You are on page 1of 28

Họ và tên:

Ngày sinh:
Đơn vị:

ĐỀ CƯƠNG THẢO LUẬN


MÔN NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA CN MÁC- LÊNIN
(CNXH - KH)

Câu 1: Phân tích những điều kiện khách quan và chủ quan của sứ mệnh lịch
sử giai cấp công nhân? Liên hệ sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân Việt Nam hiện
nay?
1. Khái niệm giai cấp công nhân
Giai cấp công nhân được sử dụng với nhiều thuật ngữ như: giai cấp công nhân,
giai cấp vô sản, giai cấp vô sản hiện đại, giai cấp công nhân công nghiệp, giai cấp công
nhân hiện đại...
Định nghĩa về giai cấp công nhân: Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn
định, hình thành và phát triển cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại,
với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hoá ngày càng cao; là
lực lượng lao động cơ bản tiên tiến trong các quy trình công nghệ, dịch vụ công nghiệp,
trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất
và cải tạo các quan hệ xã hội; đại biểu cho lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất
tiên tiến trong thời đại hiện nay”.
Từ lý luận và thực tiễn hiện nay, có thể quan niệm: Giai cấp công nhân hiện đại là
sản phẩm và là chủ thể của quá trình công nghiệp hóa. Họ gắn liền với quá trình sản xuất
hiện đại, là đại biểu cho phương thức sản xuất mang tính xã hội hóa ngày càng cao và
lực lượng đi đầu trong cuộc đấu tranh vì tiến bộ trong xã hội hiện đại. GCCN là GC có
sứ mệnh lịch sử xóa bỏ chế độ TBCN, xây dựng thành công CNXH và CNCS trên toàn
thế giới.
Giai cấp công nhân mang hai thuộc tính (tiêu chí) cơ bản là:
Thứ nhất, về phương thức lao động, phương thức sản xuất (nghề nghiệp),đó là
những người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính chất
công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hoá cao. Đây là tiêu chí cơ bản để phân biệt
người công nhân hiện đại với người thợ thủ công thời Trung cổ hay người thợ trong
công trường thủ công. C.Mác viết: “Trong công trường thủ công và trong nghề thủ công,
người Công nhân sử dụng công cụ của mình, còn trong công xưởng thì người công nhân
phải phục tùng máy móc”, “Công nhân cũng là phát minh của thời đại mới. Giống như
máy móc vậy ... công nhân Anh là đứa con đầu lòng của nền công nghiệp hiện đại”.
Thứ hai, về vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là
những người lao động không có hoặc về cơ bản không có tư liệu sản xuất, làm thuê cho
giai cấp tư sản và bị bóc lột giá trị thặng dư. Đây là đặc trưng cơ bản nhất của giai cấp
công nhân dưới chế độ tư bản chủ nghĩa. Chính vì vậy, C.Mác và Ph.Ăngghen đều gọi
giai cấp công nhân dưới chủ nghĩa tư bản là giai cấp vô sản. Ngày nay, với sự phát triển
không ngừng của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, bộ mặt của chủ nghĩa tư bản
đã có những thay đổi to lớn và đi cùng với nó là sự thay đổi nhất định của giai cấp công
nhân so với trước kia. Cơ cấu ngành nghề của giai cấp công nhân đã có những thay đổi
1
to lớn: bên cạnh công nhân của nền công nghiệp cơ khí, đã xuất hiện công nhân của nền
công nghiệp tự động hoá. Giai cấp công nhân hiện nay không chỉ bao gồm những người
lao động trong công nghiệp, trực tiếp tạo ra các giá trị vật chất cho xã hội mà còn bao
gồm những người lao động trong các bộ phận dịch vụ công nghiệp, gián tiếp tham gia
vào quá trình sản xuất vật chất.
2. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Trong mỗi thời kỳ chuyển biến cách mạng lên một hình thái kinh tế - xã hội cao
hơn luôn có một giai cấp đứng ở vị trí trung tâm của lịch sử, đóng vai trò là động lực chủ
yếu và là lực lượng lãnh đạo quá trình cách mạng đó. Giai cấp công nhân là sản phẩm
của nền đại công nghiệp, lực lượng sản xuất tiên tiến, phương thức sản xuất tiên tiến, đại
biểu cho xu hướng phát triển của xã hội tương lai, do vậy về mặt khách quan nó có
nhiệm vụ xoá bỏ xã hội cũ, tổ chức, lãnh đạo, xây dựng xã hội mới phù hợp với quy luật
phát triển của lịch sử. Nhiệm vụ này do chính địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp đó
quyết định.
Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân gồm 3 nội dung cơ bản:
- Nội dung kinh tế: là yếu tố sâu xa nhất khẳng định sự cần thiết của sứ mệnh lịch
sử của GCCN. GCCN dù ở chế độ chính trị nào cũng là chủ thể của quá trình SXVC
mang tính chất xã hội hóa cao, SX ngày càng nhiều của cải, đáp ứng nhu cầu ngày càng
tăng của con người. Qua đó tạo tiền đề vật chất – kỹ thuật cho sự ra đời của XH mới.
- Nội dung chính trị-xã hội: GCCN cùng với nhân dân LĐ, dưới sự lãnh đạo của
ĐCS, tiến hành CM chính trị lật đổ chế độ TBCN, xác lập, bảo vệ và trở thành công cụ
để lãnh đạo chính trị, quản lý KT và XH trong quá trình cải tạo XH cũ và xây dựng XH
mới. Trong tiến trình CM XHCN, GCCN phải giải quyết đúng đắn các vấn đề CT-XH
đặt ra như liên minh các giai cấp tầng lớp, đoàn kết các dân tộc, xây dựng XH mới, con
người mới,... Thông qua đó khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước
và tính tự giác của ND trong quá trình xây dựng CNXH.
- Nội dung văn hóa, tư tưởng: thực chất đây là một cuộc CM văn hóa, tư tưởng bao
gồm cải tạo cái cũ, xây dựng cái mới trong sự kế thừa những tinh hoa của thời đại và giá
trị truyền thống của VH dân tộc. Xây dựng nền VH XHCN và con người được phát triển
tự do, toàn diện trong XH công bằng, dân chủ, văn minh là những mục tiêu hàng đầu của
cuộc CM này.
3. Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân
Thứ nhất, do sự quy định của địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân.
GCCN gắn liền với PTSX công nghiệp ngày càng hiện đại, mang tính XHH cao.
PTSX quy định phương thức tư tưởng, GCCN vì vậy, có được những đặc điểm của 1 GC
cách mạng: tính tổ chức, kỷ luật, tác phong công nghiệp, tinh thần triệt để CM, tình đoàn
kết quốc tế, tính dân tộc,... Những phẩm chất này khách quan xác định GCCN là giai cấp
tiên tiến nhất, CM nhất và có năng lực lãnh đạo các GC khác trong sự nghiệp xây dựng
XH mới.
Thứ hai, những tiền đề vật chất của CNTB và sự vận động của mâu thuẫn cơ bản
của PTSX TBCN.
XHH SX là tiền đề quan trọng nhất đã thúc đẩy sự vận động của mâu thuẫn cơ bản
trong lòng PTSX TBCN. Mâu thuẫn cơ bản đó xung đột giũa tính chất XHH của LLSX
2
với tính chất tư nhân Tư bản chủ nghĩa về Tư liệu sản xuất. Quy luật chung là QHSX
phải phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX. Công hữu những TLSX chủ yếu của
XH là yêu cầu khách quan và đã được quá trình SX hiện đại vạch ra. XH hiện đại với xu
thế XHH, dân chủ hóa mạnh mẽ hiện nay cũng đang làm chín muồi những tiền đề khách
quan cho sứ mệnh LS của GCCN.
Thứ ba, mâu thuẫn về lợi ích cơ bản giữa GCCN và GCTS tất yếu dẫn đến sứ
mệnh LS của GCCN.
Do không có tư liệu sản xuất nên giai cấp công nhân phải bán sức lao động của
mình cho nhà tư bản và bị nhà tư bản chiếm đoạt giá trị thặng dư, họ bị lệ thuộc hoàn
toàn trong quá trình phân phối các kết quả lao động của chính mình. Do vậy, về mặt lợi
ích giai cấp công nhân là giai cấp đối kháng trực tiếp với giai cấp tư sản. Mâu thuẫn đó
là không thể điều hòa được và là động lực chính cho cuộc đấu tranh GC hiện đại.
Giải quyết mâu thuẫn về lợi ích cơ bản giữa 2 GC này theo hướng xóa bỏ chế độ
bóc lột giá trị thặng dư là tất yếu khách quan. Muốn thực hiện được điều đó phải xóa bỏ
QHSX tư nhân TBCN. Nhưng muốn xóa bỏ nó thì phải xóa bỏ chế độ chính trị là cái
đang bảo vệ QHSX ấy. Lật đổ chế độ tư sản, nhà nước của GCTS, xác lập nhà nước của
GCCN là tất yếu trong quá trình CM kinh tế.
Hiện nay, yêu cầu phát triển nhanh, nhân bản và bền vững của thế giới hiện đại
cũng khách quan coi sứ mệnh LS của GCCN như 1 giải pháp mới cho phát triển.
4. Những điều kiện chủ quan để GCCN thực hiện thành công sứ mệnh lịch sử
toàn thế giới
a) Sự phát triển của GCCN: được thể hiện ở sự phát triển về lượng và phát triển về
chất.
- Sự phát triển về lượng của GCCN bao gồm sự phát triển số lượng lao động công
nghiệp trong tổng số lao động XH, tỷ lệ lao động công nghiệp trong các lĩnh vực KTXH
và cơ cấu của GCCN. Sự phát triển về lượng được quy định bởi yêu cầu của SX công
nghiệp và cơ cấu kinh tế hiện đại nhưng cũng là quá trình phát triển tự giác thông qua
chiến lược phát triển KTXH và chiến lược CNH. Thông qua sự phát triển về lượng của
công nhân có thể thấy được trình độ, quy mô của CNH và sự tự chuẩn bị của GC đang
làm sứ mệnh LS.
- Sự phát triển về chất của GCCN được thể hiện ở năng lực làm chủ CN hiện đại
và ý thức giác ngộ GC, ý thức dân tộc.
Với tư cách là bộ phận quan trọng nhất của LLSX hiện đại, năng lực làm chủ CN
hiện đại của công nhân xác nhận vị thế đại diện cho PTSX tiên tiến. Với tư cách là chủ
thể của sứ mệnh LS, GCCN cần đạt tới trình độ giác ngộ cao về chính trị. Phẩm chất này
được thể hiện ở trình độ giác ngộ về GC.
b) Đảng Cộng sản - nhân tố chủ quan cơ bản nhất để thực hiện thắng lợi sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
GGCN coi ĐCS là hạt nhân chính trị của mình và sự ra đời của Đảng dánh dấu sự
trưởng thành của GC. CN M-L khẳng định, việc GCCN tổ chức được 1 chính đảng
trưởng thành về chính trị, tư tưởng và tổ chức là dấu hiệu đã trở thành GC tự giác và đủ
năng lực để thực hiện sứ mệnh LS.
Bằng thực tiễn cách mạng ở nước Nga cùng với phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế V.I. Lênin đã khái quát và nêu lên một vấn đề có tính quy luật về sự ra đời của
3
Đảng Cộng sản, đó là: Chủ nghĩa Mác kết hợp với phong trào công nhân dẫn tới sự ra
đời của Đảng Cộng sản. Đây là vấn đề có tính phổ biến đối với sự ra đời của Đảng Cộng
sản ở nhiều nước trên thế giới, nhất là châu Âu. Vận dụng một cách sáng tạo quan điểm
của chủ nghĩa Mác-Lênin vào tình hình cụ thể của Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã sáng
lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930), đó là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ
nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đây là
một sáng tạo, một đóng góp của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam chính là sự kết hợp một cách
nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu
nước ở Việt Nam.
- Mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản với giai cấp công nhân
Giai cấp công nhân là cơ sở giai cấp của Đảng Cộng sản, là nguồn bổ sung lực
lượng cho Đảng, nói cách khác Đảng trước hết bao gồm những người ưu tú nhất trong
giai cấp công nhân. Đảng Cộng sản là đội tiên phong chiến đấu, là lãnh tụ chính trị, là bộ
tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân. Vai trò của đảng đối với giai cấp công nhân
thể hiện ở chỗ: Một là, không có một tổ chức chính trị nào hoạt động được mà lại không
thông qua chính đảng của giai cấp mình. Giai cấp công nhân cũng vậy, họ hoạt động,
làm cách mạng thông qua đội tiên phong của mình, đó là Đảng Cộng sản, đảng của giai
cấp công nhân. Hai là, để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình thì giai cấp công nhân
cần phải có một chính đảng chính trị vững vàng kiên định, sáng suốt, có đường lối chiến
lược sách lược đúng đắn thể hiện lợi ích của giai cấp hay toàn thể phong trào. Ba là, với
một Đảng Cộng sản chân chính thì sự lãnh đạo của Đảng chính là sự lãnh đạo của giai
cấp. Đảng với giai cấp là thống nhất nhưng Đảng có trình độ lý luận và tổ chức cao nhất
để lãnh đạo giai cấp và dân tộc, vì thế không thể lẫn lộn Đảng với giai cấp.
* Giai cấp công nhân Việt Nam và sứ mệnh lịch sử của nó trong cách mạng Việt
Nam:
Sự ra đời của giai cấp công nhân Việt Nam cơ bản gắn với quá trình khai thác
thuộc địa của thực dân Pháp những năm nửa cuối thế kỷ XIX. Đó thực chất cũng là khởi
nguồn của quá trình công nghiệp hóa ở một quốc gia nông nghiệp. Trước khi thực dân
Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng (ngày 01-9-1858), mở màn cho cuộc xâm lược, Việt
Nam lúc đó vẫn là một nước phong kiến lạc hậu với nền kinh tế dựa vào sản xuất tiểu
nông là chính, cơ sở kinh tế về công nghiệp, dịch vụ chưa hề thấy. Xã hội Việt Nam vẫn
là một xã hội phong kiến với hai giai cấp cơ bản là giai cấp địa chủ phong kiến và giai
cấp nông dân. Khi cuộc xâm lăng và bình định đã cơ bản hoàn thành vào cuối thế kỷ
XIX, thực dân Pháp bắt tay tiến hành công cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất với quy
mô mở rộng ra cả nước. Các nhà máy xay xát, rượu bia, vải sợi, điện nước, đồn điền cao
su, cà phê… lần lượt ra đời. Cùng với các cơ sở kinh tế công nghiệp được thành lập, đội
ngũ những người công nhân Việt Nam đầu tiên đã ra đời. Họ là những nông dân Việt
Nam bị tước đoạt hết ruộng đất, những người thợ thủ công nghiệp bị phá sản. Sự mở
rộng quy mô khai thác thuộc địa và phát triển công nghiệp của thực dân Pháp đã làm cho
đội ngũ những người công nhân Việt Nam ngày càng đông đảo và dần hình thành một
giai cấp, mặc dù, thực chất chỉ mới là giai cấp “tự nó”.
Khi chiến tranh thế giới lần thứ nhất kết thúc (1918), thực dân Pháp tiến hành
chính sách khai thác thuộc địa lần thứ hai với quy mô và tốc độ lớn hơn trước nhiều lần
hòng bù đắp phần nào thiệt hại do chiến tranh thế giới gây ra. Thời kỳ này, số lượng
công nhân Việt Nam phát triển nhanh chóng. Cùng với sự tăng lên về số lượng, chất
lượng chuyên môn, kỹ thuật, tay nghề của công nhân cũng được nâng lên.
4
Như vậy, xét về lịch sử hình thành, giai cấp công nhân Việt Nam ra đời không
phải là sản phẩm trực tiếp của nền sản xuất công nghiệp hiện đại Việt Nam mà ra đời từ
chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Đại đa số công nhân Việt Nam đều
xuất thân từ tầng lớp nông dân với trình độ lao động giản đơn. Vì thế, có thể nhận định
khái quát là giai cấp công nhân Việt Nam ra đời muộn hơn so với giai cấp công nhân thế
giới, số lượng ban đầu còn ít và trình độ tay nghề thấp.
Ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, vừa mới lớn lên đã tiếp thu chủ nghĩa Mác -
Lê-nin, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân quốc tế, nhanh chóng trở thành lực lượng
chính trị tự giác thống nhất, được Chủ tịch Hồ Chí Minh giáo dục, đã sớm giác ngộ mục
tiêu, lý tưởng, chân lý của thời đại: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, giai cấp công
nhân Việt Nam luôn có tinh thần và bản chất cách mạng triệt để. Sau khi Chiến tranh thế
giới thứ nhất kết thúc, do ảnh hưởng sâu sắc của cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917
và sự truyền bá Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, phong trào công nhân Việt Nam đã có bước
chuyển biến sâu sắc về chất. Giai cấp công nhân đã từng bước giác ngộ về địa vị, vai trò
của mình trong xã hội, trong cách mạng Việt Nam và ngày càng tiến tới sự tự giác. Sự ra
đời của Công hội đỏ Bắc Kỳ (28-7-1929) và Đảng Cộng sản Việt Nam (03-02-1930) là
mốc lịch sử đánh dấu bước phát triển mới về chất của giai cấp công nhân Việt Nam từ sự
tự phát lên tự giác.
Từ đây, giai cấp công nhân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam đã không ngừng vươn lên và phát triển mọi mặt, từng bước giác ngộ và hiện thực
hoá sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình. Và cũng từ đây, giai cấp công nhân Việt Nam -
thông qua đội tiên phong của mình là Đảng Cộng sản Việt Nam - bước lên vũ đài chính
trị nắm quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, không những mở ra một kỷ
nguyên mới cho lịch sử dân tộc, mà còn là dấu mốc đưa giai cấp công nhân và nhân dân
lao động từ địa vị của người dân mất nước, người lao động làm thuê lên địa vị người làm
chủ đất nước. Sự thành công của cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 cũng chứng tỏ vai
trò lãnh đạo không thể thay thế của giai cấp công nhân Việt Nam thông qua đội tiền
phong của mình là Đảng Cộng sản Việt Nam. Lịch sử cách mạng Việt Nam hiện đại đã
trao cho giai cấp công nhân Việt Nam vai trò sứ mệnh lịch sử ấy và giai cấp công nhân
Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh của mình.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, đặc biệt là sau gần 30 năm thực hiện đường
lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, giai cấp công nhân Việt Nam không ngừng
lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng, đang có mặt trong tất cả các ngành nghề, các
thành phần kinh tế, là lực lượng quan trọng, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Giai cấp công nhân Việt Nam lao động cần cù, sáng tạo, sản xuất
ngày càng nhiều sản phẩm hàng hóa, dịch vụ cho xã hội và xuất khẩu với chất lượng và
hiệu quả ngày càng cao. Với số lượng chỉ chiếm 21% tổng số lao động và 11% dân số cả
nước, nhưng giai cấp công nhân Việt Nam đã đóng góp hơn 60% tổng sản phẩm xã hội
và 70% ngân sách nhà nước.
Tuy nhiên, sự phát triển của giai cấp công nhân chưa đáp ứng được yêu cầu về số
lượng, cơ cấu và trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế; thiếu nghiêm trọng các
chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành nghề; tác phong công nghiệp và
kỷ luật lao động còn nhiều hạn chế; đa phần công nhân từ nông dân, chưa được đào tạo
cơ bản và có hệ thống.

5
Một bộ phận công nhân chậm thích nghi với cơ chế thị trường. Ðịa vị chính trị của
giai cấp công nhân chưa thể hiện đầy đủ. Giai cấp công nhân còn hạn chế về phát huy
vai trò nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức dưới sự lãnh đạo của Ðảng. Giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị của công nhân
không đồng đều; sự hiểu biết về chính sách, pháp luật còn nhiều hạn chế. Tỷ lệ đảng
viên và cán bộ lãnh đạo xuất thân từ công nhân còn thấp. Một bộ phận công nhân chưa
thiết tha phấn đấu vào Ðảng và tham gia hoạt động trong các tổ chức chính trị - xã hội.
Nhìn tổng quát, lợi ích một bộ phận công nhân được hưởng chưa tương xứng với những
thành tựu của công cuộc đổi mới và những đóng góp của chính mình; việc làm, đời sống
vật chất và tinh thần của công nhân đang có nhiều khó khăn, bức xúc, đặc biệt là ở bộ
phận công nhân lao động giản đơn tại các doanh nghiệp của tư nhân và doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài.
Tình hình trên bắt nguồn từ các nguyên nhân: Quá trình đổi mới, phát triển kinh tế
- xã hội đã mở ra một giai đoạn lịch sử mới trong sự phát triển của giai cấp công nhân;
tuy nhiên những hạn chế, yếu kém trong phát triển kinh tế - xã hội cũng ảnh hưởng
không nhỏ đến việc làm, đời sống và tư tưởng, tình cảm của công nhân. Ðảng có chú
trọng xây dựng giai cấp công nhân; nhưng quan tâm chưa đầy đủ, chưa ngang tầm với vị
trí, vai trò của giai cấp công nhân trong thời kỳ mới. Nhà nước ban hành nhiều chính
sách, pháp luật xây dựng giai cấp công nhân; nhưng những chính sách, pháp luật này vẫn
còn nhiều hạn chế, bất cập. Công đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội khác có nhiều
đóng góp tích cực vào việc xây dựng giai cấp công nhân; nhưng hiệu quả chưa cao, còn
nhiều yếu kém. Bản thân giai cấp công nhân đã có nhiều nỗ lực vươn lên; nhưng chưa
đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Các doanh
nghiệp và người sử dụng lao động thuộc các thành phần kinh tế đóng góp tích cực vào
tạo việc làm và thu nhập cho công nhân; nhưng không ít trường hợp còn vi phạm chính
sách, pháp luật đối với người lao động.
* Phương hướng xây dựng GCCN VN
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khóa X khẳng định:
"Giai cấp công nhân nước ta có sứ mệnh lịch sử to lớn: Là giai cấp lãnh đạo  cách 
mạng  thông  qua  đội  tiền  phong là Ðảng Cộng sản Việt Nam; giai cấp đại diện cho
phương thức sản xuất tiên tiến; giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; lực lượng nòng cốt
trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự
lãnh đạo của Ðảng".
Từ nay đến hết năm 2010 phải phấn đấu quyết liệt để đạt được sự chuyển biến tối
đa về các mặt sau đây:
1- Hình thành và triển khai thực hiện chiến lược xây dựng giai cấp công nhân lớn
mạnh gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
2- Giải quyết có hiệu quả những vấn đề bức xúc, cấp bách của giai cấp công nhân,
tạo được chuyển biến thật sự mạnh mẽ và rõ rệt trong việc nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần của công nhân (về nhà ở tại các khu công nghiệp, tiền lương và thu nhập, bảo
hiểm xã hội, nơi sinh hoạt văn hóa, cơ sở nuôi dạy trẻ...) tương xứng với những thành
quả của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước và những đóng góp của giai cấp công

6
nhân. Xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ trong các loại hình doanh
nghiệp.
3- Có bước tiến về đào tạo, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề
nghiệp đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển đất nước, nhất là những ngành công nghiệp
mới. Tăng nhanh tỷ lệ lao động qua đào tạo; chú trọng đào tạo nghề cho công nhân từ
nông dân và nữ công nhân.
4- Nâng cao hơn về giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị, hiểu biết pháp luật, tác
phong công nghiệp và kỷ luật lao động, xây dựng lối sống lành mạnh trong công nhân,
nhất là công nhân trẻ.
5- Tăng tỷ lệ đảng viên và cán bộ lãnh đạo, quản lý xuất thân từ công nhân. Tăng
số lượng và chất lượng cơ sở đảng trong các loại hình doanh nghiệp; sớm thành lập tổ
chức cơ sở đảng ở những doanh nghiệp có đủ điều kiện theo quy định của Ðiều lệ Ðảng;
đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của tổ chức đảng tại doanh nghiệp phù hợp
với từng thành phần kinh tế.
6- Ðẩy mạnh phát triển đoàn viên và tổ chức công đoàn, Ðoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh và Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam trong các loại hình doanh
nghiệp. Củng cố, đổi mới phương thức hoạt động và nâng cao chất lượng các tổ chức cơ
sở đã có; sớm thành lập tổ chức cơ sở tại các doanh nghiệp có đủ điều kiện theo quy
định của pháp luật và điều lệ của các tổ chức đó; tăng số lượng và chất lượng của các tổ
chức cơ sở này tại các loại hình doanh nghiệp, nhất là ở những doanh nghiệp có đông
công nhân.
* Nhiệm vụ và giải pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước:
- Tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về giai cấp công nhân
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế
- Ðẩy mạnh và nâng cao chất lượng đào tạo nghề, từng bước trí thức hóa giai cấp
công nhân
- Quan tâm bồi dưỡng, nâng cao trình độ chính trị, ý thức giai cấp, tinh thần dân
tộc cho giai cấp công nhân
- Bổ sung, sửa đổi, xây dựng và thực hiện nghiêm hệ thống chính sách, pháp luật
để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân; chăm lo đời sống vật
chất, tinh thần cho công nhân
- Tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng, phát huy vai trò của tổ chức công đoàn và các
tổ chức chính trị - xã hội khác trong xây dựng giai cấp công nhân./.
Câu 2: Phân tích quan điểm của Đảng: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng
của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch
Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”?
- Xã hội XHCN ra đời và phát triển như một quá trình lịch sử - tự nhiên, bắt nguồn
từ sự phát triển của sản xuất vật chất, của sự phát triển xã hội theo những quy luật khách
quan, mà quy luật chung nhất là “Sự phù hợp giữa QHSX với tính chất và trình độ của
LLSX”.

7
- Từ cuối thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XVI: Xã hội tư bản chủ nghĩa hình thành trong
lòng xã hội phong kiến ở châu Âu. Đến giữa thế kỷ XIX: Lực lượng sản xuất đạt đến
trình độ phát triển cao khác hẳn với sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và cả
công nghiệp trong công trường thủ công. Trình độ xã hội hóa ngày càng cao của LLSX,
biểu hiện ở trình độ hợp tác và phân công lao động, tạo ra năng suất lao động xã hội
ngày càng cao, bắt đầu một quá trình mới. Đó là quá trình nảy sinh và phát triển gay gắt
của mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với sự
chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Cuối thế kỷ XIX: Nền sản xuất đại công nghiệp
xóa bỏ một cách khách quan tư hữu nhỏ của nông dân, thợ thủ công và đảm bảo thắng
lợi của chủ nghĩa tư bản. Ngày nay, với các thành tựu khoa học – công nghệ và nhu cầu
sản xuất, sự phát triển của LLSX đã đạt đến trình độ quốc tế hóa có tính toàn cầu dấn
đến Mâu thuẫn giữa LLSX với QHSX không chỉ ở các nước tư bản chủ nghĩa mà còn
lan rộng sang tất cả các nước.
- Cùng với QHSX phù hợp với LLSX là quy luật Cơ sở hạ tầng quyết định kiến
trúc thượng tầng mà chủ nghĩa duy vật Macxít đã vạch ra:
- Trong xã hội TBCN: Giai cấp công nhân là lực lượng sản xuất cơ bản và Giai cấp
tư sản là chủ sở hữu về TLSX, làm chủ quá trình sản xuất và phân phối, là giai cấp đại
biểu cho quan hệ SX TBCN. Điều này dấn đến mâu thuẫn giữa LLSX với QHSX tư bản
chủ nghĩa được biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân với giai
cấp tư sản. Để giải quyết mâu thuẫn này cần phài Xóa bỏ sự thống trị về chính trị, về
kinh tế của GC Tư sản, Xóa bỏ sự thống trị trên các lĩnh vực khác của giai cấp tư sản đối
với toàn xã hội, giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột, khỏi mọi bất công xã hội,
khỏi sự nghèo nàn, lạc hậu.
- Một quy luật khác cũng đồng thời tác động đến sự ra đời và phát triển của hìn
thái kinh tế xã hội công sản chủ nghĩa, đó là quy luật cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng nhân dân lao động dẫn đến sự ra đời của XH XHCN.
Những đặc trưng bản chất của xã hội xã hôi chủ nghĩa:
- Chính trị: Chủ nghĩa xã hội là một xã hội dân chủ, người dân làm chủ xã hội và
làm chủ nhà nước, Lênin nói: “Chế độ dân chủ vô sản so với bất kỳ chế độ dân chủ tư
sản nào, cũng dân chủ gấp triệu lần”. Nhà nước trong chủ nghĩa xã hội là nhà nước dân
chủ kiểu mới, thể hiện bản chất giai cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích, quyền lực và ý
chí của nhân dân lao động;
- Kinh tế: Chủ nghĩa xã hội là từng bước xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa,
thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất (chủ yếu), Chủ nghĩa xã hội tạo ra cách tổ
chức lao động và kỷ luật lao động mới với năng suất cao; Cơ sở vật chất của chủ nghĩa
xã hội được tạo ra bởi lực lượng sản xuất tiên tiến, hiện đại; Chủ nghĩa xã hội thực hiện
nguyên tắc phân phối theo lao động.
- Xã hội: CNXH tạo ra quan hệ xã hội tốt đẹp, công bằng bình đẳng giữa các giai
tần trong xã hội, các tầng lớp, nhóm dân cư, giữa lao động trí óc và lao động chân tay,
giữa thành thị và nông thôn. Thực hiện bình đẳng dân tộc, tộc người, tôn giáo. Thực hiện
quan hệ tốt đẹp giữa người và người.
- Văn hóa: Xây dựng một nền văn hóa phát triển cao dựa trên sự phát huy những
giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, quốc gia với tiếp thu những tinh hoa văn hóa
của nhân loại.

8
- Đối ngoại: Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, các quan hệ giai cấp - dân tộc - quốc tế
được giải quyết phù hợp, kết hợp lợi ích giai cấp - dân tộc với chủ nghĩa quốc tế trong
sáng.
Mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người khỏi mọi ách bóc
lột về kinh tế và nô dịch về tinh thần, tạo điều kiện cho con người phát triền toàn diện.
Do đó cuộc cách mạng tiến lên CNXH KH là cuộc cách mạng triệt để, toàn diện, tạo sự
tự do hoàn toàn cho con người, con người làm chủ thiên nhiên, làm chủ xã hội, làm chủ
con người và làm chủ bản thân.
Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng bỏ qua phải có sự giúp đỡ của các nước tiên
tiến đi trước. Xung quanh vấn đề “bỏ qua” cần nhận thức đúng đắn và toàn diện đó
là:
- Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua sự thống trị của quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa, kiến trúc thượng tầng.
- Bỏ qua không có nghĩa là phủ định sạch trơn mà phải có tính kế thừa nghĩa là
phải kế thừa nền kinh tế thị trường (nhưng định hướng xã hội chủ nghĩa) kế thừa sự phát
triển khoa học công nghê ̣; để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, khoa học quản lý; cơ
sở hạ tầng vì đây là những thành tựu của nhân loại giai cấp tư sản đã sử dụng trước.Tiếp
tục kế thừa và phát huy tinh hoa văn hoá của dân tộc và nhân loại. Kế thừa Nhà nước
pháp quyền.
Quan điểm của ĐCS VN về những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội
thông qua Cương lĩnh 1991 và Cương lĩnh 2011 của  Đảng Cộng sản VN.
Dựa vào việc nhận thức lại một cách đầy đủ và đúng đắn các quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, kết hợp với những
kinh nghiệm của thế giới và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta, đặc biệt là
từ khi tiến hành công cuộc đổi mới (1986), trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội VII (1991), Đảng xác
định mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam gồm 6 đặc trưng cơ bản nhất:
1/ Do nhân dân lao động làm chủ;
2/ Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế
độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu;
3/ Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc;
4/ Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực,
hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn
diện cá nhân;
5/ Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
6/ Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới 3.
Như vậy, so với Cương lĩnh 1991, mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung,
phát triển năm 2011) có một số điều chỉnh quan trọng.Thực ra, một số điều chỉnh mới
trong Cương lĩnh 2011 về đặc trưng của chủ nghĩa xã hội so với trong Cương lĩnh 1991
đó được nêu ra từ Đại hội X của Đảng (2006). Nếu trong Cương lĩnh 1991 chỉ đưa ra 6
đặc trưng của chủ nghĩa xã hội thì trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Đảng ta đã  xác định 8 đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó là:

9
1/ Xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta xây dựng là một
xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh;
2/ Do nhân dân làm chủ;
3/ Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại về quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất;
4/ Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
5/ Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, phát triển toàn diện;
6/ Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp
nhau cùng tiến bộ;
7/ Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản;
8/ Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới4.
Những bổ sung, điều chỉnh mới:
Thứ nhất, so với Cương lĩnh 1991, Cương lĩnh 2011 đã bổ sung hai đặc trưng
mới: 1/ Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minhvà 2/ Có Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh
đạo. Trong Văn kiện Đại hội X, hai đặc trưng quan trọng này cũng đã được nêu ra khi
nói về chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng. Song, trong đặc trưng thứ nhất của
Cương lĩnh 2011, tiêu chí dân chủ được đặt trước tiêu chí công bằng. Thực tiễn cho
thấy, nước ta hiện nay, dân chủ và việc thực hiện dân chủ giữ vị trí và vai trò đặc biệt
quan trọng trong đời sống xã hội. Dân chủ không những là mục tiêu, mà còn là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội theo hướng phát triển nhanh và bền vững. Khi dân
chủ được bảo đảm mới có thể nói đến công bằng và đến lớn mạnh, những điều đó mới
thể hiện sự văn minh.
- Việc bổ sung đặc trưng ''có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản'' thể hiện vị trí đặc
biệt quan trọng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong hệ thống chính trị của
Việt Nam. Nhà nước ấy thuộc về nhân dân, do nhân dân xây dựng nên và hướng tới
phục vụ lợi ích của nhân dân, là cơ quan quyền lực của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. Mục tiêu căn bản của công cuộc đổi mới nói chung, của đổi mới chính trị và đổi
mới hệ thống chính trị nói riêng ở nước ta chính là xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là một trong những điều kiện
tiên quyết để thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
- Thứ hai, nếu Cương lĩnh năm 1991 xác định xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội
''do nhân dân lao động làm chủ'' thì trong Văn kiện Đại hội X và Cương lĩnh 2011, đặc
trưng thứ hai được điều chỉnh thành ''do nhân dân làm chủ''. Rõ ràng, khái niệm ''nhân
dân” trong Văn kiện Đại hội X có nội hàm rộng hơn so với khái niệm ''nhân dân lao
động'' được đề cập trong Cương lĩnh năm 1991. Điều này cho phép thực hiện khối đại
đoàn kết toàn dân tộc và huy động sức mạnh của toàn dân vào sự nghiệp xây dựng và
phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Thứ ba, đặc trưng thứ 2 trong Cương lĩnh năm 1991 ''Có một nền kinh tế phát
triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất
10
chủ yếu'' được Cương lĩnh 2011 bổ sung bằng ''Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên
lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp''. Điều này là cần thiết
và đúng đắn. Bởi lẽ, theo quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin, quy luật về mối quan hệ
biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là xương sống của mọi hình thái
kinh tế - xã hội. Quan hệ sở hữu chế độ công hữu) không đồng nhất với quan hệ sản
xuất. Dù đóng vai trò hết sức quan trọng, song quan hệ sở hữu cũng chỉ là một trong 3
yếu tố (quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối) cấu thành quan hệ sản
xuất. Cũng cần lưu ý rằng, Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã rút ra một trong
những bài học quan trọng về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất.
- Thứ tư, cụm từ ''được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công” trong đặc trưng
thứ tư của Cương lĩnh 1991 (cụm từ “được giải phóng khỏi áp bức, bất công” ở đặc
trưng thứ 5 của mô hình chủ nghĩa xã hội nêu trong Văn kiện Đại hội X) được Cương
lĩnh 2011 lược bỏ và xác định là ''Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có
điều kiện phát triển toàn diện”. Theo chúng tôi điều này là hợp lý. Bởi lẽ, sự ''ấm no, tự
do, hạnh phúc'' của con người cũng đã bao hàm ý nghĩa được giải phóng khỏi áp bức,
bóc lột và bất công.
- Thứ năm, trong Cương lĩnh năm 2011 xác định ''con người... có điều kiện phát
triển toàn diện'' (trong Cương lĩnh 1991 viết: ''Con người... có điều kiện phát triển toàn
diện cá nhân'', cũng Văn kiện Đại hội X ghi ''con người ... được phát triển toàn
diện''). Việc bổ sung cụm từ ''có điều kiện” là chính xác thể hiện trong chủ nghĩa xã hội
sự phát triển của con người luôn được tạo điều kiện, đồng thời phải căn cứ vào trình độ
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
- Thứ sáu, trong đặc trưng thứ 5 của Cương lĩnh năm 1991 viết ''Các dân tộc trong
nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ”; trong Văn kiện Đại hội X
viết: ''Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau
cùng tiến bộ''. Trong Cương lĩnh năm 2011, đặc trưng này được điều chỉnh thành ''Các
dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau
cùng phát triển''. Việc thay thuật ngữ ''tương trợ'' bằng thuật ngữ ''tôn trọng'' hoàn toàn
đúng đắn và làm cho đặc trưng này có nội dung toàn diện hơn (với 4 tiêu chí: bình đẳng,
đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau), bởi thuật ngữ ''tương trợ” và ''giúp nhau” (trong Văn
kiện Đại hội X), về cơ bản, có nội dung như nhau.
- Thứ bảy, nếu Cương lĩnh 1991 xác định đặc trưng thứ 6 của chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam là “Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới''
thì trong Văn kiện Đại hội lần thứ X và trong Cương lĩnh 2011, nó được diễn đạt một
cách chính xác hơn - ''Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới''. Cụm
từ ''với các nước trên thế giới'' rõ ràng rộng hơn cụm từ ''với nhân dân tất cả các nước
trên thế giới''. Nó thể hiện mối quan hệ hữu nghị và hợp tác của Việt Nam không chỉ với
nhân dân các nước, mà cùng với nhà nước, chính phủ và các tổ chức phi chính phủ của
các nước trên thế giới.
- Mọi kết quả nhận thức đều do thực tiễn quy định: Phải xuất phát từ thực tiễn và
được chính thực tiễn kiểm nghiệm. Đó là biện chứng của quá trình nhận thức. Đặc biệt,
việc xác định đúng và trúng những đặc trưng bản chất, cốt lõi của chủ nghĩa xã hội - một
xã hội hoàn toàn mới và chưa từng có tiền lệ trong lịch sử phát triển xã hội của dân tộc
ta, như cách nói của V.I.Lênin, chỉ có thể dựa trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm thực tiễn
xây dựng chủ nghĩa xã hội của hàng triệu người khi họ bắt tay vào hành động. Hơn nữa,
thực tiễn luôn vận động, biến đổi không ngừng; do đó, lý luận cũng phải có sự thay đổi
11
tương ứng nhằm phản ánh đúng thực tiễn, phù hợp với thực tiễn. Nghĩa là, sự điều chỉnh,
bổ sung và phát triển những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội cho sát với thực tế khách
quan luôn là việc làm cần thiết và phải được tiến hành thường xuyên. Đó cũng chính là ý
nghĩa của nguyên tắc mang tính phương pháp luận mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra: lý
luận phải gắn liền với thực tiễn.
Quan điểm của ĐCS VN về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam (gồm 08
Phương hướng trong cương lĩnh 2011 và 8 Mối Quan hệ lớn)
- Một là, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh
tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
- Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con
người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
- Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
hội.
- Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp
tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
- Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân
tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
- Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân.
- Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Trong quá trình thực hiện các phương hướng cơ bản đó, phải đặc biệt chú
trọng nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn đó là Quan hệ:
- Giữa đổi mới, ổn định và phát triển;
- Giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị;
- Giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa;
- Giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa;
- Giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội;
- Giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa;
- Giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế;
- Giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ;... Không phiến diện,
cực đoan, duy ý chí.
Câu 3: Phân tích quan điểm của Lênin: “ Dân chủ vô sản so với bất cứ chế
độ dân chủ nào tiến bộ nhất cũng dân chủ gấp triệu lần hơn”? Liên hệ nền dân
chủ ở nước ta hiện nay?
Khái niệm Dân chủ:
Theo nghĩa thông thường nhất, dân chủ có nghĩa là quyền lực thuộc về nhân
dân. Nhân dân có quyền làm chủ mọi mặt liên quan đến đời sống của mình. Dân chủ
12
là dân là chủ, dân làm chủ. Nhân loại từ lâu đã có nhu cầu về dân chủ và quan niệm
đó là thực thi quyền lực của dân ( dân ở đây cũng là một khái niệm lịch sử)
Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác- Lênin: Chủ nghĩa Mác – Lênin kế thừa
những nhân tố hợp lý từ những hoạt động thực tiễn và nhận thức của nhân loại về dân
chủ và cho rằng, dân chủ là một chế độ xã hội mà quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân.
So sánh dân chủ vô sản ( dân chủ xã hội chủ nghĩa) với dân chủ tư sản, Lênin
khẳng định: “Dân chủ vô sản so với bất cứ chế độ dân chủ nào tiến bộ nhất cũng dân
chủ gấp triệu lần hơn”
Sự khác nhau căn bản giữa hai nền dân chủ đó thể hiện ở:
- Khác nhau ở chổ dân chủ thuộc về ai.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ của đại đa số nhân dân lao động, đại
diện và phục vụ cho ợi ích của nhân dân lao động. Còn dân chủ tư sản là nền dân chủ
của thiểu số giai cấp tư sản, đại diện và phục vụ cho lợi ích của thiểu số bóc lột.
- Khác nhau ở bản chất giai cấp của dân chủ:
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ mang bản chất của giai cấp công nhân,
dưới sự lãnh đạo của Đảng công sản, thông qua sự quản lý của nhà nướ xã hội chủ
nghĩa, là nền dân chủ nhất nguyên bảo đảm vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng
mácxít – Lêninnít. Còn dân chủ tư sản là nền dân chủ mang bản chất của giai cấp tư
sản dù có nhiều Đảng thay nhau lãnh đạo dưới hình thức đa nguyên, nhưng về bản
chất nó dẫn là phục tùng sự lãnh đạo của giai cấp tư sản bóc lột.
- Khác nhau ở cơ sở khách quan quy định bản chất dân chủ:
Cơ sở khách quan quy định bản chất của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa là
chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu, phù hợp với tính chất, trình độ
phát triển cao của lực lượng sản xuất, cho phép tạo nên sự bính đẳng về quyền lực
của đại đa số nhân dân lao động. Còn cơ sở khách quan quy định bản chất của chế độ
dân chủ tư sản là chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, thừa nhận chế độ người
bóc lột người, tạo nên sự bất bình đẳng, đối kháng sâu sắc về lợi ích trong xã hội.
- Khác nhau về cơ sở chính trị - xã hội của chế độ dân chủ:
Cơ sở chính trị - xã hội của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của giai
cấp công nhân, khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân, đội ngũ
trí thức và các tầng lớp lao động khác dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông
qua chính Đảng cộng sản. Còn cơ sở chính trị - xã hội cùa giai cấp tư sản là bản chất
của giai cấp tư sản.
- Khác nhau ở hình thức, cơ chế thực hiện dân chủ:
Dân chủ xã hội chủ nghĩa đực thực hiện thông qua nhà nước pháp quyền xã hội
cục tiêu củahủ nghĩa, còn đối với dân chủ tư sản đó là nhà nước pháp quyền tư sản.
- Khác nhau ở mục tiêu dân chủ:
Mục tiêu của dân chủ xã hội xã hội chủ nghĩa là hướng tới giải phóng xã hội,
giải phóng con người, nâng cao đời song vật chất, tinh thần của nhân dân, phù hợp
với nguyện vọng và lợi ích chính đáng của nhân dân. Thực hiện một nền dân chủ thực
sự trên mọi mặt đời sống xã hội. Còn mục tiêu của dân chủ tư sản là nhằm duy trì,
thiết lập, bảo vệ lợi ích, sự áp bức bóc lột của giai cấp tư sản, sự bất công trong xã
13
hội, sự bất bình đẳng giữa các quốc gia, dân tộc kềm hãm sự tiến bộ, văn minh của
nhân loại. Thực hiện một nền dân chủ giả hiệu, giả dối và cắt xén.
Từ những so sánh trên cho thấy, dân chủ xã hội chủ nghĩa là chế độ bảo đảm
quyền làm chủ thực tế của nhân dân lao động trên mọi lĩnh vực đời sống kinh tế,
chính trị, xã hội và tinh thần, phát huy tính tích cực sáng tạo của toàn thể nhân dân
trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa thông
qua nhà nước xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.
Chế độ dân chủ vô sản là thứ dân chủ gấp triệu lần dân chủ tư sản như Lênin đã
khẳng định,
Liên hệ nền dân chủ ở nước ta hiện nay
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt nam được xây dựng từ sau cách mang
tháng tám năm 1945 ( nền dân chủ nhân dân) đánh đuổi thực dân Pháp, Sau năm
1954, hòa bình ở miền bắc, bắt đầu xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhưng
đồng thời thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược: đồng thời xây dựng miền bắc và đấu tranh
thống nhất nước nhà. Từ sau năm 1975 đất nước hòa bình thống nhất đi vào giai đoạn
phát triển.
Bước vào xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa chúng ta có những thuận lợi
như sau:
Hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, nước ta từ một nước thuộc
địa nữa phong kiến tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa,
điều này mang lại nhiều thuận lợi rất quan trọng khi xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, quan hệ người bóc lột người, bỏ qua sự thống trị của một nhóm người đối với
đa số nhân dân lao động.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta được xây dựng trong điều kiện có
Đảng cộng sản do Chù tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, là lực lượng duy nhất
lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Kế tục tư tưởng vì dân của Hồ chủ tịch, Đảng ta chủ
trương xây dựng chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, mở rộng và phát huy quyền làm
chủ của nhân dân; xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhà nước của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhà nước ta thừa nhận nhân dân là cội nguồn
của quyền lực, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Chúng ta có một hệ thống chính
trị vững mạnh gồm Đảng, nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, đây chính là cơ
sở bảo đảm cho việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Bên cạnh đó trong quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta
cũng còn gặp không ít những khó khăn, cản trở:
Vốn là một nước thuộc địa nữa phong kiến, những thành quả mà cuộc cách
mạng dân tộc dân chủ đem lại là một bước ngoặc lớn lao trong việc hình thành và
phát triển nền dân chủ ở nước ta. Song một đất nước vừa thoát khởi chế độ thuộc địa
nữa phong kiến, giai cấp công nhân lãnh đạo chính quyền phần lớn đều xuất than từ
nông dân vì thế không tránh khỏi tàn tích tư tưởng tiểu nông, sản xuất nhỏ - Chúng ta
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa hơn 400 năm, người dân Việt Nam chưa trãi qua dân
chủ tư sản điều đó ảnh hưởng đến ý thức, kỷ luật, tự tôn pháp luật.
Để tiến tới mục tiêu xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta phải tiến
hành dân chủ hóa các lĩnh vực của đời sống xã hội. Dân chủ hóa là quá trình chuyển
dân chủ từ khả năng thành hiện thực trong thực tiễn cuộc sống, là cuộc vận động xã
hội rộng rãi, lôi cuốn mạnh mẽ các tầng lớp nhân dân. Việc thực hành những chuẩn
14
mực, quy tắc dân chủ, Tập làm quen với dân chủ, Xây dựng lối sống dân chủ đưa nó
vào thực tế hàng ngày, dần trở thành nền nếp thói quen nhu cầu của mỗi người và của
cả cộng đồng. Dân chủ hóa các lĩnh vực của đời sống xã hội là thực hiện nội dung
toàn diện của dân chủ.
Trong quá trình xây dựng, thực hiện dân chủ ở nước ta, đã đạt dược một số
thành tựu và hạn chế sau:
Những thành tựu:
 Thứ nhất: sự hiểu biết của nhân dân về pháp luật, quyền lợi, nghĩa
vụ ngày một nâng cao, người dân ngày càng quan tâm đến tình hình chính trị, đất
nước, quan tâm đến quyền lợi nghĩa vụ, các chính sách pháp luật nhà nước.
 Thứ hai: năng lực thực hiện dân chủ có bước trưởng thành, thể hiện
ở việc nhân dân tích cực tham gia vào các hoạt động chính trị của Đảng, công
việc quản lý của nhà nước như góp ý xây dựng báo cáo chính trị, chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội, xây dựng hiến pháp…
 Thứ ba: Nhu cầu dân chủ của nhân dân ngày càng cao, phong phú,
đa dạng hơn.
Những hạn chế:
 Thứ nhất: Một số cán bộ, nhân dân hiểu biết không đầy đủ về dân
chủ tư sản, dân chủ vô sản dẫn tới nghi ngờ bản chất tốt đẹp của dân chủ vô sản.
 Thứ hai: Một số người còn non yếu về chính trị và ý thức công dân
bị kẻ địch lợi dụng, kích động gây rối trật tự xã hội, hoạc mất phương hướng
chính trị đúng đắn.
 Thứ ba: Tình trạng quan lieu mất dân chủ, dân chủ cực đoan, dân
chủ quá trớn, tùy tiện coi thường kỷ cương pháp luật của một bộ phận nhân dân.
 Thứ tư: Văn hóa pháp luật của một bộ phận nhân dân còn thấp cộng
với việc giáo dục pháp luật cho người dân còn kém hiệu quả.
 Thứ năm: Thực hiện chế độ dân chủ đại diện chưa hiệu quả do sự yếu kém
của cơ quan quyền lực ở một số địa phương (Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân).
Nguyên tắc tập trung dân chủ nhiều lúc bị buông lỏng, kỷ cương không nghiêm, thực
hiện thiếu đồng bộ.
Câu 4: Phân tích tính tất yếu và tầm quan trọng của liên minh Công- Nông-
Trí thức trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay?
1. Tính tất yếu của liên minh công – nông – trí thức trong thời kỳ quá độ lên
CNXH ở nước ta hiện nay:
Liên minh công – nông – trí thức trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là sự
đoàn kết, hợp lực, hợp tác, liên kết… giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
đội ngũ trí thức nhằm thực hiện những nhiệm vụ, giải quyết các vấn đề vì lợi ích không
chỉ cho một lực lượng mà còn cho cả các lực lượng tham gia, đồng thời góp phần thực
hiện lợi ích chung của dân tộc, của sự nghiệp chung xây dựng chủ nghĩa xã hội
Liên minh công – nông – trí thức trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội mang
tính tất yếu từ điều kiện và đòi hỏi khách quan của chính giai đoạn lịch sử đặc biệt này.
Tính tất yếu của liên minh biểu hiện ở những mặt sau:
15
Một là, xét dưới góc độ kinh tế - kỹ thuật và phân công lao động, xuất phát từ yêu
cầu khách quan của quá trình sản xuất, trong xã hội tất yếu hình thành các lĩnh vực kinh
tế cơ bản: công nghiệp, nông nghiệp, khoa học và công nghệ, dịch vụ, … Thời kỳ quá độ
xây dựng chủ nghĩa xã hội đặt ra yêu cầu khách quan phải gắn kết chặt chẽ các lĩnh vực
này với nhau để hình thành nền kinh tế quốc dân thống nhất và tạo ra cơ sở vật chất – kỹ
thuật cần thiết cho quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
Mặt khác, là một nước nông nghiệp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nên
nông nghiệp vẫn giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế, do đó phải coi trọng phát triển
nông nghiệp trong sự gắn bó khăng khít và hỗ trợ đắc lực của công nghiệp và khoa học –
công nghệ. Khoa học và công nghệ cũng chỉ phát triển được khi hướng tới phục vụ sản
xuất nông nghiệp, công nghiệp và các lĩnh vực khác của các đời sống xã hội. Vì vậy,
nông nghiệp, công nghiệp, khoa học và công nghệ, dịch vụ, … phải liên kết chặt chẽ với
nhau không thể tách rời để tạo thành nền cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất.
Việc hình thành khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
tầng lớp trí thức cũng xuất phát từ chính nhu cầu và lợi ích kinh tế của họ nên các chủ
thể của các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, khoa học và công nghệ tất yếu phải gắn
bó, liên minh chặt chẽ với nhau để cùng thực hiện những nhu cầu và lợi ích kinh tế
chung của mình.
Hai là, xét dưới góc độ chính trị - xã hội, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, liên minh công – nông – trí thức nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp để cải tạo xã hội
cũ, xây dựng chế độ xã hội mới dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nói cách khác, thực hiện
liên minh công – nông – trí thức nhằm tập hợp lực lượng tiến hành cách mạng vì công
nhân, nông dân, trí thức không chỉ là ba lực lượng đông đảo nhất trong xã hội, mà họ
còn đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế và trong đời sống chính trị. Do vậy,
xây dựng khối liên minh nhằm tạo thành lực lượng nòng cốt của chế độ chính trị - xã
hội, trên cơ sở đó, thực hiện đại đoàn kết toàn dân để tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Nhưng khối liên minh này phải được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
của giai cấp công nhân.
Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hóa và kinh tế tri thức đòi hỏi các dân tộc phát
triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa phải có được một nền kinh tế công nông nghiệp
hiện đại với khoa học và công nghiệp tiên tiến, do đó rất cần có liên minh vững chắc
công – nông – trí thức, nhằm vượt qua những thách thức, tận dụng được những thời cơ
để phát triển.
2. Tầm quan trong của liên minh công – nông – trí thức trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội:
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tất yếu còn tồn tại các thành phần kinh
tế dựa trên các hình thức sở hữu khác nhau và vận hành theo cơ chế thị trường. Nếu giai
cấp công nhân không khéo tổ chức, không lôi kéo, lãnh đạo được toàn dân, nhất là giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức tin tưởng, ủng hộ và tham gia tích cực vào đường lối
cách mạng của Đảng thì sẽ không có cơ sở kinh tế - xã hội vũng vàng để tiến hành xây
dựng chủ nghĩa xã hội thành công. Thậm chí, các thế lực phản động, thù địch có thể sẽ
tìm mọi cách lôi kéo quần chúng nhân dân, làm rạn nứt khối liên minh và chia rẽ khối
đại đoàn kết dân tộc nhằm phá hoại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Do vậy, liên
minh công – nông – trí thức là vấn đề chiến lược có ý nghĩa quyết định thắng lợi của mọi
quá trình cách mạng. Nếu không xây dựng được khối liên minh này thì cách mạng xã hội
chủ nghĩa không thể thành công.
16
Trong khối liên minh này, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và các tầng lớp nhân
dân lao động khác là lực lượng tham gia vào cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa chứ
không thể là lực lượng tổ chức và lãnh đạo cuộc cách mạng này. Bởi vì, họ hoặc là
không đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến, hoặc không gắn với phương thức sản
xuất nào, lại không có hệ tư tưởng riêng. Vì vậy, trong khối liên minh này, giai cấp công
nhân giữ vai trò lãnh đạo thông qua đội tiên phong của mình là Đảng cộng sản là do địa
vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân quy định
Hơn nữa, thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một thời kỳ cải biến
cách mạng sâu sắc, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội để tạo ra những
tiền đề vật chất, tinh thần cần thiết cho chủ nghĩa xã hội. Đây là sự nghiệp khó khăn, lâu
dài và phức tạp đòi hỏi phải có sự nỗ lực tham gia của tất cả các giai cấp, tầng lớp nhân
dân lao động, mà trước hết là của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức, bởi vì ba lực lượng này không chỉ chiếm số động trong cơ cấu dân cư, mà cò là chủ
thể cơ bản giữ vai trò quan trọng có ý nghĩa quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
Liên minh công – nông – trí thức là lực lượng cơ bản đóng vai trò quan trọng về
chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội. Khi sản xuất càng phát triển hiện đại thì giai cấp
công nhân, giai cấp nông dân càng cần phải gắn bó chặt chẽ với đội ngũ trí thức để tạo
thành nền tảng vững chắc của chế độ và là cơ sở chính trị - xã hội bảo đảm sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản đối với toàn xã hội và khối liên minh
Khẳng định điều này, chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ rõ “Nguyên tắc cao nhất của
chuyên chính là duy trì khối liên minh giữa giai cấp vô sản và nông dân để giai cấp vô
sản có thể giữ được vai trò lãnh đạo và chính quyền nhà nước”
Mặt khác, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, khối liên minh công – nông –
trí thức đóng một vai trò rất quan trọng. Khối liên minh này được hình thành và củng cố
tăng cường không chỉ xuất phát từ yêu cầu khách quan, mà trước hết nhằm đáp ứng nhu
cầu tồn tại và phát triển của mỗi lực lượng trong khối liên minh, đồng thời nhằm đảm
bảo thực hiện lợi ích của cả dân tộc.
Quan hệ giữa công nhân, nông dân, trí thức là yếu tố nội tại torng kết cấu xã hội –
giai cấp của chủ nghĩa xã hội. Xu hướng hợp tác giữa giai cấp và tầng lớp này đều dựa
trên những cơ sở khách quan, không chỉ xuất phát từ nhu cầu, lợi ích của riêng giai cấp
công nhân mà của giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Khi chưa có chính quyền, giai
cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức đều bị giai cấp tư sản bóc lột, họ
đều có nguyện vọng được giải phóng. Khi giành được chính quyền, giai cấp công nhân,
giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức đều có nhu cầu là thoát khỏi đói nghèo, vươn lên
một cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Như vậy, liên minh công – nông – trí thức có tầm quan trọng đặc biệt nhằm tạo ra
nguồn lực và động lực to lớn để phát triển đất nước, xậy dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa.
3.Nội dung cơ bản của liên minh công - nông - trí thức trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội:
Để thực hiện tốt các nội dung của liên minh, trong quá trình thực hiện liên minh
cần đảm bảo các nguyên tắc sau:
Nguyên tắc thứ nhất: Phải "kết hợp đúng đắn các lợi ích" của các chủ thể trong
khối liên minh
17
Quan hệ giữa nhu cầu, lợi ích của mọi chủ thể trong xã hội là khách quan, mang
tính quy luật, nhưng việc "kết hợp các lợi ích" lại là những hoạt động chủ quan của các
chủ thể lợi ích, của việc lãnh đạo, quản lý kinh tế, xã hội. Thực chất của quá trình "kết
hợp lợi ích" là quá trình liên tục phát hiện và giải quyết những mâu thuẫn giữa các nhu
cầu, các lợi ích. Kết hợp đúng các lợi ích thì sẽ tạo ra được những động lực căn bản nhất
cho khối liên minh phát triển, trên cơ sở đó thúc đẩy xã hội phát triển. Ngược lại, kết
hợp sai các lợi ích sẽ tạo ra những lực cản làm suy giảm động lực và ảnh hưởng xấu đến
quan hệ liên minh công - nông - trí thức
Nguyên tắc thứ hai: đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng cộng sản trong khối liên minh,
vì Đảng không chỉ có vai trò là tập hợp lực lượng để tiến h ành cách mạng, mà còn đóng
vai trò điều hòa các lợi ích của các chủ thể trong khối liên minh, hướng tới đảm bảo dân
chủ, công bằng xã hội, tiến bộ xã hội và giải phóng con người.
Từ những nguyên tắc đó, khối liên minh công - nông - trí thức sẽ thực hiện những
nội dung cơ bản sau:
a. Nội dung chính trị của liên minh công - nông - trí thức trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội:
Nội dung chính trị của liên minh thực chất là sự đoàn kết, hợp lực của công nhân,
nông dân, trí thức để thực hiện các nhiệm vụ chính trị nhằm bảo vệ độc lập dân tộc, bảo
vệ chế độ chính trị để giữ vững định hướng lên chủ nghĩa xã hội
Nội dung chính trị của liên minh thể hiện ở việc giữ vững lập trường chính trị - tư
tưởng của giai cấp công nhân, đồng thời giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản
của giai cấp công nhân đối với khối liên minh trong quá trình xây dựng và bảo vệ vững
chắc chế độ chính trị, giữ vững độc lập dân tộc và định hướng lên chủ nghĩa xã hội. Quá
trình liên minh phải giữ vững lập trường chính trị - tư tưởng của giai cấp công nhân, bởi
vì giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức không có hệ tư tưởng riêng. Trong các chế độ xã
hội cũ (phong kiến hoặc tư bản), tư tưởng chính trị của nông dân và trí thức bị phụ thuộc
vào hệ tư tưởng của giai cấp thống trị xã hội, do vậy họ không thể tự giải phóng khỏi áp
bức, bóc lột mặc dù có nguyện vọng. Trong khi đó, do địa vị kinh tế, chính trị, xã hội
quy định, giai cấp công nhân chỉ giải phóng được chính mình khỏi mọi sự áp bức, bóc
lột khi đồng thời giải phóng toàn xã hội, tiến lên xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ
nghĩa.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xét dưới góc độ chính trị, những hệ tư
tưởng cũ lạc hậu vẫn còn ảnh hưởng trong đời sống xã hội; các thế lực thù địch còn sức
mạnh đang tìm mọi cách chống phá chính quyền cách mạng, chống phá chế độ mới. Do
đó, trên lập trường tư tưởng – chính trị của giai cấp công nhân, để thực hiện liên minh,
phải từng bước xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; đảm bảo các lợi
ích chính trị, các quyền dân chủ, quyền công dân, quyền làm chủ, quyền con người của
công nhân, nông dân, trí thức và của nhân dân lao động, từ đó, thực hiện quyền lực thuộc
về nhân dân. Độmg viên các lực lượng trong khối liên minh gương mẫu chấp hành
đường lối chính trị của Đảng; pháp luật và chính sách của Nhà nước; sẵn sàng tham gia
chiến đấu bảo vệ những thành quả cách mạng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Đồng
thời, kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa xét lại dưới mọi hình thức;
chống âm mưu “diễn tiến hòa bình” của các thế lực thù địch và phản động.
b. Nội dung kinh tế của liên minh công – nông – trí thức trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội:

18
Nội dung kinh t ế của liên minh công – nông – trí thức thực chất là sự hợp tác giữa
họ để xây dựng nền kinh tế mới xã hội chủ nghĩa mà ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội là thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển
kinh tế tri thức theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Một là, xác định đúng tiềm lực kinh tế và nhu cầu kinh t ế của công nhân, nông
dân, trí thức và toàn xã hội, trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch đầu tư và tổ chức triển khai
các hoạt động kinh tế đúng trên tinh thần đảm bảo lợi ích của các bên và tránh sự đầu tư
không hiệu quả, lãng phí. Muốn vậy, cần xác định đúng cơ cấu kinh tế (của cả nước, của
ngành, của địa phương, cơ sở sản xuất, …). Từ đó, các địa phương, cơ sở, … vận dụng
linh hoạt và phù hợp vào địa phương mình, ngành mình để xác định cơ cấu cho đúng.
Việc xác định đúng cơ cấu kinh tế thể hiện rõ nội dung kinh tế của liên minh, đồng thời
là môi trường và điều kiện để gắn kết chặt chẽ giữa công nghiệp với nông nghiệp và
khoa học – công nghệ, từ đó tăng cường hơn nữa khối liên minh công – nông – trí thức.
Hai là, tổ chức các hình thức giao lưu, hợp tác, liên kết kinh tế giữa công nghiệp –
nông nghiệp – khoa học và công nghệ; giữa các ngành kinh tế; các thành phần kinh tế,
các vùng kinh tế; giữa trong nước và quốc tế để phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao
đời sống cho công nhân, nông dân, trí thức và toàn xã hội
Ba là, nâng cao hiệu quả việc chuyển giao và ứng dụng khoa học – kỹ thuật và
công nghệ tiên tiến vào quá trình sản xuất kinh doanh nông nghiệp và công nghiệp nhằm
gắn kết chặt chẽ ba lĩnh vực kinh tế cơ bản của quốc gia, qua đó gắn bó chặt chẽ công
nhân, nông dân và trí thức làm cơ sở kinh tế - xã hội cho sự phát triển của quốc gia.
c. Nội dung văn hóa, xã hội của liên minh công – nông – trí thức trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
Các nội dung chính trị, kinh tế của liên mminh suy cho cùng là nhằm phục vụ
những nhu cầu, lợi ích vật chất và tinh thần ngày càng cao của công nhân, nông dân, trí
thức và của toàn dân.
Nội dung văn hóa, xã hội của liên minh thực chất là sự đoàn kết, hợp lực của công
nhân, nông dân, trí thức nhằm xây dựng nền văn hóa mới và con người mới xã hội chủ
nghĩa.
Nội dung văn hóa, xã hội của liên minh đòi hỏi phải đảm bảo kết hợp giữa tăng
trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, tiến bộ và công bằng xã hội; xây dựng nền văn hóa
mới xã hội chủ nghĩa; bảo vệ môi trường sinh thái; xây dựng nông thôn mới; nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực, trong đó công nhân, nông dân, trí thức là nguồn nhân lực
quan trọng và cơ bản nhất của quốc gia.
Liên minh trên lĩnh vực văn hóa, xã hội đòi hỏi phải thực hiện xóa đói giảm
nghèo; thực hiện tốt các chính sách xã hội đối với công nhân, nông dân, trí thức; chăm
sóc sức khỏe và nâng cao chất lượng sống cho nhân dân; nâng cao dân trí. Đây là nội
dung cơ bản, lâu dài tạo điều kiện cho liên minh phát triển bền vững. Do vậy, phải phát
triển giáo dục và đào tạo, nâng cao trình độ khoa học và công nghệ; chống các biểu hiện
tiêu cực và tệ nạn xã hội. Xây dựng quy hoạch tổng thể và phát triển khu công nghiệp,
khu đô thị phải gắn với đảm bảo phát triển nông thôn và nông nghiệp bền vững.
4. Phương hướng cơ bản về liên minh công – nông – trí thức trong thời kỳ
quá độ lên CNXH ở Việt Nam:

19
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, nhất là khi đất nước đang ở giai đoạn đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức càng cần phải tang
cường vững chắc.
Một là, quán triệt và thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng về xây
dựng giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.

 ĐỐI VỚI GIAI CẤP CÔNG NHÂN:


 Đối với giai cấp công nhân: Thực hiện chiến lược xây dựng giai cấp công
nhân lớn mạnh gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Giải quyết có hiệu quả những vấn đề bức xúc, cấp bách của giai cấp công nhân.
Xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ trong các loại hình công nghiệp.
Coi trọng đào tạo, nâng cao trình độ học vấn , chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp cho
giai cấp công nhân. Nâng cao giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị, hiểu biết pháp luật,
tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động, xây dựng lối sống lành mạnh trong cong
nhân. Tăng tỉ lệ đảng viên và cán bộ lãnh đạo, quản lý xuất than từ công nhân.
Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 28/1/2008 Hội nghị lần thứ sáu Ban
Chấp hành Trung ương khoá X về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt
Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước 
Nhiệm vụ và giải pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
a/ Tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về giai cấp
công nhân trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế
 Đổi mới tổ chức, tăng cường đầu tư, đẩy mạnh hơn nữa công tác
nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về giai cấp công nhân, hướng vào giải đáp
những vấn đề thực tiễn đặt ra: về xu hướng phát triển của giai cấp công nhân
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; về vấn đề trí thức
hoá giai cấp công nhân; về công nhân tham gia sở hữu doanh nghiệp; về mối quan
hệ giữa giai cấp công nhân với các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội, đặc biệt là
trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; về
sự phân hoá và mối quan hệ trong nội bộ giai cấp công nhân; về vai trò lãnh đạo
của giai cấp công nhân thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam
trong thời kỳ mới; về tổ chức và hoạt động của tổ chức đảng, các tổ chức chính trị
- xã hội trong các doanh nghiệp; về vai trò làm chủ của giai cấp công nhân, quan
hệ giữa người sử dụng lao động và nguời lao động; về mối quan hệ đoàn kết, hợp
tác giữa giai cấp công nhân Việt Nam và giai cấp công nhân các nước trong điều
kiện toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế; về những âm mưu, thủ đoạn “diễn
biến hoà bình” và tuyên truyên phản động của các thế lực thù địch đối với giai
cấp công nhân;... Qua đó cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn để đề ra chủ trương,
giải pháp xây dựng giai cấp côngnhân phát triển toàn diện trong thời kỳ mới.
b/ Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng đào tạo nghề, từng bước trí thức
hoá giai cấp công nhân
 Đẩy mạnh đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng nâng cao trình độ học
vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp cho công nhân, đặc biệt là công nhân trẻ,
20
công nhân từ nông dân, công nhân nữ, nhằm phát triển về số lượng, bảo đảm về
chất lượng, hợp lý về cơ cấu, để nước ta có một đội ngũ công nhân có trình độ
học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp ngày càng cao, có khả năng tiếp thu
nhanh và làm chủ công nghệ mới, nâng cao năng suất lao động, chất lượng và
hiệu quả sản xuất kinh doanh.
 Quan tâm quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng những nhà kinh doanh có
tài, có đức, các nhà quản lý giỏi và các cán bộ khoa học - kỹ thuật xuất thân từ
công nhân có trình độ cao, có khả năng tiếp cận với công nghệ và phương thức
kinh doanh hiện đại trong nền kinh tế thị trường, hội nhập. Quy hoạch nguồn
nhân lực, đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật và công nhân có trình độ cao để đáp
ứng yêu cầu phát triển các ngành công nghiệp mới, hiện đại. Chú trọng đào tạo
đội ngũ công nhân trong các dân tộc thiểu số, ở miền núi, vùng sâu, vùng xa. Chú
trọng đào tạo và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên dạy nghề. Có chính sách
để các thành phần kinh tế tham gia đầu tư các cơ sở đào tạo nghề với phương tiện
kỹ thuật hiện đại.
c/Quan tâm bồi dưỡng, nâng cao trình độ chính trị, ý thức giai cấp, tinh thần
dân tộc cho giai cấp công nhân
 Cần nâng cao trình độ chính trị, ý thức giai cấp và bản lĩnh chính
trị, ý thức công dân, tinh thần dân tộc, gắn bó thiết tha với sự nghiệp cách mạng
của Đảng, của dân tộc, với chế độ xã hội chủ nghĩa, ý chí vươn lên thoát khỏi
nghèo nàn, lạc hậu, tinh thần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tinh thần phấn đấu
vươn lên ngang tầm thời đại trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức và hội nhập
kinh tế quốc tế, quyết tâm chiến thắng trong cạnh tranh, tinh thần đấu tranh xây
dựng, tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động, lương tâm nghề nghiệp,... cho
công nhân.
 Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng và hoạt động của tổ
chức công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đối với công tác tuyên
truyền, giáo dục trong công nhân; đảm bảo định hướng thống nhất nội dung và
nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục từ Trung ương đến địa phương,
cơ sở.
d/ Bổ sung, sửa đổi, xây dựng và thực hiện nghiêm hệ thống chính sách,
pháp luật để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân;
chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho công nhân
 Rà soát, bổ sung, sủa đổi, xây dựng các chính sách, pháp luật về lao
động, việc làm và đời sống vật chất, tinh thần, nâng cao thể chất cho công nhân;
tập trung trước hết vào những chính sách liên quan trực tiếp đến những vấn đề
bức xúc đang đặt ra về việc làm và đời sống của công nhân.
 Bổ sung, sửa đổi, xây dựng các chính sách để phát huy các nguồn
lực và trách nhiệm của cả Nhà nước, người sử dụng lao động, các tổ chức chính
trị - xã hội, của toàn xã hội và của công nhân trong việc chăm lo cải thiện đời
sống vật chất, tinh thần cho công nhân tương xứng với năng suất lao động và
những đóng góp của công nhân. Nhà nước có chính sách đầu tư cho các tỉnh,
thành phố để xây dựng nhà ở và các công trình phúc lợi công cộng cho công
nhân.

21
 Đề cao trách nhiệm của nguời sử dụng lao động trong việc chăm lo
lợi ích, đời sống vật chất, tinh thần cho công nhân; tính tự giác của người sử dụng
lao động và của công nhân trong thực hiện chính sách, pháp luật. Đồng thời tăng
cường công tác kiểm tra, giám sát của Nhà nước, tổ chức công đoàn và các tổ
chức chính trị - xã hội khác trong doanh nghiệp; có chế tài xử lý nghiêm các tổ
chức và cá nhân vi phạm.
e/Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của tổ chức công
đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội khác trong xây dựng giai cấp công nhân
 - Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng trong xây dựng giai
cấp công nhân.
 Tiếp tục đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp.
  Xây dựng tổ chức công đoàn lớn mạnh, phát huy vai trò của công
đoàn trong xây dựng giai cấp công nhân.
 Đổi mới mạnh mẽ tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động của
tổ chức công đoàn tại các doanh nghiệp.
 ĐỐI VỚI GIAI CẤP NÔNG NHÂN:

 Đối với giai cấp nông dân: Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
của dân cư nông thôn; nông dân được đào tạo có trình độ sản xuất ngang bằng với
các nước tiên tiến trong khu vực và đủ bản lĩnh chính trị, đóng vai trò làm chủ
nông thôn mới,… Tăng mạnh đầu tư của nhà nước và xã hội, ứng dụng nhanh các
thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến cho nông nghiệp, nông thôn, phát triển
nguồn nhân lực, nâng cao dân trí nông dân.
Xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền
vững. Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại; gắn
nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch,…
Xây dựng giai cấp nông dân vững mạnh.

Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 6/8/2008 Hội nghị lần thứ bảy Ban
Chấp hành Trung ương khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn

NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP


1. Xây dựng nền nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, đồng thời
phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn
Đẩy nhanh tiến độ quy hoạch sản xuất nông nghiệp trên cơ sở nhu cầu thị
trường và lợi thế từng vùng, sử dụng đất nông nghiệp tiết kiệm, có hiệu quả, duy
trì diện tích đất lúa đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia trước mắt và
lâu dài.

22
Phát triển ngành trồng trọt, hình thành vùng sản xuất hàng hoá tập trung,
thực hiện đầu tư thâm canh, áp dụng các giống và quy trình sản xuất mới có năng
suất, chất lượng cao; hoàn thiện hệ thống tưới tiêu;
Phát triển nhanh ngành chăn nuôi theo phương thức công nghiệp, bán công
nghiệp, an toàn dịch bệnh, phù hợp với lợi thế của từng vùng; chú trọng phát triển
chăn nuôi gia súc ăn cỏ ở trung du, miền núi và Tây Nguyên;
Phát triển lâm nghiệp toàn diện từ quản lý, bảo vệ, trồng, cải tạo, làm giàu
rừng đến khai thác, chế biến lâm sản, bảo vệ môi trường cho du lịch sinh thái.
Triển khai có kết quả chương trình khai thác hải sản trong chiến lược phát
triển kinh tế biển, gắn nhiệm vụ phát triển kinh tế với bảo đảm an ninh, quốc
phòng.
Phát triển mạnh công nghiệp, dịch vụ ở các vùng nông thôn theo quy hoạch.
2. Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn gắn với phát triển
các đô thị
Tiếp tục đầu tư các công trình thủy lợi theo hướng đa mục tiêu, nâng cao
năng lực tưới tiêu chủ động cho các loại cây trồng, trước hết cho lúa, nuôi trồng
thuỷ sản và các loại cây trồng có giá trị kinh tế cao, cấp nước sinh hoạt cho dân
cư và công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn.
Phát triển giao thông nông thôn bền vững gắn với mạng lưới giao thông
quốc gia, bảo đảm thông suốt bốn mùa tới các xã và cơ bản có đường ô tô đến
thôn, bản. Ưu tiên phát triển giao thông ở các vùng khó khăn để có điều kiện phát
triển kinh tế - xã hội nhanh hơn.
Cải tạo và phát triển đồng bộ hệ thống lưới điện, bảo đảm đủ điện phục vụ
cho sản xuất nông nghiệp; nâng cao chất lượng điện phục vụ sinh hoạt của dân cư
nông thôn.
Quy hoạch bố trí lại dân cư nông thôn gắn với việc quy hoạch xây dựng
công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị ở các vùng.
Nâng cao năng lực phòng chống, giảm nhẹ thiên tai, tìm kiếm cứu nạn; chủ
động triển khai một bước các công trình giảm thiểu tác hại của biến đổi khí hậu
và nước biển dâng.
3. Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn, nhất là
vùng khó khăn
Giải quyết việc làm cho nông dân là nhiệm vụ ưu tiên xuyên suốt trong mọi
chương trình phát triển kinh tế - xã hội của cả nước; bảo đảm hài hoà giữa các
vùng, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng, giữa nông thôn và thành thị.
Tập trung nguồn lực và tăng cường chỉ đạo thực hiện đồng bộ chiến lược về
tăng trưởng và xoá đói, giảm nghèo.
Nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe ban đầu và khám chữa bệnh; thực
hiện tốt chính sách bảo hiểm y tế, dân số, giảm tỉ lệ sinh ở nông thôn. Ưu tiên đầu
tư phát triển giáo dục và đào tạo ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc.
Xây dựng hệ thống an sinh xã hội ở nông thôn. Tiếp tục thực hiện các chính
sách bảo hiểm y tế đối với người nghèo, chăm sóc trẻ em dưới 6 tuổi, chế độ cứu

23
trợ đối với hộ thiếu đói, vùng khó khăn, cấp học bổng cho học sinh nghèo, cận
nghèo.
Đấu tranh, ngăn chặn các hành vi tiêu cực, giữ vững an ninh, trật tự an toàn
xã hội, giải quyết kịp thời các vụ việc khiếu kiện của nhân dân, không để gây
thành những điểm nóng ở nông thôn. Tích cực đấu tranh phòng, chống tham
nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
4. Đổi mới và xây dựng các hình thức tổ chức sản xuất, dịch vụ có hiệu quả
ở nông thôn
Tiếp tục tổng kết, đổi mới và xây dựng các mô hình kinh tế, hình thức tổ
chức sản xuất có hiệu quả ở nông thôn.
Tiếp tục đổi mới, phát triển hợp tác xã, tổ hợp tác phù hợp với nguyên tắc
tổ chức của hợp tác xã và cơ chế thị trường; hỗ trợ kinh tế tập thể về đào tạo cán
bộ quản lý, lao động; tiếp cận các nguồn vốn, trợ giúp kỹ thuật và chuyển giao
công nghệ, phát triển thị trường, xúc tiến thương mại và các dự án phát triển nông
thôn; hợp tác xã phải làm tốt các dịch vụ đầu vào, chế biến, tiêu thụ sản phẩm cho
nông dân.
Tạo môi trường thuận lợi để hình thành và phát triển mạnh các loại hình
doanh nghiệp nông thôn, nhất là các doanh nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản,
sử dụng nguyên liệu và thu hút nhiều lao động nông nghiệp tại chỗ, doanh nghiệp
dịch vụ vật tư, tiêu thụ nông, lâm, thuỷ sản cho nông dân. Phát triển mạnh doanh
nghiệp công nghiệp chế tạo máy móc, thiết bị, vật tư, nguyên liệu... phục vụ nông
nghiệp.
5. Phát triển nhanh nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học, công
nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, tạo đột phá để hiện đại hoá nông nghiệp, công
nghiệp hoá nông thôn
Tăng đầu tư ngân sách cho nghiên cứu, chuyển giao khoa học - công nghệ
để nông nghiệp sớm đạt trình độ tương đương với các nước tiên tiến trong khu
vực;
Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng kiến thức khoa học kỹ thuật sản xuất nông
nghiệp tiên tiến, hiện đại cho nông dân;
6. Đổi mới mạnh mẽ cơ chế, chính sách để huy động cao các nguồn lực,
phát triển nhanh kinh tế nông thôn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của
nông dân
7. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy sức
mạnh của các đoàn thể chính trị - xã hội ở nông thôn, nhất là hội nông dân
Chăm lo xây dựng giai cấp nông dân Việt Nam, củng cố liên minh công
nhân - nông dân - trí thức trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
C.ĐỐI VỚI ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC:

 Đối với đội ngũ trí thức: thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư
tưởng hoạt động nghiên cứu, sang tạo của trí thức. Tạo môi trường và điều kiện thuận
lợi cho hoạt động nghề nghiệp của trí thức. Trọng dụng, đãi ngộ và tôn vinh trí thức trên
cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến; có chính sách đặc biệt
24
đối với nhân tài của đất nước. Đề cao trách nhiệm của trí thức, củng cố và nâng cao chất
lượng hoạt động các hội của trí thức. Nâng cao chất lượng công tác lãnh đạo của Đảng
đối với đội ngũ trí thức.

Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 6/8/2008 Hội nghị lần thứ bảy Ban
Chấp hành Trung ương khóa X về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
- Nhiệm vụ và giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
 1- Hoàn thiện môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động
của trí thức 

- Ban hành quy chế dân chủ trong hoạt động khoa học và công nghệ, giáo dục và
đào tạo, văn hóa và văn nghệ; bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, chính sách, tạo điều
kiện để trí thức tự khẳng định, phát triển, cống hiến và được xã hội tôn vinh. Tăng
đầu tư từ nhiều nguồn khác nhau cho các lĩnh vực nói trên, đặc biệt khuyến khích
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển khoa học.
 - Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và tăng cường
thực thi việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, quyền tác giả đối với các sản phẩm sáng
tạo, nhằm bảo đảm lợi ích của trí thức khi chuyển giao phát minh, sáng kiến và
khuyến khích đội ngũ trí thức gia tăng sự cống hiến.
 - Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, tạo hành lang
pháp lý thuận lợi và xây dựng cơ chế hoạt động, tổ chức nhiều diễn đàn để
khuyến khích và bảo đảm quyền lợi, trách nhiệm của trí thức khi tham gia các
hoạt động tư vấn, phản biện và giám định các chủ trương, chính sách, các dự án
phát triển kinh tế - xã hội.
 - Nhà nước đầu tư xây dựng một số khu đô thị khoa học, khu công
nghệ cao, tổ hợp khoa học - sản xuất, trường đại học trọng điểm, các trung tâm
văn hóa hiện đại để thúc đẩy hoạt động sáng tạo của trí thức trong và ngoài nước. 
- Mở rộng hợp tác và giao lưu quốc tế về khoa học và công nghệ, giáo dục và đào
tạo, văn hóa và văn nghệ.
 2- Thực hiện chính sách trọng dụng, đãi ngộ và tôn vinh trí
thức 

- Ðổi mới công tác cán bộ của Ðảng và Nhà nước, quy định rõ trách nhiệm của
các cơ quan quản lý trong việc tiến cử và sử dụng cán bộ là trí thức, khắc phục
tình trạng hành chính hóa, thiếu công khai, minh bạch trong các khâu tuyển dụng,
bố trí, đánh giá và bổ nhiệm cán bộ quản lý.
 - Rà soát các chính sách hiện có và ban hành các cơ chế, chính sách
mới bảo đảm để trí thức được hưởng đầy đủ lợi ích vật chất, tinh thần tương xứng
với giá trị từ kết quả lao động sáng tạo của mình.
 - Hoàn thiện và thực hiện nghiêm túc các cơ chế, chính sách để
động viên và tiếp tục sử dụng về chuyên môn, nghiệp vụ đối với những trí thức có
trình độ cao, năng lực và sức khỏe đã hết tuổi lao động.
25
 - Có chính sách ưu đãi cụ thể về lương, điều kiện làm việc, sinh
hoạt... đối với trí thức làm việc ở vùng kinh tế, xã hội khó khăn, trí thức là người
dân tộc thiểu số, người khuyết tật...; đổi mới, nâng cao chất lượng xét chọn và
nâng mức thưởng đối với các danh hiệu cao quý và các giải thưởng Nhà nước
dành cho trí thức.
 3- Tạo chuyển biến căn bản trong đào tạo, bồi dưỡng trí thức 
- Tiến hành cải cách giáo dục từ cơ cấu hệ thống đến chương trình, nội dung,
phương pháp dạy và học, nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo đại học
 - Huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn đầu tư để phát triển
giáo dục và đào tạo. Thực hiện đa dạng hóa các loại hình đào tạo, bồi dưỡng ở
trong và ngoài nước.
 - Tăng cường hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công
nghệ. Gắn đào tạo đại học và sau đại học với nghiên cứu khoa học, với sản xuất
kinh doanh.
 - Thực hiện tốt việc đưa cán bộ, học sinh, sinh viên có đạo đức và
triển vọng đi đào tạo ở nước ngoài, chú trọng các chuyên ngành mà đất nước có
nhu cầu bức thiết.
 4- Ðề cao trách nhiệm của trí thức, củng cố và nâng cao chất
lượng hoạt động các hội của trí thức
 - Xây dựng quy chế, cơ chế thông tin giúp trí thức kịp thời nắm
vững các chủ trương, chính sách của Ðảng, Nhà nước và tình hình thực tiễn của
đất nước và địa phương.
 - Tăng cường sinh hoạt tư tưởng, phát huy trách nhiệm đội ngũ trí
thức trong rèn luyện, phấn đấu, bồi đắp, phát huy những phẩm chất tốt đẹp, như
lòng yêu nước, tính tích cực xã hội, tính nhân văn, đạo đức, lối sống... 
- Tạo cơ hội để trí thức tự nguyện đi đầu trong việc truyền bá những tri thức tiến
bộ trong cộng đồng, áp dụng có hiệu quả những tiến bộ đó vào sản xuất và đời
sống, góp phần thiết thực nâng cao dân trí.
 - Có cơ chế, chính sách huy động trí thức, đặc biệt là trí thức đầu
ngành, trực tiếp chăm lo và thực hiện việc đào tạo đội ngũ kế cận.
 5- Nâng cao chất lượng công tác lãnh đạo của Ðảng đối với đội
ngũ trí thức 

- Nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng và chính quyền về vai trò, vị trí quan
trọng của trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội
nhập quốc tế; xác định công tác trí thức là nhiệm vụ quan trọng thường xuyên của
cấp ủy đảng, chính quyền các cấp.
- Phát huy tài năng và trọng dụng những trí thức có phẩm chất tốt, có năng
lực quản lý là đảng viên và không phải là đảng viên trong các cơ quan nhà nước
và tổ chức sự nghiệp.

26
Hai là, tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn, xây dựng nông thôn mới là phương thức căn bản và quan trọng để thực
hiện liên minh công – nông – trí thức ở Việt Nam hiện nay.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thực chất là quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hang hóa,
đồng thời chuyển dịch nông thôn theo hướng tang nhanh tỷ trọng giá trị sản
phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ; giảm dần tỷ trọng sản
phẩm và lao động nông nghiệp.
Để đạt nội dung trên, phải tang cường đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, ứng
dụng khoa học và công nghệ hiện đại, công nghệ sinh học, thủy lợi hóa, cơ giới
hóa, thông tin hóa, thay thế lao động thủ công, thay đổi tập quán canh tác lạc hậu
để sử dụng có hiệu quả đất đai, tài nguyên, lao động, nâng cao năng suất, chất
lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nông sản; xây dựng nông thôn mới một
cách phù hợp, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nông dân. Những nội
dung này muốn thực hiện được tất yếu cần có sự hỗ trợ và giúp đỡ đắc lực của
công nghiệp, của khoa học và công nghệ, của công nhân và trí thức. Nói cách
khác, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn chính là nhằm tạo
môi trường và điều kiện hiện thực để giai cấp nông dân hợp tác, liên kết chặt chẽ
với giai cấp công nhân và đội ngũ trí thức.
Đẩy mạnh nghiên cứu sang tạo và ứng dụng các thành tựu của khoa học và
công nghệ trong tất cả các ngành, nhất là trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp và
công nghiệp làm cơ sở vững chắc cho sự phát triển của nông nghiệp và công
nghiệp. Để thực hiện tốt giải pháp này, vai trò của đội ngủ trí thức là rất quan
trọng. Thông qua việc đẩy mạnh sang tạo khoa học và ứng dụng nhanh những
thành tựu của nó vào sản xuất, giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ
trí thức có môi trường và điều kiện hiện thực để gắn bó chặt chẽ với nhau, qua
đó góp phần quan trọng vào việc củng cố và tang cường khối liên minh.
Ba là, tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị ở cơ sở và thực hiện tốt Quy chế
và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở cơ sở.
Thực hiện tốt vấn đề này sẽ có tác động trực tiếp đến nội dung liên minh
về chính trị và nhấn mạnh đến vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện của
các tổ chức đảng, nhà nước, đoàn thể đối với việc tăng cường khối liên minh.
Việc đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của hệ thống
chính trị, nhất là hệ thống chính trị cơ sở, đồng thời tiếp tục thực hiện tốt Quy
chế dân chủ ở cơ sở chính là nhằm phát huy năng lực sang tạo của giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và toàn dân trong quá trình xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc; đồng thời hướng tới mục tiêu xây dựng và phát triển nền dân
chủ XHCN, để đảm bảo thực hiện quyền lực của dân, đảm bảo quyền làm chủ
của công nhân, nông dân và trí thức trên mọi lĩnh vực, qua đó đáp ứng kịp thời
những nhu cầu, lợi ích chính đáng, chăm lo thiết thực đời sống vật chất và tinh
thần của công nhân, nông dân, của trí thức và toàn dân.
Bốn là, kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức chính
trị - xã hội, tổ chức nghề nghiệp của công nhân, nông dân, trí thức.
Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động và nâng cao chất lượng
hoạt động của tổ chức công đoàn trong các loại hình doanh nghiệp nhằm bảo vệ

27
quyền lợi và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân. Công đoàn cần tăng
cường hơn nữa công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao giác ngộ giai cấp, bản
lĩnh chính trị, ý thức tự lực, tự cường, tinh thần cảnh giác cách mạng, kiên định
con đường XHCN cho công nhân.
Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể chính trị - xã hội ở nông thôn; tạo cơ chế và điều kiện thuận lợi
cho Hội Nông dân Việt Nam trong việc trực tiếp thực hiện một số chương trình,
dự án phục vụ sản xuất và nâng cao đời sống của nông dân, hướng dẫn phát triển
các hình thức kinh tế tập thể trong nông nghiệp. Chăm lo xây dựng giai cấp nông
dân lớn mạnh đáp ứng yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Nâng cao chất lượng hoạt động của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ
thuật, Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật trong vận động, tập hợp, đoàn kết trí
thức. Củng cố, phát triển, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của các tổ
chức thành viên Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Liên hiệp
các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam từ Trung ương đến địa phương, tạo môi
trường lành mạnh để phát huy năng lực sang tạo và nâng cao phẩm chất đạo đức
của đội ngũ trí thức.
Phát huy mạnh mẽ vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà
nước và của các tổ chức chính trị - xã hội nhằm tăng cường liên minh công -
nông – trí thức để khối liên minh thực sự là nền tảng của khối đại đoàn kết dân
tộc.

28

You might also like