Professional Documents
Culture Documents
Hiểu mình biết người ebook PDF
Hiểu mình biết người ebook PDF
PLEASE UNDERSTAND ME
Bản dịch
Hà Hoàng Tâm
Cao học Hướng dẫn tâm lý
Nguồ n: http://ghhv.quetroi.net/VUHUNGTON
Chuyể n thể ebook: tyjingyo – Thanh Le 20/08/2016
Biên tập lại: Tulipviet 02/9/2016
Mục lục
Hippocrates phân chia tính tình thành 4 loại: đa huyết, đa nộ, lãnh đạm và đa sầu. Để hiểu được
cách chia loại đó, ta có thể chắp nối các quan niệm hữu ích trong các thuyết của Jung, Kretschmer,
Freud, Adler, Sullivan và Maslow: nhìn nhận sáng kiến của mỗi trường phái và tránh những ý kiến
xung khắc.
Muốn theo thuyết của Kretschmer về tính tình, chúng ta phải gạt bỏ quan niệm của Jung về nhiệm
vụ hành sử, nhưng đừng bỏ cách Jung mô tả các hành động, vì lối mô tả của Jung giúp ích rất nhiều
để đoán trước một hành động. Khi biết một người thuộc mẫu tính tình nào, ta có thể phỏng đoán
khác chính xác hành động của họ. Ta không nên bỏ qua điều khám phá quý giá đó. Thực ra, không
phải chúng ta bỏ đi quan niệm về loại hành tác, nhưng là đặt quan niệm đó vào quan niệm về tình
tình, vì quan niệm tính tình có lãnh vực rộng lớn hơn và giúp giải thích các hành vi của con người.
Trước hết tính tình là gì? Câu hỏi này không dễ như ta tưởng, vì ngành tâm lý học ít nghiên cứu
về vấn đề này, và các nhà tâm lý chưa hoàn toàn đồng ý với nhau về định nghiã cũng như về công
dụng của tính tình. Tính tình cho thấy một cố gắng dung hoà các nghị lực đây đó của con người,
kết nạp và hoà đồng các ảnh hưởng đối nghịch nhau, tạo nên một màu sắc và âm điệu duy nhất, y
như thể cấu kết thành một chủ đề, gầy dựng sự thuần nhất trong hành động. Tính tình cũng giống
như chữ ký trên một văn kiện, minh chứng rằng đây là hành động của người này chứ không phải
của người kia.
Ta có thể quan sát tính cách thuần nhất trong hành động của một người từ thuở nhỏ: có những yếu
tố xảy đến sớm hơn có những yếu tố chậm hơn, đôi khi còn trước cả khi gây nên ảnh hưởng nơi
con người. Như thế có nghĩa là đây là những yếu tố bẩm sinh, chứ không phải những hình thức
thu lượm được. Maslow, 1954, nói rằng động lực này thay thế động lực kia tùy theo tuổi lớn lên
của con người. Ông nói: chúng ta bắt đầu với nhu cầu thể xác. Chúng ta coi đó là nhu cầu tự nhiên
và khi thoả mãn được những nhu cầu tự nhiên này, chúng ta không còn cảm thấy động lực nào thôi
thúc nữa. Sau đó chúng ta tiến đến nhu cầu an toàn, rồi chúng ta lại thoả mãn được những nhu cầu
an toàn này, và coi là phần tự nhiên không còn thấy động lực thôi thúc nữa. Rồi chúng ta tiến thêm
đến nhu cầu xã hội: yêu thương, chăm sóc. Đa số có thể sắp xếp cuộc sống để thoả mãn những nhu
cầu yêu thương và chăm sóc để đi tới nhu cầu tự trọng: tôn trọng chính mình và được người khác
tôn trọng. Maslow cho biết rằng chỉ một số ít người có đủ tư cách để biết tự trọng và coi đây là
thoả mãn nhu cầu tự nhiên để tiến tới nhu cầu cuối cùng là thành nhân. Một người tới giai đoạn
thành nhân, không còn bị thôi thúc bởi những nhu cầu hạ đẳng như thể xác, an toàn, hoặc nhu cầu
xã hội như yêu thương, chăm sóc, tự trọng nữa. Maslow muốn hiểu rằng những người chưa đạt
được giai đoạn thành nhân, cũng có nhu cầu để thành nhân, và vẫn có khả năng để tiến tới, một
khi họ vượt qua những nhu cầu hạ đẳng.
Hệ thống nhu cầu của Maslow làm ta nhớ tới những giai đoạn phát triển tâm lý của Freud, cho dù
không có màu sắc phái tính chút nào. Trước Maslow 14 năm, William Sheldon cũng đã đề nghị
một thuyết về động lực gần giống như vậy. Theo ánh sáng của việc Harlow thí nghiệm với loài
khỉ, có lẽ nên sắp xếp thứ tự các nhu cầu lại một chút: 1. nhu cầu xã hội, 2. nhu cầu an toàn, 3. nhu
cầu thể xác. Dù sao cũng phải công nhận rằng người ta không hẳn vẫn tiếp tục đòi hỏi nhu cầu xã
hội, an toàn, thể xác, vì phần lớn người ta đã có những nhu cầu đó. Maslow đáp lại rằng đó là vì
người ta đi tìm thoả mãn nhu cầu tự trọng. Có lẽ chúng ta không nên theo Maslow về quan niệm
này, bởi lẽ không phải ai cũng ý thức và ước muốn được nhu cầu thành nhân, sau khi đã thoả mãn
nhu cầu tự trọng. Đa số chúng ta muốn những điều gì khác nữa. Chỉ có mẫu người đa nộ mới để ý
tới con người thực của mình.
Nói như thế không có nghĩa là thành nhân vượt quá tự trọng, đúng ra thành nhân là phương thế để
tỏ ra tinh thần tự trọng. Loại người đa nộ chỉ muốn thành nhân, yêu thích con người của họ hơn
nữa khi họ thấy họ đạt được mục đích. Dĩ nhiên ai cũng phải biết tự trọng như Maslow nói thật
đúng, nhưng thay vì vượt quá giai đoạn tự trọng, thực ra thành nhân chỉ là một trong nhiều đường
lối đưa tới tự trọng.
Tất nhiên có những đường lối khác nhau nữa. Ví dụ Freud, 1920, nói thật đúng khi ông quả quyết
thú vui là một đường lối, nhưng không phải là đường lối cho hết mọi người như ông chủ trương,
và thú vui càng không phải là cứu cánh, mà chỉ là một phương tiện, một đường lối đưa tới tự trọng.
Chỉ có người đa huyết mới yêu thích họ nhiều hơn khi họ sống tự do không bị ràng buộc. Sullivan
nói đúng: đối với một số người thì địa vị xã hội là quan trọng để có tinh thần tự trọng. Người đa
sầu đa cảm thấy đời họ lên hương khi họ thực hiện được giấc mơ ăn trên ngồi trốc, khi họ có điạ
vị cao. Cũng thế Adler có lý khi nói rằng một số người lại đi tìm uy quyền. Người lãnh đạm coi
họ là quan trọng khi thấy có thêm quyền hành này nọ.
Từ ngữ Hippocrates dùng để chỉ 4 mẫu tính tình dễ gây hiểu lầm. Ông dùng 4 chất lỏng trong thể
xác con người là máu, nước đạm, mật vàng và mật đen để chỉ người đa huyết, lãnh đạm, đa nộ và
đa sầu. Theo thần thoại Hy lạp, có 4 vị thần được thần chúa Zeus (Trời) sai đi với sứ mệnh làm
cho loài người trở nên giống thần minh hơn: tên 4 vị thần này nói lên khá đúng 4 mẫu tính tình.
Đó là Apollo, Dionysius, Promotheus, và Epimetheus. Thần thoại Hy lạp cho biết: Apollo có sứ
mệnh làm cho con người có tinh thần, Dionysius có sứ mệnh dạy cho con người biết vui chơi,
Promotheus có sứ mệnh trau dồi kiến thức con người, Epimetheus có sứ mệnh dạy con người có
tinh thần trách nhiệm. Đặt tên cho 4 loại tính tình theo 4 vị thần có cái hay là mỗi vị thần cũng như
mỗi tính tình đều có người theo. Người tôn thờ Apollo (tinh thần) thì không thờ Promotheus (khoa
học), và người ước muốn Dionysius (thú vui) sẽ không hài lòng với Epimetheus (trách nhiệm).
Như vậy ta thấy 4 mẫu tính tình có nền tảng căn bản rất khác nhau.
Có một điểm nữa trong thuyết của Jung về phân loại tính tình cần được điểu chỉnh lại. Các mẫu
tính tình của Jung phát xuất do sự khác biệt chứ không phải do tổng hợp của các hành động. Theo
Jung, tính tình phát triển là do sự phân hoá, tách biệt, cá nhân hoá hơn là tổng hợp, liên kết, thu
góp. Như vậy một người trở nên ENFJ hoặc INFP hoặc mẫu tính tình gì chăng nữa là vì tính tình
của họ sẵn có như vậy hơn là một yếu tố nào đó ví dụ hướng ngoại liên kết với trực giác. Như thế,
thuyết về tính tình thay thế các nguyên tắc về tổng hợp bằng nguyên lý phân hoá.
Ngoài ra, các phân loại của Jung cần phải được sắp xếp lại để thích hợp với các mẫu tính tình này.
Hình như mẫu trực giác (N = iNtuition) của Jung thì tương đương với loại khuynh hướng bộc trực
(schixothyme) của Kretschmer. Trực giác hoặc bộc trực thích hợp với nếp sống tinh thần của
Apollo (thành nhân) hoặc cuộc đời khoa học Promotheus. Mẫu cảm giác (S = sensation) của Jung
tương đương với khuynh hướng mẫn cảm (cyclothyme) của Kretschmer. Mẫu cảm giác hoặc mẫn
cảm sẽ lưạ chọn niềm vui Dionysius (tự do hành động) hoặc trách nhiệm Epimetheus (địa vị xã
hội). Nên nhớ rằng theo Jung, mẫu tâm tình (F = feeling) cho thấy sự khác biệt giữa động lực thành
nhân Apollo và mẫu suy tư (T = thinking) với động lực uy quyền; và mẫu phán đoán (J = judgment)
với động lực trách nhiệm Epimetheus cũng khác mẫu tri thức (P = perceiving) với động lực tự do
Dionysius.
Spranger sống đồng thời với Jung nên quan điểm của ông về nhân cách tính tình rất hữu ích. Ôâng
nói về giá trị hơn là về nhiệm vụ. Trong cuốn ‘Types of men’ (1928, các mẫu người), ông đặt tên
4 giá trị để đánh giá các mẫu người khác nhau: thẩm mỹ, kinh tế, thuyết lý, và sùng đạo. Còn 2 giá
trị nữa mà ông gọi là xã giao và chính trị, thì có liên hệ tới tất cả, nên không thể dùng mà đánh giá
các mẫu tính tình khác nhau được. Đọc kỹ tác phẩm trên, ta có thể thấy cách đánh giá trên cũng
tương đương với các phân loại của Jung:
NF quý trọng tôn giáo (luân lý), NT quý trọng lý thuyết (khoa học), SP quý trọng thẩm mỹ (nghệ
thuật), và SJ quý trọng kinh tế (thương mại).
Đầu thế kỷ này ở Âu châu, không có lý thuyết nào chắc chắn về nhân cách và tính tình: nhiều nhà
nghiên cứu đã tạo được ảnh huưởng trên thuyết của Jung, Kretschmer và Spranger. Có nhiều quan
niệm giống nhau như Adickes (1907), Apfelbach (1924), Levy (1896), Stenberg (1907). 8 mẫu
tính tình của Bulliot (1901) rất giống cách phân loại của Jung. Nói một cách thật đơn giản, tính
tình ấn định hành động, bởi vì hành động chỉ là một dụng cụ để đạt được những gì ta cần có, để
thoả mãn nhu cầu ta mong muốn. Y như thể khi mỗi người được sinh ra dưới quyền một vị thần,
và vị thần này để mặc cho ta phải đói luôn, nên phải ăn mỗi ngày mới sống nổi. Cũng giống như
thần Zeus phạt Sisiphus bắt phải lăn tảng đá đi dưới chân núi lên đỉnh núi, nhưng cứ mỗi lúc chàng
nghỉ ngơi để lấy sức thì tảng đá lại rơi xuống chân núi. Có lẽ chúng ta cũng chỉ giống như Sisiphus,
Dã Tràng xe cát biển đông,
Nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì.
Hôm nay ta thoả mãn nhu cầu đói khát uy quyền, địa vị, tự do, ý nghĩa, hoặc bất cứ nhu cầu nào
mà tính tình ta đòi hỏi, để rồi lại thấy ngày mai ta lại phải bắt đầu làm lại từ số không. Thành quả
của ngày hôm qua chẳng có ích gì cả.
Lãnh tụ chỉ có thể lãnh đạo bao lâu còn có người dưới quyền, có người tin theo. Nếu ta muốn người
tùy thuộc làm một việc gì mà người ta không chịu làm, như vậy trên thực tế ta không còn lãnh đạo
được người ta nữa. Cũng thế, nếu ta muốn nhiệm vụ của ta là thực hiện được một việc gì qua một
ai đó, nhưng rồi không biết người ta làm sao mà không đạt được việc, ta cũng mất đi tài lãnh đạo.
Bây giờ chúng ta hiểu rằng chỉ có hai cách để lãnh đạo: hoặc ta muốn có một hành động nào đó,
hoặc ta muốn có một thành quả nào đó. Tài lãnh đạo của ta tùy thuộc mức độ ta đạt được điều
chúng ta muốn.
Kẻ bề dưới là người tùy thuộc vào điều mà lãnh tụ muốn để được vừa lòng. Dù thuộc mẫu tính
tình nào chăng nữa, chúng ta cũng là những con người sống trong xã hội, do đó chúng ta muốn
làm vừa lòng người, nhất là vừa lòng người lãnh tụ, hoặc đôi khi làm bực lòng người. Thật khó
mà ở trung lập trong vấn đề này. Làm việc gì hầu như chúng ta cũng làm vì kẻ bề trên. Chúng ta
chiến thắng vì người khuyến khích nâng đỡ, như ông bà ‘bầu’. Ngay cả người tỏ ra tự lập nhất đi
chăng nữa, cũng làm việc theo ý người chủ, và nếu người chủ quên hai chữ ‘cám ơn’ thì thật là
thiếu tế nhị và khôn ngoan.
Phải chăng tiền lương và niềm vui làm việc đàng hoàng chưa đủ cho người làm việc sao? Thưa:
hình như chưa đủ. Như thế không có nghĩa là tiền lương và niềm vui tự tin không quan trọng lắm
đâu, dĩ nhiên là quan trọng rồi, nhưng như thế vẫn chưa đủ. Tất cả chúng ta ai cũng muốn được lời
khen tặng cảm ơn, và lời nói đó phải phát xuất từ người chủ. Chẳng những chúng ta muốn được
cảm ơn khen tặng, mà còn muốn lời cảm ơn đó phải tương xứng với công việc chúng ta đã thực
hiện.
Xin hãy thử quan sát một người có óc sáng tạo. Họ làm công tác của họ. Nếu người chủ không biết
tinh ý nhận xét để ý đến họ, họ sẽ đi kiếm một người nào đó biết để ý đến họ, cho dù người đó chỉ
là một người trùm chăn trong tổ chức của họ. Người đó tỏ ra có những khích lệ an ủi vỗ về cần
thiết, đúng như quan niệm của họ về thành công. Thế là họ được thỏa mãn thoải mái. Họ trở lại
làm việc với đầy đủ nghị lực bồi dưỡng.
Xin hãy thử quan sát một người làm việc thành công mà chủ quên không biết khen tặng, đồng thời
họ cũng không có ai để ý đến riêng tư. Chẳng bao lâu họ sẽ bỏ công việc đó để đi tìm một nơi nào
cần và quý họ. Lãnh đạo là làm sao cho có người làm công việc mình muốn làm hoặc cần làm, và
thành công luôn tạo nên lòng thèm khát được người chủ khen tặng quý mến, nên chi nhiệm vụ
quan trọng đầu tiên của người chủ là phải biết khen tặng quý mến. Những nhiệm vụ khác của người
lãnh đạo chỉ là tùy thuộc vào nhiệm vụ quan trọng tiên quyết này. Người lãnh đạo phải học biết để
nhìn nhận các việc làm thành quả của người bề dưới, và biết cảm ơn thực sự những người đã làm
được việc.
Hãy thử tưởng tượng mà xem! Phải cảm ơn người bề dưới vì họ đã làm việc mà nhiệm vụ của họ
đòi hỏi sao? Nhưng chính đó mới là then chốt của vấn đề. Người lãnh đạo phải biết đem ra thực
hành áp dụng điều căn bản đó. Nếu không, nhóm của mình sẽ bị thua thiệt tan rã, và ban giám đốc
phải đi tìm người lãnh đạo mới Trong trường hợp người lãnh đạo phải ngậm đắng nuốt cay để thực
hành như trên, cũng còn có một vấn đề nữa đó là mỗi người một khác. Món ăn vừa miệng người
này có thể không vừa miệng người kia, và trong lãnh vực khen tặng biết ơn cũng vậy. Nếu vô ý
cảm ơn một người về một công việc mà họ coi như không phải là thành công, có thể họ sẽ hiểu
lầm coi đó như xỉ vả họ không bằng. Chính đây là vấn đề: tâm tính của người lãnh đạo có thể giúp
cho họ ý thức được những công việc thành công mà họ quý mến, trong khi lại quên không để ý
đến các thành công mà các mẫu tính tình khác dễ nhận ra. Chính vì thế, cho dù người lãnh đạo biết
rằng nhiệm vụ chính yếu của lãnh đạo là khen tặng biết ơn, có khi họ cũng theo tính tình của mình
mà khen tặng biết ơn không đúng việc, không đúng lúc, như cảm ơn những việc mà người khác
chẳng coi là quan trọng chút nào cả.
Chính vì thế, nếu người lãnh đạo nhìn nhận rằng nhiệm vụ chính yếu là phải biết khen tặng cảm
ơn, trước hết phải học biết tính tình của mình và của người khác. Bây giờ chúng ta thử tìm hiểu
xem mỗi mẫu tính tình thích những lời khen tặng cảm ơn như thế nào.
Sau đây là chân dung toàn bộ của mỗi mẫu tính tình.