You are on page 1of 10

http://www.facsimiledustjackets.com/pictures/15565.

jpg

WHAT IS CULTURE? Văn hóa là gì?

Notes towards the Definition of Culture by T. S. Eliot, Ghi chú về Định nghĩa Văn hóa của T. S. Eliot,
London, Faber and Faber Limited, 1948, 1962, 124 London, Faber và Faber Limited xuất bản năm 1948,
pages. 1962, 124 trang.

Gerry T. Neal Gerry T. Neal

Culture is a word that we use all the time but we Văn hóa là một từ mà chúng ta hay dùng nhưng ít
seldom put much thought into what it means. We khi chúng ta nghĩ đến nghĩa của nó. Chúng ta mặc
take for granted that we know what “culture” is, nhiên cho rằng chúng ta đã biết "văn hóa" có nghĩa
although we use it in very different ways depending gì rồi, mặc dù chúng ta sử dụng từ này theo những
upon the circumstances. Sometimes, when we cách rất khác nhau tùy thuộc vào từng trường hợp.
speak of culture, we mean something that includes Thỉnh thoảng, khi nói về văn hóa, chúng ta muốn nói
the fine visual arts, literature, theatre, architecture, một cái gì đó bao gồm cả nghệ thuật thị giác, mỹ
and serious music, and we will speak of someone thuật, văn học, sân khấu, kiến trúc và âm nhạc, và
who appreciates these things as being “cultured” or chúng ta sẽ nói về những người biết đánh giá cao
“having culture”. Other times we use the word culture những thứ này là "văn hóa" hay "có văn hóa". Có
to mean something that includes our language, khi, chúng ta sử dụng từ văn hóa thế giới để chỉ một
religion, and way of living. This is how we use the cái gì đó bao gồm ngôn ngữ, tôn giáo, và cách sống
word when we speak of our culture as opposed to của chúng ta. Đây là cách chúng ta sử dụng từ khi
that of another people. chúng ta nói về nền văn hóa của chúng ta đối lập với
văn hóa của của người khác.

These meanings of culture are clearly different from Những nghĩa của văn hóa rõ ràng là khác nhau,
each other, yet they are obviously related to each nhưng rõ ràng là chúng cũng có liên quan với nhau.
other as well. We would not go too far astray in Chúng tôi sẽ không đi quá xa trong việc tìm hiểu ý
understanding the first meaning to be a narrower, nghĩa đầu tiên mà vốn là một biến thể nghĩa hẹp
more specialized version of the second. To describe, hơn, chuyên biệt hơn của nghĩa thứ hai. Tuy nhiên,
however, is not necessarily to define. What is it that mô tả không nhất thiết phải định nghĩa. Chính lối
a people’s way of life and the higher products of sống của con người và các sản phẩm cao cấp
their civilization have in common that we use the của nền văn minh của họ có điểm chung mà
same word for both? chúng ta sử dụng cùng một từ cho cả hai?

This is question that T. S. Eliot put a lot of serious Đây là câu hỏi mà T. S. Eliot đã đặt vào đó rất nhiều
thought into around the end of the Second World suy nghĩ nghiêm túc vào khoảng cuối của Chiến
War. Eliot was a leading literary figure of the early tranh thế giới thứ hai. Eliot là một nhân vật văn học
20th Century. He had been born an American, in St. hàng đầu của thế kỷ 20. Ông sinh ra là người Mỹ,
Louis, Missouri twelve years before the end of the tại St Louis, Missouri mười hai năm trước khi kết
19th Century, was raised in the United States and thúc của thế kỷ 19, lớn lên ở Hoa Kỳ và sau đó được
then educated in the prestigious American Harvard đào tạo tại Đại học uy tín của Mỹ, Harvard, nhưng
University, but in 1915 he moved to London where vào năm 1915, ông chuyển đến London, nơi ông
he would live for the rest of his life. This was during sống hết quãng đời còn lại. Đó là thời gian Chiến
the first World War, the war which shattered the tranh Thế giới lần thứ nhất, cuộc chiến đã phá vỡ
progressive, utopian illusions of the 19th Century. những ảo ảnh không tưởng tiến bộ của thế kỷ 19.
“Things fall apart/the centre cannot hold/mere "Mọi thứ sụp đổ / trung tâm không thể giữ / chỉ tình
anarchy is loosed upon the world”, as a trạng hỗn loạn ngự trị trên thế giới", như một người
contemporary and colleague of Mr. Eliot’s, W. B. đồng thời và đồng nghiệp của ông Eliot, William
Yeats put it. A few years after the end of the War Butler Yeats đã viết. Một vài năm sau khi kết thúc
Eliot himself became famous for his poem “The chiến tranh, chính Eliot lại trở nên nổi tiếng với bài
Wasteland”, edited by his friend and fellow American thơ của ông "Vùng Đất hoang", được biên tập bởi
ex-patriot Ezra Pound, and widely understood to be người bạn và người đồng hương, nhà cựu-ái quốc
an expression of the hopelessness and Ezra Pound. Bài thơ được công chúng hiểu như là
disillusionment of that era. một biểu hiện của sự tuyệt vọng và vỡ mộng của
thời kỳ đó.

The T. S. Eliot of the late 40’s, however, was a more Tuy nhiên, T. S. Eliot của những năm cuối 40 là một
rooted and mature man than the modernist poet of người chin chắn và trưởng thành hơn so với nhà thơ
the early 1920’s. In 1927 he had become a British hiện đại của đầu những năm 1920. Năm 1927 ông
citizen and had been baptized and confirmed into the đã trở thành một công dân Anh và đã được rửa tội
Church of England. The following year he described và xác nhận vào Giáo hội Anh. Năm sau, ông mô tả
himself, in a collection of essays entitled For chính mình, trong một tuyển tập các bài tiểu luận
Lancelot Andrewes, as “royalist in politics, Anglo- mang tên “Viết cho Lancelot Andrewes, "bảo hoàng
Catholic in religion, classicist in literature”. He had trong chính trị, Anh giáo trong tôn giáo, cổ điển trong
become, in other words, a thoroughly conservative văn học". Nói cách khác, ông đã trở thành, một
man. He had become an editor for the publishing người hoàn toàn bảo thủ. Ông làm biên tập viên cho
house Faber and Faber which would be the job that nhà xuất bản Faber và Faber, và đó là công việc
paid his bills for the rest of his life. He continued to nuôi sống ông trong phần đời còn lại. Dù vậy, ông
write though, poetry, as well as several plays and a vẫn tiếp tục viết, thơ cũng như một số vở kịch và rất
great deal of literary and social criticism. His Notes nhiều phê bình văn học và xã hội. Ghi chú về Định
towards the Definition of Culture was written towards nghĩa Văn hóa đã được viết lúc ông đang ở đỉnh cao
the climax of his writing career. của sự nghiệp sáng tác của mình.

So how did T. S. Eliot define “culture”? Thế thì, T. S. Eliot định nghĩa "văn hóa" như thế
nào?

We must keep in mind that this book is titled “Notes Chúng ta phải nhớ rằng cuốn sách này có tiêu đề là
towards the Definition of Culture” which is not exactly "Ghi chú về Định nghĩa Văn hóa" mà vốn không
the same thing as “A Formulation of the Definition of chính xác như "Một mô thức Định nghĩa Văn hóa".
Culture”. In the early decades of the 20th Century Trong những thập niên đầu của thế kỷ 20 nhiều giấy
much ink had been applied to contrasting culture mực đã tiêu tốn để đối sánh văn hóa với văn minh.
with civilization. While this debate continues to be Trong khi cuộc tranh luận này có khi có lúc tiếp tục
revived from time to time, Eliot, wisely, chose to được hồi sinh, thì Eliot, một cách khôn ngoan, đã
ignore it saying only, in his introduction, that “I have chọn bỏ qua nó, mà chỉ nói trong phần giới thiệu của
made no attempt in this essay to determine the mình, rằng: "Trong bài viết này, tôi tìm cách xác định
frontier between the meanings of these two words: biên giới giữa ý nghĩa của hai từ này: bởi vì tôi đã đi
for I came to the conclusion that any such attempt đến kết luận rằng bất kỳ nỗ lực nào theo hướng đó
could only produce an artificial distinction, peculiar to chỉ có thể tạo một sự phân biệt nhân tạo, chỉ đặc
the book, which the reader would have difficulty in trưng cho cuốn sách đó, người đọc sẽ gặp khó khăn
retaining, and which, after closing the book, he would trong việc lưu giữ nó, và sau khi gấp sách lại, họ sẽ
abandon with a sense of relief”. bỏ rơi nó với một cảm giác nhẹ nhõm ".

In his first chapter, “The Three Senses of Culture”, Trong chương đầu tiên, "Ba Cảm nhận về Văn hóa",
he began by saying that culture exists on three ông bắt đầu bằng cách nói rằng văn hóa tồn tại trên
levels, that of the individual, that of the group or ba cấp độ, cấp độ cá nhân, cấp độ nhóm hoặc giai
class, and that of the entire society. The culture of tầng, và cấp độ toàn xã hội. Văn hóa của cá nhân
the individual depends upon the culture of the group, phụ thuộc vào văn hóa của nhóm, và văn hóa của
and the culture of the group depends upon the nhóm phụ thuộc vào văn hóa của xã hội. Vì vậy
culture of the society. Therefore it is culture at the chính văn hóa ở cấp xã hội cần phải được định
societal level that needs to be defined because it is nghĩa bởi vì đó là ý nghĩa cơ bản nhất, quan trọng
the most basic, the most important meaning of the nhất của từ này.
word.

This assertion will go against the grain of the Sự khẳng định này sẽ đi ngược lại quan điểm của
individualist who sees culture as the product of the chủ nghĩa cá nhân vốn coi văn hóa là sản phẩm của
creativity of the individual rather than the group but sự sáng tạo của cá nhân chứ không phải là nhóm
Eliot explained and defended his position well. nhưng Eliot giải thích và bảo vệ tốt lập trường của
Culture pertains to the “improvement of the human mình. Văn hóa gắn liền với những "cải tiến của tâm
mind and spirit” and the achievements that are thức và tinh thần con người" và những thành tựu mà
considered culture by and in different groups of được coi là văn hoá bởi và ở các nhóm người khác
people vary. Refined manners, learning, philosophy, nhau thì khác nhau. Phong cách tinh tế, việc học
the arts – all of these, Eliot pointed out, are “culture” hành, triết học, nghệ thuật - tất tật, Eliot chỉ ra, đều là
in different kinds of people. No one of them, "văn hóa" ở các loại người khác nhau. Tuy nhiên, có
however, can be said to contain all of “culture” within thể nói không có văn hóa nào trong số đó bao hàm
itself, neither can any one individual be fully tất cả "văn hóa" trong bản thân nó, và không có bất
accomplished in all of these areas at once. We must kỳ cá nhân nào có thể thành tựu đầy đủ trong tất cả
find culture, therefore, “in the pattern of the society các lĩnh vực cùng một lúc. Do đó, chúng ta phải tìm
as a whole”, for only in an entire society can all the văn hóa, "trong mô hình của xã hội như một tổng
different achievements of individuals and groups be thể", bởi vì chỉ trong toàn xã hội thì tất cả những
found and harmonized into the whole which is thành tựu khác nhau của các cá nhân và các nhóm
culture. Culture is more, however, than just the mới có thể được phát lộ và hài hòa vào một tổng thể
presence of all these different things among a group là văn hóa. Tuy nhiên, văn hóa thì nhiều hơn chứ
of isolated individuals. Culture requires cohesion không chỉ là sự hiện diện của tất cả những thứ khác
which requires “an overlapping and sharing of nhau trong một nhóm gồm các cá nhân biệt lập. Văn
interests” and “participation and mutual hóa đòi hỏi sự gắn kết mà gắn kết này đòi hỏi "sự
appreciation”. trùng lặp và chia sẻ các mối quan tâm/sở thích" và
"sự tham gia và thưởng thức/đánh giá* lẫn nhau".

*interest và appreciation có khá nhiều nghĩa, chưa


tìm được từ tiếng Việt tương đương

Eliot noted that in societies which have achieved Eliot lưu ý rằng trong các xã hội đã đạt được mức độ
higher levels of civilization the various areas which cao hơn của nền văn minh các lĩnh vực khác nhau
make up culture are specialized fields awarded mà tạo nên văn hóa là lĩnh vực chuyên môn được
different honours and that this leads to the formation trao tặng các danh hiệu khác nhau và điều này dẫn
of classes. A gradation of classes he regards as an đến sự hình thành các gia tầng. Một sự phân cấp
essential part of civilized society. He made the giai tầng, ông coi là một phần thiết yếu của xã hội
curious assertion that “I do not think that the most văn minh. Ông có một khẳng định gây tò mò rằng:
ardent champions of social equality dispute this: the "Tôi không nghĩ rằng các nhà vô địch hăng hái nhất
difference of opinion turns on whether the về công bằng xã hội sẽ tranh chấp nhau về điều này:
transmission of group culture must be by inheritance sự khác biệt về quan điểm nêu ra vấn đề liệu việc
—whether each cultural level must propagate itself— lưu truyền văn hóa nhóm có phải bằng sự thừa kế
or whether it can be hoped that some mechanism of hay không - liệu mỗi cấp độ văn hóa có phải tự phát
selection will be found, so that every individual shall tán ra hay không – hoặc liệu có thể hy vọng rằng
in due course take his place at the highest cultural một số cơ chế lựa chọn sẽ được tìm ra, sao cho mỗi
level for which his natural aptitudes qualify him.” This cá nhân trong một tiến trình nhất định sẽ vươn tới
seems to be a strange assessment. Egalitarian được vị trí của mình ở cấp độ văn hóa cao nhất mà
thought in the present day has far more in common năng khiếu tự nhiên của mình cho phép." Điều này
with the Procrustean leveling of the world described dường như là một đánh giá kỳ lạ. Tư tưởng bình
in Kurt Vonnegut Jr.’s Harrison Bergeron than the quân chủ nhĩa ngày nay có nhiều điểm chung với
meritocratic sentiment Eliot described here and the san bằng thế giới theo kiểu Procrustes* được mô tả
trend in that direction must surely have been trong Harrison Bergeron của Kurt Vonnegut Jr. Hơn
noticeable in Eliot’s own day. là tình cảm trọng thực tài mà Eliot mô tả ở đây và xu
hướng đó chắc chắn đáng được chú ý vào thời Eliot.

*Procrustes Nhân vật truyền thuyết Hy lạp có hai cái


giường, ai cao thì đặt trên cái giường ngắn và bẻ
gãy chân đi; ai thấp thì đặt trên cái giường dài kéo
người cho dài ra mà chết.

In his second chapter “The Class and the Elite”, Eliot Trong chương thứ hai của mình "Giai tầng và Tinh
explained more fully what he meant. He hoa", Eliot giải thích đầy đủ hơn những gì ông muốn
acknowledged the widespread progressive notion nói. Ông thừa nhận khái niệm tiến bộ rộng rãi rằng
that society will “overcome these divisions” and that xã hội sẽ "vượt qua những chia rẽ" và rằng "vì thế
it is “therefore a duty incumbent upon us, to bring bổn phận của chúng ta chính là mang lại một xã hội
about a classless society.” What, however, would be không giai cấp." Tuy nhiên, sẽ phải làm gì với sự
done about differences in aptitude between khác biệt về năng khiếu giữa các cá nhân trong một
individuals in such a society? Who would be the xã hội như thế? Ai sẽ là người lãnh đạo xã hội đó?
leaders of such a society?

In the early 20th Century the theory of elites was Trong thế kỷ 20 lý thuyết về giới tinh hoa đã được
discussed by a number of different sociological thảo luận bởi một số cây bút xã hội học khác nhau.
writers. One version of the theory held that society Một phiên bản của lý thuyết này cho rằng xã hội đã
was transitioning from a hierarchical class society to được chuyển từ một xã hội phân chia giai cấp thành
an elite-led mass society. This notion will seem odd một xã hội đại chúng do giới tinh hoa đứng đầu. Khái
to those who understand “the elite” to mean “the niệm này sẽ có vẻ kỳ lạ với những ai hiểu được "tinh
upper class”. The technical meaning of “elite” hoa" có nghĩa là "tầng lớp thượng lưu". Tuy nhiên, ý
however, is a group of individuals who are identified nghĩa kỹ thuật của "tinh hoa", là một nhóm các cá
by a high level of competency in a particular nhân được xác định bởi một mức độ cao về năng
specialized field. Members of an elite are not lực trong một lĩnh vực chuyên môn cụ thể. Thành
necessarily tied to one another by social connections viên của tầng lớp tinh hoa không nhất thiết phải gắn
the way the members of a class are. Eliot addresses bó với nhau bởi các kết nối xã hội theo cách thành
the idea that elite leadership was replacing social viên của một giai tầng. Eliot tiếp cận ý tưởng cho
classes and points out that for this to happen elites rằng sự lãnh đạo của giới tinh hoa đang thay thế các
would have to take over completely the function of giai cấp xã hội và chỉ ra rằng để điều này xảy ra giới
classes within society. In reality, however, elites tinh hoa sẽ phải đảm nhiệm hoàn toàn các chức
have always existed and tend to attach themselves năng của các giai cấp trong xã hội. Tuy nhiên, trong
to classes, generally the dominant class of society. thực tế, giới tinh hoa luôn luôn tồn tại và có xu
The fact that “the primary channel of transmission of hướng gắn bó với các giai tầng, thường là giai tầng
culture is the family” contributes to the likelihood of thống trị trong xã hội. Thực tế rằng "kênh chủ đạo
the continued existence of classes in one form or của truyền lưu văn hóa là gia đình" góp phần vào
another. khả năng tồn tại tiếp tục của các giai tầng ở hình
thức này hay hình thức khác.

Moreover, the disappearance of classes and their Hơn nữa, sự biến mất của các giai cấp và thay thế
complete replacement with elites should not be hoàn toàn bằng giới tinh hoa không nên giả định là
assumed to be something desirable in itself. Eliot did một cái gì đó đáng mong muốn trong chính bnaf than
not draw a complete picture of what such a society nó. Eliot không vẽ ra một bức tranh hoàn chỉnh về
would look like but we can fill in the blanks. việc một xã hội như vậy sẽ như thế nào, nhưng
Institutional education would have to take over the chúng ta có thể điền vào chỗ trống đó. Giáo dục thể
family’s role in the transmission of culture, individuals chế sẽ phải đảm nhận vai trò của gia đình trong việc
with the capacity to become members of elites would truyền tải văn hóa, cá nhân có năng lực để trở thành
have to be identified and sorted out of the masses at thành viên của giới tinh hoa sẽ phải được xác định
a very early age. This is Brave New World territory. và tách ra khỏi quần chúng ở độ tuổi rất sớm. Đây là
lãnh địa của Thế giới Mới Ngạo nghễ.

In asserting the necessity of a hierarchy of social Trong việc khẳng định sự cần thiết của một hệ thống
levels for a high degree of culture and civilization, giai tầng của các cấp độ xã hội đối với một mức độ
Eliot did not advocate a caste system in which cao của văn hóa và văn minh, Eliot đã không ủng hộ
people are locked into their class from birth. Eliot một hệ thống đẳng cấp trong đó người ta bị trói chặt
was a good Aristotelian and throughout this book he vào giai cấp của họ từ khi sinh ra. Eliot là một học trò
was always searching for the mean between giỏi của Aristotle và trong suốt cuốn sách này, ông
opposite extremes. In this case a class society đã luôn luôn tìm kiếm các điểm trung dung giữa các
combined with a high degree of social mobility and cực đoan đối lập. Trong trường hợp này một xã hội
interaction is the mean between a classless society có gia cấp kết hợp với một mức độ cao của tính vận
and a rigid caste system. This is also part of the động và tương tác xã hội là trung điểm giữa một xã
mean between the opposite extremes of an excess hội không giai cấp với một hệ thống đẳng cấp cứng
of unity and an excess of diversity. The other part of nhắc. Đây cũng là một phần của giá trị trung bình
that mean is explored in his third chapter entitled giữa các cực đoan đối lập của một sự thống nhất
“Unity and Diversity: The Region”. quá mức và một đa dạng quá mức. Một phần khác
của giá trị trung bình đó được khám phá trong
chương thứ ba mang tên "Thống nhất và đa dạng:
Khu vực".

In this chapter Eliot addressed the difference Trong chương này, Eliot tiếp cận sự khác biệt giữa
between local and national cultures and argued các nền văn hóa địa phương và văn hóa quốc gia và
against the kind of centralizing nationalism that lập luận chống lại loại chủ nghĩa dân tộc tập trung
seeks to eliminate regional and local cultures by vốn tìm cách loại bỏ các nền văn hóa khu vực và địa
imposing a standardized culture on everybody. Eliot phương bằng cách áp đặt một nền văn hóa chuẩn
acknowledged the importance of a society having a lên tất cả mọi người. Eliot công nhận tầm quan trọng
common culture that transcends class and regional của một xã hội có một nền văn hóa phổ biến mà
boundaries. He wrote about the classes that “they vượt qua các ranh giới giai tầng và khu vực. Về giai
should all have a community of culture with each cấp, ông đã viết rằng "tất cả giai cấp cần phải có một
other which will give them something in common, chung một cộng đồng văn hóa với nhau mà sẽ cung
more fundamental than the community which each cấp cho họ một cái gì đó chung, cơ bản hơn so với
class has with its counterpart in another society”. các cộng đồng mà mỗi giai cấp có được với đối tác
This is the opposite of what was proposed by Italian của mình trong xã hội khác". Điều này trái ngược với
Communist leader Antonio Gramsci who urged những gì đã được đề xuất bởi nhà lãnh đạo Cộng
Marxists to take over the institutions of culture so as sản Ý Antonio Gramsci người thúc giục những người
to break the “cultural hegemony” that was impeding Marxist tiếp nhận các thể chế văn hóa nhằm đập tan
the general workers revolution. "bá quyền văn hóa" đã cản trở các cuộc cách mạng
công nhân nói chung.

Unity can be overemphasized, however, and Eliot Tuy nhiên, thống nhất có thể bị nhấn mạnh qua mức,
argued against those who look at the kinds of và Eliot lập luận chống lại những ai trông cậy vào
measures societies take to promote unity in times of các loại biện pháp mà các xã hội áp dụng để thúc
crisis such as war, and propose them in times of đẩy sự thống nhất trong thời gian khủng hoảng như
peace. In words that bring to mind Edmund Burke’s chiến tranh, và đề nghị chúng cả trong thời bình.
remarks about the little platoons, Eliot wrote: Bằng những lời mà khơi dậy các diễn ngôn của
It is important that a man should feel himself to Edmund Burke về các trung đội nhỏ bé*, Eliot đã
be, not merely a citizen of a particular nation, but viết:
a citizen of a particular part of his country, with Điều quan trọng là một người phải cảm thấy
local loyalties. These, like loyalty to class, arise mình, không chỉ đơn thuần là một công dân của
out of loyalty to the family. một quốc gia cụ thể, mà còn là một công dân của
Patriotic affection starts at home and radiates một bộ phận cụ thể của quốc gia đó, có lòng
outwards. trung thành với địa phương. Lòng trung thành
này, như lòng trung thành với gia cấp, phát sinh
từ lòng trung thành với gia đình.
Tình cảm ái quốc bắt đầu từ gia đình và lan tỏa
ra bên ngoài.

*little platoons: used by Burke social as


"subdivisions" into which we are born. được sử dụng
bởi Burke "bộ phận” xã hội trong đó chúng ta được
sinh ra.

Eliot discussed the relationships between the various Eliot đã thảo luận về mối quan hệ giữa các nền văn
regional cultures in the British Isles and argued that hóa khác nhau trong khu vực ở quần đảo Anh và lập
the continued existence of Welsh, Scottish, and Irish luận rằng sự tồn tại tiếp tục của xứ Wales, Scotland,
cultures is a benefit to the English culture and that và các nền văn hóa Ai Len là có lợi ích cho nền văn
each of these “satellite cultures” is dependent upon hóa Anh và rằng mỗi một trong các "văn hóa vệ tinh"
the health of the English culture. If each of these đều phụ thuộc vào sức khỏe của văn hóa Anh. Nếu
cultures were to be made indistinguishable from the mỗi một trong các nền văn hóa này được làm cho
others all would lose – the result would be a lower không còn phân biệt được với những nền văn hóa
level of culture than any one of them. Examples of khác thì tất cả các nền văn hóa sẽ mất mát - kết quả
countries that have suffered heavily from the artificial sẽ là một mức độ văn hóa thấp của hơn bất kỳ nền
imposition of a standardized national culture were văn hóa nào trong số đó. Ví dụ về các quốc gia mà
ready at hand for him to point to: đã phải chịu đựng nặng nề do việc áp đặt giả tạo
một nền văn hóa quốc gia sẵn sàng nằm trong tầm
tay để ông trỏ đến:

In Italy and in Germany, we have seen that a unity Ở Italia và Đức, chúng ta đã thấy rằng một sự thống
with politico-economic aims, imposed violently and nhất với mục tiêu kinh tế chính trị, sự áp đặt thô bạo
too rapidly, had unfortunate effects upon both và quá nhanh, có hiệu ứng đáng tiếc cho cả hai quốc
nations. Their cultures had developed in the course gia. Các nền văn hóa của họ đã phát triển trong quá
of a history of extreme and extremely sub-divided trình lịch sử của chủ nghĩa khu vực cực đoan và
regionalism: the attempt to teach Germans to think of phân chia một cách cực đoan: nỗ lực nhằm dạy cho
themselves as Germans first, and the attempt to người Đức nghĩ về mình trước hết như người Đức,
teach Italians to think of themselves as Italians first, và nỗ lực để dạy người Ý tự coi mình trước hết như
rather than as natives of a particular small người Ý, chứ không phải là người bản địa của một
principality or city, was to disturb the traditional công quốc nhỏ đặc biệt, hay một thành phố, đã gây
culture from which alone any future culture could cản trở văn hóa truyền thống mà duy nhất từ đó một
grow. nền văn hóa tương lai nào đó có thể phát triển được.

How local should culture get? Văn hóa nên được địa phương hóa mức nào?

Eliot wrote: “Ideally, each village, and of course more Eliot đã viết: "Lý tưởng nhất, mỗi làng, và tất nhiên
visibly the larger towns, should each have its rõ ràng hơn mỗi thị trấn lớn, nên có tính chất đặc thù
particular character”, a sentiment which the G. K. của mình", một tình cảm mà GK Chesterton người
Chesterton who wrote The Napoleon of Notting Hill viết Napoleon của Notting Hill chắc chắn đã hoan
would undoubtedly have applauded had he lived nghênh nếu như sống thêm mười hai năm nữa để
another twelve years to have read it. đọc nó.

This emphasis upon local and regional diversity Điều này nhấn mạnh tính đa dạng địa phương và
should not be confused with what is called “multi- khu vực không nên nhầm lẫn với cái được gọi là
culturalism” today, although the word would serve "chủ nghĩa đa văn hóa" ngày nay, mặc dù từ này hẳn
the purpose if it had not been usurped to describe cũng phục vụ mục đích đó nếu như nó đã không bị
something sinister. Although this may seem counter- chiếm đoạt để mô tả một cái gì đó nham hiểm. Mặc
intuitive to some what we call multi-culturalism is dù điều này có vẻ phản trực giác đối với một số
actually far more similar to the nationalization người, cái mà chúng ta gọi là chủ nghĩa đa văn hóa
programs of Hitler and Mussolini than to the localism thực sự là giống nhiều hơn các chương trình quốc
and regionalism Eliot is advocating. It is an attempt của Hitler và Mussolini so với địa phương hóa và
by a central, bureaucratized, government to break khu vực hóa mà Eliot đang ủng hộ. Đây là một nỗ
down local culture and cohesion in order to promote lực của một chính phủ tập quyền, quan liêu, nhằm
a form of unity that consists of loyalty to the central phá vỡ văn hóa và gắn kết địa phương để thúc đẩy
state. This is all that is left to build unity around một hình thức của sự thống nhất mà bao gồm sự
because multi-culturalism, which involves mass trung thành với nhà nước trung ương. Đây là tất cả
immigration from as many different cultures and những gì còn lại để xây dựng sự thống nhất khắp
nations as possible, breaks down the common nơi bởi vì chủ nghĩa đa văn hóa, mà vốn kéo theo
national culture as well as all local cultures within the nhập cư ồ ạt từ càng nhiều nền văn hóa và các quốc
nation. This couldn’t be further from the concept of gia khác nhau càng tốt, sẽ phá vỡ văn hóa chung
local and regional culture held by Eliot who wrote của cả nước cũng như tất cả các nền văn hóa địa
“On the whole, it would appear to be for the best that phương trong cả nước. Điều này có thể không xa
the great majority of human beings should go on hơn khái niệm về văn hóa địa phương và khu vực
living in the place in which they were born.” được Eliot ấp ủ khi ông viết "Xét tổng thể, có vẻ tốt
nhất là đại đa số mọi người nên tiếp tục sống ở nơi
mà họ đã sinh ra."

The need for a balance between unity and diversity Nhu cầu về một sự cân bằng giữa sự thống nhất và
at different levels of culture has its counterpart in đa dạng ở các cấp độ khác nhau của nền văn hóa có
religion. One of the major themes of this book is the đối tác của nó là tôn giáo. Một trong những chủ đề
relationship between religion and culture. Eliot did chính của cuốn sách này là mối liên hệ giữa tôn giáo
not like the word “relation” (1) as a description of và văn hóa. Eliot không thích từ "quan hệ" (1) như là
what religion and culture are to each other as he sự mô tả về những gì tôn giáo và văn hóa là đối với
explains when he raises the subject in the first nhau như ông giải thích khi ông nêu bật chủ đề này
chapter. He believed the word “relation” suggests trong chương đầu tiên. Ông tin rằng từ "quan hệ" gợi
that religion and culture are separate entities which ý rằng tôn giáo và văn hóa là những thực thể riêng
relate to each other. This, he treated as an extreme biệt có quan hệ với nhau. Điều này, ông xem như là
to be avoided, like the opposite extreme of một cực đoan nên tránh, cũng như cực đoan đối lập
identifying religion and culture, completely and trong việc nhận diện tôn giáo và văn hóa một cách
absolutely. At this point Eliot’s search for Aristotelian hoàn toàn và tuyệt đối. Ở điểm này việc Eliot tìm
balance might seem a little obsessive but it begins to kiếm sự cân bằng của Aristotle có lẽ hơi có vẻ ám
make sense when he returns to the subject in his ảnh nhưng nó bắt đầu có ý nghĩa khi ông chuyển
fourth chapter “Unity and Diversity: Sect and Cult”. sang chủ đề trong chương thứ tư "Thống nhất và đa
dạng: môn và phái".

The same sort of things, Eliot had argued, appear to Eliot đã lập luận rằng cùng những thứ đó có vẻ như
be religious from one angle, and cultural from là tôn giáo từ góc độ này, và có vẻ là văn hóa khi
another, suggesting that religion and culture are nhìn từ góc độ khác, điều này gợi ý rằng tôn giáo và
different aspects of each other. He suggested that văn hóa là những bình diện khác nhau của nhau.
culture might be conceived of as the incarnation of Ông cho rằng văn hóa có thể được quan niệm như
religion. Latin culture, he pointed out in his fourth là hiện thân của tôn giáo. Văn hóa Latin, như ông đã
chapter, is the primary culture of Western Europe, chỉ ra trong chương thứ tư, là văn hóa chủ đạo của
just as the Church of Rome is the primary religious Tây Âu, cũng như Giáo Hội La Mã là tôn giáo truyền
tradition. English culture, while distinct from the Latin thống chính. Văn hóa Anh, trong khi khác biệt với
culture of Western continental Europe, is derived văn hóa Latin của Tây Âu lục địa, có nguồn gốc từ
from the latter and dependent upon the health of the Tây Âu lục địa và phụ thuộc vào sức khỏe của dòng
mainstream for its own wellbeing. In the same way, văn hóa chính này để có sự lành mạnh riêng của nó.
the Protestant Churches are derived from and Cũng như vậy, các Hội Thánh Tin Lành có nguồn
dependent upon the Church of Rome. In the United gốc từ và phụ thuộc vào Giáo Hội La Mã. Ở Anh,
Kingdom, the Church of England is the primary Giáo hội Anh là truyền thống tôn giáo chính, nhưng
religious tradition, but the relationship of the Free mối liên hệ của các Giáo hội Tự do với truyền thống
Churches to the Anglican tradition is in British Anh giáo nằm trong long xã hội Anh, giống như mối
society, the same as the relationship of the liên hệ của các Hội Thánh Tin lành với Giáo Hội
Protestant Churches to the Roman Catholic Church. Công Giáo La Mã.

This is not what the relationship between the Dĩ nhiên, xét từ bên trong đây không phải là cái
different branches of the Christian tradition appears được biểu thị bởi các mối quan hệ giữa các nhánh
looks like from the inside, of course. From the inside, khác nhau của truyền thống. Từ nội tại, sự khác biệt
differences in theology and practice tend to be what về thần học và thực hành tôn giáo thường là cái
we see first. Eliot, although a devout Anglican chúng ta nhìn thấy trước tiên. Eliot, mặc dù bản thân
himself, had deliberately tried to approach this matter là một người Anh giáo mộ đạo, đã cố tình tìm cách
“from the point of view of the sociologist, and not tiếp cận vấn đề này "từ quan điểm của nhà xã hội
from that of the Christian apologist”. học, chứ không phải một người biện giải cho Kitô
giáo".

It is in the chapters on “Unity and Diversity” that the Chính trong các chương nói về "Thống nhất và đa
concerns of the immediate post-WWII era in which dạng" mà các mối quan ngại của thời kỳ ngay sau
Eliot wrote this book are most visibly evident. The Thế chiến II, khi Eliot viết cuốn sách này được nhìn
devastation caused by the two Wars had dampened thấy rõ rệt nhất. Sự tàn phá gây ra bởi hai cuộc
the optimistic spirit of progressivism but it had also chiến tranh đã làm chìm sâu tinh thần lạc quan của
added an element of desperation to progressive chủ nghĩa tiến bộ, nhưng nó còn bổ sung thêm một
schemes to unify the world and end conflict. The yếu tố tuyệt vọng đối với các chương trình tiến bộ
United Nations had been established at the end of nhằm thống nhất thế giới và chấm dứt các cuộc
the War and many people were treating it as the first xung đột. Liên Hiệp Quốc đã được thành lập vào
step towards world federalism. Proposals within the cuối cuộc chiến và nhiều người đã coi đây như là
ecumenical movement for the reuniting of the bước đầu tiên hướng tới liên bang thế giới. Các đề
Christian Churches went back to the previous xuất của phong trào đại tập kết để tái hợp các Giáo
century but were now being looked to with new zeal. Hội Kitô giáo có từ thế kỷ trước nhưng nay được
Against this desperation-driven zeal, Eliot’s words trông cậy với lòng nhiệt thành mới. Chống lại lòng
read like a plea for sanity. Neither unity nor diversity nhiệt tình được thúc đẩy bởi tuyệt vọng này, những
is everything, it is the balance between the two that lời của Eliot nghe như một lời biện hộ cho sự tỉnh
is important. táo. Cả thông nhất lẫn đa dạng đều không phải là tất
cả, mà chính sự cân bằng giữa hai điều đó mới là
quan trọng.

In his final two chapters Eliot brought politics and Trong hai chương cuối cùng, Eliot đưa chính trị và
education into the picture. The theme of giáo dục vào tầm ngắm. Chủ đề về phân quyền
decentralization is continued into chapter five “A được tiếp tục ở chương năm "Ghi chú về Văn hóa và
Note on Culture and Politics” as is the theme of a Chính trị" như là chủ đề của một cấu trúc giai cấp.
class structure. Within a “healthily regional society”, Bên trong một "xã hội có tính khu vực lành mạnh",
he wrote “public affairs would be the business of ông viết "vấn đề công cộng sẽ là công việc của tất cả
everybody, or of the great majority, only within very mọi người, hoặc của đại đa số, chỉ trong các đơn vị
small social units; and would be the business of a xã hội rất nhỏ; và nó sẽ là công việc của một số
progressively smaller number of men in the larger người ít dần trong các đơn vị lớn hơn mà trong đó
units within which the smaller were comprehended”. các đơn vị nhỏ hơn được bao hàm". Bên trong một
Within a “healthily stratified society”, he then wrote "xã hội phân chia giai tầng lành mạnh", ông viết "vấn
“public affairs would be a responsibility not equally đề công cộng sẽ là một trách nhiệm được đảm
borne: a greater responsibility would be inherited by đương không đều: nhiều trách nhiệm hơn sẽ được
those who inherited special advantages, and in gánh vác bởi những người thừa hưởng lợi thế đặc
whom self-interest, and interest for the sake of their biệt, mà ở họ lợi ích cá nhân, và lợi ích của gia đình
families (‘a stake in the country’) should cohere with họ ('một cổ đông của quốc gia) phải cố kết với với
public spirit.” (2) tinh thần công cộng."(2)

What he has presented here is not two different and Những gì ông đã trình bày ở đây không phải là hai
opposing models of society. Regional diversity and mô hình xã hội khác nhau và đối lập. Sự đa dạng
stratification of class have both been presented theo khu vực và sự phân chia giai tầng đều đã được
earlier in his book as desirable qualities of the same trình bày trước đó trong cuốn sách này như là phẩm
society, as different aspects of how culture within a chất mong muốn của cùng một xã hội, như là các
society can be unified and diverse at the same time. khía cạnh khác nhau của cách thức văn hóa trong
The idea that societies should be the most một xã hội có thể được thống nhất và đa dạng cùng
democratic at the local level with societal affairs một lúc như thế nào. Ý tưởng cho rằng xã hội phải là
being handled by smaller specialized groups at dân chủ nhất ở cấp độ địa phương với các vấn đề xã
higher levels and the idea that privilege and public, hội được xử lý bởi các nhóm chuyên môn nhỏ hơn ở
social and civic responsibility should go together in các cấp độ cao hơn và ý tưởng cho rằng đặc quyền
the upper classes of a society are both different và trách nhiệm công cộng, xã hội và công dân phải
arguments for aristocratic leadership. đi cùng nhau trong các tầng lớp trên của một xã hội,
cả hai đều là những lập luận khác nhau dành cho
giới lãnh đạo quý tộc.

Towards the end of his second chapter he had made Đến cuối chương thứ hai, ông đã đưa ra luận điểm
the point that aristocracy and democracy should not rằng tầng lớp quý tộc và dân chủ không nên được
be understood as antithetical terms. An egalitarian hiểu là các thuật ngữ đối chọi nhau. Một nền dân
democracy would be “oppressive for the chủ quân bình sẽ là "áp bức đối với người có lương
conscientious and licentious for the rest” so the only tâm và trụy lạc cho những người còn lại" vì thế nền
democracy that can survive long term is one with a dân chủ duy nhất mà có thể tồn tại lâu dài là một nền
class structure in which aristocracy has “a peculiar dân chủ với một cấu trúc giai cấp, trong đó tầng lớp
and essential function, as peculiar and essential as quý tộc có "một chức năng đặc biệt và hết sức cần
the function of any other part of society”. thiết, là đặc biệt và quan trọng như là chức năng của
bất kỳ bộ phận nào khác của xã hội ".

The opposite of a democratic class society led by an Sự đối lập của một xã hội dân chủ có giai cấp được
aristocracy in which regional diversity flourishes lãnh đạo bởi một tầng lớp quý tộc, trong đó sự đa
within a common culture is a centralized mass dạng theo khu vực phát triển trong một nền văn hóa
democracy. In such a society, the central chung là một nền dân chủ đại chúng tập trung. Trong
government seeks to control and standardize một xã hội như vậy, chính quyền trung ương tìm
everything (which is why such governments require cách kiểm soát và chuẩn hóa tất cả mọi thứ (đó là lý
large bureaucracies), eliminating regional diversity do tại sao các chính phủ đó cần có bộ máy quan liêu
as much as it can, and breaking down social classes lớn), loại bỏ sự đa dạng theo khu vực càng nhiều
and all other local units within society into atomized, càng tốt, và phá vỡ các giai tầng xã hội và tất cả các
isolated, individuals. This is very destructive to a đơn vị địa phương khác bên trong xã hội thành các
society’s culture. Eliot made the point that politics cá nhân đơn lẻ và cô lập. Điều này thật tai hại cho
should be contained within culture as one part out of nền văn hóa của một xã hội. Eliot đưa ra luận điểm
many. Instead, the kind of societies that he saw chính trị nên bao hàm trong văn hóa như là một bộ
developing, were ones in which politics sought to phận trong nhiều bộ phận. Thay vào đó, loại hình xã
dominate culture. “Culture”, he tells us “can never be hội mà ông thấy đang phát triển, là những xã hội mà
wholly conscious—there is always more to it than we trong đó chính trị tìm cách thống trị văn hóa. "Văn
are conscious of; and it cannot be planned because hóa", ông nói với chúng ta "không bao giờ có thể
it is also the unconscious background of our hoàn toàn có ý thức - luôn luôn có nhiều điều hơn về
planning”. văn hóa so với chúng ta có ý thức về nó; và nó
không thể quy hoạch được bởi vì nó cũng chính là
nền tảng vô thức của kế hoạch của chúng ta".

This leads naturally to Eliot’s discussion of education Điều này tự nhiên dẫn Eliot tới một cuộc thảo luận
in his sixth and concluding chapter. Eliot critically về giáo dục trong chương thứ sáu và chương kết
responded to a number of common progressive luận. Eliot đối đáp có phê phán một số giả thuyết tiến
assumptions about education all supporting the idea bộ phổ biến về giáo dục mà đều ủng hộ các ý tưởng
of standardized education provided by the về giáo dục tiêu chuẩn hóa được cung cấp bởi các
government schools to everybody equally. Does trường công lập cho tất cả mọi người như nhau.
education make people happier? Is education Liệu giáo dục có làm cho mọi người hạnh phúc
what everybody wants? Eliot challenged the “yes” hơn không? Có phải giáo dục là thứ mà mọi
answer to these questions that so many take for người đều mong muốn không? Eliot thách thức
granted. He also demonstrates that the concept câu trả lời "có" cho những câu hỏi này mà rất nhiều
of “equality of opportunity” is not as practical or người cho là lẽ đương nhiên. Ông cũng trình bày
benign as it is often assumed to be. “It is right rằng khái niệm "bình đẳng về cơ hội" cũng
that the exceptional individual should have the không có tính thực tế hay có lợi ích như người ta
opportunity to elevate himself in the social scale” vẫn tưởng. "Đúng ra là những các cá nhân xuất
he writes “and attain a position in which he can chúng phải có cơ hội để vươn lên trong bậc
exercise his talents to the greatest benefit of thang xã hội", ông viết "và đạt được một vị trí
himself and of society.” The kind of equality the trong đó họ có thể thực hiện tài năng của mình
progressive seeks, however, is “unattainable in để tạo lợi ích lớn nhất cho bản thân và xã hội."
practice” and if seriously attempted, would Tuy nhiên, cái loại bình đẳng mà xã hội tiến bộ
“disorganize society and debase education”. tìm kiếm thì "không thể đạt được trong thực tế"
Recent history has more than validated Eliot’s và nếu cố gắng một cách nghiêm túc, sẽ "gây rối
assessment. loạn xã hội và hạ thấp giáo dục". Lịch sử gần đây
đã có nhiều băng chứng hơn cho đánh giá xác
đáng của Eliot.

Throughout this chapter Eliot reminds us that there is Trong suốt chương này Eliot nhắc nhở chúng ta rằng
more than one way of understanding “education”. có nhiều hơn một cách hiểu "giáo dục". Giáo dục có
Education can mean “that limited system of thể có nghĩa là "hệ thống có giới hạn về giảng dạy
instruction which the Ministry of Education controls, mà Bộ Giáo dục kiểm soát, hoặc nhằm kiểm soát".
or aims to control”. It can also mean “everything that Nó cũng có thể có nghĩa là "tất cả mọi thứ mà đi đến
goes to form the good individual in a good society”. If chỗ hình thành các cá nhân tốt trong một xã hội tốt".
we are speaking of education in the latter sense, Nếu chúng ta đang nói về giáo dục theo nghĩa thứ
Eliot has no quarrel with the idea that education is hai, Eliot không nhất trí với ý tưởng cho rằng giáo
the vehicle by which culture is transmitted or the idea dục là phương tiện mà văn hóa được truyền hoặc ý
that it is the means of repairing the breakdown of tưởng rằng giáo dục là phương tiện để sửa chữa sự
culture. If, however, we are using education in the cố văn hóa. Tuy nhiên, nếu chúng ta đang sử dụng
first sense of the term to speak of it in these lofty giáo dục theo nghĩa đầu tiên của thuật ngữ để nói về
terms is to cheapen and degrade our understanding giáo dục bằng các từ ngữ cao quý thì chúng ta đã
of culture. If education means the schools and khinh rẻ và hạ cấp sự hiểu biết của chúng ta về văn
education is the vehicle for transmission of culture, hóa vậy. Nếu giáo dục có nghĩa là các trường học và
culture then becomes that which is taught in school. giáo dục là phương tiện để truyền tải văn hóa, thì
That culture is so much more than that, the complete văn hóa trở thành cái được dạy trong nhà trường.
way of life of a society, of which that which can be Nền văn hóa đó phải nhiều hơn thế nhiều, toàn bộ
taught in schools is only a fraction, is the whole point lối sống của một xã hội, mà trong đó những thứ có
which Eliot was trying to make in this book. thể được giảng dạy trong các trường học chỉ là một
phần nhỏ, là toàn bộ luận điểm mà Eliot đã cố gắng
nêu ra trong cuốn sách này.

An appendix to the book consists of the text of three Một phụ lục của cuốn sách bao gồm các văn bản
lectures Eliot gave in Germany in 1945 after the War. của ba bài giảng Eliot đã giảng ở Đức vào năm 1945
In these lectures, Eliot talked about how the sau chiến tranh. Trong các bài giảng này, Eliot nói về
extensive vocabulary of the English language lends cách thức kho từ vựng phong phú của ngôn ngữ
itself well to poetry and how that vocabulary tiếng Anh đã hỗ trợ việc làm thơ như thế nào và
developed through the influence of a number of bằng cách nào mà kho từ vựng đó phát triển thông
European languages on the development of English qua ảnh hưởng của một số ngôn ngữ châu Âu lên
and about his experience as the editor of a literary sự phát triển của tiếng Anh và về kinh nghiệm của
review (The Criterion) in the interwar years. His point ông với tư cách là biên tập viên của một tạp chí văn
was that European cultures, although different, had học (tờ Tiêu chí) trong những năm giữa chiến tranh.
common roots in the Greco-Roman classics and in Quan điểm của ông là nền văn hóa châu Âu, mặc dù
the Bible, and how they are enriched by khác nhau, có nguồn gốc chung từ văn hóa cổ điển
communication with each other. He concluded by Hy Lạp-La Mã và từ Thánh Kinh, và bằng cách nào
talking about how the Christian religion was the các nền văn hóa đó được làm giàu thông qua giao
foundational core of European cultures, about how it tiếp với nhau. Ông kết luận bằng cách nói về việc
was through the Christian faith that European Kitô giáo trở thành cốt lõi cơ bản của nền văn hóa
cultures have received their patrimony from classical châu Âu như thế nào, về làm thế nào mà thông qua
antiquity and how, if the Christian religion were to die đức tin Kitô nền văn hóa châu Âu đã nhận được di
out, a new culture and civilization would not spring sản từ thời cổ đại và làm thế nào, nếu Thiên Chúa
up overnight to take its place but would require many giáo mất đi, thì một nền văn hóa và nền văn minh
generations in order to grow naturally. mới sẽ không thể trổi dậy sau một đêm để chiếm lĩnh
vị trí của nó, mà sẽ đòi hỏi phải qua nhiều thế hệ mới
phát triển một cách tự nhiên được.

While some of the specifics Eliot discussed in this Trong khi một số các chi tiết cụ thể Eliot thảo luận
book are dated, reflecting the conditions of the trong cuốn sách này đã lỗi thời, phản ánh hoàn cảnh
immediate post-WWII, early Cold War era, the main ngay sau Thế chiến II, đầu thời kỳ Chiến tranh Lạnh,
themes of his book continue to speak to us today. thì chủ đề chính của cuốn sách vẫn tiếp tục trò
Culture is something produced by a society as a chuyện cùng chúng ta hôm nay. Văn hóa là cái gì đó
whole naturally and organically. Artificial and được sản sinh bởi một xã hội như một tổng thể một
mechanical substitutes created by central planners cách tự nhiên và hữu cơ. Thay thế nhân tạo và cơ
simply will not suffice. The healthy culture of a học được tạo ra bởi các nhà quy hoạch trung ương
healthy society is a common culture which multiple đơn giản là sẽ không đầy đủ. Nền văn hóa lành
regional variations, influenced by and influencing mạnh của một xã hội lành mạnh là một nền văn hóa
other cultures. Such a culture is most likely to be phổ biến mà bao hàm nhiều biến thể khu vực, được
found in society with many social strata the ảnh hưởng bởi và tạo ảnh hưởng đến các nền văn
membership in which is not rigidly fixed but allows for hóa khác. Một nền văn hóa như vậy có khả năng
movement so that individuals can find the position được tìm thấy trong xã hội với nhiều tầng lớp xã hội
most suited to their capabilities. Religion is at the mà tư cách thành viên trong đó không bị trói buộc cố
core of the culture of a healthy society, and a religion định mà cho phép uyển chuyển để các cá nhân có
that conceives of itself as universal, transcending the thể tìm được vị trí phù hợp nhất với năng lực của
boundaries of a particular culture and society, the bản thân. Tôn giáo là cốt lõi trong nền văn hóa của
way Christianity does, has greater potential for a một xã hội lành mạnh, và một tôn giáo mang tính
higher level of civilization than a religion which is co- phổ quát, vượt ranh giới của một nền văn hóa và xã
terminus with a single culture. These ideas remain hội đặc thù, như cách Kitô giáo đã làm, sẽ có tiềm
vitally important to us today. năng lớn hơn cho một trình độ văn minh cao hơn so
với một tôn giáo chỉ đồng hành với một nền văn hóa
duy nhất. Những ý tưởng này vẫn cực kỳ quan trọng
đối với chúng ta ngày hôm nay.
(1) Eliot uses the word “relation” in places where we (1) Eliot sử dụng từ "quan hệ" ở những nơi mà
would ordinarily use the word “relationship”. chúng ta thường sử dụng từ "mối liên hệ".

(2) The italics in these quotations are Eliot’s own. (2) Các chữ in nghiêng trong những câu trích dẫn là
POSTED BY GERRY T. NEAL AT 9:01 AM của riêng của Eliot.
LABELS: ARISTOCRACY, CHRISTIANITY, Gerry T. Neal AT 09:01
CIVILIZATION, CLASS, CULTURE, EDMUND NHÃN:. Tầng lớp quý tộc, Cơ Đốc Giáo, nền văn
BURKE, EZRA POUND, G. K. CHESTERTON, minh, giai cấp, văn hóa, Edmund Burke, Ezra Pound,
KURT VONNEGUT JR., LOCALISM, G. K. Chesterton, Kurt Vonnegut JR, óc địa phương,
MULTICULTURALISM, REGIONALISM, T. S. đa văn hóa, chủ nghĩa khu vực, T. S. Eliot, W.
ELIOT, W. B.YEATS, WORLD WAR II B.Yeats, Thế chiến II
http://thronealtarliberty.blogspot.com/2011/08/what-is-culture.html

You might also like