You are on page 1of 317

1

DẪN NHẬP

Tôi đã hoàn tất sưu khảo này vào


ngày 31 tháng 3 năm 2012, nhưng
trong lòng vẫn còn nhiều nghi vấn và
bất an về Xá Lợi do mình trình bày.
Thế nên khi một người bạn xem qua
thì trân trọng và thích tập sưu khảo
này, tôi lưỡng lự khi biếu và nhắc
nhở nên thận trọng lúc xử dụng nó.

Gần đây nhân duyên đưa đẩy tôi


gặp lại bản thảo tập sách đã viết, đọc lại thấy cần phải tìm hiểu
nhiều hơn và thận trọng trình bày lại cho rõ ràng, nên tôi quyết
định phải viết lại hoàn chỉnh Xá Lợi Phật trung thực và đầy đủ.

Nói chung, Xá Lợi là sản phẩm của thi thể, vật dụng của
những người tu hành đã quá cố trong nhiều tôn giáo khác nhau,
không riêng gì Phật giáo. Nhưng nói đến Xá Lợi thì người Phật Tử
nghĩ ngay đến Xá Lợi Phật linh thiêng và quan trọng vô cùng.
Từ Xá Lợi gọi là Relic, tiếng La tinh gọi là Reliquiae có nghĩa là thi
3

thể hay những phần thi thể còn tồn tại


(Relinquish: xả bỏ, buông bỏ).

Xá Lợi là từ ngữ phiên âm của tiếng Phạn


Sanskrit là Saria (Saririkadhatu), nghĩa
đen là những hạt cứng. Theo sử Phật
giáo, khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt, tín
đồ đã đưa ngài đi hỏa táng sau đó họ tìm
thấy trong tro cốt còn lại rất nhiều tinh thể trong suốt, hình dáng
và kích thước khác nhau, cứng như thép, lóng lánh và tỏa ra tia
sáng muôn màu giống như những viên ngọc quý. Họ đếm được là
84,000 viên; đựng đầy trong 8 hộc, 4 đấu; được đặt tên là Xá Lợi
và là bảo vật quý hiếm của Phật giáo.

Tôi đã có dịp hành hương, tu tập ở Tứ Động Tâm và Thánh


tích Phật giáo tại Ấn Độ hai lần, có phước duyên chiêm bái, tụng
một thời kinh và đảnh lễ Xá Lợi Phật vào Thứ Bảy, ngày 7 tháng
11 năm 2009. Lần thứ hai ngày 19 tháng 11 năm 2012 tại viện
bảo tàng quốc gia Ấn Độ ở New Delhi, India. Nhìn tận mắt, nghe
tận tai, hiểu được sự nhiệm màu của Xá
Lợi Phật nên đem lòng tôn kính. Tôi xin
được chia xẻ cùng quý Phật tử về Xá Lợi
Phật này. Tâm Sơn (Feb., 10, 2015)
4

Hình bìa tập sưu khảo Xá Lợi Phật là


hình tượng Phật trong Tháp Đại Giác ở
Bồ Đề Đạo Tràng (Bodhgaya, Bihar,
India), nơi Phật chứng thành đạo quả
dưới gốc cây Bồ Đề. Hình chụp ngày 15
tháng 11 năm 2012 lúc 9:44 AM do hai
đạo hữu Thái Hội và Tâm Sơn thực hiện.
Đạo hữu Tâm Sơn tự thuật như sau:
Trên đường hành hương tu tập, chúng
tôi về đến Bồ Đề Đạo Tràng Bodhgaya
và ngụ tại khách sạn Tathagat ngay
trước mặt Bồ Đề Đạo Tràng, khoảng ngày 12 tháng 11 năm
2012. Khi đi viếng thánh tích núi
Linh Thứu trở về, tôi bị trợt té
ngã trong phòng tắm của
Tathagat hotel gãy mất 3 xương
sườn phía trái, sườn số 1 đến
sườn số 3 rất đau đớn, điều kiện
y tế ở nơi này yếu kém không
giúp gì được nhiều nên phải tự
5

săn sóc bản thân theo kinh


nghiệm hiểu biết về y khoa
của mình mà không muốn
tạo chướng duyên cho quý
đạo hữu tu tập chung
quanh. Ngày 15 tháng 11
năm 2012 đoàn hành
hương đi làm công tác từ
thiện, nhà tôi và tôi cùng ở
lại Tathagat hotel không đủ sức theo đoàn làm Phật sự nên
“tranh thủ” vào Bồ Đề Đạo Tràng tu tập thiền định. Chúng tôi
ngạc nhiên khi thấy thảm đỏ trải dài từ cổng vào đến Tháp Đại
Giác và nhân viên an ninh làm việc nghiêm nhặt. Lúc ngồi thiền
định dưới gốc cây Bồ Đề
chúng tôi có duyên lành gặp
được phái đoàn Mật Tông Tây
Tạng do Đức Lạt Ma Đại
Bảo Pháp Vương thứ 17
KARMAPA hành lễ cầu
nguyện hòa bình thế giới năm
6

2012 diễu quanh cội Bồ Đề và chúng tôi


vái lạy ngài cùng phái đoàn tăng ni Tây
Tạng. Đây thực sự là một nhiệm màu
hiếm khi gặp được. Phái đoàn đã đắp y
nâu đỏ này lên pháp thân Phật trong
Tháp Đại Giác và trì chú, tụng kinh cầu
nguyện hòa bình, an lành cho nhân loại,
chúng sanh. Tấm y này đầy cả thanh điển
năng lượng nguyện cầu của chúng sanh
và năng lượng vũ trụ, Phật lực nên tấm y
sáng rực rỡ hào quang. Chúng tôi trông thấy, phát tâm quy
ngưỡng và chụp hình tượng Phật trong Tháp Đại Giác, nơi hàng
ngàn Phật tử trên khắp thế giới quy tụ về đây với lòng thành kính
đảnh lễ Pháp thân khoác Y Cà Sa này.
Ao ước nguyện cầu của chúng tôi nhìn
được pháp thân Phật khoác Y Ca Sa,
tụng một thời kinh, ngồi thiền dưới cội
Bồ Đề mà Đức Phật Thích Ca hơn
2,500 năm trước đã ngồi tại đây
chứng quả A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề Chánh Đẳng Chánh Giác là
một duyên lành lớn lao trong cuộc đời.
7

Mấy hôm sau, Ni Sư Thanh


Chơn dẫn phái đoàn hành hương
Việt Nam đi cùng chúng tôi, nghe
tin tôi bị tai nạn nên ghé thăm an
ủi, và cho tôi một bọc đựng y áo
của Mật Tông Tibet do Đạo Sư
Battayi, phó giám đốc Bồ Đề Đạo Tràng tặng. Sư Chơn nói là y áo
của chư tăng Mật Tông nên Ni Sư tặng lại cho tôi để kỷ niệm.
Lòng tôi rất vui mừng vì cũng muốn có một bộ y đỏ của Mật Tông
mà chưa có dịp thỉnh được, nay Sư Chơn cho nên rất vừa ý, để
nguyên bọc cho vào ba lô mang sau lưng rồi quên khuấy mất. Có
điều lạ là kể từ đó những cơn đau gãy
xương giảm đi rất nhiều.

Trở về Mỹ tôi để bọc y áo trong


hộc tủ dưới bàn thờ Phật, chưa có thì
giờ mở ra xem vì phải đi bệnh viện chụp
quang tuyến, chăm sóc xương gãy. Có
đêm khoảng 2 giờ sáng, tôi đang ngồi
thiền định thì tự nhiên thấy tượng Phật
đắp y đỏ trong Tháp Đại Giác hiển hiện
rực rỡ trong tâm trí, ngồi bật dậy chạy
sang phòng làm việc mở computer xem
8

lại những hình chụp


này lần nữa và tin
chắc, biết rõ tấm y
này hiện đang ở hộc
tủ dưới bàn Phật của
mình. Tôi kiểm
nghiệm lại: mở bọc
vải đỏ ra xem thì quả thật tấm Y Ca Sa đắp lên tượng Phật của
Đại Bảo Pháp Vương thứ 17 Karmapa hành lễ cầu nguyện hòa
bình thế giới năm 2012 tại Bồ Đề Đạo Tràng Bodhgaya, Bihar,
India hiện do tôi sở hữu.

Tôi ôm y vào lòng tâm trí đầy xúc động, nước mắt lưng
tròng và cầu nguyện cho duyên lành mình được thọ nhận. Thổn
thức khóc cho niềm tin và sự may mắn của mình. Một luồng hơi
ấm êm đềm lan tỏa bọc lấy toàn thân
tôi vỗ về, an ủi vô cùng. Những mệt
mỏi, đau đớn của xác thân sau
chuyến hành hương tu tập, tai nạn
đều qua đi. Những buồn phiền, thị
phi trong cuộc đời cũng không còn
quấy nhiễu tâm trí. Sự kỳ lạ này thực
sự là một phép màu. Năm sau tôi trở
9

về Việt Nam, con gái tôi


(bác sĩ Vũ Bích Đoan
Trang) check up tổng
quát và X Ray cho biết
không thấy có dấu vết
gãy xương nào hết, và
gần đây (2014) tôi làm
Cadscan bệnh viện ghi
nhận là không có dấu vết gãy xương sườn. “Ai uống nước thì tự
biết nóng lạnh” hà tất phải giải bày hay giải thích làm gì. Ngay
bản thân tôi, sau khi ôm y vào lòng, tôi đã trải nghiệm được
những vi diệu của thanh điển năng lượng hàn gắn và xoa dịu vết
thương, nên liên tiếp trong ba ngày tôi đều ôm y khấn nguyện vì
Y đắp lên tôn tượng cũng là một xá lợi màu nhiệm vô cùng.

Năng lực của Y Ca Sa rất nhiệm màu, để thờ thì được Chư
Thiên, Bồ Tát hộ trì. Đắp lên người trong lúc lâm tử thì yêu ma,
oan gia trái chủ không dám đến gần quấy phá, trợ duyên cho việc
vãng sanh và đi vào ba đường lành. Ước nguyện của tôi không
dám giữ lấy làm của riêng cho mình, muốn tìm chư Tăng, Ni có
đạo hạnh và thiện tâm đế cúng dường trợ duyên cho họ hành
thiện cứu giúp chúng sanh. Nam Mô Thiện Nghiệp Duyên Bồ Tát
cho con có duyên lành thực hiện việc cúng dường này. Tâm Sơn
10

Sarira ! Sarira !!

Con thaáy ñoù nhö haøo quang toûa raïng

Xoùa voâ minh taêm toái ngaäp hoàn con

Nghi ngaïi gì ñaây ?

Ñöôøng tu saùng ñaïo vaøng

Taâm thanh tònh an vui qua bôø giaùc

Dayton, March 30, 2012.

Taâm Sôn
11

Tập Xá Lợi Phật bao gồm bốn phần chính như sau:

1. Giải Thích Ngọc Xá


Lợi: có hai điểm chính yếu:
Ngọc Xá Lợi là gì ? và hiện
tương xá lợi trong lịch sử nhân
loại bao gồm xương cốt và vật
dụng còn lưu lại sau khi đã chết
xuyên qua các tôn giáo như
Thiên Chúa Giáo, Hồi Giáo, Phật
Giáo. Đây là phần giải thích chung về hiện tượng xá lợi có tính
khoa học thực nghiệm trong xã hội loài người ghi nhận được theo
quá trình lịch sử của các tôn giáo.
2. Đức Phật Thích Ca Nhập Diệt: Trình bày giai đoạn
cuối cùng của cuộc đời Đức
Phật Thích Ca qua tài liệu
“Đường Xưa Mây Trắng” của
Thiền Sư Thích Nhất Hạnh.
Bản kinh Phân chia tro cốt
trong kinh bộ “Lịch Sử Đức
12

Phật Thích Ca” do hai cư sĩ


Minh Lợi và Tâm Sơn dịch
thuật, và Câu Thi Na
(Kushinagar) nơi Phật nhập
diệt trong cuốn “Ban Mai Xứ
Ấn” tập I của Ni Sư Thích
Nữ Giới Hương.
3. Xá Lợi Phật, Xá
Lợi Thánh Tăng Và Phật
Tử: trình bày chi tiết về Xá
Lợi Phật. Khát vọng của Phật Tử muốn chiêm bái và tôn kính Xá
Lợi Phật như thế nào. Giải thích về ba loại xá lợi: Ngọc Xá Lợi
Phật, Xá Lợi của chư Thánh Tăng còn lưu lại, và Xá Lợi của các tu
sĩ, Phật tử tìm thấy được sau khi hỏa thiêu.
4. Ghi nhận một số trường hợp điển hình: Một số
trường hợp chết vãng sanh, lưu lại Xá Lợi trong tập “Những
chuyện Vãng sanh Lưu Xá
Lợi” , “Niệm Phật Thấy
Phật Vãng Sanh” của Cư sĩ
Tịnh Hải và trường hợp
nhân chứng nghe thấy tận
mắt của người viết.
13

NGỌC XÁ LỢI LÀ GÌ ?

Gọi là Ngọc Xá Lợi vì xương


cốt hay những bộ phận của
cơ thể sau khi chết “hóa
thạch đặc biệt”, do trà tỳ
(hỏa thiêu) hay chôn vùi lâu
năm mà có. Đây là một hiện
tượng siêu nhiên mà khoa học
chưa giải thích được. Thậm chí những vật dụng cá nhân, những
thứ ngoại thân mà các bậc thánh này có liên quan đến đều mang
năng lượng màu nhiệm đặc biệt. Những bậc thánh này là giáo
chủ của các tôn giáo như Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Hồi giáo;
các đệ tử chư thánh tăng, thánh tử đạo, hàng tín đồ khổ công tu
tập cũng có được Ngọc Xá
Lợi. (hình trên là xá lợi của
thánh St. Demetrius)

Như vậy Ngọc Xá Lợi đều


hiện diện ở nhiều tôn giáo
bao gồm thân xác và vật dụng
14

ngoại thân có những đặc


thù, những màu nhiệm để
lại dấu ấn niềm tin, lợi ích
cho xã hội loài người.
Chúng ta có thể sơ lược
kể qua:

 Thiên Chúa giáo có xương sọ


của thánh Yves (Saint Yves 1253-
1303) ở Brittany, France. Xá Lợi của
Giáo hoàng St. John XXIII. Xương
cánh tay của thánh Francis Xavier để
tại nhà thờ St. Joseph, Macao. Đặc
biệt nhắc lại xá lợi của thánh
Dementrius thuộc tu viện

Thessalonika ở Hy Lạp (Greece)


là lâu đời và có ý nghĩa nhất. Nói
chung đạo Thiên Chúa cũng có
những dấu ấn huyền diệu, nhiệm
màu thể hiện qua xá lợi xương và
vật dụng.
15

 Hồi giáo còn gọi là Islam, tín


đồ gọi là Muslim, một tôn giáo độc
thần lớn nhất nhì trên thế giới với
số tín đồ là 1.57 tỷ người, chiếm
23% dân số thế giới. Hồi giáo phát
xuất từ Á Rập vào thế kỷ thứ 7 do
giáo chủ Mohamed được thượng đế
Allad truyền giáo lý thông qua thiên
thần Gabriel (Jibrael). Câu chuyện
xảy ra vào năm 605 Dương Lịch lúc Mohamed 35 tuổi: Khi bộ lạc
Qurash quyết định xây lại đền thờ Kaaba, giáo dân tập họp tranh
cãi đến 5 ngày mà không có kết quả về việc xử lý hòn đá thánh
Hắc Thạch (The Black Stone) như thế nào, nên họ đồng ý quyết
định rằng: “Nếu có một người đàn ông đến đền thờ trước tiên
trong lúc này thì chúng ta hỏi ý kiến người đó. Ý kiến đó sẽ là
quyết định chung.” Thực
bất ngờ, người đàn ông
bước vào đền thờ lúc đó
chính là Mohamed sau
chuyến lữ hành thành
công tốt đẹp nên đi đến
đền thờ để tạ ơn. Khi
16

được hỏi, Mohamed nói:


“Chúng ta tìm mọi cách di
chuyển tảng đá đen The Black
Stone đến giữa đền thờ rồi
cùng nhau xây lại nơi thờ
phụng đấng Allah.” Năm 610
trong một hang động thuộc
tỉnh Hedjar ở Arabia, Mohamed
thông báo cho mọi người biết
chỉ có đấng Allah duy nhất và
ông là giáo chủ của đạo này. Tảng đá đen The Black Stone trở
thành xá lợi nhiệm màu của Hồi giáo, kinh Koran là giáo điều tín
đồ phải tuân phục.

Sau khi Mohamed qua đời để lại xá lợi là một áo choàng


(A Cloak: Kherqa) lưu trữ
tại trung tâm Hồi giáo
Kandahar, Afghanistan.
Ngoài ra còn có các cổ
vật xá lợi khác như râu
tóc, dấu chân của
Mohamed
17

 Xá Lợi Phật giáo là điểm then chốt trong Ngọc Xá Lợi. Xá


Lợi Phật đã được đề cập trong kinh bộ A Hàm từ nhiều ngàn năm
về trước. Nhưng mãi đến năm 1897 một người chủ đất thuộc
địa người Anh sống ở Ấn Độ tên là W.C. Peppe lệnh cho người
làm đào rãnh xuyên qua một ụ đất lớn gặp một quan tài đá, mở
ra thì có nhiều đồ nữ trang quý giá và các hủ nhỏ. Ông phối hợp
với các nhà khảo cổ như Vincent Smith, Dr. Furher xác định trong
hủ nhỏ đựng xương cốt Phật Thích Ca nên họ đã thông báo cho
bộ tộc Sakiyan. Phần này sẽ trình bày lại với nhiều chi tiết hơn.
Trong một số tài liệu trên mạng Internet về phần này thiếu chính
xác như năm 1897 không phải là 1997 ..vv. xin được xác minh lại.
18
19
20
21

Trích Đường Xưa Mây


Trắng của Hòa Thượng
Thích Nhất Hạnh

từ Trang 778 đến trang


786.

Sau đó, Bụt đi Pava. Tại


Pava, người nghỉ trong
vườn xoài của nam cư sĩ Cunda, con của một người thợ rèn. Được
nghe Bụt thuyết pháp, Cunda rất lấy làm sung sướng. Chàng
thỉnh Bụt và các vị khất sĩ ngày mai
đến nhà chàng thọ trai.

Các vị khất sĩ đi theo Bụt rất


đông, có đến 300 vị. Trong khi người
nhà và bạn bè dâng thức ăn vào bát
của các vị khất sĩ, Cunda tới trước Bụt
và dâng lên người một thức ăn đặc
biệt đã được làm riêng cho Bụt. Đó là
nấm Chiên Đàn – Sukara maddava.
22

Sau khi thọ trai xong Bụt gọi Cunda và bảo chàng: - Cunda, chỗ
còn lại của món nấm Chiên Đàn này, con nên đào đất mà chôn
đi, đừng để cho ai ăn nữa. Sau khi mọi người đã thọ trai, Bụt
thuyết pháp cho gia đình
Cunda. Thuyết pháp xong,
Bụt và các vị khất sĩ trở về
vườn xoài nghỉ ngơi.

Tối hôm ấy, một cơn


đau bụng dữ dội nổi lên
23

làm Bụt đau đớn vô


cùng. Ngài cố gắng chịu
đau, suốt đêm không
ngủ. Sáng hôm sau,
người bảo các vị khất sĩ
lên đường thật sớm,
hướng về Kusinara. Giữa
đường cơn đau bụng lại nổi lên dữ dội. Người dừng lại và tới ngồi
nghỉ dưới một cội cây. Đại Đức Ananda lấy áo sanghati của Bụt
xếp lại thành tư và trải xuống gốc cây để Bụt ngồi nghỉ. Bụt bảo
Ananda đi kiếm ít nước để uống vì người thấy khát. Đức Ananda
nói: - Lạy Bụt nước rạch ở đây đục lắm vì có đoàn xe bò cả mấy
trăm chiếc vừa đi qua. Xin Bụt đợi
đến khi mình tới sông Kakuttha, nước
ở đó trong và ngọt lắm, con sẽ lấy để
Bụt uống và rửa mặt cho mát. Bụt
bảo: - Như Lai khát lắm, thầy cứ đi
lấy nước ở đây đi.

Đại Đức Ananda vâng lời. Lạ


quá, khi Đại Đức mang vò xuống tới
con rạch thì nước rạch đã trở lại
trong vắt. Uống nước xong, Bụt
24

ngồi nghỉ. Các Đại Đức


Anuruddha và Ananda ngồi gần
bên người. Ba trăm vị khất sĩ
cũng ngồi nghỉ ngơi đây đó, có
nhiều vị ngồi vây quanh Bụt. Lúc
ấy có một người bộ hành đi từ
Kusinara tới, thấy Bụt ngồi giữa các vị khất sĩ, ông ta tới khấu
đầu đảnh lễ. Người này tên là Pukkusa thuộc bộ tộc Malla và
ngày xưa cũng đã từng là đệ tử của đạo sĩ Alara Kalama, vị đạo
sĩ mà vị sa môn trẻ Siddhatta đã từng đến thọ giáo. Pukkusa đã
nghe nói đến Bụt. Sau khi lạy Bụt, ông dâng lên Bụt hai tấm y
mới để Bụt dùng. Nể lời Pukkusa, Bụt nhận một tấm và bảo
Pukkusa cúng dường tấm kia cho Đại
Đức Ananda.

Sau đó Pukkusa xin được làm đệ


tử Bụt. Bụt dạy đạo lý cho ông. Pukkusa
sung sướng cảm tạ rồi từ giả người.
Thấy y của Bụt đang mặc đã lấm bùn,
Đại Đức Ananda thay y mới cho người.
Sau đó, Bụt vá các vị khất sĩ cùng đứng
dậy và đi về phía Kusinara.
25

Đến bờ sông Kakuttha Bụt


đi xuống sông để tắm và uống
nước. Tắm và uống nước xong
Bụt lên bờ. Bụt đi về một vườn
xoài gần đó. Người bảo khất sĩ
Cundaka xếp áo và trải xuống
đất cho người nằm. Khất sĩ Cundaka ngồi hầu bên cạnh. Bụt gọi
Đại Đức Ananda: - Bửa cơm sáng nay tại nhà cư sĩ Cunda là bửa
cơm cuối cùng của Như Lai. Sau này có người có thể làm cho
Cunda có mặc cảm là đã cúng dường bửa ăn chót cho Như Lai.
Vậy thầy nên tìm dịp nói cho Cunda biết là những bửa cơm mà
Như Lai nhớ mãi là bửa cơm Như Lai thọ nhận trước khi thành
đạo và bửa cơm Như Lai thọ nhận trước khi nhập niết bàn. Người
cúng dường một trong hai bửa cơm ấy phải vui lòng mới đúng.
Sau khi nghỉ ngơi một lát, Bụt đứng đậy người nói: - Ananda,
chúng ta hãy đi qua bên
kia sông Hirannavati để
vào rừng cây Sala của
bộ tộc Malla. Rừng cây
này đẹp, nó nằm ở chỗ
ngã rẽ vào thành phố
Kusinaga.
26

Khi Bụt và các vị khất sĩ tới được rừng


Sala thì trời đã xế chiều. Bụt bảo thầy
Ananda sửa soạn chỗ nằm cho Bụt
giữa hai cây Sala. Rồi Bụt nằm xuống
trong thế sư tử tọa, đầu hướng về
phía bắc. Các vị khất sĩ chia nhau
ngồi bao quanh Bụt. Họ biết nội trong
đêm nay, tại rừng Sala này, Bụt sẽ
nhập niết bàn.

Bụt đưa mắt nhìn rừng cây rồi


nói với Ananda: - Nầy Ananda, thầy hãy nhìn xem. Bây giờ đâu
phải là mùa hoa, mà những cây Sala này đang nở hoa trắng xóa.
Hoa rụng trên áo Như Lai và cả trên áo các vị khất sĩ, thầy thấy
không ? Rừng này đẹp quá.Thầy có thấy mặt trời đang ngã về
phía tây và chân trời
thật rạng rỡ hay
không ? Thầy có
nghe gió nhẹ rì rào
trong các cành Sala
không ? Vạn vật đối
với Như Lai dễ
thương và đằm thắm
27

quá. Này các vị khất sĩ, nếu các vị


muốn dễ thương với Như Lai, muốn
tỏ lòng cung kính và biết ơn Như Lai
thì các vị chỉ có thể bày tỏ điều đó
bằng cách sống đúng chánh pháp và
đi trong chánh pháp mà thôi.

Lúc đó trời vẫn còn nóng và


Đại Đức Upavana đang đứng trước
mặt Bụt để quạt cho người. Bụt bảo
Đại Đức đứng qua một bên. Có lẽ
Bụt không muốn Đại Đức che khuất cảnh rừng cây và cảnh trời
chiều huy hoàng đang diễn ra trước mặt Bụt. Bụt hỏi Đại Đức
Anuruddha:- Ananda ở đâu, Như Lai không thấy ? Một vị khất sĩ
thưa:- Con thấy sư huynh Ananda đang đứng nấp và khóc sau
một cội cây. Sư huynh nói một mình: “Ta chưa thành tựu được
đạo nghiệp mà thầy ta
đã tịch. Có ai thương ta
bằng thầy ta thương ta
đâu.” Bụt bảo vị khất sĩ

gọi
28

Tala Song Thọ ở Kusinaga nơi Phật Thích Ca diệt độ


29

Ananda về. Người an ủi


Đại Đức Ananda: -
Ananda, đừng buồn khổ
nữa. Như Lai đã từng nhắc
thầy là vạn pháp vô
thường, có sinh thì có diệt,
có thành thì có hoại, có
hợp thì có tan. Làm sao có sinh mà không có diệt cho được? Làm
sao có thành mà không có hoại cho được? làm sao có hợp mà
không có tan cho được? Ananda mấy mươi năm nay thầy đã thân
cận Như Lai săn sóc Như Lai với cả tấm lòng thương mến của
thầy. Thầy đã đem hết lòng hết sức giúp đỡ Như Lai, Như Lai rất
cám ơn thầy. Công đức của thầy rất lớn, nhưng Ananda, thầy có
thể đi xa hơn. Nếu thầy cố gắng thêm chút nữa thì thầy sẽ thoát
được sinh tử, đạt tới tự do, và vượt thoát mọi sầu khổ và bi ai.
Điều đó Như Lai tin
chắc thầy làm được và
cũng là điều sẽ làm cho
Như Lai vui lòng nhất.
Xoay qua các vị khất sĩ
Bụt nói:
30

- Làm thị giả cho


Như Lai không ai
bằng Ananda. Ngày
xưa có những vị thị
giả đã từng làm rơi
cả bát và y của Như
Lai xuống đất.
Nhưng với Ananda,
những chuyện ấy không bao giờ xảy ra. Ananda lo cho Như Lai
từng ly từng tí, từ việc nhỏ nhất đến việc lớn nhất. Ananda biết
nơi nào và lúc nào một vị khất sĩ, một vị nữ khất sĩ, một vị cư sĩ,
một vị quốc vương, một vị đại thần hay một vị đạo sĩ ngoại giáo
có thể gặp Như Lai, và Ananda sắp đặt những cuộc gặp gỡ đó
một cách rất thông minh. Như Lai nghĩ là các bậc giác ngộ trong
quá khứ và trong tương lai mà có được một vị thị giả giỏi thì vị thị
giả ấy cũng chỉ giỏi
bằng Đại Đức Ananda
là cùng. Đại Đức
Ananda lau nước mắt
bạch: - Thế Tôn, xin
Thế Tôn đừng nhập
niết bàn ở
31

đây.Kusinara chỉ là một đô thị nhỏ, tường vôi vách đất. Có nhiều
nơi xứng đáng để Thế Tôn nhập niết bàn hơn như Sampa,
Rajagaha, như Savatthi, như Sakata, như Kosambi, hay Banarasi.
Xin đức Thế Tôn chọn
một nơi như thế để
nhập diệt, để cho
đông đảo quần chúng
có cơ duyên nhìn mặt
Thế Tôn một lần cuối.
Bụt bảo:
32

-
Ananda, Kusinara cũng là một nơi quan trọng lắm. dù nó chỉ là
một đô thị tường vôi vách đất. Ananda, Như Lai ưng ý khu rừng
này lắm. Ananda, thầy có thấy hoa Sala
tiếp tục rơi trên áo và trên người của
Như Lai không?. Rồi Bụt bảo Ananda
vào thành phố Kusinara báo tin cho
những người trong bộ tộc Malla biết
rằng đêm nay vào canh cuối, Bụt sẽ
nhập niết bàn trong rừng cây của họ.
33

Những người trong bộ


tộc Malla nghe tin Bụt sắp
nhập diệt, liền vội vã đi ra.
Một du sĩ ngoại đạo tên là
Subhadda nghe nói có Bụt
ở ngoài rừng cũng theo họ
tìm ra. Trong khi những
người trong bộ tộc Malla thay phiên nhau tới ra mắt và làm lễ Bụt
thì du sĩ Subhadda tới thương thuyết với Đại Đức Ananda để ông
được gặp và hầu chuyện Bụt. Đại Đức không cho, bảo là Bụt
đang mệt không thể tiếp được ông. Nghe được câu trao đổi giữa
hai người Bụt bảo Ananda:- Thầy
cứ cho du sĩ Subhadda vào đi.
Như Lai có thể tiếp ông ấy.

Du sĩ Subhadda ra trình diện


trước Bụt. Đã từng nghe nói tới
đạo phong của Bụt, ông sẵn có
lòng mến mộ Bụt từ lâu. Ông lạy
xuống và bạch:

-Thế Tôn, con nghe nói tới các


vị lãnh đạo các giáo phái như
34

Purana Kassapa, Makhali


Gosala, AjitaKesakambali,
Pakudha, Kaccayana,
Sanjaya, Belatthiputta và
NiganthaNathaputta…con
muốn hỏi Thế Tôn xem
trong những vị đó có ai
thực sự là người đạt đạo không ? Bụt nói: - Subhadda, họ có đạt
đạo hay không đạt đạo, việc đó không nên bàn tới bây giờ vì
không cần thiết. Shubadda, Như Lai sẽ chỉ cho ông con đường tu
học để tự ông có thể đạt ngộ. Rồi Bụt dạy cho Subhadda về đạo
lý Bát Chánh Đạo và người kết luận: - Subhadda, ở đâu, trong
đoàn thể nào mà có sự thực hành Bát Chánh Đạo là ở đó có thể
có người đạt đạo. Subhadda, ông cố thực tập phép này đi, rồi
chính ông sẽ trở nên người đạt đạo, không cần phải đặt câu hỏi
người này hay người
khác có thật là người
đạt đạo hay không.

Được Bụt dạy,


du sĩ Subhadda thấy
tâm hồn mở rộng, ông
sung sướng quá. Ông
35

xin Bụt được xuất gia làm đệ tử. Bụt chấp nhận. Người dạy
Ananda làm lễ xuất gia tại chỗ cho du sĩ Subhadda. Subhadda là
người đệ tử cuối cùng của Bụt.

Sau khi Subhadda đã được


cạo đầu, thọ giới, khoác áo ca sa và
được trao cho một bình bát, Bụt đưa
mắt nhìn các vị khất sĩ ngồi bao bọc
quanh người. Lúc bấy giờ số lượng
khất sĩ đã tăng lên gần năm trăm vị,
trong đó có các vị từ địa phương mới
tới. Bụt nói: - Này các vị khất sĩ! Nếu
36

vị nào còn thắc mắc


điều gì về giáo pháp,
thì đây là lúc nên hỏi
Như Lai. Đừng để dịp
này đi qua để sau này
hối hận rằng “Hôm ấy
tôi được diện kiến Bụt,
vậy mà tôi quên không hỏi..” Bụt lặp lại câu nói của người tới ba
lần, vẫn không cóvị khất sĩ nào lên tiếng. Đại Đức Ananda lên
tiếng:

- Bạch đức Thế Tôn, thật là vi diệu ! con có đức tin nơi giáo
đoàn khất sĩ, con có đức tin nơi
Tăng Đoàn. Ai cũng thấy được
những lời Thế Tôn nói và giáo pháp
của Thế Tôn dạy sáng tỏ như ban
ngày, và không ai còn có thắc mắc,
nghi nan gì nữa về giáo pháp ấy và
về con đường thực hiện. Bụt nói:
- Ananda, đó là thầy nói từ niềm
tin của thầy.Như Lai thì thấy bằng
cái thấy trực tiếp của Như Lai. Như
Lai thấy trong đại chúng khất sĩ ở
37

đây, ai cũng có đức tin


vững vàng nơi Tam Bảo.
Và trình độ thấp kém nhất
trong số các vị cũng đã là
quả vị nhập lưu.

Bụt đưa mắt im lặng nhìn


đại chúng, rồi người nói:

- Các vị khất sĩ, hãy


nghe Như Lai nói đây: vạn
pháp vô thường có sinh thì
có diệt. Các vị hãy tinh tiến
lên để đạt tới giải thoát.
Nói xong Bụt nhắm mắt. Đó là lời nói cuối cùng của người.
Bỗng nhiên đại địa rung động. Hoa Sala rụng xuống như
mưa. Mọi người tự
nhiên thấy tâm thần
chấn động. Ai cũng biết
là Bụt đã nhập niết
bàn. Bụt đã diệt độ.
38

Phật Thích Ca diệt độ dưới gốc


Tala song thọ (còn gọi là Sala)
trong rừng Tala ở Kusinaga nên xin
giới thiệu cây Tala ở Kusinaga và
phụ bản hình chụp cây và hoa Tala
ở Chùa Vàng trong cung điện
Norodom vương quốc Cambodia ở
Pnom Penh (Nam Vang, Cao Miên)
tháng 4 năm 2013.

Tala, phạn ngữ Sanskrit gọi


là SALA Thọ, Tát La Thọ, Tô Liên Thọ. Tên khoa học thực vật là
39
40

Shorea Robusta thuộc loại kiều mộc


(cao, to), khoa hương long não, rất
thơm; Sinh sản nhiều ở Ấn Độ và
vùng nhiệt đới. Cao ước độ 32 mét, lá
dài hình trái soan, có đuôi nhọn, dài
độ 15 phân đến 16 phân; rộng từ 10
phân đến 16 phân, hoa nhỏ màu vàng
đỏ, chất gỗ cứng rắn dùng trong kiến
trúc. Mủ cây có thể thay thế dầu nhựa
tráng đường, hạt ép dầu.

Truyền thuyết rằng, cây Tala là Đạo Tràng Thọ của vị Phật
thứ ba trong 7 vị cổ Phật thời quá khứ. Trong quyển Đại Bổn Kinh
Trường A Hàm trang Đại 1-2 trung nói: “Phật Tỳ Xá Bà ngồi dưới
cây Tala thành Tối Chánh Giác.” Rừng cây Tala ngoại thành Câu
Thi Na (Kusinara) ở trung bộ Ấn Độ, cũng vì Đức Thích Tôn niết
bàn tại đó, nên trở thành thánh địa nổi danh.

Theo các kinh ghi tải,


Đức Thích Tôn khi sắp nhập
diệt ở ngoại thành Câu Thi Na
Kusinaga nằm dưới gốc Tala
song thọ ở Tala thọ lâm. Tứ
41
42
43

hướng, mỗi bên có một cặp cây


Tala cùng chung gốc rễ. Một trong
cặp cây mỗi bên vì đau thương mà
thản nhiên biến hiện màu bạc
trắng. Cành, lá, da thân cây nứt vỡ,
khô cằn ủ rũ, rơi rụng. Còn cây kia
thì vẫn tươi. Nên bốn cây Tala song
thọ ở đó cũng có tên là “Tứ khô, tứ
vinh”. Do đó mà có ví dụ gọi cặp
song thọ hướng đông là “Thường
dữ vô thường”. Cặp cây hướng tây là “Ngã dữ vô ngã.” Hướng
nam là “Lạc dữ vô lạc.” và hướng bắc là “Tịnh dữ vô tịnh.”. Lại vì
cây Tala khô héo hiện ra màu trắng trông như đám rừng cò
trắng, nên cũng có tên gọi rừng ở đó là “Hạc Lâm”.

Lại nữa, theo Đại Bát Nhã Kinh sơ quyển 1 nói: “Ta La Song
Thọ nơi Phật niết bàn, mỗi hướng hai cây; bốn hướng tám cây,
đều cao 5 trượng, bốn khô, bốn tươi. Dưới gốc cây thì rễ liền
nhau; Trên cành thì lá phủ nhau, lá tốt xum xuê, hoa như bánh
xe, quả to như lọ bình, vị cam tợ mật.” Vì vậy xưa nay gọi rừng
này là rừng Song Thọ, rừng kiên cố hoặc kiên tâm.

Tâm Sơn, Tết Nguyên Đán năm Tân Mão 2011, Nhật tu biên soạn
lại Tết Nguyên Đán Ất Mùi 2015 (Thursday, February 19, 2015).
44

Bài kinh Quân Phân Xá Lợi là bài kinh thứ 38/50 của Tập Tịnh
trong bộ cổ kinh Sự Tích Đức
Phật Thích Ca, bộ kinh này
gồm bốn tập là: THƯỜNG –
LẠC – NGÃ – TỊNH, mỗi tập
gồm 50 bài kinh do cư sĩ Minh
Lợi và Tâm Sơn dịch thuật, giải
thích các điển tích Phật giáo.
Kinh phân chia Xá Lợi sau khi
Phật diệt độ là bài thứ 38
trong 50 bài của tập Tịnh gồm
bản Hán văn, bản dịch Việt
ngữ, bài giải thích và tranh vẽ
nguyên bản trong bộ kinh.

(Xá LợI Phật India Museum)

TỊNH 38
QUÂN PHÂN XÁ LỢI
Xử Thai Kinh Vân: Nhĩ thời bát đại quốc vương: Ưu Điền Vương,
Đảnh Sanh Vương, Ác Sanh Vương, A Xà Thế Vương. Tứ đại binh
45

mã chủ: Tối Hào Binh Mã Chủ,


Dung Nhan Binh Mã Chủ, Xí
Thạnh Binh Mã Chủ, Kim Cang
Binh Mã Chủ; Thử Bát Đại
Vương, cộng tranh Xá Lợi, các
lãnh binh chúng, liệt trụ nhứt
diện, các ngôn: “Phật Xá Lợi,
ngã ưng độc đắc.”Đại thần Ưu
Ba Kiết gián ngôn: “Chư Vương
mạc tranh Xá Lợi, ưng phân phổ giai cúng dường” Thích Đề Hoàn
nhân hiện vị nhơn ngữ: “Ngã đẳng chư Thiên, diệc đương hữu
phần.” A Nậu Đạt Long Vương, Văn Lân Long Vương, Y Na Bát
Long Vương ngôn: “Ngã đẳng diệc ưng hữu phần.” Ưu Ba Kiết
ngôn: “Chư quân thả trú, Xá Lợi nghi cộng phân chi, tức phân vị
tam phần: Nhứt phần dữ chư
Thiên; Nhứt phần dữ Long
Vương; Nhứt phần dữ Bát
Vương. Kim úng thọ thạch, dư
thử, thần dĩ mật đồ úng lý, dĩ
úng vị lượng.”Tức phân Xá Lợi.
Thiên đắc Xá Lợi, hoàn ư thiên
thượng khởi tháp. Long Vương
46
47

đắc Xá Lợi, hoàn ư Long Cung khởi


tháp. Bát Vương đắc Xá Lợi, hoàn ư
bổn quốc khởi tháp. Ưu Ba Kiết kim
úng Xá Lợi, tam đấu tịnh úng, diệc
hoàn khởi tháp. Khôi cập thổ tứ
thập cửu hộc. Khởi tứ thập cửu
tháp, đương xà duy xứ, diệc khởi
bảo tháp, cao tứ thập cửu nhẫn.
Hương đăng cúng dường, huyền tăng phan cái, chung nhựt cánh
dạ, âm nhạc bất đoạn. Phật chi uy thần, dạ phóng quang minh,
dữ trú vô dị, thường hữu thần vương thủ hộ.
PHÂN CHIA XÁ LỢI PHẬT
Kinh Xử Thai nói: Thưở xưa, vua
các nước đến tranh nhau độc
chiếm Xá Lợi Phật đem về nước
mình để xây tháp chiêm bái cúng
dường. Các vì vua chúa nước lớn,
hùng mạnh đương thời đó như vua
Ưu Điền Vương tức Ưu Đà Diên
Vương, Đảnh Sanh Vương (1), Ác
Sanh Vương tức Lưu Ly Vương, A
Xà Thế Vương và 4 vị chúa là Tối
48
49

Hảo Binh Mã Chủ, Dung


Nhan Binh Mã Chủ, Xí
Thạnh Binh Mã Chủ, Kim
Cang Binh Mã Chủ.
Tám vị vua chúa này
dẫn theo binh mã, đến
nơi dàn trận đội ngũ đứng
ra hai bên tranh cãi, ai
cũng muốn dành độc
quyền Xá Lợi về phần mình. Lúc đó có vị đại thần Ưu Ba Kiết
đứng ra can gián nói: “Xin chư vị Đại Vương chớ có tranh nhau.
Xá Lợi Phật là phải phổ quân chia đều cho thiên hạ khắp nơi cúng
dường chiêm ngưỡng.”
Đột nhiên có Thích Đề Hoàn Nhân xuất hiện, ngài vì lợi ích
trời người mà phát ngôn nói: “Chư Thiên chúng tôi cũng có phần
chứ.”Thế rồi, tiếp theo là A Nậu Đạt Long Vương (2), rồi Văn Lân
50

Long Vương, Ỷ Na Bát


Long Vương đồng tuyên
bố: “Chúng tôi cũng phải
có phần nữa.”
Sau cùng đại thần
Ưu Ba Kiệt lại phải
khuyên gián: “Chư quân
hãy dừng ngay tranh chấp, xin nghe thần giải bày. Xá Lợi nên
chia đồng đều. Tức chia làm 3 phần: 1 phần cho chư Thiên, 1
phần cho các Long Vương, 1 phần cho 8 vị Đại Vương. Cách phân
chia dùng úng (cái lọ) đong lường. Phần của quý vị đem kim úng
đến nhận Xá Lợi thạch (hạt lớn). Phần dư thừa hạ thần đựng vào
úng lọ và phong miệng mật kín.”
Hòa giải xong, đại thần Ưu Ba Kiết liền phân chia Xá Lợi
Phật. Phần Xá Lợi của Thiên Vương được các vị đem về cỏi trời
xây tháp cúng dường. Phần
của Long Vương được Xá
Lợi đem về Long Cung ở
biển cả; Phần của 8 vị vua
chúa được, đem Xá Lợi về
bổn quốc xây tháp. Phần Xá
Lợi của Ưu Ba Kiết được 3
51

đấu dùng kim úng đem về


trong nước dựng tháp cho
dân chúng lễ bái cúng
dường. Phần tro và cát Xá
Lợi được 49 hộc, xây 49
tháp. Tại nơi Xà Duy (3)
cũng xây dựng ngôi bảo
tháp cao 49 nhẫn (4) Lễ
khánh thành bảo tháp có hương đăng hoa quả cúng dường, dựng
treo cờ phướn, tàng phan lọng cái rất trang nghiêm, tiếng âm
nhạc reo vang cả ngày, suốt đêm không dứt. Nhờ thần uy đức
Phật phóng quang soi chiếu, ban đêm sáng ngời không khác ban
ngày, thường có thần vương thủ trì bảo hộ.
GIẢI THÍCH Ý NGHĨA PHÂN CHIA XÁ LỢI PHẬT
1. Đảnh Sanh Vương: Đảnh
Sanh, Phạn ngữ Murdhagata,
dịch âm tên Văn Đà Kiệt, gọi tắt
Đảnh. Lại có tên Phạn
Mandhatr, âm dịch Mạn Đà La,
gọi tắt Mạn Đa. Dịch ý tên Ngã
Trì, Trì giới, Trì dưỡng, Lạc
dưỡng, Tối Thắng. Là vị Chuyển
52
53

Luân Thánh Vương ở thời


cổ xưa Ấn Độ. Đảnh Sanh
Vương là con của vua
Chuyển Luân Ô Bồ Sa Tha
(Uposatha, nghĩa trai giới,
trường tịnh) do mụt bướu
thịt trên đảnh đầu ngài mà
sanh ra, Đảnh Sanh Vương diện mạo đoan chánh đặc thù, có 32
tướng tốt khi ra đời, mắt phát tiếng Ma Đà Đa (Mandhata, Trì
Ngã). Sau khi sanh ra, có 6 vạn phu nhơn nhận thấy bèn đem
lòng mến thương, đều bảo để ta nuôi hài nhi cho, nên có tên Trì
Dưỡng. Lớn lên vương có thần thông thống trị 4 châu thổ lớn,
thọ mạng vô lượng. Ở đằng sau hữu bể (xương đùi mặt) của
ngài có một bướu thịt sanh ra một nam đồng đặt tên là Bể
Sanh. Trong Q.41 châu
kinh Trung A Hàm, kinh
Trường A Hàm Q.22
phẩm nhân duyên và kinh
Đại Lâu q.6 đều có ghi
chép về việc có liên quan
đến vương. Kinh Trung A
Hàm Q.11 nói, Vương
54
55

thăng cỏi trời 33, Đế Thích


từng chia xẻ nửa ghế cho
ngài , sau ngài muốn chiếm
hết toàn ghế, bỗng trợt
chân bị đọa xuống Diêm Bồ
Châu, gây nên trọng bệnh.
Vương tuy được 4 châu
Diêm Phù, hưởng lạc ngũ dục, song vẫn không thỏa mãn đến
mạng chung. Kiếp đó Vương là tiền thân của Thích Tôn. Chương
Sở Luận Quyển Thượng rằng, sơ thời của thành kiếp (thời khai
thiên lập địa) Diêm Phù Đề có 5 vị vua, từ triều sơ đại đến Tịnh
Trai Vương là 5 đời vua thời Thành Kiếp, đến Đảnh Sanh Vương là
đời thứ 6. Kinh Đại Bửu Q.76 nói đô thành vương cư trú là A Du
Xà (Ayodhya)
2. A Nậu Đạt Long Vương: Phạn ngữ Anavatapta, là một
trong 8 Đại Long Vương, trú ở
hồ A Nậu Đạt, tránh xa 3 hoạn
nạn. Vua Rồng này đức tánh
thù thắng nhứt trong các rồng
có hình dáng ngựa. Theo kinh
Trường A Hàm Q.18 nói, hầu
hết các Long Vương ở Diêm Phù
56
57
58
59

Đề, ngoại trừ A Nậu Đạt


Long Vương, đều bị 3
hoạn sau đây: (1) Các
rồng bị gió nóng và cát
nóng thổi dính thân
thiêu đốt da thịt và
xương tủy cực kỳ khổ
não, (2) Tất cả Long
Cung mỗi khi bị gió độc bảo tố nổi lên thổi vào cung bay mất hết
bảo trân, y phục khiến rồng hiện lộ thân, rất là phiền não. (3) Khi tất
cả Long Vương tụ hội giải trí hưởng lạc trong cung, thường bị Kim Xí
Điểu vào cung quấy nhiễu. Vì vậy, các rồng thường lo sợ khủng
khiếp, còn A Nậu Đạt Long Vương thì lại không lo phải ưu hoạn này.
3. Xà Duy: dịch âm chữ Phạn jhapeti, nghĩa lả hỏa táng,
cũng như các từ Trà
Tỳ, Đồ Tỳ, Xà Tỳ, Da
Duy đều đồng nghĩa.
4. Nhẫn: là đơn
vị đo lường, 1 nhẫn =
8 thước ta = 2.5 mét
60
61

Câu Thi Na (Cushinagar,


Cushinara, Cusinara hay Kasia)
là nơi Đức Phật Thích Ca nhập
diệt. Đây là bài viết của Ni Sư
Thích Nữ Giới Hương trong Ban
Mai Xứ Ấn tuyển tập các tiểu
luận Phật Giáo, Tập I trình bày
Chiêm Bái Phật Tích từ trang
245 đến trang 264.

Câu Thi Na Kushinagar với dân số 26,000 cách Gorakhpur


55 cây số, Lâm Tì Ni 175 cây số, Thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu)
146 cây số, Thành Xá Vệ (Sravasti) 274 cây số và Varanasi 270
cây số. Một trong những lời tuyên bố cuối cùng của đức Phật
trước khi nhập diệt là
Kushinagar, nơi ngài nhập
niết bàn là một trong những
thánh địa quan trọng. Có ba
lý do để Đức Phật chọn nơi
đây để nhập diệt. Một, đây
là nơi thích hợp để thuyết
62

kinh Đại Thiện Kiến Vương (Maha-


sudassana suttanta) hai là để nhận du
sĩ ngoại đạo Tu Bạt Đà La (Subhadda)
vào Tăng đoàn trước khi ngài nhập diệt
và ba là có Bà La Môn Drona, người có
thể giải quyết việc phân chia Xá Lợi.
Hơn nữa, chính tại nơi đây, đã bảy lần
trong những kiếp trước Đức Phật đã bỏ
thân mạng và đây là lần thứ tám.

Đức Phật cùng với Tôn giả Anan rời núi Linh thứu để đi về
phía Bắc Ấn Độ khi ngài 80 tuổi. Sau khi nghỉ đêm tại Nalanda,
ngài đã vượt qua sông Hằng tại Varanasi lần cuối và đi về làng
Beluva gần Tỳ Xá Ly (Vaishali). Trong khi ở lại làng Beluva để
tránh mùa mưa, Đức Phật đã nói với Tôn giả Anan ngài đã cảm
thấy bịnh yếu và có lẽ vì tuổi già và ngài đã tiết lộ rằng là ngài sẽ
nhập niết bàn trong vòng ba
tháng nữa. Tại Tỳ Xá Ly, Đức
Phật cũng đã ba lần nói với
Tôn giả Anan khả năng của
Đức Phật có thể kéo dài mạng
sống cho tới tận kiếp này.
63

“Này Ananda, bất cứ


ai thường tu bốn Thần Túc
nhuần nhuyễn, chắc chắn,
bền vững, và khéo léo thời
vị ấy có thể kéo dài mạng
sống cho đến một kiếp hay
phần kiếp còn lại. Này
Anan, Như Lai đã thường tu
bốn Thần Túc nhần nhuyễn, chắc chắn, bền vững và khéo léo.
Này Anan nếu muốn, Như Lai có thể sống đến một kiếp hay phần
kiếp còn lại”

Nhưng Tôn giả Anan không nhận hiểu sự gợi ý sâu sắc này.
Đức Phật liền bỏ ý định kéo dài mạng
sống của mình. Sau đó, khi ngài Anan
hiểu được lời của Đức Phật, ngài liền
khẩn khoản xin Đức Phật kéo dài
mạng sống của ngài, nhưng Đức Phật
đã từ chối vì quá trễ và ngài đã hứa
với các ác ma sau ba tháng ngài sẽ
nhập niết bàn rồi. Dù bệnh yếu, ngài
cũng cố du hành đến Tỳ Xá Ly. Ngài
kêu gọi triệu tập chư Tăng đang trú
64

tại Tỳ Xá Ly hay ngoài Tỳ


Xá Ly hãy đến nhóm họp tại
Maha vana Kutagarasara và
ngài khuyến nhắc chúng đệ
tử rằng tất cả những pháp
thoại của ngài đều được
gói trọn trong 37 Phẩm
Trợ Đạo.

“Này các Tỳ Kheo, những pháp do Như Lai chứng ngộ và


giảng dạy cho các ngươi, các ngươi phải khéo học hỏi, thực
chứng tu tập và truyền bá để phạm hạnh được lan rộng trường
tồn, vĩnh cửu, vì hạnh phúc, ví an lạc cho chúng sinh và vì lòng
thương tưởng cho cõi trời và người. Những gì là các pháp do Như
Lai chứng ngộ ? Chính là Bốn Niệm Xứ, Bốn Chánh Cần, Bốn
Thần Túc, Năm Căn,
Năm Lực, Bảy Bồ Đề
Phần và Tám Chánh
Đạo. 37 Phẩm trợ Đạo
được chia thành 7 nhóm
như sau:
65

1. Bốn Niệm Xứ (Smrityupasthana): Chánh niệm quán


sát cái gì xảy ra nơi Thân (Kaya), Thọ (Vedana), Tâm (Citta),
Pháp (Dhamma). Đây là con đường độc nhất (ekayana) để đạt
giải thoát.

2. Bốn Chánh Cần (Samyakaprahana): là tinh tấn


đoạn trừ các ác pháp đã sanh khởi. Tinh tấn ngăn cản các ác
pháp sanh khởi và chưa sanh khởi. Tinh tấn làm phát sanh thiện
pháp đã sanh khởi và tinh tấn phát triển các thiện pháp sanh khởi
và chưa sanh khởi.
66

3. Tứ Như Ý Túc
(Riddhipadda): Dục Như Ý Túc,
Tinh Tấn, Niệm, Định.
4. Năm Căn (Indriya):
Tín căn, Tấn căn, Niệm căn, Định
căn và Tuệ căn.
5. Năm Lực (Balas): Tín
lực, Tấn lực, Niệm lực, Định lực và
Tuệ lực.
6. Thất Giác Chi
(Sambodhyanga): Niệm, Trạch
pháp, Tinh tấn, Hỷ, Khinh an, Định và Xả.
7. Trung Đạo (Magga): Con đường Trung Đạo là không
quá cực đoan hành hạ xác thân hoặc quá thụ hưởng dục lạc. Đức
Phật đã dạy rằng chân lý của ngài cũng không phải là ở hai cực
đoan thường hằng
(Shashvata) hay hủy
diệt (Annihilation). Do
giác ngộ nguồn gốc và
sự biến đổi của thọ
(vedana). Đức Phật đã
giải thoát mọi ràng
67

buộc và nhận được chân lý


tối hậu. Chân lý này rất
sâu và tế nhị, vượt ngoài lý
luận biện chứng.

Hoặc có nơi nói Bát


Chánh Đạo(Ariya
Atthangika Magga), thay
cho con đường Trung Đạo
là tu tập Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp,
Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định.

Can đảm chịu đựng thể lực già yếu. Đức Phật lại cùng với
Tôn giả Anan du hành hướng về Câu Thi Na Kushinagar, ngang
qua làng Pava và nghỉ chân tại gần làng nơi mà vừa có một đoàn
người đi buôn mới đi ngang. Khi đến làng Pava, Kunda (Chunda)
con trai của bà Metalsmith đã dâng cúng Đức Phật một bửa cơm
với nhiều loại nấm thơm.
Sau khi dùng xong, Đức
Phật bảo rằng đi chôn số
thức ăn còn lại để không
ai bị nhiễm độc. Ngài nói
rằng không thấy một ai ở
68

cõi trời, người, ma giới, phạm thiên


giới, không một người nào trong
chúng Sa môn, Bà La môn, giữa
những thiên và nhân dùng món
nấm này mà có thể tiêu hóa được,
trừ Như Lai. Sau đó, kunda rất đau
khổ và hối hận vì chính mình mà
Đức Phật bị bịnh. Đức Phật an ủi
ông bằng cách tán thán công đức
vô lượng vì ông đã cúng dường
thực phẩm cuối cùng trước khi ngài nhập diệt. Công đức này
cũng bằng cúng dường ngài trước khi giác ngộ.

Có hai sự cúng dường thực phẩm đồng một phước báu và


đồng một quả dị thục, lợi ích hơn các sự cúng dường thực phẩm
khác. Nhờ công đức này, Cunda sẽ được tăng tuổi thọ, tăng sắc
đẹp, hưởng an lạc,
được tiếng thơm,
sanh lên cõi trời và
được nhiều uy
quyền.
69

Sau khi dùng món cơm nấm


của Cunda, Đức Phật bị nhiễm bệnh
kiết lỵ nặng, đau đớn gần như chết,
nhưng với chánh niệm tỉnh giác.
Ngài nhẫn chịu cơn đau hành hạ.
Rồi Thế Tôn nói với Tôn giả Anan,
hãy đi đến Câu Thi Na Kushinagar.
Đi một đoạn Thế Tôn cảm thấy mệt
mỏi, ngồi nghỉ dưới bóng cây cạnh
con sông nhỏ và bảo Anan đi lấy
nước cho Thế Tôn uống. Khi nghe
nói như vậy, tôn giả Anan bạch rằng: “ Bạch Thế Tôn vừa có 500
cổ xe vừa chạy qua làm nước bị khuấy động và vẩn đục. Bạch
Thế Tôn gần đây có sông Kakuttha nước sạch mát mẽ. Chúng ta
có thể đến đó để
uống.’

Cả ba lần Đức
Phật đều từ chối đi
và bảo Tôn giả
Anan đi lấy nước.
Tôn giả đành mang
bát và đi múc nước.
70

Nhưng khi đến nơi thì nước


trở thành trong trẻo, sáng
lặng và không có vẫn đục.
Tôn giả thốt lên: “Thật vi
diệu thay! Thật hi hữu thay!
Thần lực của Như Lai đã
khiến con sông cạn bị khuấy
động và vẫn đục này trở
thành trong trẻo, sáng lặng
và không bị vẫn đục.” Và Tôn giả mang nước về thỉnh Đức Phật
uống. Lúc bấy giờ ông Pukkusha thuộc dòng họ Malla, đệ tử của
đạo sĩ Uất Đà Ka La Ma (Alara Kalama là vị đao sĩ cho là đạt được
thiền Vô Sở Hữu Xứ là tối thượng) từ Câu Thi Na đi ngang và đến
bạch với Thế Tôn rằng có một lần khi ngài Uất Đà Ka La Ma ngồi
nghỉ dưới gốc cây có 500 cổ xe đi ngang qua gần mà vẫn không
hề hay biết, hay nghe tiếng và bụi đỏ từ các cổ xe khuấy động
nơi đường đất đã bám đầy áo
ngài Uất Đà Ka La Ma. Sự
trầm tĩnh và định lực của bậc
xuất gia thực hy hữu. Khi ấy
Đức Phật đã nói lên một sự so
sánh rằng:
71

“Này Pukkhusa, ông


nghĩ thế nào ? Cái gì khó
thực hiện hơn? Một người
trong khi giác tỉnh, còn thức
khong thấy hay nghe tiếng
500 cổ xe vừa đi ngang với
một người đang giác tỉnh còn
thức cũng không thấy hay
nghe tiếng trời đang mưa
tầm tả ào ào, sấm chớp sáng
lòa vang động.”

“Bạch Thế Tôn, chẳng


những 500 cổ xe, mà cho
đến 600, 700, 800, 900 hoặc 1,000; cho đến trăm ngàn cổ xe
cũng không thể so sánh được với người đang giác tỉnh, đang thức
mà không thấy hay nghe tiếng trời đang mưa tầm tả, ào ào sấm
chớp sáng lòa vang động.”

Này Pukkhusa, có một lần Như Lai ở Atuma, đi qua đi lại


ngoài trời trước nhà đập lúa. Lúc ấy trời mưa tầm tã ào ào, sấm
chớp sáng lòa vang động, có hai anh em nông phu và bốn con bò
đực bị sét đánh chết. Nhưng ta vẫn không thấy hay nghe biết.
Một hiền giả đi đến và tán than rằng: “Thật vi diệu thay! Thật hy
72

hữu thay! Sự trầm tĩnh của vị


xuất gia, khi thức tỉnh dù trời
đang mưa tầm tã ào ào, sấm
chớp sáng lòa vang động, có
hai anh em nông phu và bốn
con bò đực bị sét đánh chết
mà vẫn không thấy hay không
nghe gì hết!.”

Nghe đến đây Pukkhusa


bạch Thế Tôn rằng:

“Bạch Đức Thế Tôn, lòng tin của con đối với đạo sĩ Uất Đà Ka
La Ma như bị cuốn theo luồng gió lớn và thả trôi theo dòng nước
cuốn. Vi diệu thay! Hy hữu thay! Bạch Thế Tôn như người dựng
đứng lại những gì bị quăng xuống, phơi bày ra những gì bỉ phủ
kín, chỉ đường cho người lạc hướng, chiếu đèn vào bóng tối.
Chánh pháp đã được
Thế Tôn dùng nhiều
phương tiện để trình
bày. Nay xin cho con
được quy y Phật, Pháp
và Tăng.. Mong cho con
73

được làm đệ tử của ngài, từ đây trở đi


cho đến ngày mạng chung, con trọn
đời quy ngưỡng.” Rồi Pukkusa thành
tâm dâng cúng Phật hai bộ y màu kim
sắc sáng chói. Sauk hi Pukkusa từ biệt
đi. Tôn giả lấy bộ y choàng cho Thế
Tôn và khi đặt lên thân Thế Tôn màu
sắc sáng chói của y như bị lu mờ. Tôn
giả Anan ngạc nhiên thốt rằng:

“Bạch Thế Tôn, thật vi diệu thay! Thật là hy hữu thay! Sự


thanh tịnh và sáng chói màu da của Như Lai. Khi con choàng y
màu kim sắc vàng chói lên thân ngài thì màu sắc sáng chói của
áo như bị lu mờ đi.”

“Này Anan, thật vậy, có hai trường hợp màu da của Như Lai
sáng chói và thanh tịnh.
Thế nào là hai ? Đó là đêm
Như Lai chứng Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác và
vào đêm Như Lai nhập niết
bàn.”
74
75

“Này Anan, hôm nay khi canh cuối đã


mãn, tại Upavattana ở Câu Thi Na
Kushinagar trong rừng Sala của dân
Malla, Như Lai sẽ diệt độ.”

Rồi Thế Tôn cùng Tôn giả Anan


và chúng Tỳ Kheo đi đến song
Kakkuttha xuống tắm và lội qua bờ
kia, đi đến rừng xoài và tại đây Đức
Phật mệt mỏi nằm nghỉ. Sau đó lại đi
tiếp qua bờ bên kia sông Hirannavati đến Câu Thi Na. Upavatama
rừng Sala của tộc Malla. Vừa đi đến nơi Đức Phật dạy:

“Này Anan, hãy trải chỗ nằm, đầu hướng về phía bắc giữa
hai cây Sala song thọ. Này Anan nay ta rất mệt mỏi và muốn nằm
nghỉ.” Với chánh niệm, tỉnh giác, Thế Tôn đã nằm xuống phía
hông bên phải như dáng
nằm con sư tử và hai chân
để chồng lên nhau. Khi đó
cây Sala song thọ trổ hoa
trái mùa, tràn đầy cành lá.
Hoa Sala rơi rụng xuống
phủ đầy trên thân Như Lai
76

để cúng dường ngài. Nhạc


trời trên không trung trổi
dậy để cúng dường Như Lai.
Nhân cơ hội đó, Đức Phật
dạy rằng:

“Này Anan, cây Sala


song thọ trổ hoa trái mùa,
tràn đầy cành lá. Hoa Sala rơi xuống phủ đầy trên thân Như Lai
để cúng dường. Những thiên hoa từ trên không trung rơi xuống
phủ đầy thân Như Lai để cúng dường. Nhạc trời trên không trung
trổi dậy để cúng dường Như Lai. Nhưng, này Anan như vậy
không phải kính trọng, tôn sùng cúng dường hay kính lễ Như Lai.
Này Anan, nếu có Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Cư Sĩ nam hay nữ nào
thành tựu chánh pháp và tùy pháp, sống chơn chánh trong chánh
pháp, hành trì đúng chánh pháp, thời người ấy mới đúng là kính
trọng, tôn sùng, đảnh
lễ và cúng dường Như
Lai với sự cúng dường
tối thượng. Do vậy,
này Anan, các ngươi
phải tu tập như vậy.”
77

Lúc bấy giờ Tôn giả Upavana


đứng trước mặt và quạt cho Thế Tôn,
nhưng ngài kêu hãy đứng tránh qua
một bên vì có Chư Thiên ở trên hư
không, Thiên Thần ở trên đất, nhưng
còn tâm phàm đang lăn lộn dưới đất và
khóc than rằng: “Thế Tôn nhập diệt
quá sớm. Con mắt pháp của thế gian
biến mất quá sớm.” Và có các Chư
Thiên đã diệt trừ ái dục, bình thản, tỉnh
giác tuệ tri như sau: “Các hành là vô thường không thể thay đổi
được.”.

Sau đó Đức Phật dạy có bốn Thánh tích mà Phật tử nên đến
đảnh lễ tôn kính và cúng
dường để gieo trồng công
đức. Đó là Lâm Tỳ Ni, nơi
Như Lai Đản sanh; Bồ Đề
Đạo Tràng, nơi Như Lai
chứng ngộ Vô Thượng Chánh
Đẳng Giác; Lộc Uyển, nơi
Như Lai chuyển pháp luân; và
Câu Thi Na, nơi Như Lai nhập niết bàn.
78

“Này Anan, những ai với tâm hoan hỷ đến chiêm bái đảnh lễ
những Thánh tích này, sau khi thân hoại mạng chung sẽ sanh về
cõi thiện thú và cõi trời.”

Lúc đó Anan đại diện chư Tăng bạch Như Lai về vấn đề hậu
sự sau Khi Như Lai nhập Vô Thượng Niết Bàn. Đức Phật dạy rằng:

“Này Anan, các ngươi đừng nên quá lo lắng về vấn đề cung kính
Xá Lợi Như Lai. Này Anan, hãy nổ lực tinh tấn hướng về tự lực,
sống không phóng dật. Này Anan, có những học giả Sát Đế Lợi,
Bà La Môn, Phật Tử tín tâm sẽ lo sự thờ phượng xá lợi của Như
79

Lai.”. và Đức Phật cũng ân cần dạy


bảo về việc trà tỳ (hỏa táng) nhục
thân và tôn thờ xá lợi của ngài nên
được tôn thờ giống như tôn thờ xá
lợi của một bậc Chuyển Luân Thánh
Vương. Đức Phật đã chỉ dạy cách
thức chuẩn bị lễ trà tỳ và xây tháp
thờ xá lợi tại giao lộ của ngã tư để
những ai với tâm hoan hỷ kính tin
đảnh lễ Xá Lợi Phật sẽ đến dễ dàng
và từ công đức này họ được hạnh
phúc, an lạc lâu dài.

“Này Anan, thân của Chuyển Luân Thánh Vương được cuốn
tròn trong vải lanh mới. Rồi lại được quấn thêm với vải gai bện,
vải mới và tiếp tục như vậy cho tới năm trăm lớp vải. Rồi thân
được đặt vào một cái
hòm dầu bằng sắt. Hòm
sắt này lại được đặt trong
một hòm sắt khác. Sau
khi đặt hòm lên giàn
thiêu, họ đã tưới đủ loại
hương thơm và xây tháp
80

thờ xá lợi ở ngã tư giao lộ


để tưởng nhớ. Này Anan,
đó là những gì họ đã làm
cho bậc Chuyển Luân
Thánh Vương và họ nên xử
thân Như Lai cũng như
vậy. Tháp thờ xá lợi nên
được xây ở ngã tư giao lộ. Và bất cứ ai đặt vòng hoa hoặc dầu
thơm, hoặc hương bột nhiều màu với lòng thành cúng dường
đảnh lễ tháp, hay khởi tâm hoan hỷ; vị ấy sẽ đạt được công đức
lớn và an lạc lâu dài.”

Đức Phật cũng dạy rằng có bốn bậc thánh xứng đáng được
xây tháp cúng dường. Một là Như Lai, A La Hán Chánh Đẳng
Chánh Giác; Hai là bậc Độc Giác, ba là Thanh Văn và cuối cùng là
Chuyển Luân Thánh
Vương. Sau đó Tôn giả
Anan bạch rằng:

“Bạch Thế Tôn,


Thế Tôn chớ có diệt độ
tại thị trấn nhỏ bé này,
tại thị trấn hoang vu
81

này. Bạch Thế Tôn, có


những thành phố lớn như
Chiêm Bà (Campa),
Thành Vương Xá
(Rajagaha), Thành Xá Vệ
(Sravati), Sa Kỳ (Saketa),
Kiều Thương Di
(Kasambi),Ba La Nại
(Varanasi). Nếu Thế Tôn diệt độ tại các thành phố đó, sẽ có các
chúng Sát Đế Lợi, Bà La Môn, Thương gia tín tâm với Như Lai sẽ
cúng dường thân xá lợi của Như Lai.”

“Này Anan, chớ có nói đây là thị trấn nhỏ bé và hoang vu.
Này Anan thuở xưa có vị vua tên là Đại Thiên Kiến
(Mahasudassana). Vị này là Chuyển Luân Vương trị vì như pháp,
là vị pháp vương thống lãnh bốn thiên hạ, chinh phục hộ trì quốc
dân, đầy đủ bảy báu. Này
Anan, Câu Thi Na
Kushinagar là kinh đô của
vua Đại Thiên Kiến, tên là
Câu Xá Bà Đề (Kusavati).
Phía đông và phía tây
rộng đến 12 do tuần. Phía
82

bắc và phía nam rộng đến 7 do tuần. Này Anan kinh đô Câu Thi
Na này rất giàu có, thịnh vượng và dân cư đông đúc, thực phẩm
giàu có, sung mãn. Này Anan, kinh đô Câu Thi Na ngày đêm vang
dậy chin loại tiếng là tiếng voi, ngựa, xe, trống lớn, trống nhỏ,
tiếng tỳ bà, tiếng xập xỏa, tiếng chuông và tiếng thứ mười là hãy
ăn uống đi..”

Rồi Tôn giả Anan đi vào Câu Thi Na báo với dân Malla rằng
đêm nay vào canh cuối cùng Như Lai sẽ diệt độ. Dân Malla nghe
xong liền lăn lộn dưới đất khóc than thảm thiết: “Thế Tôn nhập
diệt quá sớm! Con mắt pháp của thế gian biến mất quá sớm!”.
83

Lúc bấy giờ du sĩ ngoại đạo Tu Bạt


Đà La (Subhadda) đã 120 tuổi tu
theo phái ngoại đạo Ni Kiền Tử nghe
tin này liền nghỉ rằng đến đảnh lễ
Như Lai lần cuối và có thể Như Lai
giải nghi dùm ông. Nhưng cả ba lần
xin vào đều bị ngài Anan từ chối vì
Đức Phật đang bịnh rất yếu không
thể tiếp được. Biết được nhân duyên đã đến, Đức Phật cho mời
du sĩ Tu Bạt Đà La vào. Đức Phật giảng cho ông nghe về Bát
Chánh Đạo là con đường tối thượng vi diệu đưa đến giải thoát an
lạc mà Như Lai và các đệ tử của ngài đã tu tập. Nghe pháp xong,
Tu Bạt Đà La đạt pháp nhãn chứng quả A La Hán. Sau khi được
Đức Phật nhận làm đệ tử xuất gia, ông xin phép được nhập diệt
trước Đức Phật một chút vì
đau lòng khi thấy Đức Phật
nhập niết bàn. Nói xong, ông
đến bên rừng ngồi ngay thẳng
an lành mà nhập định. Chư
Tăng và đại chúng thấy cảnh
như thế bỗng rộ lên khóc nức
84

nở, than khóc vang động cả


khu rừng. Đức Phật thấy cảnh
đau lòng ấy liền ôn tồn dạy
rằng: đừng có buồn thương,
sầu đau như những người thế
gian. Đừng để mất chánh niệm,
hãy giữ tâm thanh tịnh, một
lòng tu tập để cầu giải thoát. Luân hồi là cõi khổ vô cùng do vô
minh sai xử, duyên theo trần cảnh mà tạo nghiệp sanh tử. Tham,
sân, si đầy dẫy khiến mãi lênh đênh trong sáu nẽo khổ. Bậc trí
nên xa lánh và nhờm gớm. Rồi ngài dạy các chúng Tỳ Kheo, sau
khi Như Lai nhập diệt hãy lấy giới luật làm thầy như sau:

“Này Anan, pháp và luật Như Lai đã giảng dạy sau khi ta
diệt độ, chính pháp và luật ấy sẽ là đạo sư của các ngươi.”

“Này các Tỳ Kheo, các pháp hữu vi là vô thường, hãy tinh


tấn chớ có phóng dật.” Đó
là lời cuối cùng của Như
Lai. Sau đó Thế Tôn nhập
định sơ thiền, xuất Sơ
thiền, ngài nhập Nhị thiền,
xuất Nhị thiền ngài nhập
85

Tam thiền, xuất Tam thiền ngài


nhập Tứ thiền, xuất Tứ thiền ngài
nhập Không Vô Biên Xứ, xuất
Không Vô Biên Xứ ngài nhập định
Thức Vô Biên Xứ, xuất Thức Vô
Biên Xứ ngài nhập định Vô Sở
Hữu Xứ, xuất Vô Sở Hữu Xứ ngài
nhập định Phi Tưởng Phi Phi
Tưởng Xứ, xuất Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ ngài nhập Diệt Thọ
Tưởng Định, xuất Diệt Thọ Tưởng Định, ngài nhập Phi Tưởng Phi
Phi Tưởng Xứ Định. Xuất Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ ngài nhập
Vô Sở Hữu Xứ Định. Xuất Vô Sở Hữu Xứ, ngài nhập Thức Vô Biên
Xứ Định. Xuất Vô Biên Xứ, ngài nhập Hư Không Vô Biên Xứ Định,
xuất Hư Không Vô Biên Xứ, ngài nhập Tứ Thiền. Xuất Tứ thiền,
ngài nhập Tam Thiền. Xuất Tam Thiền ngài nhập Nhị thiền. Xuất
nhị thiền ngài nhập Sơ thiền. Xuất Sơ thiền, ngài nhập Nhị Thiền.
Xuất Nhị Thiền ngài nhập
Tam Thiền. Xuất Tam thiền
ngài nhập Tứ thiền. Xuất Tứ
thiền ngài liền diệt độ.

Khi Thế Tôn nhập diệt,


hoa Sala đã rơi xuống lả chã
86

như mưa. Đại địa chấn động


khủng khiếp, râu tóc dựng
ngược và sấm trời vang động
khắp mười phương. Khi ấy
những Tỳ Kheo chưa giải thoát
tham ái, Chư Thiên ở trên hư
không và Thiên thần ở trên đất nhưng còn tâm phàm biết rằng
Như Lai đã nhập niết bàn vĩnh viễn nên đã lăn lộn qua lại, khóc
thương thảm thiết rằng: “Thế Tôn nhập diệt quá sớm, con mắt
pháp của thế gian đã biến mất quá sớm.” Nhưng những Tỳ Kheo
hay Chư Thiên đã diệt trừ tham ái, an trú chánh niệm, tỉnh giác
tuệ tri như sau: “Các pháp là vô thường, không thay đổi được.”

Sáu ngày liên tục sau đó, dân


Câu Thi Na mang nhiều hương,
tràng hoa, nhạc khí, năm trăm cuốn
vải đến rừng của dòng họ Malla
cúng dường thân Thế Tôn. Vào ngày
thứ bảy, dân xứ Malla đảm nhiệm
tang lễ chuẩn bị cử hành lễ trà tỳ
nhục thể của Đức Phật. Thế nhưng
giàn hỏa không thể nào đốt cháy
được và đợi mãi đến khi ngài Đại Ca
87

Diếp (Maha Kassapa), một


trong các đại đệ tử của
Đức Phật trở về để đảnh
lễ Đức Phật lần cuối.

Tôn giả Đại Ca Diếp


đã đi ngang tháp thờ ở
Malla, Makuta Bhandana
rồi đến giàn hỏa thiêu Đức Phật với y phủ một bên vai, ngài chắp
tay đảnh lễ, đi nhiễu ba vòng quanh giàn hỏa, lạy chân Phật và
năm trăm Tỳ Kheo cũng làm như thế. Khi việc đảnh lễ đã xong,
giàn hỏa tự bốc cháy. Và khi nhục thân của Đức Phật đã cháy,
những gì là từ da ngoài, da mỏng, thịt, dây gân hay nước giữa
các khớp xương, tất cả đều cháy sạch, không có tro than, chỉ còn
có xương Xá Lợi mà thôi. Giống như khi dầu bị cháy, thì tất cả
đều cháy sạch không còn có tro hay than, và tất cả năm tram lớp
vải quấn, ngay cả những lớp
trong và ngoài đều bị cháy rụi.
Khi thân của Đức Thế Tôn cháy
rụi, một dòng nước từ hư
không chảy xuống, một dòng
nước từ cây Sala cũng phun lên
để tưới tắt giàn hỏa Thế Tôn,
88

và dân xứ Malla của Câu Thi


Na dùng nước và mọi loại
hương để dập tắt giàn hỏa.
Rồi dân Malla đặt Xá Lợi Phật
vào giảng đường trong bảy
ngày, tôn trọng cung kính,
đảnh lễ, cúng dường với các
điệu múa hát nhạc và nhiều
vòng hoa hương cúng dường.

Trong lễ trà tỳ thân của các A La Hán giác ngộ, thường tìm
thấy được xá lợi (một số người nói nó bằng tinh thể) mà người
mắt thường không tìm thấy được. Từ Sarira được dùng để chỉ
vật thể. Lời tường thật trong Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha
Parinibbana Sutta) rõ ràng là sau cuộc hỏa táng Đức Phật, không
có tro tàn, chỉ có xương Xá Lợi mà thôi. Các nhà khảo cổ cũng đã
tìm thấy những mẩu
xương của Đức Thế Tôn.
Trong Kinh Đại Bát Niết
Bàn (Maha Parinibbana).
Sarira là ám chỉ cho thân
thể của Đức Phật. Sau khi
hỏa táng, ý nghĩa của từ
89

này được chỉ cho Xá Lợi


của Phật. Để tránh sự mơ
hồ, từ Sarira (liên quan
đến thân thể, nghĩa là vật
chất cụ thể) có thể thích
hợp hơn khi ám chỉ Xá Lợi
của Đức Phật

Thờ Xá Lợi Phật thì không phải là tô điểm cho chính bản
thân Phật mà là công đức cho những ai đến đảnh lễ, cúng dường
với lòng thành như đã được nói trong kinh. (Lúc nhớ tưởng: Đây
là tháp thờ Xá Lợi của Như Lai, tâm chúng sanh trở nên an lạc và
rồi sau khi nhục thân của họ tan rã, họ sẽ sanh vào thiện giới,
chư thiên. Đó là tại sao xây tháp ở ngã tư giao lộ)

Khi tin truyền Đức Phật đã nhập niết bàn, những vị lãnh
đạo của tám nước đã
muốn thỉnh cầu Xá
Lợi của Đức Phật. Bà
La Môn Dona đã là
người trung gian và
đọc bài kệ khuyên
nhũ rằng:
90

Này các Tôn giả hãy


lắng nghe lời tôi nói

Nhẫn nhục là lời Đức


Phật dạy

Thật không tốt nếu có


tranh chấp

Khi phân chia Xá Lợi


của Đấng Giác Ngộ

Hãy liên kết trong tình thương yêu hòa hợp

Hoan hỷ chia nhau Xá Lợi tám phần

Hãy xây tháp ở khắp nơi

Để khắp mười phương tăng thêm lòng tôn kính.

Bà La Môn Dona đã chia Xá Lợi thành tám phần bằng nhau


cho những sứ thần của đất nước
họ như

1/ Nước Ma Kiệt Đà của vua A Xà


Thế (Ajatasattu Vedehiputta)
91

2/ Tộc người Licchavi ở Tỳ Xá


Ly (vesaly/Vaisaly)

3/ Dòng họ Thích (Sakya) ở


Thành Ca Tỳ La Vệ
(Capilavatthu)

4/ Tộc người Buli ở Allakappa

5/ Tộc người Koli ở Ramagama

6/ Bà La Môn Vethadipaka

7/ Tộc người Malla ở Pava

8/ Câu Thi Na (Kushinagar)

Mỗi thành phố của tám nước này đều xây tháp để thờ Xá
Lợi Phật. Riêng Bà La Môn Dona cũng xây tháp để thờ bình đong
chia Xá Lợi Phật.
Tộc người Moriya ở
Pipphalavana đã
đến quá trễ nên chỉ
còn nhận được tro
tàn từ gỗ. Họ cũng
xây tháp thờ tro
92

này tại thành phố


Pipphalavana của họ. Như
vậy mười ngôi tháp được
xây. Trong đó tám tháp thờ
Xá Lợi, tháp thứ chin thờ
bình đong chia Xá Lợi và
thứ mười thờ tro tàn từ gỗ.
Cũng có nguồn tài liệu nói Xá Lợi của Đức Phật được chia làm
thành ba phần: Chư Thiên, Rồng, và cõi người. Cõi người chia
thành tám hay mười phần như trên. Rồi theo thời gian, tám phần
chánh này, lại được chia thành nhiều phần nhỏ nữa để thờ, như
vua A Dục đã cho xây 84,000 ngôi tháp để thờ Xá Lợi Phật và
hiện nay cũng có nhiều ngôi tháp có Xá Lợi của Đức Phật ở rãi
rác khắp Châu Á.

Sau khi Đức Phật nhập diệt chẳng bao lâu thì vùng Câu Thi
Na thuộc bộ tộc Malla bị
sát nhập vào vương quốc
Ma Kiệt Đà. Hai thế kỷ
sau đó Câu Thi Na
Kushinagar không trở
thành trung tâm hưng
thịnh nữa, cho tới khi vua
93

A Dục (270-232 trước


Tây lịch) trị vì, vua đã
cho xây nhiều tháp và
trụ đá tại đây để tưởng
niệm đến Đức Phật.
Điều này được chứng
minh qua ký sự hành
hương của ngài Pháp Hiền (năm 399-414) khi ngài viếng thăm
Câu Thi Na Kushinagar thì thấy ba tháp, hai trụ đá và nhiều điểm
quan trọng khác tại đây đã chứng minh lúc bấy giờ nơi đây đang
là một trung tâm tu học phồn thịnh. Đến triều đại Gupta, Phật
Giáo lại càng phát triển mạnh và các ngành về mỹ thuật, nghệ
thuật Phật Giáo cũng đã đạt đến điểm cao nhất trong thời gian
này. Trong triều đại Kumargupta (Năm 413-455) có nghệ thuật
gia tên là Haribhadra đã tạc một tượng Phật theo tư thế nhập
niết bàn rất tuyệt đẹp
và sau khi tạc tượng
xong ông ta đã cho an
vị vào ngôi chùa Niết
Bàn, ông ta cũng cho
94

trùng tu một số các


tháp và chùa viện tại
đây. Bức tượng độc đáo
của nhà nghệ thuật
Haribhadra sau một thời
gian dài đã bị tan vỡ và
vùi lấp dưới đống gạch
vụn, nhưng ngày nay
qua các cuộc khai quật, người ta đã tìm thấy được và ráp lại,
cũng như đưa về vị trí cũ trong Chùa Niết Bàn

Ngài Huyền Trang (Năm 629-644) đã viếng nơi đây và thấy


các làng xóm hoang vắng, đổ nát, ít có dân cư và đường phố bị
hư nát. Về hướng đông bắc của Câu Thi Na Kushinagar có một
trụ đá của vua A Dục đánh dấu tại đây là nhà của người thợ sắt
Cunda (Chunda), nơi mà Đức Phật đã nhận bửa ăn cuối cùng. Có
ngôi tháp kỷ niệm nơi
Đức Phật nhập diệt là
ngôi tháp bằng gạch lớn,
có thờ tượng Phật nằm
nghiêng bên phải. Ngài
nằm trong tư thế hướng
về phía bắc. Cạnh đó là
95

trụ đá của vua A dục


(Asoka) có bia khắc, mặc dù
nó đang trong tình trạng
sắp ngã, nhưng vẫn còn
chiều cao 200 feet. Trước
đó có cột trụ khắc sự kiện
Đức Phật nhập diệt. Rải rác
xung quanh là nhiều ngôi
tháp khác kỷ niệm một kiếp
trước của Đức Phật khi ngài hành Bồ Tát Đạo mang thân chim và
vào một ngày khu rừng bị cháy dữ dội, chim đã bay đến dòng
suối gần bên lấy nước rẩy lên đám cháy để cứu nhiều sinh vật
trong rừng.

Cả hai nhà chiêm bái Pháp Hiền và Nghĩa Tịnh đều đề cập
đến một ngôi tháp đánh dấu ngài Kim Cang Thủ Bồ Tát
(Vajrapani) đã buồn bã
ném chày kim cang của
mình khi nghe tin Đức
Phật nhập diệt, cách đó
một khoảng là ngôi
tháp kỷ niệm nơi hỏa
tang nhục thể của Đức
96

Phật và một ngôi tháp khác


do vua A Dục xây kỷ niệm
nơi phân chia Xá Lợi.

Nhà chiêm bái Nghĩa


Tịnh (năm 672-693) không
ghi nhiều về thông tin các di
tích ở Câu Thi Na Kashinagar, có lẽ từ thời đại của ngài Huyền
Trang trở đi thì tại Câu Thi Na Phật Giáo càng giảm mất dần. Vua
chúa không còn ủng hộ và nơi này trở thành hoang vắng như
thuở nào. Các sử liệu gần như không đề cập đến nơi này kể từ
thế kỷ thứ VII đến XII. Có lẽ do địa thế quá xa xôi và hẻo lánh
mà Phật giáo đã không đủ sức phát triển và hoạt động mạnh tại
nơi này. Theo bia khắc niên đại thế kỷ X, XI dưới sự trị vì vua
Kalachuri, có một ngôi chùa thờ tượng Phật ngồi thiền. Sau đó,
Câu Thi Na Kushinagar cùng với các thánh địa khác cũng hư hoại
và chìm vào quên lãng. Nhất là sau thế kỷ thứ XIII trở đi, do
chiến tranh loạn lạc khắp nơi
xảy ra tại Ấn Độ lúc bấy giờ
và cũng do đội quân Hồi Giáo
từ các nước Trung Đông tràn
xuống đánh chiếm và vơ vét
của cải ở khắp Ấn Độ, cũng
97

như đập phá hầu hết


các thánh tích Phật giáo
tại Ấn Độ vào thời điểm
ấy.

Cho tới hơn một


thiên niên kỷ, ông
Buchanan, một công
nhân của một xí nghiệp ở phía đông của Ấn Độ tình cờ khám phá
được nơi đây. Năm 1854, ông H.H.Wilson đề nghị nên khai quật ở
Câu Thi Na Kushinagar và Kasia. Tuy nhiên chính Alexander
Cunningham, nhà giám sát khảo cổ học, đã viếng thăm nơi đây
vào năm 1861-1862 đã khẳng định đây là Câu Thi Na Kushinagar.
Dựa vào ký sự của ngài Huyền Trang, các cuộc khai quật đã tìm
ra thêm nhiều các nền móng tự viện, tịnh xá và những tháp thờ.

Năm 1876-1877 phụ tá của Alexander Cunningham là ông


A.C.L.Carlleyle đã mở
rộng khu vực đào xới và
khám phá một mô gạch
rất lớn, chung nền với
một ngôi đại tháp và nền
này có độ dày 7 feet.
98

Đại tháp từng được xây dựng


trên nền này có lẽ khoảng
thế kỷ thứ XI-XII, nền này có
lẽ là ngôi tháp nguyên thủy
và tại đây cũng tìm thấy
tượng Đức Phật to lớn nằm
nghiêng bên phải bị bể bệ.

Năm 1904-1907, ông J.Ph. Vogel và năm 1910-1912, ông


Hirananda Shastri chính thức khai quật thêm nơi đây và đã minh
định thêm nhiều di tích Phật giáo. Thật là lạ lùng không có một
bia khắc nào ghi nhận trực tiếp tên của Câu Thi Na Kushinagar
hoặc từ đồng nghĩa của nó. Năm 1956 công cuộc tái thiết Chùa
Niết Bàn được hoàn thành và kiến trúc ấy ngày nay vẫn hiện hữu
với hình mái vòm, có các cửa sổ lớn với song sắt thông ra bốn
bên và sau Chùa Niết Bàn này là Đại Tháp Niết Bàn. Sự khai quật
và trùng tu tại đây cũng
có sự đóng góp rất nhiều
của Tỳ Kheo Mahavira,
người đã tu học và phụng
sự Phật pháp tại đây vào
năm 1890-1920.
99

Câu Thi Na
Kushinagar được
khám phá vào cuối
thế kỷ thứ XIX, nhiều
cuộc khai quật đã cho
biết nhiều tu viện của
các truyền thống Phật
giáo khác nhau đã
hiện diện ở đây một thời gian dài. Nền móng của mười tu viện từ
thế kỷ thứ IV đến thế kỷ thứ XI đã được tìm thấy. Hầu hết những
tàn tích này gần công viên, giữa đó có ngôi tháp to lớn hiện đại
có thờ một tượng Phật nằm. Vào thế kỷ thứ XXI Tăng Ni Phật tử
Miến Điện trùng tu lại ngôi tháp này. Không xa đó là có ngôi tháp
nhỏ đánh dấu nơi Đức Phật trút hơi thở cuối cùng dưới cây Sala
song thọ, nay cũng
được tu bổ. Phía đông
khu vực này có ngôi
tháp Ramabhar lớn.

CHÙA NIẾT BÀN

Đi vào cổng chính


không tới 100 mét sẽ
100

thấy Chùa Niết Bàn


nằm trước mặt là
thánh địa chính tại
Câu Thi Na
Kushinagar, nơi mà
Chư Tăng cùng Phật
Tử thường tới chiêm
bái. Năm 1956, nhân
dịp kỷ niệm 2,500 năm Đản Sanh của Đức Phật, Chùa Niết Bàn
được chính phủ Ấn Độ tái thiết với kiến trúc hình mái vòm, có các
cửa sổ lớn với song sắt thông ra bốn bên. Chính ông Carlleyle đã
khám phá nơi đây đầu tiên vào năm 1876 và thấy một tượng
Phật với tư thế nằm nhập diệt đã bị bể bệ. Nhiều phần bể bị lạc
mất. Tượng dài 6.1 mét, được khắc đúc bằng một tảng sa thạch
đỏ nguyên. Đây là
biểu tượng hình ảnh
Đức Phật nhập diệt,
nằm nghiêng bên
phải với mặt hướng
về phương tây.
Tượng đặt trên một
101

bệ gạch lớn với bốn trụ


đá ở bốn góc.

Đức Phật nằm


một cách bình an,
thanh thản, đầu hướng
về phía bắc, mặt nhìn
về phía tây. Đầu gối lên
tay phải và tay trái để
dọc theo thân. Lòng
bàn tay và bàn chân của Đức Phật có khắc những nét hoa văn
của hoa sen biểu tượng một trong 32 hảo tướng và 84 ngàn vẻ
đẹp của Đức Phật. Chùa Niết Bàn hình trụ này ở phía tây có ba
khung tường nhỏ thờ ba tượng. Tượng bên trái là một phụ nữ tóc
dài với mặt mày đau khổ và có lẽ tượng trưng cho tộc Malla buồn
khóc khi Đức Phật nhập
diệt. Tượng giữa là vị
xuất gia thiền định với
mặt xoay vào phía trong
tường. Tượng bên phải
cũng là vị xuất gia với
đầu để trên tay phải, nét
mặt thật trầm tĩnh. Hai
102

tượng xuất gia này có lẽ là


những vị đã giải thoát khỏi
tham sân si nên có thể điều
phục được tâm khi Đức Phật
nhập niết bàn vĩnh viễn.
Tượng Đức Phật thường được
khoác một tấm y bằng lụa
vàng mới, đẹp do các Phật tử thường xuyên cúng dường.

Theo bia khắc trên bệ tượng Đức Phật nhập diệt có ghi do
Hòa Thượng Haribala thuộc niên đại vua Kamargupta (năm 413-
455) cúng dường. Cũng có bằng chứng cho thấy có sự tu sửa
Chùa Niết Bàn này trong những thế kỷ kế tiếp đó. Ngài Huyền
Trang đã viếng thăm chùa này và cho biết loại chữ khắc thuộc
thế kỷ thứ V. Hiện nay tượng được nằm theo vị trí cũ trong Chùa
Niết Bàn. Cuộc khai quật gần đây, năm 1976 đã tìm thấy nhiều
mẫu xương, than, củi và mẫu sọ người đã cho thấy có thể nơi
đây đã bị Hồi giáo đốt phá
nhiều lần trước khi Câu Thi Na
Kushinagar bị rơi vào quên
lãng. (Nguyên Đán Ất Mùi
1.1.2015, Tâm Sơn sao lục)
103
104
105
106

1. Lúc bấy giờ, Thế Tôn nói với


Tôn giả Ananda:

- Này Ananda, nếu trong các


ngươi có người nghĩ rằng: "Lời
nói của bậc Ðạo sư không còn
nữa. Chúng ta không có Ðạo sư
(giáo chủ)". Này Ananda, chớ có
những tư tưởng như vậy. Này
Ananda, Pháp và Luật, Ta đã
giảng dạy và trình bày, sau khi Ta diệt độ, chính Pháp và Luật ấy
sẽ là Ðạo Sư của các Ngươi.

2. Này Ananda, nay các vị Tỷ-kheo xưng hô với nhau là Hiền giả.
Sau khi Ta diệt độ, chớ có xưng hô như vậy. Này Ananda, vị Tỷ-
kheo niên lão hãy gọi vị Tỷ-kheo niên thiếu, hoặc bằng tên, hoặc
107

bằng họ, hoặc bằng tiếng Hiền


giả. Vị Tỷ-kheo niên thiếu, hãy
gọi vị Tỷ-kheo niên lão là
Thượng tọa (Bhante) hay Ðại
đức.

3. Này Ananda, nếu chúng Tăng


muốn, sau khi Ta diệt độ có thể hủy bỏ những học giới nhỏ nhặt
chi tiết.

4. Này Ananda, sau khi Ta diệt độ, hãy hành tội Phạm đàn
(Brahmadanda) đối với Tỷ-kheo Channa.

- Bạch Thế Tôn, thế nào là Phạm đàn?

- Này Ananda, Tỷ-kheo Channa muốn nói gì thì nói. Chúng Tỷ-
kheo sẽ không nói, sẽ không giảng dạy, sẽ không giáo giới Tỷ-
kheo Channa.

5. Rồi Thế Tôn nói với các Tỷ-


kheo:

- Này các Tỷ-kheo, nếu có Tỷ-


kheo nào nghi ngờ hay phân vân
gì về đức Phật, Pháp, chúng
108

Tăng, đạo hay phương pháp,


thời này các Tỷ-kheo các Người
hãy hỏi đi. Sau chớ có hối tiếc:
"Bậc Ðạo Sư có mặt trước
chúng ta mà chúng ta không
tận mặt hỏi Thế Tôn".

Khi được nói vậy, các Tỷ-kheo ấy im lặng. Một lần thứ hai, Thế
Tôn.... Một lần thứ ba, Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo:

- Này các Tỷ-kheo, nếu có một Tỷ-kheo có nghi ngờ hay phân
vân gì về đức Phật, Pháp, chúng Tăng, đạo hay phương pháp,
thời này các Tỷ-kheo, các ngươi hãy hỏi đi. Sau chớ có hối tiếc:
"Bậc Ðạo Sư có mặt trước chúng ta mà chúng ta không tận mặt
hỏi Thế Tôn".

Lần thứ ba, các Tỷ-kheo ấy


giữ im lặng.

Rồi Thế Tôn nói với các Tỷ-


kheo:

- Này các Tỷ-kheo, nếu có vị


nào vì lòng kính trọng bậc
109

Ðạo Sư mà không hỏi, thời này


các Tỷ-kheo, giữa bạn đồng tu,
hãy hỏi nhau.

Khi được nói vậy, những vị Tỷ-


kheo ấy giữ im lặng.

6. Rồi tôn giả Ananda bạch Thế


Tôn:

- Bạch Thế Tôn, thật kỳ diệu thay, bạch Thế Tôn, thật hy hữu
thay! Bạch Thế Tôn, con tin rằng trong chúng Tỷ-kheo này,
không có một Tỷ-kheo nào có nghi ngờ hay phân vân gì đối với
Phật, Pháp, chúng Tăng, đạo hay phương pháp.

- Này Ananda, ngươi có tín nhiệm nên nói vậy. Nhưng ở đây, này
Ananda, Như Lai biết rằng trong chúng Tỷ-kheo này, không có
một Tỷ-kheo nào có nghi ngờ hay phân vân gì đối với Phật, Pháp,
chúng Tăng, đạo hay phương pháp. Này Ananda, trong năm trăm
Tỷ-kheo này, Tỷ-kheo thấp nhất
đã chứng được quả Dự lưu,
không còn đọa lạc, chắc chắn
hướng đến Chánh giác.
110

7. Và Thế Tôn nói với các Tỷ-


kheo:

- Này các Tỷ-kheo, nay Ta khuyên


dạy các ngươi: "Các pháp hữu vi
là vô thường, hãy tinh tấn, chớ có
phóng dật".

Ðó là lời cuối cùng Như Lai.

8. Rồi Thế Tôn nhập định Sơ thiền. Xuất Sơ thiền, Ngài nhập Nhị
thiền. Xuất Nhị thiền, Ngài nhập Tam thiền. Xuất Tam thiền, Ngài
nhập Tứ thiền. Xuất Tứ thiền, Ngài nhập định Không vô biên xứ.
Xuất Không vô biên xứ, Ngài nhập định Thức vô biên xứ. Xuất
Thức vô biên xứ, Ngài nhập định Vô sở hữu xứ. Xuất Vô Sở hữu
xứ, Ngài nhập định Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Xuất Phi tưởng
phi phi tưởng xứ, Ngài nhập
Diệt thọ tưởng định.

Khi ấy tôn giả Ananda nói với


tôn giả Anuruddha:

- Thưa Tôn giả, Thế Tôn đã diệt


độ.
111

- Này Hiền giả Ananda, Thế Tôn


chưa diệt độ. Ngài mới nhập Diệt
thọ tưởng định.

9. Rồi xuất Diệt thọ tưởng định,


Ngài nhập Phi tưởng phi phi tưởng
xứ định. Xuất Phi tưởng phi phi
tưởng xứ, Ngài nhập Vô sở hữu xứ định. Xuất Vô sở hữu xứ, Ngài
nhập Thức vô biên xứ định. Xuất thức Vô biên xứ, Ngài nhập Hư
không vô biên xứ định. Xuất Hư không vô biên xứ, Ngài nhập
định Tứ thiền. Xuất Tứ thiền, Ngài nhập định Tam thiền. Xuất
Tam thiền, Ngài nhập định Nhị thiền. Xuất Nhị thiền, Ngài nhập
định Sơ thiền. Xuất Sơ thiền, Ngài nhập định Nhị thiền. Xuất Nhị
thiền, Ngài nhập định Tam thiền. Xuất Tam thiền, Ngài nhập định
Tứ thiền. Xuất Tứ thiền, Ngài lập tức diệt độ.

10. Khi Thế Tôn diệt độ, cùng với sự diệt độ, đại địa chấn động
khủng khiếp, râu tóc dựng
ngược, sấm trời vang động.

Khi Thế Tôn diệt độ, Phạm thiên


Sahampati, cùng lúc Ngài diệt
độ, thốt lên bài kệ này:
112

Chúng sanh ở trên đời,


Từ bỏ thân ngũ uẩn
Bậc đạo sư cũng vậy,
Ðấng Tuyệt luân trên đời.
Bậc Ðại hùng Giác ngộ
Như Lai đã diệt độ.

Khi Thế Tôn diệt độ, Thiên chủ Sakka, cùng lúc Ngài diệt độ, thốt
lên bài kệ này:

Các hành là vô thường,


Có sanh phải có diệt
Ðã sanh, chúng phải diệt,
Nhiếp chúng là an lạc.

Khi Thế Tôn diệt độ, tôn giả Anuruddha, cùng lúc Ngài diệt độ,
thốt lên bài kệ này:

Không phải thở ra vào


Chính tâm trú chánh định
Không tham ái tịch tịnh
Tu sĩ hướng diệt độ
Chính tâm tịnh bất động
Nhẫn chịu mọi cảm thọ
113

Như đèn sáng bị tắt


Tâm giải thoát hoàn toàn.

Khi Thế Tôn diệt độ, tôn giả


Ananda, cùng lúc Ngài diệt độ,
thốt lên bài kệ này:

Thật kinh khủng bàng hoàng,


Thật râu tóc dựng ngược,
Khi Bậc Toàn thiện năng,
Bậc Giác ngộ nhập diệt.

Khi Thế Tôn diệt độ, những Tỷ-kheo chưa giải thoát tham ái, có
vị thì khóc than với cánh tay duỗi cao, có vị thì khóc than, thân
nằm nhoài dưới đất, lăn lộn qua lại: "Thế Tôn nhập diệt quá sớm,
Thiện Thệt nhập diệt quá sớm, Pháp nhãn biến mất ở trên đời
quá sớm". Còn những Tỷ-
kheo đã diệt trừ tham ái,
những vị này an trú chánh
niệm tỉnh giác, nhẫn nại,
suy tư: "Các hành là vô
thường, làm sao tránh
khỏi sự kiện ấy?"
114

11. Lúc bấy giờ, tôn giả Anuruddha nói với


các Tỷ-kheo:

- Thôi các Hiền giả, chớ có sầu não, chớ có


khóc than. Này các Hiền giả, phải chăng
Thế Tôn đã tuyên bố ngay từ ban đầu
rằng mọi vật ưu ái thân tình đều phải sanh
biệt, tử biệt và dị biệt. Này các Hiền giả,
làm sao có thể được như vầy: "Những gì
sanh, tồn tại, hữu vi, chịu sự biến hoại mà lại mong khỏi có sự
biến dịch? Thật không có sự trạng ấy". Này các Hiền giả, chính
chư Thiên đang trách đó.

- Thưa Tôn giả Anuruddha, Tôn giả đang nghĩ đến hạng chư
Thiên nào?

- Hiền giả Ananda, có hạng chư Thiên ở trên hư không nhưng có


tâm tư thế tục, những vị này
khóc than với đầu bù tóc rối,
khóc than với cánh tay duỗi
cao, khóc than thân bổ nhoài
dưới đất, lăn lộn qua lại:
"Thế Tôn nhập diệt quá
115

sớm, Thiện Thệ nhập diệt quá


sớm, Pháp nhãn biến mất ở
trên đời quá sớm".

Hiền giả Ananda, có hạng chư


Thiên ở trên đất với tâm tư thế
tục, những vị này khóc than với
đầu bù tóc rối, khóc than với
cánh tay duỗi cao, khóc than thân nằm nhoài dưới đất, lăn lộn
qua lại: "Thế Tôn nhập diệt quá sớm, Thiện Thệ nhập diệt quá
sớm, Pháp nhãn biến mất ở trên đời quá sớm". Còn những chư
Thiên diệt trừ ái dục, những vị này chánh niệm tỉnh giác, chịu
đựng với tâm suy tư: "Các hành là vô thường, làm sao có thể
khác được?"

12. Tôn giả Anuruddha và tôn giả


Ananda luận bàn về Chánh pháp suốt
cả đêm còn lại. Rồi tôn giả Anuruddha
nói với tôn giả Ananda:

- Hiền giả Ananda, hãy vào thành


Kusinàrà: "Này Vàsetthà, Thế Tôn đã
116

diệt độ, hãy làm những gì các


ngươi nghĩ phải làm".

- Tôn giả, xin vâng!

Tôn giả Ananda vâng lời tôn giả


Anuruddha, buổi sáng đắp y,
đem theo y bát cùng một thị giả,
vào thành Kusinàrà.

Lúc bấy giờ, dân Mallà ở Kusinàrà đang tụ họp tại giảng đường vì
một vài công vụ. Tôn giả Ananda đến tại giảng đường của dân
Mallà ở Kusinàrà, sau khi đến liền nói với dân Mallà ở Kusinàrà:
"Này Vàsetthà, Thế Tôn đã diệt độ, hãy làm những gì các ngươi
nghĩ phải làm".

Dân Mallà cùng với con trai, con gái và vợ, khi nghe tôn giả
Ananda nói như vậy liền đau đớn sầu muộn, tâm tư khổ não, kẻ
thì khóc than với đầu bù
tóc rối, kẻ thì khóc than
với cánh tay duỗi cao, kẻ
thì khóc than thân bổ
nhoài dưới đất, lăn lộn
qua lại: "Thế Tôn nhập
117

diệt quá sớm, Thiện Thệ


nhập diệt quá sớm, Pháp
nhãn biến mất ở trên đời quá
sớm".

13. Rồi dân Mallà ở Kusinàrà


ra lệnh cho những người
làm: "Các người hãy gom
góp hương, tràng hoa và tất cả nhạc khí ở Kusinàrà".

Rồi dân Kusinàrà đem theo hương, tràng hoa, tất cả nhạc khí và
năm trăm cuộn vải đi đến Upavattana, tại rừng Sàlà của dòng họ
Mallà, đến tại chỗ thân xá lợi của Thế Tôn, rồi chúng ở lại cả
ngày tôn trọng, cung kính, đảnh lễ, cúng dường thân xá lợi Thế
Tôn với các điệu múa, hát, nhạc, tràng hoa, hương, làm những
bảo cái bằng vải và tràng hoa Mandala.

Rồi dân Mallà ở Kusinàrà


suy nghĩ: "Hôm nay, nếu
thiêu thân xá lợi Thế Tôn
thời quá sớm. Ngày mai,
chúng ta sẽ làm lễ thiêu
thân xá lợi của Thế Tôn".
118

Rồi dân Mallà ở Kusinàrà, cả


ngày thứ hai, tôn trọng, cung
kính, đảnh lễ, cúng dường
thân xá lợi Thế Tôn với các
điệu múa, hát, nhạc, tràng
hoa, hương, làm những bảo
cái bằng vải và tràng hoa Mandala, ngày thứ ba cũng như vậy,
ngày thứ tư cũng như vậy, ngày thứ năm cũng như vậy. Ngày
thứ sáu cũng như vậy.

14. Ðến ngày thứ bảy, dân Mallà ở Kusinàrà suy nghĩ: "Chúng ta
đã tôn trọng, cung kính, đảnh lễ, cúng dường thân xá lợi Thế Tôn
với các điệu múa hát, nhạc, tràng hoa, hương, nay chúng ta hãy
chở thân xác xá lợi Thế Tôn ra ngoài thành về phía Nam và làm lễ
thiêu thân tại chỗ ấy".

Lúc bấy giờ tám vị tộc trưởng


Mallà gội đầu, mặc áo mới với ý
định khiêng nổi thân xá lợi Như
Lai nhưng khiêng không nổi
được. Các vị Mallà ở Kusinàrà
bạch Tôn giả Anuruddha:
119

- Bạch Tôn giả, do nhân


gì, do duyên gì tám vị tộc
trưởng Mallà này gội đầu,
mặc áo mới với ý định
khiêng nổi thân xá lợi Như
Lai, nhưng không khiêng
nổi được?

- Này Vàsetthà, vì ý định của các Ngươi khác, ý định của chư
Thiên khác.

15. - Bạch Tôn giả, ý định của chư Thiên là gì?

- Này các Vàsetthà, ý định của các Ngươi như sau:

"Chúng ta đã tôn trọng, cung kính, đảnh lễ, cúng dường thân xá
lợi Thế Tôn với các điệu múa, hát, nhạc, tràng hoa, hương. Nay
chúng ta hãy chở thân xá lợi Thế Tôn ra ngoài thành về phía Nam
và làm lễ thiêu thân tại chỗ
ấy".

Này các Vàsetthà, ý định


của chư Thiên như sau:
"Chúng ta đã tôn trọng,
120

cung kính, đảnh lễ, cúng dường


thân xá lợi Thế Tôn với các điệu
múa, hát, nhạc, tràng hoa, hương
của Chư thiên, nay chúng ta hãy
khiêng thân xá lợi Thế Tôn về
hướng Bắc phía Bắc của thành.
Sau khi khiêng qua cửa phía Bắc,
hãy khiêng qua Trung tâm của thành, rồi hướng về phía Ðông,
khiêng đến phía Ðông của thành. Sau khi khiêng qua cửa phía
Ðông, hãy khiêng đến phía Ðông của thành, tại đền của dân
Mallà tên là Makuta-bandhana và chúng ta sẽ thiêu thân Thế Tôn
tại chỗ ấy".

- Bạch Tôn giả, ý định của chư Thiên thế nào, ý định của chúng
con cũng vậy.

16. Lúc ấy, khắp cả Kusinàrà


cho đến đống bụi, đống rác,
được rải la liệt lên đến đầu
gối toàn hoa Mandaràva. Rồi
chư Thiên và các dân Mallà ở
Kusinàrà, sau khi đã tôn
trọng, cung kính, đảnh lễ,
121

cúng dường thân xá lợi Thế


Tôn với các điệu múa, hát,
nhạc, tràng hoa, hương của
chư Thiên và loài Người, liền
khiêng thân xá lợi Thế Tôn về phía Bắc của Thành. Sau khi
khiêng qua cửa phía Bắc, liền khiêng qua Trung tâm của thành,
rồi hướng về phía Ðông, khiêng đến phía Ðông của thành. Sau
khi khiêng qua cửa phía Ðông, liền khiêng đến phía Ðông của
thành, tại đền của dân Mallà tên là Makuta-bandhana và đặt thân
xá lợi của Thế Tôn tại chỗ ấy.

17. Rồi dân Mallà bạch tôn giả


Ananda:

- Bạch Tôn giả Ananda, chúng con


nay phải xử sự như thế nào đối với
thân xá lợi Như Lai?

- Này các Vàsetthà, xử sự thân


Chuyển luân Thánh vương như thế
nào, hãy xử sự thân xá lợi Như Lai
như vậy.
122

- Bạch Tôn giả Ananda, xử


sự thân Chuyển luân Thánh
vương phải như thế nào?

- Này các Vàsetthà, thân


Chuyển luân Thánh vương
được vấn tròn với vải mới.
Sau khi vấn vải mới, lại được
vấn thêm với vải gai bện.
Sau khi vấn với vải gai bện, lại vấn thêm với vải mới và tiếp tục
như vậy cho đến năm trăm lớp cả hai loại vải. Rồi thân được đặt
trong một hòm dầu bằng sắt, hòm sắt này được một hòm sắt
khác đậy kín. Xong một giàn hỏa gồm mọi loại hương được xây
dựng lên, thân vị Chuyển luân Thánh vương được đem thiêu trên
giàn hỏa này, và tại ngã tư đường, tháp vị Chuyển luân Thánh
vương này được xây dựng lên. Này các Vàsetthà, đó là pháp táng
thân của vị Chuyển luân Thánh
vương.

Này các Vàsetthà, pháp táng


thân của vị Chuyển luân Thánh
vương như thế nào, pháp táng
thân của Thế Tôn cũng như vậy.
123

Tháp của Như Lai phải


được dựng lên tại ngã tư
đường. Và những ai đem
đến tại chỗ ấy vòng hoa,
hương, hay hương bột
nhiều màu, đảnh lễ tháp
hay khởi tâm hoan hỷ (khi
đứng trước mặt tháp) , thời những người ấy sẽ được lợi ích, hạnh
phúc lâu dài.

18. Và các người Mallà ở Kusinàrà sai những người làm công:

- Hãy đem lại tất cả vải gai bện của Mallà .

Rồi những người Mallà ở Kusinàrà vấn tròn thân Thế Tôn với vải
mới. Sau khi vấn vải mới xong, lại vấn thêm với vải gai bện. Sau
khi vấn với vải gai bện lại vấn thêm với vải mới và tiếp tục như
vậy cho đến năm trăm lớp cả hai loại vải. Rồi đặt thân Như Lai
vào trong một hòm dầu bằng
sắt, đậy hòm sắt này vào một
hòm sắt khác, dựng lên một
giàn hỏa gồm mọi loại hương và
đặt thân Thế Tôn trên giàn hỏa.
124

19. Lúc bấy giờ, Tôn giả Mahà


Kassapa đang đi giữa đường từ
Pàvà đến Kusinàrà với đại chúng
Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị.
Rồi Tôn giả Mahà Kassapa bước
xuống đường và đến ngồi tại
một gốc cây.

Lúc bấy giờ có một tà mạng ngoại đạo lấy một hoa Mandàrava ở
Kusinàrà và đang đi trên một con đường đến Pàvà.

Tôn giả Mahà Kassapa thấy tà mạng ngoại đạo đi từ đàng xa


đến. Thấy vậy, tôn giả liền hỏi tà mạng ngoại đạo ấy:

- Này Hiền giả, Hiền giả có biết bậc Ðạo sư chúng tôi không?

- Này Hiền giả, tôi có biết. Sa-môn Gotama đã diệt độ cách hôm
nay một tuần. Từ chỗ ấy, tôi được
hoa Mandàrava này.

Lúc ấy những Tỷ-kheo chưa giải


thoát tham ái, có vị thì khóc than
với cánh tay duỗi cao, có vị thì
khóc than, thân nằm nhoài dưới
125

đất, lăn lộn qua lại: "Thế Tôn


nhập diệt quá sớm, Thiện
Thệ nhập diệt quá sớm,
Pháp nhãn biến mất ở trên
đời quá sớm". Còn những
Tỷ-kheo đã diệt trừ tham ái,
những vị này an trú chánh
niệm, tỉnh giác, nhẫn nại suy tư: "Các hành là vô thường, làm sao
tránh khỏi sự kiện ấy?"

20. Lúc bấy giờ, Subhadda được xuất gia khi đã lớn tuổi đang
ngồi trong hội chúng này. Subhadda được xuất gia khi đã lớn tuổi
nói với những Tỷ-kheo ấy:

- Thôi các Hiền giả, chớ có sầu não, chớ có khóc than. Chúng ta
đã được thoát khỏi hoàn toàn vị Ðại Sa-môn ấy, chúng ta đã bị
phiền nhiễu quấy rầy với những lời: "Làm như thế này không hợp
với các Ngươi. Làm như thế này
hợp với các Ngươi". Nay những
gì chúng ta muốn, chúng ta làm,
những gì chúng ta không muốn,
chúng ta không làm.
126

Tôn giả Mahà Kassapa mới nói


với các vị Tỷ-kheo:

- Thôi các Hiền giả, chớ có sầu


não, chớ có khóc than. Này các
Hiền giả, phải chăng Thế Tôn đã
tuyên bố ngay từ ban đầu rằng
mọi vật ưu ái thân tình đều phải
bị sanh biệt, tử biệt và dị biệt. Này các Hiền giả, làm sao có thể
được như vầy: Những gì sanh, tồn tại, hữu vi, chịu sự biến hoại
mà lại mong khỏi có sự biến dịch? Thật không có sự trạng ấy.

21. Lúc bấy giờ bốn vị tộc trưởng Mallà gội đầu, mặc áo mới với ý
định châm lửa thiêu giàn hỏa Thế Tôn nhưng châm lửa không
cháy.

Các vị Mallà ở Kusinàrà bạch tôn


giả Anuruddha:

- Bạch Tôn giả, do nhân gì, do


duyên gì, bốn vị tộc trưởng Mallà
này gội đầu, mặc áo mới với ý
định châm lửa thiêu giàn hỏa Thế
Tôn, nhưng châm lửa không
127

cháy?

- Này các Vàsetthà, ý định của


chư Thiên khác.

- Bạch Tôn giả, ý định của chư


Thiên như thế nào?

- Này các Vàsetthà, ý định của chư Thiên như sau: "Tôn giả Mahà
Kassapa nay đang đi giữa đường giữa Pàvà và Kusinàrà cùng với
đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị. Giàn hỏa Thế Tôn chỉ
được đốt cháy khi tôn giả Mahà Kassapa cúi đầu đảnh lễ Thế
Tôn".

- Bạch Tôn giả, ý định chư Thiên như thế nào, hãy làm y như
vậy.

22. Rồi Tôn giả Mahà


Kassapa đến tại đền
Makuta Bandhana của
những vị Mallà tại giàn hỏa
Thế Tôn, khi đến xong liền
choàng áo phía một bên
vai, chấp tay, đi nhiễu phía
128

tay phải xung quanh giàn hỏa ba lần,


cởi mở chân ra và cúi đầu đảnh lễ
chân Thế Tôn.

Năm trăm vị Tỷ-kheo ấy choàng áo


phía một bên vai, chấp tay, đi nhiễu
qua phía tay phải xung quanh giàn hỏa
ba lần và cúi đầu đảnh lễ chân Thế
Tôn.

Và khi tôn giả Mahà Kassapa và năm


trăm vị Tỷ-kheo đảnh lễ xong, thời giàn hỏa Thế Tôn tự bắt lửa
cháy.

23. Khi thân Thế Tôn đã cháy, từ da ngoài cho đến da mỏng, thịt,
dây gân hay nước giữa các khớp xương, thảy đều cháy sạch
không có tro, không có than, chỉ có xương xá lợi còn lại.

Như sanh tô hay dầu bị cháy, tất cả


đều cháy sạch không có tro, không
có than, cũng vậy khi thân Thế Tôn
cháy, từ da ngoài cho đến da mỏng,
thịt, dây gân hay nước giữa khớp
xương, tất cả đều cháy sạch không
129

có tro, không có than, chỉ


có xương xá lợi còn lại. Và
năm trăm tầng lớp vải gai
bện, cả hai lớp trong nhất
và lớp ngoài nhất đều bị
cháy thiêu.

Khi thân Thế Tôn bị thiêu


cháy xong, một dòng nước từ hư không chảy xuống tưới tắt giàn
hỏa Thế Tôn, và một dòng nước từ kho nước (hay từ cây sàlà)
phun lên tưới tắt giàn hỏa Thế Tôn, và các người Mallà ở
Kusinàrà dùng nước với mọi loại hương tưới tắt giàn hỏa Thế
Tôn.

Rồi các người Mallà xứ Kusinàrà đặt xá lợi Thế Tôn trong giảng
đường, dùng cây thương làm hàng rào, dùng cây cung làm bức
thành xung quanh và trong bảy ngày tôn trọng, cung kính, đảnh
lễ, cúng dường với các điệu
múa, hát, nhạc, vòng hoa,
hương.

24. Vua nước Magadha tên là


Ajàtasattu Vedehiputta nghe
130

tin Thế Tôn đã diệt độ ở


Kusinàrà. Vua liền gởi một
sứ giả đến các người Mallà
ở Kusinàrà: "Thế Tôn là
người Sát-đế-lỵ, ta cũng là
người Sát-đế-lỵ. Ta cũng
xứng đáng được một phần
xá lợi Thế Tôn, ta cũng
dựng tháp và tổ chức nghi lễ đối với xá lợi Thế Tôn".

Những người Licchavì ở Vesàli nghe tin Thế Tôn đã diệt độ ở


Kusinàrà liền gởi một sứ giả đến các người Mallà ở Kusinàrà: "Thế
Tôn là người Sát-đế-lỵ, chúng tôi cũng là người Sát-đế-lỵ. Chúng
tôi cũng xứng đáng được phần xá lợi Thế Tôn. Chúng tôi cũng
dựng tháp và tổ chức nghi lễ đối với xá-lợi Thế Tôn".

Các người Sakyà ở


Kapilavatthu nghe tin Thế Tôn
đã diệt độ ở Kusinàrà, liền gởi
một sứ giả đến các người
Mallà ở Kusinàrà: "Thế Tôn là
người Sát-đế-lỵ, chúng tôi
cũng là người Sát-đế-lỵ.
131

Chúng tôi cũng xứng đáng được một


phần xá lợi Thế Tôn. Chúng tôi cũng sẽ
dựng tháp và tổ chức các nghi lễ với xá-
lợi Thế Tôn".

Những người Buli ở Allakappa nghe tin


Thế Tôn đã diệt độ ở Kusinàrà, liền gởi
một sứ giả đến các người Mallà ở
Kusinàrà: "Thế Tôn là người Sát-đế-lỵ,
chúng tôi cũng là người Sát-đế-lỵ. Chúng
tôi cũng xứng đáng được một phần xá-lợi Thế Tôn. Chúng tôi
cũng sẽ dựng tháp và tổ chức các nghi lễ đối với xá lợi Thế Tôn".

Những người Koli ở Rãmagãma nghe tin Thế Tôn đã diệt độ ở


Kusinàrà , liền gởi một sứ giả đến các người Mallà ở Kusinàrà:
"Thế Tôn là người Sát-đế-lỵ, chúng tôi cũng là người Sát-đế-lỵ.
Chúng tôi cũng xứng đáng được một phần xá lợi Thế Tôn. Chúng
tôi cũng sẽ dựng tháp và tổ chức
các nghi lễ đối với xá lợi Thế
Tôn."

Bà-la-môn Vethadìpaka nghe tin


Thế Tôn đã diệt độ ở Kusinàrà,
132

liền gởi một sứ giả đến các


người Mallà ở Kusinàrà: "Thế
Tôn là người Sát-đế-lỵ, tôi là
người Bà-la-môn. Tôi cũng xứng
đáng được một phần xá lợi Thế
Tôn. Tôi cũng sẽ dựng tháp và
tổ chức các nghi lễ đối với xá-lợi
Thế Tôn".

Các người Mallà ở Pàvà nghe tin Thế Tôn đã diệt độ liền gửi một
sứ giả đến các người Mallà ở Kusinàrà: "Thế Tôn là người Sát-đế-
lỵ, chúng tôi cũng là người Sát-đế-lỵ. Chúng tôi cũng xứng đáng
được một phần xá-lợi Thế Tôn. Chúng tôi cũng sẽ dựng tháp và
tổ chức các nghi lễ đối với xá-lợi Thế Tôn".

25. Khi được nói vậy, các


người Mallà ở Kusinàrà liền
tuyên bố giữa đại chúng:

- Thế Tôn đã diệt độ tại làng


vườn của chúng tôi, chúng tôi
sẽ không cho phần xá lợi nào
của Thế Tôn.
133

Khi nghe vậy, Bà-la-môn Dona nói


với chúng:

Tôn giả, hãy nghe lời tôi nói!


Phật dạy chúng ta phải kham nhẫn.
Thật không tốt nếu có tranh giành.
Khi chia xá lợi bậc Thượng nhân.
Chúng ta hãy đoàn kết nhất tâm,
Hoan hỷ chia xá lợi tám phần.
Chúng ta hãy dựng tháp mọi
phương,
Ðại chúng mười phương tin Pháp
nhãn...

- Này Tôn giả Bà-la-môn, Ngài hãy phân chia xá lợi ra tám phần
đồng đều.

- Xin vâng, các Tôn giả.

Bà-la-môn Dona vâng lời hội


chúng ấy, phân chia xá-lợi
Thế Tôn thành tám phần
đồng đều rồi thưa hội chúng:
134

- Các Tôn giả, hãy cho tôi cái


bình dùng để đong chia xá-lợi
này. Tôi sẽ dựng tháp và tổ
chức các nghi lễ cho cái bình.

Và hội chúng ấy tặng Bà-la-


môn Dona cái bình.

26. Và người Moriyà ở Pipphalivana nghe tin Thế Tôn đã diệt độ


liền gởi một sứ giả đến các người Mallà ở Kusinàrà: "Thế Tôn là
người Sát-đế-lỵ, chúng tôi cũng là người Sát-đế-lỵ. Chúng tôi
cũng xứng đáng được hưởng một phần xá lợi Thế Tôn. Chúng tôi
cũng sẽ dựng tháp và tổ chức các nghi lễ đối với xá-lợi Thế Tôn".
- "Nay không còn phần xá-lợi Thế Tôn nào. Xá-lợi Thế Tôn đã
được phân chia, hãy lấy tro còn lại". Rồi các vị nầy lấy than tro
còn lại.

27. Và vua nước Magadha tên là


Ajàtasattu, con bà Videhi xây
dựng tháp trên xá-lợi Thế Tôn tại
Vương Xá và tổ chức lễ cúng
dường.

Những người Licchavi ở Vesàli


135

cũng xây dựng tháp trên


xá-lợi Thế Tôn tại Vesàli
và tổ chức lễ cúng dường.

Những người Sakya ở


Kapilavatthu cũng xây
dựng trên xá-lợi Thế Tôn
tại Kapilavatthu và tổ chức
lễ cúng dường.

Những người Buli ở Allakappa cũng xây dựng tháp trên xá lợi Thế
Tôn tại Allakappa và tổ chức lễ cúng dường.

Những người Koli ở Ràmagama cũng xây dựng tháp trên xá-lợi
Thế Tôn tại Ràmagama và tổ chức lễ cúng dường.

Bà-la-môn Vethadìpaka cũng xây


dựng tháp trên xá-lợi Thế Tôn tại
Vethadìpa và tổ chức lễ cúng
dường.

Những người Mallà ở Pàvà cũng


xây dựng tháp trên xá-lợi Thế Tôn
tại Pàvà và tổ chức lễ cúng
dường.
136

Những người Màllà ở Kusinàrà cũng


xây dựng tháp trên xá-lợi Thế Tôn
tại Kusinàrà và tổ chức lễ cúng
dường.

Bà-la-môn Dona cũng xây dựng tháp


trên bình (dùng để đong chia xá-lợi)
và tổ chức lễ cúng dường.

Những người Moriyà ở Pipphalivana


cũng xây dựng tháp trên những
than tro và tổ chức lễ cúng dường.

Như vậy có tám tháp xá-lợi, tháp thứ chín trên bình (dùng để
đong chia xá-lợi) và tháp thứ mười trên tro (xá-lợi).

Ðó là truyền thống thời xưa như vậy.

28.

Ðấng Pháp Nhãn Vô Thượng


Xá-lợi phân tám phần.
Bảy phần được cúng dường.
Tại Jambudìpa.
Một phần Long vương cúng.
137

Tại Ràmagàma.
Một răng Phật được cúng,
Tại cõi Tam Thiên giới,
Một tại Gandhàra,
Một tại Kalinga.
Một răng, vua Long vương.
Tự mình riêng cúng dường.
Quả đất được chói sáng,
Với hào quang xá-lợi,
Với lễ vật cúng dường.
Hạng thượng phẩm, thượng đẳng.
Xá-lợi đấng Pháp Nhãn.
Như vậy được cúng dường,
Bởi những bậc tôn trọng
Cúng kính lễ cúng dường,
Bởi những bậc tôn trọng
Cúng kính lễ cúng dường.
Bởi Thiên, Long, Nhơn chủ,
Bởi bậc Tối thượng nhơn.
Các người hãy chắp tay,
Cung kính lễ cúng dường.
Khó thay sự chiêm ngưỡng.
138

Tôn nhan bậc Như Lai.


Trải nhiều nhiều trăm kiếp,
May lắm được một phần.

Hòa thượng Thích Minh Châu


dịch Việt
139

Tâm Sơn VŨ MINH NGỌC Biên khảo


Ý Nghĩa và Lịch Sử Xá Lợi Phật

Xá Lợi có một vai trò rất trọng yếu


trong Đạo Phật do việc giữ mạch đạo và
truyền bá đạo pháp. Thời Đức Phật hiện
tiền thì nghệ thuật điêu khắc và họa hình
còn phôi thai, loài người chưa nghĩ đến
việc đúc tượng, tạc tượng, họa tranh để
thờ hay để truyền bá đạo pháp, nên dùng
đến Xá Lợi để hành đạo. Tưởng nhớ đến
Đức Phật và giáo pháp của ngài bằng cách tôn tạo những Bảo
tháp thờ Xá Lợi Phật (Stupa). Sau khi trà tỳ, Xá Lợi Phật được
chia cho 8 nước để phụng thờ,
hay vua Asoka (A Dục Vương)
sau này đã xây dựng 84,000
Bảo tháp thờ Xá Lợi Stupa ở
các ngã ba đường, nơi tiện lợi
cho việc đi lại giao thông để
mọi người thuận tiện quy
140

ngưỡng hay đảnh lễ Xá Lợi,


tưởng nhớ đến Phật.

Xá Lợi Phật bao gồm ba


phần chính: một là nhục thân
của Đức Phật gồm nhiều loại
xá lợi khác nhau như tóc,
lông, răng, xương, các cơ
quan nội tạng. Hai là những vật dụng của Đức Phật dùng hàng
ngày như y, áo, bát khất thực, đá để giặt áo. Ba là những vết tích
Phật còn để lại trong thiên nhiên như hình bóng Phật, Dấu chân
Phật, nơi Phật ngồi như Kim Cang Tòa, cây Bồ Đề

Xá Lợi Phật hiện diện từ lúc Phật vừa đắc quả A Nậu Đa La
Tam Miệu Tam Bồ Đề, chứng quả Chánh Đẳng Chánh Giác cho
đến lúc Đức Phật diệt độ. Xá lợi đầu tiên là Xá Lợi tóc Phật cho
hai thương buôn. Xá Lợi
tóc có đến 900,000 Xá Lợi
và Xá Lợi lông là 8000,000,
và Xá Lợi nhục thể gồm
84,000 viên đựng đầy
trong 8 hộc và 4 đấu. Xá
Lợi được phụng thờ tại
141

nhiều quốc gia ở Á Châu từ khi


Phật còn tại thế cho đến ngày
nay.

Nhiều nhà nghiên cứu, khảo


cổ và khoa học gia hiện đại đang
tìm hiểu những vấn đề liên quan
đến xá lợi. Rất nhiều tài liệu, sách
viết về xá lợi như nhà khảo cổ
Alexander Cunningham, nhà sử
học Charles Allen người Anh, hay
như người viết cuốn “Relics Of
The Buddha” (Xá Lợi Phật), giáo sư John S. Strong người Mỹ,
do đại học Princeton ấn hành và nằm trong danh mục thư viện
quốc hội Mỹ là cuốn sách có nhiều kiến thức về Xá Lợi Phật.
Ngoài ra, giới khoa học cũng tìm cách giải thích những hiện tượng
huyền bí do kinh điển Phật
giáo hay những nhân chứng
nói đến, hay đích thân họ thấy
được những màu nhiệm của
Xá Lợi Phật. Không thể lý giải
những hiện tượng trong thiên
nhiên, vũ trụ và con người để
142

so sánh với sự màu nhiệm


của Xá Lợi Phật nên chưa có
cách trình bày khoa học hợp
lý nào về tính siêu nhiên,
nhiệm màu của Xá Lợi Phật.

Lịch sử và kinh điển


Phật Giáo đề cập đến Xá Lợi hơn 2,500 năm nay. Các tháp thờ Xá
Lợi Phật đã hiện diện, tồn tại suốt chiều dài lịch sử tôn giáo của
nhân loại, nhưng tây phương ít ai lưu tâm biết đến. Năm 1561
quân Bồ Đào Nha (Portuguese) tìm thuộc địa ở Á Châu, đánh
chiếm Tích Lan (Srilanca) lấy được Xá Lợi răng Phật dâng lên phó
vương Don Costantino Da Braganca với ý định giữ lại để yêu sách
tiền chuộc, nhưng Tổng Giám Mục địa phận thành Goa Ấn Độ là
Don Gaspar yêu cầu phải hủy diệt cái linh vật quỷ quái này. Kể từ
đó, Xá Lợi Phật đi sâu vào lòng người tây phương. Năm 1897 một
chủ đất thuộc địa người Anh ở Ấn Độ, vùng Piprahwa, phía nam
Nepal là ông W.C. Peppe mướn
nhân công người Ấn đào rãnh
xuyên qua một ụ gạch lớn trong
phần đất của ông làm chủ và tìm
thấy một quan tài bằng đá lớn.
143

Trong quan tài đá này


ngoài nữ trang và vàng bạc
còn có những lọ cổ. Một
trong những lọ cổ bằng đá
này có câu viết ghi bằng cổ
ngữ Brami. Ông Peppe nhờ
các nhà khảo cổ học là ông
Vincent Smith và Dr. Fuhrer
khám phá. Trong lọ cổ có
ngọc và tro Xá Lợi Phật, bên ngoài lọ có ghi: “Đây là Xá Lợi của
Đức Phật. Phần Xá Lợi này do bộ tộc Sakya, nước Savatthi
phụng thờ.” Điều này cho thấy Piprahwa hiện tại, phải nguyên
là một phần của cổ thành kinh đô Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatthu),
nơi Đức Phật Thích Ca lớn lên và trưởng thành. Sự khám phá này
cũng chứng minh được sự phân chia Xá Lợi Phật trong kinh điển
là có thực; cùng sự
hiện hữu, trường tồn
của Xá Lợi qua hơn
2,500 năm vẫn tràn
đây uy lực và màu
nhiệm không thể nghĩ
bàn, “Bất khả tư nghì.”
144

Hình Thành và Nhận Dạng Xá Lợi

Xá lợi do đâu mà có ? là câu


hỏi đặt ra với nhiều nhà khoa
học và những nhà nghiên cứu
về Đạo Phật. Có ba cách giải
thích sự hiện hữu của Xá Lợi
nhục thân như sau:

 Các nhà khoa học cho


rằng Xá Lợi là kết quả của hiện
tượng bệnh lý cơ thể, ví dụ bệnh sỏi tiết niệu (Urolithiaris); Sỏi
Niệu Quản (Ureterolithiasis); Sỏi Thận, Sạn Thận (Kidney Stone);
Sỏi Bàng Quang (Bladder Stones). Thành phần hóa học của sỏi
gồm tinh thể 90%, nước 5%, Protein 3%, và 2% còn lại bao gồm
các chất fluoride, Carbonate, Citrate, kim loại kiềm. Sỏi thuộc
nhiều dạng như:
- Sỏi Calcium oxalate
màu vàng, đen, cứng
rắn, đa dạng lồi lõm và
có nhiều gai.
145

- Sỏi Calcium Phosphate


màu trắng, mềm, dễ vỡ hơn
oxalate
- Sỏi Magnesium
Ammonium Phosphate màu
trắng ngà, có hình dạng san
hô.
- Sỏi Uric Acid có màu nâu, rắn chắc và khó đập vỡ.
- Sỏi Systine màu trắng ngà, hơi mềm và dễ vỡ.
Luận cứ của giả thuyết này có nhược điểm sau: những người mắc
chứng bệnh trên, sau khi hỏa táng không hề thấy có Xá Lợi trong
phần tro cốt còn lại. Nhưng các vị cao tăng có tuổi thọ cao, mạnh
khỏe và không hề mắc các chứng bệnh này; Chết già, khi Trà Tỳ
tro còn lại có rất nhiều Xá Lợi,
nên luận cứ này không đúng.

 Các nhà xã hội học thì


lại cho rằng theo thói quen ăn
chay, thường xuyên xử dụng
một khối lượng lớn chất xơ và
chất khoáng trong quá trình
tiêu hóa và hấp thụ nên dễ
tạo ra các chất Phosphate và
146

Carbonate. Những tinh thể


đó tích lũy dần dần trong
cơ thể và cuối cùng chuyển
hóa thành Xá Lợi. Giả
thuyết này cũng không đủ
sức thuyết phục vì có hằng
triệu triệu người ăn chay,
nhưng không phải khi hỏa táng thì tro cốt có lưu lại Xá Lợi. Số
Phật Tử và tu sĩ Phật Giáo ăn chay trường suốt cả đời rất nhiều,
nhưng không phải ai chết đều lưu tro cốt có Xá Lợi. Lý thuyết này
dẫn chứng mơ hồ, không thực tế nên không đúng.
 Đạo Phật cũng có cách nhìn về Xá Lợi của riêng mình, như
cho rằng Xá Lợi là quả của nhân tu hành, khổ luyện mà có. Quan
điểm rộng hơn thì giải thích Xá Lợi là kết quả hàm dưỡng công
phu tu tập nhiều đời về trí tuệ, từ bi, đạo hạnh được ấn chứng
sau khi trà tỳ. Đây cũng
chỉ là một luận chứng
thiếu cơ sở khoa học khó
thỏa mãn được yêu cầu
của quần chúng.
Tóm lại, hiện tượng
Xá Lợi và năng lực huyền
147

nhiệm của Xá Lợi vẫn chưa


có giải thích, trả lời thỏa
đáng như tại sao đốt không
cháy, đập không vỡ, sinh
sản thêm hay biến mất, tỏa
sáng hào quang, rực rỡ màu
sắc, tồn tại lâu dài theo thời
gian.vv..vv
Nhận Dạng Xá Lợi: Xá Lợi Phật thật có 3 đặc tính:
1. Đem hai bát nước để hai bên. Một bên để gạo, một bên
để mè. Đầu tiên để gạo vào nước thì gạo sẽ chìm, rồi đem Xá Lợi
để vào nước, Xá Lợi cũng chìm
2. Lặp lại lần thứ hai: Lấy gạo ra và bỏ lại một lần nữa
vào chén nước, gạo chìm. Lấy Xá Lợi ra và bỏ vào một lần nữa
như gạo. Xá Lợi không chìm mà lại nổi trên mặt nước.
3. Bây giờ lấy mè bỏ vào nước, mè nổi trên nước như Xá
Lợi. Nhưng nếu để Xá Lợi
cách nhau khoảng 10 ly, thì
Xá Lợi tự động di chuyển.
Điều này chứng tỏ Pháp thân
thanh tịnh Tỳ Lô Giá Na Phật
vẫn còn tồn tại trên đời.
148

Nếu người nào có phước thờ


Xá Lợi, thì Xá Lợi sẽ lớn lên
thêm; Người nào vô phước
thờ Xá Lợi thì Xá Lợi bay đi
nơi khác, mặc dù đang được
cất giữ cẩn thận. Một câu
chuyện do nhà báo Phạm
Trọng Nhân, pháp danh Trí
Hải viết lại theo lời kể của Hòa Thượng Thích Như Điển, Viện Chủ
Trung tâm Viên Giác như sau: “Tại Cushinagar, nơi Đức Phật
nhập diệt, có một ngôi chùa tên Song Lâm do một Ni Sư người
Tàu dựng nên, về sau Ni sư này cúng dường lại cho Hội Phật Giáo
Linh Sơn của thầy Thích Huyền Vi và được giao cho Ni Cô Thích
Nữ Trí Thuận trụ trì. Chùa có ba viên Ngọc Xá Lợi của Đức Phật.
Sau đó, Sư Cô Trí Thuận
sang Mỹ, đến Houston,
Texas. Cô có mang theo
một viên Xá Lợi cúng
dường cho chùa Linh Sơn
ở đây. Vị trụ trì chùa Linh
Sơn bận việc nên đem
ngọc Xá Lợi cất vào tủ
149

khóa lại, nhưng sau đó mở


khóa ra xem lại thì viên Xá
Lợi biến mất, tìm mãi không
ra. Ba tháng sau Sư Cô Trí
Thuận từ Mỹ trở về Ấn Dộ thì
thấy viên Xá Lợi kia đã nằm
trong tháp Xá Lợi tại chùa lại
như cũ.
Chúng tôi cũng đã trải nghiệm sự việc tương tự như thế này.
Trong chuyến hành hương tu tập tại Phật tích Tứ Động Tâm ở Ấn
Độ. Thứ tư, ngày 28 tháng 10 năm 2009 chúng tôi từ Câu Thi Na
(Cushinagar) đến tỳ Xá Li (Vaishali) chiêm bái Tháp Xá Lợi và
nghỉ đêm tại chùa Kiều Đàm Di. Tại đây, Sư Bà Khiết Minh trụ trì
chùa Kiều Đàm Di đã cho mỗi người chúng tôi một hạt gạo để
trong tháp thờ Xá Lợi Phật ở chùa, hạt gạo đã lên màu đen xám,
cứng hơn đá, không đập vỡ
được, giá trị không kém gì
một viên Ngọc Xá Lợi.
Chúng tôi (Quảng Hương và
Tâm Sơn) thành kính, trân
trọng để hai hạt gạo này
vào một bao ni lông nhỏ
150

cho vào vali mang theo. Khi


trở về Mỹ thì hai hạt gạo
này biến mất nhưng bọc ni
lông vẫn còn. Anh chị
Quảng Đức, bạn hành
hương, thấy thế vội vàng
chia cho chúng tôi một hạt
gạo khác. Chúng tôi không
dám nhận vì tự biết mình tu tập chưa được tinh tấn, rốt ráo nên
không đủ phước duyên thọ nhận Hạt Gạo Xá Lợi này. Đây là một
kinh nghiệm thực tế để tự suy gẫm và sám hối cách tu và đạo
hạnh của chính bản thân.
Xá Lợi xuất hiện trong Bảo Tháp
Thích Hạnh Tấn
Mùa thu năm 2008 trước khi rời Viên Giác để đi Á Châu, tôi có
thờ một số Xá Lợi của
ThếTôn và đã chia cho
những vị cư sĩ hữu duyên để
thờ cúng ở nhà. Sang Ấn Độ
lại được một vị Sư Thái cho
một số Xá Lợi, rồi đến chùa
Miến Điện tại Bồ Đề Đạo
151

Tràng vị Sư Cả cũng cho một


vài viên, sang Thái Lan lại
được một vài viên. Tôi tự nghĩ,
khi nào có nơi ổn định xây một
bảo tháp và an vị Xá Lợi trong
đó để tôn thờ. Nhân duyên
đưa đẩy về lại Đức, tôi đã
thỉnh bốn bảo tháp bằng đồng thếp vàng cao 60cm để tôn thờ,
mỗi bảo tháp tôi an trí sáu viên ngọc Xá Lợi với ý niệm tôn thờ
sáu hành pháp Ba La Mật của Thế Tôn. Bảo Tháp đã an vị được
gần hai năm rồi.
Các đây một tháng, cô Thông Chu cho biết là viên Xá Lợi mà cô
được tôi chia để thờ trước đây, đã gửi lại cho gia đình cô thờ sau
khi đi xuất gia, đã biến mất! Vì gia đình cô cũng không phải là cư
sĩ phật tử thuần thành, có người chị tương đối hiểu biết phật
pháp thì lại bận rộn không
tu tập tinh tấn được, có lẽ
đó là nguyên nhân. Khi
nghe tin này, tôi hoảng hốt
chạy vào phòng để kiểm
tra Xá Lợi tôi còn giữ trong
phòng mà không có xem
152

lại số Xá Lợi thờ trong bảo tháp, vì


tự nghĩ mình tu tập lười biếng,
chắc là Xá Lợi cũng bay mất hết
!!! Tuy nhiên, xem lại thì hình như
không có bị mất, một số viên có
vẻ như lớn hơn một chút, nhưng
không xác định được là có thật hay chỉ là ảo giác mà thôi.
Cách đây hai hôm, lúc ngủ gần đến giờ thức giấc, bỗng
nhiên nằm mơ thấy trước bàn thờ Phật xuất hiện một tháp nhỏ
Xá Lợi tâm thức tôi rất hân hoan và vội vàng đảnh lễ, nhưng đầu
vừa chạm đất thì bỗng thức giấc nhưng tâm trạng vui mừng vẫn
còn tồn đọng, tuy nhiên tôi cũng chỉ nghĩ chắc là vì gần ngày vía
đức Thế Tôn thành đạo mà mấy hôm nay luôn chuyên tu về Phật
và tưởng niệm đến Ngài nên có giấc mơ tốt như vậy thôi. Đến
trưa sau khi sắp xếp Tổ Đường xong, thì cô Thông Chiêu thưa với
tôi là hai bảo tháp trong Niệm Phật Đường bây giờ có thể thỉnh ra
phía trước được vì bàn đã
trống chỗ (nơi trước đây có
tôn trí tượng đức Phật
Dược Sư, nay đã đưa vào
Phòng Dược Sư), tôi đồng ý
và mang bảo tháp ra phía
153

trước. Khi nhìn vào bảo tháp


thấy phía trong hơi có bụi nên
thỉnh tháp thủy tinh Xá Lợi trong
bảo tháp ra, vì tò mò mà cũng vì
lòng hoan hỷ tôi đã chiêm
ngưỡng những viên Xá Lợi trong
đó, mắt tôi mở tròn vì kế bên
sáu viên Xá Lợi trước đây giờ có thêm một viên nhỏ như trứng cá
và trong suốt, sợ mắt hoa tôi gọi cô Thông Chiêu coi có thấy
không! thì Cô đã xác định là đúng, mừng quá tôi xem luôn tháp
thủy tinh trong bảo tháp bên kia, nhưng không thấy gì khác ngoài
sáu viên Xá Lợi đã tôn trí trước đây. Xem một lúc bỗng cô Thông
Chiêu nói với tôi "Sư Phụ! sao con không thấy viên Xá Lợi mới
đâu nữa!" giật mình, tôi xem lại thật kỹ, thì lạ kìa, không phải chỉ
có một viên Xá Lợi mới, mà có đến hai viên (một viên nhỏ bằng
trứng cá, một viên lớn hơn chút)
có màu sắc khác nhau.
Trước đây tôi đã từng nghe ở một
số chùa có Xá Lợi sanh thêm, tôi
rất ư là tùy hỷ, nhưng dầu sao
cũng lớn lên trong môi trường
khoa học kỹ thuật làm cho không
154

sao tránh khỏi có chút hồ


nghi. Giờ việc ấy xảy ra nơi
chính mình, thì tất cả sự hồ
nghi bỗng tan thành mây khói
mà chỉ còn tồn đọng một tâm
hoan hỷ đối với sự nhiệm
mầu của Xá Lợi.
Nguồn: http://amitayus.net

Kích Thước và Màu sắc của Xá Lợi Phật:


Xá Lợi Phật có nhiều hình dạng và kích thước khác nhau: nhỏ
như hạt cải, hạt mè; trung bình thì như hạt gạo, hạt đậu; lớn thì
như viên ngọc, thỏi vàng. Hình dáng
các hạt Xá Lợi rất đa dạng và rất
đẹp. Màu sắc thì tùy theo phần của
cơ thể hay cơ quan nội tạng tạo nên
Xá Lợi. Màu trắng là Xá Lợi xương,
màu đen là Xá Lợi tóc, màu đỏ là Xá
Lợi máu, thịt vvv..
Theo Tạng Truyền Tibetan, Xá
Lợi được phân chia liệt kê như sau:
155

- Xá Lợi màu trắng (White Sharira), kích thước bằng hạt đậu,
đó là Xá Lợi phần trên đầu.
- Xá Lợi màu xanh thẩm (Blue Barira), kích thước bằng hạt
đậu nhỏ, là Xá Lợi tạo nên từ khoảng cách những xương sườn.
- Xá Lợi màu vàng (Yellow Churira), kích thước nhỏ bằng hạt

cải, là Xá Lợi thuộc phần trên gan.


- Xá Lợi màu đỏ (Red Serira), kích thước cũng nhỏ bằng hạt
cải, là Xá Lợi thuộc thận.
- Xá Lợi màu Cam hay Lục (Orange or Green Niarira), kích
thước cũng bằng hạt cải, đó là Xá Lợi thuộc phổi.
156

Triết Lý của Xá Lợi Phật:

Màu sắc của Xá Lợi Phật cũng là màu sắc của hào quang tỏa
sáng quanh Đức Phật tiêu biểu cho 5
đức tính:

- Màu xanh là niềm tin (Tín)


- Màu Vàng là tinh tấn
- Màu đỏ là Niệm
- Màu trắng là Định
- Màu Cam là tuệ
Cựu Đại Tá Hải Quân Mỹ Henry Steel Olscott, một nhà báo, khi
sang Srilanca (Tích Lan) thấy được 5 màu hào quang này nên đề
nghị dùng nó tiêu biểu cho cờ Phật giáo và được công bố trên
báo Sarasavi Sandaresa ngày 17 tháng 4 năm 1885 rồi được treo
vào dịp lễ Phật Đản 28/4/1885. Đại Hội Phật Giáo Thế Giới ngày
25 tháng 5 năm 1950 đã công nhận đây là lá cờ chính thức của
Phật Giáo. Đại hội Phật
giáo Việt Nam ngày 6
tháng 5 năm 1951 tái xác
định lá cờ này cũng là lá
cờ của Phật Giáo Việt
Nam.
157

Một thành ngữ phổ biến và quen thuộc về Xá Lợi là :

“Thấy Xá Lợi là thấy Phật”(When The Relics are seen, The


Buddha is seen.). Ông Jayawickrama cũng có nói: “Mặc dù Đức
Phật Thích Ca đã nhập diệt Vô Thượng Niết Bàn nhưng Xá Lợi
vẫn mãi mãi trường tồn.” hay là : “Ngộ pháp là thấy được Phật.”

Theo căn bản của lời Phật dạy cho Anan khi Tôn Giả Anan
hỏi Phật ở Kỳ Viên Tinh Xá (Jetavana) thuộc thành Xá Vệ
(Sravasti) là khi có người hỏi thăm Phật, mà Phật vắng nhà thì trả
lời sao ? Phật chỉ vào cây Bồ Đề mà
bảo Anan “Thấy cây Bồ Đề là thấy
Phật” để tăng thêm năng lượng, Phật
đã ngồi thiền tọa dưới gốc Bồ Đề này
suốt đêm. Trong nhiều lần hành
hương Phật tích, chúng tôi đã có dịp
chiêm bái, đảnh lễ cây Bồ Đề này.
158

Câu Chuyện về Xá Lợi Tóc

Sau khi Phật đã chứng quả


Chánh Đẳng Chánh Giác thành
đạo dưới gốc cây Bồ Đề ở Bồ
Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya)
Đức Phật Thích Ca đã ở lại đây
một thời gian. Vào tuần lễ thứ
bảy sau ngày giác ngộ, Phật đã
để toàn thời gian suốt tuần
nhìn vào cây Rajayatana (cây
Bồ Đề, cây Giác Ngộ) với ánh
mắt biết ơn cây đã che chở cho
ngài vào những đêm mưa to gió lớn, và những ngày nắng nóng
như lửa trong suốt 49 ngày đêm, cho đến khi ngài đạt đạo. Khi
ngài vẫn còn ngồi đó, thì hai thương buôn người Miến Điện
(Burmanese) tên là Trapusa
và Bhallika (Tiếng Pali gọi là
Tapassu và Bhallika. Người
Burma gọi là Tapu và Tabaw)
đang dẫn đội thương buôn
với 500 cổ xe đi ngang qua.
Được sự dẫn dắt của Chư
159

Thiên, hai thương buôn


này đến lễ bái và cúng
dường Phật bánh cơm nếp
và mật ong. Đây là bửa
ăn đầu tiên mà Đức Phật
thọ nhận sau ngày thành
đạo. Bửa ăn trước khi
thành đạo là bát cháo sửa
do nàng Sujata cúng
dường. Sau khi tiếp nhận bữa ăn, Phật đã ban cho Trapusa và
Bhallika một bài pháp ngắn. Hai thương gia cầu xin Phật cho một
vật lưu niệm để họ có thể tưởng nhớ quy kính và lễ bái. Phật bứt
8 sợi tóc trên đầu rồi ban cho họ. Đây là Xá Lợi Phật đầu tiên khi
Phật còn tại thế. Hai người thọ nhận Xá Lợi tóc rồi để trong hộp
vàng đem về nước lập đền thờ Xá Lợi The Shwe Dagon Pagoda ở
thủ đô Rangoon, Miến
Điện. Đây là Bảo tháp
thờ Xá Lợi đầu tiên khi
Phật còn tại thế. Cho
đến nay, trong những
160

ngày lễ Xá Lợi tóc


hàng năm, hộp vàng
đựng Xá Lợi tỏa hào
quang màu xanh sáng
chói, ai cũng trông
thấy được.

Bao quanh Xá Lợi Tóc


này có một vài chi tiết
huyền bí, nhiệm màu
được lưu truyền như sau: Để tiếp nhận thức ăn do Trapusa và
Bhallika cúng dường, Phật cần có một cái bát riêng, để thọ trai.
Chiếc bát trước kia nhận cháo sữa của nàng thôn nữ Sujata khi
qua sông Ni Liên Thuyền (Nairanjana river) Phật đã ném bát
xuống sông để bát trôi ngược dòng, thề đạt đạo. Nay Đức Phật
tiếp nhận bốn cái bát của Tứ Thiên Vương cúng dường, rồi bóp
mạnh để biến thành một cái bát duy nhất tiếp nhận thực phẩm
cúng dường từ hai người thương buôn. Đây là chiếc bát khất
161

thực, thọ trai của Đức


Phật trong đời hành đạo
của ngài. Vào cuối thế kỷ
thứ tư, Đại sư Pháp Hiền
(Faxian) từ Trung Quốc
hành hương sang Ấn Độ
đã có dịp đi qua phía tây
nước Pakistan, tại
Peshawar đã có dịp may
chiêm bái bát khất thực của Đức Phật Thích Ca đang cất giữ
trong một tu viện ở đây. Ông mô tả như sau: “Bát khất thưc thọ
trai của Đức Phật dung tích chừng 4
lít, quanh miệng bát phía ngoài có
viền bốn vòng tròn đồng tâm. Bát
không giống như loại bát thọ trai
thông thường của chư Tăng vì làm
bằng đá và thực sự bao gồm bốn bát
của Tứ Đại Thiên Vương mà thành.
Ở Peshawar, mỗi ngày hai lần trưa
và chiều, bát xá lợi thọ trai nhận vật
cúng dường. Thực màu nhiệm khi
những người cùng khổ chỉ
162

bỏ vào bát vài cánh hoa


cúng dường thì bát tức thì
tràn ngập hoa. Nhưng khi
những phú gia giàu có bỏ
vào bát rất nhiều hoa quý,
nhưng bát không bao giờ
đầy.” Sư Pháp Hiền cũng
kể lại chuyện vua Yuezhi,
một Phật tử nhiệt thành,
người chiếm đóng thống trị đất nước này, có ý định chiếm đoạt
bát Xá Lợi nhưng không thể nào di chuyển đươc bát mặc dù đã
dùng sức của 8 con voi để kéo. Vua từ bỏ ý định chiếm đoạt vì
biết không thể cưỡng cầu do chưa đủ
thiện duyên. Ba thế kỷ sau, thầy Huyền
Trang (Xuanzang) hành hương đi ngang
qua đây tìm kiếm thì bát Xá Lợi của
Phật dùng thọ trai đã không còn nữa.

Một chuyện Xá Lợi tóc khác, khi


Phật còn tại thế như sau: Khi Phật ở
Thành Vương Xá (Rajagrha) Đức Phật
cần cắt tóc nhưng trong chúng đệ tử,
không ai dám sờ lên đầu Phật nên mọi
163

người đều chối từ công việc này.


May có gia đình Ưu Bà Li (Upali)
chuyên nghề hớt tóc đến viếng
Phật. Lúc đó Ưu Bà Li còn trẻ,
được cha mẹ dẫn theo, tình
nguyện hớt tóc cho Đức Phật. Cha
mẹ Ưu Bà Li rất căng thẳng và lo
lắng việc con làm nên luôn miệng
hỏi thăm Phật thấy thế nào. Phật
cho biết Ưu Bà Li hồi hộp căng
thẳng thở quá mạnh, tựa thân vào
Phật thực nặng. Ưu Bà Li nghe thấy liền điều chỉnh thế đứng và
hơi thở rồi từ từ đi vào Tứ Định (Dhyana) lúc nào không hay.
Ananda đứng cạnh Đức Phật
thấy thế liền lấy dao cạo ra khỏi
tay Ưu Bà Li. Cũng may là việc
hớt tóc cũng vừa hoàn tất.
Ananda nhặt tóc vương vãi của
Đức Phật cho vào một chiếc
chậu bể, Đức Phật trông thấy
bảo Ananda “Hãy đem tóc này
164

cho vào chiếc chậu tốt hơn”.


Mấy hôm sau có một vị
Pháp Vương dẫn quân
ngang qua, ghé lại đảnh lễ
Phật. Ngài ban cho vị Pháp
Vương này chậu tóc đó. Nhờ
thế, đánh đến đâu thì vị
Pháp Vương này đều chiến
thắng được địch quân.

Nói riêng về Ưu Bà Li (người trì giới số một); Sau này là một


trong 10 đại đệ tử của Phật, nguyên xuất thân trong giai cấp nô
lệ Thủ Đà La, làm nghề hớt tóc được Đức Phật ưu tiên cho làm lễ
thế phát xuất gia. Ưu Bà Li ra công tu luyện và giữ giới luật rất
tinh nghiêm. Sau khi Phật diệt độ, trong lần kết tập kinh điển đầu
tiên, dưới quyền chủ tọa của Ma Ha Ca Diếp. Ưu Bà Li là vị
trưởng lão tụng đọc 80 lần các
giới luật Phật chế cho đại
chúng nghe, kết thành bộ “Bát
thập tụng luật” là quyển luật
căn bản đầu tiên của Phật
giáo.
165

Xá Lợi Dấu Chân Phật

Cuộc đời của Đức


Phật Thích Ca đã để lại
dấu chân rất nhiều lần.
Khi ngài Đản Sinh,
bước bảy bước trong
bốn hướng đã để lại
vết chân trên bảy đóa
sen vàng còn ghi lại
trong lịch sử đạo pháp. Trước lúc nhập diệt ở rừng Tala song thọ,
Kushinagar Đức Phật đã để lại ba dấu chân: Một dấu chân ở Tích
Lan Srilanca trên đỉnh Adam (Adam’s peak: Sumanakuta), Hai
dấu chân khác ở hạt Minbu, Miến Điện. Trên bước đường hành
đạo giáo hóa chúng sanh; nơi nào
Phật có chủ ý đều để lại vết chân
mình, từ đỉnh núi cao cho đến bờ
sông vực thẳm. Dấu tích vết chân
Phật trên đỉnh núi Saccabandha;
hay dấu chân Phật bên bờ sông
Namada đã trở thành những ấn
chứng Xá Lợi bất tử.
166

Một truyền thuyết huyền thoại khác kể rằng Tôn giả Phú Lâu Na
(Punna, Purnavadana) còn gọi là Pura Maitrayani Putra, một trong
mười đại đệ tử của Đức Phật, người giỏi thuyết pháp số một. Quê
hương của người ở vùng đất Sunaparanta; Sau
khi được thọ giới, trở về quê gặp duyên lành
ngộ đạo. Ông nhớ ra rằng đồng bào của ông
không có duyên gặp được Đức Thế Tôn như
từng mong ước nên ông dùng thần thông bay
về thành Xá Vệ (Sravasti) kính mời Đức Thế Tôn
viếng thăm quê hương của ông, Phật nhận lời.
167

Hôm sau Đức Phật cùng 500 Tỳ Kheo


bay đến Sunaparanta. Trên đường đi,
họ dừng chân ở đỉnh núi Saccabandha
và gặp một thầy dị giáo cũng tên là
Saccabandha đang dạy tà đạo cho mọi
người. Phật biết cơ duyên đã tới nên
độ cho ông này một bài pháp, ông ta
giác ngộ hồi đầu thị ngạn theo Phật,
bỗng nhiên đầu cạo sạch râu tóc, đắp
y và có bát khất thực. Ông gia nhập
vào Tăng đoàn Tỳ Kheo, khất sĩ của
Đức Phật để đi đến Sunaparanta, rồi ở
đó họ được cư dân tiếp đón long
trọng. Đức Phật và tăng đoàn ở lại 7 ngày,
thuyết pháp độ hàng ngàn người. Trên đường
về, Đức Phật dừng chân bên bờ sông
Nammada. Long vương hiện ra nghênh đón và
rước Đức Thế Tôn thăm thủy cung, sau đó
khẩn xin Đức Phật để lại một lưu niệm để thủy
cung tưởng nhớ ngài. Phật ghi lại dấu chân bên
bờ sông Nammanda cho Long vương. Đức Phật
và tăng đoàn dừng chân trên đỉnh núi và để lại
168

Saccabandha, ông khẩn cầu Phật để


lại dấu tích cho ông phụng thờ. Một
lần nữa, Đức Phật ấn bàn chân mình
lún sâu vào đá núi, để lại Xá Lợi dấu
Xá Lợi chân cho ông Saccabandha.

Xá Lợi dấu chân Phật rải rác


khắp mọi nước Á Châu theo đạo
Phật. Ở Miến Điện (Burma,
Myanmar) Xá Lợi dấu chân Phật
trong mỗi chùa hay tu viện thuộc
thành phố hay làng xã đều có một hay hai Xá Lợi dấu chân Phật.
Ở Tích Lan Srilanca có khoảng
2,000 Xá Lợi dấu chân Phật. Thái
Lan cũng có số lượng tương tự
như thế. Ở Trung Quốc hơn 3,000
Xá Lợi dấu chân Phật. Ở Nhật
Bản, Đại Hàn, Lào, Cam Pu Chia
đều có Xá Lợi dấu chân này.

Riêng tại Ấn Độ Xá Lợi dấu


chân Phật rải rác khắp nơi, nhưng
có hai nơi quan trọng đáng lưu ý
169

là ở vườn Lâm Tỳ Ni
(Lumbini) và ở Bồ Đề
Đạo Tràng (Bodhgaya).
Ngoài ra, tại Bồ Đề Đạo
Tràng còn có Kim Cang
Tòa (Vajrasana) là nơi
Phật ngồi thiền định 49
ngày đêm dưới gốc cây
Bồ Đề đạt đạo giác ngộ. “Trong thời xa xưa khi đời Hiền kiếp đã
đến lúc viên mãn, khi trái đất hình thành thì Tòa Kim Cang này
đã xuất hiện. Kim Cang Tòa Vajrasana nằm ngay trung tâm của
vũ trụ và đi sâu vào kim luân rồi ấn sâu xuống lòng đất. Nó được
tạo thành bởi kim cương. Chu vi
khoảng chừng 100 bước. Trên tòa
này có 1,000 vị Phật đời Hiền kiếp
đã ngồi và nhập Kim Cang Định, vì
vậy mà tòa này được gọi là tòa
Kim Cang. Đây là nơi Đức Phật đã
đạt giác ngộ, và vì vậy nó cũng
được gọi là Bồ Đề Đạo Tràng.”
(Thích Nữ Giới Hương, Ban Mai Xứ
Ấn, trang 66.)
170

Lịch Sử Bảo Tháp Thờ Xá Lợi Phật

Sơ lược lại việc phân chia


Xá Lợi khi Đức Phật diệt
độ. Xá Lợi Phật được chia
làm 8 phần cho 8 nước để
lập Bảo tháp phụng thờ.
300 năm sau vua Asoka (A
Dục Vương) thu thập Xá
Lợi tử 7 Bảo tháp để xây
dựng 84,000 Bảo Tháp thờ Xá Lợi, tương ứng với tám vạn bốn
ngàn Pháp môn Phật dạy dẫn đến ngộ đạo. Sau đây là phần chi
tiết về lịch sử vua A Dục và Bảo tháp. Wikipedia:

A-dục vương (zh. 阿育王,


sa. aśoka, pi. asoka) là Hoàng đế
Ấn Độ, trị vì Đế quốc Khổng Tước
(zh. 孔雀, sa. maurya, nghĩa là
"con công") từ năm 273 đến 232
trước CN. Là một trong những
hoàng đế Ấn Độ kiệt xuất, vua A-
dục toàn thắng trong một loạt các
cuộc chinh phạt và đã cai trị phần
171

lớn vùng Nam Á, từ Afghanistan


cho đến Bengal hiện nay và đi
sâu đến miền Nam tận Mysore.
Là một quân vương ủng hộ Phật
giáo, ông đã lập nhiều bia đá ghi
lại những thánh tích trong cuộc
đời Phật Thích-ca Mâu-ni, và
theo truyền thống Phật giáo, tên
ông gắn liền với việc lưu truyền
Phật giáo.

Vào khoảng năm 260 TCN Ashoka tiến hành cuộc chiến
tranh phá hoại chống lại nhà nước Kalinga (ngày nay là Odisha).
Ông đã chinh phục Kalinga, mà tổ tiên ông (từ Chandragupta
Maurya) chưa bao giờ thực hiện được điều đó. Ông đặt cơ quan
quyền lực của đế chế ở Magadha (nay là Bihar). Ông chấp nhận
Phật giáo sau khi chứng
kiến nhiều chết chóc
trong chiến tranh
Kalinga, mà bản thân ông
đã thực hiện ra ngoài
mong đợi chinh phục của
172

mình. "Ashoka qua chiến


tranh ở Kalinga, có hơn
100.000 người chết và
150.000 bị trục xuất.”
Ashoka đã chuyển đổi một
cách từ từ sang Phật Giáo
vào khoảng 263 TCN. Sau
đó ông đã tuyên truyền
Phật Giáo khắp châu Á, và thiết lập các di tích đánh dấu nhiều nơi
có ý nghĩa trong đời sống của Gautama Buddha.

Chuyển sang Phật giáo

Theo như truyền thuyết, một


ngày sau khi cuộc chiến kết thúc
vua A-dục cưỡi ngựa dạo quanh
phía đông thành phố và tất cả
những gì mà ông có thể thấy là
những căn nhà cháy rụi và những
xác người rải rác khắp nơi. Cảnh
tượng này làm ông cảm thấy khó ở
và ông thốt lên câu nói nổi tiếng,
"Ta đã làm gì thế này? ". Sự tàn
173

bạo của cuộc chinh


phạt đã làm ông
chuyển hóa sang Phật
giáo và sử dụng vị trí
của mình để truyền bá
triết lý tương đối mới
này lên đỉnh cao, đến
mức như là La Mã cổ
đại và Ai Cập.

Cũng theo truyền thuyết, có một yếu tố khác đã dẫn dắt


vua A-dục đến Phật giáo. Một công chúa Maurya - vợ của một
trong những người anh trai của A-dục (đã bị ông xử tử) chạy trốn
khỏi dinh thự với một tỳ nữ, lo sợ cho đứa con chưa ra đời. Trải
qua một hành trình dài,
công chúa đang mang thai
ngã gục dưới một gốc cây
trong rừng, và người tỳ nữ
chạy đến ngôi đền gần đó
để nhờ một thầy tu hay
thầy thuốc đến giúp. Trong
khi đó, dưới gốc cây, công
174

chúa hạ sinh một người


con trai. Hoàng tử trẻ
tuổi được nuôi nấng và
dạy dỗ bởi những
Brahmin trong ngôi
đền. Sau này, khi cậu
khoảng mười ba tuổi,
cậu tình cờ gặp A-dục,
ông ngạc nhiên khi
thấy một cậu bé nhỏ tuổi như vậy ăn mặc như một nhà hiền triết.
Khi cậu bé bình thản tiết lộ thân thế của mình, có vẻ như là A-dục
xúc động vì hối hận và lòng thương cảm, và cho dời cậu bé và
mẹ cậu về lại hoàng cung.

Trong khi đó Hoàng hậu Devi,


một người theo Phật giáo, và nuôi dạy
các con theo tín ngưỡng đó, và rõ ràng
là đã rời bỏ A-Dục sau khi bà chứng
kiến những việc tàn bạo xảy ra tại
Kalinga. Vua A-dục đau khổ vì điều này,
và được khuyên bởi người cháu của
mình (người lớn lên trong đền thờ và
175

mang tính thầy tu


nhiều hơn là hoàng
tử) quy thuận theo
dharma và tránh xa
chiến tranh. Hoàng tử
Mahindra và công
chúa Sanghamitra,
con của Hoàng hậu
Devi, chán ghét bạo lực và cảnh đổ máu, nhưng biết rằng chiến
tranh trong hoàng gia sẽ là một phần của cuộc đời họ. Do đó họ
xin phép A-dục gia nhập với các nhà sư Phật giáo, mà A-dục miễn
cưỡng chấp nhận. Hai người này đã thiết lập Phật giáo ở Ceylon
(bây giờ là Tích Lan).

Từ thời điểm đó vua A-dục,


người đã từng được miêu tả như là
"A-dục ác vương" (Chandashoka),
bắt đầu được mô tả như là "A-dục
sùng đạo" (Dharmashoka). Ông cho
lan truyền trường phái Vibhajjvada
của Phật giáo và thuyết pháp giáo
lý trong vương quốc của mình cũng
176

như ra khắp thế giới từ khoảng


250 TCN. A-dục vương do vậy
được khẳng định là người có
những cố gắng nghiêm túc đầu
tiên để phát triển một chính
sách Phật giáo.

Sau khi thu gom Xá Lợi của 7 Bảo tháp, Vua Asoka chia làm
84,000 phần, mỗi phần bao gồm một hộp (Karanda), một cái lư
(Urn:Kumbha), một băng vải (Patta)để cột nắp lư. Phần Xá Lợi
này được cất giữ trong 84,000 Bảo tháp thuộc vương quốc Khổng
Tước Mauryar hay bất kỳ nơi đâu mà dân số ở đó phải hội đủ
100,000 người. quyết định này dẫn đến hai sự kiện. Một là nước
Taksasila (Pakistan) đòi hỏi phải có 36 hộp xá lợi tương ứng với
dân số. Để ngăn chận những yêu sách quá lố của nhiều tiểu quốc
khác, A Dục Vương Asoka khiển trách nên Taksasila rút lại yêu
sách. Hai là vua Asoka muốn 84,000 Bảo tháp phải xây dựng
hoàn tất cùng ngày, cùng giờ nên phải nhờ đến Yasas thuộc
vương quốc Kukkutamara. Từ đó tên Asoka
hung bạo (Candasoka:Fierce) được đổi thành
tên Asoka đạo pháp (Dharmasoka). Đây là kỷ
nguyên mới Bảo tháp Xá Lợi bắt đầu.
177
178

Cư sĩ Tịnh Hải là nhà báo Phạm


trọng Nhân, chủ nhiệm báo Trắng
Đen trước năm 1975 (người tìm ra
ái nữ của Tổng thống Bokassa, Phi
Châu) người cũng đã vãng sanh và
để lại rất nhiều Xá Lợi. Cư sĩ Tịnh
Hải tự tu, tự hành; không có minh
sư chỉ lối nhưng lại rất uyên bác
kinh, luật, luận và là tác giả của
những phóng sự in thành sách về
những
chuyện vãng sanh lưu Xá Lợi là: “Niệm
Phật Vãng Sanh Lưu Xá Lợi 1995-
2001” và “Những Chuyện Niệm
Phật Thấy Phật Vãng Sanh” Tôi xin
mạn phép trích dẫn một số trường hợp
và hình ảnh trong hai cuốn sách trên
của Cư sĩ Tịnh Hải sau:
179

Hòa Thượng Thích Quảng Đức đi tu từ


thuở nhỏ ở miền trung. Ngài sống cuộc
đời giản dị và hoằng pháp độ sanh bằng
phương cách xây dựng nhiều chùa. Trong
cuộc đời ngài đã xây tất cả 31 ngôi chùa,
gồm 14 chùa ở miền trung và 17 chùa ở
miền nam.

Trong cuộc tranh đấu Phật Giáo chống kỳ thị tôn giáo và gia
đình trị của chế độ Ngô Đình Diệm vào mùa Phật Đản 1963 là
thời kỳ sôi nổi nhất. Hòa Thượng Thích Quảng Đức về ngụ tại
chùa Ấn Quang để tiện bề tham gia tranh đấu.

Ngày 30 tháng 5 năm 1963 Hòa Thượng tham gia cuộc biểu
tình tại công trường
Lam Sơn trước quốc
hội, tới 5 giờ chiều về
Chùa Xá Lợi dự cuộc
tuyệt thực. Dịp này
Hòa Thượng Thích
Quảng Đức trình lên
ủy ban Liên Phái Bảo
180

Vệ Phật Giáo một bức


tâm thư xin tình nguyện
tự thiêu. Thư đề ngày
27 tháng 5 năm 1963.
Ủy Ban Liên Phái không
chấp nhận sự tự thiêu.

Nhưng đến ngày 10 tháng 6 năm 1963, tình hình không


được sáng sủa, chẳng những vậy mà Phật Giáo tại Huế đang bị
lâm nguy. Lúc này Hòa Thượng đang tụng kinh Pháp Hoa tại chùa
Ấn Quang. Vào 8 giờ tối ngày 10 tháng 6 năm 1963Thượng Tọa
Thích Tâm Châu và Thiện Hoa đang họp ở chùa Xá Lợi. Quý vị
cho mời Đại Đức Thích Đức Nghiệp tới chùa để nhờ Đại Đức
chuyển lời hỏi Hòa Thượng Quảng Đức về tâm nguyện tự thiêu,
nếu Hòa Thượng không thay đổi thì tổ chức cuộc tự thiêu ngay
vào ngày hôm sau.

Hòa Thượng Quảng


Đức trả lời Đại Đức Đức
Nghiệp rằng ngài vẫn
quyết tâm hy sinh cho
đạo pháp, tự thiêu để
cúng dường Tam Bảo. Trả
181
182
183

lời Đại Đức Đức Nghiệp


xong, Hòa Thượng bình
thản như không có chuyện
gì. Lúc ấy là 7 giờ 30 đêm
10 tháng 6, 63. Ngài lên
chánh điện chùa Ấn Quang
chủ lễ khóa Tịnh Độ
thường ngày. Buổi lễ cuối cùng ấy có Đại Đức Huệ Thới đi chuông
và Đại Đức Thích Đức Niệm (*) đi mõ.

Đại chúng hiện diện không ai biết một biến cố quan trọng
sắp xảy ra. Sau khi Phật tử về hết, tại giữa chánh điện, Hòa
Thượng Quảng Đức mới tâm sự với hai Đại Đức rằng: “Vì đạo
pháp tôi xin hiến thân giả huyễn này để cho Pháp Nạn được giải
thoát. Ngày mai này tôi sẽ từ giả cõi đời, hẹn gặp hai thầy ở cảnh
giới cực lạc của Đức Phật A Di Đà. Sau khi tôi tự thiêu để hiến
dâng cho Phật Pháp, xin các thầy lưu ý, vì tôi không thể trực tiếp
nói với các ngài lãnh đạo:

Một là, sau khi thân tôi


thiêu thành tro bụi, sẽ còn lưu lại
một vật gì đó cho đời. Thì đó là
kết quả tốt đẹp về lời phát
184

nguyện của tôi hiến dâng than


này cho đạo pháp và đó cũng
là thành quả đời tu hành của
tôi.

Hai là, khi tôi thiêu, chết


trong tư thế nằm ngữa thì
nguyện vọng Phật Giáo sẽ
thành công, các thầy cứ tiếp
tục tranh đấu. Ngược lại, nếu
tôi chết nằm sấp thì quý thầy
nên tìm cách đi ra các nước
Miên, Lào, Thái..vv..để mà tu,
nguyện vọng tranh đấu của Phật giáo sẽ không thành.

Ba là, ngày di quan tài của tôi, nếu các thầy có cảm thấy
triệu chứng gì lạ lạ, có thể là ngủ mộng thấy, có thể là cảm giác
hay triệu chứng gì thì nên đình chỉ ngay. Dời việc di quan qua
ngày khác.

Nghĩ lại ba điều Hòa Thượng


Quảng Đức nói đêm trước ngày tự thiêu
đều hiển ứng:
185

1. Thân thể ngài


thiêu thành tro, mà quả tim
của ngài vẫn còn đỏ hồng
như trái xoài chin dưới sức
nóng 4.000 độ, nóng đến
độ lò thiêu An Dưỡng Địa
đã phải nứt nẻ.
2. Khi ngọn lửa thiêu vừa lặng tắt, ba lần cúi đầu xá về
hướng tây, liền ngay khi đó, ngài bật ngữa nằm im trên mặt đất,
giữa ngã tư đường Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt trong tiếng
niệm Phật vang dội của hàng tram chư Tăng Ni đang ngồi chung
quanh chắp tay thành kính. Tư thế viên tịch đúng như ngài huyền
ký lại, làm cho Tăng Ni Tín đồ tin tưởng vào sự thành công
nguyện vọng bình đẳng tôn giáo mà quyết tâm dấn than hơn.
Chung cuộc chánh nghĩa đã thắng.
3. Ai sống trong thời
1963, nếu có lưu tâm đến thời
cuộc đều nhớ ngày di quan
của Hòa Thượng Quảng Đức
ra An Dưỡng Địa để thiêu.
Theo chương trình là 10 giờ
sáng. Dân chúng ở hai bên
186

đường Phan Thanh Giản và


đường Minh Mạng lập hương án
để tiễn đưa ngài; nhưng mọi
người đợi mãi đến hơn 12 giờ
trưa mà vẫn chẳng thấy đâu.
Sau đó mới nhận được thong
báo của ủy ban Liên Phái Bảo
Vệ Phật Giáo cho biết dời ngày
di quan. Dân chúng lúc bấy giờ
vô cùng bàng hoàng kinh ngạc.
Khoảng 2 giờ chiều ngày hôm
ấy, người ta thấy khoảng 5, 7 người mặc sắc phục đen; lặng lẽ từ
dưới bờ ruộng bước lên gỡ những
quả mìn đã được chon từ lúc nào
trên quãng đường dẫn đến lò thiêu
của An Dưỡng Địa.
Nói về Hòa Thượng Quảng
Đức, người sống rất giả dị thật bình
dân. Lúc nào tay cũng lần chuỗi
niệm Phật với gương mặt thản
nhiên và miệng luôn luôn mỉm
cười. Những ngày ngài ở chùa Ấn
187
188
189

Quang để chờ cấp lãnh đạo Phật Giáo


chấp thuận tâm nguyện tư thiêu, ngài ăn
cơm với Tăng chúng, chứ không ngồi ăn
cùng bàn với ban giám đốc Phật Học
Đường Nam Việt Chùa Ấn Quang, hay
các vị lãnh đạo Phật Giáo. Nói như thế
để chúng ta thấy rằng, người mang tâm
nguyện Bồ Tát vào đời hành đạo bao giờ
cũng thể hiện đời sống bình dị, pháp tu
đơn giản của Phật dạy…..
Tưởng cũng nên nhắc lại, đêm 20 tháng 8 năm 1963, Ngô
đình Diệm đã phản bội lại những gì đã ký kết cùng Phật Giáo, rồi
cho lệnh tấn công vào các chùa bắt giam tất cà Tăng Ni toàn
quốc; kể cả các vị lãnh đạo ủy ban Liên Phái bảo vệ Phật Giáo
Việt Nam tại Chùa Xá Lợi. Trong đêm đó cảnh sát của Diệm Nhu
dự định đoạt lấy trái tim Xá Lợi, nhưng một
Thiếu tá Cảnh sát đã nhanh tay cất dấu trái
tim Xá Lợi ấy, toán cảnh sát quýnh quáng
tìm kiếm mà không ra. Sau khi tình hình
yên ổn, vị Thiếu tá ấy – là một Phật Tử -
đem hoàn lại vật thiêng cho quý vị lãnh
đạo Phật Giáo tại Chùa Xá Lợi.
190

(Theo Thầy Thích Đồng


Bổn, Đạo Phật Ngày Nay)

Chùa Xá Lợi là trụ sở của


Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ
Phật Giáo trong cuộc đấu
tranh đòi bình đẳng tôn
giáo, chống chế độ kỳ thị
tôn giáo độc tài gia đình trị
Ngô đình Diệm. Ủy Ban Liên Phái được thành lập từ ngày 25
tháng 5 năm 1963 hoạt động đến tháng 1 năm 1964 thì chấm
dứt vai trò lịch sử.

Lịch sử chùa Xá Lợi: Năm 1852 phái đoàn Phật giáo Tích
Lan đi dự phiên họp lần thứ II của Hội Phật Giáo Thế Giới (World
Fellowship of Buddhists) tổ chức
tại Tokyo, Nhật Bản có phụng
thỉnh theo một viên ngọc Xá
Lợi của Đức Phật để tặng Phật
giáo Phù Tang (Japan). Phái
đoàn đáp tràu La Marseillaire
phải ghé bến Sài Gòn 24 giờ.
191

Tiến sĩ Malasekeka chủ tịch Hội


Phật Giáo Thế Giới đánh điện
cho Hội Phật Học Nam Việt hay
tin ấy và ngõ ý nhờ hội Phật
Học Nam Việt tổ chức cung
nghinh Xá Lợi lên bờ cho công
chúng chiêm bái trong khoảng
thời gian tàu ghé lại Sài Gòn.

Được sự ủy nhiệm của


Thượng tọa Tố Liên, đại diện
của Hội Phật Giáo Thế Giới tại
Việt Nam và của các tập đoàn trong Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam
ủy nhiệm. Hội Phật Học Nam Việt đứng ra tổ chức một ủy ban
lien phái gồm 11 đoàn thể cung nghinh Xá Lợi, số lượng tham dự
lên đến nửa triệu người (phỏng ước của báo chí) làm cho nhà
cầm quyền Pháp lúc bấy giờ phải kinh ngạc trước tiềm lực tinh
thần của Phật Giáo.

Xá Lợi được cung nghinh trên


một kiệu hoa kết hình bạch tượng
từ Bến Nhà Rồng của hãng
Messageries Maritimes về “nhà
192

Kiếng” (nay là trụ sở Tổng


Liên Đoàn Lao Động Việt
Nam) được trang trí làm nơi
tạm để lấy chỗ rộng rãi cho
công chúng đến chiêm bái.
Tứ 11 giờ trưa đến 3 giờ
sáng hôm sau; thiện nam tín
nữ nối gót nhau đến dâng
hương đảnh lễ không lúc nào dứt. Đến 5 giờ sáng 11 tập đoàn
họp trở lại để phụng thỉnh Xá Lợi xuống tàu để đi đến Nhật Bản.

Với sự thiết tha của Phật giáo đồ Việt Nam như thế, sang
năm sau 1953; Đại Đức Nara Maha Thera, tọa chủ chùa
Vajirarama ở Tích Lan sang Việt Nam phụng thỉnh theo 3 viên Xá
Lợi và ba cây Bồ Đề con để dâng cúng cho ba nơi: Phật giáo
Nguyên Thủy (Chùa Kỳ Viên). Phật giáo Bắc Tông, và Phật giáo
Cao Miên (Theo lời tuyên bố
của Đại Đức lúc đến phi trường
Tân Sơn Nhât. Đại Đức Nara
Maha Thera là đệ nhị Tổ sư
của ngành Nhân Điện, hiện
thịnh hành ở Việt Nam)
193

Được ủy nhiệm, đạo hữu


Chánh Trí Mai thọ Truyền dẫn đầu
một phái đoàn hợp cùng phái đoàn
cung nghinh do Phật giáo Nguyên
Thủy tổ chức, lên phi trường Tân
Sơn Nhất tiếp đón Đại Đức và các
báu vật. Về đến chùa Kỳ Viên, Đại
Đức lặp lại lời tuyên bố ban đầu và
dự định vào sáng hôm sau sẽ trao
cho đạo hữu Chánh Trí phần Xá Lợi
và cây Bồ Đề dành cho Phật giáo
Bắc Tông. Nhưng ngay đêm hôm ấy
đã xảy ra sự tranh chấp về việc đoàn thể Phật giáo nào có đủ tư
cách đại diện cho Phật giáo Bắc Tông Việt Nam được phụng thờ
ngọc Xá Lợi. Đạo hữu Chánh Trí
phải giải thích nhiều mới binh vực
được tư thế của Tổng hội Phật giáo
Việt Nam, là tập đoàn lớn nhất thời
bấy giờ gồm cả Tăng già và cư sĩ
đại diện cho ba miền đất nước. Do
vì chưa nắm rõ tình hình nội bộ
194

Phật giáo Việt Nam và để tránh


sự dị nghị, sau khi thảo luận với
đạo hữu Chánh Trí, Đại Đức
Narada đã quyết định dâng ngọc
Xá Lợi lên đức Đoan Huy Hoàng
Thái Hậu (thường gọi là đức Từ
Cung, thân mẫu quốc trưởng Bảo
Đại) để đức ngài tùy ý giao lại
cho đoàn thể Phật giáo nào mà
đức ngài xét thấy đáng phụng thờ di tích của Đức Thế Tôn.

Sau cuộc phân chia Xá Lợi, phần của Phật giáo Bắc tông
được Hội Phật Học cùng các đoàn thể bạn hợp sức cung nghinh
ra nhà kiếng cho công chúng chiêm bái trong ba ngày, ba đêm.
Và ngay tại đây, Đại Đức Narada Maha Thera làm lễ kính trao cho
ông Ưng An, khâm sai của Hoàng Thái Hậu. Ba ngày chiêm bái đã
xong, một phái đoàm
gồm có Đại Đức Narada,
Đại Đức Bửu Chơn, ông
Ưng An, ông Lê văn
Hoạch phó Thủ tướng
kiêm Tổng trưởng thông
tin, ông Nguyễn văn
195

Hiếu, hội trưởng Phật giáo


Nguyên thủy và đạo hữu
Chánh Trí Mai Thọ Truyền
phụng thỉnh tháp vàng
đựng Xá Lợi (do gia quyến
ông Võ văn Trọng ở Nam
Vang cúng) lên Ban Mê
Thuột. Tại tư dinh Đức
Đoan Huy Hoàng Thái Hậu, khan áo chỉnh tề trong cảnh trầm
hương nghi ngút quỳ tiếp ngọc báu.

Gần hai năm sau, đức Từ Cung quyết định giao cho Tổng
hội Phật giáo Việt Nam trách nhiệm phụng thờ Ngọc Xá Lợi. Tổng
hội xét công lao của Hội Phật học Nam Việt, đã ủy nhiệm cho hội
thờ phụng. Lúc ấy trụ sở của hội còn đặt tại chùa Phước Hòa ở
khu Bàn cờ, cũ kỷ và
chật hẹp.

Đến năm 1955,


hội Phật học Nam Việt
quyết định xây dựng
chùa mới tại một vị trí
khác để có nơi xứng
196

đáng phụng thờ di bảo Đức


Thế Tôn và đủ chỗ cho thiện
tín đến lễ Phật, chiêm bái Xá
Lợi. Hội đã được tòa đại biểu
chính phủ tại Nam Việt ký giấy
phép cho phép hội mở cuộc lạc
quyên với hạn mức số tiền tối
đa là 5 triệu đồng để dùng vào việc kiến trúc. Cuộc lạc quyên bắt
đầu từ ngày 14 tháng 1 năm 1956 và khóa sổ ngày 27 tháng 12
năm 1956, kết quả được hơn 3 triệu đồng. Theo họa đồ xây dựng
chùa, công trình được dự toán kinh phí khoảng 7 triệu đồng bạc
thời bấy giờ.

Địa điểm Chùa Xá Lợi được


khởi công xây dựng vào ngày 5
tháng 8 năm 1956, trên thửa đất
diện tích hơn 2,500 mét vuông.
Được nhượng lại của Câu Lạc Bộ
Đông Dương với giá tượng trưng là
một đồng bạc Việt Nam. Khu đất
tọa lạc tại góc đường Lê Văn Thạnh
(nay là Sư Thiện Chiếu) và Bà
Huyện Thanh Quan. Công trình
197

kiến trúc theo bản vẽ của hai kiến trúc sư


Trần văn Đường và Đỗ Bá Vinh. Công
trường xây dựng được điều khiển bởi hai
kỷ sư Dư Ngọc Anh và Hồ Tố Thuận.
Chùa được hoàn thành ngày 2 tháng 5
năm 1958. Chùa Xá Lợi có Phật Bảo là
một tháp bằng vàng, trong đựng báu vật
là Ngọc Xá Lợi Phật do Đại Đức Narada
Maha Thera, một danh Tăng Phật Giáo Tích Lan đã mang sang
tặng để làm chứng tích Phật Bảo thường trụ tại nơi quốc độ Việt
Nam.
198
199
200

Sư Bà Đàm Lựu: (Thị tịch ngày 26 tháng 3 năm 1999) là


tên và cũng là Pháp danh. Bà sinh
năm 1933 tại xã Thanh Oai, tỉnh
Hà Đông, Bắc Việt, lúc 2 tuổi được
cha mẹ tặng cho cụ Đàm Soạn vì
khó nuôi. Năm 16 tuổi Sư bà thọ
Sa Di Ni Giới, năm 19 tuổi thọ Tỳ
Kheo Ni Giới. Năm 1952 theo sư
cụ Đàm Soạn vào nam. Năm 1964
được đưa du học Tây Đức. Năm 1970 làm giám đốc cô nhi viện
Lâm Tỳ Ni ở Sài Gòn. Năm 1977 vượt biên ở Vũng tàu. Năm 1980
lập chùa Đức Viên ở San Jose, California. Năm 1984 để sáng lập
một ngôi chùa mới rộng rãi, khang trang hơn. Sư Bà bắt đầu gây
quỹ để xây dựng ngôi Tam Bảo. Sư Bà viên tịch lúc 21 giờ 27
phút ngày 26 tháng 3 năm 1999, thọ thế 67 năm, hạ lạp 48 năm,
để lại rất nhiều Xá Lợi. Thầy Thích Quảng Chơn nói về Xá Lợi của
Sư Bà như sau:

Sư Bà để lại rất nhiều Xá Lợi


gồm có xương, răng, tim và ngọc.
Xá Lợi xương thì nhiều lắm, lớn,
nhỏ, hình dạng, và màu sắc khác
nhau. Có mảnh trắng đục như sữa,
201
202

sắc óng như ngà; có mảnh nhỏ màu


đục như đất, có mảnh màu vàng nhạt
như vỏ trứng gà, có mảnh màu xanh
như cẩm thạch, có mảnh trắng như
hoa tuyết, có mảnh tím hồng như
màu kiến sen, có mảnh vàng nhạt và
có nhiều đoản xương màu như đồng
vàng hay thép nung. Răng của Sư Bà
còn tất cả 28 chiếc, có hai chiếc ánh
màu kiến sen và một chiếc màu lục.
Tôi ngạc nhiên nhất là khi Sư cô nói trái tim Sư Bà vẫn còn và chỉ
cho tôi một khối màu nâu đỏ, như bàn tay nắm lại của một em bé
vừa mới sinh. Hơn phân nửa bề mặt của trái tim được bao phủ
một lớp màu xanh cứng như thạch nhủ, nâng trong tay thật nhẹ
và có cảm giác thanh thản như được an ủi và khuyến khích. Một
cảm giác tâm linh phảng phất bóng của một Ni sư đức hạnh như
in đậm ở trong đây. Ngọc Xá
Lợi của Sư Bà thì thật là nhiều,
lớn nhỏ đều gần trăm viên. Có
viên đen huyền óng ánh, có
viên màu lục nhạt như hạt cẩm
thạch, có viên màu trắng đục
203

như hạt gạo, có viên màu


trắng như hạt san hô. Những
viên ngọc Xá Lợi hình dáng
khác nhau, có hạt tròn như hạt
đậu dính chặt vào một mảnh
xương, có hạt hình bầu dục,
cũng có hạt hình tròn nhỏ dính thành một chuỗi dài trên một
mảnh xương như chuỗi ngọc trai.

Rất ngạc nhiên vì đây là lần đầu tiên tôi thấy Xá Lợi của một
vị cao Ni. Trong đời tôi chưa bao giờ nghe hoặc thấy Xá lợi của
một vị nữ xuất gia. Theo lịch sử truyền thừa Phật Giáo, rất hiếm
các vị cao Ni để lại Xá Lợi. Trong Đại Chính Tân Tu Quyển Tỳ
Kheo Ni Truyện chỉ viết về hai vị Cao Ni có để lại Xá Lợi. Nói như
vậy không phải là thiếu các bậc Cao Ni đắc đạo, chứng Thánh
quả hay ngộ được tinh yếu của giáo lý Đại Thừa. Nhưng rất hiếm
thấy xá Lợi của các vị Cao Ni thờ ở các chùa hoặc ở Tổ đình. Lý
do dễ hiểu là ngày xưa các vị tổ
khai sáng một tông môn hay tổ
đình lớn ở Trung quốc cũng như
Việt nam đều là các bậc cao
tăng. Xá Lợi của Sư Bà đã để lại
cho Ni chúng và Phật tử như
204

những viên ngọc quý, lời dạy của


Sư Bà như đài gương sáng, như
bản đồ chỉ đường cho Phật tử đi
theo công hạnh của người mà
huân tụ giới đức, trang nghiêm
cõi tịnh mà Sư Bà đã khai sáng.

Trong tập Kỷ Yếu, có đăng một bài của nữ Phật Tử tên


Nguyệt Chiếu Đoàn Thúy Nga viết một lá thư gửi về Thế Giới Cực
Lạc cho Sư Bà: “Thầy giản dị, khiêm cung, nhu hòa, nhẫn nhục,
nhưng cương quyết thực hành chí nguyện độ sinh. Luôn lay câu
niệm Phật cầu sinh Tây phương nằm lòng. Biết bao lần con vui
mừng vì cảm nhận: con được thầy xem con như người bạn sen
đặc biệt. Năm ngoái, khi thầy Phước Nhơn ở Úc sang. Thầy ân
cần giới thiệu con với Thượng Tọa, con là người con của Đức
Phật A Di Đà. Thầy thường cởi mở, chân thành, tha thiết, tán
thán Pháp môn niệm Phật, và
thân thiết tâm sự với con về
Pháp môn tu của thầy, dốc
lòng tu trì cầu hồng danh A Di
Đà và nguyện vãng sanh Cực
lạc…..”
205

SA DI THÍCH MINH ĐẠT: (Thị tịch ngày 9 tháng 12 năm


1997) tên thực là Nhâm ngọc Hựu
nguyên Trung tá ngành Quân nhu trong
Quân lực Việt Nam Cọng Hòa. Sau biến
cố mất nước 1975 di tản sang Mỹ, lúc
các con trưởng thành thì đi tu. Khởi
đầu, thầy đến một ngôi chùa ở bên
Pháp xin xuất gia, vị Hòa thượng chấp nhận đặt pháp danh là
Minh Trí. Nhưng sau đó một số tu sĩ thân cận Hòa thượng chê
thầy già, tướng cục mịch, không có giọng tụng kinh tốt, cản trở
không để thầy thọ giới Tỳ Kheo. Thế nên, thầy Minh Trí lặng lẽ ra
đi, tìm đến một vị Thiền sư, nhưng vị này chỉ thu nhận với điều
kiện nếu có sự giới thiệu của Hòa thượng. Muốn tiếp tục tu và đạt
thành chánh quả, thầy Minh Trí phải học tu nhẫn nhục.

Từ ngày rời Âu Châu, thầy đổi Pháp danh là Minh Đạt, tự tu


tự hành và trở thành trụ trì chùa Từ Ân ở Ottawa, Canada, nhờ
căn cơ và trí tuệ do kiến thức học
vấn và căn lành sẵn có từ bé, thầy tu
tập rất tinh tấn . Trong thời kháng
chiến chống Pháp, một người bạn bị
Tây bắn chết không quần áo, Nhâm
ngọc Hựu đã lột quần áo cho bạn,
206
207

lúc làm sĩ quan Quân nhu, người


khác hối lộ, tham nhũng làm giàu,
riêng Hựu liêm khiết trong sạch, sẵn
sàng giúp đỡ cho binh sĩ dưới quyền
và người nghèo. Lúc Saigon thất
thủ, Hựu cõng cha bị tê liệt chạy
xuống tàu theo làn sóng người lưu vong. Ở hải ngoại, nuôi nấng
cho 7 đứa con trưởng thành. Hựu xuất gia để tự giải thoát. Hựu
tức là thầy Minh Đạt vì bá tánh quên mình, trong cơn bệnh hoạn
không nghĩ sự sống chết của bản thân mà đi hộ niệm cho người
sắp lâm chung. Thầy Minh Đạt kiếp này đầy đủ tứ ân: đi quân đội
là đền ơn tổ quốc, cõng cha lưu vong là đền ơn sinh thành cha
mẹ, xuất gia là đền ơn Tam Bảo; lo hộ niệm cứu khổ chúng sanh
là đền ơn đồng bào, làm sĩ quan quân nhu mà không tham lam,
đi tu bị từ chối thọ giới Tỳ Kheo mà không giận là không sân,
xuất gia để tự giải thoát là không si. Thầy có đầy đủ Thiền Tịnh
Song Tu, đủ tứ ân và lục Ba La
Mật, dứt được tham, sân, si
nên dù tuổi hạ rất ít mà thầy
vẫn đạt đạo cọng với căn lành
của nhiều kiếp tu nên khi hỏa
táng mới lưu lại Xá Lợi.
208

THIỀN SƯ GIÁC LẬP: (Vãng sanh ngày 17 tháng 1 năm


1997) Thế danh của Trưởng Lão
Thích Giác Lập là Bùi văn Ngà, sinh
năm 1924. Trụ thế 73 năm, hạ lạp
42 năm. Ngài xuất gia năm 28 tuổi
(1952), lúc đó đã có vợ và hai con.
Năm 1953 người bạn đời và người con gái lớn 7 tuổi cũng phát
tâm nhập vào hàng Ni chúng. Hai vị sau này là Sư Bà Thích Nữ
Cung Liên, viên tịch năm 1990. Và Ni Sư Thích Nữ Vinh Liên đang
trụ trì Tịnh Xá Ngọc Hương ở Vũng Tàu. Người con gái út khi lớn
lên cũng xuất gia, nay là Sư Cô Thích Nữ Chân Liên, trụ trì Tịnh
Xá Ngọc Ninh ở Tây Ninh. Cả ba vị đều có tên chữ Liên, tức hoa
sen, ở phía sau. Sau 42 năm tu thiền, khi viên tịch Trưởng Lão
hóa sanh nơi hoa sen.

Trưởng Lão Thích Giác Lập thích lặng lẽ tu thiền ở miền Thất
sơn, từ núi Cấm, núi Dài, Nhà Bàng, núi Két, Trưởng Lão sống
trong hang đá, chòi tranh với đời sống đạm bạc. Sau lại về tu ở
Châu Viên, Dinh Cố, Trưởng Lão Giác
Lập hành thiền nghiêm mật không ai
sánh kịp. Trưởng Lão Giác Lập là một
trong những vị đệ tử lớn của Đức Tôn Sư
Minh Đăng Quang. Trưởng Lão là
209
210

người mà trong tập kỷ yếu đã trang


trọng viết: “Một dấu ấn khó quên
trong cuộc đời tu học và hành đạo của
cố Trưởng Lão là tâm hiếu đạo đối với
tổ, thầy..” về hạnh tu của Trưởng Lão
được đúc kết bằng hai câu thơ 5 chữ: “Nói năng như Thiền sư, im
lặng như Chánh Pháp”. Trưởng Lão Thiền Sư Giác Lập rất ít nói
năng, thường không hay viết lách, và khi được mời giảng Pháp
cũng nói rất ít, nên mới có câu “nói năng như Thiền sư”, ngài
luôn luôn lặng lẽ trong bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi cho nên
tâm ngài lúc nào cũng đươc thiền định, và đúng ý nghĩa “im lặng
như Chánh Pháp” tu như vậy mới dễ chứng đắc. Ngài từng vào
rừng thanh vắng để tu, từng sang tận núi Tà Lơn ở Campuchia,
lên các núi ở miền Thất Sơn, và các núi ở vùng Long Điền, được
nhiều công đức vô lậu. Vậy mà đến
cuối cuộc đời tu Thiền, Thiền Sư
Trưởng Lão Giác Lập cũng quy hướng
về Tịnh Độ hầu nương Phật lực của
Đức Phật A Di Đà mà được về cõi
Phật.

Đây là những tư liệu được trích từ cuốn “Những chuyện


Niệm Phật Vãng Sanh Lưu Xá Lợi 1995-2001” của Cư Sĩ Tịnh Hải
211

Cư sĩ Tâm Sơn, có được duyên lành nghe biết, và thấy tận


mắt một trường hợp vãng sanh lưu Xá Lợi thực đặc biệt như sau:

Tôi có quen gia đình con cháu


cụ bà Thích Nữ Thanh Chân ở Troy
gần Dayton, Ohio trong những dịp
đến chùa Tịnh Quang ở Dayton,
Ohio. Cụ bà Ngô thị Nguyệt Pháp
danh Thích Nữ Thanh Chân sinh
ngày 4 tháng 2 năm Giáp Tý 1922 tại
tỉnh Bình Dương, Việt Nam. Tạ thế
vào lúc 8 giờ 8 phút, ngày 9 tháng 3
năm 2006, nhằm ngày 2 tháng 10 năm Âm lịch, tại Dayton, Ohio
hưởng thọ 82 tuổi, cụ bà có 8 người con, 1 cháu nội và 9 cháu
ngoại. Đời thường thì cụ bà là một phụ nữ trung bình chỉ biết nội
trợ, lo gia đình. Khi lớn tuổi
nghe lời khuyên của con cháu
nên tu học Phật pháp, siêng
năng đi chùa, lễ Phật và Quy y
tại chùa Linh Sơn Columbus, thủ
đô tiểu bang Ohio. Mấy tháng
212
213

trước khi lâm chung, cụ bà


cùng một nhóm Phật tử lớn tuổi
tự tổ chức Phật thất vào ngày
Chủ Nhật ở chùa Tịnh Quang,
Dayton, Ohio. (Đạo tràng này
không có thầy trụ trì hướng dẫn, nên thường họp mặt vào cuối
tuần để cùng tụng niệm chung với nhau)Một buổi chiều Chủ nhật
sau thời tụng niệm, nhóm người già này thấy một vòng hào
quang lớn, sáng lấp lánh trên nền nhà của chánh điện, theo lời kể
của cụ ông Thôi Hồng, một nhân chứng có mặt lúc đó, nói: “Tôi
thấy một vòng hào quang đủ màu sắc sáng rực rỡ trên mặt thảm
đỏ ở chánh điện, ngay trước bàn Phật. Lúc đầu tôi cho rằng là
ánh nắng mặt trời chiếu rọi, nhưng đã tối, trời lại âm u và không
có một xe hơi nào chạy qua
đây trong lúc này, thực sự là
một hào quang rực rỡ, màu
nhiệm và linh thiêng Mọi
người đều quỳ lạy, tụng niệm
và khóc vì quá xúc động. Bác
Ngô thị Nguyệt khẳng định là
phải thấy phép màu như thế
này thì mới tin chắc vào Phật
214
215

pháp được, và sẽ có điều lạ gì đây.”


Ít tháng sau thì cụ bà Thích Nữ
Thanh Chân Ngô thị Nguyệt bị
Stroke, hôn mê nằm bệnh viện.
Cách đó mấy phòng cũng có một Ni
cô người Việt đang nằm dưỡng
thương và được mấy Sư cô từ Pháp
sang thăm viếng. Mấy Sư cô này
biết được có một cụ bà người Việt
đang hấp hối mà thân nhân chưa
kịp đến nên sang tụng kinh, trợ
niệm. Đến nơi, họ thấy một bóng trắng trong phòng lơ lững bay
ra và thoát lên không trung thì họ biết cụ Bà Thích Nữ Thanh
Chân đã được Tam Thánh đến rước Vãng sanh.

Về phần tôi thì một người bạn, anh Hồ văn Lâm, chủ
tịch Hội người Việt Dayton và vùng phụ cận, nhờ hướng dẫn đến
nhà quàn Newcomer Funeral
Home để viếng xác và điếu
tang cụ bà Thích Nữ Thanh
Chân Ngô thị Nguyệt. Khi
viếng linh cữu cụ bà tôi có
nhận xét như sau: quanh nhà
216
217
218

quàn có một mùi hương thơm nhẹ,


không phải là mùi nước hoa hay
trầm nhang và một ánh hào quang
màu vàng nhạt tỏa sáng từ quan tài
(nhìn vào hình chụp quan tài ta thấy
rõ vải bọc trên nắp quan tài màu
trắng tinh đã nhuốm vàng) điều này chỉ có anh Hồ văn Lâm và tôi
thấy rõ mà thôi. Da của cụ bà trở thành một màu vàng óng như
đồng, mịn và phẳng như người say ngủ, nét mặt thay đổi từ một
phụ nữ trở thành khuôn mặt của một Đại sư đàn ông. Khi hỏa
thiêu để lại rất nhiều Xá Lợi.

Một điều kỳ dị khác là tôi thấy tay của bà cụ dù bọc kín dưới
lớp mền và phần dưới quan tài có mang một vòng tay cẩm thạch.
Tôi đã thắc mắc hỏi con gái bà cụ là tại sao cho người chết mang
nữ trang như vậy? Chị rất hốt hoảng và sửng sốt hỏi tôi có thần
thông nhìn xuyên suốt mọi thứ phải không(Thần nhãn?) Sự thực
thì tôi chỉ thấy với nhục nhãn như thế
và hỏi mà không có ý kiến gì hết. Chị
cho biết vì vòng cẩm thạch nhỏ hơn
bàn tay nên không thể lấy ra được
đành phải để lại cho bà cụ mang theo.
219
220
221
222

Trong đời người, có


những chuyện viễn
vông huyền hoặc,
tựa như dối trá mà
lại hư thực khó
lường. Ai có uống
nước mới tự biết
nóng lạnh ra sao,
chẳng cách gì giải
thích được. Tuy
nhiên, một số ảnh chụp của cụ bà Thích nữ Thanh Chân Ngô thị
Nguyệt (dù cuối đời chỉ tu gieo duyên, trụ tại gia mà không ở
chùa, Phật pháp kiến giải chẳng thông mà lại vãng sanh, để lại
nhiều Xá Lợi) cũng đủ sức thuyết phục những người đa nghi, khó
tính nhất về Phật Pháp
Nhiệm Mầu bất khả tư nghì.
Phước đức tu tập tích lũy
nhiều kiếp, khế hợp với
nghiệp duyên hiện tiền, tạo
nên thiện quả tức thời.
Tâm Sơn
223

Tuy Xá Lợi Phật đã hiện


diện trong nhiều kinh điển cổ
xưa của Phật giáo (Kinh
Trường A Hàm) nhưng mãi
đến năm 1897 khi ông W.C.
Peppe và các nhà khảo cổ
khai quật, tìm được Xá Lợi
của Đức Phật Thích Ca thì
nhân loại mới thực sự tin rằng
Xá Lợi có thực. Những truyền thuyết, huyền thoại về việc phân
chia, cúng dường, tôn thờ Xá Lợi Phật đã
trở nên một thực tế hiện thực củng cố
được niềm tin của Phật tử vào Đấng Từ
Phụ và con đường giác ngộ, giải thoát mà
người đã chỉ cho chúng sinh.

Xá Lợi Phật, Xá Lợi chư Thánh Tăng


và Xá Lợi của Phật Tử là thực thể mà
khoa học không xác minh được, “Bất khả
tư nghì” không thể nghĩ bàn; nhưng
chúng ta không chấp nhận những mê tín
224

dị đoan mà phải hiểu rằng


đó là ấn chứng công đức
tu tập, kết quả viên mãn
của một kiếp người đã chọn
đúng đường đi, niềm tin và
sự hành trì trọn vẹn để có
phước đức này. Là Phật
tử khi chiêm bái Xá Lợi,
kính ngưỡng Xá Lợi là
chúng ta củng cố niềm tin
vào Phật pháp, thấy rõ
nhân quả của việc tu tập hiện tiền trong kiếp người để nổ lực tinh
tấn đạt được giác ngộ, giải thoát.

Việc cúng dường Xá Lợi không


nhất thiết đòi hỏi “tịnh tài, hiện vật”
dâng hiến như một số người đề nghị,
yêu cầu; mà tùy thuộc vào cơ duyên,
niềm tin, suy nghĩ và khả năng của
Phật tử để cúng dường. Tránh mọi
việc mê tín và lợi dụng trên Xá Lợi để
tạo ác nghiệp; Cũng như không dối
trá, lừa gạt lợi dụng lòng mê tín của
225

tín đồ để mưu lợi


bất chánh. Chúng
ta có chánh pháp
Phật dạy, có Xá Lợi
chứng minh sự hiện
hữu của Đức Phật
là thực tế trường
tồn, hằng hữu để
củng cố niềm tin vào con đường
tu tập noi theo theo vết chân
của Đấng từ phụ. Chúng ta chỉ
cần như thế, như thế mà thôi.
Nam Mô Tinh Tấn thường trụ Ma
Ha Tát, Tác đại chứng minh.
Tâm Sơn (Monday, March16, 2015)
226
227

SƠ LƯỢC NỘI DUNG


Nguồn gốc Chú Đại Bi là từ kinh “Thiên Thủ Thiên Nhãn
Quan Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi
Tâm Đà Ra Ni.” Theo kinh này thì Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
ngự nơi Đạo Tàng Bảo Trang Nghiêm
trong cung điện của Quan Thế Âm Bồ
Tát ở núi Bồ Đà Lạc Ca (Potalaka),
còn gọi là Quang Minh Sơn thuộc một
hải đảo phía nam Ấn Độ, núi này hình
bát giác, Đức Quan Thế Âm trụ tích
nơi đây.
Chú Đại Bi được dịch từ tiếng
Sanskrit sang tiếng tàu do sư Dà
Phạm Đạt Ma (Bhavagaddhama), dịch
là Tôn Pháp, ngài là Sa môn người Ấn
Độ du hóa sang Trung Quốc vào niên
hiệu Khai Nguyên thời Đường Túc
Tông . Nhưng mãi đến đời Tống, chú
ngữ mới được Thiền sư Từ Minh của
Tông Thiên Thai đề xướng mà phổ cập. Chú này truyền bá rộng
rãi khắp Trung Quốc, Đại Hàn, Nhật Bản, và Việt Nam.
228

Chú Đại Bi gồm 410 chữ; 84


câu thu gọn tên của: Chư Thiên, Bồ
Tát, Mười Phương Chư Phật, cùng Mật
Chú và Diệu Âm. Oai lực của Chú Đại
Bi Tâm Đà Ra Ni rất màu nhiệm và
linh thiêng, không thể nghĩ bàn.
Trong nghi thức tụng niệm, Chú
Đại Bi luôn luôn được trì tụng trước
tiên, vì đây là lời thành khẩn, khẩn cầu
mời gọi Chư Thiên, Bồ Tát và Mười Phương Chư Phật đến chứng
giám, thọ trì. Thế nên, khi tụng niệm phải cẩn trọng lưu ý Thân –
Tâm sạch sẽ, thanh tịnh, nghiêm trang. Trì niệm đúng danh hiệu
các ngài với niềm tin vững chắc, thành tâm, thiết tha mời gọi các
ngài chứng giám, độ trì.
Khi tụng niệm cách phát âm có sự
lệch lạc giữa âm Ấn Độ - Trung Hoa –
Việt Nam, không quan trọng và không
ảnh hưởng đến oai lực và nhiệm màu
của Chú Đại Bi Tâm Đà Ra ni bời do
lòng thành (Tín-Nguyện-Hành). Cảm
ứng và tương thong với Chư Thiên, Bồ
Tát, Mười Phương Chư Phật và ngài
229

Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi


Quan Thế Âm Bồ Tát. Cảm ứng linh
thiêng không thể nghĩ bàn.
Thời hiện đại, khi chúng ta dùng
phone, điện thoại gọi đi, thì làn song âm
thanh lan trong không gian và tổng đài
nhận được tín hiệu chuyển đến đối tượng
mà chúng ta muốn điện đàm. Cứ mỗi giây
có hàng triệu tín hiệu tỏa ra trong không gian. Cũng như thế, lời
tụng niệm tán thán, cầu nguyện, van xin của chúng sanh lan
trong không gian, vũ trụ; đến cõi vĩnh hằng, hàng triệu triệu từng
phút, từng giây, thì Ngài Quan Thế Âm và Mười Phương Chư Phật
đều nghe thấy và biết rõ ràng.
Tùy theo căn cơ, nghiệp duyên, lòng thành tâm cầu nguyện
mà có được sự linh ứng. Khi đã đúng lúc, hội đủ duyên thì oai lực
và sự nhiệm màu không thể nghĩ bàn.
Hàng ngày trì tụng Chú Đại Bi Tâm Đà Ra Ni là ta hằng
nhớ tưởng đến Đức Quan Thế Âm , Chư Phật và Chư Bồ Tát
Sám hối tội lỗi, học theo hạnh nguyện của các ngài thì thân tâm
được thanh tịnh và an lạc. Sớm tiến đến giác ngộ và giải thoát.
“Nam Mô Đại Từ Đại Bi Tầm Thanh Cứu Khổ Cứu Nạn
Linh, Cảm, Ứng Quan Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát.”
230

CHÚ ĐẠI BI
MAHAKARUNA DHARANI

Nam-mô Đại-bi Hội-thượng Phật Bồ-tát (3 lần)


Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại-bi tâm đà-la-ni.

Nam-mô hắc ra đát na da ra dạ da


Nam-mô a rị da, bà lô kiết đế thước bát ra da, Bồ-đề tát đỏa bà
da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án, tát bàn ra phạt
duệ, số đát na đát tỏa. Nam-mô tất kiến lật đỏa y mông a rị da,
bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà.
Nam-mô na ra cẩn trì, hê rị ma ha bàn đá sa mế, tát bà a
tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đá na ma bà dà, ma phạt
đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca la đế, di hê rị,
ma ha Bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê rị
đà dựng, câu lô câu lô yết mông, đồ lô đồ lô phạt xà da đế, ma
ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá
ra. Ma mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na, a ra
sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô
ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, Bồ đề
dạ Bồ đề dạ, bồ đà dạ bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì, địa rị
sắc ni na, bà dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ, ta bà ha. Ma ha tất
231

đà dạ, ta bà ha. Tất đà dú nghệ, thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra


cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra, ta bà ha. Tất ra tăng a mục khư da,
ta bà ha. Ta bà ma ha a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà
dạ, ta bà ha. Ba Đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn
đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta b à ha.
Nam-mô hắc ra đát na đá ra dạ da. Nam-mô a rị da, bà lô
yết đế, thước bàn ra dạ, ta bà ha.
Án tất điện đô, mạn đà ra, bạt đà dạ, ta bà ha.
Án tất điện đô, mạn đà ra, bạt đà dạ, ta bà ha.
Án tất điện đô, mạn đà ra, bạt đà dạ, ta bà ha.

VÃNG SANH QUYẾT ĐỊNH CHƠN NGÔN


(Tụng niệm 3 lần)

Nam-mô a di đà bà dạ.
Đa tha dà đa dạ. Đa địa dạ tha
A di rị đô bà tỳ. A di rị đa tất đam bà tỳ
A di rị đa tì ca lan đế. A di rị đa tì ca lan đa
Dà di nị dà, dà na. Chí đa ca lệ ta bà ha
232

CHÚ ĐẠI BI TÂM ĐA RA NI GIẢNG GIẢI


Pháp Sư THÁNH ẤN Biên soạn.
Từ Thuận-Kỳ Sơn-Chính Kiệt Dịch thuật
Tóm Lược Ý Chính
1. NAM-MÔ HẮC RA ĐÁT NA ĐÁ RA DẠ DA: Câu chú này là
bản thân đức Quán Thế Âm, nên khi tụng dùng tâm, chớ cất cao,
to tiếng đọc nhanh vội vã. Nam-Mô là quy y, tôn kính. Hắc ra đát
na là vi bảo, việc quý báu. Đá ra dạ da là 3. Ý nghĩa câu này là
quy mệnh lễ kính thập phương vô tận Tam Bảo. Quy Y Tam Bảo,
mong cầu đức Bồ Tát Quán Thế Âm chứng giám và hộ trì.
2. NAM-MÔ A RỊ DA: Câu chú này là bản thân ngài Như Ý
Luân Bồ Tát, khi tụng phải giữ lòng cung kính. A rị da là bậc thánh,
xa lìa điều ác; cũng có nghĩa là tu tâm. Đức Như Ý Luân Bồ Tát hiện
ra diện tướng sắc đen, hàng phục ma quỷ và hộ trì chân ngôn cho
người tu niệm Chú Đại Bi, lấy chân ngôn tu tâm làm gốc.
3. BÀ LÔ YẾT ĐẾ THƯỚC BÁT RA DA: là bản thân của đức
Trì Bát Quan Thế Âm. Bà Lô Yết Đế có 3 nghĩa: quan, quang, quan
sát. Thước Bát Ra có nghĩa là tự tại thế âm. Da là lễ. Câu này có
nghĩa kính lễ Tự Tại Quán Thế Âm hay lục căn thanh tịnh Bồ Tát
(mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý không duyên theo 6 trần, thức: sắc,
233

thanh, hương, vị, xúc, pháp), ngũ uẩn giai không là vượt qua mọi
khổ đau, ách nạn (kinh Bát Nhã).
4. BỒ ĐỀ TÁT ĐỎA BÀ DA: là ngài Bất Không Quyên Sách
Bồ Tát áp lãnh đại binh. Bồ Đề là giác. Tát Đỏa là hữu tình. Bà Da là
lễ. Ý nghĩa là kính lễ giác hữu tình. Đức Bồ Tát muốn động hóa thân
thể chúng sinh làm họ sớm giác ngộ tu tâm, học đạo, thấy được vô
ngã, vô thường, từ bỏ mọi dục lạc, lợi danh, đạt cảnh giới niết bàn.
5. MA HA TÁT ĐỎA BÀ DA: ngài Chủng Tử Bồ Tát tự tụng
thần chú. Ma Ha là lớn, nhiều, thắng. Tát Đỏa là dũng mãnh, hữu
tình. Bà Da là lễ. Kính lễ đại dũng mãnh tất được giải thoát. Tất cả
chúng sanh nếu biết giác ngộ tu trì thì tất được giải thoát.
6. MA HA CA LÔ NI CA DA: là bản thân Bồ Tát Mã Minh tay
cầm bạt chiết la. Ca Lô là bi thương, Ni Ca là tâm, Da là lễ. Nghĩa
của câu là Bồ Tát tự mình giác ngộ, tự cứu độ mình, giác ngộ và tế
độ người. Khi ngộ được sắc tướng đều là không thì hết khổ não và
sang bên bờ kia, bờ giác ngộ (Yết đế,yết đế, ba la yết đế. Ba la sâm
yết đế, Bồ Đề Tát bà ha. Yet te, yet te, para yet te, parasam yet te,
boddhi svaha!)
7. ÁN: các vị quỷ thần chắp tay nghe tụng chú. Án là diệu
âm, mẹ gốc của chân ngôn gọi là quy mệnh, gồm hết thảy bản mẫu
của chân ngôn, và là nguồn gốc của kiếp nhân sinh. Đây là lời chú
của Mật Tông có nghĩa quy mệnh, nhiếp phục.
234

8. TÁT BÀN RA PHẠT DUỆ: Đây là bản thân Tứ Thiên Vương


dùng oai lực hàng ma. Tát Bàn Ra là tự tại. Phạt Duệ là thánh tôn. Ý
câu là Tự Tại Thánh Tôn; làm thân tâm thanh tịnh, mọi loài ma quỷ
không thể xâm phạm. Muốn được thân tâm thanh tịnh thì trước hết
phải chính tâm, tu thân.
9. SỐ ĐÁT NA ĐÁT TỎA: quỷ thần của Tứ Đại Thiên Vương.
Số Đát Na là chính giáo thắng diệu, bậc cao thượng, thắng sinh. Đát
Tỏa là tiếng nói vui vẻ dạy bảo chu đáo. Ý câu là thông minh thánh
hiền gia hộ. Thay đổi tính tình, khí chất thì mới khế hợp được với
đạo. Cứ kiên trì thực hành lâu dài tất có kết quả tốt.
10. NAM-MÔ TẤT KIẾN LẬT ĐỎA Y MÔNG A RỊ DA:
bản thân ngài Long Thọ Bồ Tát, cần phải hết lòng đọc kỷ, toàn tâm,
chớ sơ thất với Bồ Tát. Nam-mô là quy mệnh. Tất kiến lật là lễ bái.
Đỏa y mông là ta chính không phải là ta. A rị da là bậc thánh. Ý của
câu này là quy y bậc Chân Ngã Thánh. Người chân tu phải giữ lòng
bền vững nhất tâm nhất đức, phát huy trí tuệ để học kinh điển. Cần
có minh sư chỉ đúng lối tu hành. Được thế, tự nhiên có đức Kim
Cang hộ pháp về đạo.
11. BÀ LÔ YẾT ĐẾ THẤT PHẬT RA LĂNG ĐÀ BÀ: là bản
thân Viên Mãn Báo Thân Lư Xá Na Phật. Bà Lô Yết Đế là Quán. Thất
Phật Ra có nghĩa là Thế Âm. Lăng Đà Bà là hải đảo, nơi đại từ đại
bi, cung từ ái. Sách Tây Vực Ký có nói ở núi Polaka trên biển Nam
235

Hải có Thạch Thiên Cung của Quán Tự Tại Bồ Tát. Ý chung là tâm
với đạo cùng hòa hợp thì được tự tại bằng cách tĩnh tọa thiền định
làm thân tâm hòa hợp, “đầu thẳng mình ngay, tâm định khí bình”
thì tâm thân thống nhất.
12. NAM-MÔ NA RA CẨN TRÌ: là bản thân Thanh Tịnh
Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na Phật, khi tụng niệm cần phải hết sức dụng
tâm. Nam-Mô là quy mệnh. Na Ra là hiền. Cẩn Trì là yêu. Ý câu là
quy y lòng từ bi, hiển ái, lòng cung kính, lòng Vô Thượng Bồ Đề.
13. HÊ RỊ MA HA BÀN ĐÁ SA MẾ: là Dương Minh Dương
Đầu Thần Vương và mọi thiên ma làm quyến thuộc. Hê Rị là tâm,
tâm không bị ô nhiễm. Ma Ha Bàn Đá Sa Mế là đại quang minh,
trường chiếu minh, không quan tâm. Ý câu là những kẻ công đức
thường được Cát Thần che chở, muôn loài ma quỷ không thể xâm
phạm.
14. TÁT BÀ A THA ĐẬU DU BẰNG: bản thân Cam Lộ Bồ
Tát cũng là đức Quán Thế Âm, cùng các bộ lạc được coi là quyến
thuộc. Tát Bà là hết thảy, bình đẳng. A tha Đậu là giàu có, an vui.
Du bằng là nghiêm túc, thanh tịnh, không kiến thủ. Ý câu là hết
thảy mọi pháp đều thanh tịnh, đạo pháp vô biên, lợi ích cho lục đạo
tứ sinh, tất cả thấm nhuần nước cam lồ.
15. A THỆ DỰNG: bản thân Phi Bằng Dạ Xoa Thiên Vương
tuần lịch bốn phương để soi xét mọi điều thị phi. A Thệ Dựng là
236

pháp. Đối với những người chưa được nghe pháp mà xua đuổi được
mọi ác niệm, thành tâm tu niệm Chú Đại Bi thì được chư Thiên, Bồ
Tát và mười phương chư Phật độ trì.
16. TÁT BÀ TÁT ĐÁ NA MA BÀ DÀ: Là Ba Gia Đế Thần
Vương, thân đen, cao lớn, khố da beo tay cầm thiết xoa. Tát Bà Tát
Đá là hết thảy Đại Thân Tâm Đức Bồ Tát. Na Ma là không phân biệt
đẳng cấp. Bà Dà là đức Thế-Tôn. Ý của câu là chỉ chư Phật mười
phương. Phật pháp bình đẳng, vô biên mọi chúng sinh đều có thể
thành Phật
17. MA PHẠT ĐẠT ĐẬU: là bản thân ngài Quân Trá Ly Bồ Tát
(Tra Lợi) có 3 mắt, tay cầm thiết luân và tay cầm giây.Ma Phạt Đạt
Đậu là thân thích của trời, bạn của đời (Thiên thân thế hữu), ý của
câu là quy cầu thánh hiền gia hộ.
18. ĐÁT ĐIỆT THA: là kiếm ngữ của bản thân đức A La. Có
nghĩa là lòng chí thành, tâm và đạo hợp nhất. Đát Điệt Tha là lời
thuyết chú chỉ các pháp môn của đức Bồ Tát gồm có thánh hiệu, bi
tâm, chân ngôn, chủng tử, thủ ấn, trí nhãn.
19. ÁN A BÀ LÔ HÊ: bản thân ngài Quán Thế Âm Bồ Tát, tay
chắp ngang ngực. Án có nghĩa là dẫn đường, sinh ra. A Bà Lô Hê có
nghĩa là Quan Âm. Ý của câu này là đạo pháp không ngoài sự thanh
tịnh. Lắng trong, không ô nhiễm bởi tạp niệm.
237

20. LÔ CA ĐẾ: Bản thân ngài Đại Phạn Thiên Vương và


thần tiên là bộ lạc. Lô Ca Đế là đức Thế-Tôn, Thế Tự Tại. Ý của câu
là lương tâm không tăm tối.
21. CA RA ĐẾ: là Đế Thần cao lớn, sắc đen. Ca Ra Đế là
lòng từ bi, cứu khổ nạn và hưng đạo nghiệp. Ý của câu là đạo tâm
bền vững, được đại trí tuệ.
22. DI HÊ RỊ: Là đức Ma Tề Thủ La Thiên Thần, lãnh thiên
binh sắc xanh trong ba mươi cõi trời. Câu này có nghĩa là thuận
giáo, vô tâm. Phổ hóa hết thảy chúng sinh.
23. MA HA BỒ ĐỀ TÁT ĐỎA: bản thân ngài Đại Bồ Tát đã
hiện đủ 32 ứng thân để tế độ chúng sinh. Ma Ha Bồ Đề Tát Đỏa là
theo đại đạo, có tâm đạo dũng mãnh, chân tâm vững vàng, không
để vướng mắc bởi sắc tướng. Nếu để thân tâm bị thanh sắc ràng
buộc, thời không cách nào thoát khỏi vòng sanh tử.
24. TÁT BÀ TÁT BÀ: là Hương Tích Bồ Tát, áp lãnh quỷ
binh 5 phương để làm kẻ thị tùng. Tát Bà Tát Bà có nghĩa là Phật
Pháp tay mắt đều có ấn báu. Mọi kẻ có duyên với Phật pháp đều
hưởng được lợi lạc bình đẳng.
25. MA RA MA RA: là Phật ngữ của đức Bạch Y Bồ Tát,
tay cầm như ý tướng. Cau này có nghĩa là tăng trưởng, như ý tức
chỉ về Như Ý Châu Thủ Nhãn.
238

26. MA HÊ MA HÊ RỊ ĐÀ DỰNG: bản thân đức Phật A Di


Đà. Đây là bản thân lộ tướng rất thung dung của A Di Đà Phật tóc
bạc. Ma Hê Ma Hê có nghĩa là vô tâm cực ý, đại tự tại, ý chỉ về ngũ
sắc vân thủ nhãn. Rị Đà Dựng là tâm hoa sen, ý chỉ thanh hoa liên
thủ nhãn. Câu này là hóa thân đức Bồ Tát.
27. CÂU LÔ CÂU LÔ YẾT MÔNG: là Không Thân Bồ Tát,
Thiên Đại Tướng Quân thống lãnh hai mươi vạn ức thiên chúng. Câu
Lô Câu Lô là tác pháp, tác dụng rất trang nghiêm. Yết Mông là biện
sự, công đức. Câu này là chân ngôn của Bồ Tát khuyên mọi người
phát thiện niệm, chư Thiên sẽ theo sát, khiến cho mọi việc làm đều
thành tựu.
28. ĐỒ LÔ ĐỒ LÔ PHẠT XÀ DA ĐẾ: là Nghiêm Tuấn Bồ
Tát, áp Khổng Tước Ngọc Man Binh. Đồ Lô Đồ Lô là qua bể, trong
sánh vượt qua bờ bên kia (nguyệt tinh ma ni thủ nhãn). Phạt Xà Da
Đế là quảng bác nghiêm tịnh, độ được việc lớn sinh tử, là bàng bài
thủ nhãn. Ý của câu là hóa thân của Bồ Tát .
29. MA HA PHẠT XÀ DA ĐẾ: là ngài Đại Lực Thiên Tướng
tay cầm bảo xử. Câu này có nghĩa là đạo pháp rực rỡ bao la không
bờ bến, có thể giải thoát mọi khổ não cho chúng sinh; chính là chỉ
về hóa thân đức Bảo Kích Thủ Nhãn Bồ Tát.
30. ĐÀ RA ĐÀ RA: là ngài Quán Thế Âm Bồ Tát hiện thân
trượng phu. Đà Ra Đà Ra là tổng trì, là hóa thân của đức Tịnh Bình
239

Thủ Nhãn Bồ Tát. Câu này biểu thị hết thảy tinh túy của đạo pháp.
Không vướng mắc bụi trần, tà niệm, vọng tưởng đó là những ma
chướng làm rối loạn thân tâm người tu học. Đà ra Đà ra cũng có
nghĩa là không bị vẫn đục bởi bụi trần, nếu thế là có thể lên được
cõi trời.
31. ĐỊA RỊ NI: Ngài Sư Tử Vương Bình Quán Thế Âm Bồ
Tát hiện thân. Địa rị ni nghĩa là hết sức dũng cảm, tịch diệt và trong
sạch, che chở, bẻ tung ra. Đó là hóa thân của Thiết Câu thủ Nhãn
Bồ Tát. Ý của câu là hết thảy chúng sinh đều được độ hóa.Đức
Quán Thế Âm chuyên tâm độ nữ giới, con gái nếu phát tâm tu đạo
thời hết thảy đều được trời Phật gìn giữ, lại được long vương thiên
thần ủng hộ.
32. THẤT PHẬT RA DA: là Tích Lịch Bồ Tát, quyến thuộc
hàng phục mọi loài ma quỷ. Thất Phật Ra Da là Quán Thế Âm Tự
Tại phóng ra ánh sáng và hóa diệm quang, chính là hóa thân của
đức Nhật Cung Thủ Nhãn Bồ Tát. Câu này là chân ngôn của Bồ Tát,
chủ yếu tuyên dương điểm huyền diệu của Phật Pháp, hy vọng
người đời tu đạo đều được chứng quả.
33. DÁ RA DÁ RA: bản thân ngài Tồi Toái Bồ Tát tay cầm
bánh xe vàng. Dá ra Dá ra có nghĩa là hành động, đó chính là hóa
thân của Bảo Đạt Thủ Nhãn Bồ Tát. Ma chướng không gì khác hơn
là lòng tư dục của con người, vì vậy cần phải sớm nghe chánh pháp
240

để phá vỡ mọi tà vọng. Đức Bồ Tát coi hết thảy chúng sanh đều bị
mọi thứ ma quỷ cám dỗ, không thể tự giải thoát, Ngài đặc biệt hiện
ra sắc tướng giận dữ để cứu độ mọi người.
34. MẠ MA PHẠT MA RA: là ngài Đại Hàng Ma Kim Cang
tay cầm bánh xe vàng. Mạ Mạ có nghĩa là điều mà ta đang trụ trì.
Đó chính là hóa thân của Bạch Phất Thủ Nhãn Bồ Tát. Phạt Ma Ra là
tối thắng ly cấu, vô tỷ như ý (rất tốt cách ly bụi bặm, như ý không
gì sánh được) ý câu là cõi đạo khó biết, thần diệu khó lường.
35. MỤC ĐẾ LỆ: Chư Phật chắp tay nghe tụng chân ngôn.
Mục Đế Lệ có nghĩa là giải thoát, đó chính là hóa thân của đức
Dương Chi Thủ Nhãn. Ý câu là lời chân ngôn nói về sự nhắm mắt,
giữ lòng trong sạch, và lặng yên gìn giữ.
36. Y HÊ Y HÊ: Ma Hê Thủ La Thiên Vương. Y Hê Y Hê là
thuận giáo, thuận triệu, tâm đáo (thụân theo lời dạy, thuận theo khi
được triệu đến). Đó chính là hóa thân của đức Độc Lâu Trượng Thủ
Nhãn Bồ Tát. Ý câu là người tu học phải an phận giữ mình theo lẽ
tự nhiên. Nếu vọng niệm không phát sanh thì bản thể trong sáng,
dần dà lâu ngày sẽ được đại giải thoát.
37. THẤT NA THẤT NA: là ngài Ca Na Ma Tướng Thiên
Vương. Thất Na Thất Na là bực đại trí hoằng thệ, chính là hóa thân
của đức Bảo Kính Thủ Nhãn Bồ Tát. Ý câu này là đạo tâm luôn luôn
241

kiên định sinh ra đại trí tuệ. Đây là chân ngôn của đức Bồ Tát muốn
triển khai làm sáng tỏ cái tôn chỉ từ chỗ định tâm mà sinh ra trí tuệ.
38. A RA SÂM PHẬT RA XÁ LỢI: là đức Quán Thế Âm Bồ
Tát một tay cầm khiên, một tay cầm cung tên. A Ra Sâm chính là
Chuyển Luân Pháp Vương là Hóa Phật Thủ Nhãn. Phật Ra Xá Lợi là
giác thân tứ, đó là Sở Châu Thủ Nhãn, ý câu là hóa thân Bồ Tát.
39. PHẠT SA PHẠT SÂM: là Kim Khôi Đại Tướng tay cầm
chuông lắc (Cái Linh). Phạt Sa Phạt Sâm là tiếng nói, tiếng cười vui,
bậc trượng phu, sĩ phu. Đó chính là hóa thân của Bảo Cung Thủ
Nhãn Bồ Tát. Niềm vui của người tu phát xuất từ việc tu tập gian
khổ, nếu chịu đựng được thì sẽ vượt qua và đạt đến bờ cực lạc.
40. PHẬT RA XÁ DA: là bản thân đức Phật A Di Đà, sư
chủ của đức Quán Thế Aâm Bồ Tát. Phật Ra chính là tấm thân. Xá
Da là đại tượng, ý là sự tự giác của tượng vương. Đó chính là hóa
thân của đức Tử Liên Hoa Thủ Nhãn Bồ Tát. Câu này là chân ngôn
của đức Bồ Tát khuyên chúng sinh phát tâm Bồ Đề tu trì đạo pháp
huyền diệu, xem mọi sắc tướng là không, lấy đạo là tâm thì mười
phương chư Phật sẽ thấy rõ mặt.
41. HÔ LÔ HÔ LÔ MA RA: là Bát Bộ Quỷ Thần Vương.
Còn có nghĩa là làm phép được như ý, làm phép không xa lìa bản
ngã. Đó chính là hóa thân của Ngọc Hoàn Thủ Nhãn Bồ Tát. Hô Lô
là hiện thần quỷ tướng. Hô Lô Hô Lô là nhân hiện thần quỷ tướng
242

mà hàng phục được chúng quỷ. Ma Ra là hiện ra tướng hoan hỷ,


như ý.
42. HÔ LÔ HÔ LÔ HÊ RỊ: là Tứ Tý Tôn Thiên Thần Trứ
Liễu Diệp Khải. Còn có nghĩa là tác pháp vô niệm, tác pháp tự tại.
Đó là hóa thân của đức Bảo Bát Thủ Nhãn Bồ Tát. Hê Rị là tác pháp
tự tại. Ý của câu là tác pháp cần được ung dung tự tại, không khổ
não. Phép tắc không có sự gò bó, gượng ép.
43. TA RA TA RA: Diệu âm này là ngũ trược ác thế. Còn
có nghĩa là sức bền chắc, là hóa thân của đức Kim Cương Xử Thủ
Nhãn Bồ Tát. Ta ra ta ra là người tu tập không những phải có sức
bền chắc, đồng thời cần có hằng tâm, một mực không hai, giữ gìn
liên tục trước sau như một. Một lòng hướng về đạo kiên định vững
bền.
44. TẤT RỊ TẤT RỊ: là Quán Thế Âm Bồ Tát làm lợi ích
cho chúng sanh, không thể nghĩ bàn. Còn có nghĩa là điềm lành
dũng mãnh, thắng lợi, là hóa thân đức Hợp Chưởng Thủ Nhãn Bồ
Tát. Tất Rị Tất Rị là lòng yêu mến hết thảy chúng sanh, không bỏ
rơi một ai. Ý toàn câu là điềm lành, thắng lợi không thể nghĩ bàn.
45. TÔ RÔ TÔ RÔ: Diệu âm tiếng lá cây rụng ở cõi chư
Phật. Còn có nghĩa là nước Cam Lộ, là hóa thân của đức Cam Lộ
Thủ Nhãn Bồ Tát.
243

46. BỒ ĐỀ DẠ BỒ ĐỀ DẠ: là ngài Quán Thế Âm Bồ Tát


kết duyên với chúng sanh. Còn có nghĩa đạo giáo, giáo tâm, là hóa
thân của đức Bất Khoán Kim Luân Thủ Nhãn Bồ Tát. Ý của câu là
người tu tập phải nhất trí từ trước tới sau, không lui bước.
47. BỒ ĐÀ DẠ BỒ ĐÀ DẠ: là bản thân của A-Nan. Còn có
nghĩa là bậc trí giả, giác giả, là hóa thân của đức Đính Thượng Hóa
Phật Thủ Nhãn Bồ Tát. Bồ Đà Dạ Bồ Đà Dạ là nói người tu tập
không những phải nhận thức rõ ý niệm không có tướng ta, không
có tướng người. Như vậy, hết thảy ác đạo chúng sinh ở thế gian này
cũng đều được đối xử bình đẳng.
48. DI ĐẾ RỊ DẠ: là đức Đại Xa Bồ Tát tay cầm kim đao.
Còn có nghĩa là đại lượng, lòng đại từ bi; là hóa thân của đức Tích
Trượng Thủ Nhãn Bồ Tát. Ý của câu là người tu học nên phát khởi
lòng từ bi, khiến cho hết thảy chúng sanh đều có thể thành đạo.
49. NA RA CẨN TRÌ: Là ngài Long Thọ Bồ Tát tay cầm
kim đao. Còn có nghĩa là bậc hiền giả có thể bảo vệ, che chở; là hóa
thân của đức Bao Đính Thủ Nhãn Bồ Tát. Câu này ý nói người tu
học khi thấy bậc hiền giả nên bày tỏ lòng thân ái, thấy kẻ thiện giả
nên bảo hộ, tóm lược ý chung là từ bi và bác ái.
50. ĐỊA RỊ SÁT NI NA: là bản thân ngài Bảo Tràng Bồ
Tát tay cầm thiết xoa. Còn có nghĩa là thanh gươm sắc bén, là hóa
244

thân của đức Bảo Kiếm Thủ Nhãn Bồ Tát. Ý toàn câu là mọi người
nên mau chóng kiên quyết tu học.
51. BÀ DẠ MA NA: bản thân ngài Bảo Kim Quang Luân Bồ
Tát tay cầm cây Bạt chiết la. Còn có nghĩa là danh văn, danh xưng,
nghe mười phương, danh nghĩa để thành tựu; là hóa thân của đức
Bảo Kiếm Thủ Nhãn Bồ Tát. Còn có nghĩa thành tựu
52. TA BÀ HA: bản thân ngài Tam Đầu Thiện Thánh Già
Phu Ngãi Long ngồi kiết già trên mình con Ngại Long. Còn có nghĩa
là thành tựu, điềm lành, viên tịch, tiêu tai, tăng ích và vô trú. Tất cả
có 6 nghĩa. Ta Bà Ha là câu dùng kết thúc lời chân ngôn có nghĩa là
là hết thảy pháp là bất sinh bất diệt, vốn rất tịch tĩnh, tự nó có tính
niết bàn.
53. TẤT ĐÀ DẠ: là ngài Xá Lợi Phất Bồ Tát. Tay giữ ấn
Liên Hoa Thủ. Thông đạt, cai quản hết thảy pháp môn. Đạo pháp vô
biên, chúng sanh thoát vòng danh lợi, thành tựu
54. TA BÀ HA: bản thân ngài Hằng Hà Sa Bồ Tát, tiếp ý là
ngài đứng trên đầu cá ngao dạo trên biển pháp vô biên.
55. MA HA TẤT ĐÀ DẠ: bản thân Phong Quang Bồ Tát
tay cầm phướn đỏ. Còn có nghĩa là mọi loài khắp nơi đều thành tựu,
là hóa thân của đức Bảo kình Thủ Nhãn Bồ Tát
56. TA BÀ HA: là Mục Kiền Liên Bồ Tát, mang tích trượng
mặc áo cà sa.
245

57. TẤT ĐÀ DU NGHỆ: là Chư Thiên, Bồ Tát, tận tất dĩ


tập, tay cầm kim đao. Khi đọc bài chú này thì chư Thiên thường hóa
hiện ra thần kỳ cùng thánh vô thượng diệu đạo.
58. THẤT BÀN RA DẠ: là đức A Di Đà Phật và đức Quán
Thế Âm Bồ Tát An Tức Hương
59. TA BÀ HA: là đức A Đổ Na Bồ Tát Cao Kình Vu Bát.
Ngài A Xá Na (hay là A Đổ Na) đang cầm bát đưa lên cao.
60. NA RA CẨN TRÌ: Bản thân ngài Hải Huệ Bồ Tát tay
cầm kiếm vàng. Câu này là chân ngôn chuyên dạy về phép màu
nhiệm của Đại Thừa và có tác dụng ngăn ngừa các bậc hiền giả đi
lầm vào phái Tiểu Thừa.
61. TA BÀ HA: là đức Chiên Đàn La Bồ Tát, ngài bước đi
với chiếc nón quảy ngang vai. Câu chú này nhấn mạnh việc tái độ
chúng sanh. Dụng ý là sợ chúng sanh đi lầm đường bàng môn tà
đạo.
62. MA RA NA RA: là đức Bảo An Vương Bồ Tát. Ma Ra có
nghĩa là như ý. Na ra là tôn thượng. Câu có nghĩa là tu tập không có
gì vững chắc bằng.
63. TA BÀ HA: là đức Câu Hy La Bồ Tát, là diệu âm tiếng
động khi ngài mang dép cỏ đạp sóng vượt biển. Ý câu là bảo hộ kẻ
lành và niệm điều lành.
246

64. TẤT RA TĂNG A MỤC KHƯ DA: là bản thân đức


Dược Vương Bồ Tát mang thuốc trị liệu tất cả chứng bệnh. Tất ra
tăng là có nghĩa là yêu mến giữ gìn. A Mục Khư Da có nghĩa là bất
không bất xả, không có cái gì, không bỏ cái gì, thương yêu chúng
sanh. Đây là hóa thân của đức Việt Phủ Thủ Nhãn Bồ Tát.
65. TA BÀ HA: là đức Viên Mãn Bồ Tát độc thân trứ chu
mẫu Đà La Thủ (mặc áo đỏ lộ đôi bàn tay màu Đa La) Ý của câu là
Bồ Tát thấy rõ nguyên nhân bệnh hoạn của người đời, hết thảy đều
do nghiệp vô minh mà ra bởi thất tình lục dục. Thế nên, lấy đạo tu
tâm làm trọng.
66. TA BÀ MA HA A TẤT ĐÀ DẠ: là bản thân đức Dược
Vương Bồ Tát trị các thứ bệnh. Ta bà có nghĩa cần phải nhẫn nại,
nhịn nhục. Ma Ha là phép Đại Thừa. Tất Đà Dạ là thành tựu vô
lượng. Ý câu là nếu nhẫn nại là có thể tiến tới Đại Thừa Pháp, sẽ
được thành tựu vô lượng và được Phật quả tương xứng.
67. TA BÀ HA: là đức Xá Lợi Phất Bồ Tát, lưng mang chân
kinh, tay cầm cây phất bằng ngọc. Hiệp ý với câu trên là cứu cánh
đáo bỉ ngạn (Sang bờ bên kia) –Đại Thừa Pháp- chúng sanh tất cả
sẽ thành tựu và giải thoát khỏi kiếp sanh tử. Đây là hóa thân của Bồ
Đào Thủ Nhãn Bồ Tát.
68. GIẢ KIẾT RA A TẤT ĐÀ DẠ: bản thân ngài Hổ Hàm
Thần Tướng, tay cầm búa. Giả kiết ra làkim cương luôn hàng phục
247

oán ma. A tất đà dạ là thành tựu không gì sánh được. Ý câu là lấy
kim cương pháp luân để hàng phục oán ma và được sự thành tựu
không gì so sánh được.
69. TA BÀ HA: là Chư Thiên Ma Vương tay giơ xà thương
70. BA ĐÀ MA YẾT TẤT ĐÀ DẠ: là đức Linh Hương Bồ
Tát tay bưng lò như ý. Ba đà là hoa sen đỏ. Ma yết là thiện thắng.
Tất đà dạ là hết thảy đều thành tựu. Đó là hóa thân của đức Hồng
Liên Hoa Thủ Nhãn Bồ Tát. Đây là chân ngôn của Bồ Tát ngồi ở Bảo
sen tọa phóng ra ánh hào quang, để trao cho mọi người ghi nhận.
Công dụng của bài Chú Đại Bi hết sức rộng lớn không gì sánh được.
71. TA BÀ HA: là Tán Hoa Thiên Bồ Tát thiên diệp bảo
liên. Ngài đang rưới hoa sen ngàn cánh.
72. NA RA CẨN TRÌ BÀN ĐÀ RA DẠ:Là đức Phú Lâu Na Bồ
Tát tay bưng chậu. Na Ra Cẩn Trì là giữ sự hiền thủ. Bàn Đà Ra Dạ
là Thánh Tôn Quán Tự Tại. Là hóa thân của đức Thí Vô Úy Thủ
Nhãn Bồ Tát. Ý câu là chỉ có đức Duy Ngã Quang Vương Quán Tự
Tại thường ra tay vô úy, trừ khử hết thảy mọi sợ hãi, khiến mọi sự
yên ổn.
73. TA BÀ HA: là đức Đà La Ni Tử Bồ Tát tay bưng quả.
74. MA BÀ RỊ THẮNG YẾT RA DẠ: là đức Tam Ma Thiền
La Bồ Tát Già Phu Luân Chưởng Bảo Đăng (ngồi kiết già với đôi tay
luân chưởng bảo đăng). Ma Bà Rị Thắng là bậc đại dũng, anh hùng.
248

Yết Ra Dạ là sinh tính, bản tính. Ý câu là nếu quy về tính gốc là đại
dũng, thời việc tu hành có thể thành tựu. Đó là hóa thân của Thiên
Tý Thủ Nhãn Thiên Thủ Thiên Nhãn Bồ Tát.
75. TA BÀ HA: là đức Đại Ca Diếp Bồ Tát tay cầm tràng hạt.
76. NAM-MÔ HẮC RA ĐÁT NA ĐÁ RA DẠ DA: là bản
thân đức Hư Không Bồ Tát tay cầm hoa, ngồi trên gộp đá. Đức Bồ
Tát dặn dò 3 điểm: Người đọc bài chú này cần phải hết sức hàng
phục thân tâm, khiến cho lòng không bị buông thả. Phải chú tâm
thiền định, tham ngộ việc lớn sinh tử, quan sát mọi người trên thế
gian. Khi đã quy y Phật pháp thì không thể làm hại chân như như
chỉ lo ăn chay, niệm Phật, tụng kinh mà đầu thì trống rỗng rồi cứ
cho như vậy là tu hành !!
77. NAM-MÔ A RỊ DA: là bản thân ngài Phổ Hiền Bồ Tát
ngồi thiền tọa trên lưng con Bá Bảo Hương Tượng.. A Rị là bậc
thánh. Da là lễ. Ý câu là quy mệnh và quy lễ lên bậc Thánh Giả.
Những người trì niệm Chú Đại Bi sẽ có lúc chợt nhiên tỉnh ngộ, sửa
lỗi và đổi mới. Cần thẩm cầu Phật pháp, cần sửa trị tâm bệnh, trừ
hết vọng tưởng. Nếu như niệm lúc nào thời tập trung tư tưởng lúc
ấy, mặc kệ mọi động tĩnh bên ngoài, không phân tâm tư tưởng thì
khi tĩnh đến mức vô ngã, khi động thời vô thường. Như vậy mọi tà
niệm sẽ không phát khởi.
249

78. BÀ LÔ YẾT ĐẾ: là đức Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đang chỉ
một ngón tay lên trời. Bà Lô Yết Đế là Quan, Quang, quang sát. Ý
của câu là đa pháp huyền diệu vô cùng, nếu tu được thì từ chỗ
thanh tịnh có thể tới nơi cực lạc.
79. THƯỚC BÀN RA DẠ: là đức Quán Thế Âm Bồ Tát cầm
đóa kim liên ngàn cánh hiễu lý “nhãn căn thọ sắc”. Ý câu là người tu
học muốn thành pháp thân thanh tịnh, cần phải tảo trừ nhãn căn
mới có thể xuất hiện vô thường diệu cảnh.
80. TA BÀ HA: là đức Quán Thế Âm Bồ Tát lắng tai phân
biệt tiếng vàng rơi trên cánh tay. Hiểu lý “Tai phân biệt tiếng”
81. ÁN TẤT ĐIỆN ĐÔ: là đức Quán Thế Âm Bồ Tát mở
tay ngũ luân. Hiểu lý “Mũi ngửi các mùi”
82. MẠN ĐÀ RA: ngài Quán Thế Âm Bồ Tát xòe bàn tay
Đâu La Miên (cầm quyết Đâu La Miên Thủ). Hiểu lý “Lưỡi nếm vị”
83. BẠT ĐÀ DẠ: là đức Quán Thế Âm Bồ Tát đang giải mọi
xúc giác tiếp nhận tâm căn ở trong người, ngài đang bưng bình
hương trầm hiểu lý “Thân căn thọ xúc”
84. TA BÀ HA: là mọi phép tắc của đức Quán Thế Âm
phân biệt giải ý căn. Đây là ngài biểu thị hiểu lý “Ý cần biết các
pháp”

Đức Bồ Tát đã đinh ninh dặn dò ba điểm:


250

 Người đọc bài chú này cần phải hết sức hàng phục thân tâm
 Chú tâm Thiền định, tham ngộ việc lớn sinh tử, quan sát mọi
người trên thế gian
 Khi đã Quy y Phật pháp thì không làm hại Chân Như : là ăn chay,
niệm Phật mà ĐẦU RỖNG
251

CHÚ ĐẠI BI
MAHAKARUNA DHARANI
Cư Sĩ TÂM SƠN sưu tập

I. DẪN NHẬP
Tụng kinh niệm Phật là pháp môn
phổ cập và thích hợp cho mọi Phật
tử. Tụng kinh thì miệng đọc lời Phật
dạy, tránh nói điều phàm tục thị phi.
Niệm Phật, trì chú thì tâm tưởng
nhớ Phật, nhất tâm chánh niệm
tránh được vọng tâm, loạn tưởng.
Tụng kinh, niệm Phật, trì chú là phương cách dễ dàng để cho
thân tâm an trụ trong cảnh giới thanh tịnh, đưa đến nhất tâm bất
loạn, tránh được ngữ ngôn hành động
buông lung, tâm ý vọng tưởng tổn
thương căn lành. Thường tụng kinh, trì
chú, niệm Phật thì thúc liễm được ba
nghiệp Thân, Khẩu, Ý hằng thanh tịnh,
từ đó phước huệ phát sanh (Hòa Thượng
Thích Đức Niệm, kinh Nhật Tụng)
Ý nghĩa của tụng niệm là giữ tâm
hồn được trong sạch, giao cảm với các
252

tâm niệm tối cao, ôn lại lời Phật dạy để lấy


đó làm phương châm cho đời sống hằng
ngày, gieo trồng giống Bồ Đề giải thoát
vào tâm thức. Tụng niệm cầu an, ngăn
ngừa tội lỗi, dứt các nghiệp chướng lâu
đời và tránh các tai họa do nghiệp chướng
gây nên. Tụng niệm cầu siêu là để chuyển
tâm niệm của người quá cố, khiến họ xa
lìa nghiệp nhân xấu ác, rời khỏi ba đường ác: súc sanh, ngạ quỷ,
địa ngục; siêu sanh về Tịnh Độ. Tụng niệm làm cho Pháp Âm lưu
chuyển trong nhân gian cảm hóa mọi người, nhắc nhở mình và
người trên đường làm lành học đạo. Cuối cùng tụng niệm để tỏ
lòng sám hối tội lỗi trước Tam Bảo
(Thượng Tọa Thích Tín Nghĩa, Nghi
thức Tụng Niệm).
Trong mọi nghi thức tụng niệm thì
CHÚ ĐẠi BI được tụng trước nhất,
trong Ấn Quang Đại Sư Khai thị Quy
Tắc giải thích như sau: “Chú Đại Bi là
tổng trì tất cả các pháp môn, là tâm
pháp kết tinh của Phật. Tất cả các pháp
đều cùng chung một pháp, vì vậy chư
253

Phật tu trì thành công đắc quả. Chú Đại


Bi tụng trước là để diệt trừ yêu quái,
giữ tâm thanh tịnh và nhất tâm bất
loạn. Nhờ bài Chú Đại Bi mà chư Phật,
chư vị Bồ Tát đã cứu độ chúng sanh
thoát khỏi cảnh mê đồ. Chú Đại Bi gồm
có chín mươi chín ức được hằng hà sa
số chư Phật trì niệm thì đủ biết chú này thật là thù thắng bất khả
tư nghị.”
Chú Đại Bi gồm 84 câu biểu thị cho 84 danh hiệu Bồ Tát và
các diệu âm. Trong mọi nghi thức tụng niệm thì Chú Đại Bi được
tụng trước nhất và kết thúc buổi lễ là bài kinh Ma Ha Bát Nhã Ba
La Mật Đa tâm kinh. Trong Chú Đại Bi tên của
84 danh hiệu Bồ Tát và diệu âm đều bằng
Phạn ngữ được dịch theo âm Trung Hoa nên
không chính xác theo nguyên âm Phạn nhưng
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm giải thích như
sau: “Theo trong Hiển Mật Viên Thông người
tu Chân Ngôn Tông về sắc trần cần phải rõ
rệt, như quán nước phải ra nước, quán lửa
phải ra lửa, chớ không thể khác được. Riêng
về thanh trần thì dù tiếng tăm đọc tụng có trại
254

với Phạn âm đôi chút cũng không


sao, miễn có lòng tin tưởng chí
thành là được công hiệu. Vì thế từ
trước đến nay hàng Phật tử ở Trung
Hoa cho đến Việt Nam, khi đọc tụng
chú, thực ra đều trại với chánh âm,
song vẫn cảm được oai thần công
đức không thể nghĩ bàn. Vậy người học Phật muốn trì chú đừng
lấy điểm này làm nghi mà mất phần lợi ích.” Tóm lại Chú Đại Bi
là một bài kinh mời gọi mười phương chư Phật, Chư Bồ Tát và
chư Thiên chứng giám buổi lễ nguyện, cầu an, cầu siêu ..vv..gia
hộ cho chúng sinh được thanh tịnh và an lạc.
II. NGUỒN GỐC
Bài CHÚ ĐẠI BI TÂM ĐÀ RA NI được rút
ra từ kinh “Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán
Thế Aâm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô
Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni (Dharani còn
gọi là Tổng Trì vì bao gồm vô lượng pháp
nên gọi là Tổng, vì giữ chứa vô lượng
nghĩa nên gọi là Trì. Tổng Trì có công
năng phá tà lập chánh, tiêu diệt nghiệp
ác, phát sanh phước đức căn lành). Kinh
255

này do chính Đức Phật Thích Ca


diễn nói trong một pháp hội
trước mặt đông đủ các vị Bồ Tát,
Thanh Văn, Thánh Chúng, Trời,
Thần, Thiên Long, các đại Thánh
Tăng như Ma Ha Ca Diếp, A
Nan..vv..cùng câu hội tại núi Bồ
Đà Lạc Ca (Potalaka), một hải
đảo ở phía nam xứ Ấn Độ, được
coi là nơi Đức Bồ Tát Quán Thế
Âm thường trụ tích).
Nguồn gốc của bài Chú Đại Bi như sau: Vào vô lượng ức
kiếp về trước, Phật Thiên Quang Vương Tịnh Trụ Như Lai, vì tâm
thương tưởng đến chúng sanh nên đã nói
ra Thần Chú Đại Bi và khuyến khích Bồ
Tát Quán Thế Aâm nên thọ trì tâm chú
này để mang đến lợi ích an vui lớn cho
chúng sanh trong đời vị lai. Bồ Tát Quán
Thế Âm lúc bấy giờ mới ở ngôi Sơ Địa,
nghe xong thần chú này liền chứng vượt
lên Đệ Bát Địa. Vui mừng trước oai lực
của thần chú, ngài bèn phát đại nguyện:
256

“Nếu trong đời vị lai, con có thể


làm lợi ích an vui cho tất cả
chúng sanh với thần chú này, thì
xin khiến cho thân con liền sanh
ra ngàn mắt, ngàn tay”. Lập tức,
ngài thành tựu ý nguyện. Từ đó,
hình ảnh của vị Bồ Tát Quán Thế Âm ngàn tay ngàn mắt trở
thành một biểu tượng cho khả năng siêu tuyệt của một vị Bồ Tát
mang sứ mệnh vào đời cứu khổ ban vui cho tất cả chúng sanh.
Ngàn tay, ngàn mắt nói lên khả năng biến hóa tự tại, cái dụng
tướng vô biên của thần lực Từ Bi, Trí Huệ tỏa khắp của Bồ Tát
Quán Thế Âm. Ngàn mắt để có thể chiếu soi vào tất cả mọi cảnh
giới khổ đau của nhân loại và ngàn tay để cứu vớt nâng đỡ, như
đức Phật giải thích với ngài A Nan ở trong kinh, “Tiêu biểu cho
hạnh tùy thuận các sự mong cầu của
chúng sanh.”1
Bài chú này được một vị Sa Môn
người Ấn Độ tên là Bhagavaddharma Dà
Phạm Đạt Ma, dịch là Tôn Pháp, du hóa
sang Trung Hoa vào niên hiệu Khai
Nguyên, thời Đường Túc Tông dịch từ

1
Tâm Hà Lê Công Đa, Thần Chú Đại Bi, viên ngọc của người cùng tử, Buddhismtoday.com
257

tiếng Phạn sang Hoa ngữ.


Nhưng mãi đến đời Tống chú
ngữ mới được Thiền Sư Tứ Minh
của Thiên Thai Tông đề xướng
mà phổ cập.
Kể từ khi Phật giáo du nhập
vào Việt Nam thì trong các kinh điển bằng Hán văn đã có bài Chú
Đại Bi như trong cuốn Thiền Môn Nhật Tụng. Về sau, các bản
kinh như Nghi Thức Tụng niệm (1947) đều có bài Chú Đại Bi. Bản
dịch bài kinh này có hai nguồn dịch thuật bằng Việt ngữ khác
nhau: Kinh Đại Bi Sám Pháp do Tu sĩ Giác Hải Dịch và Đại Bi Tâm
Đà Ra Ni do Hòa Thượng Thích Thiền Tâm chuyển dịch. Bài Chú
Đại Bi đã được trân trọng trì tụng trước tiên trong các khóa lễ,
các nghi thức tụng niệm chính của các quốc gia theo truyền
thống Phật Giáo Đại Thừa như Trung Hoa,
Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam
Kinh Đại Bi cho biết, mỗi lần trì tụng
Chú Đại Bi là tất cả mười phương chư Phật
đều đến chứng minh, cho nên tất cả các tội
chướng nhờ ân đức của chư Phật độ trì, thảy
đều tiêu trừ.
III. LỊCH SỬ CHÚ ĐẠI BI
258

Sơ Lược Hạnh Nguyện Đức QUÁN THẾ


ÂM BỒ TÁT (Avalokiteshvara)
Đức Quán Thế Âm là một vị cổ Phật
trong đời quá khứ, cách nay vô lượng
kiếp ngài đã thành Phật, hiệu là
Chánh Pháp Minh Như Lai. Vì hạnh
nguyện đại bi muốn cứu độ chúng
sanh và làm cho chúng sanh được an lạc, nên ngài hiện thân làm
Bồ Tát.
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, phẩm Phổ Môn, hễ ai thờ ngài ắt
được phước đức, ai cầu nguyện và niệm tưởng ngài thì được ngài
che chở và cứu giúp qua khỏi nạn nguy. Niệm vái vô số các đức
Phật với niệm vái ngài, hai công đức ấy so sánh đồng nhau.
Trong phẩm Phổ Môn, ai thọ trì danh hiệu đức Quán Thế Aâm thì
cầu chi được nấy. Vì lòng từ bi cứu khổ cứu nạn chúng sanh và vì
sự nghiệp hoằng dương Phật pháp, ngài tùy cơ duyên mà hiện 32
ứng thân: khi làm tiên, làm
rồng, làm trời, làm người, khi
làm quỷ thần, khi làm quốc
vương, hoặc làm đại thần,
trưởng giả, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo
Ni, cư sĩ, phụ nữ.. để cứu độ
259

chúng sanh. Thế nào cũng được toại


nguyện, nếu những ai lâm nạn mà
biết kiên tâm trì niệm danh hiệu
ngài, trong các trường hợp sau đây:
Kẻ bị nạn lửa hoặc nạn nước mà
muốn thoát khỏi. Kẻ bị chìm thuyền
mà muốn vào bờ, kẻ bị đày ải nơi
rừng cao núi thẳm, kẻ bị giặc cướp hãm hại, kẻ bị giam cầm tra
khảo, kẻ bị ếm chú thư bùa, kẻ bị ác thú bao vây, độc xà cắn mổ.
Hoặc giả, đàn bà muốn cầu sanh trai lành, gái đẹp; Nếu chiêm
ngưỡng lễ bái đức Quán Thế Âm, thì thế nào cũng được thỏa
nguyện. Những ai thọ trì danh hiệu ngài, dầu có nhiều tham dục,
sân hận và ngu si, lần lần cũng thoát được cái trạng huống hôn
mê ấy, mà trở nên thanh tịnh an vui và sáng suốt. Đó là đại oai
thần lực của ngài được ghi chép trong phẩm Phổ Môn.
Kinh Địa Tạng, phẩm 12, Đức Thích Tôn có khen Bồ Tát
Quán Thế Âm rằng: “Ở thế giới Ta Bà này, ngươi có nhân duyên
lớn, hoặc Thiên, hoặc Long, hoặc
nam, hoặc nữ, hoặc thần, hoặc
quỷ, cho đến chúng sanh tội khổ
trong 6 nẻo luân hồi, hễ nghe
danh hiệu ngươi, thấy hình ảnh
260

ngươi, luyến mộ ngươi, tán thán


ngươi, thì những chúng sanh ấy đối
với đạo quả đại Bồ Đề đều không
thối lui, thường sanh cõi trời, cõi
người, hưởng phước vui màu
nhiệm, và khi nhân quả thành thục,
thì gặp Phật thọ ký cho.”
Kinh Thủ Lăng Nghiêm quyển
6, Đức Quán Thế Âm Bồ Tát sở
trường phép tu Tam Muội về nhĩ
căn viên thông hồi đời đức Phật quá khứ cách nay hằng hà sa số
kiếp tên là Quán Thế Âm. Vì vậy cho nên trải qua các kiếp tu
hạnh Bồ Tát, ngài vẫn giữ tên là Quán Thế Âm, nghĩa là quan sát
âm thanh kêu cầu mà cứu, nên gọi là Quán Thế Âm.
Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Bi Tâm Đà La Ni có chép
rằng: Đại oai thần lực của Bồ Tát Quán Thế Âm, không thể nào
suy xét bàn luận được. Bồ Tát Quán Thế Âm phát lời thệ nguyện
rằng: “Nếu tôi về đương lai có thể làm được những việc lợi ích,
an lạc cho tất cả chúng sanh, thì ngay bây giờ đây thân tôi hãy
phát sanh đủ ngàn tay và ngàn mắt.” Quả như vậy, ngài phát lời
thệ nguyện vừa xong, thì bèn hiện đủ ngàn tay, ngàn mắt !
261

Và ngài đã nói: “Tôi có


thần chú Đại Bi Tâm Đà La Ni,
nay cần muốn nói để cho các
chúng sanh được sự an vui trừ
tật bệnh, thọ mạng lâu dài,
sẵn sàng giàu có, trừ tất cả
các nghiệp dữ và tội nặng, xa
các chướng nạn, tăng trưởng đức thanh tịnh nhiệm màu, thành
tựu trọn vẹn năm thiện căn, xa lìa các việc khiếp sợ, chóng đủ
mọi sự mong cầu.”
Trong “ĐẠI BI SÁM PHÁP” ngài có nói: Ai phát tâm Bồ Đề,
tu hạnh chân ngôn, tỏ bày tội lỗi, cầu xin sám hối, thì sẽ có ngàn
tay nâng đỡ, ngàn mắt chiếu soi đến với chúng sanh đó, khiến
cho duyên chướng trong ngoài thảy đều tiêu sạch.
Tóm lại, công đức của ngài là vô
lượng, hạnh nguyện của ngài là vô biên,
thần thông diệu dụng của ngài không
thể nghĩ bàn.
Chúng con chân thành kính cẩn
nêu cao muôn đời uy danh lừng lẫy của
ngài và khêu sáng lên trong lòng thập
phương bá tánh, ngọn đuốc vô úy
262

không khiếp sợ trước nạn nguy khi


thành kính niệm vái ngài cho thân
tâm thường an lạc.
NAM MÔ ĐẠI TỪ ĐẠI BI TẦM THANH
CỨU KHỔ CỨU NẠN LINH, CẢM, ỨNG
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT MA HA TÁT
(KINH ĐẠI BI SÁM PHÁP, Tu sĩ Giác
Hải dịch)
Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng
Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni
Kinh này do Bhagavaddharma người Tây Thiên Trúc chuyển
dịch sang Hán văn vào niên hiệu Khai Nguyên đời Đường và được
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm dịch sang tiếng Việt như sau:
NHÂN DUYÊN: Như thế tôi nghe, một thời, đức Phật Thích
Ca Mâu Ni ngự nơi đạo tràng Bảøo-Trang-Nghiêm, trong cung
điện của Quán Thế Aâm Bồ Tát ở tại non Bồ Đà Lạc Ca. Đức Phật
ngồi nơi tòa sư tử, tòa này trang
nghiêm thuần bằng vô lượng ngọc
báu tạp Ma ni, xung quanh treo
vây nhiều tràng phan bá bảo.
263

Khi ấy đức Như Lai ở trên


pháp tòa, sắp muốn diễn nói
môn Tổng Trì Đà Ra Ni, có vô
lượng số Bồ Tát Ma Ha Tát câu
hội. Các vị ấy là: Tổng Trì Vương
Bồ Tát, Bảo Vương Bồ Tát, Dược
Vương Bồ Tát, Dược Thượng Bồ
Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Hoa Nghiêm Bồ
Tát; Thần Tuyền Nguyên, thần Hà Chiếu, thần Dược Thảo, thần
Thọ Lâm, thần Xà Trạch, thần Cung Điện, cùng Thủy Thần, Hỏa
Thần, Địa Thần, Phong Thần, Thổ Thần, Sơn Thần, Thạch Thần
..vv..vv.. đều đến tập hội.
Bấy giờ, đức Quán Thế Âm Bồ Tát ở trong đại hội, mật
phóng ánh thần thông quang minh, chiếu sáng mười phương sát
độ và cõi Tam Thiên, Đại Thiên thế giới này đều thành sắc vàng.
Tứ Thiên cung, Long Cung, cho đến cung
điện của các vị tôn thần thảy đều chấn
động. Biển cả, sông, nguồn, núi Thiết Vi,
núi Tu Di, cùng Thổ sơn, Hắc thần, cũng
đều rung động dữ dội. Ánh sáng của mặt
trời, mặt trăng, tinh tú, châu báu, và lửa
264

đều bị ánh kim quang rực rỡ kia lấn át


làm cho ẩn mất, không hiện.
Lúc đó, ngài Tổng Trì Vương Bồ Tát
thấy tướng trạng hy hữu ấy, lấy làm
lạ, cho là việc chưa từng có, liền từ
chỗ ngồi đứng dậy, cung kính chắp
tay, dùng lời kệ hỏi Phật, để biết
tướng thần thông kia, do ai làm ra. Kệ
rằng:
Ai thành Chánh Giác trong ngày nay ?
Khắp phóng ánh sáng như thế này
Mười phương sát độ thành sắc vàng
Cả cõi Đại Thiên cũng như vậy
Ai được tự tại trong ngày nay ?
Phô diễn thần lực ít có này
Không ngăn cõi Phật đều rung động
Cung điện Long Thần cũng lung lay
Sức thần thông này ai làm ra ?
Là ánh quang minh đấng Phật Đà
Là của Bồ Tát, Đại Thanh Văn
Hay trời Đế Thích, cùng Phạm, Ma ?
Nay trong chúng hội đều sanh nghi
265

Chẳng biết đây là nhân duyên gì ?


Muốn cầu hiểu rõ, tâm thành kính
Hướng trông về ngôi Đại Từ Bi.
Đức Phật bảo Tổng Trì Vương
Bồ Tát:
Thiện nam tử ! các ông nên biết
trong pháp hội này, có vị Bồ Tát
Ma Ha Tát tên là Quán Thế Aâm Tự Tại, từ vô lượng kiếp đến nay
đã thành tựu tâm đại từ bi, lại khéo tu tập vô lượng Đà Ra Ni
môn. Vị Bồ Tát ấy vì muốn làm cho chúng sanh được lợi ích, an
vui, nên mới mật phóng sức thần thông như thế.
Đức Như-Lai vừa nói lời ấy xong, Quán Thế Âm Bồ Tát liền
từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục nghiêm chỉnh, chắp tay hướng
về Phật mà thưa rằng:
“Bạch đức Thế-Tôn ! Con có Chú Đại Bi Tâm Đà Ra Ni, nay xin
nói ra, vì muốn cho chúng sanh
được an vui, được trừ tất cả bệnh,
được sống lâu, được giàu có, được
diệt tất cả nghiệp ác tội nặng, được
xa lìa chướng nạn, được tăng
trưởng tất cả công đức của pháp
lành, được thành tựu tất cả thiện
266

căn, được tiêu tan tất cả sự sợ


hãi, được mau đầy đủ tất cả
những chỗ mong cầu. Cúi xin Thế-
Tôn từ bi doãn hứa.”
Đức Phật bảo: “Thiện nam tử
! ông có tâm đại từ bi, muốn nói
thần chú để làm lợi ích an vui cho
tất cả chúng sanh. Hôm nay chính là lúc hợp thời, vậy ông nên
mau nói ra, Như-Lai tùy hỷ, chư Phật cũng thế.
Quán Thế Âm Bồ Tát lại bạch Phật : “Bạch đức Thế-Tôn !
con nhớ vô lượng ức kiếp về trước, có Phật ra đời hiệu là Thiên
Quang Vương Tịnh Trụ Như Lai, đức Phật ấy vì thương nghĩ đến
con và tất cả chúng sanh, nên nói ra môn Quảng Đại Viên Mãn
Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni. Ngài lại dùng tay sắc vàng xoa nơi
đầu con mà bảo: ‘ Thiện nam tử ! ông nên thọ trì tâm chú này,
và vì khắp tất cả chúng sanh
trong cõi nước ở đời vị lai, mà
làm cho họ được sự lợi ích an
vui lớn.’ Lúc đó con mới ở
ngôi Sơ Địa, vừa nghe xong
thần chú này, liền chứng vượt
lên Đệ Bát Địa. Bấy giờ con
267

rất vui mừng, liền phát thệ rằng: ‘Nếu


trong đời vị lai, con có thể làm lợi ích
an vui cho tất cả chúng sanh với thần
chú này, thì xin khiến cho thân con,
liền sanh ra ngàn tay ngàn mắt.’ Khi
con phát thệ rồi, thì ngàn tay ngàn mắt
đều hiện đủ nơi thân. Lúc ấy, cõi đất
mười phương rung động sáu cách,
ngàn đức Phật trong mười phương đều phóng ánh quang minh
soi đến thân con và chiếu sáng khắp mười phương vô biên thế
giới. Từ đó về sau, con ở trong vô lượng pháp hội của vô lượng
chư Phật, lại được nghe và thọ trì môn đà ra ni này. Mỗi lần nghe
xong con khôn xiết vui mừng, liền được vượt qua sự sanh tử vi tế
trong vô số ức kiếp. Và từ ấy đến nay, con vẫn hằng trì tụng chú
này, chưa từng quên bỏ. Do sức trì tụng ấy, tùy theo chỗ sanh,
con không còn chịu thân bào thai, được hóa sanh nơi hoa sen,
thường gặp Phật nghe pháp. Nếu có
vị Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc,
Ưu Bà Di, hay đồng nam đồng nữ
nào, muốn tụng trì chú này, trước
tiên phải phát tâm từ bi đối với
268

chúng sanh mà phát nguyện. Khi phát


nguyện xong, chí tâm xưng danh hiệu
của con, lại nên chuyên niệm danh hiệu
bổn sư con là đức A Di Đà Như Lai, kế
đó tiếp tụng Đà Ra Ni Thần Chú này.
Nếu chúng sanh nào trong một ngày
đêm tụng năm biến chú, sẽ diệt trừ được tội nặng trong ngàn
muôn ức kiếp sanh tử.
Quán Thế Âm Bồ Tát lại bạch Phật: “Bạch đức Thế-Tôn! Nếu
chúng sanh nào tụng trì Thần Chú Đại Bi, mà còn bị đọa vào ba
đường ác, con thề không thành Chánh Giác. Tụng trì Thần Chú
Đại Bi nếu không được sanh về các cõi Phật, con thề không thành
Chánh Giác. Tụng trì Thần Chú Đại Bi nếu không được vô lượng
tam muội biện tài, con thề không thành Chánh Giác. Tụng trì
Thần Chú Đại Bi, tất cả sự mong cầu trong đời hiện tại không
được vừa ý, thì chú này không được gọi
Đại Bi Tâm Đà Ra Ni, duy trừ cầu những
việc bất thiện, trừ kẻ tâm không chí thành.
Nếu các người nữ chán ghét thân nữ,
muốn được thân nam, tụng trì Thần Chú
Đại Bi, như không chuyển nữ thành nam,
con thề không thành Chánh Giác. Như kẻ
269

nào tụng trì chú này, nếu còn sanh chút


lòng nghi, tất không được toại nguyện.
Nếu chúng sanh nào xâm phạm tài vật,
thức ăn uống của thường trụ sẽ mang tội
rất nặng, do nghiệp ác ngăn che, giả sử
ngàn đức Phật ra đời, cũng không được
sám hối, dù có sám hối cũng không trừ diệt. Nếu đã phạm tội ấy,
cần phải đối mười phương đạo sư sám hối mới có thể tiêu trừ.
Nay do tụng trì Thần Chú Đại Bi liền được trừ diệt. Tại sao thế ?
bởi khi tụng Chú Đại Bi Tâm Đà Ra Ni, mười phương đạo sư đều
đến vì làm chứng minh, nên tất cả tội chướng thảy đều tiêu diệt.
Chúng sanh nào tụng chú này, tất cả tội thập ác ngũ nghịch,
báng pháp, báng người, phá giới phạm trai, hủy hoại chùa tháp,
trộm của tăng kỳ, làm nhơ phạm hạnh, bao nhiêu tội ác nghiệp
nặng như thế đều được tiêu hết, duy trừ một việc:kẻ tụng đối với
chú còn sanh lòng nghi. Nếu có sanh tâm ấy, thì tội nhỏ nghiệp
nhẹ cũng không được tiêu, huống chi
tội nặng. Nhưng tuy không liền diệt
được tội nặng, cũng có thể làm nhân
Bồ Đề về kiếp xa sau.
Bạch đức Thế-Tôn ! nếu các
hàng trời, người tụng trì Thần Chú
270

Đại Bi, thì không bị 15 việc chết xấu,


sẽ được 15 chỗ sanh tốt. Nếu kẻ nào
trì tụng Chú Đại Bi, sẽ được 15 chỗ
sanh tốt như thế. Cho nên tất cả hàng
trời, người đều nên thường tụng trì,
chớ sanh lòng biếng trễ.”
Khi đức Quán Thế Âm nói lời ấy rồi, liền ở trước chúng hội,
chắp tay đứng thẳng, đối với chúng sanh khởi lòng từ bi, nở mặt
mỉm cười, nói chương cú màu nhiệm: “Quảng Đại Viên Mãn Vô
Ngại Đại Bi tâm Đà Ra Ni”.
Bồ Tát thuyết chú xong, cõi đất 6 phen biến động, trời mưa
hoa báu rơi xuống rãi rác, mười phương chư Phật thảy đều vui
mừng, thiên ma ngoại đạo sợ dựng lông tóc, tất cả chúng hội đều
được quả chứng. Hoặc có vị chứng quả Tu Đà Hoàn, hoặc có vị
chứng quả Tư Đả Hàm, hoặc có vị chứng quả A Na Hàm, hoặc có
vị chứng quả A La Hán. Hoặc có vị
chứng được Sơ Địa, nhị Địa, Tam Địa,
Tứ Địa, Ngũ Địa cho đến Thập Địa. Vô
lượng chúng sanh phát tâm Bồ Đề.
Khi ấy Đại Phạm Thiên Vương từ
chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục nghiêm
chỉnh, chắp tay cung kính bạch với đức
271

Quán Thế Âm Bồ Tát rằng: Lành


thay Đại Sĩ ! từ trước đến nay, tôi đã
trải qua vô lượng Phật hội, nghe
nhiều pháp yếu, nhiều môn Đà Ra
Ni, song chưa từng nghe nói chương
cú thần diệu: Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà
Ra Ni này.Cúi xin Đại Sĩ vì tôi, nói hình trạng tướng mạo của Đà
Ra Ni ấy. Tôi và đại chúng đều ưa thích muốn nghe.
Quán Thế Âm Bồ Tát bảo Phạm Vương: Ôâng vì phương tiện
lợi ích cho tất cả chúng sanh, nên hỏi như thế. Nay ông khéo
nghe, tôi sẽ vì các ông mà nói lược qua:
“Nầy Phạm Vương ! những tâm đại từ bi, tâm bình đẳng,
tâm vô vi, tâm chẳng nhiễm trước, tâm không quán, tâm cung
kính, tâm khiêm nhường, tâm không tạp loạn, tâm không chấp
giữ, tâm vô thượng Bồ Đề, nên biết các
thứ tâm ấy đều là tướng mạo của môn
Đà Ra Ni này. Vậy ông nên y theo đó mà
tu hành.”
Phạm Vương thưa: “Tôi và đại
chúng hôm nay mới hân hạnh được biết
tướng mạo của môn Đà Ra Ni này. Từ
272

đây chúng tôi xin thọ trì chẳng


dám lãng quên.”
Bồ Tát lại nói tiếp: nếu kẻ
thiện nam, thiện nữ nào tụng trì
thần chú này, phải phát tâm Bồ Đề
rộng lớn, thề độ tất cả muôn loài,
giữ gìn trai giới, đối với chúng sanh
khởi lòng bình đẳng, và thường nên trì tụng chớ có gián đoạn. Lại
nên ở nơi tịnh thất, tắm gội sạch sẽ, mặc y phục sạch, treo phan
đốt đèn, dùng hương hoa cùng các thức ăn uống để cúng dường,
buộc tâm một chỗ, chớ nghĩ chi khác, y như pháp mà tụng trì.
Lúc ấy sẽ có Nhựt Quang Bồ Tát, Nguyệt Quang Bồ Tát, cùng vô
lượng thần tiên đến chứng minh, giúp thêm sự hiệu nghiệm.
Bấy giờ ta cũng dùng ngàn mắt chiếu soi, ngàn tay nâng đỡ,
khiến cho kẻ ấy từ đó về sau có thể hiểu suốt tất cả sách vở thế
gian, thông đạt các điển tích vi đà và tất cả các pháp thuật ngoại
đạo. Chúng sanh nào tụng trì thần chú
này, có thể trị lành tám muôn bốn
ngàn thứ bệnh ở thế gian, hàng phục
các thiên ma ngoại đạo, sai khiến
được tất ả các quỷ thần. Những kẻ
tụng kinh, tọa thiền ở nơi non sâu
273

đồng vắng, bị sơn tinh, tạp mị,


các quỷ vọng, lượng làm não
loạn phá hại, khiến cho tâm
không an định, chỉ cần tụng chú
này một biến, các quỷ thần ấy
thảy đều bị trói. Nếu hành giả
có thể tụng trì đúng pháp, khởi
lòng thương xót tất cả chúng
sanh, lúc ấy ta sẽ sắc cho tất cả Thiện Thần, Long Vương, Kim
Cang, Mật Tích thường theo ủng hộ, không rời bên mình, như giữ
gìn tròng con mắt hay thân mạng của chính họ.
Quán Thế Âm Bồ Tát lại bảo
Phạm Vương rằng: Nầy Phạm Vương
! nếu chúng sanh nào muốn tiêu trừ
tai nạn ma chướng, nên lấy chỉ ngũ
sắc xe làm một sợi niệt, trước tiên
tụng chú này 5 biến, kế tụng 21 biến,
cứ tụng xong một biến lại thắt một
gút rồi đeo nơi cổ hoặc bỏ vào đãy để
trong thân. Tâm
274
275

Chú Đại Bi đây do chín mươi chín ức


hằng hà sa chư Phật đời quá khứ đã nói
ra. Các đức Phật ấy vì thương xót muốn
cho người tu hành công đức lục độ
chưa đầy đủ, mau được đầy đủ, mầm
Bồ Đề chưa phát mau được phát sanh;
hàng Thanh Văn chưa chứng quả, mau được chứng quả; các vị
thần tiên trong cõi Đại Thiên chưa phát lòng Bồ Đề, mau được
phát tâm vô thượng Bồ Đề. Nếu chúng sanh nào chưa được tín
căn Đại Thừa, do sức oai thần của Đà Ra Ni này, hột giống Đại
Thừa tự sanh mầm và tăng trưởng; lại do sức từ bi phương tiện
của ta, khiến cho sự mong cầu của họ đều được thành tựu.
Lại nữa, người trì tụng Đà Ra Ni này, khi thốt ra lời nói chi,
hoặc thiện hoặc ác, tất cả thiên ma, ngoại đạo, thiên, long, quỷ,
thần đều nghe thành tiếng pháp âm thanh tịnh, đối với kẻ khởi
lòng cung kính, tôn trọng như Phật. Người nào trì tụng Đà Ra Ni
này, nên biết người ấy chính là tạng Phật thân, vì chín mươi chín
ức hằng hà sa chư Phật đều yêu quý. Nên biết
người ấy chính là tạng quang minh, ví ánh
sáng của tất cả Như-Lai đều chiếu đến nơi
mình. Nên biết người ấy chính là tạng từ bi, vì
thường dùng Đà Ra Ni,
276
277

cứu độ chúng sanh. Nên biết người ấy


chính là tạng diệu pháp, vì nhiếp hết tất
cả các môn Đà Ra Ni. Nên biết người ấy
chính là tạng Thiền Định, vì trăm ngàn
tam muội thảy đều hiện tiền. Nên biết
người ấy chính là tạng hư không, vì
hằng dùng không-huệ quán sát chúng sanh. Nên biết người ấy
chính là tạng vô úy, vì thiên, long, thiện thần, thường theo hộ trì.
Nên biết người ấy chính là tạng diệu ngữ, vì tiếng Đà Ra Ni trong
miệng tuông ra bất tuyệt. Nên biết người ấy chính là tạng thường
trụ, vì tam tai ách kiếp không thể làm hoại. Nên biết người ấy
chính là tạng giải thoát, vì thiên ma ngoại đạo không thể bức
não. Nên biết người ấy chính là tạng dược vương, vì thường dùng
Đà Ra Ni trị bệnh chúng sanh. Nên biết người ấy chính là tạng
thần thông, vì được tự tại dạo chơi mười
phương cõi Phật. Công đức người ấy khen ngợi
không thể cùng !
Nầy thiện nam tử ! Chúng sanh này nghe
danh tự của môn Đà Ra Ni này còn được tiêu
diệt tội nặng sanh tử trong vô lượng kiếp,
huống chi là tụng trì ? Nếu người nào được
thần chú này mà tụng trì, phải biết kẻ ấy đã
278
279

từng cúng dường vô lượng chư


Phật, gieo nhiều căn lành. Nếu kẻ
nào tụng trì đúng pháp, lại có thể vì
chúng sanh dứt trừ sự khổ nạn, nên
biết người ấy là bậc có đủ tâm đại
bi, không bao lâu nữa sẽ thành
Phật. Cho nên hành giả khi thấy
mọi loài, đều nên vì chúng tụng chú
này, khiến cho chúng cùng được nghe để cùng gây nhân Bồ Đề,
thì sẽ được vô lượng vô biên công đức.
Nếu kẻ hành trì khéo giữ gìn trai giới dụng tâm tinh thành, vì
tất cả chúng sanh sám hối tội nghiệp đời trước, tự mình cũng
sám hối những ác nghiệp đã gây ra từ vô lượng kiếp đến nay, nơi
miệng rành rẽ tụng Đà Ra Ni này, tiếng tăm liên tiếp không dứt,
thì trong đời hiện tại liền chứng được bốn đạo quả của bậc Sa
Môn. Nếu là hạng lợi căn có phương tiện
huệ quán, thì quả vị Thập Địa còn chứng
được không lấy gì làm khó, huống chi là
những phước báu nhỏ nhặt ở thế gian.
Những việc như thế nếu có mong cầu, đều
được toại nguyện.
Đức Phật lại gọi ngài A Nan mà bảo:
280
281

Này A Nan ! khi trong một nước có tai


nạn nổi lên, nếu muốn được an ổn, vị
quốc vương ở xứ ấy phải biết dùng
chánh pháp trị dân, có độ lượng khoan
hồng, không làm oan uổng trăm họ,
tha kẻ tù phạm và giữ thân tâm tinh
tấn đọc tụng chú này. Hành trì như
thế luôn bảy ngày đêm, thì trong cõi
nước ấy tất cả tai nạn thảy đều tiêu tan, ngũ cốc phong thạnh
dân chúng được an vui.
Lại trong một xứ, nếu gặp những tai ương dồn dập như: bị
nước nghịch đem binh xâm lấn, dân tình rối loạn không yên, quan
đại thần mưu phản, bịnh dịch lưu hành, mưa nắng trái thời hoặc
nhựt nguyệt sai độ..vv..,muốn diệt các thứ tai nạn ấy, vị quốc
vương phải lập đàn tràng tạo tượng Thiên Nhãn Đại Bi để day
mặt về phương tây, sắm các thứ hương
hoa, tràng phan, bảo cái hoặc trăm thức
ăn uống mà cúng dường, rồi dùng thân
tâm tinh tấn tụng đọc chương cú thần
diệu. Hành trì như thế đúng 7 ngày thì
nước giặc quy hàng, chánh tình yên ổn,
lân bang hòa hảo thương mến lẫn nhau,
282
283

trong triều từ vương tử cho đến


trăm quan đều hết dạ trung
thành, nơi cung vi phi tần thể nữ
khởi lòng hiếu kính đối với vua,
các Thiên long, Quỷ thần đều ủng
hộ trong nước khiến cho mưa gió
thuận mùa, hoa quả tốt, nhân dân vui đẹp.
Lại nếu trong nhà có những tai nạn như ma quái nổi dậy,
quyến thuộc đau nặng, tiền của hao mòn, gia đình rối loạn, người
ác gieo tiếng thị phi hoặc vu khống để hãm hại, cho đến trong
ngoài, lớn nhỏ chẳng hòa thuận nhau. Muốn diệt những tai nạn
ấy, gia chủ phải lập đàn tràng, hướng về tượng Thiên Nhãn, chí
tâm niệm danh hiệu Quán Thế Aâm
Bồ Tát và tụng Đà Ra Ni này, đủ ngàn
biến, thì tất cả các việc xấu như trên
thảy đều tiêu diệt, gia đình được vĩnh
viễn an vui.
Ngài A Nan bạch Phật rằng: Bạch
đức Thế-Tôn ! Chú này tên gọi là chi ?
con nên thọ trì như thế nào ?
Đức Phật bảo: Thần chú này có
những tên như sau:
284
285

I. Quảng Đại Viên Mãn Đà Ra Ni


II. Vô Ngại Đại Bi Đà Ra Ni
III. Cưú Khổ Đà Ra Ni
IV. Diên Thọ Đà Ra Ni
V. Diệt Ác Thú Đà Ra Ni
VI. Phá Ác Nghiệp Chướng Đà Ra Ni
VII. Mãn Nguyện Đà Ra Ni
VIII. Tùy Tâm Tự Tại Đà Ra Ni
IX. Tốc Siêu Thánh Địa Đà Ra Ni
Oâng nên y như thế mà thọ trì.
Ngài A Nan lại bạch Phật: Bạch đức Thế-Tôn ! Vị Bồ Tát Ma
Ha Tát, bộ chủ thần chú này, tôn hiệu là chi, mà khéo nói môn
Đà Ra Ni như thế ?
Đức Phật bảo: vị Bồ Tát ấy hiệu là Quán Thế Aâm tự tại,
cũng tên là Nhiên Sách, cũng gọi là Thiên
Quang Nhãn.
Này thiện nam tử ! Quán Thế Âm Bồ
Tát thần thông oai lực không thể nghĩ
bàn, trong vô lượng kiếp về trước, đã
từng thành Phật hiệu Chánh Pháp Minh
Như-Lai. Vì nguyện lực đại bi, vì muốn
làm duyên phát khởi cho tất cả các hàng
286
287

Bồ Tát, vì muốn an vui thành thực cho


chúng sanh. Ngài mới giáng tích hiện
làm Bồ Tát. Vậy ông và đại chúng, các
hàng Bồ Tát Ma Ha Tát, Phạm Vương,
Đế Thích, Long Thần, đều nên cung
kính, chớ sanh lòng khinh mạn xem
thường. Nếu tất cả hàng trời, người
thường xưng niệm, cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát, sẽ được vô
lượng phước, diệt vô lượng tội, khi mạng chung, sanh về cõi nước
của Phật A Di Đà.
Đức Phật bảo ngài A Nan: Quán Thế Âm Tự Tại Bồ Tát có
ngàn tay, mỗi tay đều tiêu biểu cho hạnh tùy thuận các sự mong
cầu của chúng sanh. Đó cũng do tâm đại bi của Đại Sĩ ấy hóa
hiện. Oâng nên dùng lòng trong sạch tin sâu mà thọ trì môn Đại
Bi Tâm Đà Ra Ni này, và lưu bố rộng ra
trong Diêm Phù Đề, chớ cho đoạn tuyệt.
Đà Ra Ni này có thể làm lợi ích lớn cho
chúng sanh trong ba cõi. Tất cả bệnh khổ
ràng buộc nơi thân, nên dùng Đà Ra Ni
này mà trị thì không bệnh nào chẳng
lành. Dùng Đại Thần chú này tụng vào
cây khô, cây ấy còn được sanh cành lá,
288
289

trổ bông trái, huống chi là chúng sanh có


tình thức ư ? Nếu thân bị đau bệnh, dùng
chú này trị mà không lành, lẽ ấy không
bao giờ có.
Này thiện nam tử ! sức oai thần của
Đại Bi Tâm Đà Ra Ni không thể nghĩ bàn !
Không thể nghĩ bàn !! khen ngợi không bao giờ hết được. Nếu
chẳng phải là kẻ từ đời quá khứ lâu xa đến nay đã gieo nhiều căn
lành, thì dù cho cái tên gọi còn không được nghe, huống chi là
được thấy. Nay đại chúng các ông kể hàng trời, người, long,
thần, nghe ta khen ngợi, phải nên tùy hỷ. Nếu kẻ nào hủy báng
thần chú này, tức là hủy báng chín mươi chín ức hằng hà sa chư
Phật kia.Nếu người nào đối với Đà Ra Ni này sanh nghi không tin,
nên biết kẻ ấy sẽ vĩnh viễn mất sự lợi ích lớn, trăm ngàn muôn
kiếp không nghe thấy Phật, Pháp, Tăng, thường chìm trong tam
đồ, chẳng biết bao giờ mới được ra khỏi.
Khi ấy tất cả chúng hội: Bồ Tát Ma Ha
Tát, Kim Cang, Mật Tích, Phạm Vương, Đế
Thích, Tứ Đại Thiên Vương, Thiên, Long, Quỷ,
Thần, nghe đức Như-Lai ngợi khen môn Đà Ra
Ni này xong, thảy đều vui mừng y lời dạy mà
tu hành.
290
291

ĐẠI BI TÂM ĐÀ RA NI
MAHAKARUNA DHARANI

1. Nam-mô hắc ra đát na đa ra dạ da (Namo ratnatrayaya) là


bổn thân ngài Quán Thế Âm Bồ Tát. Khi tụng dùng tâm,
chớ cất cao, to tiếng.
2. Nam-mô A Rị Da (Namo Arya) bổn thân ngài Như-Ý Luân
Bồ Tát, khi tụng phải giữ lòng cung kính.
3. Bà Lô Yết Đế Thước Bát Ra Da (Avalokiteshavaraya) bổn
thân ngài Quán Thế Âm Bồ Tát trì bát. Muốn cầu xá lợi phải
tưởng hình cầm bát.
4. Bồ Đề Tát Đỏa Bà Da (Bodhisattvaya)ngài Bất Không
Quyên Sách Bồ Tát. Đây là Bất Không Quyên Sách Bồ Tát
áp lãnh đại binh.
5. Ma Ha Tát Đỏa Bà Da (Mahasattvaya) ngài Chủng Tử Bồ
Tát tự tụng chú. Đây là bản thân ngài Chủng Tử Bồ Tát tự
tụng thần chú
6. Ma Ha Ca Lô Ni Ca Ya (Mahakarunikaya) Bổn thân ngài Mã
Minh Bồ Tát. Đây là bản thân của Mã Minh Bồ Tát tay cầm
cây kim cang xử
7. Án (Om) Các vị quỷ thần chắp tay nghe tụng chú. Chữ Án
này là chư quỷ thần đều chắp tay nghe tụng chú
292

8. Tát Bàn Ra Phạt Duệ (Savalavati) Bổn thân Tứ Thiên


Vương. Đây là bản thân Tứ Thiên Vương dùng oai lực hàng
ma.
9. Số Đát Na Đát Tỏa (Sudhanatasya) Quỷ thần của Tứ Đại
Thiên Vương. Đây là danh dự bộ lạc của quỷ thần thuộc Tứ
Thiên Vương.
10. Nam Mô Tất Cát Lật Đỏa Y Mông A Rị Da
(Namaskrittva naman arya) Bổn thân ngài Long Thọ Bồ Tát.
Phải tồn tâm chớ sơ thất với Bồ Tát.
11. Bà Lô Cát Đế Thất Phật Ra Lăng Đà Bà
(Avalokitashavara lantabha) Đây là Viên Mãn Báo Thân Lô
Xá Na Phật.
12. Nam Mô Na Ra Cẩn Trì (Namo Nilakantha) Bổn thân
Thanh Tịnh Pháp Thân Tỳ Lô Dá Na Phật. Khi tụng phải tồn
tâm.
13. Hê Rị Ma Ha Bàn Đa Sa Mế (Srimahapatashami) Ngài
Dương Minh Dương Đầu Thần Dương. Ngài cùng các thiên
ma làm quyến thuộc
14. Tát Bà A Tha Đậu Du Bằng (Sarvadvatashubham) Ngài
Cam Lộ Bồ Tát, cũng là Quán Thế Âm, thuộc về bộ lạc của
Quán Thế Âm Bồ Tát.
293

15. A Thệ Dựng (Ashiyum) Ngài Phi Đằng Dạ Xoa Thiên


Vương, bay tuần khắp bốn phương xét việc thiện ác.
16. Tát Bà Tát Đá Na Ma Bà Già (Sarvasattva Namo
pasattva namo bhaga) Bà Già Đế Thần Vương, thân đen,
cao lớn,khố da beo, cầm thiết xoa.
17. Ma Phạt Đạt Đậu (Ma bhate tu) Ngài Tra Lợi Bồ Tát, có
3 mắt. Một tay cầm thiết luân một tay cầm giây.
18. Đát Điệt Tha (Tadyatha) Bổn thân ngài A-Ra. Đây là lời
kiếm ngữ, bản thân của thần A Ra.
19. Án A Bà Lô Hê (Om ! A valoka) Bổn thân ngài Quán
Thế Âm Bồ Tát. Đây là bản thân đức Quán Thế Âm, tay
chắp ngang ngực.
20. Lô Ca Đế (Locate) Bổn thân ngài Đại Phạm Thiên
Vương. Đây là bản thân ngài Đại Phạm Thiên Vương cai
quản bộ lạc thần tiên.
21. Ca Ra Đế (Kalati) Bổn thân ngài Đế Thần. Đây là Đế
Thần, thân hình cao lớn, sắc đen.
22. Di Hê Rị (Ishiri) Thiên thần Ma Hê Thủ La. Đây là thiên
thần Ma Hê Thủ La suất lãnh thiên binh sắc xanh.
23. Ma Ha Bồ Đề Tát Đỏa (Mahabodhisativa) Bổn thân
ngài Đại Bồ Tát. Đây là ý nghĩa tâm chân thật, không tạp
loạn, thế mới gọi là “Tát đỏa”
294

24. Tát Bà Tát Bà (Sabho Sabho) Bổn thân ngài Hương


Tích Bồ Tát, áp lãnh quỷ binh ở năm phương để làm kẻ thị
tùng, hành tung không nghĩ bàn.
25. Ma Ra Ma Ra (Mara Mara) Ngài Bạch Y Bồ Tát. Đây là
Bạch Y Bồ Tát, tay cầm cây như ý (thuộc về Phật ngữ)
26. Ma Hê Ma Hê Rị Đà Dựng (Mashi Mashi Ridhayu) Bổn
thân đức Phật A Di Đà. Đây là bản thân lộ tướng, rất thung
dung của A Di Đà Phật tóc bạc.
27. Câu lô Câu lô Yết Mông (Guru Guru ghamain) Bổn thân
ngài Không Thân Bồ Tát, Thiên Đại Tướng Quân, xuất lãnh
20 vạn ức thiên binh.
28. Đồ Lô Đồ Lô Phạt Xà Da Đế (Dhuru Dhuru Bhashiyati)
Bổn thân ngài Nghiêm Tuấn Bồ Tát, áp lãnh man binh
Khổng Tước Vương.
29. Ma Ha Phạt Xà Da Đế (Maha bhashiyati) Ngài Đại Lực
Thiên Tướng. Đây là ngài Đại Lực Thiên Tướng tay cầm bảo
xử.
30. Đà Ra Đà Ra (Dhara Dhara) Ngài Quán Thế Âm Bồ
Tát. Đây là ngài Quán Thế Âm Bồ Tát hiện thân trượng phu.
31. Địa rỵ Ni (Dhirini) ngài Sư Tử Vương Bình Quán Thế
Âm Bồ Tát hiện thân. Đây là Bình Sư Tử Vương xét nghiệm
người đang tụng chú Đại Bi.
295

32. Thất Phật Ra Da (Shvaraya) Bổn thân ngài Thích lịch


Bồ Tát. Đây là Thích Lịch Bồ Tát hàng phục các ma và
quyến thuộc.
33. Dá Ra Dá Ra (Jala Jala) Bổn thân ngài Tồi Toái Bồ Tát.
Đây là bản thân của Tồi Toái Bồ Tát tay cầm kim luân.
34. Ma Ha Phạt Ma Ra (Mahabhamara) Bổn thân ngài Đại
Hàng Ma Kim Cang. Đây là bản thân của ngài tay cầm kim
luân.
35. Mục Đế Lệ (Mudhill) Các đức Phật chắp tay nghe tụng
chơn ngôn. Đây là chư Phật chấp tay nghe tụng chơn ngôn.
36. Y Hê Y Hê (E hy ehi) ngài Ma Hê Thủ La Thiên Vương.
Đây là ngài Ma Hê Thủ La Thiên Vương.
37. Thất Na Thất Na (Shina Shina) Ngài Ca Na Ma Tướng
Thiên Vương. Đây là ngài Ca-na Ma Tướng Thiên Vương.
38. A Ra Sâm Phật Ra Xá Lợi (Alashinbalashari) ngài Quán
Thế Âm Bồ Tát, ngài một tay cầm khiên, một tay cầm cung
tên.
39. Phật Sa Phạt Sâm (Basha bhasnin) ngài Kim Khôi Đại
Tướng. Ngài Kim Khôi Đại Tướng tay cầm cái linh (chuông
lắc)
296

40. Phật Ra Xá Da (Bharashaya) Bổn thân đức Phật A Di


Đà. Đây là bản thân Phật A Di Đà, thầy của đức Quán Thế
Âm.
41. Hô Lô Hô Lô Ma Ra (Hulu hulu pra) Bát Bộ Quỷ Thần
Vương.
42. Hô Lô Hô Lô Hê Rỵ (Hulu hulu Shri) Bổn thân ngài Tứ-
Tý Tôn Thiên. Đây là Tứ Tý Tôn Thiên mình mặc áo giáp lá
liễu.
43. Ta Ra Ta Ra (Sara Sara) Đời ngũ trược ác thế. Diệu
âm này đây là chỉ cho đời ác năm trược (ngũ trược)
44. Tất Rỵ Tất Rỵ (Tary tary) ngài Quán Thế Âm Bồ Tát.
Đây là Quán Thế Âm Bồ Tát, lợi ích chúng sanh không thể
nghĩ bàn.
45. Tô Rô Tô Rô (Suru Suru) Diệu âm tiếng lá cây rụng.
Đây là tiếng rơi rụng của lá cây ở cõi chư Phật.
46. Bồ Đề Dạ Bồ Đề Dạ (Buddhaya buddhaya) Ngài Quán
Thế Âm Bồ Tát. Đây là ngài Quán Thế Âm Bồ Tát kết duyên
với chúng sanh.
47. Bồ Đà Dạ Bồ Đà Dạ (Bodhaya bodhaya) Bổn thân ngài
A-Nan. Đây là bản thân của ngài A-Nan.
48. Di Đế Ry Dạ (Matriye) Bổn thân ngài Đại Xa Bồ Tát.
Đây là Đại Xa Bồ Tát tay cầm kim đao.
297

49. Na Ra Cẩn Trì (Nilakansia) ngài Long Thọ Bồ Tát. Đây


là Long Thọ Bồ Tát tay cầm đao vàng.
50. Địa Rị Sắc Ni Na (Trisa rana) Bổn thân ngài Bảo Tràng
Bồ Tát. Đây là ngài Bảo Tràng Bồ Tát tay cầm thiết xoa.
51. Ba Dạ Ma Na (Bhaya mane) Bổn thân ngài Bảo Kim
Quang Tràng Bồ Tát. Ngài tay cầm cây bạt chiết la.
52. Ta Bà Ha (Svaha) Bổn thân ngài Tam Đầu Thiện
Thánh. Đây là ngài Tam Đầu Thiện Thánh ngồi kiết già trên
mình con ngại long.
53. Tất Đà Dạ (Sitaya) Bổn thân ngài Xá Lợi Phất Bồ Tát.
Đây là Xá Lợi Phất Bồ Tát với ấn Liên Hoa Thủ, thông đạt
tất cả pháp môn.
54. Ta Bà Ha (Svaha) Bổn thân ngài Hằng Hà Sa Bồ Tát.
Tiếp ý trên đây là ngài đứng trên đầu cá ngao, dạo trong
biển pháp vô biên.
55. Ma Ha Tất Đà Dạ (Maha Sitaya)Bổn thân ngài Phóng
Quang Bồ Tát. Đây là ngài Phóng Quang Bồ Tát tay cầm
cây phướn đỏ.
56. Ta Bà Ha (Svaha) Bổn thân ngài Mục Kiền Liên Bồ Tát.
Đây là ngài Mục Kiền Liên Bồ Tát với cây tích trượng quảy
Cà sa.
298

57. Tất Đà Dú nghệ (Sitayaye) Chư Thiên Bồ Tát. Đây là


Chư Thiên Bồ Tát đều tập hợp lại, tay cầm đao vàng.
58. Thất Bàn Ra Dạ (Shvaraya) Ngài Quán Thế Âm tu
pháp an-tức hương. Đây là An Tức Hương của đức A Di Đà
và Quán Thế Âm.
59. Ta Bà Ha (Svaha) Bổn thân ngài A Xà Na Bồ Tát . Ngài
A Xà Na Bồ Tát tay đang cầm bát đưa lên cao.
60. Na Ra Cẩn Trì (Nilakanthi) Hải Huệ Bồ Tát. Đây là bản
thân của Hải Huệ Bồ Tát, tay cầm gươm vàng
61. Ta Bà Ha (Svaha) Đây là Chiên Đàn La Bồ Tát. Ngài
bước đi với chiếc nón quảy ngang vai.
62. Ma Ra Na Ra (Pranila) Bổn thân ngài Bảo Aán Vương
Bồ Tát. Tay ngài cầm cây kim phủ (búa vàng)
63. Ta Bà Ha (Svaha) Đây là Câu Hy La Bồ Tát, mang dép
gai đạp lên sóng phát ra tiếng Hải Triều Aâm.
64. Tất A Tăng A Mục Khư Da (Shrisimhamukhaya) Đây là
bổn thân ngài Dược Vương Bồ Tát, mang thuốc trị các thứ
bệnh.
65. Ta Bà Ha (Svaha) Bổn thân ngài Viên Mãn Bồ Tát, mặc
áo đỏ lộ đôi bàn tay mẫu Đa La.
66. Ta Bà Ma Ha A Tất Đà Dạ (Sarvamahasastaya) Bổn
thân ngài Dược Thượng Bồ Tát, trị các thứ bệnh.
299

67. Ta Bà Ha (Svaha) Bổn thân ngài Đại Trí Xá Lợi Phất Bồ


Tát, lưng mang chân kinh, tay cầm cây phất bằng ngọc.
68. Giả Cát Ra A Tất Đà Dạ (Chakra astaya) Bổn thân ngài
Kiếu Hám Thần Tướng, tay ngài đang cầm búa
69. Ta Bà Ha (Svaha) Đây là đại diện cho chư Thiên Ma
Vương, tay đang cầm cây xà thương
70. Ba Đà Ma Yết Tất Đà Dạ (Padmakesshaya) Đây là Linh
Hương Thiên Bồ Tát tay bưng lò hương như ý.
71. Ta Bà Ha Svaha) Bổn thân ngài Tán Hoa Thiên Bồ Tát,
ngài đang rưới hoa sen ngàn cánh.
72. Na Ra Cẩn Trì Bàn Đà Ra Da (Nilakantepantalaya) Bổn
thân ngài Phú Lâu Na Bồ Tát, tay bưng cái bát.
73. Ta Bà Ha (Svaha) Bổn thân ngài Đà La Ni Tử Bồ Tát.
Tay ngài đang bưng mâm quả.
74. Ma Bà Lợi Thắng Yết Ra Dạ (Mopholishankaraya) Đây
là Tam Ma Thiền Na Bồ Tát, ngồi kiết già với đôi tay luân
chưởng bảo đăng.
75. Ta Bà Ha (Svaha) Đây là bổn thân ngài Đại Ca Diếp Bồ
Tát, tay ngài đang cầm tràng hạt.
76. Nam Mô Hắc Ra Đát Na Dạ Da (Namo Ratnatrayaya)
Bổn thân ngài Hư Không Bồ Tát, tay cầm hoa ngồi trên gộp
đá.
300

77. Nam Mô A Rị Da (Namo Arya) Bổn thân ngài Phổ Hiền


Bồ Tát, kiết già thiền tọa trên lưng con bá bảo hương
tượng.
78. Bà Lô Yết Đế (Avalokite) Bổn thân ngài Văn Thù Sư Lợi
Bồ Tát, ngồi trên con thanh sư, ngón tay chỉ lên hư không.
79. Thước Bàn Ra Dạ (Shavaraya) Ngài Quán Thế Âm Bồ
Tát cầm đó kim liên ngàn cánh. Hiểu lý “nhãn căn thọ sắc”
80. Ta Bà Ha (Svaha) Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát duỗi cánh
tay vàng. Hiều lý “tai phân biệt tiếng”
81. Án Tất Điện Đô (Om! Siddhyantu) Ngài Quán Thế Âm
Bồ Tát mở tay ngũ luân. Hiểu lý “mũi ngửi các mùi”
82. Mạn Đà Ra (Mantra) ngài Quán Thế Âm Bồ Tát xè bàn
tay đâu la miên. Hiểu lý “lưỡi nếm vị”
301

83. Bạt Đà Da (Pataya)


ngài Quán Thế Âm Bồ Tát tay
bưng bình hương trầm. Hiểu lý
“thân căn thọ xúc. 84. Ta Bà
Ha (Svaha)Đây là đức Quán
Thế Âm Bồ Tát, biểu thị hiểu lý
“ý cần biết các pháp.” MỘT SỐ
NGHI VẤN VỀ CHÚ ĐẠI BI
Một số Phật tử có nhiều nghi
vấn về Chú Đại Bi vì khi tụng
niệm không hiểu ý nghĩa bài kinh mà chỉ cho rằng tụng kinh
để cầu phước, cầu đức nên chỉ “tụng đại” mà không biết
đúng sai. Lại cũng có dư luận cho rằng Chú Đại Bi được phổ
biến thiếu sót so với bản kinh chính như trong mục vấn đáp
của Đạo Phật Ngày Nay với thắc mắc “Chú Đại Bi có bị thiếu
chữ không?”2 Phần đông kinh
sách xưa đều đăng đầy đủ bài
Chú Đại Bi với 84 câu, 415 chữ,
như Chú Đại Bi trong cuốn Tam
Bảo Tôn Kinh do Thích Ca Phật
Viện xuất bản và phát hành năm

2
http://www.buddhismtoday.com/viet/hopthu/chudaibi-thieuchu.htm
302

1949 đăng đầy đủ số câu và số chữ


như sau “Tát Bà Tát Đá Na Ma Bà Tát
Đá Na Ma Bà Già”. Nhưng kinh sách
sau này đăng thiếu 5 chữ “Na Ma Bà
Tát Đá” : Tát bà Tát Đá Na Ma Bà Già
(phần xuất tượng số 16, Thầy Thích
Thiền Tâm có ghi rõ: Tát Bà Tát Đá
(Na Ma Bà Tát Đá) Na Ma Bà Già, trang 1323, năm chữ này
nằm trong ngoặc đơn). Như vậy thì đủ-thiếu, đúng- sai ra
sao?
Trong bản Chú Đại Bi bằng tiếng Sanskrit (tiếng Phạn) do
thầy Minh Hạnh viết tay bằng ngôn ngữ Devanagari, kèm bản
phiên âm La tinh không có 5 chữ như trên đã đề cập. Các kinh
sách đang lưu hành thọ trì cũng không có 5 chữ Na Ma Bà Tát
Đá thêm vào trong đoạn 16 thì chúng ta nên nhất trí với kinh
tụng hiện hành.
Chú Đại Bi mở đầu với lời xưng tán:
“Nam Mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát”
(3 lần) là câu thêm vào giải thích, tán
thán lịch sử Pháp Hội của Chú Đại Bi và
tiếp theo câu thêm vào là: “Thiên Thủ

3
Thích Thiền Tâm,Đâi Bi Tâm Đà Ra Ni, Tu viện Bồ Đề Thánh Cư Tịnh Độ, Gilroy, CA 95020
303

Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni” là câu xưng tán danh
hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát.
Nguyên bản Chú Đại Bi phát âm bằng tiếng Ấn Độ có khác
với bản dịch tiếng Trung Quốc vì lẽ có một số chữ phát âm người
Tàu không đọc được như chữ R chữ T như “Đà Ra Ni – Đà La Ni,
Ta Bà Ha – Sa Bà Ha” chuyển sang âm dịch tiếng Việt càng lệch
lạc hơn nữa ví dụ như “Ma Phạt Đạt Đậu” người Tàu đọc bốn âm
tiết hoàn toàn khác nhau: “Ma Fa da dou, Ma Fa Ta Tấu”
Cách ngắt câu và cách phân đoạn không đúng vì tụng niệm
phát âm theo hơi thở nên khi cuối hơi thở là ngắt câu mà không
biết tên của chư Phật và Bồ Tát phải trọn vẹn danh hiệu như thế
nào, âm nhấn mạnh, cao thấp ra sao nên sự sai lệch càng xa hơn
và nhiều khi trở nên vô nghĩa. Bài Chú Đại Bi ẩn chứa một oai lực
vô song, một nghĩa lý nhiệm mầu mà trì tụng không đúng thì làm
giảm đi tác dụng của bài chú. Ví dụ chữ “Nam Mô” ẩn chứa nghĩa
thành kính, đảnh lễ bậc Giác Ngộ nên khi
đọc lên là phát tâm thành kính tri tưởng,
chử Án là chữ Om (Aum, Mantra) một
thần chú Mật Tông gồm ba âm A-U-M làm
rung động những Luân Xa Chakras số 5,
6, 7 Khí Quản, Ấn Đường và Bách Hội4

4
You tube, AUM Mantra, youtube.com/watch
304

Tụng niệm mà không quan tâm đến


nghĩa lý của bài kinh, của các câu
thần chú, những oai lực tiềm ẩn bên
trong cũng làm giảm đi giá trị và công
đức trì tụng. Tuy trì chú là một
phương tiện để nhiếp tâm, nhưng nếu
có kiến giải hiểu biết nghĩa lý thì vẫn
tốt hơn và có giá trị hơn.

Tụng Niệm, trì chú là cầu xin sự hổ trợ tha lực của Chư Thiên,
Chư Bồ Tát, Chư Phật mười phương chứng minh, chứng giám. Trì
chú để kết hợp tâm mình với tâm Chư Phật và Bồ Tát, nương vào
đó mà tâm của mình được thanh tịnh, an lạc. Muốn được hoàn
hảo, tốt đẹp tìm hiểu ý nghĩa bài chú Đại Bi trong bản sưu tập
này, tập tụng niệm, ngắt câu đúng tên của chư Thiên, Bồ Tát và
mười phương chư Phật thì oai lực nhiệm màu không thể nghĩ bàn
được. Phải có niềm tin như thế đi (Tâm Sơn Vũ Minh Ngọc)
305

IV. ĐẶC TÍNH CỦA CHÚ ĐẠI BI


TÂM ĐÀ RA NI
Chú hay Mantra thường là những diệu âm
phổ quát của Mật Tông Tây Tạng, đó là
những câu nói bí mật của Bồ Tát và chư
Phật, Mật Tông xử dụng những mật chú
này làm phương tiện chuyển lời cầu
nguyện đến chư Phật và Bồ Tát trong khắp mười phương để
được các ngài nhanh chóng cảm nhận để cứu giúp, hộ trì. Ví như
câu thần chú Aùn Ma Ni Bát Di Hồng “A-U-M Mani Pat Me Hong,
có nghĩa là Ngọc sáng trong hoa sen”.
Đà Ra Ni (Dharani) dịch là Tổng Trì; có ba loại: một chữ,
nhiều chữ và không chữ. Vì bao gồm vô lượng pháp nên gọi là
Tổng, vì giữ chứa vô lượng nghĩa nên gọi là Trì. Môn Tổng Trì có
CÔNG NĂNG phá tà lập chánh, tiêu diệt nghiệp ác, phát sanh
phước đức căn lành.
Tổng Trì có khả năng
thâu nhiếp cùng bảo trì
tất cả các pháp thế gian
và xuất thế gian, không
cho các thiện pháp bị tán
loạn; ngăn che các ác
306

pháp không cho phát sinh.


Đại Bi Tâm là đặc tính của thần
chú mà Bồ Tát Quán Thế Âm đã nói
rõ khi trả lời câu hỏi của Đại Phạm
Thiên Vương. “Quán Thế Âm Bồ Tát
bảo Phạm Vương: Ông vì phương tiện
lợi ích cho tất cả chúng sanh, nên hỏi
như thế. Nay ông khéo nghe, tôi sẽ vì
các ông mà nói lược qua.”
 Tâm Đại từ bi
 Tâm Bình Đẳng
 Tâm Vô Vi
 Tâm Chẳng Nhiễm Trước
 Tâm Không Quán
 Tâm Cung Kính
 Tâm Khiêm Nhường
 Tâm Không Tạp Loạn
 Tâm không Chấp Giữ
 Tâm Vô Thượng Bồ Đề
Đại Bi Tâm là tâm thương xót và ý hướng
quyết tâm cứu khổ. Trì tụng Chú Đại Bi Tâm
Đà Ra Ni là khởi phát lòng thương xót đến
307

tất cả chúng sanh. Chúng ta noi


theo hạnh nguyện của Bồ Tát Quán
Thế Âm để phát tâm Đại Từ Bi
thương yêu chúng sanh và muôn
loài.
Tâm bình đẳng là tâm không
phân biệt đối xử hay ngay cả trong
nhận thức đối với chúng sanh về
mọi mặt: giới tính, chủng tộc, tuổi
tác, giàu nghèo, sang hèn ..vv.mọi sinh vật đều là đối tượng để
thương yêu và giúp đỡ. Đây là hạnh của Bồ Tát Thường Bất
Khinh bao gồm cả tâm cung kính, tâm khiêm nhường trong lối
sống và cách xử thế.
Tâm không quán là tánh không, thấy được tự tánh như Bồ
Tát Quán Tự Tại (Quán Thế Âm)
trong Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm
Kinh, nhờ thế mới thoát ra khỏi mọi
khổ đau ách nạn. Tâm không quán vì
thế cũng bao gồm cả tâm không
nhiễm trước, tâm không tạp loạn.
Cuối cùng là Tâm Vô Thượng Bồ
Đề là cứu cánh giác ngộ, giải thoát.
308

V. CÔNG NĂNG OAI LỰC CỦA CHÚ ĐẠI BI


Qua mục đích, hạnh nguyện của
Quán Thế Âm Bồ Tát như ngài đã
phát nguyện: “Nếu chúng sanh nào
trì tụng Chú Đại Bi mà còn bị đọa vào
ba đường ác, không được sanh về
các cõi Phật, không được vô lượng
tam muội biện tài, ngài thề sẽ không thành chánh giác” Thế nên,
mỗi lần trì tụng chú này thì tất cả mười phương Chư Phật đều
đến chứng minh, cho nên tất cả tội chướng nhờ ân đức của Chư
Phật độ trì, thảy đều tiêu diệt. Oai lực của Chú Đại Bi đã được
đức Phật Thích Ca giảng rõ trong kinh Đại Bi Tâm Đà Ra Ni trong
vấn đáp với thị giả A-Nan.
Công năng cứu khổ của thần chú oai lực thực vô song. Lúc
người đời gặp hoạn nạn, đau thương, cùng khổ, tuyệt vọng, bi
đát nhất mà không tìm được
lối thoát, người để chia xẻ,
tương trợ thì chỉ có một nơi
duy nhất để đặt niềm tin,
dựa vào, an trụ ở Bồ Tát
Quán Thế Âm, nhất tâm trì
niệm Chú Đại Bi, thì chắc
309

chắn ngài sẽ giúp ta những phương


tiện thiện xảo, đưa ta vượt qua cảnh
khổ đến nơi an lạc, yên vui, hạnh
phúc như ta mong cầu.
Tuy nhiên, để Chú Đại Bi Tâm
Đà Ra Ni phát huy được oai lực của
nó, khi trì tụng ta phải tự mình quán
chiếu là tại sao ta lại rơi vào cảnh
khổ mà người khác lại không ? Tại sao Chú Đại Bi lại có công
năng cứu khổ ?
Giáo lý của Đạo Phật cho chúng ta biết rằng tất cả mọi việc
trên đời này không có gì xảy ra một cách ngẫu nhiên. Tất cả
những đau thương, bất hạnh mà ta phải gánh chịu trong kiếp
sống hiện tại, gông cùm, tù tội, bệnh hoạn, nghèo hèn..vv.là kết
quả của những ác nghiệp mà ta đã gây nên
từ bao kiếp trước hoặc trong kiếp này, nay
đã đến lúc ta phải trả. Sở dĩ Chú Đại Bi có
khả năng đưa ta vượt qua khỏi cơn khổ nạn
vì công năng siêu tuyệt của nó là phá ác
nghiệp chướng (Phá Ác Nghiệp Chướng Đà
Ra Ni)5

5
Tâm Hà Lê Công Đa, Thần Chú Đại Bi, Viên Ngọc Của Người Cùng Tử, Đạo Phật Ngày Nay,
Buddhismtoday.com/viet/phatphap/160-chudaibi.htm
310

Hai công năng quan trọng


nhất của Chú Đại Bi là công năng
thứ 8 “Tùy Tâm Tự Tại Đà Ra Ni”
và thứ 9 là “Tốc Siêu Thánh Địa Đà
Ra Ni” như khi Phật trả lời câu hỏi
của ngài A Nan (Bạch đức Thế-Tôn
! chú này tên gọi là chi ? con nên
thọ trì như thế nào ?). Chúng ta
thường chịu nhiều căng thẳng và
áp lực lớn trong cuộc sống, nên Chú Đại Bi là phương tiện hiệu
quả giúp cho tâm ta thanh tịnh, an lạc và tốc siêu mau chóng
đưa ta bước vào cảnh giới Thiền định do chính nghiệp duyên của
chúng ta. Thế nên, chúng ta trì tụng Chú Đại Bi với lòng cung
kính chí thành, tin tưởng tuyệt đối vào
đức từ bi và khả năng hộ trì của Quán
Thế Âm Bồ Tát và nên hành trì Chú
này như một phương tiện chính của
Thiền định trong khả năng tập trung
năng lực cũng như thiền quán hầu đạt
đến an lạc, hạnh phúc trong cuộc
sống hàng ngày và từng bước tiến
đến cứu cánh giác ngộ, giải thoát.
311

VI. KẾT LUẬN


CHÚ ĐẠI BI TÂM ĐÀ RA NI là bài
kinh rất phổ biến ở Trung Quốc,
Đại Hàn, Nhật Bản, và Việt Nam từ
xưa đến nay. Bài chú này có sự
phối hợp giữa Đại Thừa và Tiểu
Thừa; liên kết giữa các tông: Thiền,
Tịnh, Giáo, Mật; oai lực và mầu
nhiệm bất khả tư nghị khi trì tụng
Chú Đại Bi Tâm này. Điểm quan trọng cần nắm vững là trước khi
trì chú thì THÂN phải tắm gội sạch sẽ, y phục nghiêm chỉnh, hành
lễ trang nghiêm. TÂM phải thanh tịnh, dứt bỏ tạp niệm, cung
kính, chí thành tin tưởng, tụng đúng lời, đúng câu ngắt đoạn Chư
Thiên, Bồ Tát và mười phương Chư Phật mới chứng giám, hộ trì.

CHÚ ĐẠI BI
Nam mô đại bi hội thượng Phật, Bồ Tát (3 lần)
Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni
Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô yết đế,
Thước bát ra da, Bồ Đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da,
Ma ha ca lô ni ca da. Aùn tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa.
Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da, bà lô kiết đế,
Thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì
312

Hê rị ma ha bàn đá sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng,


Tát bà tát đá, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha.
Án, a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha Bồ Đề tát đỏa,
Tát bà tát bà, Ma ra ma ra, Ma hê ma hê, rị đà dựng,
Câu lô câu lô yết mông, Độ lô độ lô phạt xà da đế,
Ma ha phạt xà da đế, Đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da,
Giá ra giá ra. Ma ma phạt ma ra, mục đế lệ, Y hê y hê,
Thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm.
Phật ra, xá da, Hô lô hô lô ma ra, Hô lô hô lô hê lị, Sa ra sa ra,
Tất rị tất rị, Tô rô tô rô, Bồ đề dạ Bồ đề dạ, Bồ đà dạ Bồ đà dạ,
Di đế rị dạ, na ra cẩn trì, địa rị sắc ni na, bà dạ ma na. Ta bà ha,
Tất đà dạ, Ta bà ha. Ma ha tất đà dạ, Ta bà ha. Tất đà du nghệ,
Thất bàn ra dạ, Ta bà ha. Na ra cẩn trì, Ta bà ha. Ma ra na ra,
Ta bà ha. Tất ra tăng a mục khư da, Ta bà ha. Ta bà ma ha a
Tất đà dạ, Ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, Ta bà ha.
Ba đà ma yết tất đà dạ, Ta bà ha. Na ra cẩn trì, bàn đà ra da,
Ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, Ta bà ha. Nam mô hát ra, đá na
Đá ra dạ da. Nam mô a rị da bà lô yết đế. Thước bàn ra da, Ta bà
ha. Án, tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà da, Ta bà ha
Nam mô thập phương thường trụ Tam Bảo (3 lần)
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)
313

SỰ LINH ỨNG CỦA CHÚ ĐẠI BI


Chú Đại Bi này ở trong kinh “Thiên thủ
thiên nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng
đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà la ni”
Hồi đời quá khứ vô lượng ức kiếp,
có Đức Phật Thiên Quang Vương tịnh
Trụ ra đời vì ngài Quán Thế Âm mà nói
ra Chú đại Bi này. Lúc đó ngài mới trụ
bậc Sơ Địa, mà sau khi nghe chú này
rồi, thì siêu chứng lên bậc Bát Địa liền.
Ngài thấy cái hiệu nghiệm như vậy, thì phát lời đại nguyện rằng:
“Nếu qua đời vị lai, có thể đem chú này ra mà làm lợi ích cho
chúng sinh, thì cho thân ngài sanh ra ngàn cánh tay và ngàn con
mắt…... Ngài nguyện vừa xong thì quả nhiên tay, mắt đều cụ túc
tất cả, và lại chư Phật phóng quang soi đến thân ngài và soi khắp
vô biên thế giới.
Khi ấy ngài lại phát nguyện nữa
rằng: “Nếu người nào trì tụng chú này
mỗi đêm 5 biến, thì đặng tiêu hết những
tội nặng sanh tử trong trăm ngàn vạn ức
kiếp, đến lúc mạng chung thì có thập
phương chư Phật, hiện thân tiếp dẫn về
314

cỏi Tịnh độ, bằng chứng như nào


trì tụng chú này mà sau còn đọa
vào ba đường ác đạo và chẳng
đặng sanh về cõi Phật, hay chẳng
đặng những pháp tam muội biện
tài, và chỗ sở cầu không toại chí.
Nếu có mấy sự ấy, thì chú này
không được xưng là “ĐẠI BI TÂM
ĐÀ LA NI “
Chỉ trừ những người tâm không thiện, chí không thành và lòng
hay nghi, thì không thấy hiệu nghiệm được liền mà thôi.
315

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hòa Thượng Thích Thiền Tâm, Đại Bi Tâm Đà Ra Ni, Tu


viện Bồ Đề Thánh Cư Tịnh Độ, 2670 Dryden Ave., Gilroy, CA
95020
2. Hòa Thượng Thích Đức Niệm, Kinh Nhật Tụng, Phật học
viện Quốc Tế xuất bản,9250 Columbus Ave., North Hills, CA
91343
3. Tu Sĩ Giác Hải, Kinh Đại Bi Sám Pháp, Tu viện Bồ Đề Thánh
Cư Tịnh Độ, 2670 Dryden Avenue, Gilroy, CA 95020
4. Thượng Tọa Thích Tín Nghĩa, Nghi Thức Tụng Niệm, Giáo
Hội Phật Giáo VNTN Hải ngoại-Hoa Kỳ, vụ Nghi Lễ thực hiện. PL
2540-1996
5. Ưu Bà Di Bảo Đăng, Vô Nhất Đại Sư Thích Thiền Tâm, Một
Cao Tăng Cận Đại, Pháp Hoa Tự The Dharma Flower Temple,
1107 E., 32nd. St, Tucson, Arizona 85713. PL 2542-1998
6. Tâm Hà Lê Công Đa, Thần Chú Đại Bi, Viên Ngọc Của Người
Cùng Tử, Đạo Phật Ngày
NayBuddhismtoday.com/viet/phatphap/160chudaibi
7. Thanh Sơn, Thích Giác Hoàng, Chú Đại Bi Có Bị Thiếu Chữ
Không ?, Đạo Phật Ngày Nay, Buddhismtoday.com
316

8. The Great Compassion Heart Dharani, Sahasra-Bhuja


Aryavalokkitesvara Mantra, http://www.geocities.com/chuddaibi2/
9. Youtube, AUM Mantra, http://wwwyoutube.com
10. Mahakaruna Dharani Pictures,1629S.Del Mar Ave., San
Gabriel, CA 91776
11. Từ Thuận-Kỳ Sơn-Chính Kiệt, Đại Bi Chú Giảng Giải,
Thánh Án biên soạn, nhóm dịch thuật tự xuất bản, Walter Bros.
Printing, USA 1998
Hoàn tất ngày 18 tháng 3 năm 2015, 11:00AM
317

You might also like