Professional Documents
Culture Documents
DẪN NHẬP
Nói chung, Xá Lợi là sản phẩm của thi thể, vật dụng của
những người tu hành đã quá cố trong nhiều tôn giáo khác nhau,
không riêng gì Phật giáo. Nhưng nói đến Xá Lợi thì người Phật Tử
nghĩ ngay đến Xá Lợi Phật linh thiêng và quan trọng vô cùng.
Từ Xá Lợi gọi là Relic, tiếng La tinh gọi là Reliquiae có nghĩa là thi
3
Tôi ôm y vào lòng tâm trí đầy xúc động, nước mắt lưng
tròng và cầu nguyện cho duyên lành mình được thọ nhận. Thổn
thức khóc cho niềm tin và sự may mắn của mình. Một luồng hơi
ấm êm đềm lan tỏa bọc lấy toàn thân
tôi vỗ về, an ủi vô cùng. Những mệt
mỏi, đau đớn của xác thân sau
chuyến hành hương tu tập, tai nạn
đều qua đi. Những buồn phiền, thị
phi trong cuộc đời cũng không còn
quấy nhiễu tâm trí. Sự kỳ lạ này thực
sự là một phép màu. Năm sau tôi trở
9
Năng lực của Y Ca Sa rất nhiệm màu, để thờ thì được Chư
Thiên, Bồ Tát hộ trì. Đắp lên người trong lúc lâm tử thì yêu ma,
oan gia trái chủ không dám đến gần quấy phá, trợ duyên cho việc
vãng sanh và đi vào ba đường lành. Ước nguyện của tôi không
dám giữ lấy làm của riêng cho mình, muốn tìm chư Tăng, Ni có
đạo hạnh và thiện tâm đế cúng dường trợ duyên cho họ hành
thiện cứu giúp chúng sanh. Nam Mô Thiện Nghiệp Duyên Bồ Tát
cho con có duyên lành thực hiện việc cúng dường này. Tâm Sơn
10
Sarira ! Sarira !!
Taâm Sôn
11
Tập Xá Lợi Phật bao gồm bốn phần chính như sau:
NGỌC XÁ LỢI LÀ GÌ ?
Sau khi thọ trai xong Bụt gọi Cunda và bảo chàng: - Cunda, chỗ
còn lại của món nấm Chiên Đàn này, con nên đào đất mà chôn
đi, đừng để cho ai ăn nữa. Sau khi mọi người đã thọ trai, Bụt
thuyết pháp cho gia đình
Cunda. Thuyết pháp xong,
Bụt và các vị khất sĩ trở về
vườn xoài nghỉ ngơi.
gọi
28
đây.Kusinara chỉ là một đô thị nhỏ, tường vôi vách đất. Có nhiều
nơi xứng đáng để Thế Tôn nhập niết bàn hơn như Sampa,
Rajagaha, như Savatthi, như Sakata, như Kosambi, hay Banarasi.
Xin đức Thế Tôn chọn
một nơi như thế để
nhập diệt, để cho
đông đảo quần chúng
có cơ duyên nhìn mặt
Thế Tôn một lần cuối.
Bụt bảo:
32
-
Ananda, Kusinara cũng là một nơi quan trọng lắm. dù nó chỉ là
một đô thị tường vôi vách đất. Ananda, Như Lai ưng ý khu rừng
này lắm. Ananda, thầy có thấy hoa Sala
tiếp tục rơi trên áo và trên người của
Như Lai không?. Rồi Bụt bảo Ananda
vào thành phố Kusinara báo tin cho
những người trong bộ tộc Malla biết
rằng đêm nay vào canh cuối, Bụt sẽ
nhập niết bàn trong rừng cây của họ.
33
xin Bụt được xuất gia làm đệ tử. Bụt chấp nhận. Người dạy
Ananda làm lễ xuất gia tại chỗ cho du sĩ Subhadda. Subhadda là
người đệ tử cuối cùng của Bụt.
- Bạch đức Thế Tôn, thật là vi diệu ! con có đức tin nơi giáo
đoàn khất sĩ, con có đức tin nơi
Tăng Đoàn. Ai cũng thấy được
những lời Thế Tôn nói và giáo pháp
của Thế Tôn dạy sáng tỏ như ban
ngày, và không ai còn có thắc mắc,
nghi nan gì nữa về giáo pháp ấy và
về con đường thực hiện. Bụt nói:
- Ananda, đó là thầy nói từ niềm
tin của thầy.Như Lai thì thấy bằng
cái thấy trực tiếp của Như Lai. Như
Lai thấy trong đại chúng khất sĩ ở
37
Truyền thuyết rằng, cây Tala là Đạo Tràng Thọ của vị Phật
thứ ba trong 7 vị cổ Phật thời quá khứ. Trong quyển Đại Bổn Kinh
Trường A Hàm trang Đại 1-2 trung nói: “Phật Tỳ Xá Bà ngồi dưới
cây Tala thành Tối Chánh Giác.” Rừng cây Tala ngoại thành Câu
Thi Na (Kusinara) ở trung bộ Ấn Độ, cũng vì Đức Thích Tôn niết
bàn tại đó, nên trở thành thánh địa nổi danh.
Lại nữa, theo Đại Bát Nhã Kinh sơ quyển 1 nói: “Ta La Song
Thọ nơi Phật niết bàn, mỗi hướng hai cây; bốn hướng tám cây,
đều cao 5 trượng, bốn khô, bốn tươi. Dưới gốc cây thì rễ liền
nhau; Trên cành thì lá phủ nhau, lá tốt xum xuê, hoa như bánh
xe, quả to như lọ bình, vị cam tợ mật.” Vì vậy xưa nay gọi rừng
này là rừng Song Thọ, rừng kiên cố hoặc kiên tâm.
Tâm Sơn, Tết Nguyên Đán năm Tân Mão 2011, Nhật tu biên soạn
lại Tết Nguyên Đán Ất Mùi 2015 (Thursday, February 19, 2015).
44
Bài kinh Quân Phân Xá Lợi là bài kinh thứ 38/50 của Tập Tịnh
trong bộ cổ kinh Sự Tích Đức
Phật Thích Ca, bộ kinh này
gồm bốn tập là: THƯỜNG –
LẠC – NGÃ – TỊNH, mỗi tập
gồm 50 bài kinh do cư sĩ Minh
Lợi và Tâm Sơn dịch thuật, giải
thích các điển tích Phật giáo.
Kinh phân chia Xá Lợi sau khi
Phật diệt độ là bài thứ 38
trong 50 bài của tập Tịnh gồm
bản Hán văn, bản dịch Việt
ngữ, bài giải thích và tranh vẽ
nguyên bản trong bộ kinh.
TỊNH 38
QUÂN PHÂN XÁ LỢI
Xử Thai Kinh Vân: Nhĩ thời bát đại quốc vương: Ưu Điền Vương,
Đảnh Sanh Vương, Ác Sanh Vương, A Xà Thế Vương. Tứ đại binh
45
Đức Phật cùng với Tôn giả Anan rời núi Linh thứu để đi về
phía Bắc Ấn Độ khi ngài 80 tuổi. Sau khi nghỉ đêm tại Nalanda,
ngài đã vượt qua sông Hằng tại Varanasi lần cuối và đi về làng
Beluva gần Tỳ Xá Ly (Vaishali). Trong khi ở lại làng Beluva để
tránh mùa mưa, Đức Phật đã nói với Tôn giả Anan ngài đã cảm
thấy bịnh yếu và có lẽ vì tuổi già và ngài đã tiết lộ rằng là ngài sẽ
nhập niết bàn trong vòng ba
tháng nữa. Tại Tỳ Xá Ly, Đức
Phật cũng đã ba lần nói với
Tôn giả Anan khả năng của
Đức Phật có thể kéo dài mạng
sống cho tới tận kiếp này.
63
Nhưng Tôn giả Anan không nhận hiểu sự gợi ý sâu sắc này.
Đức Phật liền bỏ ý định kéo dài mạng
sống của mình. Sau đó, khi ngài Anan
hiểu được lời của Đức Phật, ngài liền
khẩn khoản xin Đức Phật kéo dài
mạng sống của ngài, nhưng Đức Phật
đã từ chối vì quá trễ và ngài đã hứa
với các ác ma sau ba tháng ngài sẽ
nhập niết bàn rồi. Dù bệnh yếu, ngài
cũng cố du hành đến Tỳ Xá Ly. Ngài
kêu gọi triệu tập chư Tăng đang trú
64
3. Tứ Như Ý Túc
(Riddhipadda): Dục Như Ý Túc,
Tinh Tấn, Niệm, Định.
4. Năm Căn (Indriya):
Tín căn, Tấn căn, Niệm căn, Định
căn và Tuệ căn.
5. Năm Lực (Balas): Tín
lực, Tấn lực, Niệm lực, Định lực và
Tuệ lực.
6. Thất Giác Chi
(Sambodhyanga): Niệm, Trạch
pháp, Tinh tấn, Hỷ, Khinh an, Định và Xả.
7. Trung Đạo (Magga): Con đường Trung Đạo là không
quá cực đoan hành hạ xác thân hoặc quá thụ hưởng dục lạc. Đức
Phật đã dạy rằng chân lý của ngài cũng không phải là ở hai cực
đoan thường hằng
(Shashvata) hay hủy
diệt (Annihilation). Do
giác ngộ nguồn gốc và
sự biến đổi của thọ
(vedana). Đức Phật đã
giải thoát mọi ràng
67
Can đảm chịu đựng thể lực già yếu. Đức Phật lại cùng với
Tôn giả Anan du hành hướng về Câu Thi Na Kushinagar, ngang
qua làng Pava và nghỉ chân tại gần làng nơi mà vừa có một đoàn
người đi buôn mới đi ngang. Khi đến làng Pava, Kunda (Chunda)
con trai của bà Metalsmith đã dâng cúng Đức Phật một bửa cơm
với nhiều loại nấm thơm.
Sau khi dùng xong, Đức
Phật bảo rằng đi chôn số
thức ăn còn lại để không
ai bị nhiễm độc. Ngài nói
rằng không thấy một ai ở
68
Cả ba lần Đức
Phật đều từ chối đi
và bảo Tôn giả
Anan đi lấy nước.
Tôn giả đành mang
bát và đi múc nước.
70
“Bạch Đức Thế Tôn, lòng tin của con đối với đạo sĩ Uất Đà Ka
La Ma như bị cuốn theo luồng gió lớn và thả trôi theo dòng nước
cuốn. Vi diệu thay! Hy hữu thay! Bạch Thế Tôn như người dựng
đứng lại những gì bị quăng xuống, phơi bày ra những gì bỉ phủ
kín, chỉ đường cho người lạc hướng, chiếu đèn vào bóng tối.
Chánh pháp đã được
Thế Tôn dùng nhiều
phương tiện để trình
bày. Nay xin cho con
được quy y Phật, Pháp
và Tăng.. Mong cho con
73
“Này Anan, thật vậy, có hai trường hợp màu da của Như Lai
sáng chói và thanh tịnh.
Thế nào là hai ? Đó là đêm
Như Lai chứng Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác và
vào đêm Như Lai nhập niết
bàn.”
74
75
“Này Anan, hãy trải chỗ nằm, đầu hướng về phía bắc giữa
hai cây Sala song thọ. Này Anan nay ta rất mệt mỏi và muốn nằm
nghỉ.” Với chánh niệm, tỉnh giác, Thế Tôn đã nằm xuống phía
hông bên phải như dáng
nằm con sư tử và hai chân
để chồng lên nhau. Khi đó
cây Sala song thọ trổ hoa
trái mùa, tràn đầy cành lá.
Hoa Sala rơi rụng xuống
phủ đầy trên thân Như Lai
76
Sau đó Đức Phật dạy có bốn Thánh tích mà Phật tử nên đến
đảnh lễ tôn kính và cúng
dường để gieo trồng công
đức. Đó là Lâm Tỳ Ni, nơi
Như Lai Đản sanh; Bồ Đề
Đạo Tràng, nơi Như Lai
chứng ngộ Vô Thượng Chánh
Đẳng Giác; Lộc Uyển, nơi
Như Lai chuyển pháp luân; và
Câu Thi Na, nơi Như Lai nhập niết bàn.
78
“Này Anan, những ai với tâm hoan hỷ đến chiêm bái đảnh lễ
những Thánh tích này, sau khi thân hoại mạng chung sẽ sanh về
cõi thiện thú và cõi trời.”
Lúc đó Anan đại diện chư Tăng bạch Như Lai về vấn đề hậu
sự sau Khi Như Lai nhập Vô Thượng Niết Bàn. Đức Phật dạy rằng:
“Này Anan, các ngươi đừng nên quá lo lắng về vấn đề cung kính
Xá Lợi Như Lai. Này Anan, hãy nổ lực tinh tấn hướng về tự lực,
sống không phóng dật. Này Anan, có những học giả Sát Đế Lợi,
Bà La Môn, Phật Tử tín tâm sẽ lo sự thờ phượng xá lợi của Như
79
“Này Anan, thân của Chuyển Luân Thánh Vương được cuốn
tròn trong vải lanh mới. Rồi lại được quấn thêm với vải gai bện,
vải mới và tiếp tục như vậy cho tới năm trăm lớp vải. Rồi thân
được đặt vào một cái
hòm dầu bằng sắt. Hòm
sắt này lại được đặt trong
một hòm sắt khác. Sau
khi đặt hòm lên giàn
thiêu, họ đã tưới đủ loại
hương thơm và xây tháp
80
Đức Phật cũng dạy rằng có bốn bậc thánh xứng đáng được
xây tháp cúng dường. Một là Như Lai, A La Hán Chánh Đẳng
Chánh Giác; Hai là bậc Độc Giác, ba là Thanh Văn và cuối cùng là
Chuyển Luân Thánh
Vương. Sau đó Tôn giả
Anan bạch rằng:
“Này Anan, chớ có nói đây là thị trấn nhỏ bé và hoang vu.
Này Anan thuở xưa có vị vua tên là Đại Thiên Kiến
(Mahasudassana). Vị này là Chuyển Luân Vương trị vì như pháp,
là vị pháp vương thống lãnh bốn thiên hạ, chinh phục hộ trì quốc
dân, đầy đủ bảy báu. Này
Anan, Câu Thi Na
Kushinagar là kinh đô của
vua Đại Thiên Kiến, tên là
Câu Xá Bà Đề (Kusavati).
Phía đông và phía tây
rộng đến 12 do tuần. Phía
82
bắc và phía nam rộng đến 7 do tuần. Này Anan kinh đô Câu Thi
Na này rất giàu có, thịnh vượng và dân cư đông đúc, thực phẩm
giàu có, sung mãn. Này Anan, kinh đô Câu Thi Na ngày đêm vang
dậy chin loại tiếng là tiếng voi, ngựa, xe, trống lớn, trống nhỏ,
tiếng tỳ bà, tiếng xập xỏa, tiếng chuông và tiếng thứ mười là hãy
ăn uống đi..”
Rồi Tôn giả Anan đi vào Câu Thi Na báo với dân Malla rằng
đêm nay vào canh cuối cùng Như Lai sẽ diệt độ. Dân Malla nghe
xong liền lăn lộn dưới đất khóc than thảm thiết: “Thế Tôn nhập
diệt quá sớm! Con mắt pháp của thế gian biến mất quá sớm!”.
83
“Này Anan, pháp và luật Như Lai đã giảng dạy sau khi ta
diệt độ, chính pháp và luật ấy sẽ là đạo sư của các ngươi.”
Trong lễ trà tỳ thân của các A La Hán giác ngộ, thường tìm
thấy được xá lợi (một số người nói nó bằng tinh thể) mà người
mắt thường không tìm thấy được. Từ Sarira được dùng để chỉ
vật thể. Lời tường thật trong Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha
Parinibbana Sutta) rõ ràng là sau cuộc hỏa táng Đức Phật, không
có tro tàn, chỉ có xương Xá Lợi mà thôi. Các nhà khảo cổ cũng đã
tìm thấy những mẩu
xương của Đức Thế Tôn.
Trong Kinh Đại Bát Niết
Bàn (Maha Parinibbana).
Sarira là ám chỉ cho thân
thể của Đức Phật. Sau khi
hỏa táng, ý nghĩa của từ
89
Thờ Xá Lợi Phật thì không phải là tô điểm cho chính bản
thân Phật mà là công đức cho những ai đến đảnh lễ, cúng dường
với lòng thành như đã được nói trong kinh. (Lúc nhớ tưởng: Đây
là tháp thờ Xá Lợi của Như Lai, tâm chúng sanh trở nên an lạc và
rồi sau khi nhục thân của họ tan rã, họ sẽ sanh vào thiện giới,
chư thiên. Đó là tại sao xây tháp ở ngã tư giao lộ)
Khi tin truyền Đức Phật đã nhập niết bàn, những vị lãnh
đạo của tám nước đã
muốn thỉnh cầu Xá
Lợi của Đức Phật. Bà
La Môn Dona đã là
người trung gian và
đọc bài kệ khuyên
nhũ rằng:
90
6/ Bà La Môn Vethadipaka
Mỗi thành phố của tám nước này đều xây tháp để thờ Xá
Lợi Phật. Riêng Bà La Môn Dona cũng xây tháp để thờ bình đong
chia Xá Lợi Phật.
Tộc người Moriya ở
Pipphalavana đã
đến quá trễ nên chỉ
còn nhận được tro
tàn từ gỗ. Họ cũng
xây tháp thờ tro
92
Sau khi Đức Phật nhập diệt chẳng bao lâu thì vùng Câu Thi
Na thuộc bộ tộc Malla bị
sát nhập vào vương quốc
Ma Kiệt Đà. Hai thế kỷ
sau đó Câu Thi Na
Kushinagar không trở
thành trung tâm hưng
thịnh nữa, cho tới khi vua
93
Cả hai nhà chiêm bái Pháp Hiền và Nghĩa Tịnh đều đề cập
đến một ngôi tháp đánh dấu ngài Kim Cang Thủ Bồ Tát
(Vajrapani) đã buồn bã
ném chày kim cang của
mình khi nghe tin Đức
Phật nhập diệt, cách đó
một khoảng là ngôi
tháp kỷ niệm nơi hỏa
tang nhục thể của Đức
96
Câu Thi Na
Kushinagar được
khám phá vào cuối
thế kỷ thứ XIX, nhiều
cuộc khai quật đã cho
biết nhiều tu viện của
các truyền thống Phật
giáo khác nhau đã
hiện diện ở đây một thời gian dài. Nền móng của mười tu viện từ
thế kỷ thứ IV đến thế kỷ thứ XI đã được tìm thấy. Hầu hết những
tàn tích này gần công viên, giữa đó có ngôi tháp to lớn hiện đại
có thờ một tượng Phật nằm. Vào thế kỷ thứ XXI Tăng Ni Phật tử
Miến Điện trùng tu lại ngôi tháp này. Không xa đó là có ngôi tháp
nhỏ đánh dấu nơi Đức Phật trút hơi thở cuối cùng dưới cây Sala
song thọ, nay cũng
được tu bổ. Phía đông
khu vực này có ngôi
tháp Ramabhar lớn.
Theo bia khắc trên bệ tượng Đức Phật nhập diệt có ghi do
Hòa Thượng Haribala thuộc niên đại vua Kamargupta (năm 413-
455) cúng dường. Cũng có bằng chứng cho thấy có sự tu sửa
Chùa Niết Bàn này trong những thế kỷ kế tiếp đó. Ngài Huyền
Trang đã viếng thăm chùa này và cho biết loại chữ khắc thuộc
thế kỷ thứ V. Hiện nay tượng được nằm theo vị trí cũ trong Chùa
Niết Bàn. Cuộc khai quật gần đây, năm 1976 đã tìm thấy nhiều
mẫu xương, than, củi và mẫu sọ người đã cho thấy có thể nơi
đây đã bị Hồi giáo đốt phá
nhiều lần trước khi Câu Thi Na
Kushinagar bị rơi vào quên
lãng. (Nguyên Đán Ất Mùi
1.1.2015, Tâm Sơn sao lục)
103
104
105
106
2. Này Ananda, nay các vị Tỷ-kheo xưng hô với nhau là Hiền giả.
Sau khi Ta diệt độ, chớ có xưng hô như vậy. Này Ananda, vị Tỷ-
kheo niên lão hãy gọi vị Tỷ-kheo niên thiếu, hoặc bằng tên, hoặc
107
4. Này Ananda, sau khi Ta diệt độ, hãy hành tội Phạm đàn
(Brahmadanda) đối với Tỷ-kheo Channa.
- Này Ananda, Tỷ-kheo Channa muốn nói gì thì nói. Chúng Tỷ-
kheo sẽ không nói, sẽ không giảng dạy, sẽ không giáo giới Tỷ-
kheo Channa.
Khi được nói vậy, các Tỷ-kheo ấy im lặng. Một lần thứ hai, Thế
Tôn.... Một lần thứ ba, Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, nếu có một Tỷ-kheo có nghi ngờ hay phân
vân gì về đức Phật, Pháp, chúng Tăng, đạo hay phương pháp,
thời này các Tỷ-kheo, các ngươi hãy hỏi đi. Sau chớ có hối tiếc:
"Bậc Ðạo Sư có mặt trước chúng ta mà chúng ta không tận mặt
hỏi Thế Tôn".
- Bạch Thế Tôn, thật kỳ diệu thay, bạch Thế Tôn, thật hy hữu
thay! Bạch Thế Tôn, con tin rằng trong chúng Tỷ-kheo này,
không có một Tỷ-kheo nào có nghi ngờ hay phân vân gì đối với
Phật, Pháp, chúng Tăng, đạo hay phương pháp.
- Này Ananda, ngươi có tín nhiệm nên nói vậy. Nhưng ở đây, này
Ananda, Như Lai biết rằng trong chúng Tỷ-kheo này, không có
một Tỷ-kheo nào có nghi ngờ hay phân vân gì đối với Phật, Pháp,
chúng Tăng, đạo hay phương pháp. Này Ananda, trong năm trăm
Tỷ-kheo này, Tỷ-kheo thấp nhất
đã chứng được quả Dự lưu,
không còn đọa lạc, chắc chắn
hướng đến Chánh giác.
110
8. Rồi Thế Tôn nhập định Sơ thiền. Xuất Sơ thiền, Ngài nhập Nhị
thiền. Xuất Nhị thiền, Ngài nhập Tam thiền. Xuất Tam thiền, Ngài
nhập Tứ thiền. Xuất Tứ thiền, Ngài nhập định Không vô biên xứ.
Xuất Không vô biên xứ, Ngài nhập định Thức vô biên xứ. Xuất
Thức vô biên xứ, Ngài nhập định Vô sở hữu xứ. Xuất Vô Sở hữu
xứ, Ngài nhập định Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Xuất Phi tưởng
phi phi tưởng xứ, Ngài nhập
Diệt thọ tưởng định.
10. Khi Thế Tôn diệt độ, cùng với sự diệt độ, đại địa chấn động
khủng khiếp, râu tóc dựng
ngược, sấm trời vang động.
Khi Thế Tôn diệt độ, Thiên chủ Sakka, cùng lúc Ngài diệt độ, thốt
lên bài kệ này:
Khi Thế Tôn diệt độ, tôn giả Anuruddha, cùng lúc Ngài diệt độ,
thốt lên bài kệ này:
Khi Thế Tôn diệt độ, những Tỷ-kheo chưa giải thoát tham ái, có
vị thì khóc than với cánh tay duỗi cao, có vị thì khóc than, thân
nằm nhoài dưới đất, lăn lộn qua lại: "Thế Tôn nhập diệt quá sớm,
Thiện Thệt nhập diệt quá sớm, Pháp nhãn biến mất ở trên đời
quá sớm". Còn những Tỷ-
kheo đã diệt trừ tham ái,
những vị này an trú chánh
niệm tỉnh giác, nhẫn nại,
suy tư: "Các hành là vô
thường, làm sao tránh
khỏi sự kiện ấy?"
114
- Thưa Tôn giả Anuruddha, Tôn giả đang nghĩ đến hạng chư
Thiên nào?
Lúc bấy giờ, dân Mallà ở Kusinàrà đang tụ họp tại giảng đường vì
một vài công vụ. Tôn giả Ananda đến tại giảng đường của dân
Mallà ở Kusinàrà, sau khi đến liền nói với dân Mallà ở Kusinàrà:
"Này Vàsetthà, Thế Tôn đã diệt độ, hãy làm những gì các ngươi
nghĩ phải làm".
Dân Mallà cùng với con trai, con gái và vợ, khi nghe tôn giả
Ananda nói như vậy liền đau đớn sầu muộn, tâm tư khổ não, kẻ
thì khóc than với đầu bù
tóc rối, kẻ thì khóc than
với cánh tay duỗi cao, kẻ
thì khóc than thân bổ
nhoài dưới đất, lăn lộn
qua lại: "Thế Tôn nhập
117
Rồi dân Kusinàrà đem theo hương, tràng hoa, tất cả nhạc khí và
năm trăm cuộn vải đi đến Upavattana, tại rừng Sàlà của dòng họ
Mallà, đến tại chỗ thân xá lợi của Thế Tôn, rồi chúng ở lại cả
ngày tôn trọng, cung kính, đảnh lễ, cúng dường thân xá lợi Thế
Tôn với các điệu múa, hát, nhạc, tràng hoa, hương, làm những
bảo cái bằng vải và tràng hoa Mandala.
14. Ðến ngày thứ bảy, dân Mallà ở Kusinàrà suy nghĩ: "Chúng ta
đã tôn trọng, cung kính, đảnh lễ, cúng dường thân xá lợi Thế Tôn
với các điệu múa hát, nhạc, tràng hoa, hương, nay chúng ta hãy
chở thân xác xá lợi Thế Tôn ra ngoài thành về phía Nam và làm lễ
thiêu thân tại chỗ ấy".
- Này Vàsetthà, vì ý định của các Ngươi khác, ý định của chư
Thiên khác.
"Chúng ta đã tôn trọng, cung kính, đảnh lễ, cúng dường thân xá
lợi Thế Tôn với các điệu múa, hát, nhạc, tràng hoa, hương. Nay
chúng ta hãy chở thân xá lợi Thế Tôn ra ngoài thành về phía Nam
và làm lễ thiêu thân tại chỗ
ấy".
- Bạch Tôn giả, ý định của chư Thiên thế nào, ý định của chúng
con cũng vậy.
18. Và các người Mallà ở Kusinàrà sai những người làm công:
Rồi những người Mallà ở Kusinàrà vấn tròn thân Thế Tôn với vải
mới. Sau khi vấn vải mới xong, lại vấn thêm với vải gai bện. Sau
khi vấn với vải gai bện lại vấn thêm với vải mới và tiếp tục như
vậy cho đến năm trăm lớp cả hai loại vải. Rồi đặt thân Như Lai
vào trong một hòm dầu bằng
sắt, đậy hòm sắt này vào một
hòm sắt khác, dựng lên một
giàn hỏa gồm mọi loại hương và
đặt thân Thế Tôn trên giàn hỏa.
124
Lúc bấy giờ có một tà mạng ngoại đạo lấy một hoa Mandàrava ở
Kusinàrà và đang đi trên một con đường đến Pàvà.
- Này Hiền giả, Hiền giả có biết bậc Ðạo sư chúng tôi không?
- Này Hiền giả, tôi có biết. Sa-môn Gotama đã diệt độ cách hôm
nay một tuần. Từ chỗ ấy, tôi được
hoa Mandàrava này.
20. Lúc bấy giờ, Subhadda được xuất gia khi đã lớn tuổi đang
ngồi trong hội chúng này. Subhadda được xuất gia khi đã lớn tuổi
nói với những Tỷ-kheo ấy:
- Thôi các Hiền giả, chớ có sầu não, chớ có khóc than. Chúng ta
đã được thoát khỏi hoàn toàn vị Ðại Sa-môn ấy, chúng ta đã bị
phiền nhiễu quấy rầy với những lời: "Làm như thế này không hợp
với các Ngươi. Làm như thế này
hợp với các Ngươi". Nay những
gì chúng ta muốn, chúng ta làm,
những gì chúng ta không muốn,
chúng ta không làm.
126
21. Lúc bấy giờ bốn vị tộc trưởng Mallà gội đầu, mặc áo mới với ý
định châm lửa thiêu giàn hỏa Thế Tôn nhưng châm lửa không
cháy.
cháy?
- Này các Vàsetthà, ý định của chư Thiên như sau: "Tôn giả Mahà
Kassapa nay đang đi giữa đường giữa Pàvà và Kusinàrà cùng với
đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị. Giàn hỏa Thế Tôn chỉ
được đốt cháy khi tôn giả Mahà Kassapa cúi đầu đảnh lễ Thế
Tôn".
- Bạch Tôn giả, ý định chư Thiên như thế nào, hãy làm y như
vậy.
23. Khi thân Thế Tôn đã cháy, từ da ngoài cho đến da mỏng, thịt,
dây gân hay nước giữa các khớp xương, thảy đều cháy sạch
không có tro, không có than, chỉ có xương xá lợi còn lại.
Rồi các người Mallà xứ Kusinàrà đặt xá lợi Thế Tôn trong giảng
đường, dùng cây thương làm hàng rào, dùng cây cung làm bức
thành xung quanh và trong bảy ngày tôn trọng, cung kính, đảnh
lễ, cúng dường với các điệu
múa, hát, nhạc, vòng hoa,
hương.
Các người Mallà ở Pàvà nghe tin Thế Tôn đã diệt độ liền gửi một
sứ giả đến các người Mallà ở Kusinàrà: "Thế Tôn là người Sát-đế-
lỵ, chúng tôi cũng là người Sát-đế-lỵ. Chúng tôi cũng xứng đáng
được một phần xá-lợi Thế Tôn. Chúng tôi cũng sẽ dựng tháp và
tổ chức các nghi lễ đối với xá-lợi Thế Tôn".
- Này Tôn giả Bà-la-môn, Ngài hãy phân chia xá lợi ra tám phần
đồng đều.
Những người Buli ở Allakappa cũng xây dựng tháp trên xá lợi Thế
Tôn tại Allakappa và tổ chức lễ cúng dường.
Những người Koli ở Ràmagama cũng xây dựng tháp trên xá-lợi
Thế Tôn tại Ràmagama và tổ chức lễ cúng dường.
Như vậy có tám tháp xá-lợi, tháp thứ chín trên bình (dùng để
đong chia xá-lợi) và tháp thứ mười trên tro (xá-lợi).
28.
Tại Ràmagàma.
Một răng Phật được cúng,
Tại cõi Tam Thiên giới,
Một tại Gandhàra,
Một tại Kalinga.
Một răng, vua Long vương.
Tự mình riêng cúng dường.
Quả đất được chói sáng,
Với hào quang xá-lợi,
Với lễ vật cúng dường.
Hạng thượng phẩm, thượng đẳng.
Xá-lợi đấng Pháp Nhãn.
Như vậy được cúng dường,
Bởi những bậc tôn trọng
Cúng kính lễ cúng dường,
Bởi những bậc tôn trọng
Cúng kính lễ cúng dường.
Bởi Thiên, Long, Nhơn chủ,
Bởi bậc Tối thượng nhơn.
Các người hãy chắp tay,
Cung kính lễ cúng dường.
Khó thay sự chiêm ngưỡng.
138
Xá Lợi Phật hiện diện từ lúc Phật vừa đắc quả A Nậu Đa La
Tam Miệu Tam Bồ Đề, chứng quả Chánh Đẳng Chánh Giác cho
đến lúc Đức Phật diệt độ. Xá lợi đầu tiên là Xá Lợi tóc Phật cho
hai thương buôn. Xá Lợi
tóc có đến 900,000 Xá Lợi
và Xá Lợi lông là 8000,000,
và Xá Lợi nhục thể gồm
84,000 viên đựng đầy
trong 8 hộc và 4 đấu. Xá
Lợi được phụng thờ tại
141
- Xá Lợi màu trắng (White Sharira), kích thước bằng hạt đậu,
đó là Xá Lợi phần trên đầu.
- Xá Lợi màu xanh thẩm (Blue Barira), kích thước bằng hạt
đậu nhỏ, là Xá Lợi tạo nên từ khoảng cách những xương sườn.
- Xá Lợi màu vàng (Yellow Churira), kích thước nhỏ bằng hạt
Màu sắc của Xá Lợi Phật cũng là màu sắc của hào quang tỏa
sáng quanh Đức Phật tiêu biểu cho 5
đức tính:
Theo căn bản của lời Phật dạy cho Anan khi Tôn Giả Anan
hỏi Phật ở Kỳ Viên Tinh Xá (Jetavana) thuộc thành Xá Vệ
(Sravasti) là khi có người hỏi thăm Phật, mà Phật vắng nhà thì trả
lời sao ? Phật chỉ vào cây Bồ Đề mà
bảo Anan “Thấy cây Bồ Đề là thấy
Phật” để tăng thêm năng lượng, Phật
đã ngồi thiền tọa dưới gốc Bồ Đề này
suốt đêm. Trong nhiều lần hành
hương Phật tích, chúng tôi đã có dịp
chiêm bái, đảnh lễ cây Bồ Đề này.
158
Một truyền thuyết huyền thoại khác kể rằng Tôn giả Phú Lâu Na
(Punna, Purnavadana) còn gọi là Pura Maitrayani Putra, một trong
mười đại đệ tử của Đức Phật, người giỏi thuyết pháp số một. Quê
hương của người ở vùng đất Sunaparanta; Sau
khi được thọ giới, trở về quê gặp duyên lành
ngộ đạo. Ông nhớ ra rằng đồng bào của ông
không có duyên gặp được Đức Thế Tôn như
từng mong ước nên ông dùng thần thông bay
về thành Xá Vệ (Sravasti) kính mời Đức Thế Tôn
viếng thăm quê hương của ông, Phật nhận lời.
167
là ở vườn Lâm Tỳ Ni
(Lumbini) và ở Bồ Đề
Đạo Tràng (Bodhgaya).
Ngoài ra, tại Bồ Đề Đạo
Tràng còn có Kim Cang
Tòa (Vajrasana) là nơi
Phật ngồi thiền định 49
ngày đêm dưới gốc cây
Bồ Đề đạt đạo giác ngộ. “Trong thời xa xưa khi đời Hiền kiếp đã
đến lúc viên mãn, khi trái đất hình thành thì Tòa Kim Cang này
đã xuất hiện. Kim Cang Tòa Vajrasana nằm ngay trung tâm của
vũ trụ và đi sâu vào kim luân rồi ấn sâu xuống lòng đất. Nó được
tạo thành bởi kim cương. Chu vi
khoảng chừng 100 bước. Trên tòa
này có 1,000 vị Phật đời Hiền kiếp
đã ngồi và nhập Kim Cang Định, vì
vậy mà tòa này được gọi là tòa
Kim Cang. Đây là nơi Đức Phật đã
đạt giác ngộ, và vì vậy nó cũng
được gọi là Bồ Đề Đạo Tràng.”
(Thích Nữ Giới Hương, Ban Mai Xứ
Ấn, trang 66.)
170
Vào khoảng năm 260 TCN Ashoka tiến hành cuộc chiến
tranh phá hoại chống lại nhà nước Kalinga (ngày nay là Odisha).
Ông đã chinh phục Kalinga, mà tổ tiên ông (từ Chandragupta
Maurya) chưa bao giờ thực hiện được điều đó. Ông đặt cơ quan
quyền lực của đế chế ở Magadha (nay là Bihar). Ông chấp nhận
Phật giáo sau khi chứng
kiến nhiều chết chóc
trong chiến tranh
Kalinga, mà bản thân ông
đã thực hiện ra ngoài
mong đợi chinh phục của
172
Sau khi thu gom Xá Lợi của 7 Bảo tháp, Vua Asoka chia làm
84,000 phần, mỗi phần bao gồm một hộp (Karanda), một cái lư
(Urn:Kumbha), một băng vải (Patta)để cột nắp lư. Phần Xá Lợi
này được cất giữ trong 84,000 Bảo tháp thuộc vương quốc Khổng
Tước Mauryar hay bất kỳ nơi đâu mà dân số ở đó phải hội đủ
100,000 người. quyết định này dẫn đến hai sự kiện. Một là nước
Taksasila (Pakistan) đòi hỏi phải có 36 hộp xá lợi tương ứng với
dân số. Để ngăn chận những yêu sách quá lố của nhiều tiểu quốc
khác, A Dục Vương Asoka khiển trách nên Taksasila rút lại yêu
sách. Hai là vua Asoka muốn 84,000 Bảo tháp phải xây dựng
hoàn tất cùng ngày, cùng giờ nên phải nhờ đến Yasas thuộc
vương quốc Kukkutamara. Từ đó tên Asoka
hung bạo (Candasoka:Fierce) được đổi thành
tên Asoka đạo pháp (Dharmasoka). Đây là kỷ
nguyên mới Bảo tháp Xá Lợi bắt đầu.
177
178
Trong cuộc tranh đấu Phật Giáo chống kỳ thị tôn giáo và gia
đình trị của chế độ Ngô Đình Diệm vào mùa Phật Đản 1963 là
thời kỳ sôi nổi nhất. Hòa Thượng Thích Quảng Đức về ngụ tại
chùa Ấn Quang để tiện bề tham gia tranh đấu.
Ngày 30 tháng 5 năm 1963 Hòa Thượng tham gia cuộc biểu
tình tại công trường
Lam Sơn trước quốc
hội, tới 5 giờ chiều về
Chùa Xá Lợi dự cuộc
tuyệt thực. Dịp này
Hòa Thượng Thích
Quảng Đức trình lên
ủy ban Liên Phái Bảo
180
Đại chúng hiện diện không ai biết một biến cố quan trọng
sắp xảy ra. Sau khi Phật tử về hết, tại giữa chánh điện, Hòa
Thượng Quảng Đức mới tâm sự với hai Đại Đức rằng: “Vì đạo
pháp tôi xin hiến thân giả huyễn này để cho Pháp Nạn được giải
thoát. Ngày mai này tôi sẽ từ giả cõi đời, hẹn gặp hai thầy ở cảnh
giới cực lạc của Đức Phật A Di Đà. Sau khi tôi tự thiêu để hiến
dâng cho Phật Pháp, xin các thầy lưu ý, vì tôi không thể trực tiếp
nói với các ngài lãnh đạo:
Ba là, ngày di quan tài của tôi, nếu các thầy có cảm thấy
triệu chứng gì lạ lạ, có thể là ngủ mộng thấy, có thể là cảm giác
hay triệu chứng gì thì nên đình chỉ ngay. Dời việc di quan qua
ngày khác.
Lịch sử chùa Xá Lợi: Năm 1852 phái đoàn Phật giáo Tích
Lan đi dự phiên họp lần thứ II của Hội Phật Giáo Thế Giới (World
Fellowship of Buddhists) tổ chức
tại Tokyo, Nhật Bản có phụng
thỉnh theo một viên ngọc Xá
Lợi của Đức Phật để tặng Phật
giáo Phù Tang (Japan). Phái
đoàn đáp tràu La Marseillaire
phải ghé bến Sài Gòn 24 giờ.
191
Với sự thiết tha của Phật giáo đồ Việt Nam như thế, sang
năm sau 1953; Đại Đức Nara Maha Thera, tọa chủ chùa
Vajirarama ở Tích Lan sang Việt Nam phụng thỉnh theo 3 viên Xá
Lợi và ba cây Bồ Đề con để dâng cúng cho ba nơi: Phật giáo
Nguyên Thủy (Chùa Kỳ Viên). Phật giáo Bắc Tông, và Phật giáo
Cao Miên (Theo lời tuyên bố
của Đại Đức lúc đến phi trường
Tân Sơn Nhât. Đại Đức Nara
Maha Thera là đệ nhị Tổ sư
của ngành Nhân Điện, hiện
thịnh hành ở Việt Nam)
193
Sau cuộc phân chia Xá Lợi, phần của Phật giáo Bắc tông
được Hội Phật Học cùng các đoàn thể bạn hợp sức cung nghinh
ra nhà kiếng cho công chúng chiêm bái trong ba ngày, ba đêm.
Và ngay tại đây, Đại Đức Narada Maha Thera làm lễ kính trao cho
ông Ưng An, khâm sai của Hoàng Thái Hậu. Ba ngày chiêm bái đã
xong, một phái đoàm
gồm có Đại Đức Narada,
Đại Đức Bửu Chơn, ông
Ưng An, ông Lê văn
Hoạch phó Thủ tướng
kiêm Tổng trưởng thông
tin, ông Nguyễn văn
195
Gần hai năm sau, đức Từ Cung quyết định giao cho Tổng
hội Phật giáo Việt Nam trách nhiệm phụng thờ Ngọc Xá Lợi. Tổng
hội xét công lao của Hội Phật học Nam Việt, đã ủy nhiệm cho hội
thờ phụng. Lúc ấy trụ sở của hội còn đặt tại chùa Phước Hòa ở
khu Bàn cờ, cũ kỷ và
chật hẹp.
Rất ngạc nhiên vì đây là lần đầu tiên tôi thấy Xá Lợi của một
vị cao Ni. Trong đời tôi chưa bao giờ nghe hoặc thấy Xá lợi của
một vị nữ xuất gia. Theo lịch sử truyền thừa Phật Giáo, rất hiếm
các vị cao Ni để lại Xá Lợi. Trong Đại Chính Tân Tu Quyển Tỳ
Kheo Ni Truyện chỉ viết về hai vị Cao Ni có để lại Xá Lợi. Nói như
vậy không phải là thiếu các bậc Cao Ni đắc đạo, chứng Thánh
quả hay ngộ được tinh yếu của giáo lý Đại Thừa. Nhưng rất hiếm
thấy xá Lợi của các vị Cao Ni thờ ở các chùa hoặc ở Tổ đình. Lý
do dễ hiểu là ngày xưa các vị tổ
khai sáng một tông môn hay tổ
đình lớn ở Trung quốc cũng như
Việt nam đều là các bậc cao
tăng. Xá Lợi của Sư Bà đã để lại
cho Ni chúng và Phật tử như
204
Trưởng Lão Thích Giác Lập thích lặng lẽ tu thiền ở miền Thất
sơn, từ núi Cấm, núi Dài, Nhà Bàng, núi Két, Trưởng Lão sống
trong hang đá, chòi tranh với đời sống đạm bạc. Sau lại về tu ở
Châu Viên, Dinh Cố, Trưởng Lão Giác
Lập hành thiền nghiêm mật không ai
sánh kịp. Trưởng Lão Giác Lập là một
trong những vị đệ tử lớn của Đức Tôn Sư
Minh Đăng Quang. Trưởng Lão là
209
210
Về phần tôi thì một người bạn, anh Hồ văn Lâm, chủ
tịch Hội người Việt Dayton và vùng phụ cận, nhờ hướng dẫn đến
nhà quàn Newcomer Funeral
Home để viếng xác và điếu
tang cụ bà Thích Nữ Thanh
Chân Ngô thị Nguyệt. Khi
viếng linh cữu cụ bà tôi có
nhận xét như sau: quanh nhà
216
217
218
Một điều kỳ dị khác là tôi thấy tay của bà cụ dù bọc kín dưới
lớp mền và phần dưới quan tài có mang một vòng tay cẩm thạch.
Tôi đã thắc mắc hỏi con gái bà cụ là tại sao cho người chết mang
nữ trang như vậy? Chị rất hốt hoảng và sửng sốt hỏi tôi có thần
thông nhìn xuyên suốt mọi thứ phải không(Thần nhãn?) Sự thực
thì tôi chỉ thấy với nhục nhãn như thế
và hỏi mà không có ý kiến gì hết. Chị
cho biết vì vòng cẩm thạch nhỏ hơn
bàn tay nên không thể lấy ra được
đành phải để lại cho bà cụ mang theo.
219
220
221
222
CHÚ ĐẠI BI
MAHAKARUNA DHARANI
Nam-mô a di đà bà dạ.
Đa tha dà đa dạ. Đa địa dạ tha
A di rị đô bà tỳ. A di rị đa tất đam bà tỳ
A di rị đa tì ca lan đế. A di rị đa tì ca lan đa
Dà di nị dà, dà na. Chí đa ca lệ ta bà ha
232
thanh, hương, vị, xúc, pháp), ngũ uẩn giai không là vượt qua mọi
khổ đau, ách nạn (kinh Bát Nhã).
4. BỒ ĐỀ TÁT ĐỎA BÀ DA: là ngài Bất Không Quyên Sách
Bồ Tát áp lãnh đại binh. Bồ Đề là giác. Tát Đỏa là hữu tình. Bà Da là
lễ. Ý nghĩa là kính lễ giác hữu tình. Đức Bồ Tát muốn động hóa thân
thể chúng sinh làm họ sớm giác ngộ tu tâm, học đạo, thấy được vô
ngã, vô thường, từ bỏ mọi dục lạc, lợi danh, đạt cảnh giới niết bàn.
5. MA HA TÁT ĐỎA BÀ DA: ngài Chủng Tử Bồ Tát tự tụng
thần chú. Ma Ha là lớn, nhiều, thắng. Tát Đỏa là dũng mãnh, hữu
tình. Bà Da là lễ. Kính lễ đại dũng mãnh tất được giải thoát. Tất cả
chúng sanh nếu biết giác ngộ tu trì thì tất được giải thoát.
6. MA HA CA LÔ NI CA DA: là bản thân Bồ Tát Mã Minh tay
cầm bạt chiết la. Ca Lô là bi thương, Ni Ca là tâm, Da là lễ. Nghĩa
của câu là Bồ Tát tự mình giác ngộ, tự cứu độ mình, giác ngộ và tế
độ người. Khi ngộ được sắc tướng đều là không thì hết khổ não và
sang bên bờ kia, bờ giác ngộ (Yết đế,yết đế, ba la yết đế. Ba la sâm
yết đế, Bồ Đề Tát bà ha. Yet te, yet te, para yet te, parasam yet te,
boddhi svaha!)
7. ÁN: các vị quỷ thần chắp tay nghe tụng chú. Án là diệu
âm, mẹ gốc của chân ngôn gọi là quy mệnh, gồm hết thảy bản mẫu
của chân ngôn, và là nguồn gốc của kiếp nhân sinh. Đây là lời chú
của Mật Tông có nghĩa quy mệnh, nhiếp phục.
234
Hải có Thạch Thiên Cung của Quán Tự Tại Bồ Tát. Ý chung là tâm
với đạo cùng hòa hợp thì được tự tại bằng cách tĩnh tọa thiền định
làm thân tâm hòa hợp, “đầu thẳng mình ngay, tâm định khí bình”
thì tâm thân thống nhất.
12. NAM-MÔ NA RA CẨN TRÌ: là bản thân Thanh Tịnh
Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na Phật, khi tụng niệm cần phải hết sức dụng
tâm. Nam-Mô là quy mệnh. Na Ra là hiền. Cẩn Trì là yêu. Ý câu là
quy y lòng từ bi, hiển ái, lòng cung kính, lòng Vô Thượng Bồ Đề.
13. HÊ RỊ MA HA BÀN ĐÁ SA MẾ: là Dương Minh Dương
Đầu Thần Vương và mọi thiên ma làm quyến thuộc. Hê Rị là tâm,
tâm không bị ô nhiễm. Ma Ha Bàn Đá Sa Mế là đại quang minh,
trường chiếu minh, không quan tâm. Ý câu là những kẻ công đức
thường được Cát Thần che chở, muôn loài ma quỷ không thể xâm
phạm.
14. TÁT BÀ A THA ĐẬU DU BẰNG: bản thân Cam Lộ Bồ
Tát cũng là đức Quán Thế Âm, cùng các bộ lạc được coi là quyến
thuộc. Tát Bà là hết thảy, bình đẳng. A tha Đậu là giàu có, an vui.
Du bằng là nghiêm túc, thanh tịnh, không kiến thủ. Ý câu là hết
thảy mọi pháp đều thanh tịnh, đạo pháp vô biên, lợi ích cho lục đạo
tứ sinh, tất cả thấm nhuần nước cam lồ.
15. A THỆ DỰNG: bản thân Phi Bằng Dạ Xoa Thiên Vương
tuần lịch bốn phương để soi xét mọi điều thị phi. A Thệ Dựng là
236
pháp. Đối với những người chưa được nghe pháp mà xua đuổi được
mọi ác niệm, thành tâm tu niệm Chú Đại Bi thì được chư Thiên, Bồ
Tát và mười phương chư Phật độ trì.
16. TÁT BÀ TÁT ĐÁ NA MA BÀ DÀ: Là Ba Gia Đế Thần
Vương, thân đen, cao lớn, khố da beo tay cầm thiết xoa. Tát Bà Tát
Đá là hết thảy Đại Thân Tâm Đức Bồ Tát. Na Ma là không phân biệt
đẳng cấp. Bà Dà là đức Thế-Tôn. Ý của câu là chỉ chư Phật mười
phương. Phật pháp bình đẳng, vô biên mọi chúng sinh đều có thể
thành Phật
17. MA PHẠT ĐẠT ĐẬU: là bản thân ngài Quân Trá Ly Bồ Tát
(Tra Lợi) có 3 mắt, tay cầm thiết luân và tay cầm giây.Ma Phạt Đạt
Đậu là thân thích của trời, bạn của đời (Thiên thân thế hữu), ý của
câu là quy cầu thánh hiền gia hộ.
18. ĐÁT ĐIỆT THA: là kiếm ngữ của bản thân đức A La. Có
nghĩa là lòng chí thành, tâm và đạo hợp nhất. Đát Điệt Tha là lời
thuyết chú chỉ các pháp môn của đức Bồ Tát gồm có thánh hiệu, bi
tâm, chân ngôn, chủng tử, thủ ấn, trí nhãn.
19. ÁN A BÀ LÔ HÊ: bản thân ngài Quán Thế Âm Bồ Tát, tay
chắp ngang ngực. Án có nghĩa là dẫn đường, sinh ra. A Bà Lô Hê có
nghĩa là Quan Âm. Ý của câu này là đạo pháp không ngoài sự thanh
tịnh. Lắng trong, không ô nhiễm bởi tạp niệm.
237
Thủ Nhãn Bồ Tát. Câu này biểu thị hết thảy tinh túy của đạo pháp.
Không vướng mắc bụi trần, tà niệm, vọng tưởng đó là những ma
chướng làm rối loạn thân tâm người tu học. Đà ra Đà ra cũng có
nghĩa là không bị vẫn đục bởi bụi trần, nếu thế là có thể lên được
cõi trời.
31. ĐỊA RỊ NI: Ngài Sư Tử Vương Bình Quán Thế Âm Bồ
Tát hiện thân. Địa rị ni nghĩa là hết sức dũng cảm, tịch diệt và trong
sạch, che chở, bẻ tung ra. Đó là hóa thân của Thiết Câu thủ Nhãn
Bồ Tát. Ý của câu là hết thảy chúng sinh đều được độ hóa.Đức
Quán Thế Âm chuyên tâm độ nữ giới, con gái nếu phát tâm tu đạo
thời hết thảy đều được trời Phật gìn giữ, lại được long vương thiên
thần ủng hộ.
32. THẤT PHẬT RA DA: là Tích Lịch Bồ Tát, quyến thuộc
hàng phục mọi loài ma quỷ. Thất Phật Ra Da là Quán Thế Âm Tự
Tại phóng ra ánh sáng và hóa diệm quang, chính là hóa thân của
đức Nhật Cung Thủ Nhãn Bồ Tát. Câu này là chân ngôn của Bồ Tát,
chủ yếu tuyên dương điểm huyền diệu của Phật Pháp, hy vọng
người đời tu đạo đều được chứng quả.
33. DÁ RA DÁ RA: bản thân ngài Tồi Toái Bồ Tát tay cầm
bánh xe vàng. Dá ra Dá ra có nghĩa là hành động, đó chính là hóa
thân của Bảo Đạt Thủ Nhãn Bồ Tát. Ma chướng không gì khác hơn
là lòng tư dục của con người, vì vậy cần phải sớm nghe chánh pháp
240
để phá vỡ mọi tà vọng. Đức Bồ Tát coi hết thảy chúng sanh đều bị
mọi thứ ma quỷ cám dỗ, không thể tự giải thoát, Ngài đặc biệt hiện
ra sắc tướng giận dữ để cứu độ mọi người.
34. MẠ MA PHẠT MA RA: là ngài Đại Hàng Ma Kim Cang
tay cầm bánh xe vàng. Mạ Mạ có nghĩa là điều mà ta đang trụ trì.
Đó chính là hóa thân của Bạch Phất Thủ Nhãn Bồ Tát. Phạt Ma Ra là
tối thắng ly cấu, vô tỷ như ý (rất tốt cách ly bụi bặm, như ý không
gì sánh được) ý câu là cõi đạo khó biết, thần diệu khó lường.
35. MỤC ĐẾ LỆ: Chư Phật chắp tay nghe tụng chân ngôn.
Mục Đế Lệ có nghĩa là giải thoát, đó chính là hóa thân của đức
Dương Chi Thủ Nhãn. Ý câu là lời chân ngôn nói về sự nhắm mắt,
giữ lòng trong sạch, và lặng yên gìn giữ.
36. Y HÊ Y HÊ: Ma Hê Thủ La Thiên Vương. Y Hê Y Hê là
thuận giáo, thuận triệu, tâm đáo (thụân theo lời dạy, thuận theo khi
được triệu đến). Đó chính là hóa thân của đức Độc Lâu Trượng Thủ
Nhãn Bồ Tát. Ý câu là người tu học phải an phận giữ mình theo lẽ
tự nhiên. Nếu vọng niệm không phát sanh thì bản thể trong sáng,
dần dà lâu ngày sẽ được đại giải thoát.
37. THẤT NA THẤT NA: là ngài Ca Na Ma Tướng Thiên
Vương. Thất Na Thất Na là bực đại trí hoằng thệ, chính là hóa thân
của đức Bảo Kính Thủ Nhãn Bồ Tát. Ý câu này là đạo tâm luôn luôn
241
kiên định sinh ra đại trí tuệ. Đây là chân ngôn của đức Bồ Tát muốn
triển khai làm sáng tỏ cái tôn chỉ từ chỗ định tâm mà sinh ra trí tuệ.
38. A RA SÂM PHẬT RA XÁ LỢI: là đức Quán Thế Âm Bồ
Tát một tay cầm khiên, một tay cầm cung tên. A Ra Sâm chính là
Chuyển Luân Pháp Vương là Hóa Phật Thủ Nhãn. Phật Ra Xá Lợi là
giác thân tứ, đó là Sở Châu Thủ Nhãn, ý câu là hóa thân Bồ Tát.
39. PHẠT SA PHẠT SÂM: là Kim Khôi Đại Tướng tay cầm
chuông lắc (Cái Linh). Phạt Sa Phạt Sâm là tiếng nói, tiếng cười vui,
bậc trượng phu, sĩ phu. Đó chính là hóa thân của Bảo Cung Thủ
Nhãn Bồ Tát. Niềm vui của người tu phát xuất từ việc tu tập gian
khổ, nếu chịu đựng được thì sẽ vượt qua và đạt đến bờ cực lạc.
40. PHẬT RA XÁ DA: là bản thân đức Phật A Di Đà, sư
chủ của đức Quán Thế Aâm Bồ Tát. Phật Ra chính là tấm thân. Xá
Da là đại tượng, ý là sự tự giác của tượng vương. Đó chính là hóa
thân của đức Tử Liên Hoa Thủ Nhãn Bồ Tát. Câu này là chân ngôn
của đức Bồ Tát khuyên chúng sinh phát tâm Bồ Đề tu trì đạo pháp
huyền diệu, xem mọi sắc tướng là không, lấy đạo là tâm thì mười
phương chư Phật sẽ thấy rõ mặt.
41. HÔ LÔ HÔ LÔ MA RA: là Bát Bộ Quỷ Thần Vương.
Còn có nghĩa là làm phép được như ý, làm phép không xa lìa bản
ngã. Đó chính là hóa thân của Ngọc Hoàn Thủ Nhãn Bồ Tát. Hô Lô
là hiện thần quỷ tướng. Hô Lô Hô Lô là nhân hiện thần quỷ tướng
242
thân của đức Bảo Kiếm Thủ Nhãn Bồ Tát. Ý toàn câu là mọi người
nên mau chóng kiên quyết tu học.
51. BÀ DẠ MA NA: bản thân ngài Bảo Kim Quang Luân Bồ
Tát tay cầm cây Bạt chiết la. Còn có nghĩa là danh văn, danh xưng,
nghe mười phương, danh nghĩa để thành tựu; là hóa thân của đức
Bảo Kiếm Thủ Nhãn Bồ Tát. Còn có nghĩa thành tựu
52. TA BÀ HA: bản thân ngài Tam Đầu Thiện Thánh Già
Phu Ngãi Long ngồi kiết già trên mình con Ngại Long. Còn có nghĩa
là thành tựu, điềm lành, viên tịch, tiêu tai, tăng ích và vô trú. Tất cả
có 6 nghĩa. Ta Bà Ha là câu dùng kết thúc lời chân ngôn có nghĩa là
là hết thảy pháp là bất sinh bất diệt, vốn rất tịch tĩnh, tự nó có tính
niết bàn.
53. TẤT ĐÀ DẠ: là ngài Xá Lợi Phất Bồ Tát. Tay giữ ấn
Liên Hoa Thủ. Thông đạt, cai quản hết thảy pháp môn. Đạo pháp vô
biên, chúng sanh thoát vòng danh lợi, thành tựu
54. TA BÀ HA: bản thân ngài Hằng Hà Sa Bồ Tát, tiếp ý là
ngài đứng trên đầu cá ngao dạo trên biển pháp vô biên.
55. MA HA TẤT ĐÀ DẠ: bản thân Phong Quang Bồ Tát
tay cầm phướn đỏ. Còn có nghĩa là mọi loài khắp nơi đều thành tựu,
là hóa thân của đức Bảo kình Thủ Nhãn Bồ Tát
56. TA BÀ HA: là Mục Kiền Liên Bồ Tát, mang tích trượng
mặc áo cà sa.
245
oán ma. A tất đà dạ là thành tựu không gì sánh được. Ý câu là lấy
kim cương pháp luân để hàng phục oán ma và được sự thành tựu
không gì so sánh được.
69. TA BÀ HA: là Chư Thiên Ma Vương tay giơ xà thương
70. BA ĐÀ MA YẾT TẤT ĐÀ DẠ: là đức Linh Hương Bồ
Tát tay bưng lò như ý. Ba đà là hoa sen đỏ. Ma yết là thiện thắng.
Tất đà dạ là hết thảy đều thành tựu. Đó là hóa thân của đức Hồng
Liên Hoa Thủ Nhãn Bồ Tát. Đây là chân ngôn của Bồ Tát ngồi ở Bảo
sen tọa phóng ra ánh hào quang, để trao cho mọi người ghi nhận.
Công dụng của bài Chú Đại Bi hết sức rộng lớn không gì sánh được.
71. TA BÀ HA: là Tán Hoa Thiên Bồ Tát thiên diệp bảo
liên. Ngài đang rưới hoa sen ngàn cánh.
72. NA RA CẨN TRÌ BÀN ĐÀ RA DẠ:Là đức Phú Lâu Na Bồ
Tát tay bưng chậu. Na Ra Cẩn Trì là giữ sự hiền thủ. Bàn Đà Ra Dạ
là Thánh Tôn Quán Tự Tại. Là hóa thân của đức Thí Vô Úy Thủ
Nhãn Bồ Tát. Ý câu là chỉ có đức Duy Ngã Quang Vương Quán Tự
Tại thường ra tay vô úy, trừ khử hết thảy mọi sợ hãi, khiến mọi sự
yên ổn.
73. TA BÀ HA: là đức Đà La Ni Tử Bồ Tát tay bưng quả.
74. MA BÀ RỊ THẮNG YẾT RA DẠ: là đức Tam Ma Thiền
La Bồ Tát Già Phu Luân Chưởng Bảo Đăng (ngồi kiết già với đôi tay
luân chưởng bảo đăng). Ma Bà Rị Thắng là bậc đại dũng, anh hùng.
248
Yết Ra Dạ là sinh tính, bản tính. Ý câu là nếu quy về tính gốc là đại
dũng, thời việc tu hành có thể thành tựu. Đó là hóa thân của Thiên
Tý Thủ Nhãn Thiên Thủ Thiên Nhãn Bồ Tát.
75. TA BÀ HA: là đức Đại Ca Diếp Bồ Tát tay cầm tràng hạt.
76. NAM-MÔ HẮC RA ĐÁT NA ĐÁ RA DẠ DA: là bản
thân đức Hư Không Bồ Tát tay cầm hoa, ngồi trên gộp đá. Đức Bồ
Tát dặn dò 3 điểm: Người đọc bài chú này cần phải hết sức hàng
phục thân tâm, khiến cho lòng không bị buông thả. Phải chú tâm
thiền định, tham ngộ việc lớn sinh tử, quan sát mọi người trên thế
gian. Khi đã quy y Phật pháp thì không thể làm hại chân như như
chỉ lo ăn chay, niệm Phật, tụng kinh mà đầu thì trống rỗng rồi cứ
cho như vậy là tu hành !!
77. NAM-MÔ A RỊ DA: là bản thân ngài Phổ Hiền Bồ Tát
ngồi thiền tọa trên lưng con Bá Bảo Hương Tượng.. A Rị là bậc
thánh. Da là lễ. Ý câu là quy mệnh và quy lễ lên bậc Thánh Giả.
Những người trì niệm Chú Đại Bi sẽ có lúc chợt nhiên tỉnh ngộ, sửa
lỗi và đổi mới. Cần thẩm cầu Phật pháp, cần sửa trị tâm bệnh, trừ
hết vọng tưởng. Nếu như niệm lúc nào thời tập trung tư tưởng lúc
ấy, mặc kệ mọi động tĩnh bên ngoài, không phân tâm tư tưởng thì
khi tĩnh đến mức vô ngã, khi động thời vô thường. Như vậy mọi tà
niệm sẽ không phát khởi.
249
78. BÀ LÔ YẾT ĐẾ: là đức Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đang chỉ
một ngón tay lên trời. Bà Lô Yết Đế là Quan, Quang, quang sát. Ý
của câu là đa pháp huyền diệu vô cùng, nếu tu được thì từ chỗ
thanh tịnh có thể tới nơi cực lạc.
79. THƯỚC BÀN RA DẠ: là đức Quán Thế Âm Bồ Tát cầm
đóa kim liên ngàn cánh hiễu lý “nhãn căn thọ sắc”. Ý câu là người tu
học muốn thành pháp thân thanh tịnh, cần phải tảo trừ nhãn căn
mới có thể xuất hiện vô thường diệu cảnh.
80. TA BÀ HA: là đức Quán Thế Âm Bồ Tát lắng tai phân
biệt tiếng vàng rơi trên cánh tay. Hiểu lý “Tai phân biệt tiếng”
81. ÁN TẤT ĐIỆN ĐÔ: là đức Quán Thế Âm Bồ Tát mở
tay ngũ luân. Hiểu lý “Mũi ngửi các mùi”
82. MẠN ĐÀ RA: ngài Quán Thế Âm Bồ Tát xòe bàn tay
Đâu La Miên (cầm quyết Đâu La Miên Thủ). Hiểu lý “Lưỡi nếm vị”
83. BẠT ĐÀ DẠ: là đức Quán Thế Âm Bồ Tát đang giải mọi
xúc giác tiếp nhận tâm căn ở trong người, ngài đang bưng bình
hương trầm hiểu lý “Thân căn thọ xúc”
84. TA BÀ HA: là mọi phép tắc của đức Quán Thế Âm
phân biệt giải ý căn. Đây là ngài biểu thị hiểu lý “Ý cần biết các
pháp”
Người đọc bài chú này cần phải hết sức hàng phục thân tâm
Chú tâm Thiền định, tham ngộ việc lớn sinh tử, quan sát mọi
người trên thế gian
Khi đã Quy y Phật pháp thì không làm hại Chân Như : là ăn chay,
niệm Phật mà ĐẦU RỖNG
251
CHÚ ĐẠI BI
MAHAKARUNA DHARANI
Cư Sĩ TÂM SƠN sưu tập
I. DẪN NHẬP
Tụng kinh niệm Phật là pháp môn
phổ cập và thích hợp cho mọi Phật
tử. Tụng kinh thì miệng đọc lời Phật
dạy, tránh nói điều phàm tục thị phi.
Niệm Phật, trì chú thì tâm tưởng
nhớ Phật, nhất tâm chánh niệm
tránh được vọng tâm, loạn tưởng.
Tụng kinh, niệm Phật, trì chú là phương cách dễ dàng để cho
thân tâm an trụ trong cảnh giới thanh tịnh, đưa đến nhất tâm bất
loạn, tránh được ngữ ngôn hành động
buông lung, tâm ý vọng tưởng tổn
thương căn lành. Thường tụng kinh, trì
chú, niệm Phật thì thúc liễm được ba
nghiệp Thân, Khẩu, Ý hằng thanh tịnh,
từ đó phước huệ phát sanh (Hòa Thượng
Thích Đức Niệm, kinh Nhật Tụng)
Ý nghĩa của tụng niệm là giữ tâm
hồn được trong sạch, giao cảm với các
252
1
Tâm Hà Lê Công Đa, Thần Chú Đại Bi, viên ngọc của người cùng tử, Buddhismtoday.com
257
ĐẠI BI TÂM ĐÀ RA NI
MAHAKARUNA DHARANI
2
http://www.buddhismtoday.com/viet/hopthu/chudaibi-thieuchu.htm
302
3
Thích Thiền Tâm,Đâi Bi Tâm Đà Ra Ni, Tu viện Bồ Đề Thánh Cư Tịnh Độ, Gilroy, CA 95020
303
Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni” là câu xưng tán danh
hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát.
Nguyên bản Chú Đại Bi phát âm bằng tiếng Ấn Độ có khác
với bản dịch tiếng Trung Quốc vì lẽ có một số chữ phát âm người
Tàu không đọc được như chữ R chữ T như “Đà Ra Ni – Đà La Ni,
Ta Bà Ha – Sa Bà Ha” chuyển sang âm dịch tiếng Việt càng lệch
lạc hơn nữa ví dụ như “Ma Phạt Đạt Đậu” người Tàu đọc bốn âm
tiết hoàn toàn khác nhau: “Ma Fa da dou, Ma Fa Ta Tấu”
Cách ngắt câu và cách phân đoạn không đúng vì tụng niệm
phát âm theo hơi thở nên khi cuối hơi thở là ngắt câu mà không
biết tên của chư Phật và Bồ Tát phải trọn vẹn danh hiệu như thế
nào, âm nhấn mạnh, cao thấp ra sao nên sự sai lệch càng xa hơn
và nhiều khi trở nên vô nghĩa. Bài Chú Đại Bi ẩn chứa một oai lực
vô song, một nghĩa lý nhiệm mầu mà trì tụng không đúng thì làm
giảm đi tác dụng của bài chú. Ví dụ chữ “Nam Mô” ẩn chứa nghĩa
thành kính, đảnh lễ bậc Giác Ngộ nên khi
đọc lên là phát tâm thành kính tri tưởng,
chử Án là chữ Om (Aum, Mantra) một
thần chú Mật Tông gồm ba âm A-U-M làm
rung động những Luân Xa Chakras số 5,
6, 7 Khí Quản, Ấn Đường và Bách Hội4
4
You tube, AUM Mantra, youtube.com/watch
304
Tụng Niệm, trì chú là cầu xin sự hổ trợ tha lực của Chư Thiên,
Chư Bồ Tát, Chư Phật mười phương chứng minh, chứng giám. Trì
chú để kết hợp tâm mình với tâm Chư Phật và Bồ Tát, nương vào
đó mà tâm của mình được thanh tịnh, an lạc. Muốn được hoàn
hảo, tốt đẹp tìm hiểu ý nghĩa bài chú Đại Bi trong bản sưu tập
này, tập tụng niệm, ngắt câu đúng tên của chư Thiên, Bồ Tát và
mười phương chư Phật thì oai lực nhiệm màu không thể nghĩ bàn
được. Phải có niềm tin như thế đi (Tâm Sơn Vũ Minh Ngọc)
305
5
Tâm Hà Lê Công Đa, Thần Chú Đại Bi, Viên Ngọc Của Người Cùng Tử, Đạo Phật Ngày Nay,
Buddhismtoday.com/viet/phatphap/160-chudaibi.htm
310
CHÚ ĐẠI BI
Nam mô đại bi hội thượng Phật, Bồ Tát (3 lần)
Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni
Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô yết đế,
Thước bát ra da, Bồ Đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da,
Ma ha ca lô ni ca da. Aùn tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa.
Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da, bà lô kiết đế,
Thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì
312