Professional Documents
Culture Documents
Chương 7 - Other Instruments
Chương 7 - Other Instruments
1. RECORDERS
1.1. Chức năng của Recorders
Dựa vào thời gian
Ứng dụng phổ biến nhất của recorder là để ghi lại trạng thái của biến quá trình theo thời gian. Khi bạn
nhìn vào một đồng hồ đo hoặc một thiết bị chỉ thị, bạn chỉ thấy thông tin về biến quá trình tại thời
điểm hiện tại, nó không cho bạn biết điều gì về biến quá trình cách đó một phút, một giờ thậm chí một
giây. Trong nhiều trường hợp, cần thiết phải biết giá trị của biến cần đo trong một khoảng thời gian
dài. Ví dụ:
Khi xử lý sự cố một quá trình bị hỏng hóc, nó rất hữu ích cho bạn khi muốn nhìn lại giá trị của
biến quá trình trong khoảng thời gian trước đó để xác định nguyên nhân.
Các luật về môi trường thường yêu cầu một hồ sơ về lưu lượng hoặc dữ liệu của dòng xả phải
luôn sẵn sàng khi có yêu cầu.
Các chương trình bảo đảm chất lượng có thể đòi hỏi một hồ sơ theo dõi một số biến quá trình
hoặc các điều kiện dự trữ để xác nhận một sản phẩm nằm trong các giới hạn đặc tính kỹ thuật.
Tốc độ vẽ đồ thị
Giấy vẽ phải chạy với tốc độ bao nhiêu khi ghi dữ liệu sẽ ảnh hưởng như thế nào đến hình dạng của
đồ thị kết quả chỉ thị giá trị của biến quá trình. Cùng dữ liệu như thế, đồ thị có thể trông khác tùy
thuộc vào tốc độ của thiết bị ghi. Hình 7.1 trình bày hai đồ thị được vẽ với cùng tín hiệu quá trình
trong cùng một khoảng thời gian.
Hình 7.1
Hình 7.2
Trong phần còn lại của mục này, chúng ta sẽ tìm hiểu một số loại thiết bị ghi phổ biến mà chúng sử
dụng các phương tiện sau đây để hiển thị và ghi nhận thông tin: giấy cuộn vẽ đồ thị, giấy vẽ đồ thị
dạng đĩa tròn, màn hình hiển thị số và màn hình máy tính.
Hình 7.3
Hình 7.4
Thiết bị ghi này sử dụng giấy với thang đo từ 0 đến 100%. Ngõ vào là tín hiệu mức. Với ví dụ này,
transmitter gởi tín hiệu đã được hiệu chuẩn như sau:
4 mA tương ứng với 0% hoặc mức trong bồn là 0 feet.
20 mA tương ứng với 100% hoặc mức trong bồn là 20 feet.
Đường mực trên đồ thị di chuyển quanh đường 50%, chỉ thị rằng mức trong bồn được duy trì
ở giá trị khoảng ½ thang đo hoặc 10 feets. Giấy vẽ này đã được in trước giá trị của trục thời
gian dọc theo phía trái của nó. Nó được thiết kế để di chuyển ở tốc độ 4 inchs một giờ. Nếu
đường vẽ tốt, các đánh dấu về thời gian sẽ được thực hiện cùng với đường đồ thị khi vẽ.
Thiết bị vẽ đồ thị dạng tròn
Thiết bị vẽ đồ thị dạng tròn sử dụng một đĩa giấy tròn trên đó đã chứa thang đo đã được hiệu chuẩn.
Giấy sẽ hoàn thành một vòng quay dưới cây viết trong một khoảng thời gian, thường là 24 giờ. Thiết
bị ghi trong ví dụ hình 7.5 có hai cây viết ghi để ghi lại giá trị của hai biến khác nhau, và giấy được
thiết kế để ghi lại sự thay đổi của nhiệt độ trong vòng 24 giờ. Thiết bị đặc biệt này cũng có màn hình
hiển thị số giá trị hiện hành của một trong hai tín hiệu vào theo thang độ F. Các dụng cụ kiểu này sẽ
có một chuyển mạch để cho phép bạn hiển thị qua lại giữa hai giá trị ngõ vào.
Hình 7.5
Hình 7.6 trình bày chi tiết hơn loại giấy vẽ đồ thị được sử dụng trong hình 7.5. Chú ý rằng trục thời
gian được vẽ cong bởi vì bút ghi cũng vẽ theo dạng cung tròn. Trục thời gian được vẽ cong để phù
hợp với hoạt động của bút ghi để mà tại bất kỳ vị trí nào giữa 0 và 100 cũng sẽ cùng giá trị thời gian
nếu như đồ thị không di chuyển và cây viết di chuyển từ 0 đến 100. Trên giấy này, đường sọc màu
đen đậm dọc rìa của đĩa giấy chỉ thị các giờ ban đêm.
Điều quan trọng là giấy vẽ phải phù hợp với thiết bị ghi. Đường kính giấy và trục thời gian phải phù
hợp đặc tính kỹ thuật của thiết bị ghi. Cũng như thiết bị ghi sử dụng giấy cuộn, thiết bị ghi sử dụng
giấy dạng đĩa tròn có các tốc độ khác nhau. Một số thiết bị ghi có thể được thiết lập mỗi vòng quay là
24 giờ như trong hình 7.5. Số khác có thể được cài đặt mỗi vòng quay là 8 giờ, trong một tuần hoặc
thậm chí trong một tháng. Việc lựa chọn tốc độ ghi dữ liệu phụ thuộc vào tốc độ thay đổi hay chu kỳ
của dữ liệu. Giấy vẽ trong hình 7.6 được thiết kế quay theo chiều kim đồng hồ và có thang đo tuyến
tính. Hình 7.7 thì thiết kế quay theo chiều ngược lại và có thang đo căn bậc hai.
Hình 7.6
Hình 7.7
Các thiết bị ghi chúng ta đã thảo luận đều nhận tín hiệu vào là 4-20mA hoặc dùng tín hiệu điện để
điều khiển bút vẽ. Một số loại thiết bị ghi có giấy vẽ được điều khiển bởi động cơ điện như sử dụng
tín hiệu khí nén để đi chuyển bút vẽ như được trình bày trong hình 7.8.
Hình 7.8
Thông thường, giấy vẽ đồ thị được in trước có thể sử dụng được cho hầu hết các thiết bị ghi, nhưng
một số khác, cả loại sử dụng giấy cuộn và giấy dạng đĩa tròn, in đồ thị của nó trên vẽ trắng. Ưu điểm
của các thiết bị loại này là chúng có thể được cài đặt để in một đồ thị tương thích với dải đo của biến
quá trình. Giấy giống như thế có thể được sử dụng cho tất cả các đơn vị đo. Một số loại sử dụng giấy
nhiệt với đầu in bằng nhiệt; số khác sử dụng giấy trơn với đầu in phun mực.
1.3. Màn hình điện tử
Các loại thiết bị ghi khác có màn hình hiển thị điện tử. Các loại này sử dụng màn hình tinh thể lỏng
hoặc màn hình video để hiển thị tất cả thông tin mà một thiết bị ghi bình thường có thể hiển thị. Trạng
thái của biến quá trình theo thời gian được lưu trữ trên băng từ kỹ thuật số hoặc trên bộ nhớ điện tử.
Thường loại này hiển thị ngõ vào hiện tại và khoảng thời gian là giờ hoặc phút đã được chọn trước.
Hình 7.9
1.4. Thiết bị ghi bằng máy tính
Các máy tính thường được sử dụng để hiển thị các biến quá trình thay cho các thiết bị vẽ đồ thị. Màn
hình máy tính có thể hiển thị một biến được đo theo thời gian giống như một thiết bị ghi. Thường,
phần mềm máy tính cũng có thể cho phép thiết bị ghi:
Hiển thị thông tin phụ trợ như các giới hạn hoạt động trên cùng biểu đồ.
Thao tác trên dữ liệu và hiển thị dữ liệu dưới dạng khác ví dụ như dạng thanh.
Hiển thị các biến quá trình khác nhau khi lựa chọn bằng bàn phím.
Hình 7.10
Hình 7.11
Phần tử điều khiển cuối tiêu biểu có hai phần:
Một actuator có nhiệm vụ chuyển đổi tín hiệu vào thành một tác động
Một thiết bị thực hiện tác động làm ảnh hưởng đến giá trị của biến thao tác
Ví dụ, một màng chắn khí nén thường là một actuator trong van; van là phần tử sẽ tác động đến dòng
chất lỏng.
Hình 7.12
2.2. Actuators
Van được điều khiển bằng khí nén là loại phần tử điều khiển cuối phổ biến nhất. Actuator có thể sử
dụng kiểu thiết kế màng ngăn hoặc piston. Sự chuyển động của màng ngăn hoặc piston sẽ quyết định
vị trí của ty van. Vị trí của ty van sẽ quyết định độ mở của van.
Nhiều yếu tố ảnh hưởng đến vị trí của ty van và phải được tính tới để lựa chọn van thích hợp để lắp
đặt cho quá trình. Van được thiết kế để hoạt động trong một dải nhiệt độ, vật liệu quá trình và áp suất
hoạt động xác định. Điều quan trọng là các điều kiện hoạt động phải được duy trì trong giới hạn cho
phép.
Trong hình 7.13, lò xo của actuator được điều chỉnh như sau:
Nếu ngõ ra của bộ điều khiển là 15 psi, van sẽ đóng hoàn toàn.
Nếu ngõ ra của bộ điều khiển là 3 psi, van mở hoàn toàn.
Hình 7.13
Hình 3.54 trình bày một thiết kế kiểu màng chắn mà van sẽ đóng khi mất khí, hoặc có khí sẽ mở hoặc
lò xo có xu hướng làm van đóng. Khí cấp sẽ áp vào đáy của màng chắn chống lại lực đẩy của lò xo.
Khi áp suất khí tăng, màng chắn bị đẩy lên phía trên, lò xo bị nén, ty van bị đẩy lên, và van được mở.
Trong hình 3.54, lò xo của van được điều chỉnh như sau:
Nếu ngõ ra của bộ điều khiển là 15 psi, van được mở hoàn toàn
Nếu ngõ ra của bộ điều khiển là 3 psi, van được đóng hoàn toàn
Hình 7.14
Khi một bộ điều khiển cung cấp một tín hiệu đến actuator của van, nhiều khi van tự nó không định vị
được chính xác tại giá trị mong muốn thậm chí nó đã được hiệu chuẩn để mở ở 15 psi và đóng ở 3 psi.
Các yếu tố như ma sát trong actuator, vỏ của van, hoặc lực đẩy của chất lỏng quá trình tác động ngược
lên van có thể gây ra một sự khác biệt. Ví dụ, ngõ ra bộ điều khiển là 9 psi (50% thang đo), van có thể
hơn hoặc ít hơn 50%.
Positioner được sử dụng để bù những ảnh hưởng này và tự động hiệu chỉnh áp suất khí để độ mở của
van phù hợp với tín hiệu ra từ bộ điều khiển. Một positioner hoạt động giống như một vòng điều
khiển; nó cảm nhận vị trí thực tế của van và điều chỉnh tín hiệu khí đến màng chắn để vị trí van thực
tế tương ứng với ngõ ra bộ điều khiển.
Hình 7.15 trình bày sơ đồ của một vòng điều khiển sử dụng một van điều khiển kiểu khí nén cùng với
positioner:
1. Tín hiệu ra của bộ điều khiển nhiệt độ được đưa tới positioner và làm setpoint cho positioner
này.
2. Liên kết cơ khí tới ty van là ngõ vào biến đo lường đến positioner.
3. Khi vị trí của ty van không đồng ý với tín hiệu vào từ bộ điều khiển, positioner sẽ điều chỉnh
khí đến màng chắn của actuator.
Nhiệt độ của nước trong bồn đang được điều khiển bởi sự thay đổi của dòng nước lạnh vào bồn qua
van khí nén. Van này được trang bị một positioner. Positioner sẽ có khí cấp bổ sung cho riêng nó.
Hình 7.15
Positioner sẽ có một nguồn khí cấp 20 psi hoặc lớn hơn để khuếch đại tín hiệu đến actuator. Với một
số van, ngõ ra từ positioner có thể là 100 psi hoặc lớn hơn, cho phép màng chắn đặt lực lớn hơn lên ty
van so với tín hiệu 3-15 psi. Actuator phải luôn luôn được thiết kế để chấp nhận ngõ ra áp suất lớn
nhất dựa vào áp suất khí cấp.
Hình 7.16 trình bày một van điều khiển với một positioner. Actuator sử dụng một pistion thay vì một
màng chắn. Positioner chấp nhận một ngõ và 3 – 15 psi từ một bộ điều khiển; sau đó nó được cộng
thêm một lượng từ áp suất khí của nhà máy cần thiết để đưa piston đến vị trí tương ứng với tín hiệu
của bộ điều khiển.
Van này có một lò xo áp lên piston và sử dụng áp suất khí để mở van. Van này sẽ ở vị trí đóng khi mất
khí.
Hình 7.16
Hình 7.17 trình bày một van piston hành trình kép với một positoner. Van hành trình kép luôn luôn
đòi hỏi một positioner bởi vì không có lực tác động ngược của lò xo đối với áp suất khí để hiệu chỉnh
vị trí của van. Trong van này, có hai ngõ vào đến xy lanh chứa piston - một để đưa khí phía trên piston
và một để đưa khí vào phía dưới của pistion. Van sẽ:
Mở khi áp suất khí từ ngõ 1 lớn hơn áp suất khí từ ngõ 2
Đóng khi áp suất khí từ ngõ 2 lớn hơn áp suất khí từ ngõ 1
Không di chuyển khi lực do khí từ ngõ 1 và ngõ 2 bằng nhau.
Hình 7.17
Nhiệm vụ của positoner là giữ cho piston nằm ở vị trí đúng bằng vị trí được chỉ thị bởi tín hiệu ra của
bộ điều khiển. Áp suất phía trên và phía dưới piston phải được duy trì xấp xỉ bằng nhau để piston nằm
ở đúng vị trí mong muốn. Ví dụ, nếu lực của dòng chất lỏng đi qua thân van áp xuống ty van một lực,
áp suất khí phía dưới piston phải đủ lớn hơn áp suất phía trên piston để thắng lực cộng thêm này.
Chú ý 4 đồng hồ áp suất trong hình 7.17 và bộ chỉ thị vị trí van. Bởi vì van hành trình kép không có lò
xo, nó không có trường hợp đóng lại hay mở ra khi bị lỗi. Nếu áp suất khí mất, nó thường nằm ở vị trí
cuối cùng trước khi lỗi xảy ra. Một số positioner gắn kèm với van sẽ điều khiển đóng cả hai ngõ cấp
khí cho piston, giữ cho van duy trì ở vị trí cuối cùng nếu áp suất khí bị lỗi (mất).
Actuator piston thủy lực
Trên các đường ống công nghệ áp suất cao, một actuator khí nén không thể tạo đủ lực để mở và đóng
van điều khiển. Trong các trường hợp này, các actuator piston được điều khiển bằng thủy lực được sử
dụng. Trong điều kiện này, actuator làm việc theo phương thức giống như đối với van hành trình kép
trong hình 7.17, ngoại trừ khí điều khiển piston được thay bằng thủy lực. Tùy thuộc vào loại van và
nhà chế tạo, actuator tự nó có thể có bơm thủy lực và bình chứa hoặc sử dụng nguồn thủy lực bên
ngoài. Khi piston di chuyển, thủy lực được thêm vào một phía và lấy bớt phía còn lại. Thủy lực rời xy
lanh đi ngược về bình chứa để sẵn sàng cung cấp cho bơm.
Hình 7.18
Actuator kiểu động cơ
Các van điều khiển có thể có actuator được vận hành bằng động cơ với hai loại ngõ vào:
Tín hiệu ra từ bộ điều khiển là 4-20mA hoặc 3-15 psi
Năng lượng cấp cho động cơ và các mạch điện tử để cho phép positioner đảo chiều động cơ
để tăng hoặc giảm độ mở của van
Các mạch điện tử được sử dụng để chuyển đổi tín hiệu ra từ bộ điều khiển thành sự chuyển động của
động cơ đôi khi được gọi là bộ khuếch đại phụ (servo amplifier). Mạch điện này có thể được bọc kín
trong vỏ của actuator hoặc trong một vỏ riêng biệt.
Hình 7.20
2.3. Đặc tính làm việc
Việc lắp đặt một van điều khiển để nó có được đặc tính làm việc đúng là rất quan trọng đối với chức
năng của một vòng điều khiển chính xác. Một cách lý tưởng, sự dịch chuyển của ty van và lưu lượng
tỷ lệ thuận với nhau. Ví dụ, khi van mở một nửa, lưu lượng sẽ bằng một nữa giá trị của lưu lượng ứng
Hình 7.21
Hầu hết các van điều khiển được thiết kế có đặc tính lưu lượng tuyến tính, lưu lượng tỷ lệ phần trăm
bằng nhau hoặc đặc tính mở nhanh.
Van lưu lượng tuyến tính là dạng được sử dụng phổ biến nhất. Với loại van này, chốt van chuyển
động theo những nấc bằng nhau làm cho lưu lượng thay đổi những lượng bằng nhau khi một áp suất
không đổi đặt lên van. Ví dụ, nếu lưu lượng lớn nhất là 100 gpm, lưu lượng khi van mở 50% là 50
gpm; tại 25%, lưu lượng sẽ là 25 gpm.
Với một van loại lưu lượng tỷ lệ phần trăm bằng nhau, chốt van chuyển động theo những nấc bằng
nhau làm cho lưu lượng thay đổi những lượng phần trăm bằng nhau khi một giá trí áp suất không đổi
đặt lên van. Ví dụ, xem xét một van loại tỷ lệ phần trăm bằng nhau với thông số mỗi khi van di
chuyển 1% thì lưu lượng tăng 4%. Nếu lưu lượng là 20 gpm và van mở 1%, lưu lượng sẽ tăng một
lượng là 0,8 gpm (4% của 20 gmp) thành 20,8 gmp. Tuy nhiên, chú ý điều gì xảy ra khi van gần đến
vị trí mở hoàn toàn và lưu lượng bây giờ là 80 gpm. Nếu ty van di chuyển một lượng cộng thêm là 1%
tại vị trí này, lưu lượng sẽ tăng thêm 3,2 gpm (4% của 80 gmp) thành 83,2 gpm.
Với loại van tỷ lệ phần trăm bằng nhau, phần trăm gia tăng vẫn là hằng số (trong ví dụ này là 4%),
nhưng mức độ tăng của lưu lượng trở nên lớn hơn khi ty van di chuyển về hướng mở van. Một giá trị
phần trăm không đổi của một số lớn hơn thì lớn hơn cùng một giá trị phần trăm như thế của một số
nhỏ hơn.
Các van điều khiển với đặc tính mở nhanh là loại ít phổ biến nhất trong 3 loại vừa nêu. Loại này được
sử dụng khi cần tăng nhanh lưu lượng kể từ lúc van được mở từ vị trí đóng. Loại van này đạt được
khoảng 70% lưu lượng lớn nhất khi ty van ở vị trí 40% hành trình.
Hình 7.22
Một số van được thiết kế chỉ hoạt động ở trạng thái on-off. Hình 7.23 trình bày một van được vận
hành bằng một solenoid. Khi dòng điện được đưa đến cuộn dây (vị trí on), từ trường được tạo ra. Từ
trường này đủ mạnh để thắng lực lò xo và kéo phần lõi vào tâm của cuộn dây, nâng chốt van lên.
Hình 7.23
Hình 7.24