You are on page 1of 7

ĐỨC PHẬT DƯỢC SƯ CHỮA LÀNH TÂM BỆNH VÀ THÂN BỆNH CHO

MỌI CHÚNG SANH

Đức Dược Sư Lưu Ly không chỉ nổi tiếng với khả năng chữa bệnh, Ngài còn được
biết đến với khả năng tiêu trừ những nghiệp xấu trong quá khứ, để giúp đỡ chúng
ta hoàn thiện trên con đường dẫn đến sự giác ngộ, ngay cả lời nguyện của Ngài để
giải phóng những chúng sanh đang đau khổ, trầm luân.

1. Nguồn Gốc Đức Phật Dược Sư

Phật Thích Ca Mâu Ni đã ban những giáo lý về Phật Dược Sư vào thời điểm hoàn
hảo và tại địa điểm hoàn hảo - Vaishala [Tỳ Xá Ly], Ấn Độ. Khi Ngài thiền định
về sự chữa lành, Ngài phóng hào quang về phương Đông, và những luồng ánh sáng
quay trở về Ngài từ cõi Tịnh Độ Phương Đông. Tất thảy đại chúng lúc ấy bắt đầu
thấy tám vị Phật Dược Sư trên bầu trời. Lúc này, Đức Thích Ca giới thiệu giáo lý,
thứ được gìn giữ như là Kinh Dược Sư. Giáo lý này rất phổ biến ở Ấn Độ và đến
Tây Tạng vào thế kỷ tám. Đại Sư Shantarakshita, vị nổi tiếng về những lời tán thán
và nghi quỹmà Ngài soạn cho tất thảy những vị Phật Dược Sư, đầu tiên giới thiệu
giáo lý Phật Dược Sư ở Tây Tạng. Các giáo lý của Ngài được trao truyền trong một
dòng truyền thừa không gián đoạn. Thực hành Phật Dược Sư chiếm vị trí quan
trọng trong mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng.

Theo những giáo lý của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trong Kinh Dược Sư, Phật
Dược Sư là vị Phật đại diện cho năng lực chữa lành của chư Phật. Ngài sở hữu sức
mạnh làm xoa dịu mọi che chướng về thân, tâm và cảm xúc. Trong cõi Tịnh Độ
của Ngài ở phía Đông của vũ trụ này, được biết đến là “Hài Lòng Qua Sự Thấy”
hay “Dễ Nhìn” Phật Dược Sư liên tục chuyển Pháp luân, chữa lành cho chúng sinh
trong mọi vũ trụ và ban Giáo Pháp về mọi cấp độ, đặc biệt là Đại thừa. Toàn bộ cõi
Tịnh Độ của Ngài là một kho thuốc, thứ chữa trị mọi bệnh tật bằng cách cân bằng
các yếu tố (đất, gió, lửa, nước và hư không).

Đức Phật Dược Sư thường được kết hợp với đá Lapis. Lapis là một hòn đá màu
xanh dương đậm, bên trong có các đốm vàng pyrite, tạo ra ấn tượng về một bầu
trời đầy sao trong đêm tối. Nó được khai thác chủ yếu ở Afghanistan, và ở Đông Á
cổ đại, là một loại đá quý hiếm và có giá trị cao. Trong suốt thời kỳ cổ đại, đá
Lapis được cho là có sức mạnh thần bí. Ở Đông Á, người ta cũng cho rằng nó có
khả năng chữa bệnh, đặc biệt là giảm viêm nhiễm hoặc tổn thương nội tạng. Trong
Phật giáo Kim Cương Thừa, màu xanh thẳm của Lapis được cho là có hiệu quả
thanh lọc tâm trí đối với những người mang theo nó. Trong các biểu tượng Phật
giáo, màu xanh của Lapis luôn được kết hợp với hình ảnh Đức Phật Dược Sư. Đôi
khi toàn thân của Ngài là Lapis, hoặc có thể là màu vàng nhưng bao quanh bởi màu
xanh của Lapis.

2. Báo Thân Đức Phật Dược Sư

Đức Phật Dược Sư là Tôn chủ của thế giới Tịnh Độ Lưu Ly ở phương Đông. Ngài
có một mặt, hai tay, thân màu sắc xanh lưu ly. Đức Dược Sư Phật an toạ trong tư
thế Kim Cương, trên bảo toà nguyệt luân, hoa sen, Ngài có 32 tướng tốt và tám
mưới vẻ đẹp. Ngài khoác trên mình ba tấm y giải thoát. Tay phải trong thế Thí
nguyện ấn trì giữ thảo dược, tay trái để ngửa trì giữ bình bát chứa đựng thần dược
đem diệu cam lồ diệt trừ vô lượng tật khổ cho hết thảy chúng sinh, thành tựu viên
mãn mọi tâm nguyện của chúng sinh. Bên trái Ngài là Đức Nhật Quang Bồ Tát,
bên phải là Đức Nguyệt Quang Bồ Tát. Đức Phật Dược Sư phát mười hai đại
nguyện cứu độ các tật khổ của hết thảy chúng sinh. Thực tướng của các bệnh khổ
này là do căn bản vô minh, Ngài cứu giúp chúng sinh thoát khỏi luân hồi sinh tử
cho nên tôn xưng Ngài là Đại Dược Vương Phật hay Vương Thiện Đạo.

3. Mười Hai Lời Thề Nguyện Của Phật Dược Sư

Trong quá trình trở thành một vị Phật, Bồ Tát sẽ định nghĩa những cách thức mà
nhờ đó Ngài sẽ làm lợi lạc cho hữu tình chúng sinh trực tiếp và hiệu quả nhất. Các
đại nguyện rõ ràng này khởi lên từ bồ đề tâm. Như thế, những kiểu Tịnh Độ khác
nhau xuất hiện cho các chúng sinh khác nhau, phù hợp với nhu cầu của họ. Như
một phương tiện thiện xảo đến từ bồ đề tâm, các chúng sinh cao cấp và chư Bồ Tát
có thể tái sinh trong một vũ trụnơi cung cấp các kiểu lợi lạc nhất định. Khi còn là
một Bồ Tát, Phật Dược Sư đã tuyên bố mười hai đại nguyện – thứ nêu rõ các cách
thức mà Ngài làm lợi lạc chúng sinh.

1. Trong cõi Tịnh Độ của tôi, nguyện mọi chúng sinh hiển bày 32 tướng tốt và 80
vẻ đẹp của một vị Phật. Nếu điều này không xảy ra, nguyện tôi không thành Phật.
2. Nguyện mọi hữu tình chúng sinh sinh trong cõi Tịnh Độ của tôi chiếu tỏa hào
quang sáng ngời – thứ ánh sáng xua tan mọi tăm tối. Nếu điều này không xảy ra,
nguyện tôi không thành Phật.

3. Bất kỳ ai sinh ra trong cõi Tịnh Độ đó, nguyện họ tận hưởng sự trù phú về vật
chất và thoát khỏi mọi bận tâm thế tục. Nếu điều này không xảy ra, nguyện tôi
không thành Phật.

4. Nguyện chúng sinh trong cõi Tịnh Độ đó sở hữu một tầm nhìn ổn định về tri
kiến thanh tịnh. Nếu điều này không xảy ra, nguyện tôi không thành Phật.

5. Nguyện chúng sinh sinh ra trong cõi Tịnh Độ của tôi chú tâm tới sự thanh
tịnhcủa hành động. Nguyện kết quả của ác nghiệp bởi những hành động trongquá
khứ có thể được trì hoãn tới thời điểm có lợi nhất cho sự phát triển tâm linh. Nếu
điều này không xảy ra, nguyện tôi không thành Phật.

6. Nguyện cầu họ tăng trưởng sức khỏe về thân và tâm. Nguyện họ thoát khỏimọi
bất tiện hay rối loạn, thứ ngăn cản sự phát triển tâm linh. Nếu điều này không xảy
ra, nguyện tôi không thành Phật.

7. Nguyện cầu Hồng danh của tôi trở thành Mật chú chữa lành mọi bệnh tật khổ
đau. Nguyện cầu âm thanh Hồng danh và hình ảnh Hóa thân của tôi trở
thànhphương thuốc xoa dịu mọi đớn đau. Nguyện cầu âm thanh Hồng danh của tôi
và sự quán tưởng hình tướng của tôi chữa trị mọi rối loạn và bệnh tật về thân. Nếu
điều này không xảy ra, nguyện tôi không thành Phật.

8. Nguyện cầu những người nữ nào muốn trở thành nam đều được toại nguyện.
Nguyện cầu sự lựa chọn đó trực tiếp dẫn tới giác ngộ. Nếu điều này không xảy ra,
nguyện tôi không thành Phật.

9. Nguyện cầu những kẻ mang tà kiến hay niềm tin sai lầm về Giáo Pháp lập
tứcphát triển tri kiến đúng đắn khi họ nghe thấy danh hiệu của tôi. Kết quả là,
nguyện cầu họ nỗ lực tiến hành các hoạt động Bồ Tát. Nếu điều này không xảy ra,
nguyện tôi không thành Phật.

10. Nguyện cầu những ai sống trong sợ hãi và dễ dàng bị điều khiển, cảm thấy bịđe
dọa bởi sự giam hãm và trừng phạt, bỏ lại đằng sau nỗi sợ về tai họa. Nếu điều này
không xảy ra, nguyện tôi không thành Phật.

11. Nguyện cầu những kẻ mà sinh kế phụ thuộc vào việc bắt giữ và giết hại chúng
sinh khác đều được đáp ứng mọi nhu cầu vật chất khi họ nghe thấy danh hiệucủa
tôi. Nguyện cầu sự tự do của họ sẽ dẫn đến việc nhận ra bản tính Bồ Tátbên trong.
Nếu điều này không xảy ra, nguyện tôi không thành Phật.

12. Khi nghe thấy Hồng danh của tôi, nguyện cầu những ai đang chịu đau khổ vì
bất cứ kiểu đói, khát hay lạnh, đều được cung cấp mọi thứ cần thiết. Nguyện cầu
thức ăn, đồ uống và quần áo giải phóng họ khỏi những bận tâm thế tục để họ có thể
bắt đầu làm lợi lạc tha nhân. Nếu điều này không xảy ra, nguyện tôi không thành
Phật.

Sau khi Đức Phật Dược Sư vĩ đại phát những đại nguyện này, Ngài giữ gìn hứa
nguyện trong tất thảy các đời làm Bồ Tát. Khi chúng ta thực hành Phật Dược Sư,
chúng ta cần ghi nhớ những hứa nguyện này và khao khát làm giống như vậy, vì
mọi chúng sinh. Nếu chúng ta làm vậy với lòng từ, bi và bồ đề tâm, điều này sẽ
đem lại lợi lạc cho chính chúng ta cũng như mọi chúng sinh khác.

4. Các Danh Hiệu Phật Dược Sư

Theo giáo lý của Đức Phật Thích Ca, có bảy hóa thân khác của Phật Dược Sư, mỗi
vị với màu sắc và cõi Tịnh Độ riêng. Sangye Menla, Phật Dược Sư mà chúng ta
thảo luận ở đây có màu xanh dương và an trụ ở “Hài Lòng Qua Sự Thấy”. Những
vị Phật Dược Sưnày có nhiều màu sắc khác nhau, chẳng hạn vàng, hồng, đỏ và
xanh dương. Chư vị ngự tại những cõi Tịnh Độ như Quang Thắng, Diệu Bảo, và
Vô Ưu. Vị Phật Dược Sư thứ tám, màu vàng và cõi Tịnh Độ của Ngài, “Bất Khả
Phân” là thế giới này.

Bảy vị Phật Dược Sư có thể giúp chúng ta làm dịu những trở ngại cho việc đạt
được hạnh phúc tạm thời, và cả hạnh phúc tối thượng của sự giác ngộ trọn vẹn.

Bảy chư Phật Dược Sư không chỉ có sức mạnh trong việc chữa bệnh, mà còn trong
sự tịnh hóa, cho cả người sống và người chết. Việc thực hành Dược Sư có thể tịnh
hóa ngay cả những người đã chết và giải thoát họ khỏi khổ đau. Nó cũng mạnh mẽ
trong việc mang lại thành công, cả tạm thời và viên mãn.

 Bhaisajyaguru: Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai


 Abhiyaraja: Pháp Hải Thắng Huệ Du Hý Thần Thông Như Lai
 Dharmakirtisagara: Pháp Hải Lôi Âm Như Lai
 Asokottamasriraja: Vô Ưu Tối Thắng Cát Tường Vương Như Lai
 Suvarnabhadradravimala: Kim Sắc Bảo Quang Diệu Hạnh Thành Tựu Như
Lai
 Svaragosaraja: Bảo Nguyệt Trí Nghiêm Quang Âm Tự Tại Vương Như Lai
 Suparikirti-tanamasriraja: Thiện Danh Xưng Cát Tường Vương Như Lai

5. Thần Chú Nhiệm Màu

Thần chú Phật Dược Sư theo ngôn ngữ Tây Tạng: Tayata Om Bhekandze
Bekhandze Maha, Bhekandze Bhekandze Randza Samungate Soha.

Thần chú mạnh mẽ của Đức Phật Dược Sư được các tu sĩ Phật giáo tụng niệm rất
nhiều, đặc biệt là những người thuộc trường phái Mật Tông Tây Tạng, với những
phương thức thực hành bí truyền và những câu thần chú bí mật trong Phật giáo.
Lợi ích của việc tụng niệm thần chú Phật Dược Sư là vô cùng to lớn, chúng ta nên
hình dung hình ảnh của Ngài trong khi niệm chú hoặc thực hành thiền định thì hiệu
quả rất cao. Một phần của hình ảnh hóa có thể bao gồm việc nhìn thấy ánh sáng
thần chú phát ra từ Ngài.

Ngoài việc quán tưởng và niệm thần chú, một phương pháp chữa lành thông
thường là niệm 108 lần thần chú của Dược Sư trên một ly nước. Các thầy thuốc
Tây Tạng thường hô vang thần chú trong các buổi thực hành thường lệ, sau đó thổi
trên mặt nước và đưa nó cho một người bệnh.

6. Lợi Ích Trì Tụng Dược Sư

Phật giáo Tây Tạng coi việc thực hành tâm linh với Phật Dược Sư là một phương
pháp mạnh mẽ nhất để chữa bệnh, giải phóng bệnh tật và đánh thức khả năng chữa
bệnh bẩm sinh nằm trong mỗi cá nhân. Việc thực hành thiền định Phật Dược Sư
(sadhana), với tất cả những cách kết nối với Đức Phật Dược Sư được cho là có hiệu
quả.

Phật Dược Sư cung cấp cõi Tịnh Độ của Ngài cho những chúng sinh mong mỏi
đầu thaiđể chữa lành và làm lợi lạc chúng sinh chìm đắm trong luân hồi. Những
chúng sinh có tiến bộ cao và chư Bồ Tát tìm đến cõi Tịnh Độ của Ngài để đạt tới
giác ngộ cuối cùng nhờ lời cầu nguyện và thực hành tâm linh. Nhờ ý định và sức
mạnh của thực hành, một vũ trụ tràn ngập ân phước gia trì của chư Phật. Các yếu
tố thô lậu và bất tịnh được tịnh hóa bởi sự hiện diện của các vị Phật, Bồ Tát.

Một số nghi thức có liên quan đến Phật Dược Sư được cho là có tác dụng chữa
bệnh, tăng cường sức khoẻ cho người bệnh bao gồm việc thiền định trên màu xanh
thẳm của đá Lapis Lazuli, làm lễ dâng hương hoa quả cho các vị Phật, vẽ Mạn-đà-
la hoặc tụng niệm thần chú Phật Dược Sư Lưu Ly.

Nếu chúng ta niệm thần chú của Đức Phật Dược Sư như là một thực hành hàng
ngày, tất cả chư Phật và Bồ Tát đều quan tâm đến chúng ta, giống như một người
mẹ quan tâm đến đứa con yêu quý của mình, và luôn hướng dẫn chúng ta. Bồ tát
Kim Cương Thủ (Vajrapani) sẽ hiện thân bảo vệ chúng ta khỏi sự quấy phá của ma
quỷ. Thần chú sẽ giúp chúng ta thanh tẩy tất cả các nghiệp xấu và nhanh chóng
làm lành các bệnh tật trong cơ thể, các tổn thương về mặt tinh thần. Nó cũng mang
lại sự thành công trong cuộc sống, những mong ước tích cực của chúng ta sẽ thành
tựu.

7. Năm Câu Chuyện Nhiệm Màu Về Đức Phật Dược Sư Truyền Lại Đến
Nay

1. (theo Minh Chí ký) Đời Đường, ở miền Biên Châu, có cô con gái nghèo, sống
trong cảnh lẽ loi côi cút. Gia tài trong nhà duy vỏn vẹn có 1 đồng tiền. Cô tự nghĩ:
“Đồng tiền này không thể làm tư lương cho một đời sống. Thôi, ta hãy đem cúng
dường Phật để gieo phước đức về sau”. Nghĩ đoạn, cô đem 1 đồng tiền đến chùa
chí thành đảnh lễ, cúng dường trước tượng Phật Dược Sư.

Bấy giờ ở huyện gần đó, có người nhà giàu goá vợ sớm, tìm nơi chắp nối đã lâu mà
không có chỗ nào vừa ý. Bảy hôm sau khi cô gái cúng dường Phật, anh này cũng
đến chùa cầu nguyện Phật Dược Sư chỉ điểm cho được gặp người vợ hiền.Đêm về
anh nằm mộng được mách bảo phải cưới cô gái nghèo kia làm vợ. Kết cuộc, cô gái
nghèo cúng dường Phật được anh nhà giàu ưng ý chọn làm vợ. Và vợ chồng nọ
cùng sống trong hạnh phúc, giàu sang.

2. (theo Tam bảo ký). Ở Thiên Trúc, có người thuộc dòng giàu sang, nhưng làm ăn
sa sút đến độ nợ nần rồi phải đi xin ăn. Trước tiên, thân bằng còn giúp; sau ông đi
đến đâu, người thân kẻ sơ trông thấy cũng đều đóng cửa. Do đó, mọi người đều
đùa gọi ông là Bế Môn (đóng cửa).

Một hôm, trong tâm niệm buồn, ông đến ngôi chùa thờ Phật Dược Sư. Ông chắp
tay đi nhiễu xung quanh tượng và chí thành sám hối. Xong, ông ngồi trước tượng
Phật Dược Sư chuyên niệm danh hiệu Nam mô Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai.
Đêm cuối cùng của ngày thứ 5, thân tâm mờ mệt, bỗng thấy Phật Dược Sư hiện
thân tướng tốt đẹp bảo: “Do ngươi sám hối và niệm danh hiệu Ta nên túc nghiệp
đã dứt, sẽ được hưởng cảnh giàu sang. Mau về ngôi nhà cũ của cha mẹ ngươi, khai
quật nơi nền, sẽ tìm được kho báu”. Tỉnh lại, ông vội chắp tay lễ Phật, trở về ngôi
nhà cũ của cha mẹ. Đến nơi thấy tường vách xiêu đổ, rường cột đã mục nát. Trải
qua 2 ngày, ông vừa dọn dẹp vừa đào nền theo chỗ Phật Dược Sư mách bảo, liền
tìm thấy được những cái chum vàng bạc của tổ tiên xưa. Ông lại giàu có, nhà cửa
huy hoàng, vật dụng tôi đòi sung túc.

3. (theo Tam bảo ký). Đời Đường, Trương Lý Thông lúc 27 tuổi, gặp thầy tướng
bảo: “Thọ số ông rất ngắn, sợ e không đến 31 tuổi!”.

Lý Thông nghe nói lo buồn, tìm đến vị danh tăng là ngài Mật Công hỏi han.

Ngài Mật Công bảo: “Việc ấy không đáng ngại. Nếu ông thành kính thọ trì hoặc
viết chép Kinh Dược Sư, thì có thể được tăng thọ”.

Lý Thông thưa: “Tôi việc quan bận buộc quá nhiều, sợ e khó thường thọ trì, xin
tạm biên chép kinh trước”. Liền thỉnh quyển kinh về thành kính tự biên chép. Mới
chép được 1 quyển thì công việc lại đến dồn dập, chưa kịp tiếp tục thêm. Tình cờ
vị thầy tướng cũ lại gặp Thông, lấy làm lạ bảo: “Thật là điều hy hữu! Ông có làm
công đức chi mà tướng diện lại thay đổi, sống được thêm 30 năm nữa”.

Trương Lý Thông thuật lại việc chép kinh. Nhiều người nghe chuyện phát tâm
hướng về Phật pháp.
4. (theo Tam bảo ký). Nước Thiên Trúc, có người Bà La Môn, nhà tuy giàu sang
mà kém phần tử tức. Do đó, ngày đêm ông hằng cúng lễ cầu nguyện với Tự Tại
Thiên, xin ban cho đứa con. Mấy năm sau, vợ ông có thai, khi đủ tháng, sanh được
1 bé trai dung sắc xinh đẹp, ai trông thấy cũng yêu mến.

Một hôm, có nhà tu phái Ni Kiền Tử đến khất thực, nhân xem tướng rồi bảo: “Đứa
bé này tuy cốt cách tươi tốt, nhưng có nét yểu không thể kế thừa gia nghiệp, chỉ
còn sống được 2 năm nữa mà thôi!”. Vợ chồng Bà la môn nghe nói như người bị
trúng tên độc, hằng ngày đem lòng sầu muộn, thân thể héo gầy.

Vừa có Sa môn đệ tử Phật đi đến, Bà La Môn liền thuật lại mọi việc.Vị Sa môn
này bảo: “Chớ nên ưu phiền, việc hoạ tai đều có thể chuyển đổi. Tôi sẽ chỉ vẽ cho
ông, hãy tạo hình tượng Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai và tụng niệm cúng
dường, tất đứa bé sẽ được tiêu tai, tăng diên thọ". Bà La Môn vui mừng nhất nhất
sắm sửa theo lời chỉ bảo, đúng như pháp thức, thiết lễ tụng niệm, cúng dường Phật
Dược Sư.

Cuộc lễ vừa hoàn mãn, đêm ấy, Bà La Môn nằm mộng thấy 1 vị Minh quân, ôm sổ
bộ đến bảo: "Ông đã theo Nghi Thất Phật tạo tượng cúng dường, do duyên phước
đó mà con trai của ông sẽ sống thêm được 50 năm nữa" . Về sau, sự việc quả y lời.

5. (theo Tam bảo ký). Đời Đường, ông Trương Tạ Phu đau nặng, gia đình thỉnh
chư Tăng tụng Kinh Dược Sư suốt 7 ngày đêm. Ngay đêm hoàn kinh, Trương nằm
mộng thấy chúng Tăng đem kinh đắp trên mình. Khi thức dậy, bệnh lui giảm rồi
lành hẳn.

Ông đem điều này thuật lại cho người nhà biết, và tin rằng mình được mạnh khỏe
là do nhờ năng lực tụng kinh Dược Sư.

You might also like