được ghép kênh thống kê trên PON. Vì vậy
hạn chế khả năng sử dụng băng tần hiệu quả tại giao diện OLT PON.
Ứng dụng quan trọng của công nghệ PON miền quang trong giai đoạn hiện
nay là dùng để tải các giao thức TDMA PON với mục đích là tăng số ONU và/hoặc
tăng tốc độ dịch vụ cho các thuê bao trên mạng PON. Trong phần này sẽ đề cập đến
một số công nghệ PON miền quang như WDMA-PON, CDMA-PON và OFDMA-
PON.

5.2.1 WDM-PON
a. Khái quát về WDMA-PON
Trong công nghệ WDMA-PON, OLT sẽ sử dụng riêng biệt từng cặp bước
sóng, trong đó một bước sóng cho truyền dẫn hướng lên và một bước sóng cho
truyền dẫn hướng xuống để kết nối với mỗi ONU về mặt logic giống như kết nối
điểm-điểm. Nói cách khác, công nghệ WDM được sử dụng thay cho công nghệ
TDMA để thực hiện ghép kênh tín hiệu của các thuê bao vào mạng PON. Với

153
WDMA-PON, phần mạng ODN sẽ sử dụng các bộ ghép kênh WDM thay cho các
bộ chia quang, do đó mỗi ONU chỉ nhận đúng bước sóng được dành riêng cho ONU
đó. Vì băng thông của mỗi bước sóng không bị chia sẻ cho nhiều thuê bao nên
WDM-PON cho phép mỗi thuê bao được sử dụng băng thông rất lớn và không phụ
thuộc vào dạng tín hiệu của thuê bao tại ONU.

Hình 5-2 Kiến trúc mạng WDMA-PON

Lưới bước sóng WDM đã được ITU-T chuẩn hóa đầu tiên là để sử dụng cho
mạng lõi và mạng metro quang. Sau này, mạng WDM-PON cũng sử dụng lưới bước
sóng này (minh họa trên hình 5-3). Lưới bước sóng CWDM có khoảng cách 20 nm
giữa các kênh bước sóng. Với DWDM, khoảng cách giữa các kênh thường được
tính theo tần số thay cho bước sóng. Trong khuyến nghị ITU-T G.694.1 qui định cả
khoảng cách kênh 50 GHz và 100 GHz cho DWDM. Nếu toàn bộ dải bước sóng
dùng các kênh có khoảng cách 50 GHz thì sẽ có 1000 kênh bước sóng. Tuy nhiên,
chỉ có vùng bước sóng 1539-1582 nm là vùng thích hợp nhất cho truyền dẫn hướng
lên vì vùng này có suy hao thấp, công nghệ nguồn quang ở vùng bước sóng này
cũng đã rất phát triển, và hơn nữa, vùng này thích hợp cho việc sử dụng EDFA.
Khi sử dụng công nghệ DWDM cần phải lưu ý rằng, bước sóng phát ra của
laser thay đổi theo nhiệt độ. Do đó, để duy trì bước sóng phát ra của laser nằm trong
giới hạn của kênh cần phải sử dụng các phần tử làm mát để ổn định nhiệt độ cho
laser. Đối với các laser ở OLT, ổn định nhiệt độ không phải là vấn đề vì các OLT
thường được đặt tại trạm trung tâm nên mức độ dao động nhiệt độ tại đây không
nhiều. Hơn nữa, đường xuống cũng cần nhiều băng thông hơn nên công nghệ
DWDM sẽ được lựa chọn cho tín hiệu đường xuống. Với các thiết bị ONU, do các
thiết bị này nằm ở mạng ngoại vi nên các nguồn laser tại ONU sẽ chịu tác động của
thay đổi nhiệt độ khá lớn. Ổn nhiệt cho các nguồn laser này sẽ cần chi phí khá lớn.
Để giảm bớt chi phí, công nghệ CWDM sẽ được dùng cho tín hiệu đường lên (vì
154
CWDM sẽ cho phép mức độ dao động bước sóng lớn hơn DWDM). Tuy nhiên, với
CWDM, lưới bước sóng được qui định trong ITU-T G.694.2 chỉ gồm có 18 bước
sóng trong dải bước sóng từ 1271 nm đến 1611 nm với khoảng cách giữa các kênh
bước sóng là 20 nm. Như vậy, nếu dùng CWDM cho đường lên, mạng WDMA-
PON sẽ chỉ có tối đa 18 ONUs được phục vụ.

Hình 5-3 Lưới bước sóng của ITU-T qui định cho WDM

b. Công nghệ trong mạng WDMA-PON


Hạn chế lớn nhất của WDMA-PON là chi phí khá lớn cho các phần tử quang
được sử dụng để tạo và lọc các bước sóng khác nhau. Tại OLT, một số thành phần
có thể dùng chung, cho phép chia sẻ chi phí cho nhiều kết nối ONU. Các chi phí
liên quan đến ONU mới là vấn đề vì chi phí này không thể chia sẻ được cho nhiều
thuê bao. Hơn nữa trong mạng WDMA-PON, mỗi thuê bao dùng riêng một bước
sóng nên sản xuất riêng từng ONU cho từng thuê bao là một điều không khả thi. Ý
tưởng “colorless” ONU được đưa ra để giải quyết vấn đề này. Theo đó, mỗi ONU
sẽ không có một bước sóng đường lên cố định mà có thể thay đổi linh hoạt trong
một phạm vi nào đó, cho phép tạo ra được nhiều bước sóng khác nhau. Có rất nhiều
giải pháp đã được đề xuất để tạo ra được “colorless ONU”, bao gồm:
- Lắp thêm module quang để lựa chọn bước sóng cho ONU.
- Sử dụng laser khả chỉnh bước sóng tại ONU.
- Sử dụng giải pháp cắt phổ tại ONU hoặc trong mạng PON.

155
- Sử dụng giải pháp phản xạ (hay còn gọi là kỹ thuật tái điều chế sóng
mang), trong đó OLT sẽ cung cấp tín hiệu sóng mang quang cho OLT và
mỗi ONU sẽ điều chế tín hiệu lên sóng mang quang đó và gửi trở lại
OLT.
- Sử dụng tín hiệu đường xuống để điều khiển bước sóng phát ra của laser
tại ONU: kỹ thuật khóa bơm quang.
Sử dụng laser khả chỉnh là giải pháp khá linh hoạt nhưng không hiệu quả về
chi phí cho mạng PON. Với giải pháp cắt phổ, một nguồn quang với phổ rộng thích
hợp sẽ được sử dụng tại ONU, ví dụ như nguồn SSLED. Các bộ lọc được sử dụng
để lựa chọn bước sóng cho truyền dẫn của ONU. Tuy nhiên với giải pháp này vẫn
cần phải thêm các bộ lọc khác nhau cho từng ONU. Một giải pháp khác khả thi hơn
là sử dụng lọc bước sóng tại OLT, tức là chức năng lọc bước sóng được chuyển từ
ONU về OLT. Hạn chế chính của giải pháp cắt phổ là khó đảm bảo đủ công suất
cho truyền dẫn hướng lên của từng bước sóng.
Trong giải pháp phản xạ, OLT sẽ cung cấp tín hiệu sóng mang quang cho
từng ONU. ONU sẽ phản xạ và điều chế tín hiệu này để tạo ra tín hiệu cho truyền
dẫn hướng lên. Có hai phương pháp cơ bản để OLT có thể tạo ra sóng mang cho
truyền dẫn hướng lên của ONU. Phương pháp thứ nhất là OLT gửi một sóng mang
liên tục đến ONU tại bước sóng đường lên cùng với tín hiệu đường xuống (tín hiệu
này có bước sóng đường xuống). Phương pháp thứ hai là ONU thực hiện điều chế
trên tín hiệu đường xuống thu được để tạo ra tín hiệu đường lên.
Khuếch đại quang bán dẫn phản xạ (RSOA) là một trong các cách để thực
hiện giải pháp phản xạ. RSOA, nhìn chung là SOA mà có một hoặc cả hai mặt
phẳng tại hai đầu của buồng cộng hưởng là không phản xạ. Điều này cho phép
RSOA có thể khuếch đại tín hiệu nhờ bơm điện mà không phát laser. Vì RSOA
không cần thiết phải hoạt động như một laser nên nó có thể khuếch đại một dải
bước sóng đủ lớn, bao phủ băng tần tín hiệu đường lên WDM. Một trong các cách
thực hiện là điều chế RSOA một cách trực tiếp. Cách này khá đơn giản, tuy nhiên
chất lượng bị hạn chế do thời gian sống của các photon lớn nên chỉ thích hợp với
tốc độ 2.5 Gbit/s trở xuống. Một cách khác để thực hiện là sử dụng bộ điều chế hấp
thụ quang tại một đầu của buồng cộng hưởng trong RSOA và mặt phản xạ tại đầu
còn lại (như trên hình 5-4).

156
Hình 5-4 Minh họa sử dụng RSOA kết hợp với bộ điều chế

Để gửi tín hiệu đường lên, bộ điều chế cho phép tín hiệu sóng mang đi vào
RSOA, tại đây tín hiệu được khuếch đại khi phản xạ qua lại vùng tích cực của
RSOA. Các thử nghiệm gần đây cho thấy rằng có thể đạt được tốc độ truyền dẫn
đường lên là 2.5 Gbit/s với tỷ số phân biệt là 8 dB và độ thiệt thòi là 2 dB cho tuyến
truyền dẫn sợi quang dài 20 km tại bước sóng 1550 nm.
Giải pháp sử dụng tín hiệu đường xuống để điều khiển bước sóng phát ra của
laser ONU cũng tương tự như giải pháp phản xạ. Ví dụ như chèn tín hiệu đường
xuống vào laser VCSEL sẽ làm cho đầu ra của VCSEL bị khóa theo bước sóng
giống như bước sóng của tín hiệu đường xuống.

Hình 5-5 Mô hình của AWG

Ngoài các vấn đề liên quan đến ONU, một thách thức nữa đối với mạng
WDM-PON là phải tạo ra được các bộ lọc bước sóng có giá thành không cao. Công
nghệ cách tử mảng ống dẫn sóng (AWG) được lựa chọn để làm các bộ lọc này.
AWG là thiết bị thụ động, ít bị ảnh hưởng bởi nhiệt độ nên phù hợp để sử dụng

157
trong môi trường mạng ngoại vi. Có thể thực hiện dựa trên công nghệ silica-on-
silica (là công nghệ sử dụng để chế tạo mạch tích hợp quang) nên triển vọng là sẽ có
giá thành hợp lý. Bộ lọc AWG, tùy thuộc vào khoảng cách giữa các kênh bước sóng
và có thể được chế tạo để lọc tới 80 bước sóng. Nếu số lượng bước sóng lớn hơn
hoặc khoảng cách giữa các kênh bước sóng hẹp hơn sẽ làm thiết kế của AWG trở
nên phức tạp hơn.
Trên hình 5.5 là mô hình của một AWG. Ánh sáng tại đầu vào của sợi sẽ đi
qua một vùng không gian tự do và đi vào nhiều ống dẫn sóng. Các ống dẫn sóng
này có chiều dài tăng dần với độ tăng là giống nhau giữa các ống liền kề. Đặc biệt,
độ tăng này là bằng số nguyên lần bước sóng trung tâm của bộ lọc. Sự khác nhau về
chiều dài của các ống dẫn sóng sẽ tạo ra một độ dịch pha tương đối giữa các bước
sóng của tín hiệu khi đi qua ống dẫn sóng. Tại đầu ra của ống dẫn sóng, các bước
sóng này lại kết hợp lại với nhau trong vùng không gian tự do thứ hai. Ánh sáng
đưa vào các sợi đầu ra là ánh sáng đã được lựa chọn bước sóng. Các bước sóng
khác nhau sẽ được đưa đến các sợi đầu ra khác nhau.
c. Ứng dụng
WDMA-PON so với TDMA-PON có ưu điểm hơn về tính linh hoạt trong
việc có thể truyền tải nhiều loại lưu lượng khác nhau và tốc độ cao hơn đến các thuê
bao.
Hơn nữa, do mạng WDMA-PON sử dụng bộ lọc quang (bộ lọc này có suy
hao ít hơn rất nhiều so với các bộ chia quang sử dụng trong mạng TWDM-PON),
nên có thể đạt được cự ly tuyền dẫn lớn hơn và/hoặc phục vụ nhiều ONU hơn so với
mạng TWDM-PON. Ví dụ, với bộ chia quang 1:32, suy hao của tín hiệu khi đi qua
bộ chia là 18.4 dB. Trong khi đó, nếu sử dụng bộ tách ghép bước sóng, thì suy hao
tín hiệu chỉ là 3.5 dB. Như vậy với WDMA-PON sẽ có quỹ công suất lớn hơn
khoảng 15 dB so với TWDM-PON.
Kết hợp sử dụng DWDM/TDMA PON cũng là một hướng ứng dụng. Kết
hợp sử dụng hai công nghệ này đã được đề xuất cho chuẩn NG-PON2.

5.2.2 CDMA-PON
Công nghệ CDMA cũng có thể được sử dụng trong mạng PON. Một trong
các ưu điểm của CDMA-PON là mỗi ONU có thể sử dụng cho tín hiệu có tốc độ và
định dạng khác nhau tương ứng với tín hiệu client được gửi đến từ phía thuê bao.
CDMA quang cũng có thể sử dụng kết hợp với WDM để tăng băng tần cho mạng.

158
Ý tưởng của công nghệ CDMA là tải nhiều tín hiệu client với phổ truyền dẫn
của các tín hiệu này được trải ra trên cùng một kênh truyền dẫn. Các ký hiệu từ các
tín hiệu thành phần được mã hóa sao cho có thể nhận ra được bởi bộ giải mã. Trong
các hệ thống vô tuyến, kỹ thuật trải phổ một băng tần là kỹ thuật sử dụng nhảy tần
số giả ngẫu nhiên giữa các tần số sóng mang khác nhau. Một kỹ thuật khác là thực
hiện mã hóa các ký hiệu (ví dụ 0 và 1) của mỗi tín hiệu client bằng một chuỗi các
ký hiệu dài hơn với tốc độ bit cao hơn, các tín hiệu client khác nhau sẽ sử dụng các
giá trị chuỗi khác nhau cho tín hiệu của chúng. Kỹ thuật này được gọi là trải phổ
chuỗi trực tiếp và được sử dụng cho CDMA quang. CDMA chuỗi trực tiếp quang
có thể được thực hiện với các bộ lọc nhiễu xạ thụ động, ví dụ như cách tử nhiễu xạ
Bragg hoặc các loại cách tử khác.

Hình 5-6 Minh họa sơ đồ mạng CDMA-PON

Trên hình 5-6 minh họa nguyên lý hoạt động của CDMA-PON. Bộ mã hóa
và bộ giải mã có thể sử dụng cùng một cách thực hiện. Tín hiệu được đưa vào một
đầu của bộ lọc. Khi tín hiệu truyền đi qua bộ lọc, cách tử sẽ tạo nên sự giao thoa
giữa các tín hiệu khi chúng bị phản xạ. Kết quả là khi tín hiệu phản xạ trở lại và đi
ra khỏi đầu ra của bộ lọc đã bị thay đổi cả về pha và biên độ so với tín hiệu ban đầu
với mức độ trải rộng của ký hiệu phụ thuộc vào thời gian tín hiệu đi qua bộ lọc. Tại
bộ mã hóa, ký hiệu đầu vào, vì vậy được chuyển đổi thành ký hiệu trải phổ. Tại bộ

159
thu, hoạt động diễn ra theo chiều ngược lại, biến đổi ký hiệu bị trải phổ thu được
thành ký hiệu gốc ban đầu.
Trong truyền dẫn hướng lên, mỗi CDMA-PON ONU sẽ sử dụng một mẫu
cách tử duy nhất để mã hóa các ký hiệu mà ONU sẽ gửi đi. Do tính tuyến tính của
bộ lọc Bragg, băng tần trải phổ sẽ tỷ lệ với số lượng ONU. Như minh họa trên hình
5-6, OLT chia tín hiệu quang thu được đến nhiều bộ lọc nhiễu xạ để khôi phục lại
tín hiệu do các ONU gửi đến. Ngoài cách tử Bragg, các bộ phát và bộ thu quang
CDMA cũng có thể dụng các loại cách tử khác, và có thể kết hợp cả xử lý quang và
xử lý điện để loại bỏ ảnh hưởng của xuyên kênh tại bộ thu.
Khi sử dụng cách tử, cần lưu ý đến ổn định nhiệt vì sự co/dãn của cách tử
trong bộ lọc sẽ làm thay đổi mẫu cách tử. Tuy nhiên với nguồn laser sử dụng trong
hệ thống CDMA quang, không yêu cầu phải ổn định nhiệt độ.
Một số công nghệ mã hóa pha khác cũng có thể sử dụng cho CDMA quang
như AWG, bộ lọc VIPA, bộ cộng hưởng MRR, phản xạ Bragg HBR.
Bên cạnh các ưu điểm, thì công nghệ CDMA-PON cũng có một số hạn chế.
Một trong các nhược điểm của CDMA-PON là phải dụng khuếch đại quang để đảm
bảo tỷ số SNR. Bộ chia thụ động tại phía thu sẽ gây suy hao tối thiểu 3 dB trên một
mức chia. Các bộ lọc và bộ cách ly quang cũng tạo thêm suy hao. Do đó, nếu không
dùng khuếch đại quang sẽ chỉ cho phép tỷ lệ chia tối đa tại ONU là 2:1 và tại OLT
là 8:1. Một yếu tố khác cũng giới hạn tỷ lệ chia là số lượng mã trực giao. Số lượng
này cũng bị hạn chế, trừ khi sử dụng các bộ mã khác phức tạp hơn. Ngoài ra, các bộ
thu của CDMA-PON cũng khá phức tạp. Do đó, nếu xét về hiệu quả kinh tế,
CDMA-PON sẽ thua kém các công nghệ PON khác.

5.2.3 OFDM-PON
Nguyên lý cơ bản của OFDM là chia băng tần sẵn có thành nhiều khe tần số
có một phần chồng lên nhau. Tần số trung tâm của mỗi khe này được gọi là tần số
sóng mang phụ và bị chồng lên nhau được tính toán sao cho không có sự xuyên
nhiễu giữa các khe tần số. Thông thường, tần số trung tâm của các khe tần số (tức là
sóng mang phụ) được chọn như sau:
fn = n/T, (n = 1, 2, 3,….N)
trong đó T là chu kỳ ký tự của mỗi sóng mang phụ.

160
Với cách chọn tần số sóng mang như vậy, phổ của tín hiệu sẽ có dạng như
trên hình 5-7. Phổ tần số của mỗi khe sẽ có giá trị không tại tần số trung tâm của tất
cả các khe khác. Các sóng mang này là trực giao với nhau.

Hình 5-7 Phổ tín hiệu OFDM

Sử dụng kỹ thuật ghép kênh OFDM sẽ làm giảm ảnh hưởng của tán sắc CD
và tán sắc PMD lên tín hiệu. Ưu điểm khác nữa của OFDM là có thể thực hiện tại
thiết bị phát dựa trên kỹ thuật FFT sử dụng DSP. Phương pháp FFT cho phép dạng
điều chế tín hiệu tương thích với từng thuê bao. Ví dụ, điều chế M-QAM có thể sử
dụng trên sóng mang phụ, trong đó giá trị M được chọn tùy theo yêu cầu về chất
lượng của khe tần số đó.
Như đã đề cập đến ở trên, mỗi sóng mang phụ sẽ tạo ra một kênh truyền dẫn
độc lập giữa OLT và ONU. Khi kết hợp với TDMA, một sóng mang phụ có thể
được dùng chung cho nhiều ONU. Hơn nữa, hiệu quả băng tần cũng có thể được
tăng thông qua việc gán động các khe thời gian TDMA và các sóng mang OFDM
cho các ONU trong mạng PON. Ví dụ về việc phân bổ các khe thời gian và sóng
mang phụ được minh họa trên hình 5-8.

Hình 5.8 Phân bổ băng tần OFDMA

161
Trong ví dụ này có thể thấy rằng, các tín hiệu client TDMA hoặc RF (màu
xám) sẽ chiếm một tần số. Các tín hiệu ghép kênh kiểu gói (màu trắng) sẽ chiếm kết
hợp cả khe thời gian và khe tần số, với lượng băng tần được phân bổ động cho các
từng tín hiệu client. Trên hình 5-9 minh họa việc làm thế nào để phân bổ thời gian
và tần số của OFDMA có thể được sắp xếp vào một tập các ONU trong khung
OFDMA.

Hình 5-9 Phân bổ băng tần OFDMA cho các ONU trong khung OFDMA

Cũng giống như các giao thức PON khác, OLT sẽ phân bổ tần số và khe thời
gian cho ONU. Thông tin này được tải trong phần mào đầu của tín hiệu đường
xuống. Với truyền dẫn hướng lên, mỗi ONU sẽ tạo ra một tín hiệu OFDM dựa trên
các sóng mang được phân bổ cho nó.
Vì các tín hiệu OFDMA không bị ảnh hưởng của PMD nên có thể kết hợp
với các kỹ thuật trong miền quang khác như ghép kênh theo phân cực để tăng hiệu
quả sử dụng băng tần của sợi quang. Các hệ thống metro và các hệ thống đường trục
sử dụng bộ thu coherent để thu được tín hiệu phân cực. Tuy nhiên, các công nghệ
này quá đắt trong mạng PON nên ONU thường sử dụng thu trực tiếp với ưu điểm là
thực hiện đơn giản và chi phí thấp.
Một ưu điểm khác của OFDMA là các ONU có thể sử dụng cùng một bước
sóng do sử dụng các sóng mang hoặc các khe thời gian khác nhau. Sử dụng một
bước sóng sẽ giúp loại bỏ được các vấn đề của WDMA ONU “colorless”. Sử dụng
chung một bước sóng cho đường lên, tuy nhiên đòi hỏi OLT phải sử dụng kỹ thuật
thu coherent để tránh giao thoa giữa các tín hiệu hướng lên do các ONU gửi đến.
Cần lưu ý rằng, các bộ thu coherent yêu cầu nguồn quang phải phát ra bước sóng
chính xác. Điều này không thể thực hiện tại ONU vì ONU không được ổn định
nhiệt độ. Cũng có thể sử dụng OLT để gửi bước sóng cho ONU (như đề cập đến
trong phần 5.2.1.b), lúc đó trong ONU sẽ không cần phải có nguồn quang.

162
Hiện tại, giá thành của các hệ thống OFDMA-PON vẫn đang khá cao.
Nguyên nhân là do chi phí của các thành phần như ADC, DAC, và các thành phần
thực hiện DSP.

5.3 Công nghệ NG-PON1


Yêu cầu chung đối với mạng NG-PON1 là cung cấp được tốc độ truyền dẫn
cao hơn mạng GPON và có thể dùng chung mạng ODN với GPON nhằm tận dụng
được chi phí đầu tư của các nhà mạng trước đó cho mạng GPON. NG-PON1 còn
được gọi là XG-PON với tốc độ hướng lên là 2.5 Gbit/s (gấp hai lần GPON) và tốc
độ hướng xuống xuống là 10 Gbit/s (gấp bốn lần GPON). XG-PON sử dụng ODN
của GPON, tức là sử dụng được toàn bộ phần sợi quang và các bộ chia quang của
mạng GPON hiện tại.
Là sự mở rộng của GPON nên XG-PON sử dụng toàn bộ các qui định về
phân khung và quản lý của GPON. Tuy nhiên XG-PON cung cấp tất cả các dịch vụ
với tốc độ cao hơn và tỷ lệ chia lớn hơn.
Mạng XG-PON được định nghĩa trong một loạt các khuyến nghị ITU-T
G.987.x, trong đó đưa ra lộ trình để tăng băng tần cung cấp cho thuê bao mà vẫn
tương thích với mạng G-PON. Về cơ bản, tính tương thích đạt được bằng cách phân
bổ bước sóng cho XG-PON sao cho không can nhiễu đến G-PON khi mà cả XG-
PON và G-PON cùng sử dụng một mạng ODN. Các dịch vụ mà XG-PON phải cung
cấp bao gồm:
- Đối với mạng FTTH: dịch vụ thoại, truyền hình, truy nhập internet tốc độ
cao cho các hộ gia định
- Đối với mạng FTTO: dịch vụ thuê kênh, L2 VPN (ví dụ như các dịch vụ
ethernet), các dịch vụ IP (ví dụ VoIP, L3 VPN) cho các khách hàng
doanh nghiệp
- FTTCell: cho wireless backhaul

5.3.1 Kiến trúc mạng XG-PON


XG-PON có kiến trúc điểm - đa điểm giống như trong mạng GPON và có thể
đáp ứng được nhiều kịch bản truy nhập khác nhau như FTTH, FTTCell, FTTCurb,
FTTCabinet. Các kịch bản ứng dụng của XG-PON được thể hiện trên hình 5-10.

163
Hình 5-10 Các kịch bản ứng dụng của XG-PON

XG-PON tồn tại cùng với GPON trên cùng một ODN. Như chỉ ra trong các
tiêu chuẩn liên quan đến lớp vật lý của XG-PON, bước sóng dành cho đường xuống
và đường lên của XG-PON khác với GPON. Sự tương thích giữa XG-PON và
GPON đạt được bằng cách sử dụng WDM cho đường xuống và WDMA cho đường
lên, tức là WDM1r được sử dụng tại trạm trung tâm (CO) và WBF được sử dụng tại
phía thuê bao (có thể đặt ngay trong ONU, giữa ONU và bộ chia quang, hoặc đặt
ngay tại bộ chia quang) để thực hiện ghép và tách các kênh bước sóng của các tín
hiệu đường xuống và đường lên. Mạng XG-PON và GPON tồn tại trên cùng một
mạng được minh họa trên hình 5-11.

164
Hình 5-11 XG-PON và GPON tồn tại trên cùng một mạng nhờ sử dụng WDM1r

5.3.2 Các tiêu chuẩn liên quan đến lớp vật lý


Các tiêu chuẩn liên quan đến lớp vật lý của XG-PON đã được ITU-T ban
hành vào tháng 3/2010. Trên bảng dưới đây là các chỉ tiêu liên quan đến lớp vật lý
của XG-PON.
Bảng 5.1 Các chỉ tiêu liên quan đến lớp vật lý của XG-PON

Tham số Chỉ tiêu Ghi chú


Tuân theo tiêu chuẩn ITU-T
Sợi quang (*)
G.652
Đường lên: 1260 đến 1280 nm
Bước sóng (**)
Đường xuống: 1575 đến 1580 nm
N1: 14 đến 29 dB
N2: 16 đến 31 dB
Quĩ công suất (***)
E1: 18 đến 33 dB
E2: 20 đến 35 dB
Đường lên: 2.48832 Gbit/s
Tốc độ bit
Đường xuống: 9.95328 Gbit/s
Tối thiểu 1:64
Tỷ lệ chia Có thể mở rộng lên 1:128 và
1:256
Khoảng cách truyền dẫn vật lý
Tối thiểu 20 km
cực đại
Khoảng cách truyền dẫn logic
Tối thiểu 60 km
cực đại
Độ khác biệt lớn nhất cho phép
của khoảng cách truyền dẫn Có thể lên đến 40 km
logic
(*) Các sợi mới tuân theo khuyến nghị ITU-T G.657 cũng có thể dùng cho XG-PON1.

(**) Với các ứng dụng outdoor, bước sóng dành cho đường xuống có thể mở rộng trong
dải từ 1575 đến 1581 nm.

(***) XG-PON qui định hai loại quĩ suy hao danh định khi không sử dụng khuếch đại
quang (N1 và N2) và hai quĩ suy hao mở rộng (E1 và E2) khi có sử dụng khuếch đại quang

165
(tiền khuếch đại hoặc khuếch đại công suất) cho phép mở rộng quĩ suy hao thêm 4 dB so
với quĩ suy hao danh định.

Một trong các khó khăn đối với hệ thống PON là truyền dẫn và thu ở chế độ
burst quang, đặc biệt khi hệ thống hoạt động ở tốc độ cao. Với tốc độ từ 5 Gbit/s trở
lên, thực hiện một bộ thu trong OLT ở chế độ burst sẽ trở nên phức tạp hơn nhiều.
Các rào cản kỹ thuật ở đây liên quan đến tốc độ và độ chính xác mà tại đó bộ thu có
thể thích ứng ngưỡng thu với từng burst và khôi phục được tín hiệu định thời. Ngay
cả trong trường hợp có thể giải quyết được các hạn chế này thì khung thời gian cũng
là không rõ ràng. Giải pháp sử dụng công nghệ WDM cho hướng lên để tạo ra
luồng Nx2.5 Gbit/s cũng đã được FSAN cân nhắc. Tuy nhiên, với giải pháp WDM
sẽ nảy sinh vấn đề phải tương thích với phổ của GPON vì XG-PON dùng chung
ODN với GPON. Ngoài ra phần truy nhập quang cũng sẽ trở nên phức tạp hơn và
phải dùng nhiều bộ lọc hơn, do đó cũng làm tăng suy hao trên mạng. Vì các lý do
này và hơn nữa, do các thành phần 2.5Gbit/s hiện đã có sẵn trên thị trường nên
FSAN lựa chọn tốc độ đường lên của XG-PON là 2.5 Gbit/s.
Tốc độ đường lên chính xác của XG-PON là 2.48832 Gbit/s, đúng bằng một
phần tư tốc độ của đường xuống và cũng bằng tốc độ của SDH STM-16 (hoặc
SONET STS-48), do đó đơn giản hóa được việc tích hợp hệ thống vào mạng đồng
bộ chung.
Mã truyền dẫn NRZ cùng với trộn ngẫu nhiên được sử dụng cho tín hiệu
XG-PON cả đường xuống và đường lên tương tự như GPON.
Dải bước sóng 1260 đến 1280 nm được phân bổ cho đường lên và từ 1575
đến 1580 nm được phân bổ cho đường xuống (có thể mở rộng đến 1581 nm cho các
ứng dụng outdoor) của XG-PON1 (như minh họa trên hình 5-12).

166
Hình 5-12 Phân bổ bước sóng cho mạng XG-PON

Lưu ý rằng, không giống EPON và 10G EPON, giữa băng bước sóng đường
lên của XG-PON và GPON không có sự chồng lấn. Nhờ đó, việc thực hiện bộ thu
trong OLT được đơn giản.

5.3.3 Lớp hội tụ tuyền dẫn và cấu trúc khung


a. Lớp hội tụ truyền dẫn
Lớp hội tụ truyền dẫn của XG-PON (XGTC) gồm có ba phân lớp theo cả
hướng lên và hướng xuống: phân lớp thích ứng dịch vụ XGTC, phân lớp đóng
khung XGTC và phân lớp thích ứng XGTC PHY.
Phân lớp thích ứng dịch vụ sử dụng phương pháp đóng gói tin XG-PON
(XGEM) để sắp xếp các đơn vị dữ liệu dịch vụ (SDUs) vào trong khung XGTC.
SDUs bao gồm cả dữ liệu người sử dụng và các bản tin OMCI. Thích ứng dịch vụ
XGTC hỗ trợ việc đọc khung XGEM, lọc XGEM Port-ID, phân mảnh và tập hợp
khung SDU.
Phân lớp đóng khung XGTC thực hiện các chức năng liên quan đến khung
XGTC. Ngoài các chức năng đọc khung XGTC cơ bản, phân lớp này còn hỗ trợ ba
chức năng khác, cụ thể gồm:
- Ghép/tách thông tin XGTC và PLOAM trong các khung hướng lên và
hướng xuống
- Tạo/giải mã tiêu đề bao gồm cả ghép xen và tách OAM
- Định tuyến dựa trên Alloc-ID nội đối với dữ liệu từ/đến bộ thích ứng
XGTC
Trong truyền dẫn hướng lên, OLT sử dụng bản đồ BW đã gửi cho ONU để
xác định và thực hiện tách kênh các nội dung trong khung hướng lên.
Phân lớp thích ứng XGTC PHY liên quan đến mào đầu của lớp vật lý, mã
đường truyền và FEC. Các chức năng cụ thể của lớp này như sau:
- Đồng bộ lớp vật lý, gồm ghép xen và đọc các khối đồng bộ lớp vật lý
PSB cho việc khôi phục định thời.
- Hỗ trợ FEC cho cả hai chiều lên và xuống
- Trộn dữ liệu với đa thức trộn x58+x39+1

167
- Sử dụng mã đường truyền NRZ
Phần tiếp theo sẽ trình bày chi tiết dạng khung và các trường thông tin mào
đầu trong khung XG-PON.
b. Cấu trúc khung XGTC
Cấu trúc khung XGTC tương tự như cấu trúc khung của GPON, tuy nhiên
được tối ưu để sử dụng cho truyền ở tốc độ bit cao hơn. Tương tự G-PON, chu kỳ
khung đường lên và đường xuống của XG-PON là 125 s.

Hình 5-13 Mào đầu và cấu trúc khung XGTC đường xuống của XG-PON1

ường xuống:
Chi tiết khung XGTC đường xuống được thể hiện trên hình 5-13. Các chức
năng PSBd đã được trình bày trong các phần trước. Cấu trúc PON-ID chứa các
trường dành cho PON ID, mức công suất quang phát (TOL) và kiểu PON ID (TIP),
168
trong đó có chứa các thông tin liên quan đến nhận dạng lớp ODN (loại quĩ suy hao)
và chỉ thị TOL thuộc về công suất phát của OLT hay thuộc về RE (reach extender).
Phần còn lại của khung bao gồm mào đầu XGTC và phần dành cho tải tin.
Phần mào đầu bắt đầu với trường Hlend có chiều dài cố định. Trường này định
nghĩa chiều dài của hai trường mào đầu khác.
BWmap là trường bản đồ băng tần đường lên, chứa thông tin về băng tần
được cấp phát cho ONU. Mỗi đơn vị băng tần được cấp là 8 byte, trao đổi thông tin
dựa trên Alloc-ID, thời gian bắt đầu cấp phát băng tần và số lượng đơn vị băng tần
được cấp phát. Trong BWmap cũng chứa các thông tin liên quan đến yêu cầu ONU
gửi DBRu hoặc PLOAMu trong khung tiếp theo, FWI và kiểm tra/sửa lỗi.
Dạng trường BWmap của XG-PON có một số điểm khác với GPON. Điểm
khác biệt thứ nhất là sử dụng thông tin về kích thước băng tần được cấp phát thay
cho thời điểm kết thúc cấp phát băng tần. Thứ hai là kích thước băng tần được cấp
là bội của từ gồm bốn byte thay cho một byte. Do đó trong XG-PON, tính hạt của
băng tần là 32 bits/125s, tương đương với 256 Kbit/s

ường lên:
Dạng khung XGTC đường lên được minh họa trên hình 5.14. Khung đường
lên có chiều dài 125 s (các chu kỳ 38880 bytes), chứa các burst truyền dẫn đường
lên của tất cả các băng tần được cấp phát cho các ONU trong khung thời gian đó.
Mỗi burst đường lên bắt đầu với mào đầu PSBu của lớp vật lý.
Phần mào đầu của XGTC đường lên chứa ID của ONU truyền tín hiệu, thông
tin chỉ thị trạng thái và được bảo vệ bởi mã kiểm tra lỗi. Hiện tại có hai loại chỉ thị.
Loại thứ nhất chỉ thị rằng ONU có PLOAMs đang chờ để được truyền đi, và vì vậy
cần cấp phát băng tần cho nó. Khi OLT cấp băng tần cho ONU, PLOAMs sẽ được
gửi đi dưới dạng một bản tin 32 byte trong trường tùy chọn của mào đầu XGTC
đường lên. Loại chỉ thị thứ hai được gọi là “Dying Gasp” (DG), là chỉ thị mà ONU
sử dụng để thông báo cho OLT rằng nó đang bị ngắt khỏi mạng PON do tình trạng
nội bộ, ví dụ như ONU bị hết pin dự phòng sau khi đã bị mất điện lưới trong một
thời gian dài. Lưu ý rằng, ONU không bị bắt buộc phải rời khỏi mạng PON sau khi
gửi báo hiệu DG và OLT vẫn có thể tiếp tục cấp phát băng tần cho ONU đó.
Phần tiếp theo của burst đường lên là một trường 4 byte tùy chọn sử dụng để
thông báo về tình trạng bộ đệm của ONU liên quan đến một Alloc-ID cụ thể. OLT
sẽ điều khiển việc cấu trúc DBRs có được gửi hay không bằng cách thiết lập cờ

169
“Send DBRu” trong cấu trúc phân bổ đường xuống liên quan đến Alloc-ID đó. Mức
độ chiếm bộ đệm (BufOcc) chỉ ra số các từ 4 byte xếp hàng trong tất cả các bộ đệm
tương ứng với Alloc-ID đó. Trường mào đầu phân bổ băng tần này bao gồm phần
cả bảo vệ lỗi.

Hình 5-14 Mào đầu và cấu trúc khung XGTC đường lên của XG-PON

Tiếp theo phần mào đầu burst là tải tin XGTC. Lượng dữ liệu gửi đi được
xác định bởi băng tần mà OLT cấp cho đường lên. XGEM được sử dụng để đóng
gói dữ liệu đường lên.
Burst đường lên được kết thúc bởi trailer có độ dài 4 byte chỉ chị kiểm tra lỗi
BIP trên toàn bộ XGTC burst. Trong trường hợp không có FEC, OLT sử dụng

170
thông tin BIP để ước tính tỷ lệ lỗi đường lên. Khi có FEC, kết quả sau khi đã sửa lỗi
sẽ được sử dụng để ước tính lỗi bit.

5.3.4 Sửa lỗi trước (FEC)


Cả đường lên và đường xuống đều yêu cầu thực hiện FEC. FEC đường
xuống là mã RS(248, 216), được thực hiện tại OLT. FEC đường lên là mã RS(248,
232), được thực hiện tại ONU dưới sự điều khiển của OLT. RS(248, 232) là rút gọn
của mã RS(255, 239), có khả năng sửa lỗi 8 ký tự. RS(248, 216) là rút gọn của mã
RS(255, 223), có khả năng sửa lỗi 16 ký tự. Phần mào đầu FEC được thêm vào
trước quá trình trộn.
Trong khung đường xuống, 32 byte kiểm tra mào đầu FEC được thêm vào
sau mỗi 216 byte tải trọng (bắt đầu bởi mào đầu XGTC nhưng không bao gồm
PSBd). Đặc biệt, 135456 byte của khung đường xuống được chia thành các khối
216 byte và trở thành 672 từ mã FEC 248 byte sau khi các byte kiểm tra chẵn lẻ
được thêm vào. Do đó khung đường xuống truyền đi sẽ có chiều dài là 155520 byte.
Tương tự như khung đường xuống, từ mã FEC đường lên đầu tiên được bắt
đầu với mào đầu của burst XGTC và không bao gồm PBSu. Đường lên sử dụng
RS(248, 232), thêm 16 byte mào đầu kiểm tra FEC vào sau mỗi 232 byte của burst
đường lên để tạo ra từ mã FEC dài 248-byte. Vì chiều dài burst đường lên trước khi
thực hiện FEC thường không phải là số nguyên lần của 232 byte, nên từ mã FEC
cuối cùng thường có ít hơn 232 byte dữ liệu đường lên. Đối với từ mã cuối cùng
này, giả sử có X byte dữ liệu (X<232), trước khi thực hiện FEC, 232-X byte dữ liệu
còn lại sẽ được điền giá trị zero vào phần đầu của từ mã. Sau đó loại bỏ tất cả các
bit zero này và chỉ truyền từ mã X+16 byte. Tại bộ thu của OLT sẽ thực hiện chèn
lại tất cả các byte zero này và giải mã từ mã FEC cuối cùng.

5.3.5 Phương pháp đóng gói tin XG-PON (XGEM)


XG-PON sử dụng phương pháp đóng gói tương tự như G-PON GEM, nhưng
được tối ưu cho các tốc độ của XG-PON và lớp XGTC. Cũng giống như GEM,
XGEM được sử dụng cho cả đường lên và đường xuống để sắp xếp các đơn vị dữ
liệu dịch vụ (SDU) vào các khung XGTC. XGEM cũng hỗ trợ việc phân mảnh và
tập hợp SDU.

171
Hình 5-15 Dạng khung XGEM

Khung XGEM gồm có phần mào đầu và phần tải tin. Trên hình 5-15 minh
họa mào đầu 64 bit của XGEM. Các trường trong đó được định nghĩa như sau:
- Trường PLI cung cấp thông tin về chiều dài L (tính theo byte) của SDU chứa
bên trong phần tải tin của khung XGEM
- Trường Key Index (2 bit) chỉ ra khóa mã hóa nào được sử dụng cho dữ liệu
nằm trong phần tải tin của XGEM, cùng với XGEM Port-ID chỉ ra rằng kiểu
khóa mã hóa đó là broadcast hay unicast.
o Key Index bằng 00: không dùng mã hóa
o Key Index bằng 01: dùng khóa mã hóa kiểu thứ nhất
o Key Index bằng 10: dùng khóa mã hóa kiểu thứ hai
o Giá trị 11: sử dụng cho tương lai
Khung sẽ bị hủy nếu Key Index bằng 11 hoặc bằng một giá trị nào đó không
hợp lệ.
Vì XG-PON có băng thông lớn hơn GPON nên XGEM Port-ID được mở
rộng thành 16 bit.
- Trường Options hiện tại không được định nghĩa và được dành để sử dụng
cho tương lai.
Khi SDU được phân mảnh, cần phải có chỉ thị để biết khung XGEM chứa
phần cuối của SDU hay phần đầu của phân mảnh. Bit LF (Last Fragment) được
thiết lập về 1 khi khung XGEM chứa hoặc SDU hoàn chỉnh, hoặc phân mảnh cuối
của SDU bị phân mảnh. Trong các trường hợp khác, bit này được thiết lập về 0.
XGEM sử dụng kiểm tra lỗi mào đầu (HEC) 13 bit cùng kiểu với GEM.
Điểm khác biệt là ở đây HEC được tính trên 63 bit thay vì 39 bit của GEM vì phần
mào đầu của XGEM dài hơn GEM.
Phân mảnh SDU trong XGEM cũng tương tự như trong GEM, bị ràng buộc
bởi kích cỡ của tải tin là Nx32 bit và các qui tắc padding của XGEM. Điểm khác
biệt là trong XGEM, các phân mảnh của SDU trong truyền dẫn hướng xuống phải

172
được truyền một cách lần lượt và các SDU khác không được truyền chèn xen vào
giữa các phân mảnh.
Trong trường hợp không có dữ liệu (SDU hoặc các phân mảnh SDU) được
truyền trong khung XGEM, các khung XGEM Idle sẽ được chèn vào trong phần tải
tin của XGTC để lấp đầy các phần không gian không sử dụng. Nguyên tắc này cũng
được áp dụng trong trường hợp SDU quá dài so với không gian còn trống trong một
khung XGTC và không thể thực hiện được phân mảnh SDU. Không giống như các
khung GEM Idle (các khung này có toàn bộ phần tải tin mang giá trị zero), khung
XGEM Idle có chiều dài tải là 4k (với k nằm trong phạm vi từ 0 đến kích cỡ cực đại
mà SDU có thể hỗ trợ tính theo từ 4 byte), được chỉ ra bởi PLI. Giá trị 0xFFFF của
XGEM Port-ID được sử dụng để thông báo cho bộ thu rằng đó là khung Idle. Phần
tải tin của khung XGEM Idle được định nghĩa bởi thiết bị phát. Việc mã hóa không
được sử dụng trong các khung Idle. Ngoài khung XGEM Idle còn có khung Short
Idle. Khung Short Idle chó chiều dài 4 byte, tất cả đều có giá trị zero. Khung Short
Idle được gửi khi khoảng trống trong phần tải tin của XGTC là quá nhỏ để có thể tải
được một khung Idle thông thường (tức là khoảng trống nhỏ hơn kích cỡ của mào
đầu XGEM)

5.3.6 Quản lý XG-PON


Cũng giống như GPON, XG-PON cũng sử dụng các kênh OAM, PLOAM,
và OMCI nằm trong khung XGTC để phục vụ cho việc thông tin về điều khiển và
quản lý. Các kênh OAM nằm trong phần mào đầu của khung XGTC. PLOAM cung
cấp cơ chế thông tin dựa trên bản tin với các bản tin được gửi đi trong các phần đã
được xác định trước của khung XGTC. Các lớp cao hơn (các lớp định nghĩa dịch
vụ) sẽ được quản lý bởi OMCI.

5.3.7 Bảo mật trong XG-PON


XG-PON hỗ trợ nhiều phương pháp nhận thực. Tất cả các XG-PON đều phải
hỗ trợ kiểu nhận thực dựa trên ID đăng ký, trong đó ID đăng ký của ONU được gán
cho một thuê bao cụ thể. ID này sẽ được cung cấp cho OLT, người sử dụng và các
nhân sự khai thác hệ thống để có thể truy nhập vào ONU trong trường hợp cần thiết.
Phương pháp này chỉ dùng để OLT nhận thực ONU. Phương pháp thứ hai là nhận
thực thông qua việc trao đổi các bản tin OMCI và phương pháp thứ ba là nhận thực
dựa trên IEEE 802.1X. Hỗ trợ phương pháp thứ hai và thứ ba là yêu cầu bắt buộc

173
đối với XG-PON ở mức phần tử, nhưng không bắt buộc ở mức thiết bị. Cả hai
phương pháp này đều cung cấp nhận thực tương hỗ giữa ONU và OLT.
XG-PON hỗ trợ mã hóa tại cả lớp hội tụ truyền dẫn và cho cả phần tải tin
XGEM. Mã hóa XGEM sử dụng mật mã AES-128. Mã hóa đường xuống có thể là
unicast đến một ONU nào đó hoặc là multicast đến nhiều ONUs.
Tiêu chuẩn XG-PON cũng cho phép sử dụng mã hóa với chiều dài rút gọn.
Tùy chọn này được thực hiện bằng cách thiết lập một số bit trong khóa mã hóa AES
128 bit theo một số mẫu bit đã được định nghĩa trước. Phần bit còn lại sẽ được tạo
ra một cách ngẫu nhiên để tạo thành khóa.

5.4 Công nghệ NG-PON2

5.4.1 Yêu cầu chính đối với NG-PON2


Sau khi hoàn thành dự án XG-PON1, từ năm 2010, FSAN và ITU-T bắt đầu
dự án nghiên cứu về NG-PON2. Ý tưởng ban đầu của FSAN cho rằng NG-PON2 có
thể là một công nghệ đột phá, sử dụng một mạng ODN mới với các bộ chia bước
sóng thay cho các bộ chia công suất. Tuy nhiên, sau khi cân nhắc đến chi phí đã đầu
tư cho cơ sở hạ tầng sợi quang dựa trên bộ chia công suất của các mạng PON,
FSAN đã quyết định yêu cầu đầu tiên đối với NG-PON2 là phải có khả năng sử
dụng được mạng ODN hiện tại. Điều này không có nghĩa là các mạng ODN được
xây dựng dựa trên các bộ chia bước sóng là không thuộc phạm vi của NG-PON2.
Yêu cầu này chỉ nhằm đảm bảo rằng các công nghệ thu phát quang khi sử dụng
trong mạng NG-PON2 phải phù hợp với cả mạng ODN hiện tại (là mạng được xây
dựng dựa trên các bộ chia công suất).
Yêu cầu về sử dụng được cơ sở hạ tầng ODN hiện tại còn liên quan đến suy
hao luồng quang. NG-PON2 phải có khả năng hoạt động trên ODN hiện tại đã được
qui định cho G-PON và XG-PON1. Điều này có nghĩa là phải đạt được các quĩ
công suất như đã qui định cho XG-PON1, tức và từ 29 đến 35 dB (giá trị cực đại)
với độ khác biệt về suy hao lên đến 15 dB.
Hơn nữa, để thuận tiện trong việc chuyển các thuê bao hiện tại sang sử dụng
công nghệ mới (khi thuê bao có nhu cầu) mà vẫn không ảnh hưởng đến các thuê bao
vẫn sử dụng các hệ thống PON cũ, các nhà khai thác đưa ra yêu cầu là hệ thống
NG-PON2 phải có thể cùng tồn tại với các hệ thống GPON và XG-PON1 đã khai
thác trước đó. Rõ ràng rằng, khi được triển khai cùng với các hệ thống PON hiện

174
tại, hệ thống NG-PON2 phải được xử lý sao cho không gây ảnh hưởng đến chất
lượng dịch vụ của các hệ thống này.
Về khả năng cung cấp dịch vụ, NG-PON2 phải có khả năng đáp ứng linh
hoạt nhu cầu về dịch vụ đa dạng trong tương lai với một chi phí hợp lý mà người sử
dụng có thể thấp nhận được.
Trong khuyến nghị ITU-T G.989.1 đã qui định một số chỉ tiêu kỹ thuật đối
với NG-PON2 như sau:
- Dung lượng tổng đường xuống tối thiểu là 40 Gbit/s và mục tiêu hướng đến
trong tương lai là 160 Gbit/s
- Dung lượng tổng đường lên là 10 Gbit/s và mục tiêu hướng đến là 80 Gbit/s
- Một ONU có khả năng hỗ trợ dung lượng dịch vụ 10Gbit/s (đối xứng hoặc
bất đối xứng)
- Cự ly truyền dẫn trong mạng thụ động ODN đạt tối thiểu 40 km, mục tiêu là
60 km và thậm chí là 100 km nhờ các kỹ thuật hỗ trợ
- Tỷ lệ chia tối thiểu là 1:256
- Hỗ trợ tối thiểu bốn kênh TWDM trên một hướng
- Các ONU phải là colorless

5.4.2 Lựa chọn công nghệ cho NG-PON2


Một số giải pháp công nghệ cho NG-PON2 đã được FSAN tiến hành nghiên
cứu, cụ thể gồm có 40G TDM-PON, WDM-PON, OFDM-PON và TWDM-PON.
Sau khi thực hiện so sánh, đánh giá các vấn đề cả về kinh tế, kỹ thuật, cũng như khả
năng tương thích với các công nghệ sau này, năm 2013 FSAN và ITU-T đã quyết
định chọn TWDM-PON là giao thức chuẩn cho NG-PON2 cùng với thêm tùy chọn
là các kênh WDM điểm - điểm (PtP WDM) tồn tại trên cùng một mạng ODN. Các
kênh PtP WDM này được đưa vào nhằm đáp ứng nhu cầu về kênh thông tin riêng
có dung lượng lớn, độ trễ thấp của một số đối tượng khách hàng. Trên hình 5-17
dưới đây minh họa kiến trúc này sử dụng để đáp ứng nhu các nhu cầu dịch vụ khác
nhau của FTTH và Mobile backhaul. Cả TWDM-PON và kênh PtP WDM đều dùng
chung một mạng PON chia công suất.

175
Hình 5-17 Kiến trúc NG-PON2 với TWDM-PON và PtP WDM

a. Công nghệ TWDM-PON


Kiến trúc TWDM-PON cơ bản được thể hiện trên hình 5-18. Trong đó, bốn
XG-PON1 được xếp chồng trên cùng một mạng bằng cách sử dụng 4 cặp bước sóng
cho truyền dẫn hướng xuống và hướng lên. Mỗi kênh bước sóng hướng xuống
truyền dẫn với tốc độ 10 Gbit/s và mỗi kênh bước sóng hướng lên là 2.5 Gbit/s. Do
đó tổng dung lượng đường xuống là 40 Gbit/s và đường lên là 10 Gbit/s. Với kiến
trúc như vậy, dễ dàng để kết hợp với các hệ thống XG-PON1 hiện tại và trong
tương lai cũng dễ dàng nâng cấp dung lượng của hệ thống bằng cách đưa thêm các
bước sóng vào mạng.

Hình 5-18 Kiến trúc hệ thống TWDM-PON

b. PtP WDM

176
PtP WDM cho phép NG-PON2 có thể đáp ứng nhu cầu của các khách hàng
doanh nghiệp và các dịch vụ backhaul. Với PtP WDM, mỗi ONU sẽ được cung cấp
một kênh bước sóng riêng biệt. Trong cấu hình cơ bản sẽ có tối đa 8 kênh PtP
WDM. Tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể, nhà mạng sẽ có thể dành thêm các
bước sóng không sử dụng để tăng thêm số lượng kênh PtP WDM. Các ONU sử
dụng trong PtP WDM yêu cầu cũng phải sử dụng các bộ phát quang và thu quang
có giá thành thấp tương tự như trong hệ thống TWDM-PON. Điểm khác biệt là các
phần tử này trong PtP WDM hoạt động ở chế độ liên tục còn trong TWDM-PON
hoạt động ở chế độ burst. Tốc độ bit qui định cho PtP WDM nằm trong phạm vi từ
1 đến 10 Gbit/s.

5.4.3 Tiêu chuẩn ITU-T cho NG-PON2


Các tiêu chuẩn liên quan đến NG-PON2 nằm trong các khuyến nghị ITU-T
G.989.1, G.989.2 và G.989.3. Trong phần dưới đây sẽ đề cập đến một số tiêu chuẩn
kỹ thuật cụ thể của NG-PON2
a. Tốc độ đường truyền
Tốc độ đường truyền của NG-PON2 được qui định như trên bảng 5.2 dưới
đây. Ngoài các cấu hình chuẩn như đã trình bày ở trên, còn có một số tùy chọn khác
cho NG-PON2 như tốc độ đường truyền là đối xứng cả 2.5 Gbit/s và 10 Gbit/s. Các
dịch vụ đối xứng này thường là để cho các khách hàng doanh nghiệp và cho các ứng
dụng backhaul.
Bảng 5.2 Qui định về tốc độ đường truyền trong NG-PON2

TWDM Tốc độ đường xuống (Gbit/s) Tốc độ đường lên (Gbit/s


Tốc độ cơ bản 9.95328 2.48832
Tốc độ tùy chọn 1 9.95328 9.95328

Tốc độ tùy chọn 2 2.48832 2.48832

PtP WDM Tốc độ đường xuống/Tốc độ đường lên (Gbit/s)


Loại 1 1.2288 – 1.2500

Loại 2 2.4576 – 2.6660


Loại 3 9.8304 – 11.0900

Loại 4 6.144 (đang tiếp tục nghiên cứu)

177
b. Qui hoạch bước sóng
Qui hoạch bước sóng cho NG-PON2 được lựa chọn đảm bảo một số yêu cầu
như sau:
- Để NG-PON2 có thể cùng tồn tại với GPON, XG-PON1 và kênh Video RF
trên cùng một mạng.
- Có thể sử dụng lại các hệ thống WDM đã được khai thác trên mạng đó
- Việc lọc các bước sóng có thể thực hiện một cách dễ dàng
- Sử dụng được các thành phần băng tần C/L đã sẵn có
- Giảm thiểu ảnh hưởng của hiệu ứng tán xạ kích thích Raman trong sợi quang
Với các yêu cầu như vậy, băng tần bước sóng chiều lên cho TWDM được
chọn trong băng C (như trên bảng 5.3). Đây là vùng bước sóng mà có một lượng lớn
các phần tử quang đã được sản xuất và nhờ đó giảm được chi phí cho các ONU. Các
phần tử thu phát trong hệ thống TWDM đường xuống sẽ được sản xuất với số lượng
ít hơn, và chi phí có thể được chia sẻ cho nhiều thuê bao, nên các bước sóng ở băng
L sẽ được phân bổ cho đường lên.
Cũng cần lưu ý rằng, có ba tùy chọn băng tần bước sóng cho đường lên. Các
tùy chọn này được lựa chọn tùy theo khả năng điều khiển bước sóng phát của ONU.
Tùy chọn “Rộng” có thể được sử dụng trong xu hướng “Wavelength – Set” để điều
khiển kênh, trong đó laser DFB được cho phép thay đổi bước sóng trên một phạm vi
khá lớn. Tùy chọn “Hẹp” có thể phù hợp nhất với các laser được ổn định nhiệt độ để
bước sóng phát ra của laser tuân theo qui định về lưới bước sóng của ITU-T cho
DWDM.
Bảng 5.3 Qui hoạch bước sóng cho NG-PON 2

TWDM Băng bước sóng đường lên Băng bước sóng đường xuống
(nm) (nm)
Rộng 1524 - 1544

Rút gọn 1528 - 1540 1596 - 1603

Hẹp 1532 - 1540

PtP WDM Băng tần bước sóng đường xuống/đường lên (nm)

178
Phổ dùng chung 1603 - 1625 nm

Phổ mở rộng 1524 - 1625 nm

Theo hướng xuống, các kênh bước sóng được cố định theo lưới bước sóng
100 GHz với tám kênh bước sóng với các tần số từ 187.1 đến 187.8 THz. Theo
hướng lên, khoảng cách kênh có thể là 50, 100, 200 GHz, tuy nhiên không có qui
hoạch kênh cố định được đề xuất cho hướng này vì thiết bị phát của ONU sử dụng
laser có thể điều chỉnh được bước sóng.
Với các kênh PtP WDM, có hai tùy chọn là “phổ dùng chung” và “phổ mở
rộng”. Tùy chọn “phổ dùng chung” được sử dụng trong trường hợp có tất cả các hệ
thống PON cũ (GPON, XG-PON1, và RF video) cùng dùng chung ODN đó. “Phổ
mở rộng” cho phép PtP WDM sử dụng tất cả các bước sóng còn lại trong băng đó.
Tùy chọn này thường được sử dụng khi triển khai NG-PON2 cho các khu vực mới,
không bị ràng buộc bởi các hệ thống PON cũ.
Trên hình 5-19 dưới đây thế hiện qui hoạch bước sóng cho NG-PON2 cùng
với các hệ thống PON cũ. Qui hoạch cho thấy không có sự chồng lấn giữa băng tần
của NG-PON2 với các hệ thống PON khác. Do đó các hệ thống PON cũ vẫn có thể
tồn tại cùng với NG-PON2, sử dụng chung một mạng ODN

Hình 5-19 Qui hoạch bước sóng cho NG-PON2 và các công nghệ PON cũ

c. Tính linh hoạt trong sử dụng phổ tần

179
Một trong các đặc điểm chính của NG-PON2 tính linh hoạt trong sử dụng
phổ tần, thuận tiện cho việc triển khai nhiều kịch bản khai thác mạng, nhiều loại
ứng dụng trên mạng và nhiều tiến trình phát triển mạng. Điều này có nghĩa là, bất
cứ khi nào có phổ tần chưa được sử dụng bởi TWDM và/hoặc các hệ thống PON
cũ, PtP WDM đều có thể sử dụng phổ tần đó. Sự linh hoạt này làm cho việc đáp
ứng nhu cầu của nhiều đối tượng khách hàng trên cùng một mạng ODN trở nên dễ
dàng.
d. Khả năng tương thích với mạng ODN hiện tại
Để có thể sử dụng cơ sở hạ tầng sợi quang của mạng PON hiện tại, PMD của
NG-PON2 đã được định nghĩa để phù hợp với mạng ODN chia công suất là mạng
đã được thiết kế cho các hệ thống GPON và/hoặc XG-PON1. Điều này có nghĩa là
quĩ công suất được cung cấp bởi các bộ thu phát trong NG-PON2 phải phù hợp với
ODN hiện tại. Hơn nữa, để có dùng chung ODN với các hệ thống PON cũ, các giá
trị và phân loại suy hao luồng quang trong NG-PON2 sẽ sử dụng các qui định như
đã dùng cho XG-PON1. Các qui định này được tóm tắt trong bảng 5.4.
Bảng 5.4 Các loại suy hao luồng quang trong hệ thống NG-PON2

Loại N1 N2 E1 E2
Suy hao tối thiểu (dB) 14 16 18 20

Suy hao cực đại (dB) 29 31 33 35

e. Một số tùy chọn khác cho mạng ODN


Trong trường hợp hệ thống NG-PON2 được triển khai ở các khu vực hoàn
toàn mới (không có các hệ thống PON cũ), NG-PON2 có thể chọn lựa sử dụng một
số loại ODN như ODN chia công suất, ODN chia bước sóng hoặc ODN kết hợp cả
chia công suất và chia bước sóng. Việc sử dụng chia bước sóng sẽ giảm bớt suy hao
trên mạng ODN, nhờ đó có thể kéo dài cự ly truyền dẫn hoặc cho phép sử dụng các
bộ thu phát ở các mức thấp hơn. Sử dụng chia bước sóng cũng sẽ cho phép tạo ra
các kênh riêng ảo là các kênh bước sóng.
f. Khả năng nâng cấp theo nhu cầu sử dụng (Pay-As-You-Grow)
Để tạo điều kiện cho nhà mạng có thể đầu tư theo từng giai đoạn phù hợp với
nhu cầu về lưu lượng trên mạng một cách có hiệu quả về mặt kinh tế, hệ thống NG-
PON2 phải có khả năng nâng cấp theo nhu cầu sử dụng. Điều này có nghĩa là từng
bước sóng sẽ được thêm vào hệ thống theo nhu cầu. Vì các ONU là colorless nên có
180
thể điều chỉnh về bất cứ kênh bước sóng nào của NG-PON2, và cũng có thể phân bổ
lại các kênh này khi có kênh bước sóng mới được thêm vào với mục đích cân bằng
tải. Các kênh mới thêm vào cũng có thể dành cho việc cung cấp các dịch vụ mới mà
không gây ảnh hưởng đến các dịch vụ hiện tại.
g. Thời gian điều chỉnh kênh bước sóng
Có ba loại thời gian để điều chỉnh kênh bước sóng của bộ thu phát ONU
được qui định cho NG-PON2 như trên bảng 5.5. Các loại này được định nghĩa dựa
trên khả năng của các công nghệ điều chỉnh bước sóng hiện tại. Các thành phần loại
1 có thể bao gồm các laser chuyển mạch hoặc các mảng lọc. Các thành phần loại 2
có thể dựa trên các laser điều chỉnh bằng điện (DBR). Các thành phần loại 3 có thể
là các laser điều chỉnh bằng nhiệt (DFB). Một số các công nghệ khác hiện vẫn đang
tiếp tục được nghiên cứu.

Bảng 5.5 Qui định về thời gian điều chỉnh bước sóng

Loại thời gian điều chỉnh Thời gian điều chỉnh

Loại 1 < 10 s

Loại 2 10 s đến 25 ms

Loại 3 25 ms đến 1 s

5.5 Tổng kết chương


Trong chương này đã trình bày các công nghệ miền quang cho mạng truy
nhập băng rộng và các công nghệ NG-PON1, NG-PON2.
Có rất nhiều công nghệ miền quang có thể sử dụng cho mạng truy nhập băng
rộng. Các công nghệ đa truy nhập miền quang như CDMA-PON và WDMA-PON
là các công nghệ khả thi và rất có triển vọng trong tương lai. Trong đó WDMA-
PON hiện tại vẫn được coi là lựa chọn dài hạn tốt nhất. Tuy nhiên, hiện tại do chí
phí của các thành phần quang WDM vẫn khá đắt nên TDMA-PON sẽ vẫn được duy
trì trong vài năm tới. Sau này, khi mà giá thành của các thành phần đó giảm đi và
nhu cầu về lưu lượng của các thuê bao lớn hơn, WDMA-PON sẽ trở nên được ưa
chuộng hơn.

181
Câu hỏi/ bài tập chương 5
5-1/ Trình bày về công nghệ PON miền quang WDMA-PON. Phân tích ưu nhược
điểm của công nghệ này.
5-2/ Trình bày về công nghệ PON miền quang OFDM-PON. Phân tích ưu nhược
điểm của công nghệ này.
5-3/ Trình bày về công nghệ PON miền quang CDMA-PON. Phân tích ưu nhược
điểm của công nghệ này.
5-4/ Trình bày nguyên lý thực hiện colorless-ONU sử dụng nguồn sáng băng rộng.
5-5/ Trình bày nguyên lý thực hiện colorless-ONU sử dụng nguồn laser F-P.
5-6/ Trình bày nguyên lý tái điều chế sóng mang trong mạng WDM-PON?
5-7/ Trình bày yêu cầu chung đối với mạng NG-PON1 và NG-PON2
5-8/ Trình bày kiến trúc mạng và công nghệ sử dụng trong NG-PON1
5-9/ Trình bày kiến trúc mạng và công nghệ sử dụng trong NG-PON 2

182
Chương 6 - Một số vấn đề thiết kế và đo kiểm
mạng FTTx

Chương này sẽ trình bày một số vấn đề cơ bản trong thiết kế và đo kiểm
mạng FTTx. Với nội dung thiết kế, chương này sẽ đề cập đến: các yêu cầu khi thiết
kế, một số tính toán và phân tích tuyến cơ bản. Các giai đoạn khác của quá trình
thiết kế như xác định nhu cầu lưu lượng, thực hiện định cỡ mạng… không được đề
cập đến trong tài liệu này.

6.1 Các tiêu chuẩn thiết kế


Khi thiết kế mạng quang FTTx, dựa trên các yêu cầu về hoạt động của hệ
thống, cần xem xét rất nhiều yếu tố liên quan đến các thành phần trên mạng. Vì vậy,
để có một bản thiết kế cuối cùng có khi cần phải thực hiện lặp lại vài lần quá trình
thiết kế. Các ràng buộc về chất lượng và chi phí là các yếu tố rất quan trọng khi
thiết kế. Người thiết kế phải lựa chọn các thành phần một cách cẩn thận để đảm bảo
hệ thống có thể hoạt động đáp ứng được các yêu cầu kỹ thuật trong khoảng thời
gian sống được kỳ vọng của hệ thống với một chi phí hợp lý nhất.
Để hỗ trợ quá trình thiết kế, người thiết kế có thể sử dụng các phần mềm và
các công cụ mô phỏng hỗ trợ thêm. Các công cụ như vậy có sẵn thư viện của rất
nhiều các thành phần trên mạng, cho phép thực hiện thiết kế và đánh giá chất lượng
nhiều kịch bản thiết kế khác nhau.

183
6.1.1 Các yêu cầu cơ bản
Dưới đây là các yêu cầu chính về hệ thống cần được phân tích khi thiết kế:
- Khoảng cách truyền dẫn
- Số lượng và kiểu bộ chia quang
- Tốc độ truyền dẫn hoặc băng thông của kênh
- Tỷ lệ lỗi bit (BER)
- Số kênh bước sóng
- Quĩ công suất quang của tuyến
- Quĩ công suất dự phòng yêu cầu
- Mức độ thiệt thòi công suất do một số yếu tố
Để đáp ứng được các yêu cầu này, người thiết kế có rất nhiều lựa chọn cho
các thành phần tích cực và thụ động trên tuyến. Trên bảng 6.1 là một số các lựa
chọn này.
Bảng 6.1 Các phần tử sử dụng khi thiết kế mạng quang FTTP

Phần tử Loại Đặc tính cần quan tâm

Sợi quang Đơn mode hoặc đa mode Suy hao, tán sắc, SBS cho phép

Cáp treo, kéo cống hoặc cáp Số lượng sợi, loại phần tử gia
Cáp quang
chôn trực tiếp cường
Tốc độ điều chế, công suất
LED, laser DFB hoặc laser
Nguồn quang phát, bước sóng hoạt động, độ
FP
rộng phổ, giá thành

Phần tử thu quang PIN hoặc APD Độ nhạy thu, đáp ứng

Connector Đơn kênh hay đa kênh Suy hao, kích thước, kiểu lắp

Kích cỡ (1xN), suy hao xen,


Bộ chia quang Bộ chia loại sợi hay loại PLC
kiểu đóng gói
Các thành phần Bộ lọc quang, bộ cách ly Đáp ứng bước sóng, suy hao,
quang thụ động quang và coupler công suất kích cỡ, độ tin cậy, giá thành

184
Khả năng chịu tác động của
Các bộ thu phát
Loại đặt trong nhà hay ngoài môi trường, kích thước, giá
(OLT, ONT hoặc
nhà thành, độ tin cậy, điện năng sử
ONU)
dụng
Máy đo BER, máy đo Công suất quang, dải bước
Các thiết bị đo OTDR, máy phân tích phổ, sóng hoạt động, khả năng di
máy đo công suất chuyển, giá thành, độ tin cậy
Treo, để trên mặt đất hay Khả năng chịu tác động của
Tủ thiết bị, tủ đấu
ngầm dưới đất; đặt trong nhà môi trường, kích thước, giá
nối
hay ngoài trời thành, độ tin cấy
Thiết bị cấp Kích thước, giá thành, độ tin
Đặt trong nhà hay ngoài trời
nguồn cậy, ắc qui dự phòng
Kích thước, loại vật liệu, chi
Ống cáp Ống to hay loại nhỏ
phí, độ tin cậy

Ngoài ra, khi thiết kế cũng cần phải quan tâm đến các thiết bị và một số vấn
đề khác liên quan như tủ điện, phương án cấp nguồn, các thiết bị đo cần thiết.

6.1.2 Dự trữ hệ thống


Độ dự trữ của hệ thống là mức dự trữ công suất quang được đưa vào khi thiết
kế để đảm bảo hệ thống hoạt động an toàn trong khoảng thời gian sống kỳ vọng.
Mức công suất dự trữ này được dành để bù lại cho các suy giảm chất lượng không
tính trước được của tuyến. Các suy giảm chất lượng này có thể nguyên nhân là do
các yếu tố như do sự hóa già của nguồn quang, tăng suy hao do sự hóa già của các
thành phần trên tuyến, sự gia tăng các mối hàn, mối nối trên tuyến khi tuyến cáp
được sửa chữa…
Khuyến nghị ITU-T G.957 qui định rằng độ dự trữ của hệ thống nên ở trong
phạm vi từ 3.0 – 4.8 dB cho phần truyền dẫn từ thiết bị phát đến thiết bị thu để bù
lại các suy giảm về chất lượng của thiết bị. Trong thiết kế các hệ thống viễn thông
thông thường, các nhà thiết kế thường đưa vào độ dự trữ là từ 3 – 10 dB, tùy thuộc
vào các yếu tố như yêu cầu về chất lượng của từng loại ứng dụng, số lần sửa chữa
có thể xảy ra và giá thành của hệ thống. Nhờ có sự phát triển của các công cụ phần
mềm mô phỏng hỗ trợ thiết kế, quĩ công suất dành cho dự trữ có thể giảm đáng kể.
Hiện tại, nguyên tắc thiết kế chuẩn được chấp nhận trong công nghiệp là độ dự trữ
cho quĩ suy hao không vượt quá 3 dB. Vì vậy, với các mạng PON, khi mà cự ly
truyền dẫn tương đối ngắn và có ít các thành phần tích cực hơn so với các hệ thống
185
metro và các hệ thống đường trục, độ dự trữ khi thiết kế tuyến có thể để ở mức thấp
hơn.

6.1.3 Các mức bù công suất


Có một số yếu tố trên tuyến làm ảnh hưởng đến chất lượng tín hiệu. Các yếu
tố này gồm có: nhiễu mode, tán sắc, tán sắc mode phân cực, ảnh hưởng của phi
tuyến, nhiễu phản xạ trên đường truyền, nguồn laser có tỷ số phân biệt thấp, chirp
tần số. Khi bất kỳ một yếu tố nào trong các yếu tố trên làm ảnh hưởng đến tín hiệu
sẽ đều gây ra sự suy giảm tỷ số tín hiệu trên nhiễu (SNR) của hệ thống khi so với hệ
thống trong điều kiện lý tưởng. Sự suy giảm SNR này được gọi là thiệt thòi về công
suất và nhìn chung được tính bằng dB. Dưới đây là chi tiết về một số nguyên nhân
gây thiệt thòi công suất.
a. Tán sắc
Xung tín hiệu được phát ra từ nguồn quang chứa công suất quang trong một
phổ bước sóng nhất định. Ví dụ, một nguồn laser được điều chế có thể phát ra các
xung có độ rộng phổ là 0.1 nm. Tán sắc có nguyên nhân là do các bước sóng khác
nhau sẽ lan truyền với vận tốc khác nhau bên trong sợi quang. Độ thiệt thòi về công
suất do tán sắc gây ra được tính theo công thức sau:
[ ( ) ] (6.1)

Trong đó: B là tốc độ bit (tính bằng Gbit/s), L là chiều dài sợi (tính bằng km), DCD
là hệ số tán sắc của sợi (tính bằng ps/(nm.km)) và  là độ rộng phổ của nguồn phát
(được tính bằng nm).
Bằng các kỹ thuật bù tán sắc phù hợp, có thể loại bỏ được độ thiệt thòi do tán
sắc gây nên. Để giữ PCD ở dưới ngưỡng 0.5 dB, hệ thống cần được thiết kế với tích
BLDCD < 0.1. Ảnh hưởng của tán sắc thường không phải là vấn đề đối với các
mạng PON được thiết kế dựa trên các khuyến nghị G.983, G.984 và G.985 của ITU-
T do cự ly truyền dẫn của các hệ thống này là tương đối ngắn và tốc độ bit thường
nhỏ hơn 2.5 Gbit/s. Tuy nhiên, ảnh hưởng này cần được xem xét kỹ hơn với các hệ
thống mạng PON trong tương lai khi mà các hệ thống này có tốc độ cao hơn và sử
dụng công nghệ DWDM.
b. Tán sắc mode phân c c (PMD)
PMD xảy ra hai mode phân cực trực giao lan truyền trong sợi quang với vận
tốc khác nhau do tính lưỡng chiết của sợi. Vì đây là hiệu ứng thay đổi theo thời

186
gian, nên để mức thiệt thòi về công suất nhỏ hơn 1 dB, trễ thời gian trung bình giữa
hai trạng thái phân cực phải nhỏ hơn 0.14 lần của một chu kỳ bit. Nhìn chung, hiệu
ứng này có thể bỏ qua với khoảng cách truyền dẫn nhỏ hơn 20 km và tốc độ bit
dưới 10 Gbit/s.
c. Tỷ số phân biệt (ER) của laser
Tỷ số phân biệt của laser được định nghĩa là tỷ số giữa công suất của mức
logic “1” và công suất của mức logic “0”. Một cách lý tưởng, giá trị này là vô cùng,
và khi đó sẽ không gây thiệt thòi về công suất. Tuy nhiên, tỷ số này là hữu hạn
trong một chu kỳ truyền dẫn, và độ thiệt thòi về công suất sẽ tăng khi tỷ số này tăng.
Nếu gọi re là tỷ số giữa công suất trung bình của mức logic “1” và công suất trung
bình của mức logic “0”, thì độ thiệt thòi về công suất do ER hữu hạn gây nên sẽ
được tính như sau:

(6.2)

Trong thực tế, nguồn quang có tỷ số phân biệt tối thiểu nằm trong khoảng từ
7 đến 10 (tương đương với 8.5 đến 10 dB), và như vậy độ thiệt thòi về công suất do
ER gây nên sẽ nằm trong khoảng từ 1.25 đến 0.87 dB. Để có độ thiệt thòi về công
suất nhỏ hơn 0.5 dB, tỷ số ER tối thiểu phải là 18. Cần lưu ý rằng, với một số ứng
dụng mạng PON, đòi hỏi nguồn quang phải tắt gần như hoàn toàn khi không truyền
tín hiệu. Điều này nhằm tránh sự tăng nhiễu nền quá mức ở OLT. Tuy nhiên, khi
truyền dẫn ở chế độ burst, laser phải có tỷ số ER phù hợp để tránh gây méo tín hiệu.
d. Chirp tần số
Độ thiệt thòi do chirp tần số xảy ra do ánh sáng phát ra từ nguồn quang bị
trải rộng phổ (gọi là chirp tần số) khi nguồn quang được điều chế trực tiếp. Bằng
cách đặt điện áp định thiên lớn có thể giảm được độ thiệt thòi do chirp tần số gây
nên, tuy nhiên điều này có thể làm tăng độ thiệt thòi do tỷ số ER bị giảm. Khi kết
hợp phân tích độ thiệt thòi do cả chirp tần và giảm ER gây nên, độ thiệt thòi tổng
của hai nguyên nhân này thông thường sẽ nhỏ hơn 2 dB nếu tỷ số ER của nguồn
quang ở mức khoảng 10 dB.
e. Hiệu ứng phi tuy n
Hiệu ứng phi tuyến xảy ra khi mật độ công suất ánh sáng trong sợi quang
lớn. Vì các bước sóng sử dụng trong mạng FTTx khá là cách xa nhau, nên chỉ có hai
hiệu ứng phi tuyến SBS và SRS là cần quan tâm. SBS tạo ra các sóng tán xạ, và về
cơ bản thì các sóng này lan truyền ngược với chiều truyền của tín hiệu. Ánh sáng
187
tán xạ ngược được khuếch đại bởi tín hiệu truyền ngược chiều và vì vậy làm quá
trình này làm giảm công suất tín hiệu. Mức giảm sẽ tăng mạnh khi công suất trong
sợi quang tăng, ngưỡng công suất để SBS bắt đầu tăng mạnh là 17 dBm (tương
đương với 50 mW) trong sợi đơn mode. Tại ngưỡng này, bất kỳ mức công suất
thêm nào vào đều bị hấp thụ bởi sóng tán xạ ngược. Quá trình SRS tạo ra ánh sáng
tán xạ tại bước sóng dài hơn bước sóng của ánh sáng đến. Nếu có một tín hiệu khác
nằm ở bước sóng dài hơn này, hiệu ứng SRS sẽ khuếch đại tín hiệu đó và công suất
của tín hiệu sóng bơm sẽ bị giảm.

6.2 Quỹ công suất tuyến


Để phân tích quĩ công suất, đầu tiên cần phải xác định độ dự trữ công suất
dành cho tuyến hoặc là dải suy hao cho phép. Một cách đơn giản, có thể hiểu đây là
độ khác biệt lớn nhất cho phép giữa mức công suất phát của nguồn quang và độ
nhạy thu tối thiểu của bộ thu cần thiết để hệ thống đạt được mức chất lượng BER
yêu cầu. Để tính toán quĩ công suất của FTTP, ITU-T đã định nghĩa ba loại dải suy
hao trong khuyến nghị G.982: loại A, loại B và loại C như trên bảng 6.2 dưới đây:
Bảng 6.2 Phân loại suy hao luồng quang trong mạng PON (ITU-T G.982)

Loại A Loại B Loại C


Suy hao tối thiểu 5 dB 10 dB 15 dB

Suy hao cực đại 20 dB 25 dB 30 dB

Như trên hình 6-1, suy hao tuyến bao gồm suy hao sợi quang, suy hao
connector, suy hao mối hàn và các suy hao từ các thành phần khác, suy hao do chất
lượng thiết bị, chất lượng đường truyền suy giảm, do ảnh hưởng của nhiệt độ …Nếu
việc lựa chọn các thành phần mà không đảm bảo được khoảng cách truyền dẫn cần
thiết cho mạng FTTx thì sẽ phải thay đổi bằng cách thành phần khác.

188
Hình 6-1 Phân bổ quĩ công suất trên tuyến.

6.2.1Tính quỹ công suất


Bước đầu tiên trong quá trình tính toán quĩ công suất là phải xác định bước
sóng làm việc của hệ thống và sau đó là lựa chọn các thành phần làm việc tại vùng
bước sóng đó. Với mạng FTTP, có ba bước sóng chính là 1310, 1490 và 1550 nm.
Việc tính toán quĩ công suất cần thực hiện với cả ba bước sóng này. Có hai lý do
chính để làm điều này là suy hao sợi quang thay đổi theo bước sóng và độ nhạy thu
của hướng lên và hướng xuống là khác nhau vì tốc độ bit của hai hướng này là
không giống nhau. Như trên hình 6-2 có thể thấy, suy hao giảm khi bước sóng tăng.
Vì dụ, giá trị suy hao danh định tại vùng bước sóng 1310 nm là 0.4 đến 0.5 dB/km.
Trong khi đó, tại vùng bước sóng 1550 nm, giá trị này là khoảng 0.25 dB/km.
Sau khi đã lựa chọn bước sóng để tính toán quĩ công suất, bước tiếp theo là
lựa chọn các khối chính của tuyến truyền dẫn sao cho chất lượng của hệ thống được
đảm bảo. Với mạng FTTx, các khối này bao gồm bộ thu quang, bộ phát quang, bộ
chia quang, các connector, mối hàn và sợi quang. Thông thường, người thiết kế sẽ
lựa chọn các đặc tính của hai trong số các phần tử này, lựa chọn đặc tính chất lượng
trung bình của các phần tử khác và sau đó thực hiện tính toán quĩ công suất để xem
yêu cầu về độ dự trữ công suất của tuyến có được đảm bảo hay không. Một qui trình
điển hình sẽ là lựa chọn nguồn quang và phần tử thu quang trước. Điều này cũng có
nghĩa là người thiết kế sẽ lựa chọn loại tuyến truyền dẫn quang này (theo định nghĩa
phân loại của ITU-T). Sau đó người thiết kế sẽ tính toán xem tín hiệu có thể đi được

189
bao xa trên một loại sợi nào đó cùng với các bộ chia quang, connector và các mối
hàn.

Hình 6-2 Suy hao sợi quang thay đổi theo bước sóng

Hình 6-3 Suy hao trên tuyến FTTx giả định giữa OLT và ONT

Hình 6-3 là một tuyến FTTx được giả định giữa OLT và ONT. Ở đây có bốn
connector, một bộ chia công suất quang, N mối hàn, một coupler tại OLT và một
coupler tại ONT.
Công suất quang đến bộ thu phụ thuộc vào công suất ánh sáng được đưa vào
sợi trừ đi suy hao dọc trên đường đi của tín hiệu. Quĩ suy hao tuyến được tính toán
từ đóng góp suy hao của từng thành phần trên tuyến. Suy hao của mỗi thành phần
này được tính bằng dB theo công thức dưới đây:

(6.3)

190
trong đó Pin và Pout là công suất quang đi vào và đi ra khỏi phần tử đó, cụ thể là sợi
quang, mối hàn, connector và các phần tử khác trên tuyến.
Tính toán quĩ suy hao tuyến đơn giản chỉ là xem xét tổng suy hao công suất
quang cho phép giữa nguồn phát và bộ thu quang và phân bổ suy hao này cho các
phần tử gây suy hao trên tuyến như suy hao cáp, suy hao connector, suy hao mối
hàn, suy hao do các thành phần khác trên tuyến và độ dự phòng của hệ thống. Vì
vậy, nếu theo như hình 6.3, nếu Ps là công suất quang từ nguồn phát đi đến coupler
WDM tại OLT và PR là độ nhạy thu tối thiểu tại ONT cần để đạt được chất lượng
BER yêu cầu thì:

(6.4)

với  là suy hao sợi (tính theo dB/km), L là chiều dài tuyến. Độ dự phòng của hệ
thống thường được để là 3 dB.
Dưới đây là một số ví dụ về cách tính quĩ suy hao tuyến. Các bước sóng hoạt
động được lựa chọn cho các ví dụ là 1310 nm và 1490 nm.

6.2.2 Quỹ công suất cửa sổ 1310 nm


Thiết kế cho mạng PON FTTx với chiều dài tuyến tối đa là 20 km được thực
hiện dựa trên sơ đồ ở hình 6-4.

191
Hình 6-4 Suy hao của các thành phần trên tuyến FTTx 1310 nm

Thiết kế tuyến sử dụng dải suy hao loại B do đó cho phép suy hao tối đa
trong mạng ODN giữa hai coupler WDM là 25 dB. Mạng sử dụng các thành phần
trên tuyến như sau:
- Một splitter quang 1x32 có suy hao là 16.5 dB
- Sợi lắp đặt tuân theo tiêu chuẩn G.652. Tại bước sóng 1310 nm, sợi có suy
hao 0.4 dB/km và tại bước sóng 1490 nm có suy hao 0.25 dB/km.
- Với chiều dài cáp 20 km giữa hai coupler WDM có tối đa ba bộ connector
suy hao thấp LC và một mối hàn, tất cả mỗi phần tử đều có suy hao 0,1 dB.
- Tại OLT và ONU đều có một bộ ghép bước sóng và một bộ tách bước sóng
có suy hao là 1.5 dB
- Tốc độ tín hiệu đường xuống là 1.25 Gbit/s và đường lên là 622 Mbit/s. BER
yêu cầu đối với hệ thống giả thiết là 10-11.
- Độ thiệt thòi công suất là 3 dB liên quan đến bộ thu tại OLT vì yêu cầu hoạt
động ở chế độ burst.
Lưu ý là các giá trị suy hao trên chỉ là giả định. Trong hệ thống FTTx thực
tế, một số giá trị các suy hao này có thể lớn hơn, và số lượng connector, số lượng

192
mối hàn có thể nhiều lên làm tăng suy hao tuyến. Ngoài ra, các ảnh hưởng của thiệt
thòi công suất cho bộ thu hoạt động ở burst mode chưa được tính đến.
Bước đầu tiên là thực hiện tính toán quĩ công suất 1310 nm. Người thiết kế
lựa chọn ONT chứa nguồn laser có thể tạo ra công suất Ps = 2.0 dBm (1.6 mW),
bước sóng 1310 nm được đưa vào sợi và OLT sử dụng InGaAs PIN photodiode. Bộ
thu có độ nhạy thu PR = -30 dBm tại 622 Mbit/s, bước sóng 1310 nm với BER = 10-
11
. Như vậy, tổng suy hao cho phép giữa laser của ONT và photodiode của OLT là
PT = PS - PR = 32 dB.
Do cách bố trí các thiết bị, trong thiết kế này giả định sử dụng một đoạn cáp
nhảy quang trong phần trạm trung tâm để kết nối tín hiệu được đưa đến từ cáp
nhánh đến giá của thiết bị OLT. Cáp nhảy này giả thiết có suy hao 1.0 dB, chủ yếu
là do suy hao connector 0.5 dB tại hai đầu của dây nhảy.
Hai connector LC suy hao thấp (suy hao 0.1 dB/1 connector) đặt tại hai đầu
của caps thuê bao nối từ hộp rẽ nhánh đến ONT tại khu vực thuê bao. Ngoài ra còn
một connector khác tại giao diện giữa bộ chia quang và cáp phân bố. Mối hàn nằm
ở điểm cuối của cáp nhánh, nơi nối với bộ chia quang.

Qui trình bình thường để tính toán quĩ công suát là sử dụng bảng tính như
minh họa trên bảng 6.3 (tính toán cho quĩ công suất tuyến 1310 nm). Trong bảng
này liệt kê các thành phần trong cột bên trái. Cột ở giữa là các giá trị về công suất
phát quang, độ nhạy thu hoặc là suy hao tương ứng. Trong cột bên phải là giá trị
công suất dự phòng còn lại sau khi trừ đi suy hao của các thành phần trên tuyến nằm
giữa nguồn phát và thiết bị thu quang. Trong trường hợp này, suy hao cho phép giữa
hai coupler WDM là 25 dB cho hệ thống loại B. Kết quả về độ dự phòng cuối cùng
của hệ thống sau khi tính toán là 0.1 dB. Giá trị này khá nhỏ, không đảm bảo độ an
toàn của hệ thống. Vì vậy, có thể sẽ cần phải sử dụng đến các thành phần của hệ
thống loại C. Với các thành phần này cho phép tăng quĩ suy hao lên 5 dB. Hoặc
cũng có thể sử dụng một phương án khác là giảm kích thước bộ chia hoặc chiều dài
tuyến.

Bảng 6.3 Bảng tính toán sử dụng để tính quĩ công suất cho tuyến PON FTTx 1310 nm với
dải suy hao loại B

Thành phần/Tham số suy Công suất phát/độ Độ dự trữ công suất


hao nhạy thu/suy hao (dB)

193
Công suất phát của laser ONT 2.0 dBm

Độ nhạy thu của OLT tại tốc -30 dBm


độ 622 Mbit/s
Suy hao cho phép của tuyến 32
[2-(-30)]
Suy hao coupler WDM -3.0 dB 29
(2x1.5dB)

Suy hao dây nhảy tại trạm -1.0 dB 28


trung tâm

Độ thiệt thòi về công suất tại -3.0 dB 25


bộ thu OLT

Công suất sẵn có dành cho 25


tuyến loại B

Suy hao bộ chia quang (1x32) -16.5 dB 8.5


Suy hao mối hàn (1x0.1dB) -0.1 dB 8.4

Suy hao connector (3x0.1dB) -0.3 dB 8.1

Suy hao cáp (20kmx0.4dB/km) -8.0 dB 0.1 (độ dự trữ của hệ


thống)

6.2.3 Quỹ công suất cửa sổ 1490 nm


Truyền dẫn tín hiệu theo hướng xuống từ OLT đến ONT được thực hiện tại
bước sóng 1490 nm. So với trường hợp hướng lên, có ba giá trị bị thay đổi, như
minh họa trên hình 6-5. Cụ thể là suy hao cáp giảm xuống còn 0.25 dB/km. Tiếp đó
là do đường xuống BPON FTTx có tốc độ là 1.25 Gbit/s tại bước sóng 1490 nm nên
bộ thu sẽ có độ nhạy thu PR = -26 dBm để đảm bảo BER = 10-11. Giả sử nguồn
quang có công suất phát là 3 dBm (tương đương với 2 mW).

194
Hình 6-5 Suy hao của các thành phần trên tuyến FTTx 1490nm

Các tham số của các thành phần khác giống như trong trường hợp truyền dẫn
hướng lên 1310 nm. Chỉ có một điểm khác là với truyền dẫn hướng xuống, bộ thu
hoạt động ở chế độ thông thường (không hoạt động ở burst-mode). Trên bảng dưới
đây tính toán quĩ công suất cho đường xuống. Độ dự trữ cho hệ thống là 3.1 dB, ở
mức chấp nhận được cho tuyến 20 km.
Bảng 6.4 Bảng tính toán sử dụng để tính quĩ công suất cho tuyến PON FTTx 1490 nm với
dải suy hao loại B

Thành phần/Tham số suy Công suất phát/độ Độ dự trữ công suất


hao nhạy thu/suy hao (dB)
Công suất phát của laser ONU 3.0 dBm

Độ nhạy thu của OLT tại tốc -26 dBm


độ 1.25 Gbit/s

Suy hao cho phép của tuyến 29


[2-(-30)]

Suy hao coupler WDM -3.0 dB 26


(2x1.5dB)

Suy hao dây nhảy tại trạm -1.0 dB 25

195
trung tâm

Công suất sẵn có dành cho 25


tuyến loại B
Suy hao bộ chia quang (1x32) -16.5 dB 8.5
Suy hao mối hàn (1x0.1dB) -0.1 dB 8.4

Suy hao connector (3x0.1dB) -0.3 dB 8.1

Suy hao cáp (20kmx0.4dB/km) -5.0 dB 3.1 (độ dự trữ của hệ


thống)

6.3 Ước tính dung lượng tuyến


Phân tích quĩ thời gian lên là phương pháp truyền thống để xác định dung
lượng của một tuyến thông tin quang. Phương pháp này đặc biệt phù hợp với các
tuyến truyền dẫn số khi mà dung lượng của tuyến bị gới hạn bởi tán sắc..

6.3.1 Công thức cơ bản


Gọi tsys là tổng thời gian lên của tuyến truyền dẫn. tsys được tính theo công
thức sau:
(∑ ) (6.5)

trong đó ti là thời gian lên đóng góp từ từng thành phần trên tuyến vào thời gian lên
chung của toàn tuyến.
Đối với hệ thống thông tin quang, có năm thành phần cơ bản có thể hạn chế
đáng kể tốc độ truyền dẫn của hệ thống, bao gồm: thời gian lên của nguồn của
nguồn phát tTX, thời gian lên do tán sắc mode của sợi đa mode tmod (với hệ thống sử
dụng sợi quang đơn mode sẽ không có thành phần này), thời gian lên do tán sắc tCD,
thời gian lên do tán sắc mode phân cực tPMD và thời gian lên của bộ thu tRX.
( ) (6.6)

Nhìn chung, yêu cầu đối với thời gian lên của hệ thống truyền dẫn số không
được vượt quá 70% chu kỳ bit đối với tín hiệu NRZ và 35% đối với tín hiệu RZ,
trong đó một chu kỳ bit được định nghĩa là nghịch đảo của tốc độ bit.
Thời gian lên của thiết bị phát và thiết bị thu thường là được biết trước. Đối
với thiết bị phát, thời gian lên sẽ liên quan đến tốc độ tại đó nguồn quang đáp ứng
với dòng điều chế điện. Thông thường, tRX đối với LED là 2 ns và là 0.1 ns khi sử
196
dụng nguồn laser. Thời gian lên của bộ thu liên đến tốc độ đáp ứng của photodiode
và băng tần điện 3 dB (BRX) của mạch front-end trong bộ thu. Thời gian lên của bộ
thu thường được xác định bằng khoảng thời gian để tín hiệu đầu ra của bộ thu tăng
từ 10% lên 90% như trên hình 6-6. Nếu BRX được tính bằng MHz thì thời gian lên
của bộ thu (tính theo ns) được tính như sau:

(6.7)

Trong thực tế, một tuyến truyền dẫn quang hiếm khi được tạo thành từ một
sợi quang đồng nhất, liên tục (không có các điểm hàn nối) mà thông thường sẽ bao
gồm nhiều đoạn sợi được nối với nhau. Các đoạn sợi này có thể có đặc tính tán sắc
khác nhau. Điều này đặc biệt đúng với các tuyến có tốc độ từ 10 Gbit/s trở lên khi
trên tuyến có sử dụng sợi bù tán sắc. Ngoài ra, đối với sợi đa mode, vì các lý do như
hàn nối không chuẩn, mặt cắt chiết suất của các sợi khác nhau, … cũng có sẽ có sự
phân bố lại mode khi đi qua các điểm hàn nối. Do đó việc xác định thời gian lên do
tán sắc và tán sắc mode gây ra cũng sẽ phức tạp hơn khi cả tuyến chỉ dùng một sợi
quang đồng nhất.

Hình 6-6 Thời gian lên từ 10% lên đến 90% của xung

Thời gian lên tCD do tán sắc trên một chiều dài truyền dẫn L gậy ra được tính
xấp xỉ theo công thức sau:
| | (6.8)

trong đó  là độ rộng phổ tại điểm nửa công suất của nguồn phát và DCD là hệ số
tán sắc của sợi quang. Vì giá trị hệ số tán sắc có thể khác nhau giữa các đoạn sợi
nên giá trị DCD trong công thức trên là giá trị trung bình.

197
Với sợi đa mode, băng tần hay khả năng mang thông tin của hệ thống được
xác định bằng mối quang hệ băng tần – khoảng cách với đơn vị là MHz.km. Vì vậy
băng tần cần thiết để hỗ trợ ứng dụng phụ thuộc vào tốc độ truyền dẫn và khoảng
cách truyền dẫn. Với sợi đa mode có đường kính lõi là 50 m có băng tần khoảng
500 MHz.km, lớn gấp khoảng ba lần băng tần của sợi có đường kính lõi 62.5 m
(khoảng 160 MHz.km) tại bước sóng 850 nm. Nếu gọi Bmode là băng tần tán sắc
mode (tính theo MHz.km), thì thời gian lên do tán sắc mode (ns) trên một đoạn sợi
có chiều dài L (km) được tính theo công thức sau:

(6.9)

Thời gian lên do tán sắc mode phân cực gây ra, tPMD được tính theo công
thức sau:

√ (6.10)
trong đó DPMD là hệ số tán sắc mode phân cực của sợi, được tính theo ps/km1/2.
Trong phần dưới đây sẽ trình bày ví dụ về tính thời gian lên cho tuyến trong
ví dụ ở mục 6.2.

6.3.2 Thời gian lên của tuyến


Các thành phần sau được sử dụng trong tuyến FTTx trong ví dụ ở mục 6.2;
- Laser ở thiết bị phát có thời gian lên 0.1 ns và độ rộng phổ 1 nm
- Photodiode tại bộ thu có băng tần front-end BRX=1250 MHz
- Sợi đơn mode G.652 với DCD = 4 ps/(nm.km) và DPMD = 0.1 ps/km1/2 tại
bước sóng 1490 nm
Bảng 6.5 Bảng tính quĩ thời gian lên cho tuyến FTTx PON

Thành phần Thời gian lên Quĩ thời gian lên


Quĩ thời gian lên cho phép tsys = 0.7/BNRZ = 0.56 ns
Thời gian lên của laser 0.1 ns

Tán sắc trong sợi quang 80 ps (tính theo công


thức 6.8-6.10)

Thời gian lên bộ thu 0.28 ns (tính theo


công thức 6.7)

198
Thời gian lên của hệ thống 0.1 ns (tính theo công thức
6.6)

Vì tín hiệu FTTx sử dụng dạng NRZ, nên thời gian lên của hệ thống phải nhỏ
hơn 0.7/(1250 Mbit/s) = 0.56 ns. Vì vậy, tiêu chuẩn về thời gian lên đã được đảm
bảo.
Tương tự như tính toán quĩ công suất, khi tính toán thời gian lên, cũng nên
dùng bảng tính (như minh họa trên bảng 6.5).

6.4 Các chế độ bảo vệ mạng


Khuyến nghị ITU-T G.983.5 là phần mở rộng cho khuyến nghị ITU-T
G.983.1 trong đó mô tả các chức năng liên quan đến bảo vệ mạng nhằm cung cấp
các dịch vụ với độ tin cậy cao. Cụ thể, G.983.5 đưa ra các vấn đề liên quan đến kiến
trúc bảo vệ mạng PON, tiêu chuẩn về chất lượng bảo vệ, tiêu chuẩn chuyển mạch
bảo vệ và các giao thức.
Hình 6-7 minh họa ba kiến trúc chuyển mạch bảo vệ loại A, loại B và loại C.
Sợi quang chỉ được bảo vệ với sơ đồ loại A.

199
Hình 6-7 Các kiến trúc bảo vệ mạng FTTP cơ bản

Để việc thực hiện chuyển mạch bảo vệ được đơn giản, một số chuyển mạch
tái cấu hình cho tuyến được chuyển sang phần thiết bị truyền dẫn. Ví dụ, cơ chế cơ
quang thực hiện chuyển mạch từ sợi bị lỗi sang sợi dự phòng một cách độc lập với
các thủ tục truyền dẫn, ví dụ như thủ tục ranging. Điều này có nghĩa là thủ tục
ranging cần được thực hiện trở lại sau khi có chuyển mạch bảo vệ loại A.
Trong sơ đồ bảo vệ loại B, tại trạm trung tâm, thiết bị OLT có thiết bị dự
phòng. Mỗi thiết bị OLT được nối đến bộ chia quang của mạng PON qua một sợi
độc lập. Một thiết bị OTL được coi là thiết bị làm việc, thiết bị OLT thứ hai đóng
vai trò là thiết bị dự phòng nóng. Điều này có nghĩa là khi sợi làm việc hoặc thiết bị
OLT thứ nhất bị sự cố, dịch vụ sẽ được chuyển sang OLT và tuyến dự phòng. Việc
điều khiển chuyển mạch bảo vệ này được thực hiện tại trạm trung tâm.
Cơ chế bảo vệ loại C sử dụng một mạng PON để dự phòng hoàn toàn. Trong
trường hợp này, cả mạng dự phòng và mạng chính đầu hoạt động. Kiến trúc này cho

200
phép thời gian chuyển mạch tương đương cỡ tối đa 50 ms như qui định về chuyển
mạch bảo vệ cho mạng SONET và SDH. Thiết bị thu, thông thường, sẽ lấy tín hiệu
từ mạng PON chính. Tuy nhiên, chất lượng tín hiệu từ hai mạng PON liên tục được
giám sát và tín hiệu từ mạng dự phòng sẽ được thay thế cho mạng chính trong
trường hợp tín hiệu từ mạng chính bị suy giảm chất lượng. Vì vậy, mỗi lương ONU
được chuyển mạch một cách độc lập dựa trên chất lượng tín hiệu mà ONU đó thu
được. Kiến trúc loại C này có thể thực hiện bảo vệ mạng khi có sự cố xảy ra ở cáp
chính hoặc cáp nhánh hoặc cáp thuê bao cũng như khi có sự cố xảy ra ở OLT hoặc
ONT.

6.5 Đo kiểm mạng FTTx


Các tham số chính cần đo trong mạng FTTx bao gồm: mức công suất quang
tại một số điểm trên mạng, suy hao công suất khi tín hiệu đi qua các thành phần của
mạng PON, suy hao phản xạ quang. Các thiết bị đo thường được sử dụng gồm có
máy đo công suất quang, nguồn phát quang laser có khả năng phát tại ba bước sóng
1310, 1490 và 1550 nm, thiết bị đo phản xạ trong miền thời gian quang (OTDR), bộ
thiết bị đo suy hao quang chuyên dụng, visual fault indicator….
Một số các tố chức quốc tế liên quan đến việc đưa ra các qui định trong việc
đo kiểm cho mạng PON, điển hình là IEEE, ITU-T, TIA, EIA và Telcordia
Technologies. Trong bảng 6.5 tóm tắt các tiêu chuẩn liên quan đến đo kiểm mạng
PON do các tổ chức này đưa ra. Các tiêu chuẩn này đưa ra phương pháp đo đánh
giá cũng như các yêu cầu liên quan đến các thành phần trên mạng PON như đo
kiểm sợi quang, cáp quang, các thành phần thụ động và các thành phần quang điện.
Bảng 6.5 Các tiêu chuẩn quốc tế chính liên quan đến đo kiểm mạng PON

Tổ chức Địa chỉ internet Các hoạt động liên quan đến PON
IEEE www.ieee.org Xây dựng và ban hành các qui trình đo kiểm tuyến
và mạng PON:
- Định nghĩa các phương pháp đo ở lớp vật

- IEEE 802.3ah

ITU-T www.itu.int/ITU-T Xây dựng và ban hành các tiêu chuẩn trong mọi
lĩnh vực của viễn thông:
- Seri G cho viễn thông

201
- Seri L cho mạng ngoại vi
- Khuyến nghị ITU-T G.983 (BPON)
- Khuyến nghị ITU-T G.984 (GPON)
- Khuyến nghị ITU-T G.985 (EPON)
Telcordia www.telcordia.org Xây dựng yêu cầu chung cho các phần tử mạng:
- Connector quang
- Tủ thiết bị trong nhà và ngoài trời
- Măng xông dưới mặt đất và trên mặt đất
TIA/EIA www.tiaonline.org Xây dựng trên 120 bài đo cho mạng và thiết bị
www.eia.org quang:
- Định nghĩa các phương pháp đo ở lớp vật

- Các tài liệu TIA/EIA-455-XX hoặc FOTP-
XX

6.5.1 Các thiết bị đo kiểm cơ bản


Các thiết bị đo cơ bản dùng để đo mạng FTTP gồm có thiết bị đo công suất
quang, nguồn quang (có thể phát tại ba bước sóng 1310, 1490 và 1550 nm), thiết bị
kiểm tra lỗi bằng mắt thường, thiết bị đo phản xạ miền thời gian quang (OTDR) và
thiết bị đo suy hao phản hồi quang. Với các thiết bị đo trên mạng, không cần độ
chính xác quá cao như các thiết bị đo sử dụng trong phòng thí nghiệm như phải gọn
nhẹ và có độ bền cao, hoạt động tốt trong các điều kiện môi trường, dưới các ảnh
hưởng của nhiệt độ, độ ảm, bụi, và các tác động về cơ học.
Bảng 6.6 Một số thiết bị đo quang sử dụng trong đo kiểm mạng PON

Thiết bị đo Tính năng


Thiết bị đo công suất quang Đo công suất quang trên một dải bước sóng nhất
định
Thiết bị xác định sự cố bằng Sử dụng ánh sáng nhìn thấy để xác định các điểm
mắt thường đứt gãy của sợi quang.

Các nguồn laser (phát ra Hỗ trợ các phép đo kiểm tra đáp ứng phụ thuộc vào
nhiều bước sóng hoặc một bước sóng của thành phần nào đó trên mạng hoặc
dải bước sóng băng rộng) tuyến quang.

202
Bộ suy hao quang Giảm mức công suất để tránh làm hỏng thiết bị hoặc
tránh tín hiệu bị méo do thiết bị làm việc ở mức
công suất quá tải khi thực hiện đo.
Thiết bị đo OTDR Đo suy hao tuyến cáp, suy hao mối hàn/connector,
đo các mức phản xạ, đo chiều dài, xác định các
điểm gãy sợi.
Các thiết bị đo quang đa chức Thiết bị gồm nhiều mô đun có thể thay đổi, tháo lắp
năng để thực hiện nhiều phép đo khác nhau.
Thiết bị đo suy hao phản hồi Đo tỷ lệ giữa mức công suất quang phản hồi và
quang công suất quang truyền đi tại các điểm trên tuyến.
Thiết bị phân tích phổ quang Đo công suất quang thay đổi theo bước sóng
(OSA)
Thiết bị đo lỗi bit (BER) Đánh giá chất lượng đường truyền tín hiệu số

6.5.2 Các phép đo kiểm tham số quang cơ bản


a. Đo nghiệm thu thiết bị
Thiết bị cần được đo kiểm tra xem có hoạt động chính xác không trước khi
đưa vào lắp đặt trên tuyến. Thủ tục này được gọi là đo nghiệm thu thiết bị. Trên
hình 6-8 là thiết bị đo chuyên dụng (OST) được dùng cho hoạt động đo này.

Hình 6-8 Thiết bị đo chuyên dụng dùng để đo nghiệm thu thiết bị

Thiết bị đo này với khả năng chủ động tạo ra các suy giảm chất lượng của tín
hiệu đo cho phép kiểm tra khả năng đáp ứng của thiết bị đối với tín hiệu thực. Các
suy giảm chất lượng mà máy đo có thể tạo ra đối với tín hiệu đo như thay đổi mức

203
công suất quang, thay đổi tỷ số phân biệt, tạo ra jitter biên độ và pha, can thiệp từ
một nguồn laser khác, thay đổi OSNR của tín hiệu …Các tham số này có thể thay
đổi một cách độc lập hoặc kết hợp thay đổi đồng thời nhiều tham số.
Thiết bị này cho phép đo và hiển thị các tham số của thiết bị như lỗi bit, độ
nhạy thu, mức công suất thu quá tải, nhiễu ảnh hưởng như thế nào đến thiết bị đó,
độ thiệt thòi do thiết bị đó gây nên.
b. Đo kiểm tra mạng
Để đo kiểm tra một mạng PON sau khi lắp đặt xong có đáp ứng được các
tiêu chuẩn thiết kế không cần phải thực hiện một qui trình đo như sau:
- Test 1: đo kiểm tra từng phần trên tuyến, trong cả trạm trung tâm và trong
phần cáp ngoại vi.
- Test 2: đo kiểm tra quĩ suy hao của tuyến hai chiều end-to-end.
- Test 3: đo suy hao mối hàn, suy hao connector quang và các coupler bước
sóng.
- Test 4: đo kiểm tra suy hao phản xạ hai chiều end-to-end
- Test 5: kiểm tra xem ONU có thu được chính xác tín hiệu gửi từ OLT và tín
hiệu video gửi từ thiết bị video đặt ở trạm trung tâm hay không (bước sóng
1490 và 1550 nm)
- Test 6: kiểm tra xem OLT có nhận được chính xác tín hiệu từ các ONU gửi
đến hay không.

204
Hình 6-9 Các phép đo cần thực hiện cho phần mạng giữa OLT và ONU khi đo nghiệm thu
mạng PON

c. Đo suy hao của từng phần trên tuyến


Suy hao của từng phần mạng cần được kiểm tra trước khi nối vào bộ chia
quang. Việc đo suy hao phải được thực hiện đo hai chiều, đo trên cả cáp nhánh, cáp
phân bố và cáp thuê bao. Với đường xuống cần đo ở hai bước sóng 1490 và 1550
nm. Với đường lên cần đo ở bước sóng 1310 nm. Việc đo hai chiều này có thể thực
hiện theo nhiều cách tùy thuộc vào thiết bị đo có sẵn, ví dụ như:
- Sử dụng nguồn phát quang tại một đầu và thiết bị đo công suất quang tại đầu
còn lại.
- Hoặc mỗi đầu sử dụng một bộ OLTS. Mỗi OLTS bao gồm một nguồn quang
kết hợp với một thiết bị đo công suất quang.
- Hoặc sử dụng một cặp thiết bị đo đa chức năng như trên hình 13.10 thay cho
OLTS.
d. Đo kiểm tra quĩ suy hao
Mỗi một mạng PON được thiết kế có quĩ suy hao thuộc loại B hoặc loại C,
tương ứng với quĩ suy hao 25 hoặc 30 dB. Thông thường, quĩ suy hao loại A (20
dB) ít được sử dụng. Như thấy trên hình 6-10, sau khi cáp nhánh và cáp phân bố
được nối vào bộ chia quang, OLT và ONU được nối vào mạng qua dây nhảy, có thể
đo được tổng suy hao giữa OLT và ONU bằng cách sử dụng một cặp OLTS. Nếu
giá trị đo được vượt quá quĩ suy hao cho phép, chất lượng tín hiệu thu được sẽ
không được đảm bảo. Việc đo cần được thực hiện hai chiều và đo với mọi nhánh
của bộ chia quang. Chiều xuống đo tại hai bước sóng 1490 và 1550 nm, chiều lên
đo tại bước sóng 1310 nm.

205
Hình 6-10 Đo suy hao tổng giữa OLT và ONU bằng một cặp OLTS

e. Đo kiểm tra tuyến end-to-end


OTDR được sử dụng để kiểm tra tuyến end-to-end. Phép đo này có thể thực
hiện được tại một đầu. OTDR cho phép đo suy hao tại từng phần trên tuyến, xác
định được vị trí và suy hao của mối hàn, connector, bộ chia quang và các coupler
WDM cũng như các bất thường trên tuyến. Các bất thường này có thể do cáp bị uốn
cong quá mức, các vết nứt gẫy trên sợi, sự không phù hợp về kích thước lõi lợi khi
trên tuyến sử dụng nhiều loại sợi.

Hình 6-11 Đo suy hao đường lên cho phần tuyến từ bộ chia quang đến OLT bằng OTDR

f. Đo suy hao phản xạ (OLR)


ORL cần được đo trên cả hai hướng, sau khi tuyến kết nối OLT-ONU được
hoàn thành Phép đo này có thể thực hiện được nhờ sử dụng một cặp thiết bị đo ORL
hoặc một cặp thiết bị đo đa chức năng, mỗi thiết bị ở một đầu của tuyến. Với mạng
PON loại B, công suất quang phản xạ tối thiểu phải nhỏ hơn 30 dB so với mức công
suất tín hiệu đến. Nhìn chung giá trị trong dải -30 đến -35 dB là chấp nhận được.
g. Đo kiểm tra các đầu ra OLT và thiết bị video
Sau khi đo kiểm tất cả các phần trên tuyến, cần thực hiện đo mức công suất
quang đến ONT được gửi đến từ OLT và thiết bị video. Mức công suất này cần
được đo với cả bước sóng 1490 nm (cho tín hiệu thoại và dữ liệu gửi đến từ OLT)
và bước sóng 1550 nm (cho tín hiệu video). Đầu ra của OLT cần được kiểm tra tại
vài điểm trên tuyến, cụ thể là:
- Điểm tại đầu ra của coupler WDM tại trạm trung tâm.
- Tại từng cổng của bộ chia quang
- Tại đầu cuối của cáp thuê bao tại ONU

206
h. Đo kiểm đầu ra của ONU
Việc đo kiểm tín hiệu từ ONU gửi đến OLT cũng cần thực hiện tại một số
điểm trên tuyến. Phép đo này cần tiến hành tại bước sóng 1310 nm. Để thực hiện
phép đo này cần sử dụng thiết bị đo có tính năng đo pass-though. Tính năng này có
nghĩa là khi thiết bị này được nối vào trên đường truyền giữa OLT và ONU, thiết bị
đo sẽ trích một phần nhỏ công suất của tín hiệu để đưa đến bộ thu của máy đo. Lý
do cần có chức năng đặc biệt này là vì ONU chỉ có thể gửi được tín hiệu đi nếu như
có sự cho phép từ OLT.
Trên hình 6-12 là các điểm cần đo công suất theo chiều tín hiệu gửi từ ONU
đến OLT, thực hiện đo lần lượt từ P1 đến P5. P1 là công suất phát tại đầu ra của
ONU, P2 là công suất tại điểm nối từ cáp phân bố vào bộ chia quang, P3 là công suất
tại đầu ra bộ chia quang theo hướng đường lên của tín hiệu, P4 là công suất trước
khi đưa vào coupler WDM và P5 là công suất đến tại đầu vào OLT.

Hình 6-12 Đo công suất quang từ ONU gửi đến OLT tại các điểm trên tuyến

i. Đo kiểm tra xác định sự cố trên mạng FTTx


Trong quá trình hoạt động của mạng, không thể tránh khỏi xảy ra sự cố. Sự
cố có thể xảy ra ở OLT, ONU hoặc trong phần OSP. Điển hình có các sự cố như
sau:
- Hỏng card của OLT hoặc ONU
- Suy giảm chất lượng connector quang do ảnh hưởng của hơi ẩm, bụi, khớp
nối không tốt…
- Suy giảm chất lượng ở ONT do có thuê bao khác kết nối vào thiết bị
- Sự cố về nguồn hoặc pin dự phòng

207
- Sự cố tại các tủ phân phối hoặc đầu cuối truy nhập
- Cáp bị đứt do thiên tai, động vật gặm nhấm hoặc do các hoạt động của con
người.
Các sự cố này sẽ dẫn đến tình trạng mất tín hiệu quang tại một hoặc nhiều
ONU, hoặc suy giảm chất lượng tín hiệu, làm tăng BER. Trong phần dưới đây sẽ
trình bày qui trình cần tuân thủ khi đo kiểm tra xác định sự cố.
Để thuận tiện trong việc xác định sự cố, tuyến truyền dẫn từ OLT đến ONU
được chia thành 7 vùng như hình 6-13 dưới đây.

Hình 6-13 Định nghĩa các vùng khi xác định sự cố mạng PON

Giả thiết tất cả các ONU trong mạng đều bị mất một vài hoặc tất cả tín hiệu.
Trong trường hợp này, sự cố sẽ xảy ra đâu đó trong phần mạng từ đầu vào điện đưa
đến OLT cho đến đầu ra của bộ chia quang. Sự cố có thể nằm tại OLT hoặc thiết bị
phát video (vùng 1), hoặc sự cố tại dây nhảy trong trạm trung tâm (vùng 1), hoặc
dọc theo cáp nhánh (vùng 2), hoặc tại bộ chia quang (vùng 3).
Cách dễ dàng nhất để xác định sự cố là bắt đầu từ trạm trung tâm (vùng 1) và
kiểm tra trạng thái của các thiết bị truyền dẫn. Nếu bộ thu của ONU chỉ nhận được
một loại dịch vụ (ví dụ chỉ video hoặc data), điều đó có nghĩa là có sự cố tại OLT
hoặc thiết bị phát video. Nếu ONU không nhận được bất kỳ loại dịch vụ nào, có thể
sử dụng OTDR tại trạm trung tâm để kiểm tra xem có sự cố trên phần dây nhảy, giá
phân phối sợi quang hoặc trên phần cáp nhánh. Vì đoạn cáp trong trạm trung tâm rất
ngắn nên phải dùng một bộ nén xung quang kết hợp với OTDR thì mới có thể xác
định được sự cố trong vùng này.

208
Nếu chỉ có một vài ONU bị mất tín hiệu, sự cố sẽ nằm trong phần phân bố
của mạng FTTx. Như trên hình 6-14, sự cố có thể xảy ra ở trạm phân bố (vùng 3), ở
cáp phân bố (vùng 4), ở cáp thuê bao (vùng 6), ở đầu cuối truy nhập (vùng 5) hoặc
ở phần cấp nguồn (vùng 7). Có thể sử dụng OTDR từ điểm A (trên hình 6-14) để
tìm xem có sự số trong phần cáp phân bố và cáp thuê bao hay không. Tuy nhiên cần
lưu ý để OTDR hoạt động ở bước sóng 1550 nm để tránh gây nhiễu đến các ONT
khác vẫn đang hoạt động gửi tín hiệu đến OLT.

Hình 6-14 Các vị trí lỗi có thể trong một trường hợp chỉ một hoặc một vài ONU bị ảnh
hưởng do mất nguồn.

Trong trường hợp chỉ có một ONT không nhận được tín hiệu hoặc không thể
liên lạc một cách chính xác với OLT. Nếu ONU không hoạt động, nguyên nhân có
thể do hết nguồn hoặc bảng mạch của ONU bị hỏng. Nếu ONU vẫn hoạt động tốt
nhưng không thể nhận dịch vụ hoặc liên lạc được với OLT, sự cố sẽ nằm trong phần
đường quang giữa ONT và bộ chia quang.

6.6 Tổng kết chương


Trong chương này đã trình bày một số vấn đề cơ bản liên quan đến thiết kế
và đo kiểm mạng FTTx. Đối với phần thiết kế, tài liệu đề cập đến các yêu cầu cơ
bản khi thiết kế, phương pháp tính toán quĩ công suất và quĩ thời gian lên khi thiết
kế mạng FTTx. Tuy nhiên đây chỉ là các tính toán thiết kế cho các mạng FTTx đơn
giản. Với các mạng FTTx phức tạp hơn, khi thiết kế cần có kết hợp sử dụng các
công cụ mô phỏng để hỗ trợ thiết kế mạng.

209
- Các thiết bị đo cần sử dụng và cách thực hiện để đo kiểm mạng FTTx: đo khi
lắp đặt và đo xác định sự cố.
Một số vấn đề liên quan đến bảo vệ mạng FTTx cũng được trình bày trong
chương này.

Câu hỏi/ bài tập chương 6


6-1/ Trình bày nguyên tắc và các bước thực hiện để thiết kế một mạng PON
6-2/ Trình bày cách tính toán quĩ công suất khi thiết kế mạng PON
6-3/ Trình bày cách tính toán quĩ thời gian lên khi thiết kế mạng PON
6-4/ Trình bày nguyên tắc chung và các phép đo cần thực hiện khi đo kiểm mạng
PON
6-5/ Cho một mạng truy nhập quang thu động BPON sử dụng bộ splitter 1:32 có tổn hao
trội là 0,5 dB. Biết mức phát tại OLT là 2 dBm và độ nhạy thu tại ONU là -26 dBm, suy

210
hao mỗi connector sử dụng kết nối là 0,5 dB. Hãy vẽ sơ đồ cấu hình mạng và tính khoảng
cách tối đa giữa OLT và ONU. Giả sử hệ thống cần quỹ dự phòng 3 dB và sử dụng sợi có
hệ số suy hao trung bình 0,25 dB/km.
6-6/ Cho một mạng truy nhập quang thu động PON sử dụng bộ splitter 1:32 có tổn hao trội
là 0,5 dB. Biết tại hướng lên mức phát tại ONU là 2 dBm và độ nhạy thu tại OLT là -30
dBm, bộ thu tại OLT đòi hỏi mức bù công suất cỡ 3dB, suy hao mỗi connector sử dụng kết
nối là 0,5 dB và sợi có hệ số suy hao trung bình 0,35 dB/km. Hãy vẽ sơ đồ cấu hình mạng
và tính mức dự phòng của hệ thống khi hoạt động ở khoảng cách tối đa. Mức dự phòng sẽ
thay đổi thế nào khi hệ thống sử dụng bộ splitter 1:16.

211
Tài liệu tham khảo

[1] G. Keiser, FTTx Concepts and Applications, Wiley-IEEE Press, 2006.


[2] Cedric F. Lam, Passive Optical Networks: Principles and Practice, Academic
Press, 2007.
[3] David Large, James Farmer, Broadband Cable Access Networks:The HFC
Plant, Morgan Kaufmann Publishers, 2009.
[4] Glen Kramer, Ethernet Passive Optical Networks, McGraw-Hill, 2005.
[5] Leonid G. Kazovsky et. al, Broadband Optical Access Networks, John Wiley &
Sons, 2011.
[6] Steve Gorshe, Arvind R. Raghavan, Thomas Starr, Stefano Galli, Broadband
Access: Wireline and Wireless – Alternatives for Internet Services, John Wiley &
Sons, 2014.
[7] ITU-T Rec. G.983.1, Study Group 15, „„Broadband optical access systems based
on passive optical networks,‟‟ Oct., 1998.
[8] IEEE Standard for Information Technology, IEEE 802.3ah Ethernet in the first
Mile Task Force, D3.3, Apr. 19, 2004.
[9] ITU-T Rec. G.984.2. „„Gigabit-capable passive optical networks (G-PON):
physical media dependent (PMD) layer specification,‟‟ Mar., 2003.
[10] ITU-T G.987. 10-Gigabit-capable passive optical network (XG-PON) systems:
Definitions, abbreviations and acronyms; 2012.

212
213

You might also like