Professional Documents
Culture Documents
……………………………………………………
……………………………………………………
……………………………………………………
……………………………………………………
……………………………………………………
……………………………………………………
……………………………………………………
……………………………………………………
……………………………………………………
……………………………………………………
……………………………………………………
……………………………………………………
……………………………………………………
……………………………………………………
……………………………………………………
……………………………………………………
……………………………………………………
……………………………………………………
……………………………………………………
……………………………………………………
……………………………………………………
……………………………………………………
……………………………………………………
……………………………………………………
……………………………………………………
……………………………………………………
SVTH: Đào Thị Ánh Tuyết 1
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS Nguyễn Thị Trúc Linh
Lời cám ơn
Lời đầu tiên em xin được gửi lời cám ơn chân thành và sâu sắc tới cô Nguyễn
Thị Trúc Linh – người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo em trong suốt khoảng thời gian
thực hiện khóa luận này.
Em cũng xin gửi lời cám ơn đến các Thầy, Cô thuộc Bộ môn Hóa Vô Cơ cũng
như tất cả các Thầy, Cô trong Khoa đã truyền đạt những kiến thức hữu ích đồng thời
tạo mọi điều kiện giúp em hoàn thành khoá luận này.
Em xin gửi lời cám ơn đến gia đình, bạn bè cũng như những người bạn vẫn luôn
bên cạnh động viên, nhiệt tình giúp đỡ những lúc khó khăn để em có thể hoàn thành
tốt bài khóa luận này.
Do thời gian, điều kiện cũng như kinh nghiệm của bản thân còn hạn chế nên khóa
luận này chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự góp
ý chân thành của thầy cô và các bạn để bài khóa luận trở nên hoàn chỉnh hơn.
MỤC LỤC
Danh mục hình vẽ và bảng biểu .......................................................................... 5
1.1.2 Hiện trạng chất thải vỏ trấu tại việt nam ............................................. 10
1.1.3.3 Vỏ trấu làm vật liệu xây dựng nhẹ không nung............................. 13
1.1.3.4 Vỏ trấu còn có thể làm nguyên liệu xây dựng sạch ....................... 13
2.4.1 Phương pháp xác định diện tích bề mặt riêng (BET) ........................... 32
3.1 Ảnh hưởng của nồng độ dung dịch HNO3 trong giai đoạn 2 ...................... 37
3.2 Ảnh hưởng của sự có mặt cacbon hoạt tính trong giai đoạn 1’ .................. 39
3.3 Ảnh hưởng của phương thức rửa mẫu trong giai đoạn 4 ........................... 41
3.4 Ảnh hưởng của chất nhận diện (CoCl2.nH2O) trong giai đoạn 5 ............... 42
3.5 Chi phí và chất lượng của các mẫu điều chế được ..................................... 42
3.6 Khảo sát chất lượng của mẫu silicagel điều chế được với mẫu silicagel trên
thị trường ...................................................................................................................... 45
MỞ ĐẦU
Tháng 10 năm 2012, Việt Nam đạt sản lượng gạo trên 8 triệu tấn. Năm 2013,
sản lượng gạo cả nước ước tính đạt hơn 44 triệu tấn. Như vậy, hàng năm lượng vỏ trấu
tách ra từ quá trình xay xát lúa là vô cùng lớn. Trấu sau khi đốt sẽ tạo thành tro. Tro
trấu chứa 80 – 90% khối lượng là SiO2 vô định hình có hoạt tính hóa học rất cao, đây
là nguyên liệu để sản xuất, tổng hợp rất nhiều sản phẩm có giá trị và có nhiều tính chất
quý giá như các chất phụ gia trong công nghiệp xi măng, một số loại aerogel, zeolit,
silicagel,…
Silicagel có vai trò rất quan trọng trong công nghệ hóa học từ đơn giản đến
phức tạp. Dựa vào khả năng hút ẩm của silicagel nên chúng đươc sử dụng làm chất
bảo quản trong ngành thực phẩm, công nghiệp sản xuất thiết bị điện tử, dược phẩm,
nông sản, quần áo và các ngành quan trọng khác. Ngoài ra, hạt silicagel cũng được sử
dụng làm chất xúc tác trong ngành hóa dầu, thực phẩm, cho rượu bia và các sản phẩm
y tế khác.
Xuất phát từ nguồn nguyên liệu sẵn có ở Việt Nam và khả năng ứng dụng thực
tiễn của vỏ trấu, chúng tôi chọn “TỔNG HỢP VÀ NGHIÊN CỨU HOẠT TÍNH
HÚT ẨM CỦA SILICAGEL TỪ TRO TRẤU” làm khóa luận tốt nghiệp.Việc
nghiên cứu điều chế silicagel và tìm hiểu ứng dụng của nó sẽ giúp nâng cao giá trị sử
dụng của vỏ trấu, giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường và có thể tăng thêm thu
nhập cho người dân.
Trấu là lớp vỏ ngoài cùng của hạt lúa và được tách ra trong quá trình xay xát.
Trong vỏ trấu chứa khoảng 75% chất hữu cơ dễ bay hơi sẽ cháy trong quá trình đốt và
khoảng 25% còn lại chuyển thành tro. Chất hữu cơ chứa chủ yếu xenlulozơ, lignin,
ngoài ra có thêm thành phần khác như là hợp chất nitơ và vô cơ.
Bảng 1.1 Thành phần hữu cơ của vỏ trấu [1]
Thành phần chủ yếu Tỷ lệ theo khối lượng (%)
Xenlulozơ 43,30
Lignin 22,00
D – xylozơ 17,52
D – galactozơ 2,37
Axit metyl glucuronic 3,27
Các chất hữu cơ của trấu là các mạch polycacbonhydrat rất dài nên hầu hết các
loài sinh vật không thể sử dụng trực tiếp được, nhưng các thành phần này rất dễ cháy
nên có thể dùng làm chất đốt. Sau khi đốt, tro trấu chứa trên 80% là silic oxyt, đây là
thành phần được sử dụng trong rất nhiều lĩnh vực, như là: làm chất tăng cường lực cho
các loại cao su (cao su tự nhiên, cao su butadien – stiren và cao su lưu hóa), làm phụ
gia hóa dẻo cho một số dung dịch hoặc hệ thống nhiệt nhựa dẻo và chất rắn, làm tăng
độ cứng, tăng độ bền cho các vật liệu nhựa dẻo, đóng vai trò như một chất mang của
một số phụ gia trong thức ăn gia súc, thuốc bảo vệ thực vật.
1.1.2 Hiện trạng chất thải vỏ trấu tại việt nam [7]
Sản lượng lúa trong khoảng thời gian từ năm 2005 – 2011 được trình bày ở biểu
đồ dưới đây.
42000
40000
38000
36000
34000
32000
Hình 1.1 Sản lượng lúa trong những năm gần đây
(Nguồn: Theo niên giám thống kê năm 2012)
Từ hình trên chúng ta thấy rằng, sản lượng lúa hàng năm tăng lên rất nhiều và
đạt đến mức 42,3 nghìn tấn lúa/năm (năm 2011). Do đó lượng vỏ trấu thải ra rất
nhiều. Chúng thường không được sử dụng hết nên phải đem đốt hoặc đổ xuống sông
để tiêu hủy. Theo khảo sát, tại đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) khoảng hơn 3
triệu tấn/năm, nhưng chỉ khoảng 10% trong số đó được sử dụng, về sau trấu còn được
dùng làm củi trấu (trấu ép lại thành dạng thanh), nhưng cũng chỉ sử dụng được khoảng
12.000 tấn vỏ trấu/năm. Tại ĐBSCL, các nhà máy xay xát đổ trấu xuống sông, rạch.
Trấu trôi lềnh bềnh khắp nơi và chìm xuống đáy gây ô nhiễm nguồn nước. Tại đây,
trấu được sử dụng để làm chất đốt, nhưng trấu thuộc loại chất đốt cồng kềnh, để sử
dụng được trấu một số hộ gia đình phải vận chuyển nhiều lần và phải có nhà rộng để
chứa. Trung bình mỗi ngày mỗi nhà máy xay xát ở tỉnh Hậu Giang thải ra 24,5 tấn
trấu. Lượng trấu thải ra không được tiêu thụ ngay, ứ đọng lại. Các nhà máy thường un
trấu thành phân trấu, đổ thành đống cao. Ở một số huyện vùng sâu thuộc thành phố
Cần Thơ và tỉnh An Giang bức xúc trước tình trạng một lượng lớn vỏ trấu trôi khắp
mặt sông, gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt. Dọc một số
bờ sông ở quận Ô Môn, huyện Thới Lai, huyện Cờ Đỏ của thành phố Cần Thơ như
sông Thị Đội, sông Ngang… sẽ thấy rất nhiều vỏ trấu trôi trên mặt sông. Bờ sông
ngập một màu vàng của vỏ trấu. Nước sông ở những đoạn này vốn đã ô nhiễm, giờ
quyện với mùi vỏ trấu phân hủy tạo nên một mùi rất khó chịu. Những con sông này bị
ô nhiễm nặng nề nên không thể dùng nước để sinh hoạt được. Chính vì vậy, một
lượng vỏ trấu thải ra sông như thế mà người dân ở đây không có nước sinh hoạt, ảnh
hưởng đến giao thông qua lại của ghe tàu cũng như việc nuôi cá ở đây bị cản trở khi
dòng nước bị ô nhiễm quá nặng.
Lượng vỏ trấu quá nhiều, không còn chỗ chứa thì cách duy nhất là đổ ra sông để
nước sông cuốn trôi. Vì thế chúng ta cần biết các công dụng của vỏ trấu để ứng dụng
và sử dụng đúng cách nếu không vỏ trấu sẽ trở thành tác nhân gây nên ô nhiễm môi
trường làm ảnh hưởng đến đời sống của người dân sống xung quanh khu vực đó.
1.1.3 Các ứng dụng của vỏ trấu hiện nay
1.1.3.1 Dùng vỏ trấu để lọc nước [15]
Tại thành phố Hải Dương,ông Nguyễn Trọng Việt đã phát minh ra cách chế tạo
thiết bị lọc nước từ vỏ trấu, có khả năng lọc thẳng nước ao, hồ thành nước uống sạch.
Cốt lõi của thiết bị là một cụm sứ xốp trắng, hình trụ nằm trong chiếc bình lọc. Ngoài
ra nó cũng có độ bền cao (có thể sử dụng 1 năm đến 7 năm).
Trấu, vỏ đậu phộng (lạc), bã mía và các loại phế phẩm khác từ nông nghiệp,
thông qua một quá trình chế biến đặc biệt có thể thu được một loại nguyên liệu cacbon
cách điện cao, làm cực dương cho pin ion liti, đạt được kỳ tích sạch, xanh môi trường.
Khoa hóa học chuyên về vật liệu trung ương Đài Loan đã nghiên cứu và phát triển
công nghệ liti. Nghiên cứu này sử dụng vỏ trấu, vỏ đậu phộng, bã mía và các loại phế
phẩm nông sản, thông qua sự xử lý axit và các tác nhân tạo lỗ xốp, sau khi nung ở
nhiệt độ cao có thể thu được vật liệu cacbon có công suất điện áp cao, ban đầu có thể
đảo ngược điện dung, cao nhất mỗi tiếng có thể đạt đến 1650 mA/gram, cao hơn nhiều
so với graphit thương mại dùng để tích trữ điện, điện dung một tiếng 370 mA/gram.
Điều đáng tiếc là vật liệu cacbon điện áp cao này lần đầu không thể đảo ngược điện
dung quá lớn, sau khi sử dụng lần đầu tiên sẽ bị tổn thất nhiều điện năng.
1.1.3.3 Vỏ trấu làm vật liệu xây dựng nhẹ không nung [5]
Vật liệu gồm vỏ trấu nghiền, xơ dừa, hạt xốp, xi măng, phụ gia và lưới sợi thủy
tinh. Trọng lượng của vật liệu nhẹ hơn gạch xây thông thường khoảng 50% và có tính
cách âm, cách nhiệt và không thấm nước cao. Đây là vật liệu thích hợp với các vùng
như miền tây, miền trung bị ngập úng, lũ lụt và nền đất yếu. Sau khi sử dụng có thể
nghiền nát để tái chế lại.
Nhờ trọng lượng nhẹ nên khi sử dụng vật liệu này làm vách và sàn, móng căn
nhà sẽ không phải gia cố nhiều như xây bằng gạch. Với các cột nhà cũng không cần
làm lớn. Những điều này giúp giảm chi phí đến bằng ½ các công trình. Trong khi thi
công do vách và sàn theo giàn lắp ghép nên công thợ sẽ giảm xuống rất nhiều. Ưu
điểm của sản phẩm là sau khi xây dựng muốn di chuyển có thể tháo dỡ toàn bộ và lắp
ghép ở vị trí mới. Nhà sẽ xây theo nguyên tắc khung xương bằng sắt hoặc thanh bê
tông chịu lực, sản phẩm được ghép bằng cách bắt vít. Tường tô trát một lớp vừa đủ do
bề mặt vật liệu đã phẳng. Riêng sàn có thể lát gạch. Khi đổ cột có thể dùng tấm vật
liệu này thay cho cốp pha ốp bên ngoài và sau đó để luôn sẽ cho bề mặt phẳng. Vật
liệu này cũng thích hợp cho việc xây nhà trên nền đất yếu, sửa chửa nhanh như sửa
nhà nâng thêm tầng, thay đổi các chức năng phòng trong nhà.
1.1.3.4 Vỏ trấu còn có thể làm nguyên liệu xây dựng sạch
Trong trấu có chứa hàm lượng SiO2 rất nhiều, mà đây là thành phần chính trong
xi măng, nhưng con người muốn tận dụng tro thu được sau khi đốt vỏ trấu làm nguyên
liệu thay thế xi măng, thì phương pháp này sẽ tạo ra hàm lượng cacbon trong tro vỏ
trấu rất cao, không thể thay thế thành phần xi măng.
Tập đoàn Torftech của Anh cho biết, sau khi đốt mỗi tấn vỏ trấu sẽ tạo ra 180kg
tro, có giá trị là 100 USD, có thể sử dụng làm phụ gia cho xi măng và có thể thay thế
trực tiếp SiO2 trong xi măng[18].
Ngoài ra các nhà nghiên cứu thuộc Trường Đại học Bath và Dundee, cùng với
các cộng sự ở Ấn Độ cũng đang phát triển loại xi măng thân thiện với môi trường từ
việc sử dụng các vật liệu thải như vỏ trấu. Nghiên cứu này là một phần của Dự án xúc
tiến giáo dục và nghiên cứu Anh -Ấn (UKIERI), do Trường Đại học Dundee chủ trì,
nhằm làm giảm phát thải cacbon trong quá trình sản xuất xi măng, lĩnh vực đóng góp
gần 5% trong tổng lượng phát thải CO2 trên toàn cầu[16].
1.1.3.5 Vỏ trấu làm sản phẩm mỹ nghệ [5]
Huyện Gia Viễn, Ninh Bình người ta đã tạo ra các sản phẩm mỹ nghệ nội thất từ
vỏ hạt thóc. Vỏ hạt thóc (trấu) được nghiền nhỏ tạo thành bột dưới dạng mịn và bột
sợi. Sau khi kết hợp với keo, trấu được cho vào máy ép định hình sản phẩm và sấy
khô, hoàn thiện... để trở thành một sản phẩm mỹ nghệ hoàn chỉnh, có khả năng xuất
khẩu. Giải pháp nêu trên giúp sản phẩm có giá thành hạ, tận dụng được lao động ở
nông thôn, đặc biệt là dây chuyền chế biến tinh bột trấu thấp hơn 10 lần so với dây
chuyền sản xuất tinh bột gỗ.
Củi trấu duy trì sự cháy lâu hơn nấu trực tiếp bằng trấu, than đá. Cũng như các
loại chất đốt khác củi trấu có thể sử dụng cho lò truyền thống, bếp than, bếp than đá…
rất dễ dàng vì bắt lửa nhanh, không có khói và khi cháy thì có mùi rất dễ chịu.
Bên cạnh giá thành hạ so với ga, củi trấu cũng có hạn chế là dùng củi trấu nếu
phát triển sẽ chỉ phổ biến ở nông thôn, vì nó cần phải có chỗ để củi, cần có bếp lò, cần
nơi thải tro. Vì thế nên khó tiến vào đô thị được mà có thể chỉ phổ biến ở nông thôn,
vùng ven các khu dân cư gần đô thị.
1.1.3.7 Sử dụng làm chất đốt[5], [7]
Từ lâu vỏ trấu đã là một loại chất đốt rất quen thuộc với bà con nông dân đặc
biệt là bà con nông dân ở vùng ĐBSCL. Chất đốt từ vỏ trấu được sử dụng rất nhiều
trong cả sinh hoạt (nấu ăn, nấu thức ăn gia súc) và sản xuất (làm gạch, sấy lúa) nhờ có
ưu điểm sau: trấu có khả năng cháy và sinh nhiệt tốt do thành phần có 75% là chất xơ.
Bảng 1.2 Chi phí sử dụng các nguồn nguyên liệu năm 2006
Theo bảng trên thì 1kg trấu khi đốt sinh ra 3.400 Kcal bằng 1/3 năng lượng được
tạo ra từ dầu nhưng giá lại thấp hơn đến 25 lần (năm 2006). Đây là nguồn nguyên liệu
sinh học có sẵn và có thể đem lại năng lượng ổn định, giá thành thấp.
Nguyên liệu trấu có các ưu điểm nối bật khi sử dụng làm chất đốt: vỏ trấu sau
khi xay xát luôn ở dạng rất khô, có hình dáng nhỏ và rời, tơi xốp, nhẹ, vận chuyển dễ
dàng. Thành phần là chất xơ cao phân tử rất khó cho vi sinh vật sử dụng nên việc bảo
quản, tồn trữ rất đơn giản, chi phí đầu tư ít.
Chính vì các lí do trên mà trấu được sử dụng làm chất đốt rất phổ biến. Trong
sinh hoạt, người dân đã thiết kế một dạng lò chuyên nấu nướng với chất đốt là trấu. Lò
này có ưu điểm là lượng lửa cháy rất nóng và đều, giữ nhiệt tốt và lâu. Lò trấu hiện
nay vẫn còn được sử dụng rộng rãi ở nông thôn.
Đối với sản xuất tiểu thủ công nghiệp và chăn nuôi, trấu cũng được sử dụng rất
thường xuyên. Thông thường trấu là chất đốt dùng cho việc nấu thức ăn nuôi cá hoặc
lợn, nấu rượu và một lượng lớn trấu được dùng nung gạch trong nghề sản xuất gạch
tại khu vực ĐBSCL.
Khi sử dụng vỏ trấu làm chất đốt sẽ thải ra một loại chất thải là tro trấu. Với số
lượng lớn vỏ trấu như vậy, lượng tro thải ra cũng rất nhiều. Do đó chúng ta cần tìm
hiểu các ứng dụng của tro để có thể tận dụng nguồn phế phẩm sẵn có với số lượng
nhiều.
1.2 Tro trấu
1.2.1 Thành phần hóa học
Vỏ trấu sau khi cháy các thành phần hữu cơ sẽ chuyển hóa thành tro chứa các
thành phần oxit kim loại. Silic oxit là chất có tỷ lệ phần trăm về khối lượng cao nhất
trong tro chiếm 80 – 90%. Các thành phần oxit có trong tro được thể hiện qua bảng
1.3, chúng có thể thay đổi tùy thuộc vào giống cây lúa, điều kiện khí hậu, đất đai của
từng vùng miền. Hàm lượng SiO2 trong tro trấu rất cao. Trong một số công trình
nghiên cứu khác hàm lượng silic trong tro cũng được công bố như: Armesto (2002)
đưa ra kết quả là 87,7%; Liou (2004) >90%; Kapur (1995) là >95% và 87 – 97% là
kết quả được Houston (1972) đưa ra [6]
. Oxit silic được sử dụng trong đời sống sản
xuất rất phổ biến. Nếu tận dụng được nguồn SiO2 có ý nghĩa rất lớn với nước ta. Làm
SVTH: Đào Thị Ánh Tuyết 17
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS Nguyễn Thị Trúc Linh
được điều này ta sẽ không cần nhập khẩu SiO2 và vấn đề ô nhiễm môi trường do vỏ
trấu cũng được cải thiện.
Bảng 1.3 Các thành phần oxit có trong tro trấu[6]
cung cấp cho nhiều ngành công nghiệp khác nhau, trong đó có ngành sản xuất tấm pin
mặt trời và làm con chip điện tử.
Tro đốt sau đó được cho hòa tan trong dung dịch natri hidroxit (xút) và khuấy
đều ở 90oC để tạo thành natri silicat. Dùng axit sunfuric để chuyển toàn bộ dung dịch
natri silicat sang thể hidrogel. Cũng có nơi dùng giấm chua tức axit axetic thay thế
axit sunfuric để hạ giá thành. Để hidrogel ổn định trong khoảng 5 ngày rồi dùng nước
rửa mạnh để loại bỏ natri sunfat sinh ra từ quá trình phản ứng. Cuối cùng chuyển
hidrogel thành ancolgel bằng cách đưa rượu etanol vào đẩy nước ra ngoài.
Sau đó đưa ancolgel vào các nồi áp suất (autoclave), bổ sung vào đó một ít rượu,
rồi nâng nhiệt từ từ trong khoảng 7 giờ: 50oC/giờ cho đến 200oC/giờ, 25oC/giờ cho
đến 275oC và giữ mức nhiệt này trong khoảng 1 giờ để toàn bộ ancol bay ra thành hơi
cho hơi rượu thoát ra từ từ khỏi nồi trong vòng 1 giờ rưỡi để hạ áp suất bên trong đến
mức bình thường. Từ đó bắt đầu hạ nhiệt xuống, cũng từ từ, để có mẻ sản phẩm
aerogel tốt. Aerogel thương phẩm sản xuất theo quy trình này có dạng hạt rời, cứng,
giòn, trong suốt, cực mịn đến cấp hạt nano, được đóng gói để bán hoặc ép thành cấu
kiện cung cấp cho các nhà máy.
Với kỹ thuật mới này Đại học kỹ thuật Malaysia đã sản xuất thành công và hạ
giá bán aerogel thương phẩm từ 2.600 USD xuống còn 250 USD/kg, tạo điều kiện ứng
dụng rộng rãi aerogel cách nhiệt, cách âm cho các trang bị điện tử, các loại tủ lạnh và
kho lạnh, làm lớp kẹp ngăn nhiệt cho các loại cửa kính và cả trong kết cấu công trình
xây dựng cao cấp.
1.2.2.2 Điều chế silic đioxit [6]
Tro của trấu sau khi đốt cháy có hơn 80% là silic oxyt. Oxyt silic là chất được sự
dụng khá nhiều trong nhiều lĩnh vực như xây dựng, thời trang, luyện thủy tinh… Hiện
nay đã có nhiều tác giả sử dụng tro trấu để điều chế ra silic dioxit. Có các đề tài điều
chế silic dioxit từ tro trấu như: Nguyễn Văn Bỉnh, trường Đại học Đà Nẵng đã thực
hiện đề tài “Nghiên cứu tách silic dioxit từ vỏ trấu và ứng dụng làm chất hấp phụ một
số hợp chất hữu cơ” (2011), “Nghiên cứu quy trình thu hồi silica từ tro trấu, ứng dụng
tổng hợp phụ gia cho xi măng mác cao (Phần 1)” là đề tài do TS.Huỳnh Quyền,
TS.Trương Hoài Chính thực hiện.
Quy trình sản xuất silic dioxit từ tro trấu như sau: vỏ trấu được rửa sạch, phơi
khô, đốt, nung ở 8000C thu được tro trấu. Sau đó thêm dung dịch NaOH rồi đun nóng.
Lọc thu được dung dịch. Thêm dung dịch HCl 3M thu được hỗn hợp dạng gel. Rửa
bằng nước cất nhiều lần thu được SiO2.nH2O. Đem nung ở 5500C, sau đó sấy ở 1000C
thu được SiO2.
1.2.3 Các ứng dụng khác của vỏ trấu
Vỏ trấu còn có thể dùng làm thiết bị cách nhiệt, làm chất độn, giá thể trong công
nghiệp sản xuất meo giống để trồng nấm, dùng đánh bóng các vật thể bằng kim loại,
tro trấu có thể dùng làm phân bón[16].
Như vậy, trấu có thể được ứng dụng rất đa dạng trong đời sống và sản xuất,
ngoài ra do có ưu thế về nguồn nguyên liệu và giá thành nên việc nghiên cứu sử
dụng trấu có thể sẽ mang lại hiệu quả kinh tế. Trong các ứng dụng của vỏ trấu,
chúng tôi đặc biệt quan tâm đến ứng dụng sản xuất vật liệu hút ẩm silicagel – một
loại vật liệu hút ẩm - từ vỏ trấu.
1.3 Vật liệu hút ẩm
1.3.1 Các loại vật liệu hút ẩm chính[2]
Loại tạo liên kết cơ học với ẩm
- Là loại vật liệu có những lỗ nhỏ li ti bên trong (kích thước lỗ chỉ khoảng
vài Ao), có khả năng giữ lại nước (đường kính phân tử khoảng 2,7Ao).
Loại vật liệu này gồm có: silicagel, đất sét hoạt tính Al2O3, zeolit…
Loại tạo tinh thể ngậm nước
- Là loại vật liệu có khả năng kết hợp với nước tạo tinh thể ngậm nước như
CaSO4, CaCl2…
Phản ứng hóa học với nước
- Là loại vật liệu có khả năng phản ứng với nước tạo chất mới, như vôi
sống CaO, điphotpho petaoxit P2O5…
1.3.2 Silicagel
Silicagel thực chất là một dạng SiO2 vô định hình, ở dạng hạt cứng và xốp (có vô
số khoang rỗng li ti trong hạt). Công thức hóa học đơn giản của nó là SiO2.nH2O
(n<2).
Những hạt silicagel có đường kính từ 1-5mm, được đóng thành những gói nhỏ
như gói trà lọc để tiện bảo quản đồ gia dụng và sản phẩm công nghiệp. Loại hạt này
chủ yếu được sản xuất tại Thượng Hải và Thanh Đảo Trung Quốc. Việt Nam là một
trong nhiều nước nhập khẩu về (thường ở dạng gói đóng bao 25kg), sau đó tùy theo
nhu cầu sử dụng mà đóng thành những bao nhỏ trong các loại giấy in ấn khác nhau.
Silicagel là một chất vô cơ bền, không độc, bảo quản và vận chuyển dễ dàng.
Năm 1861, Graham đã có những nghiên cứu đầu tiên mặc dù những quan sát về
quá trình gel hóa này đã được đề cập sớm hơn. Đến đầu Thế kỷ 20 thì quá trình tổng
hợp sản xuất silicagel lần đầu tiên được đề cập đến trong các báo cáo khoa học là vào
năm 1919 bởi giáo sư Walter A. Patrick. Trong Thế chiến thứ I, silicagel đã được sử
dụng làm chất hấp phụ khí và hơi trong các mặt nạ dưỡng khí. Trong Thế chiến thứ II,
silicagel được sử dụng để làm chất chống ẩm cho các khí tài quân đội, các loại
thuốc… Silicagel còn được sử dụng làm chất xúc tác cho các quá trình sản xuất nhiên
liệu, làm chất độn (SiO2) trong cao su tổng hợp…
Ngày nay, silicagel đã trở thành một loại vật liệu có rất nhiều ứng dụng trong đời
sống cũng như trong công nghiệp. Từ những gói hạt chống ẩm đơn giản cho thực
phẩm, dược phẩm đến các loại vật liệu hấp phụ cao cấp sử dụng trong phòng thí
nghiệm hay công nghiệp; các loại chất mang, chất xúc tác… tất cả đều có thể làm từ
silicagel.
Ở các nước có nền công nghiệp hóa chất mạnh như Ấn Độ, Trung Quốc các
công ty mỗi năm sản xuất hàng triệu tấn sản phẩm bắt nguồn từ silicagel. Cùng với sự
phát triển của khoa học công nghệ, các nghiên cứu về silicagel ngày càng được phát
triển sâu rộng hơn, mở ra nhiều hướng ứng dụng mới trong công ngiệp cũng như trong
đời sống hàng ngày.
Silicagel tồn tại trong tự nhiên là chất rắn, xốp, một dạng vô định hình của SiO2.
Trong phòng thí nghiệm, quá trình gel hóa silica sol làm hình thành silicagel ở dạng
gel axit silicic, làm mất nước nó ta thu được silicagel khô.
Silicagel là một mạng 3 chiều, liên tục của các hạt keo silica. Dung dịch silicat
được axit hóa tạo silic axit. Trong hệ axit silic này, dạng gel thường được cho là hình
thành từ sự gắn kết của các nhóm Si(OH)4 tạo thành các chuỗi siloxan. Trạng thái ban
đầu của quá trình polyme hóa Si(OH)4 có liên quan đến sự hình thành của các hạt
SiO2 mang trên bề mặt các nhóm silanol (SiOH). Các hạt nhỏ riêng rẽ này được gọi
là các mixen. Khi các mixen này va chạm với nhau, các nhóm SiOH trên bề mặt sẽ
tập hợp lại hình thành dạng Si-O-Si. Như vậy có thể coi đơn giản silicagel là mạng
không gian ba chiều của các hạt mixen liên kết với nhau.
Các nhóm silanol (SiOH) có khả năng gắn kết tạo các “cầu” siloxane (=Si-O-
Si=) vì thế bề mặt silicagel hình thành như một tập hợp bao gồm nước (hấp phụ vật
lý), và silic oxit gắn kết với các nhóm hydroxyl.
Dưới tác dụng của nhiệt độ, các phân tử nước bị tách ra tạo cho silicagel cấu trúc
rỗng đặc trưng. Chính nhờ cấu trúc này mà silicagel có khả năng hấp phụ vật lý cao.
Silicagel ở dạng rắn màu trắng, trơ, không độc, bề mặt riêng khá lớn, có lỗ xốp
nhỏ. Độ xốp thay đổi trong giới hạn 20 - 60%, đường kính lỗ xốp khoảng 3 - 10 nm,
bề mặt riêng 200 - 800 m2/g. Thường là khoảng 800m2/g, có thể tưởng tượng một
lượng silicagel cỡ một thìa cà phê có diện tích tiếp xúc cỡ một sân bóng đá. Như đã
nói ở trên các nhóm hydroyxyl ưa nước và silicagel có khả năng hấp phụ hơi ẩm.
Để chỉ thị tình trạng ngậm hơi nước của silicagel, người ta đưa một lượng muối
coban clorua vào trong các mao quản của silicagel. Khi còn khô muối coban clorua sẽ
có màu xanh dương, khi bắt đầu ngậm hơi nước, nó chuyển dần sang màu xanh nhạt,
rồi màu hồng.
Khi silicagel đã ngậm no nước, ta có thể tái sinh một cách đơn giản nó bằng cách
giữ nó ở nhiệt độ khoảng 180oC trong khoảng ba giờ (phụ thuộc vào độ đồng đều
nhiệt độ, bề mặt tiếp xúc…) hoặc cho vào lò vi sóng để chế độ Medium trong khoảng
10 phút cho tới khi nào nó trở về màu xanh dương với các loại có chất chỉ thị coban
clorua.
Một lưu ý khi tái sinh hạt silicagel về dạng khan bằng cách làm nóng đó là, cần
phải làm nguội về nhiệt độ phòng trước khi cho lại bình hút ẩm (thông thường sẽ mất
khoảng 90 phút tùy thuộc vào nhiệt độ bên ngoài), không nên cho trở lại bình khi hạt
còn đang nóng.
So với các vật liệu hút ẩm mạnh khác như H2SO4 đặc, P2O5… thì silicagel hút
ẩm kém hơn nhưng an toàn hơn. Các vật liệu khác thì có thể chảy rữa, tái sinh khó
khăn hơn và giá thành cũng đắt hơn.
1.3.2.6 Các phương pháp điều chế silicagel
Có 2 phương pháp sản xuất silicagel từ tro trấu là: phương pháp nhiệt phân và
phương pháp tách hóa học. Phương pháp nhiệt phân sử dụng nhiệt từ 500 – 1400oC để
nung tro. Phương pháp này đòi hỏi nhiệt độ cao. Phương pháp thứ hai là dùng dung
dịch kiềm để hòa tan silic dioxit và sau đó trung hòa bằng axit để sản xuất ra silicagel.
Phương pháp này có ưu điểm là sử dụng ít năng lượng và chi phí sản xuất thấp, cách
tiến hành tương đối đơn giản ở điều kiện thường [12]. Bên cạnh đó, quá trình này còn
góp phần làm giảm lượng khí thải CO2 trong không khí,do hiện nay natri silicat được
sản xuất từ phản ứng giữa Na2CO3 và SiO2.
Các phản ứng giữa NaOH và SiO2 trong tro trấu có thể xảy ra như sau:
2xNaOH + ySiO2 → xNa2O·ySiO2 + xH2O (1)
Và silica gel có thể được sản xuất bằng cách trung hòa các silicat natri thu được
(xNa2O · ySiO2) như sau.
xNa2O · ySiO2 + xH2SO4 → ySiO2 + xNa2SO4 + xH2O (2)
Tác giả U. Kalapathy [13] đã nghiên cứu ra một phương pháp mới để điều chế
silicagel từ tro trấu đó là: tro trấu cộng với dung dịch NaOH được khuấy ở 100oC
trong 1h để giải thể silica tạo natri silicat. Sau đó thêm vào axit clohidric để giảm pH
về 7 tạo silicagel ướt. Silicagel ướt được rửa hai lần và sấy khô ở 80oC trong khoảng
20 – 24h để tạo ra silicagel dạng bột. Đồng thời U. Kalapathy [14] cũng đã điều chế
silicagel theo một phương pháp khác là: phân tán tro trong nước, điều chỉnh về pH
như mong muốn. Sau đó khuấy trong 2h, lọc lấy dung dịch. Rửa lại bằng nước, tiếp
tục phân tán silicagel trong NaOH 1N. Khuấy gia nhiệt trong 1h, lọc, rửa với nước sôi.
Làm nguội, thêm HCl vào điều chỉnh pH về 7. Ủ để tạo gel trong 18h. Thêm nước,
quay li tâm trong 15 phút với tốc độ quay là 2500 vòng/phút. Loại bỏ phần nổi trên
mặt. Sấy ở 80oC, rửa với nước, tiếp tục sấy ở 80oC thu được silicagel tinh khiết.
Adam et al. [8] tổng hợp nano silica hình cầu từ sinh khối nông nghiệp RH bằng
phương pháp sol-gel. Kết quả thu được các hạt silica có một kích thước trung bình 15-
91 nm.
Jal et al. [10] đã tổng hợp hạt nano silica bằng phương pháp kết tủa, và
nanosilica thu được có kích thước trung bình khoảng 50 nm.
Viện hóa học ở Thái Lan [13] cũng đã tổng hợp thành công silicagel từ tro trấu
bằng cách: thêm NaOH vào tro trấu rồi sau đó làm nóng bằng lò vi sóng. Lọc bằng
giấy lọc, thêm dung dịch axit H2SO4 đến khi pH = 7 và ủ trong 48h. Lọc chân không
để thu được silicagel ướt và rửa bằng nước de-ion hóa. Sau đó sấy khô ở 150oC trong
48h.
STT Tên dụng cụ thí nghiệm STT Tên dụng cụ thí nghiệm
7 Nhiệt kế 15 Giấy đo pH
STT Tên hóa chất Nguồn gốc STT Tên hóa chất Nguồn gốc
Chúng tôi tiến hành điều chế silicagel theo quy trình sau:
- Vỏ trấu đốt thành tro có màu trắng, nếu tro vẫn còn màu đen thì nung ở 700oC
để thu được tro có màu trắng.
- Cân 20g tro sau nung cho vào 200ml dung dịch NaOH 1M.
- Khuấy ở 90oC trong 2h. Lọc bỏ phần không tan, lấy dung dịch.
Giai đoạn 1’: Hấp phụ các chất bẩn trong dung dịch lọc.
- Hòa tan 2g than hoạt tính vào dung dịch lọc thu được.
- Khuấy đều trong 20 phút.
- Lọc bỏ phần không tan, thu lại dung dịch.
- Trung hòa dung dịch lọc ở trên bằng dung dịch HNO3 1N (hoặc HNO3 3N) đến
pH = 7 tạo gel (sền sệt).
- Ủ gel 24h ở nhiệt độ phòng để ổn định gel.
Giai đoạn 3: Rửa silicagel bằng C2H5OH khan
- Sau 24h, phân tán gel trong etanol. Đun ở nhiệt độ 100oC trong 8h.
- Lọc gel bằng phễu lọc Busner.
- Rửa lại nhiều lần bằng C2H5OH khan.
Cách rửa:
- Cho gel sau lọc vào cốc chứa C2H5OH khan, khuấy trong 1h. Sau đó, lọc lấy
gel bỏ phần lỏng. Tiếp tục thực hiện lại thao tác trên khoảng 3-5 lần.
- Lắp hệ thống soxhlet và rửa silicagel bằng n-heptan lỏng trong 8h.
Trong đó:
1: bếp điện
2: bình đựng dung môi n-hexan
3: ống đựng mẫu
4: ống sinh hàn
Cân 26g sản phẩm silicagel vừa điều chế được, chia làm 2 phần: phần 1 và phần
2. Phần 2 được trộn đều với CoCl2.nH2O tinh thể theo tỷ lệ 5% về khối lượng. Sau đó
chia thành các mẫu có khối lượng 1g, 2g, 10g.
Sau 3h m1
Sau 6h m2
Sau 24h m3
Sau 48h m4
Trong đó:
- mx: là khối lượng của các mẫu sau các khoảng thời gian 3h, 6h, 24h, 48h
(tương ứng là các số liệu m1, m2, m3, m4).
- m0: là khối lượng của từng mẫu sau khi sấy 3h.
Từ quy trình tổng quát ở trên thu được các mẫu có ký hiệu như bảng 2.1:
Mẫu điều chế theo giai đoạn 1, giai đoạn 2 (sử dụng dung dịch HNO3 Si1N
1N), giai đoạn 3.
Mẫu được điều chế theo giai đoạn 1, giai đoạn 2 (sử dụng dung dịch Si3N
HNO3 3N), giai đoạn 3.
Mẫu được điều chế theo giai đoạn 1, giai đoạn 1’, giai đoạn 2 (sử Si3NC
dụng dung dịch HNO3 3N), giai đoạn 3.
Mẫu điều chế theo giai đoạn 1, giai đoạn 1’, giai đoạn 2 (sử dụng Si3NC-R
dung dịch HNO3 3N), giai đoạn 3, giai đoạn 4.
Chúng tôi tiến hành khảo sát các yếu tố ảnh hưởng trên từng giai đoạn như sau:
- Ảnh hưởng của nồng độ dung dịch HNO3 trong giai đoạn 2 đối với hai mẫu là
Si1N và Si3N.
- Ảnh hưởng của phương thức rửa trong giai đoạn 4 đối với hai mẫu là Si3N và
Si3N-R.
- Ảnh hưởng của sự có mặt của CoCl2.nH2O trong giai đoạn 5 đối với các mẫu là
Co-Si1N, Co-Si3N, Co-Si3NC, Co-Si3NC-R.
- Tính toán chi phí và chất lượng sản phẩm của từng quy trình nghiên cứu:
Giá thành của từng giai đoạn
Khả năng hút ẩm của từng sản phẩm ứng với từng quy trình.
So sánh sản phẩm điều chế được với sản phẩm thương mại.
nguyên lý sử dụng quá trình hấp phụ – giải hấp phụ vật lý khí nitơ ở nhiệt độ nitơ lỏng
77K. Phương trình BET tổng quát như sau:
𝑃 1 𝐶−1 𝑃
= + ×
𝑉(𝑃0 − 𝑃) 𝑉𝑚 𝐶 𝑉𝑚 − 𝐶 𝑃0
Trong đó:
P là áp suất chất bị hấp phụ ở pha khí.
P0 là áp suất hơi bão hòa
V là thể tích khí hấp phụ ở áp suất tương đối P/P0 tính bằng cm3.
Vm là thể tích khí bị hấp phụ ở lớp thứ nhất tính bằng cm3.
C là hằng số liên quan đến năng lượng hấp phụ đối với lớp bị hấp phụ
đầu tiên hay liên quan đến mức độ tương tác giữa chất hấp phụ và chất
bị hấp phụ.
Phương pháp đồ thị BET đa điểm
1
Xuất phát từ phương trình tổng quát nếu dựng đồ thị phụ thuộc P/P0
P0
V 1
P
thì đường biểu diễn là một đường thẳng có hệ số góc s và hệ số tự do i được tính như
sau:
C 1 1
s (1) i (2)
VmC VmC
Vì vây thể tích lớp hấp phụ đơn phân tử Vm có thể được suy ra từ (1) và (2)
1
Vm (3)
si
Nếu ta cho rằng một phân tử bị hấp phụ có mặt cắt ngang che phủ một diện tích
ACS và Vm là thể tích hấp phụ cực đại ứng với sự che phủ đơn lớp trên toàn bộ 1 gam
chất hấp phụ (khi đó nó có thứ nguyên là cm3/g) thì diện tích bề mặt riêng S (m2/g)
của chất hấp phụ được tính như sau:
Vm
S NACS 1020 (m2/g) (4)
22414
Trong đó:
N = 6,022.1023 là số Avogadro.
22414 là thể tích chiếm bởi 1 mol phân tử chất bị hấp phụ (cm3).
Nitơ là một trong những chất hấp phụ được sử dụng rộng rãi nhất để xác định
diện tích bề mặt và nó có ACS = 16,2 (Ao). Nếu đại lượng hấp phụ tính bằng gam (Wm)
thì diện tích bề mặt riêng được tính theo công thức như sau:
Wm
S NACS 1020 (m2/g) (5)
M
M là khối lượng mol phân tử của chất bị hấp phụ.
Phương pháp BET đơn điểm
Thông thường việc xác định diện tích bề mặt được đơn giản hóa bằng cách chỉ
sử dụng một điểm trên đường hấp phụ đẳng nhiệt ở vùng tuyến tính của đồ thị BET.
Chẳng hạn với chất hấp phụ Nitơ có hằng số C đủ lớn để có thể chấp nhận hệ số tự do
i = 0. Khi đó phương trình BET trở thành :
P
Vm V 1 (6)
P0
Bằng cách tính lượng nitơ đã bị hấp phụ V ở một giá trị áp suất tương đối nào
đó (tốt nhất là ở gần giá trị P/P0 = 0,2 đến 0,3), ta có thể tính Vm nhờ phương trình (6).
Diện tích bề mặt riêng được rút ra từ phương trình (4) và (6) :
Vm P 20
S NACS 1 .10 (m2/g) (7)
22414 P0
Khí nitơ là khí được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu hấp phụ nói chung và
trong việc xác định sự phân bố kích cỡ mao quản nói riêng. Đường cong phân bố thể
tích lỗ xốp được xác định khi giả thiết các mao quản đêu có dạng hình trụ, khi đó bán
kính mao quản được tính theo phương trình Kelvin:
2 Vm 4,15
rk
P P
RT ln log
P0 P0
Trong đó:
: Sức căng bề mặt của nitơ ở nhiệt độ sôi của nó (8,85 erg.cm-2)
Thay các hằng số vào để tính toán, biểu thức trên được rút gọn thành:
4,15
rk
P
log
P0
Bán kính Kelvin rk là bán kính lỗ xốp tính được khi sự ngưng tụ xuất hiện tại áp
suất tương đối P/P0. Vì trước khi ngưng tụ, một số quá trình hấp phụ đã xảy ra trên
thành mao quản, nên rk không phải là bán kính thực của lỗ xốp. Ngược lại, trong suốt
quá trình giải hấp phụ, lớp bị hấp phụ vẫn được duy trì trên thành mao quản. Vì vậy
bán kính thực rp được đưa ra như sau:
rp rk t
Giá trị t được tính theo phương pháp Boer và được đưa ra trong biểu thức:
1/2
13,99
t( A )
0
log( P0 / P) 0,034
Trong đề tài này, chúng tôi tiến hành đo BET, lỗ xốp tại Viện Công nghệ Hóa
học (Địa chỉ: 1 Mạc Đĩnh Chi, phường Bến Nghé, quận 1, TP.HCM).
75 72,48
70
Diện tích bề mặt riêng (%)
65
60
55
50
45
40
35 30,086
30
25
20
15
10
5
0
Si1N Si3N
Như vậy khi tăng nồng độ dung dịch HNO3 từ 1N đến 3N thì sản phẩm thu được
có diện tích bề mặt riêng tăng gấp 2 lần. Vai trò của dung dịch HNO3 là kết tủa SiO2
từ dung dịch Na2SiO3 theo các phản ứng sau:
Hình 3.2 biểu diễn sự hình thành gel sau khi thêm dung dịch HNO3 có nồng độ
khác nhau vào dung dịch Na2SiO3 (Na2SiO3 được tạo thành khi khuấy tro với dung
dịch NaOH 1M trong 2h ở giai đoạn 1).
Hình 3.2a Gel tạo bởi dung dịch Hình 3.2b Gel tạo bởi dung dịch
HNO3 1N HNO3 3N
Hình 3.2a và hình 3.2b cho thấy gel tạo thành khi sử dụng dung dịch HNO3 3N
có màu nhạt hơn so với gel được tạo thành khi sử dụng dung dịch HNO3 1N. Ngoài ra,
khối lượng của silicagel điều chế được từ dung dịch HNO3 1N là 73,5084g; khối
lượng silicagel thu được khi sử dụng dung dịch HNO3 3N là 65,9742g. Vì nồng độ
của dung dịch HNO3 cao sẽ hòa tan một số tạp chất có trong dung dịch.
Hình 3.3 biểu diễn kết quả khảo sát khả năng hút ẩm của hai mẫu Si1N và Si3N
40 37,82
Hàm lượng nước hấp phụ (%)
35
30
25
20 18,37
15
10
Si1N Si3N
Hình 3.3 cho thấy khi tăng nồng độ axit nitric từ 1N lên 3N, sản phẩm thu được
có diện tích bề mặt riêng tăng, đồng thời khả năng hút ẩm cũng tăng từ 18,37% lên
37,82%.
Vậy khi tăng nồng độ của dung dịch HNO3 từ 1N lên 3N thì diện tích bề mặt
riêng tăng lên nhưng khối lượng sản phẩm giảm. Vì mục tiêu là khảo sát tính hấp phụ
của silicagel nên chúng ta cần sản phẩm có diện tích bề mặt riêng lớn.
3.2 Ảnh hưởng của sự có mặt cacbon hoạt tính trong giai đoạn 1’
Khi thêm than hoạt tính vào dung dịch thu được từ phản ứng của tro với dung
dịch NaOH 1M, rồi khuấy trong 20 phút ở nhiệt độ phòng. Sau đó thêm dung dịch
HNO3 3N ta thu được sản phẩm silicagel là Si3NC. Hình 3.4 biểu diễn sự hình thành
gel từ dung dịch HNO3 có nồng độ khác nhau và dung dịch Na2SiO3 (dung dịch thu
được khi khuấy tro với dung dịch NaOH 1M trong 2h).
Hình 3.4a Gel tạo bởi dung dịch Hình 3.4b Gel tạo bởi dung dịch
HNO3 3N HNO3 3N có thêm than hoạt tính
Hình 3.4a và hình 3.4b cho thấy trường hợp sử dụng than hoạt tính trước khi tạo
gel bằng dung dịch HNO3 thì thu được gel có màu sáng hơn khi tạo gel bằng dung
dịch HNO3 không có sử dụng than hoạt tính. Kết quả phân tích diện tích bề mặt riêng
của mẫu Si3N và Si3NC được trình bày ở hình 3.5
150 146,512
140
Si3N Si3NC
Hình 3.5 cho thấy mẫu Si3NC có diện tích bề mặt riêng lớn gấp 2 lần so với mẫu
Si3N. Đây chính là hiệu quả của quá trình hấp phụ các chất bẩn, các chất hữu cơ có
nguồn gốc từ tro bằng than hoạt tính trong giai đoạn 1’.
Hình 3.6 trình bày kết quả đo độ hút ẩm của hai mẫu Si1N và Si3NC
50 48,41
Hàm lượng nước hấp phụ (%)
45
40 37,82
35
30
25
20
15
10
5
0
Si3N Si3NC
Từ hình 3.6 ta thấy, độ hút ẩm của mẫu Si3NC cao hơn độ hút ẩm của mẫu
Si3N. Kết quả này phù hợp với kết quả đo diện tích bề mặt riêng của hai mẫu đã trình
bày ở trên.
Khi điều chế cùng lượng nguyên liệu thì khối lượng sản phẩm Si3N thu được là
65,9742g và khối lượng sản phẩm Si3NC thu được là 58,5429g. Vậy sản phẩm của
mẫu Si3N tức là mẫu không có khuấy với than hoạt tính có khối lượng lớn hơn. Điều
này có thể được giải thích là do than hoạt tính đã hấp phụ các chất bẩn trong dung
dịch làm khối lượng của mẫu Si3NC giảm xuống.
3.3 Ảnh hưởng của phương thức rửa mẫu trong giai đoạn 4
So sánh kết quả đo diện tích bề mặt riêng và khả năng hút ẩm của mẫu Si3NC và
Si3NC-R (mẫu có rửa bằng hệ thống soxhlet) ta thu được kết quả như sau:
220 215,463 53
52,15
Diện tích bề mặt riêng
200
Hàm lượng nước hấp
180 52
160 146,512 51
140
phụ (%)
(m2/g)
120 50
100 49 48,41
80
60 48
40
47
20
0 46
Từ hình 3.7a và 3.7b ta thấy, diện tích bề mặt riêng của mẫu có rửa bằng hệ
thống soxhlet (Si3NC-R) lớn hơn mẫu không rửa bằng hệ thống soxhlet (Si3NC).
Đồng thời độ hút ẩm của mẫu Si3NC-R lớn hơn mẫu Si3NC.
3.4 Ảnh hưởng của chất nhận diện (CoCl2.nH2O) trong giai đoạn
5
Kết quả khảo sát độ hút ẩm của các mẫu Co-Si1N, Co-Si3N, Co-Si3NC, Co-
Si3NC-R được thể hiện qua hình 3.8
60 55,67
Hàm lượng nước hấp phụ (%)
51,82
50 45,23
40
30
20,9
20
10
Hình 3.8 cho thấy, khi có thêm chất nhận diện là CoCl2.nH2O, hàm lượng nước
hấp phụ ở các mẫu đều tăng lên so với khi không có CoCl2.nH2O. Vì CoCl2.nH2O
cũng là một chất hút ẩm mạnh nên làm tăng hàm lượng nước hấp phụ của các mẫu.
3.5 Chi phí và chất lượng của các mẫu điều chế được
Mẫu được điều chế theo quy trình 1 (Si1N): khuấy 20g tro với 200ml NaOH 1M
trong 2h. Lọc lấy dung dịch, trung hòa bằng dung dịch HNO3 1N để tạo gel. Ủ gel
trong 24h. Phân tán gel trong C2H5OH khan, đun trong 8h. Lọc rửa gel thu được bằng
dung dịch C2H5OH khan.
Mẫu được điều chế theo quy trình 2 (Si3N): khuấy 20g tro với 200ml NaOH 1M
trong 2h. Lọc lấy dung dịch, trung hòa bằng dung dịch HNO3 3N để tạo gel. Ủ gel
trong 24h. Phân tán gel trong C2H5OH khan, đun trong 8h. Lọc rửa gel thu được bằng
C2H5OH khan.
Vậy 1kg sản phẩm được điều chế theo quy trình 2 có giá là 539.756 vnđ
Mẫu được điều chế theo quy trình 3 (Si3NC): khuấy 20g tro với 200ml NaOH
1M trong 2h. Lọc lấy dung dịch, khuấy với 2g than hoạt tính trong 20 phút. Lọc lấy
dung dịch, trung hòa bằng dung dịch HNO3 3N để tạo gel. Ủ gel trong 24h. Phân tán
gel trong C2H5OH khan, đun trong 8h. Lọc rửa gel thu được bằng dung dịch C2H5OH
khan.
Vậy 1kg sản phẩm được điều chế theo quy trình 3 có giá là 641.126đ
Mẫu được điều chế theo quy trình 4 (Si3NC-R): khuấy 20g tro với 200ml NaOH
1M trong 2h. Lọc lấy dung dịch, khuấy với 2g than hoạt tính trong 20 phút. Lọc lấy
dung dịch, trung hòa bằng dung dịch HNO3 3N để tạo gel. Ủ gel trong 24h. Phân tán
gel trong C2H5OH khan, đun trong 8h. Lọc rửa gel thu được bằng dung dịch C2H5OH
khan. Lắp hệ thống soxhlet và rửa gel với n-heptan trong 8h.
Vậy 1kg sản phẩm được điều chế theo quy trình 4 có giá 1.042.744 vnđ
3.6 Khảo sát chất lượng của mẫu silicagel điều chế được với mẫu
silicagel trên thị trường
60 55,67
Hàm lượng nước hấp phụ (%)
48,41
50
41,09
40 37,82
30
18,37
20
10
Từ hình 3.9 ta thấy độ hút ẩm của các mẫu Si3NC và Si3NC-R lớn hơn độ hút
ẩm của mẫu silicagel trên thị trường. Vậy mẫu điều chế được có hoạt tính khá tốt có
thể ứng dụng làm vật liệu hút ẩm, nhưng giá thành của mẫu cao hơn gấp 10 lần so với
mẫu bán trên thị trường.
- Đã hoàn thành mục tiêu đề tài là điều chế silicagel từ tro trấu.
- Hoạt tính hút ẩm của silicagel tăng khi được tạo gel từ dung dịch lọc có khuấy
với than hoạt tính, trung hòa bằng axit nitric có nồng độ 3N và có rửa sản phẩm
bằng hệ thống soxlet, đồng thời mẫu này cũng có hoạt tính tốt hơn silicagel bán
trên thị trường. Vậy nên điều chế silicagel từ nguồn nguyên liệu đầu là tro trấu
theo quy trình này để thu được sản phẩm có hoạt tính tốt.
Trong giới hạn nội dung và thời gian của đề tài khóa luận tốt nghiệp đại học, chúng tôi
chỉ dừng lại ở việc điều chế silicagel và khảo sát hoạt tính hút ẩm của vật liệu được
tạo thành. Để nghiên cứu sâu hơn và phát huy tiềm năng của đề tài nghiên cứu này,
chúng tôi đề xuất hướng nghiên cứu tiếp theo là:
- Nghiên cứu tìm ra biện pháp hạ giá thành của sản phẩm silicagel mà vẫn giữ
được hoạt tính tốt của sản phẩm.
Phụ lục