You are on page 1of 53

Công an nhân dân

Việt Nam

Công an Nhân dân Việt Nam là một lực


lượng vũ trang trọng yếu của Đảng Cộng
sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam, làm nòng cốt,
xung kích trong sự nghiệp bảo vệ an ninh
quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội
của Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam. Công an nhân dân có chức
năng tham mưu cho Đảng, Nhà nước về
bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự,
an toàn xã hội; thực hiện thống nhất quản
lí về bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn
trật tự, an toàn xã hội; đấu tranh phòng,
chống âm mưu, hoạt động của các thế
lực thù địch, các loại tội phạm và các vi
phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật
tự, an toàn xã hội. Công an Nhân dân Việt
Nam đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực
tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt
Nam, sự thống lĩnh của Chủ tịch Nước, sự
thống nhất quản lí của Chính phủ và sự
chỉ huy, quản lí trực tiếp của Bộ trưởng Bộ
Công an.[1] Khẩu hiệu của lực lượng từ
những ngày đầu thành lập là "Bảo vệ An
ninh Tổ quốc".
Công an Nhân dân Việt Nam

Công an hiệu

Sáu chữ vàng: BẢO VỆ AN NINH TỔ QUỐC

Sáu điều Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy Công an


Nhân dân Việt Nam:
Đối với tự mình, phải cần kiệm liêm chính;
Đối với đồng sự, phải thân ái giúp đỡ;
Đối với Chính phủ, phải tuyệt đối trung thành;
Đối với nhân dân, phải kính trọng lễ phép;
Đối với công việc, phải tận tụy;
Đối với địch, phải cương quyết khôn khéo.

Khẩu hiệu Bảo vệ An ninh Tổ


quốc

Màu sắc Vàng, đỏ, xanh


Hành khúc Chúng ta là chiến sĩ
Công an
Tác giả: Giáo sư, Nghệ
sĩ Nhân dân Trọng
Bằng

Lễ kỷ niệm Ngày Truyền thống: 19


tháng 8

Tham chiến Xô Viết Nghệ Tĩnh


Vụ án Ôn Như Hầu
Kế hoạch CM-12
Vụ án Năm Cam và
đồng phạm
Vụ PMU 18

Các tư lệnh

Đại tướng Tô Lâm


Chỉ huy Lê Giản
nổi tiếng Phạm Hùng

Từ Công an
Từ "công an" là một từ gốc Hán ( 公安) và
được sử dụng tại các quốc gia Việt Nam
(公安-công an), Nhật Bản(公安-こうあん)
và Hàn Quốc 公安-공안). Nghĩa của nó
được hình thành bởi hai chữ Hán "Công"
nghĩa là "công cộng" và "an" nghĩa là "trật
tự", "hoà bình". "Công an", theo đó, có
nghĩa là "lực lượng gìn giữ trật tự công
cộng".

Lịch sử
Quá trình hình thành

Nguồn gốc của lực lượng Công an nhân


dân Việt Nam được xem là bắt đầu từ
các đội Tự vệ Đỏ trong phong trào Xô viết
Nghệ Tĩnh (1930-1931), các Đội Danh dự
trừ gian, Hộ lương diệt ác... do Đảng
Cộng sản Đông Dương thành lập với mục
đích bảo vệ tổ chức. Những năm 1930 -
45, để chống các hoạt động phá hoại và
do thám của thực dân Pháp và chính
quyền tay sai, bảo vệ cách mạng, Đảng
Cộng sản Đông Dương đã thành lập các
đội: Tự vệ đỏ, Tự vệ công nông, Danh dự
trừ gian, Danh dự Việt Minh. Đó là những
tổ chức tiền thân của công an nhân dân
và quân đội nhân dân sau này.
Sau cuộc Cách mạng tháng Tám (nổ ra
ngày 19 tháng 8 năm 1945), chính quyền
lâm thời của Việt Minh đã có chỉ thị thành
lập một lực lượng vũ trang có nhiệm vụ
bảo vệ an ninh trật tự. Tuy nhiên, lực
lượng này chưa có tên gọi chung mà
mang nhiều tên gọi khác nhau, như Sở
Liêm phóng (ở Bắc Bộ), Sở trinh sát (ở
Trung Bộ), Quốc gia tự vệ cuộc (ở Nam
Bộ). Đến ngày 21 tháng 2 năm 1946, Chủ
tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 23/SL
hợp nhất các lực lượng này thành một lực
lượng công an nhân dân ở cả ba miền
được thống nhất một tên gọi thống nhất
là Công an có nhiệm vụ bảo vệ an ninh
quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội;
và thành lập Việt Nam Công an Vụ để
quản lý lực lượng công an nhân dân do
một Giám đốc đứng đầu, mà người đầu
tiên là Lê Giản.

Trong thời kỳ đầu, cơ quan quản lý ngành


Công an là Nha Công an vụ, trực thuộc Bộ
Nội vụ. Đến ngày 16 tháng 2 năm 1953,
thành lập thành Thứ bộ Công an, trực
thuộc Bộ Nội vụ, đứng đầu là một Thứ
trưởng. Đến năm 1955, thì tách hẳn thành
Bộ Công an. Năm 1959, sáp nhập các lực
lượng biên phòng thành lực lượng Công
an vũ trang (nay là lực lượng Biên phòng)
trực thuộc quyền quản lý của Bộ Công an
(về sau lại chuyển về trực thuộc Bộ Quốc
phòng). Cũng từ năm này, lực lượng Công
an được tổ chức vũ trang và bán vũ trang
theo biên chế, có phù hiệu và cấp hàm
tương tự như quân đội.

Cơ quan quản lý qua các thời kỳ

19 tháng 8 năm 1945 - 21 tháng 2 năm


1946: Sở Liêm phóng (ở Bắc Bộ), Sở
trinh sát (ở Trung Bộ), Quốc gia tự vệ
cuộc (ở Nam Bộ).
1946-1953: Nha Công an vụ, trực thuộc
Bộ Nội vụ.
1953-1955: Thứ Bộ Công an trực thuộc
Bộ Nội vụ.
1955-1975: Bộ Công an.
1975-1998: Bộ Nội vụ.
1998-nay: Bộ Công an.

Trừ 2 bộ trưởng đầu tiên là dân sự, các


đời bộ trưởng về sau đều là sĩ quan cấp
tướng.

Ngày truyền thống

Ngày 19 tháng 8 hằng năm được lấy làm


ngày truyền thống của Công an nhân dân
Việt Nam và được quy định là "Ngày hội
toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc". Vào
ngày này, toàn bộ cán bộ chiến sỹ được
nghỉ (trừ các trường hợp trực tại đơn vị
hoặc làm nhiệm vụ).

Tổ chức
Cảnh sát giao thông (áo vàng) và Cảnh sát trật tự
(áo xanh lá cây) ở Việt Nam.

Hệ thống tổ chức của Công an nhân dân


gồm có:

1. Bộ Công an;
2. Công an tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương;
3. Công an huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh;
4. Công an xã, phường, thị trấn.
Công an xã là lực lượng vũ
trang bán chuyên trách làm
nòng cốt trong phong trào toàn
dân bảo vệ an ninh Tổ quốc,
bảo đảm an ninh, trật tự, an
toàn xã hội ở cơ sở, chịu sự
lãnh đạo trực tiếp, toàn diện
của cấp uỷ Đảng, sự quản lý,
điều hành của Ủy ban nhân dân
xã và sự chỉ đạo, hướng dẫn
nghiệp vụ của Công an cấp trên.
Tổ chức, hoạt động, trang bị,
trang phục, đào tạo, bồi dưỡng
và chế độ, chính sách đối với
Công an xã do pháp luật quy
định.[1]
Trong lực lượng Công an nhân dân chia
thành hai lực lượng riêng biệt là Cảnh sát
nhân dân và An ninh nhân dân, thực thi
các nhiệm vụ chuyên biệt.

Nhiệm vụ của An ninh nhân dân

- Phòng ngừa, phát hiện, làm thất bại các


âm mưu, hoạt động xâm phạm an ninh
quốc gia.

- Hoạt động tình báo.

- Hướng dẫn và phối hợp với các tổ chức


thực hiện công tác bảo vệ an ninh chính
trị nội bộ, an ninh kinh tế, an ninh văn hoá
- tư tưởng, an ninh thông tin; tham gia
thẩm định quy hoạch, kế hoạch, dự án
phát triển kinh tế - xã hội liên quan đến
bảo vệ an ninh quốc gia.

- Thực hiện quản lý công tác xuất cảnh,


nhập cảnh; quản lý người nước ngoài và
người Việt Nam định cư ở nước ngoài cư
trú tại Việt Nam; quản lý về bảo vệ bí mật
nhà nước; thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an
ninh quốc gia ở biên giới, cửa khẩu theo
quy định của pháp luật.

- Làm nòng cốt xây dựng thế trận an ninh


nhân dân trên các lĩnh vực, tại các địa
bàn.

- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác


theo quy định của pháp luật.
Nhiệm vụ của Cảnh sát nhân dân

- Phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh chống


tội phạm và vi phạm pháp luật về trật tự,
an toàn xã hội, về bảo vệ môi trường;
phát hiện nguyên nhân, điều kiện phát
sinh tội phạm, vi phạm pháp luật khác và
kiến nghị biện pháp khắc phục; tham gia
giáo dục đối tượng vi phạm pháp luật tại
cộng đồng theo quy định của pháp luật.

- Quản lý hộ khẩu, cấp giấy chứng minh


nhân dân; quản lý con dấu; quản lý về an
ninh, trật tự các nghề kinh doanh có điều
kiện và dịch vụ bảo vệ; quản lý và bảo
đảm trật tự, an toàn giao thông, trật tự
công cộng; quản lý vũ khí, vật liệu nổ;
quản lý, thực hiện công tác phòng cháy,
chữa cháy; tham gia cứu hộ, cứu nạn theo
quy định của pháp luật.

- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác


theo quy định của pháp luật.[1]

Trang phục
Trang phục trước ngày 6/6/2016

Cơ bản trang phục của tất cả các lực


lượng trong ngành công an nhân dân đều
có chung một quy tắc là quân hàm đeo
hai bên vai, huy hiệu cổ áo được sử dụng
tùy cấp bậc của người mặc, cấp hạ sĩ
quan và chiến sĩ sử dụng cổ áo hình bình
hành nền đỏ ở giữa có hình công an hiệu,
sĩ quan cấp úy là cành tùng màu bạc, cấp
tá màu vàng và cấp tướng là màu vàng
có ngôi sao.

An ninh nhân dân

Trang phục của lực lượng An ninh nhân


dân được chia làm hai mẫu là xuân-hạ và
thu-đông. Trang phục xuân-hạ có áo sơ
mi màu cỏ úa tay ngắn, nẹp bong, có bật
vai đeo cấp hiệu. Quần âu màu rêu sẫm.
Mũ kepi màu rêu sẫm, lưỡi trai đen. Đối
với cấp tướng, lưỡi trai mũ kepi bọc dạ
đen, gắn hai cành tùng màu vàng. Giày da
cổ thấp, tất xanh mạ non. Mẫu trang phục
thu-động có quần, tất, giày, mũ như trang
phục xuân-hè, áo trong sơ mi trắng, cà
vạt màu rêu sẫm, áo vest ngoài màu rêu
sẫm 4 túi, cổ may kiểu veston.Thắt lưng
màu nâu đậm, mặt khóa thắt lưng màu
vàng. Sĩ quan cấp ta trở lên được trang bị
thêm áo gillet. Sĩ quan cấp đại tá trở lên
được trang bị thêm áo panto.

Lễ phục

Lễ phục ngành công an nhân dân được


sử dụng chung cho cả lực lượng cảnh sát
nhân dân và an ninh nhân dân. Áo vest tay
dài và quần tây dài màu be hồng, áo sơ
mi trắng, caravat đen, mũ kepi trắng, bao
tay trắng, giày da cổ thấp đen cùng với
tất xanh mạ non. Có hoặc không có đai
vắt chéo vũ trang.

Trang phục xuân hè Nghi lễ gồm quần áo


xuân hè, áo sơ mi và mũ đều có màu
trắng. Tuy có kiểu dáng tương đối giống
với mũ kêpi bình thường, nhưng mũ kêpi
trong trang phục Nghi lễ Công an nhân
dân vẫn có một số điểm khác biệt, đó là
mũ có cầu màu đỏ, lưỡi trai màu đen, có
lé màu đỏ xung quanh phông mũ.

Bên cạnh đó, mũ bảo hiểm trong trang


phục nghi lễ cũng tương đối giống với mũ
bảo hiểm của lực lượng Cảnh sát Cơ
động nhưng có màu trắng, gắn Công an
hiệu 36 mm màu vàng; dùng cho lực
lượng hộ tống danh dự Nhà nước khi đi
mô tô. Áo xuân hè Nghi lễ được may theo
kiểu veston, cổ bẻ hình chữ B, có lé màu
đỏ.
Thân trước áo được may 4 túi ốp ngoài,
ngực có một hàng cúc 4 chiếc, cúc trên
cùng tạo với 2 nắp túi ngực thành một
đường thẳng nằm ngang, may bật vai đeo
cấp hiệu, bên trong ngực bổ túi viền.

Thân sau áo may chắp sống lưng, có xẻ


sống, tay kiểu 2 mang, bác tay may lật ra
ngoài có 2 lé màu đỏ, mặt cúc áo màu
vàng, có hình ngôi sao 5 cánh nổi giữa hai
bông lúa, phía dưới giữa hai bông lúa có
chữ lồng “CA”.

Trên vai áo đeo cấp hiệu, đầu cổ áo gắn


cành tùng đơn màu vàng, ngực trái cài
huân chương, huy chương huy hiệu Công
an nhân dân, ngực phải đeo số hiệu. Ký
hiệu nghi lễ Công an nhân dân gắn trên
cánh tay trái, dây chiến thắng đeo bên
phải rẻ to đeo trên vai vòng qua gầm
nách, rẻ nhỏ gắn với rẻ to từ trên vai lượn
vòng trước ngực cài vào cúc áo thứ nhất
từ trên xuống.

Trong trang phục xuân hè Nghi lễ, quần


được may theo kiểu cạp rời có 2 túi sườn
chéo. Thân trước quần mỗi bên xếp 2 ly
lật về phía dọc quần, cửa quần may khoá
kéo bằng nhựa. Thân sau mỗi bên may 1
chiết, bên phải bổ một túi viền, đầu cạp
may quai nhê, xung quanh cạp may 6 đỉa,
gấu quần hớt lên về phía trước, dọc quần
có lé màu đỏ.

Ủng da màu đen được thiết kế và may


theo kiểu boot cao cổ, trơn, đế bằng cao
su đúc định hình; gót, diễu liền, màu đen,
bụng đế giày đúc nổi tên đơn vị sản xuất,
cỡ số, mặt đế có hoa văn chống trơn.

Dây chiến thắng màu vàng sẫm. Dây gồm


2 rẻ, rẻ to tết sam đôi đeo trên vai vòng
tròn qua gầm nách, rẻ nhỏ tết sam đơn
gắn với rẻ to từ trên vai lượn vòng trước
ngực cài vào cúc áo thứ nhất từ trên
xuống, phần dưới gắn vào cúc áo có 2
dây con tết cù và gắn quả chuỳ (không sử
dụng trong tang lễ).

Quả chuỳ được làm bằng hợp kim nhôm


mạ vàng, biểu tượng trên quả chuỳ thanh
kiếm lá chắn nổi, đặt trên 2 mặt đối diện
nhau qua tâm. Găng tay của lực lượng
tiêu binh được may bằng vải dệt kim màu
trắng và của lực lượng hộ tống danh dự
Nhà nước được may bằng da màu trắng.

Quần áo mưa có màu trắng trong suốt.


Áo mưa có kiểu măng tô, cổ bẻ, ngực có
hai hàng cúc bấm cùng màu áo. Thân
trước liền, thân sau cầu vai rời, lót cầu vai
bằng vải lưới để thoát khí, tay áo kiểu
một mang liền, cổ tay may chun, mũ rời
gắn với áo bằng cúc bấm.

Dọc theo nẹp giữa hai hàng cúc và chân


cầu vai gắn biển phản quang có hàng chữ
“CAND” màu đỏ trên nền màu vàng, các
đường may dán băng keo bên trong
chống thấm nước. Quần mưa may kiểu
bà ba, cạp chun có cúc bấm phía dưới
gấu.
Huy hiệu Công an nhân dân được làm liền
một khối, giữa huy hiệu là biểu tượng
thanh kiếm lá chắn trên nền màu đỏ đun,
hai bên có hình 5 bông lúa xếp cuống
chéo nhau và thắt nơ. Phía trên 5 bông
lúa có hình nổi chữ "V" tượng trưng chữ
Việt Nam.

Chữ “C.A.N.D.V.N” màu đỏ nổi trên nền


dải lụa và bánh xe lịch sử màu vàng. Phía
sau huy hiệu Công an nhân dân có kim
cài và đệm lót toàn bộ mặt sau huy hiệu 
bằng nhựa mỏng (Khi mặc trang phục
nghi lễ, ngực bên trái đeo huy hiệu Công
an nhân dân).

Trang phục thu đông nghi lễ cũng gần


giống với trang phục xuân hè nghi lễ và có
vài điểm khác biệt. Đó là, bên trong áo
ngoài có lót (không may gia vai), giữa lót
cạp của quần thu đông có may một dây
chống xô áo khi sơ vin, dây lưng nhỏ da
có khoá.

Cảnh sát nhân dân

Thông thường đa số các lực lượng cảnh


sát đều sử dụng loại trang phục này, cảnh
phục phổ thông được chia thành 2 mẫu là
trang phục xuân-hè và thu-đông. Cả hai
mẫu đều sử dụng quần âu màu mạ non,
giày thấp cổ da đen, tất màu mạ non, mũ
kepi mào mạ non có viền dạ đỏ ở vành
mũ, lưỡi trai màu nâu nhạt. Riêng mũ kepi
cấp tướng có lưỡi trai bọc dạ đen, có gắn
hai cành tùng. Áo sơ my xuân-hè cộc tay
màu mạ non, nẹp bong. Áo sơ mi thu-
đông dài tay mằu trắng. Áo vest thu-đông
4 túi, cổ áo kiểu vestong, caravat màu mạ
non. Thắt lưng màu nâu đậm, mặt khóa
thắt lưng màu vàng.

Cảnh sát cơ động

Trang phục của cảnh sát cơ động gồm


quần dài bỏ ống quần vào trong ống giày
bót cao, áo tay dài màu đen cổ bẻ, đối
với cảnh sát đặc nhiệm thì có hàng chữ
Police màu trắng trên nên đen dọc trước
ngực và ngang trên lưng áo. Còn đối với
cảnh sát cơ động bình thường thì có
dòng chữ CSCĐ màu đỏ nền vàng phản
quang dọc trước ngực và ngang trên lưng
áo. Mũ bảo vệ trùm kín đầu. Khi tác chiến
còn trang bị thêm áo chống đạn hoặc áo
vũ trang nhiều túi màu đen.

Cảnh sát giao thông

Trang phục như là cảnh phục phổ thông,


nhưng quần, áo và nón kepi màu vàng da,
mang găng tay màu trắng khi làm nhiệm
vụ điều khiển giao thông.

Trang phục khác

Ngoài các trang phục trên còn một số


trang phục khác tùy biến không theo quy
tắc tùy trường hợp tác chiến được sử
dụng trong ngành công an nhân dân.

Trang phục CAND từ ngày 6/6/2016


Trang phục mới của CANDVN từ ngày 6/6/2016.

Màu sắc trang phục về cơ bản giữ nguyên


song chất lượng vải tốt hơn, màu hơi đậm
hơn.

Kiểu dáng thống nhất với nam giới là áo


cổ đứng, sơ mi.
Trang phục mới của An ninh nhân dân Việt Nam.

Điểm mới trong trang phục nữ là màu sắc


của cầu vai, cổ bẻ cứng chữ "K" (tương tự
trang phục cũ). Trước đây cổ áo cả nữ và
nam có cành tùng nay thay bằng hình
công an hiệu.

Trên quân phục mới, bảng tên có hình chữ


nhật, nền màu xanh lam với chữ, số,
đường viền màu vàng. Trên bảng tên, nếu
là cán bộ giữ chức vụ có 3 dòng gồm: họ
tên, chức vụ, số hiệu. Cán bộ không giữ
chức vụ ghi họ tên, số hiệu. Với học viên,
số hiệu in trực tiếp vào ngực phải áo; chữ,
số, đường viền màu vàng sẫm.

Riêng lực lượng cảnh sát cơ động, phần


cầu vai có sự khác biệt ở màu sắc vạch.
Theo trung úy Đinh Hải Yến: "Vạch xanh
để phân biệt giữa đội làm chuyên môn về
kỹ thuật như hậu cần, tuyên truyền, kế
toán với các đội làm nghiệp vụ".

Theo kế hoạch, trang phục của cảnh sát


cơ động, cảnh sát cơ động đặc nhiệm
đang được cải tiến, ít nhất 3 tháng nữa
mới hoàn thiện và cấp phát.

Trang phục thu đông sẽ triển khai vào


ngày 1/11.
Phương tiện di chuyển
Đa số phương tiện di chuyển của lực
lượng công an nhân dân ở Việt Nam đều
là xe ô tô có màu trắng hoặc đen, sọc
xanh dương với các dòng chữ như "Cảnh
sát", "Cảnh sát giao thông", "Cảnh sát
113" được in lên chỗ dễ thấy. Do đặc tính
về cơ sở hạ tầng, đường sá và mật độ lưu
thông ở Việt Nam nên các phương tiện di
chuyển này thường là xe mô tô có đặc
điểm nhỏ gọn, tiện dụng, bền, hiệu quả
cao và chi phí bảo trì rẻ. Vì vậy ít thấy
những chiếc xe motor phân khối lớn cồng
kềnh hay những chiếc xe tải, xe đặc dụng
to lớn. Các phương tiện di chuyển này tất
cả đều phải gắn còi ưu tiên, loa phát tín
hiệu, đèn xoay khẩn cấp. Ngoài ra còn
một số xe đặc chủng dành cho các
nhiệm vụ đặc biệt khi cần thiết.

Thông thường, các loại xe hai bánh phân


khối lớn được sử dụng bởi cảnh sát giao
thông, cảnh sát phản ứng nhanh 113,
cảnh sát cơ động hoặc cảnh sát trật tự
cơ động.

Xe máy đặc chủng phân khối lớn

Các lực lượng CAND thường sử dụng các


phương tiện của thương hiệu Honda và
Yamaha như: Honda CB-250, Honda CBX-
250, Honda CB-300F, Honda CBX-750,
Yamaha FJR-1300P,...
Cảnh sát giao thông TPHCM dẫn đoàn trên đại lộ
Phạm Văn Đồng.

Cảnh sát giao thông tuần tra dẫn đoàn TPHCM


Tập tin:CSGT và CSCĐ.jpg
Cảnh sát tỉnh Điện Biên.

Xe hơi đặc chủng

Các lực lượng CAND thường sử dụng các


phương tiện của thương hiệu Toyota,
Ford, Mitsubishi, Lexus,...

Ford F550 Super Duty của lực lượng Cảnh sát cơ


động bảo vệ sự kiện APEC 2017 tại Đà Nẵng
động bảo vệ sự kiện APEC 2017 tại Đà Nẵng.

JINO JRC-9000E của lực lượng Cảnh sát cơ động


bảo vệ sự kiện APEC 2017 tại Đà Nẵng.

Vũ khí
Nước
đang
Tên Hình ảnh Thông tin
phát
triển
Súng
Sử dụng phổ
biến trong
Kháng chiến
chống Pháp
Smith & (1945-1954) và
Wesson  Hoa Kháng chiến
Model 10 Kỳ chống Mỹ
(1954-1975).
Sử dụng hạn
chế sau năm
1975
Colt Sử dụng phổ
Anaconda  Hoa biến trong
Kỳ Kháng chiến
chống Mỹ
(1954-1975).
Sử dụng hạn
chế sau năm
1975
Sử dụng phổ
biến trong
Kháng chiến
Beretta chống Mỹ
 Ý
92 (1954-1975).
Sử dụng hạn
chế sau năm
1975
Tokarev- Sử dụng phổ
Tula 33  Liên biến trong
(K54) Xô Kháng chiến
chống Pháp
(1945-1954),
Kháng chiến
chống Mỹ
(1954-1975) và
từ 1976 đến
2005. Sử dụng
hạn chế từ
2005
Sử dụng phổ
biến trong
Kháng chiến
Pistolet chống Mỹ
Makarova  Liên (1964-1975) và
(K59) Xô từ 1976 đến
2010. Sử dụng
hạn chế từ
2010
CZ-83  Séc Sử dụng phổ
biến từ 2008
đến nay
Sử dụng phổ
CZ 75 P-
 Séc biến từ 2012
07
đến nay
Sử dụng phổ
Glock  Áo biến từ 2010
đến nay
Heckler &
Koch
 Đức
MP5

Micro Uzi
 Israel

Sử dụng phổ
biến trong
Kháng chiến
AK-47  Liên
chống Mỹ

(1954-1975)
đến nay
AK-74 Sử dụng phổ
 Nga biến từ 1995
đến nay
Sử dụng phổ
biến trong
Kháng chiến
M16A4  Mỹ chống Mỹ
(1964-1975).
Sử dụng hạn
chế từ 1976

Sử dụng hạn
Galil ACE
 Israel chế từ 2010

Steyr
 Áo
AUG
SVD Sử dụng phổ
 Liên biến trong
Xô Kháng chiến
chống Mỹ
(1964-1975) và
từ 1976 đến
nay

AWM  Anh
Quốc
Sử dụng phổ
biến trong
Kháng chiến
RPK  Liên chống Mỹ
Xô (1964-1975) và
từ 1976 đến
nay
IMI
Negev  Israel
M60  Mỹ Sử dụng phổ
(súng biến trong
máy) Kháng chiến
chống Mỹ
(1964-1975) và
từ 1976 đến
1985. Sử dụng
hạn chế từ
1985
Xe bọc thép chở quân
Được trang bị
BTR-40  Liên từ 2005 đến
Xô nay
Được trang bị
BTR-
 Liên từ 2005 đến
60PB
Xô nay

Cấp bậc, Chức vụ, Quân hàm


Cấp bậc của cán bộ, chiến sĩ Công an
Việt Nam phân thành 5 cấp: cấp tướng (4
bậc); cấp tá (4 bậc); cấp úy (4 bậc); cấp
hạ sĩ quan (3 bậc); và cấp chiến sĩ (2
bậc); với danh xưng tương tự hệ thống
cấp bậc của quân đội. Ngoài ra còn được
phân loại thành Sĩ quan, hạ sĩ quan
nghiệp vụ và Sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên
môn kỹ thuật. Cấp bậc thấp nhất của Sĩ
quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật là
Hạ sĩ và cao nhất là Thượng tá.

Theo Luật Công an nhân dân (sửa đổi)


đã được Quốc hội khóa XIV kỳ họp thứ 6
thông qua ngày 20-11-2018.

Luật gồm 7 chương, 46 điều. Luật có hiệu


lực từ 1-7-2019. Các quy định về cấp bậc
hàm cao nhất là cấp tướng; phong, thăng,
giáng, tước cấp bậc hàm cấp tướng; bổ
nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, giáng
chức các chức vụ có cấp bậc hàm cao
nhất là cấp tướng có hiệu lực thi hành từ
ngày 11-1-2019.

a) Đại tướng: Bộ trưởng Bộ Công an

b) Thượng tướng: Thứ trưởng Bộ Công


an, Số lượng không quá 6.

c) Trung tướng: Số lượng không quá 35

Cục trưởng, Tư lệnh và tương đương


của các đơn vị trực thuộc Bộ Công an
có một trong các tiêu chí sau: Có chức
năng, nhiệm vụ tham mưu chiến lược,
đầu mối phối hợp với các bộ, ngành,
địa phương; có hệ lực lượng theo
ngành dọc, quy mô hoạt động toàn
quốc, trực tiếp chủ trì phối hợp hoặc
tham gia phối hợp thực hiện nhiệm vụ
bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật
tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng,
chống tội phạm; có chức năng nghiên
cứu, hướng dẫn, quản lý nghiệp vụ toàn
lực lượng; Phó Chủ nhiệm thường trực
Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy Công an
Trung ương; Giám đốc Học viện Chính
trị Công an nhân dân, Giám đốc Học
viện An ninh nhân dân, Giám đốc Học
viện Cảnh sát nhân dân; Giám đốc
Công an thành phố Hà Nội, Giám đốc
Công an thành phố Hồ Chí Minh; Sĩ
quan biệt phái được phê chuẩn chức vụ
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và
An ninh của Quốc hội hoặc được bổ
nhiệm chức vụ Thứ trưởng hoặc tương
đương.

d) Thiếu tướng: Số lượng không quá 157

Cục trưởng của các đơn vị trực thuộc


Bộ Công an và chức vụ, chức danh
tương đương, trừ quy định tại điểm c
khoản 1 Điều này; Giám đốc Công an
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ở
địa phương được phân loại đơn vị hành
chính cấp tỉnh loại I và là địa bàn trọng
điểm, phức tạp về an ninh, trật tự, diện
tích rộng, dân số đông. Số lượng không
quá 11; Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra
Đảng ủy Công an Trung ương. Số lượng
không quá 3; Phó Cục trưởng, Phó Tư
lệnh và tương đương của các đơn vị
trực thuộc Bộ Công an quy định tại
điểm c khoản 1 Điều này. Số lượng: 17
đơn vị mỗi đơn vị không quá 4, các đơn
vị còn lại mỗi đơn vị không quá 3; Phó
Giám đốc Công an thành phố Hà Nội,
Phó Giám đốc Công an thành phố Hồ
Chí Minh. Số lượng mỗi đơn vị không
quá 3;

đ) Đại tá:

Giám đốc Công an tỉnh, trừ quy định tại


điểm c và điểm d khoản này; Giám đốc
các bệnh viện trực thuộc Bộ; Hiệu
trưởng các trường trung cấp;

e) Thượng tá: Trưởng phòng và tương


đương; Trưởng Công an huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc
thành phố trực thuộc trung ương; Trung
đoàn trưởng;

g) Trung tá: Đội trưởng và tương đương;


Trưởng Công an xã, phường, thị trấn; Tiểu
đoàn trưởng;

h) Thiếu tá: Đại đội trưởng; Trưởng trạm


Công an;

i) Đại úy: Trung đội trưởng;

k) Thượng úy: Tiểu đội trưởng.[2]

Bộ trưởng Bộ Công an đương nhiệm là


Đại tướng An ninh nhân dân Tô Lâm.
Ở những đơn vị được giao nhiệm vụ quan
trọng, đặc biệt hoặc địa bàn có vị trí
trọng yếu về an ninh, trật tự thì cấp bậc
hàm cao nhất có thể cao hơn một bậc so
với cấp bậc hàm cao nhất của chức vụ
tương ứng.

Hạn tuổi phục vụ cao nhất của sĩ quan


Công an nhân dân ở cấp úy là 50 đối với
cả nam và nữ; Thiếu tá, Trung tá là 55 đối
với nam, 53 đối với nữ; Thượng tá nam
58, nữ 55; Đại tá, cấp Tướng nam 60, nữ
55.

Sĩ quan Công an nhân dân được kéo dài


tuổi phục vụ phải đủ các điều kiện như
đơn vị trực tiếp sử dụng sĩ quan hoặc đơn
vị khác trong Công an nhân dân thực sự
có nhu cầu; sĩ quan Công an nhân dân có
phẩm chất tốt, sức khoẻ tốt, tự nguyện và
có một trong hai điều kiện: cán bộ nghiên
cứu khoa học trong Công an nhân dân có
học hàm, học vị Giáo sư, Phó giáo sư,
Tiến sĩ; danh hiệu Nhà giáo nhân dân,
Nhà giáo ưu tú, Thầy thuốc nhân dân,
Thầy thuốc ưu tú, Nghệ sĩ nhân dân, Nghệ
sĩ ưu tú.

Cán bộ trong Công an nhân dân đang


tham gia vào chương trình, đề tài khoa
học cấp Nhà nước; chuyên gia giỏi trong
các lĩnh vực công tác của Công an nhân
dân cũng có thể được kéo dài tuổi phục
vụ. Trường hợp đặc biệt do Thủ tướng
Chính phủ quyết định.[1]
Các Bộ trưởng
Trần Quốc Hoàn (1954 - 1981)
Phạm Hùng (1981 - 1987)
Mai Chí Thọ (1987 - 1991)
Bùi Thiện Ngộ (1991 - 1996)
Lê Minh Hương (1996 - 2002)
Lê Hồng Anh (2002 - 2011)
Trần Đại Quang (2011 - 2016)
Tô Lâm (2016 - nay)

Phong tặng
Công an nhân dân Việt Nam đã vinh dự
được Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà
nước Việt Nam tặng thưởng ba Huân
chương Sao Vàng (1980, 1985, 2000)
và nhiều phần thưởng cao quý khác;
571 lượt đơn vị và 291 cá nhân được
phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực
lượng vũ trang nhân dân.

Chú thích
1. ^ a ă â b Quốc hội khóa X, kì họp thứ
10; Số: 54/2005/QH11, Hà Nội, Ngày
29 tháng 11 năm 2005. “Luật Công
an Nhân dân” . Cổng Thông tin điện
tử Chính phủ. Bản gốc lưu trữ 30
tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 10
tháng 5 năm 2010. “Nguồn: Quốc hội
nước CHXHCNVN”
2. ^ “Luật Công an Nhân Dân 2014 quy
định Cấp bậc hàm đối với chức vụ
của sĩ quan” .

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?
title=Công_an_nhân_dân_Việt_Nam&oldid=5595
6999”

Sửa đổi lần cuối cùng cách đây 2 ngày bởi TuanminhBot

Nội dung được phát hành theo CC BY-SA 3.0 ,


ngoại trừ khi có ghi chú khác.

You might also like