You are on page 1of 28

San hô

San hô là các sinh vật biển thuộc lớp San hô


(Anthozoa) tồn tại dưới dạng các thể polip nhỏ
giống hải quỳ, thường sống thành các quần thể
gồm nhiều cá thể giống hệt nhau. Các cá thể này
tiết ra cacbonat canxi để tạo bộ xương cứng, xây
nên các rạn san hô tại các vùng biển nhiệt đới.
San hô

Dendrogyra
cylindricus
Phân loại khoa học
Giới Animalia
(regnum):
Ngành Cnidaria
(phylum):
Lớp Anthozoa
(class): Ehrenberg,
1831
Các phân lớp và bộ
sinh tồn
Alcyonaria
Alcyonacea
Gorgonacea
Helioporacea
Pennatulacea
Stolonifera
Zoantharia
Antipatharia
Ceriantharia
Corallimorpharia
Scleractinia
Zoanthidea
[1][2]
Xem Lớp San
hô để có chi tiết
Một "đầu" san hô thực tế được tạo từ hàng ngàn
cá thể polip có cấu tạo gen giống hệt nhau, mỗi
polip chỉ có dường kính vài milimet. Sau hàng
ngàn thế hệ, các polip này để lại một khung
xương là đặc trưng về loài của chúng. Mỗi đầu
san hô phát triển nhờ sự sinh sản vô tính của các
polip. San hô còn sinh sản hữu tính bằng các
giao tử, được giải phóng đồng thời trong một
thời kì từ một đến vài đêm liên tiếp trong kì
trăng tròn.
Tuy san hô có thể dùng các tế bào châm
(nematocyst) tiết chất độc tại các xúc tu để bắt
phù du, loại động vật này thu nhận phần lớn
dưỡng chất từ loại tảo đơn bào cộng sinh có tên
tảo vàng đơn bào (zooxanthella). Do đó, hầu hết
san hô phụ thuộc vào ánh sáng mặt trời và phát
triển ở các vùng nước trong và nông, thường ở
độ sâu không tới 60 m (200 ft). San hô có thể
đóng góp lớn cho cấu trúc vật lý của các rạn san
hô phát triển ở những vùng biển nhiệt đới hoặc
cận nhiệt đới, chẳng hạn như rạn san hô Great
Barrier ở ngoài khơi bang Queensland, Úc. Các
loại san hô khác không cần đến tảo và có thể
sống ở vùng nước sâu hơn, chẳng hạn các loài
trong chi Lophelia nước-lạnh sống được tới độ
sâu 3.000 m ở Đại Tây Dương.[3] Một ví dụ
khác là Darwin Mounds ở phía tây nam Cape
Wrath, Scotland. San hô còn được tìm thấy ở
ngoài khơi bang Washington và quần đảo
Aleutian ở Alaska, Mỹ.
Mục lục
 1 Phát sinh loài
 2 Cấu tạo
 3 Sinh sản
o 3.1 Hữu tính

o 3.2 Vô tính

 4 Rạn san hô
 5 Lịch sử địa chất
 6 Ảnh hưởng của môi trường
 7 San hô nhân tạo
 8 Ảnh san hô
 9 Chú thích
 10 Liên kết ngoài
Phát sinh loài
Bài chi tiết: Lớp San hô

San hô nấm ở Papua New Guinea


San hô nằm trong lớp Anthozoa và được chi
thành hai phân lớp, tùy theo số xúc tu (tua cảm)
hoặc những đường đối xứng, và một loạt các bộ
tương ứng với kiểu xương ngoài, loại tế bào
châm và phân tích di truyền ti thể[1][2][4]. Phân
lớp san hô với 8 xúc tu được gọi là san hô tám
ngăn (Octocorallia) hay san hô mềm
(Alcyonaria) và bao gồm các bộ san hô mềm
(Alcyonacea), san hô sừng (Gorgonacea) và san
hô lông chim (Pennatulacea). Những loài có
nhiều số xúc tu lớn hơn 8 và là bội của 6 được
gọi là san hô sáu ngăn (Hexacorallia) hay san
hô tổ ong (Zoantharia). Nhóm này bao gồm các
loài san hô đá (san hô tạo rạn) (Scleractinia),
san hô tổ ong (Zoanthidea) và hải quỳ.
Cấu tạo

Cấu tạo của một polip san hô


Tuy một đầu san hô trông như một cơ thể sống,
nhưng nó thực ra là đầu của nhiều cá thể giống
nhau hoàn toàn về di truyền, đó là các polip.
Các polip là các sinh vật đa bào với nguồn thức
ăn là nhiều loại sinh vật nhỏ hơn, từ sinh vật
phù du tới các loài cá nhỏ.
Polip thường có đường kính một vài milimet,
cấu tạo bởi một lớp biểu mô bên ngoài và một
lớp mô bên trong giống như sứa được gọi là
ngoại chất. Polip có hình dạng đối xứng trục với
các xúc tu mọc quanh một cái miệng ở giữa -
cửa duy nhất tới xoang vị (hay dạ dày), cả thức
ăn và bã thải đều đi qua cái miệng này.
Dạ dài đóng kín tại đáy polip, nơi biểu mô tạo
một bộ xương ngoài được gọi là đĩa nền. Bộ
xương này được hình thành bởi một vành hình
khuyên chứa canxi ngày càng dầy thêm (xem ở
dưới). Các cấu trúc này phát triển theo chiều
thẳng đứng và thành một dạng ống từ đáy polip,
cho phép nó co vào trong bộ xương ngoài khi
cần trú ẩn.
Polip mọc bằng cách phát triển khoang hình cốc
(calices) theo chiều dọc, đôi khi chia thành vách
ngăn để tạo một đĩa nền mới cao hơn. Qua nhiều
thế hệ, kiểu phát triển này tạo nên các cấu trúc
san hô lớn chứa canxi, và lâu dài tạo thành các
rạn san hô.
Sự hình thành bộ xương ngoài chứa canxi là kết
quả của việc polip kết lắng aragonit khoáng từ
các ion canxi thu được từ trong nước biển. Tuy
khác nhau tùy theo loài và điều kiện môi trường,
tốc độ kết lắng có thể đạt mức 10 g/m²
polip/ngày (0,3 aoxơ/ yard vuông/day). Điều
này phụ thuộc mức độ ánh sáng, sản lượng ban
đêm thấp hơn 90% so với giữa trưa.[5]

Nematocyst phóng độc: Một nematocyst phản


ứng với một con mồi gần đó đang chạm phải gai
châm ngứa, nắp mở, tua châm cắm vào con mồi
tiêm chất độc làm tê liệt con mồi, sau đó các xúc
tu kéo con mồi vào miệng.
Các xúc tu của polip bẫy mồi bằng cách sử dụng
các tế bào châm được gọi là nematocyst. Đây là
các tế bào chuyên bắt và làm tê liệt các con mồi
như sinh vật phù du, khi có tiếp xúc, nó phản
ứng rất nhanh bằng cách tiêm chất độc vào con
mồi. Các chất độc này thường yếu, nhưng ở san
hô lửa, nó đủ mạnh để gây tổn thương cho con
người. Các loài sứa và hải quỳ cũng có
nematocyst. Chất độc mà nematocyst tiêm vào
con mồi có tác dụng làm tê liệt hoặc giết chết
con mồi, sau đó các xúc tu kéo con mồi vào
trong dạ dày của polip bằng một dải biểu mô co
dãn được được gọi là hầu.

Cận cảnh các polip Montastrea cavernosa. Có


thể thấy rõ các xúc tu.
Các polip kết nối với nhau qua một hệ thống
phức tạp gồm các kênh hô hấp tiêu hóa cho
phép chúng chia sẻ đáng kể các chất dinh dưỡng
và các sinh vật cộng sinh. Đối với các loài san
hô mềm, các kênh này có đường kính khoảng
50-500 µm và cho phép vận chuyển cả các chất
của quá trình trao đổi chất và các thành phần tế
bào.[6]
Ngoài việc dùng sinh vật phù du làm thức ăn,
nhiều loài san hô, cũng như các nhóm Thích ti
(Cnidaria) khác như hải quỳ (ví dụ chi
Aiptasia), hình thành một quan hệ cộng sinh với
nhóm tảo vàng đơn bào thuộc chi
Symbiodinium. Thông thường, một polip sẽ
sống cùng một loại tảo cụ thể. Thông qua quang
hợp, tảo cung cấp năng lượng cho san hô và
giúp san hô trong quá trình canxi hóa[7]. Tảo
hưởng lợi từ một môi trường an toàn, và sử
dụng điôxít cacbon và các chất chứa nitơ mà
polip thải ra.
Sinh sản
Hữu tính
San hô chủ yếu sinh sản hữu tính, với 25% san
hô phụ thuộc tảo (san hô đá) tạo thành các quần
thể đơn tính trong khi phần còn lại là lưỡng
tính.[8] Khoảng 75% san hô phụ thuộc tảo "phát
tán con giống" bằng cách phóng các giao tử
(trứng và tinh trùng) vào trong nước để phát tán
các quần thể san hô ra xa. Các giao tử kết hợp
với nhau khi thụ tinh để hình thành một ấu trùng
rất nhỏ gọi là planula, thường có mầu hồng và
hình ôvan; một quần thể san hô cỡ trung bình
mỗi năm có thể tạo vài nghìn ấu trùng này để
vượt qua xác suất rất nhỏ của việc ấu trùng tạo
được một quần thể mới.[9]
Ấu trùng planula bơi về phía ánh sáng, thể hiện
quang xu hướng tính dương, lên đến vùng nước
bề mặt nơi chúng trôi dạt và phát triển một thời
gian trước khi bơi trở lại xuống phía đáy biển để
tìm một bề mặt mà nó có thể bám vào đó và xây
dựng một quần thể mới. Nhiều giai đoạn của
quá trình này có tỷ lệ thất bại lớn, và mặc dù
mỗi quần thể san hô phát tán hàng triệu giao tử,
chỉ có rất ít quần thể mới được hình thành. Thời
gian từ khi phóng giao tử cho đến khi ấu trùng
định cư thường là 2 hoặc 3 ngày, nhưng có thể
kéo dài đến 2 tháng[10]. Ấu trùng san hô phát
triển thành một polip san hô và cuối cùng trở
thành một đầu san hô bằng cách sinh sản vô tính
tạo các polip mới.
Hầu hết các loài san hô, mà không phải san hô
đá, đều không phát tán giao tử. Các loài này
phóng tinh trùng nhưng giữ trứng, cho phép
phát triển các ấu trùng planula lớn hơn để sau
này khi thả ra sẽ đủ sẵn sàng để lắng xuống[7].
Ấu trùng phát triển thành polip san hô và cuối
cùng trở thành đầu san hô bằng mọc chồi vô
tính và phát triển để tạo ra các polip mới.

Các khoang hình cốc (đĩa nền) của Orbicella


annularis cho thấy 2 phương pháp nhân giống:
mọc chồi (khoang nhỏ ở giữa) và phân chia
(khoang đôi lớn).
Việc phóng giao tử đồng bộ thường xảy ra và rất
điển hình tại các rạn san hô, ngay cả khi tại rạn
có nhiều loài, tất cả san hô trên rạn phóng giao
tử vào cùng một đêm. Sự đồng bộ này rất thiết
yêu để các giao tử đực và cái có thể gặp nhau để
tạo thành ấu trùng planula. Những dấu hiệu
hướng dẫn cho việc phóng giao tử rất phức tạp,
nhưng xét thời gian ngắn, nó bao gồm các thay
đổi về mặt trăng, thời gian mặt trời lặn, và có
thể cả tín hiệu hóa học[8]. Việc phóng giao tử
đồng thời có thể tạo ra kết quả là sự hình thành
các dạng san hô lai, có lẽ tham gia vào quá trình
tạo loài san hô mới[11]. Tại một số nơi, hiện
tượng san hô phóng giao tử có thể rất nổi bật,
thường xảy ra vào ban đêm, nước biển vốn
trong trở nên mờ đục bởi các "đám mây" giao
tử.
San hô phải phụ thuộc vào các dấu hiệu môi
trường, tùy theo từng loại, để xác định thời gian
chính xác để giải phóng các giao tử vào trong
nước. Có hai phương pháp mà san hô dùng để
sinh sản hữu tính, chúng khác nhau ở chỗ giao
tử cái có được giải phóng hay không:
 San hô gieo rắc, phần lớn trong chúng sinh
sản hàng loạt, phụ thuộc nặng nề vào các
dấu hiệu môi trường, do ngược lại với san
hô ấp trứng, chúng giải phóng cả tinh trùng
lẫn trứng vào trong nước. San hô sử dụng
các dấu hiệu dài hạn như độ dài thời gian
ban ngày, nhiệt độ nước, và/hoặc tốc độ thay
đổi nhiệt độ; và dấu hiệu ngắn hạn thông
thường nhất là chu kỳ trăng, với lúc mặt trời
lặn điều khiển thời gian giải phóng[8].
Khoảng 75% các loài san hô là san hô gieo
rắc, phần lớn trong chúng là phụ thuộc tảo
vàng đơn bào hay san hô tạo rạn[8]. Các giao
tử với sức nổi dương trôi nổi về phía bề mặt
nơi sự thụ tinh diễn ra để tạo thành các ấu
trùng planula. Các ấu trùng planula bơi về
phía ánh sáng bề mặt để đi vào các dòng
chảy, nơi chúng ở lại khoảng 2 ngày, nhưng
có thể tới 3 tuần, và trong một trường hợp đã
biết là 2 tháng[10], sau đó chúng chìm xuống
và biến hóa thành các polip và tạo thành các
quần thể mới.
 San hô ấp trứng thông thường nhất là
không phụ thuộc tảo vàng đơn bào (không
tạo rạn), hoặc một số san hô phụ thuộc tảo
vàng đơn bào trong các khu vực có tác động
của sóng hay luồng chảy mạnh. San hô ấp
trứng chỉ giải phóng tinh trùng, với sức nổi
âm, và có thể lưu trữ trứng đã thụ tinh trong
vài tuần, giảm bớt nhu cầu đối với các sự
kiện sinh sản đồng bộ hàng loạt, nhưng nó
vẫn có thể xảy ra[8]. Sau khi thụ tinh thì san
hô giải phóng các ấu trùng planula đã sẵn
sàng chìm lắng xuống.
Vô tính
Tại các đầu san hô, các polip giống hệt nhau về
di truyền sinh sản vô tính để phát triển quần thể.
Điều này được thực hiện bằng nảy mầm hay
mọc chồi (khi một polip mới mọc ra từ một
polip trưởng thành), hoặc phân chia (thành 2
polip lớn bằng polip ban đầu), cả hai được minh
họa trong hình về Orbicella annularis[9].
 Mọc chồi: Mở rộng kích thước của quần thể
san hô. Nó diễn ra khi corallite mới mọc ra
từ polip trưởng thành. Khi polip mới phát
triển nó sinh ra xoang vị (dạ dày), tua cảm
và miệng. Khoảng cách giữa các polip mới
và trưởng thành tăng lên, và cùng với nó là
coenosarc (cơ thể chung của quần thể; xem
hình minh họa tại phần cấu tạo). Việc mọc
chồi có thể diễn ra theo các cách sau:
 Phân chia theo chiều dọc bắt đầu với mở
rộng polip ra, sau đó phân chia xoang vị.
Miệng phân chia và các tua cảm mới hình
thành. Khác biệt với điều này là mỗi polip
phải hoàn thiện phần bị mất của mình về cơ
thể và bộ xương ngoài.
 Mọc chồi nội tua cảm hình thành từ các đĩa
miệng của polip, nghĩa là cả hai polip có
cùng kích thước và nằm trong cùng một
vòng tua cảm.
 Mọc chồi ngoại tua cảm tạo thành từ đáy
của polip, và các polip mới là nhỏ hơn.
 Phân chia theo chiều ngang diễn ra khi các
polip và bộ xương ngoài phân chia theo
chiều ngang thành hai phần. Điều này có
nghĩa là một polip có đĩa nền (đáy) còn
polip kia có đĩa miệng (đỉnh). Hai polip mới
cũng phải tự hoàn thiện các phần bị mất.
 Phân đôi diễn ra ở một số san hô, đặc biệt là
trong họ Fungiidae, trong đó quần thể có
khả năng tự tách thành 2 hay nhiều quần thể
trong các giai đoạn đầu của sự phát triển của
chúng.
Cả quần thể san hô có thể sinh sản vô tính qua
sự phân mảnh hay thoát ra ngoài, khi một mảnh
vỡ từ một đầu san hô được sóng đem đi nơi
khác có thể tiếp tục phát triển tại địa điểm mới.
 Polip thoát ra ngoài diễn ra khi một polip từ
bỏ quần thể và tái thiết lập trên một nền mới
để tạo ra quần thể trưởng thành mới.
 Phân mảnh, trên thực tế có thể coi như là
một kiểu của phân đôi, với các cá thể bị vỡ
ra khỏi quần thể do bão hay trong các tình
huống khác mà việc vỡ ra này có thể xảy ra.
Các cá thể tách biệt có thể bắt đầu cho các
quần thể mới.
Rạn san hô
Vị trí của các rạn san hô
Bài chi tiết: Rạn san hô
Các loài san hô phụ thuộc vào tảo vàng đơn bào
và tạo rạn (san hô đá) thường được tìm thấy tại
các rạn san hô - các cấu trúc lớn bằng cacbonat
canxi tại các vùng biển nhiệt đới nông. Các rạn
san hô được tạo dựng từ các bộ xương san hô và
được gắn với nhau bởi các lớp cacbonat canxi
do tảo coralline (họ Corallinaceae) tiết ra. Rạn
san hô là các hệ sinh thái biển cực kỳ đa dạng,
là nơi sinh sống của hơn 4.000 loài cá, vô số
loài thích ti (Cnidaria), thân mềm, giáp xác và
nhiều động vật khác[12].
Lịch sử địa chất
Hóa thạch của loài san hô Grewingkia từ kỷ
Ordovic, tìm thấy tại Indiana.
Mặc dù san hô xuất hiện lần đầu tiên vào kỷ
Cambri[13] cỡ 542 triệu năm trước (Ma), nhưng
các hóa thạch là cực hiếm cho tới tận kỷ
Ordovic, khoảng 100 triệu năm muộn hơn, khi
các bộ san hô bốn tia (Rugosa) và san hô vách
đáy (Tabulata) trở nên phổ biến.
San hô vách đáy xuất hiện trong các lớp đá vôi
và đá phiến sét chứa canxi thuộc các kỷ Ordovic
và Silur, và thông thường tạo thành các lớp đệm
thấp hoặc các khối tạo nhánh kề bên san hô bốn
tia. Số lượng của chúng bắt đầu suy giảm trong
giai đoạn giữa kỷ Silur và cuối cùng chúng tuyệt
chủng vào cuối kỷ Permi, khoảng 250 Ma. Các
bộ xương của san hô vách đáy được tạo thành từ
một dạng khoáng hóa của cacbonat canxi gọi là
canxit.
San hô bốn tia trở thành nhóm thống lĩnh vào
giữa kỷ Silur, và bị tuyệt chủng vào đầu kỷ
Trias. San hô bốn tia tồn tại dưới dạng đơn độc
và quần thể, và giống như san hô vách đáy, bộ
xương của chúng cũng được tạo thành từ từ
canxit.
San hô đá (Scleractinia) lấp đầy các hốc sinh
thái bị bỏ trống do sự tuyệt chủng của san hô
bốn tia và san hô vách đáy. Các hóa thạch của
chúng có thể được tìm thấy với số lượng nhỏ
trong các lớp đá từ kỷ Trias, và trở thành tương
đối phổ biến trong các lớp đá từ kỷ Jura và các
kỷ muộn hơn. Các bộ xương của san hô đá được
tạo thành từ một dạng của cacbonat canxi gọi là
aragonit[14]. Mặc dù về mặt địa chất chúng là trẻ
hơn so với san hô vách đáy và san hô bốn tia,
nhưng bộ xương từ aragonit của chúng lại khó
bảo tồn hơn và vì thế hồ sơ hóa thạch của chúng
là ít hoàn hảo hơn.
Ở một giai đoạn nhất định trong quá khứ địa
chất, san hô đã từng rất phổ biến, cũng như san
hô hiện đại trong các vùng nước trong và ấm
khu vực nhiệt đới tại một số nơi nhất định của
thế giới ngày nay. Giống như san hô hiện đại,
các tổ tiên của chúng cũng tạo rạn đá ngầm, một
số trong chúng hiện nay là các cấu trúc lớn
trong các loại đá trầm tích.
Các ám tiều (rạn đá ngầm) cổ đại này không
được tạo thành chỉ hoàn toàn bằng san hô. Tảo,
hải miên và các dấu tích còn lại của nhiều loài
động vật da gai, động vật tay cuộn, động vật hai
mảnh vỏ, động vật chân bụng và bọ ba thùy đã
từng sinh sống trên các ám tiều này được bảo
tồn trong chúng. Điều này làm cho một số san
hô là các hóa thạch chỉ mục hữu ích, giúp cho
các nhà địa chất có thể xác định niên đại của các
lớp đá mà trong đó chúng được tìm thấy.
San hô không bị hạn chế trong các rạn san hô và
nhiều loại san hô đơn độc có thể được tìm thấy
trong các lớp đá mà không có sự hiện diện của
rạn san hô, chẳng hạn chi Cyclocyathus có trong
thành hệ đất sét Gault ở Anh.
Ảnh hưởng của môi trường
Một rạn san hô có thể là một ốc đảo cho sinh vật
biển.
San hô rất nhạy cảm với các thay đổi trong môi
trường tự nhiên. Các nhà khoa học đã tiên đoán
rằng đến năm 2030 hơn 50% các rạn san hô trên
thế giới có thể bị hủy diệt[15]; do đó, chúng
thường được các luật môi trường bảo vệ. Một
rạn san hô có thể dễ dàng bị ngập trong tảo nếu
trong nước có quá nhiều dinh dưỡng. San hô
cũng sẽ chết nếu nhiệt độ nước thay đổi vượt
quá 1-2 độ ra ngoài khoảng bình thường, hoặc
nếu độ mặn trong nước giảm. Dấu hiệu ban đầu
của ứng suất môi trường là việc san hô thải tảo
vàng đơn bào; không có tảo đơn bào cộng sinh
của mình, các mô san hô sẽ mất mầu và để lộ
mầu trắng của bộ xương cacbonat canxi, một
hiện tượng được gọi là san hô bạc màu[16].
Hiện nay nhiều chính phủ cấm lấy san hô từ các
rạn san hô để giảm thiệt hại do những người lặn
dùng bình dưỡng khí. Tuy nhiên, san hô vẫn
chịu thiệt hại do mỏ neo của các tàu thuyền hay
do nghề cá. Tại những nơi mà nghề cá địa
phương gây hại cho rạn san hô, các chương
trình tuyên truyền đã được thực hiện để giáo dục
dân chúng về hệ sinh thái và việc bảo vệ rạn san
hô.

Một mặt cắt san hô, được nhuộm màu để xác


định tốc độ tăng trưởng
Hốc sinh thái hẹp mà san hô chiếm lĩnh, và sự
phụ thuộc của các loài san hô đá (Scleractinia)
vào sự trầm lắng cacbonat canxi, có nghĩa rằng
chúng rất nhạy cảm đối với sự thay đổi độ pH
của nước. Do lượng CO2 trong khí quyển tăng,
hiện tượng axít hóa đại dương, khi CO2 tan
trong nước làm giảm độ pH, đang xảy ra tại
nước trên bề mặt các đại dương. Độ pH thấp
làm san hô bị giảm khả năng tạo xương
cacbonat canxi, và trong trường hợp tột cùng,
những bộ xương này còn bị phân rã hoàn toàn.
Các nhà khoa học e ngại rằng, nếu không có sự
cắt giảm mạnh và sớm đối với CO2 từ hoạt động
của con người, hiện tượng axít hóa đại dương sẽ
gây thiệt hại nghiêm trọng hoặc tiêu diệt các
loài cùng các hệ sinh thái san hô[17].
Một sự kết hợp của các thay đổi về nhiệt độ, ô
nhiễm, sự lạm dụng bởi những người lặn biển
và các nhà sản xuất đồ kim hoàn đã dẫn tới sự
hủy diệt của nhiều rạn san hô trên thế giới. Điều
này đã làm tăng tầm quan trọng của ngành sinh
học san hô. Riêng các biến đổi về khí hậy có thể
gây ra thay đổi về nhiệt độ đủ để hủy diệt san
hô. Ví dụ, trong giai đoạn ấm lên vào các năm
1997-98, tất cả các quần thể thủy tức Millepora
boschmai gần Panama đã bị bạc mầu và chết
trong vòng 6 năm - loài này đến nay được xem
là đã tuyệt chủng[18].
San hô nhân tạo

Một vườn san hô nhân tạo


San hô nhân tạo là các san hô do con người tạo
ra với mục đích bảo tồn, nghiên cứu, tạo môi
trường cho các động vật sống trong san hô và
triển lãm cho khách du lịch xem. Các kỹ thuật
làm san hô nhân tạo như làm từ giá thể, một
chất làm từ pozzolana và xi măng và canxi
hiđrôxit, hay cấy giống đều được áp dụng rộng
rãi hiện nay. Khi làm san hô nhân tạo cần trách
các tảo biển bám vào vì nó sẽ làm hại tới san hô
và làm dơ nó. Các hồ san hô nhân tạo hiện đang
rất thu hút khách du lịch về thế Việt Nam cùng
hợp tác với Nga tạo ra hồ san hô nhân tạo ở Nha
Trang. Tuy san hô chậm chạp hồi phục như một
ngày nào đó nó sẽ hồi phục hoàn toàn.[19][20]
Ảnh san hô

Polip San hô
San hô não, của san sừng
Xương san Diploria hô hươu,
hô nấm labyrinthiformi Eusmilia Acropor
s fastigiat a
a

San hô cốc da
cam, San hô não Phóng
Balanophylli phóng trứng tinh
a elegans trùng

You might also like