Professional Documents
Culture Documents
b. Cương lĩnh thứ hai - Luận cương chánh trị của Đảng Cộng sản Đông
Dương
Tháng 10/1930, sau 8 tháng Đảng ra đời, Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp
hành Trung ương lâm thời có ý nghĩa như một Đại hội cũng tổ chức tại
Hương Cảng do điều kiện trong nước bị đế quốc đàn áp khủng bố gắt gao
phong trào cách mạng. Hội nghị (họp từ ngày 14/10 đến 31/10/1930) thông
qua bản Luận cương chánh trị, án nghị quyết của Trung ương toàn thể Đại
hội nói về tình hình hiện tại ở Đông Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng,
Điều lệ Đảng, hợp thành nội dung Cương lĩnh thứ hai của Đảng.
Luận cương xác định những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam:
Về mâu thuẫn giai cấp ở Đông Dương: một bên là thợ thuyền, dân cày
và các phần tử lao khổ với một bên là địa chủ, phong kiến, tư bản và
đế quốc chủ nghĩa.
Tính chất của cách mạng Đông Dương: lúc đầu “là một cuộc cách
mạng tư sản dân quyền… có tính chất thổ địa và phản đế” sau đó phát
triển bỏ qua thời kỳ tư bản tiến thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa.
Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền: đánh đổ các di tích phong
kiến để thực hành thổ địa cách nạng triệt để và đánh đổ đế quốc làm
cho Đông Dương hoàn toàn độc lập.
Hai nhiệm vụ này có quan hệ khăng khít với nhau, trong đó “Vấn đề
thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền”.
Về lực lượng cách mạng: trong cuộc cách mạng tư sản dân quyền, vô
sản giai cấp và nông dân là hai động lực chính, nhưng vô sản có cầm
quyền lãnh đạo thì cách mạng mới thắng lợi được.
Về phương pháp cách mạng: Luận cương nhấn mạnh sự cần thiết phải
sử dụng bạo lực cách mạng: “võ trang bạo động”.
Về vai trò lãnh đạo của Đảng: “Điều cốt yếu cho sự thắng lợi của
cách mạng Đông Dương là cần phải có một Đảng Cộng sản có một
đường lối chánh trị đúng, có kỷ luật, tập trung, mật thiết liên lạc với
quần chúng và từng trải đấu tranh mà trưởng thành. Đảng là đội tiên
phong của giai cấp vô sản, lấy chủ nghĩa Các Mác và Lênin làm gốc”.
Về mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới:
Luận cương chính trị nhấn mạnh: vô sản Đông Dương phải liên lạc
mật thiết với vô sản thế giới, nhất là vô sản Pháp, với quần chúng cách
mạng ở các nước thuộc địa, bán thuộc địa, nhất là Trung Quốc và Ấn
Độ. Cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng vô sản
thế giới.
Mâu thuẫn
Mâu thuẫn dân tộc. Không chỉ ra
chủ yếu
Nhiệm vụ Đánh đổ đế quốc Pháp, Đánh phong kiến và đánh đế quốc là
phong kiến và tư sản phản
hai nhiệm vụ có quan hệ khăng khít.
cách mạng.
Làm cho Việt Nam độc lập,
thành lập chính phủ công-
nông. Làm cho Đông Dương độc lập, chính
Mục tiêu Tịch thu sản nghiệp của đế phủ công-nông, tiến hành cách mạng
quốc và tư sản phản cách ruộng đất triệt để.
mạng chia cho dân nghèo.
Tuy nhiên, Luận cương cũng có những mặt hạn chế nhất định: Sử dụng một cách
dập khuôn máy móc chủ nghĩa Mác-Lênin vào cách mạng Việt Nam, còn quá nhấn
mạnh đấu tranh giai cấp. Còn Cương lĩnh chính trị tuy còn sơ lược vắn tắt nhưng
nó đã vạch ra phương hương cơ bản của cách mạng nước ta, phát triển từ cách
mạng giải phóng dân tộc tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh thể hiện
sự vận dụng đúng đắn sáng tạo, nhạy bén chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ
thể của Việt Nam kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế
vô sản, giữa tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản và thực tiễn cách mạng Việt Nam, nó
phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới, đáp ứng yêu cầu khách quan của
lịch sử .
=>Hai cương lĩnh trên cùng với sự thống nhất về tổ chức có ý nghĩa hết sức to lớn
cùng với sự ra đời của Đảng ta, là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính chất quyết
định cho những bước phát triển nhảy vọt trong tiến trình lịch sử của dân tộc ta.
Chúng là nền tảng cho những văn kiện nhằm xây dựng, phát triển và hoàn thiện hệ
thống lý luận, tư tưởng.
Nhìn chung, Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đúng đắn và hoàn thiện hơn so
với Luận cương. Nguyễn Ái Quốc có cái nhìn liền mạch hơn khi chỉ rõ được mâu
thuẫn cấp thiết nhất. Còn Trần Phú tuy khởi thảo chi tiết hơn nhưng chỉ tập trung
vào vấn đề giai cấp.
Cả hai văn kiện tuy có nhiều điểm khác biệt, song, đều đóng vai trò rất lớn. Đó là
sự chuẩn bị tất yếu, đồng thời là nền tảng cho việc xây dựng lí luận, tư tưởng đến
tận bây giờ.