Professional Documents
Culture Documents
mất. Dụng thần thứ hai là Kiếp tàng trong Ngọ lại bị
xung nên cũng mất
11. QUY TẮC HỢP HÓA – SINH KHẮC
“Hãy bắt đầu từ những điều nhỏ nhất”
Đầu tiên là can chi hợp. Ở đây có sự phân biệt giữa
sự hợp có hóa và sự hợp không hóa.
Thiên can có hợp hóa được hay không phải lấy can
ngày làm chủ. Can tháng hoặc can giờ làm hợp, chi
tháng thấu ra ngũ hành giống nhau thì mới gọi là
hợp hóa.
Ví dụ: Giáp hợp với Kỷ, Giáp hoặc Kỷ phải là can
ngày, can tháng hoặc can giờ là can hợp. Khi can
ngày là Giáp thì can tháng hoặc can giờ là Kỷ, hoặc
khi can ngày là Kỷ thì can tháng hoặc can giờ phải là
Giáp. Giáp kỷ hợp - hành mà nó hóa là thổ nên chi
tháng phải là thổ, nó có thể là thổ của Thìn Tuất Sử
hoặc Mùi.
Còn hai trường hợp cũng có thể hóa: một là thiên
can của năm và tháng cùng hợp, chi năm là cùng
hành với hành mà can hợp đòi hỏi hóa, hai là can
ngày và can tháng, hoặc can ngày và can giờ hợp
nhưng hành của chi tháng không đáp ứng hành mà
nó hóa, nhưng ngũ hành mà nó đòi hỏi để hóa lại
được thể hiện ở tam hợp cục hoặc hội cục trong các
chi của tứ trụ thì cũng được coi như sự hợp có hóa.
Ví dụ ngày Canh hợp với tháng Ất, chi tháng không
phải là Thân hoặc Dậu, nhưng trong tứ trụ có tam
hợp Thân Tý Thìn hoặc hội cục Thân Dậu Tuất.
Địa chi hợp có hóa được hay không là do hai chi kề
sát nhau, can đồng hành chi trong đó phải lộ ra hành
mà nó đòi hỏi để hóa. Ví dụ Mão hợp với Tuất hành
nó đòi hỏi để hóa là Hỏa, vậy hàng can đồng hành
của hai chi này phải thể hiện là Bính hoặc Đinh hỏa -
Ở đây, một phải là Đinh mão hoặc phải là Bính tuất.
Những sự hợp không nằm kề liền nhau thì dù có hóa
nhưng lực giảm đi nhiều.
Khi là thiên hợp, hoặc địa hợp, thì sau khi hợp hóa,
hành mà nó hóa ra đã làm mất đi tác dụng của hành
ban đầu đơn lẻ. Khi gặp hợp mà không hóa thì ngũ
hành của nó vẫn độc lập giữ nguyên, nhưng khi đến
đại vận hoặc lưu niên cùng mang hàn khí mà nó có
thể hóa thì hợp lực đó được xác định, sức mạnh của
nó tăng lên.
Thiên can tương sinh – Sự tương sinh của các can kề
liền cho lực mạnh hơn các can cách nhau. Sự tương
sinh của can đồng tính mạnh hơn can khác tính. Can
sau khi sinh thì sức mạnh sẽ bị giảm, can được sinh
thì khí mạnh lên.
Thiên can tương khắc – Hai can khắc nhau thì đều bị
tổn thương, can bị khắc sẽ tổn thương lớn hơn. Khắc
cách ngôi mà có can ở giữa hóa khắc thì không gọi
là khắc nữa. Ví dụ Bính khắc Canh, nhưng tứ trụ có
Mậu Kỷ thồ, thì Bính xì hơi sinh thổ, để thổ sinh
kim, nêm gọi là liên tục tương sinh.
Trong khắc có hợp. Hợp mất sự khắc thì không còn
là khắc nữa. Ví dụ Bính khắc Canh, nhưng trong tứ
trụ có Tân thì nõ hợp Tân mà không khắc Canh nữa.
Can ngày bị một can nào đó khắc, nhưng can khắc
đó lại bị một can khắc chế ngự (khắc nó), như vậy
can ngày không bị khắc nữa.. Ví dụ can ngày là
Canh, Canh bị Bính khắc nhưng Bính lạ bị Nhâm
khắc – Như thế gọi là Nhâm Bính khắc nhau.
Các bạn nhớ cho là: Nó có thể tham hợp mà quên
khắc, nó có thể tham hợp mà quên sinh. Chỉ khi
hành đủ sức mạnh mới khắc nổi hành khác, nó là
điềm gốc như gốc tọa độ vậy. Và một chân lý đơn
giản phải nhớ là: “Tôi” khắc được “anh” thì anh
không đủ sức để khắc “nó” – Nó là cái thứ ba được
sinh thoát mà phát triển. Tôi là hành khí được xác
định là khởi đầu cho một lẽ sinh hay khắc nào đó.
Trong mệnh cục của tứ trụ, tôi đã khắc được anh thì
không còn lực để khắc “nó”, nên “nó” sẽ sinh thoát
(xuất hiện). “Nó” này là đại biểu cho tâm tính xuất
hiện sau khi anh bị khắc, bị phá hại. Nó trong tứ trụ
đóng vai trò gì ? Có thể là Nhật can, cũng có thể là
các thiên can khác. Ở đây bàn về tâm tính của “nó”
không phải từ ý đồ muốn bảo vệ cho tâm tính của
nhật chủ mà chỉ là khi sự cân bằng của tứ trụ xuất
hiện bên này khắc bên khác, bên khác vì thế không
có lực để khắc bên thứ ba, nên bên thứ ba được phát
triển, và vì thế tâm tính của nó được lộ ra.
Rõ ràng bên thứ ba đã được sinh thoát ra nên trong
sự cân bằng của tứ trụ, nó phải là bên có sức sống.
Ví dụ: Thương quan vì bị phá hoại (khắc) nên không
khác nổi Chính quan, do đó Chính quan có cơ hội
xuất hiện. Cái khắc Thương quan ngoài nó bị hình
xung hợp ra thì chủ yếu là Chính ấn. Chính quan
nhờ thương quan bị khắc chế mà xuất hiện, mối
quan hệ phù trợ hay áp chế của nó đối với nhật can
tất nhiên sẽ đóng một vai trò chủ đạo là tốt hay xấu,
trên cơ sở đó mà xác định cát cách hay bại cách của
tứ trụ.