You are on page 1of 63

Tìm hiểu Vườn quốc gia Việt Nam.

Đỗ Thương Huyền K4Địa

Giới thiệu chung

Vườn quốc gia Banff, Alberta, Canada.


Vườn quốc gia là một khu vực đất hay biển được bảo
tồn bằng các quy định pháp luật của chính quyền sở tại.
Vườn quốc gia được bảo vệ nghiêm ngặt khỏi sự khai
thác, can thiệp bởi con người. Vườn quốc gia thường
được thành lập ở những khu vực có địa mạo độc đáo có
giá trị khoa học hoặc những khu vực có hệ sinh thái
phong phú, có nhiều loài động-thực vật có nguy cơ tuyệt
chủng cao cần được bảo vệ nghiêm ngặt trước sự khai
thác của con người. Các vườn quốc gia là một khu vực
được bảo vệ theo quy định của IUCN loại II. Vườn quốc gia lớn nhất thế giới là Vườn quốc gia Đông Bắc đảo
Greenland được thành lập năm 1974.
Định nghĩa: Theo định nghĩa của Liên minh Quốc tế Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên (IUCN)
thì vườn quốc gia là: Natural area of land and/or sea, designated to(a) protect the ecological integrity of one or
more ecosystems for present and future generations,(b) exclude exploitation or occupation inimical to the
purposes of designation of the area and(c) provide a foundation for spiritual, scientific, educational,
recreational and visitor opportunities, all of which must be environmentally and culturally compatible.
Tạm dịch: Khu vực tự nhiên của vùng đất và hoặc vùng biển, được chọn để (a) bảo vệ tình trạng nguyên vẹn
sinh thái của một hay nhiều hệ sinh thái cho các thế hệ hiện tại và tương lai, (b) loại bỏ việc khai thác hay chiếm
giữ không thân thiện đối với các mục đích của việc chọn lựa khu vực và (c) chuẩn bị cơ sở cho các cơ hội tinh
thần, khoa học, giáo dục, giải trí và thăm quan, tất cả các cơ hội đó phải có tính tương thích về văn hóa và môi
trường.
VƯỜN QUỐC GIA: khu bảo tồn thiên nhiên do nhà nước quyết định thành lập, nghiêm cấm mọi hoạt động khai
thác và phá huỷ giới tự nhiên trong đó nhằm bảo vệ nguyên vẹn các hệ sinh thái, bảo tồn nguyên vị loài động
vật, thực vật, bảo tồn nguồn gen tự nhiên có giá trị khoa học, kinh tế, giải trí, giáo dục và thẩm mĩ. Hệ thống sinh
thái trong khu VQG phải được giữ nguyên trạng, không có sự can thiệp của con người vào môi trường vật lí và
các hệ động vật, thực vật. Các mối quan hệ qua lại giữa hệ sinh vật và môi trường, giữa các hệ sinh vật và bên
trong mỗi hệ sinh vật vận hành theo quy luật cân bằng tự nhiên. Các chức năng sản xuất, điều hoà và bảo vệ
trong hệ thống triển khai một cách bình thường. VQG là đối tượng quản lí theo một quy chế nghiêm ngặt do nhà
nước ban hành. VQG được phân thành 3 phân khu: phân khu bảo vệ nghiêm ngặt, phân khu phục hồi sinh thái,
phân khu hành chính - dịch vụ. Các khu dịch vụ dành cho hoạt động tham quan, giải trí và trụ sở cơ quan quản lí;
có thể thiết kế đường sá, vườn cây, hồ nước và công trình phục vụ khách tham quan. Để bảo đảm an toàn việc
1
bảo tồn các hệ động vật, hệ thực vật, hệ sinh thái có vùng đệm. Vùng đệm là vùng đất đai được phép khai thác
hạn chế vì mục đích dân sinh nằm liền kề với VQG hay khu bảo tồn thiên nhiên, là hành lang an toàn bảo vệ,
kiểm soát, ngăn chặn sự xâm nhập từ bên ngoài vào VQG. VQG thường được xây dựng tại các danh lam thắng
cảnh, nơi có nhiều tài nguyên quý giá, nhất là tài nguyên sinh vật, dùng làm nơi nghiên cứu tự nhiên nguyên sinh
hoặc làm nơi du lịch, nghỉ ngơi. VQG đầu tiên trên thế giới là VQG Yelâuxtân (Yellowstone) ở Hoa Kì, xây
dựng vào năm 1872. Ở Việt Nam, đến cuối năm 2003, đã có 27 VQG. VQG Cúc Phương, VQGCát Bà, VQG
Cát Tiên, vv.
Lịch sử: Ý tưởng về việc thiết lập cảnh quan thiên nhiên đáng được bảo vệ cụ thể nào đó dưới sự bảo vệ có
nguồn gốc từ đầu thế kỷ 19. Nhà thơ người Anh William Wordsworth năm 1810 đã viết về hồ District như là
"một loại tài sản quốc gia trong đó mọi người có quyền và lợi ích, những người có mắt để nhận biết và trái tim
để thưởng thức". Họa sĩ Mỹ George Catlin năm 1832, trong những chuyến đi về miền tây nước Mỹ, đã viết rằng
thổ dân Bắc Mỹ tại Hoa Kỳ cần được bảo toàn: bằng một số chính sách bảo vệ lớn của chính quyền ... trong khu
vườn tráng lệ ... Một vườn quốc gia, chứa người và động vật, tất cả trong sự hoang dã và trong sạch của vẻ đẹp
tự nhiên của họ!. Nam tước Thụy Điển gốc Phần Lan Adolf Erik Nordenskiöld cũng đưa ra ý kiến tương tự vào
năm 1880. Nhà tự nhiên học người Mỹ gốc Scotland John Muir cũng đã đưa ra các cảm hứng trong việc thiết lập
các vườn quốc gia, đề cập tới nhiều ý tưởng của các phong trào bảo tồn, môi trường và quyền động vật sau này.
Ý tưởng chung của họ là giữ lại những điều kỳ diệu của thiên nhiên sao cho các thế hệ tương lai có thể thưởng
thức chúng và tìm lại được chúng tại nơi đó.
Ra đời: Cố gắng đầu tiên để thiết lập những vùng đất được bảo vệ là tại Hoa Kỳ, vào ngày 20 tháng 4 năm
1832, khi tổng thống Andrew Jackson ký một sắc luật để dự trữ 4 vùng đất xung quanh khu vực ngày nay là Hot
Springs, Arkansas nhằm bảo vệ các suối nước nóng tự nhiên và các khu vực núi cận kề để chính quyền Hoa Kỳ
sử dụng trong tương lai. Nó được biết đến như là Khu bảo tồn Hot Springs. Tuy nhiên đã không có cơ quan
quyền lực nhà nước nào được thành lập và việc kiểm soát của liên bang đối với khu vực đã không được thiết lập
một cách rõ ràng cho tới tận năm 1877. Cố gắng tiếp theo nhằm thiết lập những vùng đất được bảo vệ cũng là tại
Hoa Kỳ, khi tổng thống Abraham Lincoln ký sắc luật của Quốc hội Hoa Kỳ ngày 30 tháng 6 năm 1864, nhượng
lại thung lũng Yosemite và rừng Mariposa với các cây cự sam (hay cù tùng khổng lồ) (sau này là Vườn quốc gia
Yosemite) cho bang California, trong đó ghi rõ: Bang đã đề cập [California] tới sẽ chấp nhận sự chuyển
nhượng này với các điều kiện rõ ràng rằng các tài sản sẽ được duy trì để sử dụng công cộng, làm trung tâm
nghỉ ngơi và tiêu khiển; sẽ không được chuyển nhượng vào bất kỳ thời gian nào.
Vườn quốc gia Yellowstone, Hoa Kỳ.
Năm 1872, Vườn quốc gia Yellowstone đã được thành lập như
là vườn quốc gia thật sự đầu tiên trên thế giới. Khi tin tức về các
kỳ quan thiên nhiên của khu vực Yellowstone lần đầu tiên được
công bố thì vùng đất này, khác với Yosemite, đang là một phần
của lãnh thổ mà chưa một bang nào chiếm quyền quản lý, vì thế

2
Tìm hiểu Vườn quốc gia Việt Nam. Đỗ Thương Huyền K4Địa
chính quyền liên bang đã chịu trách nhiệm trực tiếp quản lý, một quá trình chính thức được hoàn thành vào ngày
1 tháng 10 năm 1890. Nó là cố gắng và lợi ích tổ hợp của các nhà bảo tồn, các chính khách và đặc biệt là các
doanh nhân (cụ thể là công ty quản lý tuyến đường sắt Bắc Thái Bình Dương, mà hành trình đi qua Montana đã
thu được lợi ích lớn nhờ sự tạo ra điểm hấp dẫn du khách này), để đảm bảo rằng Quốc hội Hoa Kỳ sẽ thông qua
sắc luật nhằm thành lập Vườn quốc gia Yellowstone.Wallace Stegner đã viết rằng vườn quốc gia là ý tưởng tốt
nhất của người Mỹ – xuất phát từ việc bảo tồn mang tính hoàng tộc mà các chính thể Cựu thế giới phục vụ cho
chính bản thân họ - để tạo ra sự bảo tồn dân chủ, mở cho tất cả mọi người, "nó phản ánh chúng ta ở khía cạnh tốt
nhất, chứ không phải ở khía cạnh tệ nhất." . Tuy vậy, chỉ 44 năm sau khi thành lập các vườn quốc gia
Yellowstone, Yosemite và gần 37 vườn quốc gia, khu bảo tồn khác thì cơ quan nhà nước quản lý toàn diện các
khu vực này mới được thành lập tại Hoa Kỳ - đó là Cục Vườn Quốc gia Hoa Kỳ (NPS). Một điều thú vị là một
doanh nhân, ông Stephen Mather, đã là người thúc đẩy mạnh mẽ nhất cho viẹc thành lập NPS, ông dã viết cho
Franklin Knight Lane, khi đó là Bộ trưởng Nội vụ về nhu cầu đó. Lane đã mời Mather đến Washington, DC để
làm việc cùng ông trong soạn thảo và chờ sự thông qua của dự luật về tổ chức NPS, được Quốc hội Hoa Kỳ phê
chuẩn và ký ngày 25 tháng 8 năm 1916.Số lượng các khu vực hiện tại do NPS quản lý tại Hoa Kỳ là 391, trong
đó chỉ có 58 là các vườn quốc gia.
Tại các quốc gia khác, ý tưởng về thành lập vườn quốc gia như Yellowstone cũng đã dần dần được chấp nhận.
Tại Australia, Vườn quốc gia Hoàng gia đã được thành lập ở phía nam Sydney năm 1879. Tại Canada, Vườn
quốc gia Banff (khi đó gọi là Vườn quốc gia núi Rocky) là vườn quốc gia đầu tiên của nước này vào năm 1885.
New Zealand có vườn quốc gia đầu tiên vào năm 1887. Tại châu Âu các vườn quốc gia đầu tiên là tập hợp gồm 9
vườn tại Thụy Điển vào năm 1909. Hiện tại, châu Âu có 370 vườn quốc gia.
Sau Đại chiến thế giới lần thứ hai, các vườn quốc gia đã được thành lập trên khắp thế giới. Vườn quốc gia
Vanoise trong khu vực dãy núi Alps là vườn quốc gia đầu tiên của Pháp, thành lập năm 1963 sau khi diễn ra các
cuộc biểu tình ngăn chặn một dự án du lịch tại đây. Tại Việt Nam, Vườn quốc gia Cúc Phương thành lập năm
1966 là vườn quốc gia đầu tiên của nước này.
Các đặc trưng của vườn quốc gia:
Vườn quốc gia hẻm núi Bryce tại miền nam Utah, Hoa Kỳ được
thành lập năm 1928. Trước đây nó là khu bảo tồn quốc gia.Các
vườn quốc gia thông thường nằm tại các khu vực chủ yếu là
chưa phát triển, thường là những khu vực với động - thực vật
bản địa quý hiếm và các hệ sinh thái đặc biệt (chẳng hạn cụ thể
là các loài đang nguy cấp), sự đa dạng sinh học, hay các đặc
trưng địa chất đặc biệt. Đôi khi, các vườn quốc gia cũng được
thành lập tại các khu vực đã phát triển với mục tiêu làm cho khu
vực đó trở lại gần giống như tình trạng ban đầu của nó, càng gần càng tốt.

3
Tại một số quốc gia, chẳng hạn như tại Vương quốc Anh và Wales, các khu vực được dùng làm vườn quốc gia
không phải là vùng hoang vu, cũng không do nhà nước sở hữu, và có thể bao gồm các khu dân cư và việc sử
dụng đất là đáng kể, thông thường chúng là một bộ phận hợp thành của cảnh quan khu vực. Vườn quốc gia đầu
tiên của Scotland, vườn quốc gia Loch Lomond và Trossachs, được thành lập tháng 7 năm 2002 và vườn quốc
gia Cairngorms được thành lập tháng 3 năm 2003.
1.Quản lý, sử dụng: Phần lớn các vườn quốc gia có vai trò kép, một mặt đây là khu vực cung cấp nơi cư trú cho
sự sống hoang dã, mặt khác nó lại phục vụ như là nơi du lịch phổ biến cho quần chúng. Việc quản lý các mâu
thuẫn tiềm ẩn giữa hai mục đích này có thể là một vấn đề, cụ thể là du khách sẽ đem lại thu nhập cho vườn quốc
gia và vườn quốc gia sử dụng nguồn thu nhập này để duy trì và phát triển các dự án bảo tồn. Các vườn quốc gia
cũng là nguồn cung cấp các tài nguyên thiên nhiên có giá trị, chẳng hạn như gỗ, khoáng sản và các loại tài
nguyên có giá trị khác. Sự cân bằng giữa nhu cầu khai thác các tài nguyên này với tổn thất do việc khai thác gây
ra, thường là thách thức rất quan trọng đối với hệ thống quản lý vườn quốc gia. Các vườn quốc gia cũng hay bị
đốn hạ bất hợp pháp và các dạng khai thác lậu khác, đôi khi là do tham nhũng. Điều này đe dọa tính nguyên vẹn
của nhiều môi trường sống có giá trị.
2. Các dạng bảo tồn khác: Một vài quốc gia cũng chọn các khu vực với tầm quan trọng lịch sử, khoa học hay
văn hóa đặc biệt làm vườn quốc gia hoặc là các thực thể đặc biệt trong hệ thống vườn quốc gia của mình. Các
quốc gia khác lại sử dụng kiểu khác cho việc bảo tồn các khu vực lịch sử. Một số các khu vực này, nếu đạt được
các tiêu chuẩn đã đề ra, có thể được UNESCO công nhận là Di sản thế giới.
Tại nhiều quốc gia, các cơ quan chính quyền địa phương có thể là tổ chức chịu trách nhiệm duy trì hệ thống
vườn. Một số trong số các hệ thống vườn này cũng được gọi là vườn quốc gia.
Một số vườn quốc gia theo quốc gia:
Áo: Hiện tại, Áo có 6 vườn quốc gia với tổng diện tích 2.356 km², chiếm khoảng 2,8% diện tích nước này.
Đức: Tại Đức hiện tại có 14 khu vực thiên nhiên có giá trị được gọi là vườn quốc gia. Với 9.134,31 km², các
vườn quốc gia của Đức chiếm khoảng 2,6% diện tích nước này.
Hoa Kỳ: Hiện tại Hoa Kỳ có 58 vườn quốc gia chính thức, nhiều trong số đó đã trên 100 năm tuổi. Vườn quốc
gia Yellowstone tại các bang Wyoming, Montana và Idaho được thành lập năm 1872 là vườn quốc gia đầu tiên
trên thế giới.
Việt Nam: Việt Nam hiện tại (năm 2007) có 30 vườn quốc gia, với vườn quốc gia Cúc Phương thành lập năm
1966 là vườn quốc gia đầu tiên tại Việt Nam. Tổng diện tích các vườn quốc gia khoảng 10.350,74 km² (trong đó
có 620,10 km² là mặt biển), chiếm khoảng 2,93% diện tích đất liền của nước này.

Hình ảnh từ vệ tinh Landsat 7 của vườn quốc gia Kavir, Iran.

4
Tìm hiểu Vườn quốc gia Việt Nam. Đỗ Thương Huyền K4Địa

Vườn quốc gia tại Việt Nam là một danh hiệu được Chính phủ Việt Nam công nhận chính thức thông qua nghị
định, được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý.
30 vườn quốc gia sau đây tại Việt Nam đã được công nhận:

Năm thành Diện


Vùng Tên vườn Địa điểm
lập tích(ha)
Hoàng Liên Lào Cai
Ba Bể 1992 7.610 Bắc Kạn
Bái Tử Long 2001 15.783 Quảng Ninh
Trung du và miền núi
Xuân Sơn 2002 15.048 Phú Thọ
phía Bắc
Vĩnh Phúc, Thái Nguyên,
Tam Đảo 36.883
Tuyên Quang
Ba Vì 1991 6.986 Hà Tây
Cát Bà 1986 15.200 Hải Phòng
Đồng bằng Bắc Bộ Ninh Bình, Thanh Hóa,
Cúc Phương 1994 20.000
Hòa Bình
Xuân Thủy 2003 7.100 Nam Định
Bắc Trung Bộ Bến En 1992 16.634 Thanh Hóa
Pù Mát 2001 91.113 Nghệ An
Vũ Quang 2002 55.029 Hà Tĩnh
Phong Nha-Kẻ Bàng 200.000 Quảng Bình
5
Bạch Mã 1991 22.030 Thừa Thiên-Huế
Chư Mom Ray 2002 56.621 Kon Tum
Kon Ka Kinh 2002 41.780 Gia Lai
Tây Nguyên Yok Đôn 1991 115.545 Đăk Lăk
Chư Yang Sin 2002 58.947 Đăk Lăk
Bidoup Núi Bà 64.800 Lâm Đồng
Đồng Nai, Lâm Đồng,
Cát Tiên 1992 73.878
Bình Phước
Đông Nam Bộ Bù Gia Mập 2002 26.032 Bình Phước
Côn Đảo 1993 15.043 Bà Rịa-Vũng Tàu
Lò Gò Xa Mát 2002 18.765 Tây Ninh
Tràm Chim 1994 7.588 Đồng Tháp
U Minh Thượng 2002 8.053 Kiên Giang
Mũi Cà Mau 2003 41.862 Cà Mau
Tây Nam Bộ U Minh Hạ 2006 8.286 Cà Mau
Phước Bình 2006 19.814 Ninh Thuận
Núi Chúa 2003 29.865 Ninh Thuận
Phú Quốc 2001 31.422 Kiên Giang

1.VƯỜN QUỐC GIA HOÀNG LIÊN

Nằm ở độ cao từ 1.000 đến 3.000 m so với mặt biển, 60.000 ha Vườn quốc gia
Hoàng Liên nằm ở phía Tây Nam huyện Sa Pa là một thảm thực vật đa dạng,
lá phổi xanh tạo cho môi trường cảnh quan thiên nhiên Sa Pa nói riêng và các
địa phương lân cận nói chung một khí hậu ôn hoà với đa dạng sinh học vô
cùng phong phú và quý hiếm.
Tại đây, từ rất sớm các nhà nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước qua nhiều
năm nghiên cứu và tìm hiểu về hệ sinh thái Sa Pa đều thừa nhận là một vùng đa
dạng sinh học gồm nhiều chi, họ của hơn 2.000 loài thực vật bậc cao, hàng ngàn
loại động vật có xương sống, côn trùng và bò sát... chiếm gần 50% trong tổng loài của hệ động - thực vật Việt
Nam, trong đó có nhiều loài động, thực vật quý hiếm có tên trong sách đỏ như: bách xanh, thiết sam, thông tre,
6
Tìm hiểu Vườn quốc gia Việt Nam. Đỗ Thương Huyền K4Địa
thông đỏ, đinh tùng, dẻ tùng... Các loại chim quý như đại bàng đốm to, trĩ mào đỏ, chim hét mỏ vàng, vượn đen,
gấu trắng, đại bàng... nhiều nơi vắng bóng nhưng nơi đây vẫn còn. Đó là chưa kể hàng trăm loài thảo dược quý
hiếm như quy, thục, đỗ trọng, hoàng liên chân chim, đỗ quyên, kim giao, thảo quả chưa được khai thác.
Từ năm 2003 trở lại đây, sau khi có quyết định thành lập vườn quốc gia, một nhóm các nhà khoa học trong và
ngoài nước, các trường đại học được giao nhiệm vụ kết hợp cùng địa phương nghiên cứu sự đa dạng sinh học
của khu bảo tồn thiên nhiên đã tích cực khảo sát, thống kê một cách hệ thống nhằm xây dựng một bản đồ hiện
trạng vườn quốc gia. Qua khảo sát theo dọc tuyến Hoàng Liên đã phát hiện thêm nhiều loài quý hiếm như ở độ
cao 2.000 mét của khu vực các xã Séo Mý Tỷ đến Dền Thàng có khu rừng pơ mu mọc liên tiếp với diện tích trên
100 ha, mỗi cây có đường kính trên 1m, là vùng đất hầu như còn nguyên sơ chưa ai đặt chân đến. Còn ở huyện
Phan Xi Păng đi San Sả Hồ ở độ cao gần 3.000m, lại phát hiện rừng đỗ quyên với khoảng 20 loài trong tổng số
27 loài có mặt tại Việt Nam, trong đó đẹp và nhiều nhất là loài quyên ly, quyên huyền diệu, quyên silie... Ngay
cả loài kim giao được coi là hiếm cũng tìm thấy ở đây - trên độ cao 1.700m. Đó là chưa kể còn trên 2.500 loài
lấy được mẫu tiêu bản nhưng chưa xác định được tên họ của cây. Gần đây, tại khu vực Vườn quốc gia, người ta
còn tìm thấy loài nấm cổ linh chi, trong đó có cây to, nặng gần 6 kg. Về động vật, ngoài một số loài quen thuộc
như sóc bay, mèo rừng, sơn dương, vượn đen, gà lôi đủ màu... mới đây còn phát hiện thêm loài ếch gai rất hiếm
có ở Việt nam.
Do diện tích vườn rộng lớn, địa hình phức tạp, tiếp giáp với cả 6 xã trong huyện và một số huyện bạn, tỉnh bạn
nên công tác bảo vệ tài nguyên thiên nhiên trong vườn được chính quyền địa phương (tỉnh Lào Cai) đặt lên hàng
đầu và trực tiếp giao nhiệm vụ cho Ban giám đốc vườn quốc gia bằng những biện pháp hữu hiệu bảo vệ bằng
được môi trường sinh thái ở đây. Trước mắt là đẩy mạnh tuyên truyền để nhân dân ở các vùng đệm không vào
rừng khai thác, săn bắn bừa bãi động thực vật quý hiếm.
Từ năm 2003 trở lại đây, lãnh đạo Vườn đã có sáng kiến ký kết với các hộ dân trong vùng tham gia bảo vệ và
phát triển Vườn. Đến giữa quý II/2004 đã có trên 300 hộ dân ở 6 xã vùng đệm và các trưởng thôn bản, các
trường dòng họ ký cam kết tham gia bảo vệ rừng và thú rừng theo những nội dung cam kết không săn bắn, bẫy
bắt chim chóc, thú rừng, không khai thác chặt phá rừng v.v... Phát triển du lịch cảnh quan sinh thái phải đảm bảo
không xâm hại đến rừng, không vứt rác thải, hoá chất gây tác động xấu ảnh hưởng xấu đến môi trường sinh thái
của Vườn. Có kế hoạch hỗ trợ rút những hộ dân ra khỏi vùng lõi để tập trung công tác tu bổ, bảo vệ phát triển
vốn rừng... Tuy nhiên đến nay mới có 1/6 diện tích (khoảng 10.000 ha trong tổng số 60.000 ha) Vườn được ký
cam kết với dân, số diện tích còn lại vẫn đang tiếp tục được triển khai theo phương án tiếp tục ký kết với dân địa
phương hoặc tăng cường biên chế cho lực lượng bảo vệ Vườn; tăng cường giáo dục nâng cao ý thức bảo vệ tài
nguyên môi trờng đối với người dân đi đôi với áp dụng các biện pháp ngăn chặn sự săn bắn, khai thác bừa bãi tài
nguyên rừng, hạn chế và tiến tới ngăn chạn có hiệu quả việc khai thác, săn bắn khiến sinh vật trong Vườn suy
giảm.
Với lòng yêu nghề và quý rừng, hiện nay đội ngũ cán bộ Vườn quốc gia đang tập trung hoàn chỉnh bản đồ hiện
trạng rừng Vườn quốc gia Hoàng Liên với thời gian sớm nhất để phục vụ nghiên cứu khoa học và bảo tồn sự đa

7
dạng sinh học tại đây, góp phần giữ cho môi trường sinh thái Sa Pa mãi mãi trở thành điểm nghỉ mát hấp dẫn,
điểm tham quan du lịch phía Tây Bắc của tổ quốc còn giữ mãi được vẻ đẹp tự nhiên và không khí trong lành vốn
có của nó.

2.VƯỜN QUỐC GIA BA BỂ:


Địa điểm: miền Bắc Việt Nam
Gần thành phố Bắc Cạn
Tọa độ: 22o24’19’’N, 105o36’55’’E
Diện tích : 76,19 km2.
Thành lập: 1992
Khách tham quan: 63.000 ( năm 2004).
Cơ quan quản lý: UBND tỉnh Bắc Cạn
Hồ Ba Bể trong vườn quốc gia Ba Bể.
Vườn quốc gia Ba Bể: là một vườn quốc gia, rừng đặc dụng, khu du lịch sinh thái của Việt Nam, nằm trên địa
phận tỉnh Bắc Kạn, với trung tâm là hồ Ba Bể. Vườn quốc gia Ba Bể được thành lập theo Quyết định số 83/TTg
ngày 10 tháng 11 năm năm 1992 của Thủ tướng Chính phủ.
Vị trí: Vườn có tọa độ là 105°36′55″ kinh đông, 22°24′19″ vĩ bắc. Nó nằm trên địa bàn 5 xã Nam Mẫu,
Khang Ninh, Cao Thương, Quảng Khê, Cao Trĩ thuộc huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn. Vườn quốc gia này cách thị
xã Bắc Kạn 50 km và Hà Nội 250 km về phía bắc.
Thông tin chính: Vườn có diện tích 7.610 ha, trong đó:
- Khu bảo vệ nghiêm ngặt có diện tích 3.266,2 ha.
- Khu phục hồi tái sinh rộng 4.083,4 ha,
- Khu dịch vụ hành chính 301,4 ha.
Vườn có độ cao so với mực nước biển là từ 150 m đến 1.098 m. Ở phía tây nam của vườn có dãy núi Phia Boóc,
có các điểm cao từ 1.505 m đến 1.527 m.
Đa dạng sinh học: Với trung tâm là hồ Ba Bể, khu vườn quốc gia này có:
- 600 loài cây thân gỗ (thuộc 300 chi, 114 họ khác nhau).
- 65 loài thú (22 loài có tên trong sách Đỏ Việt Nam).
- 214 loài chim thuộc 17 bộ,47 họ (7 loài có tên trong sách Đỏ Việt Nam).
- 46 loài bò sát và động vật lưỡng cư.
- 87 loài cá (11 loài có tên trong sách Đỏ Việt Nam).
Vườn có một số loài quý hiếm như voọc mũi hếch, gấu ngựa, báo lửa, báo hoa.

3.VƯỜN QUỐC GIA BÁI TỬ LONG

8
Tìm hiểu Vườn quốc gia Việt Nam. Đỗ Thương Huyền K4Địa
Địa điểm: miền Bắc Việt Nam
Gần thành phố : Hạ Long
Tọa độ: 21o05’07’’N, 107o38’15’’E
Diện tích : 157,84 km2.
Thành lập: 2001
Cơ quan quản lý: UBND tỉnh Quảng Ninh.
Vườn quốc gia Bái Tử Long là một khu bảo tồn sinh quyển cấp quốc gia tại khu vực vịnh Bái Tử Long huyện
Vân Đồn tỉnh Quảng Ninh Việt Nam. Vườn được thành lập theo quyết định 85/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng
chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngày 1 tháng 6 năm 2001.
Vườn quốc gia Bái Tử Long nằm trong vùng có tọa độ địa lý là: 20°55'05" ÷ 21°15'10" vĩ độ Bắc và 107°30'10"
÷ 107°46'20" kinh độ Đông. Diện tích tự nhiên của vườn bao gồm diện tích đất đai của tất cả các đảo nằm trong
khu vực tọa độ trên, kèm theo các vùng biển vùng quanh các đảo này với bề rộng 1 km tính từ đường bờ biển các
đảo đó, tổng diện tích là 15.783 ha. Các đảo thuộc vườn quốc gia bao gồm: Ba Mùn, Trà Ngọ Lớn, Trà Ngọ
Nhỏ, Sậu Nam, Sậu Động, Đông Ma, Hòn Chính, Lò Hố, Máng Hà Nam, Máng Hà Bắc, Di To, Chầy Cháy, Đá
Ẩy, Soi Nhụ, ..., và các đảo nhỏ trong vùng tọa độ nêu trên.

4. VƯỜN QUỐC GIA XUÂN SƠN


Địa điểm:Phú Thọ, Việt Nam
Gần thành phố Việt Trì
Tọa độ: 21o07’30’’N, 104o56’00’’E
Diện tích : 150,48 km2.
Thành lập: 2002
Cơ quan quản lý: UBND tỉnh Phú Thọ.
Vị trí địa lý: Vườn quốc gia Xuân Sơn nằm ở huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ, cách thành phố Việt Trì 80 km, có
phạm vi ranh giới được xác định như sau:
- Phía Đông: Giáp các xã Tân Phú, Minh Đài, Long Cốc, huyện Tân Sơn.
- Phía Tây: Giáp huyện Phù Yên (tỉnh Sơn La), huyện Đà Bắc (tỉnh Hoà Bình).
- Phía Nam: Giáp huyện Đà Bắc (tỉnh Hoà Bình).
- Phía Bắc: Giáp xã Thu Cúc, huyện Tân Sơn.
Tọa độ địa lý: Từ 21°03' đến 21°12' vĩ bắc và từ 104°51' đến 105°01' kinh đông.
Địa hình: Vườn quốc gia Xuân Sơn nằm trên hệ thống núi đá vôi có độ cao từ 700 đến 1.300 m. Trong khu vực
có rất nhiều hang đá.
Diện tích: Vườn quốc gia Xuân Sơn có diện tích vùng đệm 18.369 ha, trong đó diện tích vùng lõi là 15.048ha
khu vực bảo vệ nghiêm ngặt là 11.148 ha, phân khu phục hồi sinh thái kết hợp bảo tồn di tích lịch sử: 3.000 ha

9
phân khu hành chính, dịch vụ: 900 ha. Điểm đặc trưng của Xuân Sơn là vườn quốc gia duy nhất có rừng nguyên
sinh trên núi đá vôi (2.432 ha). Xuân Sơn được đánh giá là rừng có đa dạng sinh thái phong phú, đa dạng sinh
học cao, đa dạng địa hình kiến tạo nên đa dạng cảnh quan.
Diện tích vùng đệm của Vườn quốc gia Xuân Sơn là 18.639 ha, bao gồm các xã: Kiệt Sơn, Lai Đồng, Minh Đài
và một phần các xã: Đồng Sơn, Tân Sơn, Kim Thượng, Xuân Đài, đều cùng huyện.
Đa dạng sinh học:
Những dãy núi đá vôi tại Vườn quốc gia Xuân Sơn
Theo thống kê bước đầu, Vườn quốc gia Xuân Sơn có 726 loài thực vật
có mạch thuộc 475 chi và 134 họ trong đó có 52 loài thuộc ngành Quyết
và ngành Hạt trần. Có 282 loài động vật, với 23 loài lưỡng cư, 30 loài
bò sát, 168 loài chim, 61 loài thú[1].
Nằm trong khu vực giao tiếp của hai luồng thực vật Mã Lai và Hoa
Nam, hệ thực vật ở Xuân Sơn có các loài re, dẻ, sồi và mộc lan chiếm ưu thế. Ngoài ra, ở Xuân Sơn còn có các
loài tiêu biểu cho khu vực Tây Bắc như táu muối, táu lá duối, sao mặt quỷ và chò chỉ, chò vảy, nghiến, dồi, vầu
đắng, kim giao (rừng chò chỉ ở Xuân Sơn là một trong những rừng chò chỉ đẹp và giàu nhất miền Bắc). Xuân
Sơn còn là kho giống bản địa, kho cây thuốc khổng lồ, đặc biệt là cây rau sắng mọc tự nhiên có mật độ cao nhất
miền Bắc

5.VƯỜN QUỐC GIA TAM ĐẢO.


Vị trí: Vườn quốc gia Tam Đảo nằm trọn trong dãy núi Tam Điệp,tỉnh
Vĩnh Phúc.Đặc điểm: vườn quốc gia Tam Đảo là khu vực có tính đa dạng
sinh học cao, là kho dự trữ các nguồn gen động thực vật quý hiếm của
nước ta.

Vườn Quốc gia Tam Đảo có diện tích 36.883 ha. Thảm thực vật ở đây đặc trưng cho 5 kiểu rừng. Hệ thực
vật có 904 loài thuộc 478 chi, 213 họ thực vật bậc cao, trong đó có 64 loài thực vật quí hiếm được ghi vào
Sách Đỏ Việt Nam. Động vật gồm có 307 loài, trong đó 56 loài động vật quí hiếm có tên trong Sách Đỏ
Việt Nam (gồm 22 loài thú, 9 loài chim, 17 loài bò sát, 7 loài lưỡng cư và 1 loài côn trùng).
Vườn quốc gia Tam Đảo là tài sản quý của quốc gia, có nhiều lợi ích cho cộng đồng cư dân trong khu vực.
Vườn còn đem lại giá trị to lớn trong việc bảo vệ môi trường, điều tiết và cung cấp nước, phục vụ nghiên
cứu khoa học và phục vụ cho du lịch và nghỉ dưỡng, cung cấp lâm sản, dược liệu...

6. VƯỜN QUỐC GIA BA VÌ.


Vườn quốc gia Ba Vì là một vườn quốc gia của Việt Nam, được thành lập năm 1991 theo quyết định số 407-CT
ngày 18 tháng 12 năm 1991 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam.
10
Tìm hiểu Vườn quốc gia Việt Nam. Đỗ Thương Huyền K4Địa
Vị trí địa lý: Toạ độ địa lý: Từ 21 độ 01' đến 21 độ 07' vĩ độ bắc và 105 độ 16' đến 105 độ 25' kinh độ đông.
Vườn quốc gia Ba Vì nằm trên khu vực thuộc huyện Ba Vì tỉnh Hà Tây và hai huyện Lương Sơn, Kỳ Sơn tỉnh
Hòa Bình với diện tích 6.986 ha, cách Sơn Tây, Hà Tây 15 km và cách Hà Nội 50 km về phía tây.
Từ đầu thế kỉ 20, Ba Vì đã là địa danh nổi tiếng nhờ sự đa dạng của các hệ sinh thái và có phong cảnh đẹp, khí
hậu mát mẻ. Vườn quốc gia này nằm trong dãy núi cao chạy dọc theo hướng đông bắc-tây nam với đỉnh Vua cao
1.296 m, đỉnh Tản Viên cao 1.226 m, đỉnh Ngọc Hoa cao 1.120 m.
Động-thực vật: Hiện tại, người ta đã biết trên 1.000 loài thực vật, trong số đó có khoảng 200 loài cây dược liệu,
nhiều loài quý như bách xanh, thông, dẻ, lát hoa. Về động vật, có 45 loài thú, 115 loài chim, 61 loài bò sát và 27
loài ếch nhái, trong đó có nhiều loài quý hiếm có tên trong Sách đỏ Việt Nam và thế giới như gà lôi trắng, khỉ,
báo, gấu, sóc bay, v.v.
Hình ảnh:

Ba đỉnh núi cao nhất trong Một phần vườn quốc Vườn ươm thạch thảo và xương rồng
Khỉ thả rông trong vườn
dãy núi Ba Vì gia Ba Vì trong Vườn quốc gia Ba Vì
quốc gia Ba Vì
7.VƯỜN QUỐC GIA CÁT BÀ
Vườn quốc gia Cát Bà là khu rừng đặc dụng của Việt Nam, khu dự trữ sinh quyển thế giới. Vườn quốc gia Cát
Bà thuộc huyện Cát Hải, Hải Phòng.
Lược sử: VQG Cát Bà thành lập ngày 31/3/1986 theo quyết định số 79/CP của Hội đồng Bộ trưởng Việt
Nam (nay là chính phủ). Gồm các hệ sinh thái biển, hệ sinh thái rừng trên cạn, hệ sinh thái rừng ngập mặn.
Vị trí địa lý:
Bản đồ quần đảo Cát Bà, vùng rừng quốc gia Cát Bà được khoanh màu
xanh đậm
VQG Cát Bà nằm cách trung tâm thành phố Hải Phòng 35 hải lý về phía
đông. Có tọa độ địa lý: 20°43′50″-20°51′29″ vĩ bắc.
106°58′20″-107°10′50″ kinh đông.
Bắc giáp xã Gia Luận. Đông giáp vịnh Hạ Long. Tây giáp thị trấn Cát
Bà và các xã Xuân Đàm, Trân Châu, Hiền Hào.
Diện tích: Tổng diện tích tự nhiên của vườn là 15.200 ha.
Trong đó có 9.800 ha là rừng núi và 5.400 ha là mặt nước biển.
Điều kiện tự nhiên:

11
Địa hình: Toàn bộ VQG Cát Bà gồm một vùng núi non hiểm trở có độ cao <500 m, trong đó đa phần là nằm
trong khoảng 50-200 m. Đảo Cát Bà chủ yếu là núi đá vôi xen kẽ nhiều thung lũng hẹp chạy dài theo hướng
Đông Bắc-Tây Nam.
Địa chất: Đá mẹ chủ yếu của đảo là đá vôi. Vườn quốc gia Cát Bà nhìn từ đỉnh Cao Vọng
Đất đai:VQG Cát Bà gồm có 5 nhóm đất chính:
- Nhóm đất trên núi đá vôi: Đó là loại đất phong hóa màu nâu đỏ hoặc nâu vàng phát triển trên đá vôi và sa
thạch, tầng đất >50 cm, pH = 6,5-7. Phân bố dưới tán rừng, rải rác trong vườn.
- Nhóm đất đồi feralit màu nâu vàng hoặc nâu nhạt phát triển trên sản phẩm đá vôi ít chua hay gần trung tính.
Trong nhóm đất này còn có loại feralit màu trắng xám hay mầu nâu vàng phát triển trên diệp thạch sét chua vùng
đồi trọc, tầng đất mỏng, cấu tượng xấu, nhiều đá lẫn, dất khô dời rạc.
- Nhóm đât thung lũng cạn phát triển trên đá vôi hoặc sản phẩm đá vôi, tập trung ở các thung lũng, được rừng tự
nhiên che phủ.
- Nhóm đất thing lũng ngập nước, phát triển chủ yếu do quá trình bồi tụ, mùa mưa thường ngập nước, tầng đất
mặt trung bình hoặc mỏng.
- Nhóm đất bồi tụ ngập mặn do sản phẩm bồi tụ ở cửa sông, phát triển trên vung ngập mặn ở Cái Viềng, Phù
Long.
Tài nguyên sinh vật:
Thực vật: Rừng ở đây có một kiểu chính là kiểu rừng mưa nhiệt đới thường xanh, nhưng do điều kiện địa hình,
đất đai và chế độ nước nên ở đây có một số kiểu rừng phụ: rừng trên núi đá vôi, rừng ngập mặn ven đảo, rừng
ngập nước ngọt trên núi. Rừng ở đây cũng có nhiều kiểu sinh thái rừng cá biệt như quần hợp Kim giao (tại khu
vực gần đỉnh Ngự Lâm); đơn ưu Và nước (khu vực Ao Ếch).
Thành phần thực vật có 741 loài, nhiều loại cây gỗ quý như trai lý, lát hoa, lim xẹt, dẻ hoa, kim giao, gõ trắng,
chò đãi, trên thế giới chỉ có ở dãy núi Himalaya, thực vật ngập mặn 23 loài, rong biển 75 loài, thực vật phù du
199 loài.
Động vật: Trên khu vực Vườn có Có 282 loài trong đó 32 loài thú, 78 loài chim, 20 loài bò sát và lưỡng ngư, 11
loài ếch nhái. Đặc biệt có loài voọc Cát Bà (tên khoa học: Trachypithecus poliocephalus phân loài
poliocephalus) tức voọc đầu vàng (một số tài liệu gọi nhầm là voọc đầu trắng, tên khoa học: Trachypithecus
poliocephalus phân loài leucocephalus chỉ có ở Trung Quốc) là loài đặc hữu hẹp của Cát Bà, hiện tại chỉ còn 66
cá thể, chỉ còn phân bố ở các núi ven bờ biển (theo số liệu cung cấp của chi cục kiểm lâm VQG Cát Bà, năm
2007). Động vật phù du 98 loài, cá biển 196 loài, san hô 177 loài.

8.VƯỜN QUỐC GIA CÚC PHƯƠNG


Vườn Quốc gia Cúc Phương (hay rừng Cúc Phương) là một khu bảo tồn thiên nhiên, khu rừng đặc dụng nằm
trên địa phận ba tỉnh: Ninh Bình, Hòa Bình, Thanh Hóa. Vườn quốc gia này có hệ động thực vật phong phú đa
dạng mang đặc trưng rừng mưa nhiệt đới. Nhiều loài động thực vật có nguy cơ tuyệt chủng cao được phát hiện và

12
Tìm hiểu Vườn quốc gia Việt Nam. Đỗ Thương Huyền K4Địa
bảo tồn tại đây. Đây cũng là vườn quốc gia đầu tiên tại Việt
Nam.

Lịch sử: Vườn quốc gia Cúc Phương là nơi mang những giá trị lịch sử và là một địa điểm khảo cổ. Các di vật
của người tiền sử có niên đại cách đây khoảng 12.000 năm đã được phát hiện tại Vườn quốc gia, chứng tỏ con
người đã từng sinh sống tại khu vực Cúc Phương từ 7.000 đến 12.000 năm trước. Người ta đã phát hiện một loạt
các hiện vật như mồ mả, rìu đá, mũi tên đá, dao bằng vỏ sò, dụng cụ xay nghiền v.v. trong một số hang động
thuộc vườn quốc gia này. Gần đây, một phần bộ xương của một loài lưỡng cư biển, rất có thể là thằn lằn cá
(Ichthyosaurus spp.) đã được phát hiện ở trong địa bàn vườn. Đây là khám phá đầu tiên của loài này ở Việt Nam.
Năm 1960, rừng Cúc Phương được công nhận là khu bảo tồn rừng và được thành lập theo Quyết định 72/TTg
ngày 7 tháng 7 năm 1962 như là một khu rừng cấm với diện tích 20.000 ha đánh dấu sự ra đời khu bảo vệ đầu
tiên của Việt Nam. Quyết định số 18/QĐ-LN ngày 8 tháng 1 năm 1966 chuyển hạng lâm trường Cúc Phương
thành Vườn quốc gia Cúc Phương và thành lập một Ban quản lý vườn quốc gia này. Quyết định số 333/QĐ-LN
ngày 23 tháng 5 năm 1966 quy định chức năng và trách nhiệm của Ban quản lý.
Vị trí địa lý: Toạ độ: Từ 20°14' tới 20°24' vĩ bắc, 105°29' tới 105°44' kinh đông.
Diện tích: Ngày 9 tháng 8 năm 1986, Cúc Phương được nêu trong danh sách các khu rừng đặc dụng theo Quyết
định số 194/CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng với phân hạng quản lý là Vườn quốc gia và diện tích được
quyết định là 25.000 ha[1]. Luận chứng kinh tế-kỹ thuật của vườn quốc gia đã được Viện điều tra quy hoạch rừng
xây dựng vào tháng 10 năm 1985. Luận chứng này sau đó được Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng phê duyệt ngày 9
tháng 5 năm 1988 theo Quyết định số 139/CT. Trong luận chứng, ranh giới của vườn quốc gia đã được xác định
lại và tổng diện tích được đưa ra là 22.200 ha, bao gồm 11.350 ha thuộc địa giới tỉnh Ninh Bình, 5.850 ha thuộc
địa giới tỉnh Thanh Hóa và 5.000 ha thuộc địa giới tỉnh Hòa Bình.
Địa hình và thủy văn: Vườn quốc gia Cúc Phương nằm ở phía đông nam của dãy núi Tam Điệp, một dãy núi đá
vôi chạy từ tỉnh Sơn La ở hướng tây bắc. Dải núi đá vôi này với ưu thế là kiểu karst tự nhiên, hình thành trong
lòng đại dương cách đây khoảng 200 Ma. Dãy núi này nhô lên đến độ cao 636 m tạo thành một nét địa hình nổi
bật giữa một vùng đồng bằng. Phần dãy núi đá vôi bao quanh vườn quốc gia có chiều dài khoảng 25 km và rộng
đến 10 km, ở giữa có một thung lũng chạy dọc gần hết chiều dài của dãy núi.

13
Địa hình karst ảnh hưởng rõ nét đến hệ thống thủy văn của Cúc Phương. Phần lớn nước trong vườn quốc gia bị
hệ thống các mạch nước ngầm chằng chịt hút rất nhanh chóng, nước sau đó thường chảy ra ở những khe nhỏ ở
bên hai sườn của vườn quốc gia. Do vậy, không có các ao hồ tự nhiên hay các thủy vực tĩnh nằm trong vườn
quốc gia, mà chỉ có một dòng chảy thường xuyên là sông Bưởi.
Con sông này nằm ở phía tây của vườn, chảy theo hướng bắc-
nam đổ vào sông Mã.
Đa dạng sinh học:Vườn quốc gia Cúc Phương-Việt Nam được
chụp từ trên cao, vào lúc hoàng hôn
Thực vật: Thảm thực vật Vườn quốc gia Cúc Phương với ưu
thế là rừng trên núi đá vôi. Ở một đôi chỗ, rừng hình thành nên
nhiều tầng tán có thể đến 5 tầng rõ rệt, trong đó tầng vượt tán
đạt đến độ cao trên 40 m. Do địa hình dốc, tầng tán thường
không liên tục và đôi khi sự phân tầng không rõ ràng. Nhiều cây rất phát triển hệ rễ bạnh vè để đáp ứng với tầng
đất mặt thường mỏng. Vườn quốc gia hiện là nơi có nhiều loài cây gỗ lớn như chò xanh (Terminalia
myriocarpa), chò chỉ (Shorea sinensis) hay đăng (Tetrameles nudiflora)[2], hiện đang được bảo vệ để thu hút du
khách thăm quan. Đây cũng là nơi phong phú về các cây gỗ và cây thuốc.
Cúc Phương có một khu hệ thực vật phong phú. Hiện nay, người ta đã thống kê được khoảng gần 2.000 loài thực
vật có mạch thuộc 887 chi trong 221 họ thực vật. Các họ giàu loài nhất trong hệ thực vật Cúc Phương là các họ
Đại kích (Euphorbiaceae), Hòa thảo (Poaceae), Đậu (Fabaceae), Thiến thảo (Rubiaceae), Cúc (Asteraceae),
Dâu tằm (Moraceae), Nguyệt quế (Lauraceae), Cói (Cyperaceae), Lan (Orchidaceae) và Ô rô (Acanthaceae).
Khu hệ thực vật ở Cúc Phương là tập hợp yếu tố địa lý thực vật bao gồm Trung Quốc-Himalaya, Ấn Độ-
Myanma và Malesia.
Đến nay, đã có 3 loài thực vật có mạch đặc hữu được xác định cho hệ thực vật Cúc Phương là hồ trăn Cúc
Phương (Pistacia cucphuongensis), mua Cúc Phương (Melastoma trungii) và cui Cúc Phương (Heritiera
cucphuongensis) . Vườn quốc gia Cúc Phương cũng được xác định là 1 trong 7 trung tâm đa dạng thực vật của
Việt Nam.
Động vật: Rừng Cúc Phương có hệ sinh thái khá phong phú và đa dạng, gồm 97 loài thú (trong đó nổi bật nhất
là các loài khỉ châu Á), 300 loài chim, 36 loài bò sát, 17 loài lưỡng cư, 11 loài cá và hàng ngàn loài côn trùng.
Nhiều loài nằm trong Sách đỏ Việt Nam. Cúc Phương là nơi sinh sống của một số quần thể thú quan trọng về
mặt bảo tồn, trong đó có loài linh trưởng đang bị đe dọa tuyệt chủng trên toàn cầu ở mức đe dọa cực kỳ nguy cấp
là voọc quần đùi trắng (Trachypithecus delacouri) và loài sẽ bị nguy cấp trên toàn cầu là cầy vằn bắc
(Hemigalus owstoni). Thêm vào đó, loài báo hoa mai (Panthera pardus) là loài bị đe dọa ở mức quốc gia cũng
mới được ghi nhận gần đây[6]. Ngoài ra, hơn 40 loài dơi đã được ghi nhận tại đây.
Đến nay, đã có 313 loài chim được xác định ở Cúc Phương. Cúc Phương nằm tại vị trí tận cùng phía bắc của
vùng chim đặc hữu vùng đất thấp Trung Bộ, tuy nhiên, chỉ có một loài có vùng phân bố giới hạn được ghi nhận

14
Tìm hiểu Vườn quốc gia Việt Nam. Đỗ Thương Huyền K4Địa
tại đây là khướu mỏ dài (Jabouilleia danjoui). Cúc Phương đã được công nhận là một trong số các vùng chim
quan trọng tại Việt Nam.
Nhiều nhóm sinh vật khác cũng đã được điều tra, nghiên cứu ở Cúc Phương trong đó có ốc. Khoảng 111 loài ốc
đã được ghi nhận trong một chuyến điều tra gần đây trong đó có 27 loài đặc hữu. Khu hệ cá trong các hang động
ngầm cũng đã được nghiên cứu, ít nhất đã có một loài cá được ghi nhận tại vườn quốc gia là loài đặc hữu đối với
vùng núi đá vôi, đó là cá mèo Cúc Phương (Parasilurus cucphuongensis). Loài cá này sau đó cũng đã được ghi
nhận tại khu đề xuất bảo tồn thiên nhiên Pù Luông. Đến nay đã xác định được 280 loài bướm ở đây, 7 loài trong
số đó là các loài lần đầu tiên được ghi nhận ở Việt Nam tại Cúc Phương vào năm 1998.
Các giá trị khác: Vườn quốc gia Cúc Phương là một trong những địa điểm du lịch có tiếng, thu hút số lượng lớn
du khách. Do số lượng du khách lớn, Cúc Phương là nơi rất có tiềm năng cho việc nâng cao nhận thức cộng
đồng về các vấn đề môi trường. Tiềm năng này cũng đã được thừa nhận và đã có những hoạt động thực tế được
thực hiện ví dụ như Trung tâm Du khách của Vườn quốc gia đã đi vào hoạt động giữa năm 2000. Nó là một
trong những điểm quan, cùng với các điểm khác như Tam Cốc - Bích Động, nhà thờ Phát Diệm, cố đô Hoa Lư,
khu bảo tồn thiên nhiên Vân Long, v.v. của tỉnh Ninh Bình. Du khách đến đây để khám phá hệ động thực vật
phong phú, chiêm ngưỡng cảnh quan thiên nhiên đẹp.
Vườn quốc gia Cúc Phương được ứng cử là di sản thế giới năm 1991 tuy nhiên do hồ sơ còn thiếu sót nên hiện
nay vẫn tiếp tục hoàn thiện để được UNESCO sớm công nhận là di sản thiên nhiên thế giới.Đây cũng là một địa
điểm nghiên cứu sinh học và đào tạo cán bộ khoa học: nhiều sinh viên và nghiên cứu sinh đã tiến hành các khoá
học thực địa tại vườn. Trong vườn cũng đã có một Trung tâm đào tạo cán bộ kiểm lâm cho các tỉnh phía Bắc
Việt Nam.
Rừng Cúc Phương còn đóng vai trò trong việc điều tiết nguồn nước cung cấp cho các cộng đồng dân cư địa
phương. Rừng bảo vệ đầu nguồn hồ chứa nước Yên Quang cung cấp nước cho sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp
cho các vùng lân cận.
Các vấn đề về bảo tồn: Một số loài thú lớn như hổ (Panthera tigris), vượn đen má trắng (Hylobates leucogenys)
đã tuyệt chủng ở vườn quốc gia Cúc Phương trong thời gian gần đây. Nguyên nhân chính là do sức ép từ các
hoạt động săn bắn và diện tích của vườn là quá nhỏ không đáp ứng được yêu cầu bảo tồn các loài này.
Khi Vườn quốc gia Cúc Phương được thành lập, có khoảng 500 người sống trong các xóm thuộc vùng lõi của
vườn quốc gia này. Quyết định số 251/CT ngày 6 tháng 10 năm 1986 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã yêu
cầu di chuyển những khu dân cư này ra ngoài ranh giới vườn quốc gia. Trong giai đoạn di dời đầu tiên, kết thúc
vào cuối năm 1990, 6 xóm với 650 người đã được chuyển đến định cư ở vùng bán sơn địa ngoài cửa vườn. Tuy
nhiên, hiện vẫn còn khoảng 2.000 người sống dọc theo bờ sông Bưởi bên trong vườn. Số dân này cũng đang
được lên kế hoạch để di dời. Khoảng trên 50.000 dân sống ở vùng đệm của vườn quốc gia, rất nhiều người trong
số họ có cuộc sống phụ thuộc vào các nguồn tài nguyên thiên nhiên bên trong vườn. Lâm sản bị khai thác mạnh
nhất là gỗ và củi. Việc thu hoạch ốc, nấm, măng làm thức ăn cũng như việc đi lấy thân chuối làm thức ăn gia súc
diễn ra thường xuyên. Hoạt động săn bắn để lấy thức ăn và bán cho dân kinh doanh động vật hoang dã làm suy

15
giảm nghiêm trọng số lượng các loài thú, chim và bò sát trong vườn. Rừng ở vùng rìa tiếp giáp với dân cư đang
bị suy thoái nghiêm trọng do việc lấy củi và chăn thả gia súc bừa bãi cũng như bị phát quang lấy đất làm nương
rẫy ở một số khu vực.
Vấn đề khác là du lịch. Một lượng lớn du khách đến Cúc Phương hàng năm cũng tạo ra một vấn đề đặc biệt đối
với việc quản lý vườn quốc gia. Nước thải, thu hái cây cảnh và ô nhiễm tiếng ồn từ những nhóm du khách quá
đông là những vấn đề chưa kiểm soát được. Kế hoạch quản lý của vườn lại quá tập trung vào việc phát triển du
lịch và điều này làm giảm hiệu quả của công tác bảo tồn đa dạng sinh học. Điều này cũng có thể dẫn đến sự phát
triển cơ sở hạ tầng du lịch với những những tác động tiêu cực về môi trường. Việc nâng cấp con đường xuyên
qua thung lũng trung tâm của vườn sẽ tạo điều kiện cho việc xâm nhập để khai thác lâm sản. Tương tự như vậy,
việc xây dựng các hồ nhân tạo trong vườn quốc gia sẽ dẫn đến một số khoảnh rừng bị phát quang và làm thay
đổi chế độ thủy văn của vùng.
Một trong những mối đe dọa lớn đến tính đa dạng sinh học của vườn quốc gia này là việc xây dựng đường Hồ
Chí Minh chạy dọc theo thung lũng phía tây sông Bưởi với chiều dài khoảng 7,5 km. Ngoài các tác động trực
tiếp khi thi công xây dựng, con đường này hoàn thành sẽ làm cho khả năng tiếp cận các khu vực rừng tăng cao,
tạo điều kiện thuận lợi cho việc khai thác sản phẩm rừng trái phép cũng như trong tương lai các hoạt động tái
định cư sẽ được triển khai trong khu vực này. Tuy nhiên một số ý kiến lại cho rằng việc xây dựng con đường này
không ảnh hưởng tới môi trường của vườn quốc gia.
Các dự án có liên quan: Hiệp hội động vật học Frankfurt (Zoologische Gesellschaft Frankfurt) cùng Bộ Lâm
nghiệp Việt Nam đã thành lập Trung tâm Cứu hộ Linh trưởng nguy cấp (EPRC) ở Cúc Phương năm 1993 nhằm
nuôi nhốt, gây giống và nghiên cứu đối với các loài vượn, cu li và voọc của Việt Nam. EPRC nhận linh trưởng
từ các cơ quan nhà nước tịch thu từ những đối tượng buôn bán trái phép động vật hoang dã để chữa trị và chăm
sóc tại Trung tâm.
Cúc Phương cũng là nơi triển khai dự án sinh sản, sinh thái của loài cầy vằn bắc và chương trình sinh thái học và
bảo tồn rùa. Hai chương trình này triển khai nhằm thiết lập các trại nhân nuôi sinh sản quần thể của các loài động
vật bị đe dọa trên toàn cầu, hiện đang bị tình trạng buôn bán động vật hoang dã đe dọa. Dự án bảo tồn Cúc
Phương (CPCP) đã được Tổ chức Bảo tồn Động Thực vật hoang dã Quốc tế thực hiện từ năm 1996 đến năm
2002. Phối hợp với các tổ chức hữu quan tại Việt Nam, FFI chương trình Việt Nam đã thực hiện dự án do World
Bank và GEF tài trợ có tên gọi là "Dự án bảo tồn cảnh quan núi đá vôi Pù Luông-Cúc Phương" trong giai đoạn
2002-2005. Mục tiêu của dự án này nhằm bảo vệ vùng núi đá vôi tại Pù Luông-Cúc Phương cũng như các loài
hoang dã sống trong khu vực thông qua việc thành lập một khu bảo vệ mới, tăng cường các hệ thống bảo vệ hiện
có và tăng cường năng lực cho các đơn vị liên quan. Dự án còn tăng cường hiện trạng bảo tồn các loài voọc
mông trắng (Trachypithecus spp.) và kêu gọi, xây dựng sự ủng hộ từ cộng đồng trong công tác bảo tồn vùng núi
đá vôi.
9.VƯỜN QUỐC GIA XUÂN THỦY.
Địa điểm: miền Bắc Việt Nam

16
Tìm hiểu Vườn quốc gia Việt Nam. Đỗ Thương Huyền K4Địa
Gần thành phố : Nam Định, Thái Bình.
Tọa độ: 20o13’48’’N, 106o31’00’’E.
Diện tích : 71,00 km2.
Thành lập: 2003.
Cơ quan quản lý: UBND tỉnh Nam Định.
Vườn quốc gia Xuân Thủy là khu bảo tồn dự trữ sinh quyển đất rừng ngập mặn. Đây là rừng ngập mặn đầu tiên
ở Việt Nam được quốc tế công nhận theo công ước Ramsar, là rừng ngập mặn thứ 50 của thế giới.
Vườn quốc gia Xuân Thủy được nâng cấp từ Khu bảo tồn đất ngập nước Xuân Thủy theo quyết định số
01/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ngày 2 tháng 1 năm 2003.
Địa lý: Vườn quốc gia Xuân Thủy nằm ở phía đông nam huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định, ngay tại cửa Ba Lạt
của sông Hồng. Khu vực vùng lõi của vườn là diện tích đất ngập mặn trên ba cồn cát cửa sông là cồn Ngạn, cồn
Lư và cồn Xanh thuộc xã Giao Thiện. Toàn bộ vùng đệm và vùng lõi của vườn nằm trên địa phận các xã Giao
Thiện, Giao An, Giao Lạc, Giao Xuân và Giao Hải. Diện tích toàn bộ vườn khoảng 7.100 ha, gồm: 3.100 ha diện
tích đất nổi có rừng và 4.000 ha đất rừng ngập mặn.
Hàng năm có tới khoảng 100 loài chim di cư chọn nơi đây là điểm lưu trú trên đường di cư về phương Nam trú
đông, trong đó có tới 1/5 số lượng cò mỏ thìa của toàn thế giới. Tại vườn ước tính có 215 loài chim nước sinh
sống, nhiều loài gần như tuyệt chủng có tên trong sách đỏ thế giới, như: rẽ mỏ thìa, bồ nông, cò thìa, choi choi
mỏ thìa, mòng biển, diệc đầu đỏ...
Trên vùng đất ngập mặn này, dưới làn nước thủy triều có khoảng 165 loài động vật nổi và 154 loài động vật đáy,
tổng cộng khoảng 500 loài động vật.
Về thực vật, vườn hiện có 120 loài thực vật bậc cao, trong đó có nhiều loài rong tảo có giá trị kinh tế cao.

10.VƯỜN QUỐC GIA BẾN EN.


Địa điểm: miền Trung Việt Nam.
Gần thành phố : Thanh Hóa.
Tọa độ:19o37’00’’N, 105o31’30’’E.
Diện tích : 166,34 km2.
Thành lập: 1992
Cơ quan quản lý: UBND tỉnh Thanh Hoá.
Vườn quốc gia Bến En là một vườn quốc gia thuộc tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam. Được thành lập theo quyết định
số 33 ngày 27 tháng 1 năm 1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam.
Số liệu địa lý: Thuộc huyện Như Thanh và huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Nằm cách thành phố Thanh Hóa
khoảng 36 km về phía tây nam. Tổng diện tích là 16.634 ha, trong đó rừng nguyên sinh là 8.544 ha. Vườn quốc
gia Bến En có địa hình nhiều đồi núi, có nhiều sông, suối và hồ trên núi.

17
Đa dạng sinh học: Có nhiều loài sinh vật quý, với 870 loài thực vật (lim xanh, lát hoa, chò chỉ, trai lý, bù
hương...), 66 loài thú (với 29 loài có tên trong Sách Đỏ Việt Nam như: sói đỏ, gấu ngựa, vượn đen, phượng
hoàng đất, gà tiền mặt vàng...)
Tiềm năng du lịch:
Nằm cách thành phố Thanh Hoá 46 km về phía Tây nam, vườn
quốc gia Bến En là một địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn đối với
bất kỳ ai yêu thích vẻ nguyên sơ của tạo hoá. So với các Vườn
quốc gia ở phía Bắc như: Ba Bể, Ba Vì, Tam Đảo, Cúc Phương ..
vườn Bến En có tầm cỡ thực sự về tiềm năng du lịch sinh thái.
Vườn Bến En trải rộng trên 2 huyện Như Xuân và Như Thanh với
tổng diện tích 16.634ha, chia làm 3 khu vực chính, trong đó khu
bảo tồn nguồn gien là nơi 'cấm địa' của vườn (chỉ những nhà khoa
học mới được phép tìm hiểu, nghiên cứu), ở đây hệ thực vật rất
phong phú với hàng trăm loài, bộ, họ (Có họ có tới 10 loài) như các
loại cây lim xanh rất đặc trưng (có cây lên tới cả ngàn tuổi) cây trò trĩ và các loài thuốc nam quý … Tính đặc
trưng của vườn có những nét đẹp và phong phú rất khác các vườn quốc gia khác. Hệ động vật cũng vậy, các loài
quý hiếm ở đây là voi, hổ, gấu, chim …tồn tại trong 37 bộ, 96 họ, 216 giống và 309 loài, các loài Voi, Vượn má
trắng, hổ ...thuộc loại quý hiếm đang được bảo vệ. Tuy
nhiên, ở phân khu du lịch sinh thái dường như gần gũi với du
khách hơn cả. Khu này gồm lòng hồ được hình thành bởi 4
con suối và con sông Mực có diện tích rộng khoảng 3.500 ha,
nước bốn mùa xanh biếc, tĩnh lặng trong quần thể không gian
trời, mây, non, nước hữu tình. Du khách sẽ thoả lòng khi đến
thăm 21 hòn đảo với những sắc thái rất khác nhau bằng các
chuyến ca nô, xuồng máy ....Đặc biệt, tại đây có 8 tuyến đi du
lịch trên hồ thăm các ốc đảo. Trong 8 tuyến đi (cơ bản tuỳ
theo sự lựa chọn của khách) tuyến ngắn nhất là 1,5km và
tuyến dài nhất 8,5km.
Du khách có thể đến thăm đảo động vật, đảo thực vật, chiêm
ngưỡng hang Dơi, ngắm cảnh hang động với nhiều hình thù
kỳ lạ được sắp đặt bởi bàn tay của tạo hoá. Hơn thế nữa, du khách có thể đi vào các bản làng của người
H'Mông, người Thổ uống rượu cần … hoàn toàn phù hợp với tour du lịch cộng đồng. Ở các đảo động vật, các
loài thú được bảo vệ, nuôi nấng theo hình thức bán hoang dã nên mọi hoạt động sinh hoạt của nó đều tự nhiên
đến lý thú. Trong đảo thực vật bao gồm tất cả các loài cây có tên ở Việt Nam, được trồng phân theo từng loại,
từng bộ, họ … đã phục vụ rất tốt cho các nhà khoa học, ngành lâm nghiệp, môi trường sinh thái và khách du

18
Tìm hiểu Vườn quốc gia Việt Nam. Đỗ Thương Huyền K4Địa
lịch …
Trên tuyến bộ bắt đầu từ trung tâm vườn đi lên khu phía Bắc, chúng ta sẽ bắt gặp những cảnh quan không kém
phần hấp dẫn so với nội khu. Đó là cụm núi đá Hải Vân tồn tại song song với 21 hòn đảo trong lòng hồ, cụm di
tích hang Lò Cao kháng chiến - nơi Giáo sư Trần Đại Nghĩa từng chế tạo vũ khí từ năm 1945 phục vụ kháng
chiến chống Pháp. Đi xa hơn nữa, khách du lịch có thể đến Phủ Sung, Phủ Na - nơi nhân dân vẫn thường tổ
chức phường hội cúng tế trời đất … Tiếp đó là quần thể thắng cảnh hang Ngọc, cây lim trăm tuổi như biểu
tượng của vườn. Trong hang Ngọc, một suối nước trong vắt, theo quan niệm nếu tắm được ở đây có nghĩa là đã
cởi bỏ được những tục trần nặng nhọc nhất của cuộc sống đời thường. Có lẽ chính vì thế mà hang Ngọc tuy có
xa hơn một chút so với các đảo trên lòng hồ Bến En, song
vẫn là điểm được khách đến đông hơn cả.
Đến Bến En, dù là du lịch sinh thái, song nếu đặt trước vẫn
có thể được hưởng những món ăn đặc sản như: món cá quả,
cá mè.. rất to được bắt từ sông Mực có thể nướng hoặc
luộc, hấp … Mùa hè có thể ăn thêm món trai dắt vách đá
(một loại nhuyễn thể gần giống với ốc) đặc biệt mang
hương vị của rừng.
Bến En hôm nay đang được quan tâm chú ý đúng mức, đến
khả năng du lịch sinh thái và nhiệm vụ bảo tồn. Với những
thế mạnh vốn có, có thể khẳng định Vườn Quốc gia Bến En
với đảo, rừng, sông, suối, hồ nước, hang động và sự trân
trọng của con người, Bến En sẽ là điểm du lịch sinh thái lý tưởng.

11.V ƯỜN QUỐC GIA PÙ MÁT.


Vườn quốc gia Pù Mát là một khu rừng đặc dụng ở phía Tây tỉnh Nghệ An. Tiếng Thái, Pù Mát có nghĩa là
những con dốc cao. Được thành lập theo quyết định số 174/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày
08/11/2001 về việc chuyển hạng Khu Bảo tồn Thiên nhiên Pù Mát thành Vườn quốc gia.
Vị trí địa lý: Từ 18°46′ đến 19°12′ vĩ bắc và từ 104°24′ đến 104°56′ kinh độ đông.
Điều kiện tự nhiên:
Diện tích: Tổng diện tích của Vườn quốc gia Pù Mát là 91.113 ha, trải rộng trên 3 huyện Tương Dương, Con
Cuông và Anh Sơn của tỉnh Nghệ An. Trong đó phân khu bảo vệ nghiêm ngặt: 89.517 ha, phân khu phục hồi
sinh thái: 1.596 ha. Vùng đệm của Vườn quốc gia Pù Mát có diện tích 86.000 ha.
Địa hình: Độ cao biến động của rừng Pù Mát là từ 200 - 1.814 m trong đó đỉnh Pù Mát cao nhất: 1.814m.

19
:
Một cảnh vườn quốc gia Pù Mát.
Đa dạng sinh học: Pù Mát là một trong những điểm được nghiên cứu rất kỹ về đa dạng sinh học. Cho đến nay
đã có 1.144 loài thực vật có mạch được ghi nhận là phân bố ở Pù Mát. Trong đó có 3 loài là mới cho khoa học:
Cleistanthus spp. nov., Phyllagathis spp. nov. và Phrynium pumatensis.
Kiểu rừng đặc trưng nhất là rừng thường xanh trên đất thấp với ưu thế của các cây họ dầu (Dipterocarpaceae)
(Hopea spp. và Dipterocarpus spp.), Dẻ (Fagaceae) (Quercus spp., Lithocarpus spp. và Castanopsis spp.) và
Long não Lauraceae (Cinnamomum spp. và Litsea spp.).
Theo nghiên cứu của các nhà khoa học ở đây có 3 loài thú đặc hữu Đông Dương: sao la (Pseudoryx
nghetinhensis), thỏ sọc Bắc Bộ (Nesolagus spp. nov.), vượn đen má trắng (Hylobates leucogenys), vượn má
hung (Hylobates gabriellae). Ngoài ra còn có các ghi nhận về mang lớn, mang Trường Sơn, voọc chà vá chân
nâu, hổ, voi, cầy vằn...
Tổng số có 259 loài chim được phát hiện, trong đó 22 loài có nguy cơ tuyệt chủng, nhiều loài chim quý, hiếm
như trĩ sao, niệng cổ hung..
Dân cư: Sinh sống xen kẽ trong khu rừng cấm này chủ yếu là người Kinh, người Thái, người Thổ (bộ tộc Đan
Lai). Họ sinh sống ở hầu hết các thôn bản, trong các nhà sàn bằng gỗ với nghề trồng lúa nước. Ở những vùng
đồi, họ tham gia trồng cây hoặc đốt nương làm rẫy, trồng màu hoặc các loại cây lương thực khác; nuôi trâu, bò
và gia cầm; làm sản phẩm tre và dệt vải truyền thống.

12.VƯỜN QUỐC GIA VŨ QUANG.


Vườn quốc gia Vũ Quang là một vườn quốc gia thuộc tỉnh Hà Tĩnh, nơi có nhiều loài sinh vật đặc hữu chỉ có ở
Việt Nam. Được thành lập theo quyết định số 102/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam ngày 30 tháng 7 năm 2002.
Vị trí địa lý: Vườn quốc gia Vũ Quang nằm ở phía tây bắc tỉnh Hà Tĩnh, cách thành phố Hà Tĩnh 75 km.
- Phía đông giáp xã Hoà Hải (huyện Hương Khê).
- Phía tây giáp xã Sơn Kim (huyện Hương Sơn).
- Phía nam giáp biên giới Việt Nam - Lào.
- Phía bắc giáp xã Sơn Tây (huyện Hương Sơn), và các xã Hương Đại, Hương Minh (huyện Vũ Quang).

20
Tìm hiểu Vườn quốc gia Việt Nam. Đỗ Thương Huyền K4Địa
Toạ độ địa lý: Từ 18°09′ đến 18°26′ vĩ bắc.
Từ 105°16′ đến 105°33′ kinh đông.
Diện tích: Tổng diện tích: 55.028,9 ha. Trong đó:
• Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt: 38.800,0 ha.
• Phân khu phục hồi sinh thái: 16.184,9 ha.
• Phân khu hành chính dịch vụ: 44,0 ha.

13.VƯỜN QUÔC GIA PHONG NHA - KẺ BÀNG.


Di sản thế giới UNESCO.
Quốc gia Việt Nam
Dạng Thiên nhiên
Tiêu chuẩn viii
Tham khảo 951
Vùng† Châu Á - Thái Bình Dương
Công nhận 2003 (Kỳ họp thứ 27)
Vư ờn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng là một vườn quốc gia tại
huyện Bố Trạch và Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình, cách thành phố
Đồng Hới khoảng 50 km về phía Tây Bắc, cách thủ đô Hà Nội
khoảng 500 km về phía nam. Vườn quốc gia này giáp khu bảo
tồn thiên nhiên Hin Namno ở tỉnh Khammouan, Lào về phía tây,
cách Biển Đông 42 km về phía đông kể từ biên giới của hai quốc
gia. Phong Nha-Kẻ Bàng nằm ở một khu vực núi đá vôi rộng
khoảng 200.000 ha thuộc lãnh thổ Việt Nam, khu vực lãnh thổ
Lào tiếp giáp vườn quốc gia này cũng có diện tích núi đá vôi
khoảng 200.000 ha. Diện tích vùng lõi của vườn quốc gia là
85.754 ha và một vùng đệm rộng 195.400 ha. Vườn quốc gia này được thiết lập để bảo vệ một trong hai vùng
carxtơ lớn nhất thế giới với khoảng 300 hang động và bảo tồn hệ sinh thái bắc Trường Sơn ở khu vực Bắc Trung
Bộ Việt Nam. Đặc trưng của vườn quốc gia này là các kiến tạo đá vôi, 300 hang động, các sông ngầm và hệ
động thực vật quý hiếm nằm trong Sách đỏ Việt Nam và Sách đỏ thế giới. Các hang động ở đây có tổng chiều
dài khoảng hơn 80 km nhưng các nhà thám hiểm hang động Anh và Việt Nam mới chỉ thám hiểm 20 km, trong
đó 17 km ở khu vực Phong Nha và 3 km ở khu vực Kẻ Bàng.
Động Phong Nha là động giữ nhiều kỷ lục:
(1) Hang nước dài nhất.
(2) Cửa hang cao và rộng nhất.
(3) Bãi cát, đá rộng và đẹp nhất.
(4) Hồ ngầm đẹp nhất.
(5) Thạch nhũ tráng lệ và kỳ ảo nhất.
21
(6) Dòng sông ngầm dài nhất Việt Nam.
(7) Hang khô rộng và đẹp nhất thế giới.
Kiến tạo carxtơ của Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng được hình thành từ 400 triệu năm trước, từ thời kỳ Đại
Cổ Sinh do đó là carxtơ cổ nhất ở châu Á.Trải qua nhiều thay đổi lớn về địa tầng và địa mạo, địa hình khu vực
này hết sức phức tạp. Phong Nha-Kẻ Bàng phô diễn các bằng chứng ấn tượng về lịch sử Trái Đất, giúp nghiên
cứu lịch sử hiểu được lịch sử địa chất và địa hình của khu vực. Khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng có lẽ là một trong
những mẫu hình riêng biệt và đẹp nhất về sự kiến tạo carxtơ phức tạp ở Đông Nam Á. Được UNESCO công nhận
là Di sản thiên nhiên thế giới theo tiêu chí địa chất, địa mạo năm 2003, Phong Nha-Kẻ Bàng đang hướng tới mục
tiêu được UNESCO công nhận lần 2 là Di sản thiên nhiên thế giới với tiêu chí đa dạng sinh học vào năm 2008.
Nguồn gốc tên gọi: Tên gọi vườn quốc gia này ghép từ hai thành phần: tên động Phong Nha và tên khu vực
rừng núi đá vôi Kẻ Bàng. Động Phong Nha trước đây thường được xem là động lớn và đẹp nhất trong quần thể
hang động này. Có ý kiến giải thích cho rằng nguồn gốc tên gọi Phong Nha có nghĩa là gió (chữ Hán: phong)
răng (chữ Hán: nha) (gió thổi từ trong trong động, nhũ đá tua tủa như hàm răng) nhưng ý kiến khác lại cho rằng
Phong Nha có nghĩa là tên ngôi làng gần đấy chứ không có nghĩa là gió và răng như vẫn thường được giải thích.
Theo Lê Quý Đôn thì Phong Nha là tên một làng miền núi ngày xưa. Có ý kiến khác lại cho rằng tên gọi Phong
Nha không phải xuất phát từ ý nghĩa răng và gió, mà từ hình ảnh những ngọn núi nằm thành từng dãy đều đặn
như hình ảnh các quan đứng thành hàng trên sân chầu hay ở quan thự, người ta đã lấy chữ Phong Nha theo chữ
Hán (chữ phong nghĩa là đỉnh núi, nha có nghĩa là quan lại) để đặt tên cho động Phong Nha. Động Phong Nha
còn có tên khác như Động Thầy Tiên, Núi Thầy, Động Troóc, Hang Trùa (Hang Chùa).
Vị trí, diện tích, dân số:
Trước khi trở thành một vườn quốc gia, khu vực này đã là một khu bảo tồn tự nhiên. Khu bảo tồn Phong Nha-Kẻ
Bàng có diện tích 5000 ha đã được Chính phủ Việt Nam chính thức công bố ngày 9 tháng 8 năm 1986 và đã
được mở rộng thành 41.132 ha vào năm 1991. Ngày 12 tháng 12 năm 2001, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết
định số 189/2001/QĐ-TTG chuyển Khu bảo tồn thiên nhiên Phong Nha-Kẻ Bàng thành vườn quốc gia với tên
gọi như hiện nay.
Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng có tọa độ từ 17°21′ tới 17°39′ vĩ bắc và từ 105°57′ tới 106°24′ kinh đông,
nằm trong địa bàn các xã tân Trạch, Thượng Trạch, Phúc Trạch, Xuân Trạch và Sơn Trạch thuộc huyện Bố
Trạch, tỉnh Quảng Bình. Phong Nha-Kẻ Bàng cách thành phố Đồng Hới khoảng 50 km về phía Tây Bắc, cách
thủ đô Hà Nội khoảng 500 km về phía bắc. Phía tây vườn quốc gia này giáp khu vực bảo tồn Hin Namno, một
khu vực carxtơ nằm ở tỉnh Khăm Muộn, Lào.
Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng có tổng diện tích là 85.754 ha, bao gồm:
• Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt: 64.894 ha
• Phân khu phục hồi sinh thái: 17.449 ha
• Phân khu dịch vụ hành chính: 3.411 ha.
Trong khu vực vùng đệm của Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng có dân của 12 xã với tổng diện tích thuộc
vùng đệm là 1479,45 km² thuộc huyện Minh Hóa (Dân Hóa, Hóa Sơn, Trung Hoa, Thượng Hóa); Bố Trạch (Tân
22
Tìm hiểu Vườn quốc gia Việt Nam. Đỗ Thương Huyền K4Địa
Trạch, Thượng Trạch, Phúc Trạch, Sơn Trạch, Phú Định, Hưng Trạch) và huyện Quảng Ninh (Trường Sơn). Các
khu vực dân cư này chủ yếu sống ven các sông lớn như sông Chày, sông Son và các các thung lũng có suối phía
đông và đông bắc của vườn quốc gia này. Các khu vực này thuộc khu vực vùng sâu vùng xa của Quảng Bình, có
điều kiện hạ tầng cơ sở như đường giao thông, điện, giáo dục, ý tế kém phát triển. Dân cư ở đây chủ yếu sống
bằng nghề nông, khai thác lâm sản.
Khí hậu: Cũng giống như vùng Bắc Trung Bộ nói chung, và tỉnh Quảng Bình nói riêng, khí hậu ở vườn quốc
gia này mang đặc trưng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng và ẩm. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 23-25°C, với
nhiệt độ cao nhât là 41°C vào mùa hè và mức thấp nhất có thể xuống 6°C vào mùa đông. Thời kỳ nóng nhất là
vào tháng 6-8 với nhiệt độ trung bình 28°C, còn từ tháng 12 đến tháng 2 có nhiệt độ trung bình 18°C. Lượng
mưa trung bình hàng năm đo được là 2.000–2.500 mm, với 88% lượng mưa trong khoảng thời gian từ tháng 7-
12. Mỗi năm có hơn 160 ngày mưa. Độ ẩm tương đối là 84%.
Địa chất, địa mạo:
Quá trình hình thành: Hệ thống hang động tại khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng được hình thành do những kiến
tạo địa chất xảy ra trong lòng dãy núi đá vôi Kẻ Bàng cách đây hơn 400 triệu năm vào thời kỳ Đại Cổ Sinh. Trải
qua các thời kỳ kiến tạo quan trọng và các pha chuyển động đứt gãy, phối tảng và uốn nếp đã liên tục tạo ra các
dãy núi trùng điệp do chuyển động nâng cao và các bồn trầm tích do chuyển động sụt lún, đóng vai trò như
nguyên nhân của mọi nguyên nhân để tạo ra tính đa dạng về địa chất, địa hình - địa mạo, mạng lưới thủy văn và
tính đa dạng, kỳ thú về hang động du lịch đối với các thành hệ đá vôi Phong Nha-Kẻ Bàng phát triển từ Devon
đến Carbon - Trecmi.
Khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng hiện tại là kết quả tổng hợp của 5 giai đoạn phát triển lớn trong lịch sử phát triển
vỏ Trái Đất trong khu vực:
- Giai đoạn Kỷ Ordovic muộn - giai đoạn Siluri đầu (450 triệu năm)
- Giai đoạn Kỷ Devon giữa và muộn (khoảng 340 triệu năm)
- Giai đoạn Kỷ Than Đá - Kỷ Permi (300 triệu năm)
- Giai đoạn Orogen
- Giai đoạn Đại Tân Sinh (250-65 triệu năm)
Lịch sử nghiên cứu địa chất địa mạo: Lần đầu tiên, Đoàn Địa chất 20, một cơ quan trực thuộc Tổng cục Địa
chất Việt đã hoàn thành công trình đo vẽ Bản đồ địa chất tỷ lệ 1/500.000 miền Bắc Việt Nam vào năm 1965 với
sự trợ giúp của các chuyên gia Liên Xô, trong đó khu vực tỉnh Quảng Bình được xếp vào đới tướng cấu trúc
Trường Sơn. Đây là lần đầu tiên các đặc điểm địa chất như địa tầng, hoạt động magma và cấu trúc - kiến tạo của
khu vực này đã được các nhà khoa học Việt-Xô mô tả một cách hệ thống và chi tiết. Sau đợt khảo sát và đo vẽ
đó, Cục Địa chất Việt Nam (nay là Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam) đã tiếp tục tiến hành đo vẽ địa chất ở
tỷ lệ trung bình và lớn để chính xác hoá cấu trúc địa chất và xác định tiềm năng khoáng sản ở vùng lãnh thổ này
và đã hoàn tất vẽ bản đồ địa chất 1/200.000 tờ Mahaxay - Đồng Hới kèm theo thuyết minh "Địa chất và khoáng
sản tờ Mahaxay - Đồng Hới", đây là công trình bổ sung nhiều kết quả nghiên cứu mới về địa tầng và khoáng sản

23
ở trong vùng. Năm 2001, bản đồ địa chất 1/50.000 tờ Minh Hoá kèm theo Báo cáo thuyết minh "Địa chất và
khoáng sản tờ Minh Hoá" được hoàn thành và đã đưa được nhiều kết quả nghiên cứu mới về cổ sinh địa tầng
Mesozoi và các khoáng sản phosphat và vật liệu xây dựng của vùng. Ngoài ra, các nhà khoa học cũng đã thực
hiện công bố nhiều công trình nghiên cứu quan trọng về ranh giới Frasni - Famen (Devon thượng) .
Đặc điểm tự nhiên: Phong Nha-Kẻ Bàng có một cấu trúc địa chất phức tạp, với lịch sử phát triển vỏ Trái Đất từ
thời kỳ Ordovicia (464 Ma). Điều này đã tạo ra 3 loại địa hình và địa mạo. Một trong số đó là các kiến tạo không
phải carxtơ với các ngọn núi thấp tròn với các thềm đất tích tụ mài mòn dọc theo các thung lũng sông Son và
sông Chay và tại các mép khối núi đá vôi trung tâm. Loại kiến tạo lớn khác là các kiến tạo carxtơ có đặc trưng là
các carxtơ nhiệt đới cổ chủ yếu là từ Mezozoic, nhưng 2/3 của khu vực này là carxtơ từ Đại Tân Sinh. Đá vôi
chiếm một diện tích khoảng 200.000 ha, với một khu vực tương tự ở tỉnh Khăm Muộn của Lào. Quá trình kiến
tạo carxtơ đã tạo ra nhiều đặc điểm như các sông ngầm, các động khô, các động bậc thang, động treo, động hình
cây và động cắt chéo nhau. Các động có sông được chia thành 9 động của hệ thống Phong Nha đổ vào sông Son
và 8 động của hệ thống động Vòm đổ vào sông Chay.
So với các khu vực carxtơ khác trên thế giới đã được công nhận là di sản thế giới, khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng
có đặc điểm tự nhiên có nhiều dị biệt do điều kiện khí hậu và cấu trúc địa chất khác nhau. Khu vực Phong Nha-
Kẻ Bàng nằm trong vành đai tạo núi Alpi, một đai núi trẻ phát triển mạnh mẽ vào thời kỳ Kainozoi. Vì vậy, các
khối đá vôi tại khu vực này bị biến dạng cơ học khá mạnh do đứt gãy. Khí hậu khu vực này là nhiệt đới gió mùa
nên các hiện tượng carxtơ tại đây không giống với các khu vực ôn đới về cường độ quá trình carxtơ cũng như
các dạng địa hình mà nó tạo ra trên bề mặt và khu vực ngầm.
Hệ thống đứt gãy chằng chịt trên mặt đá vôi tại khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng đã tạo điều kiện cho nước dễ thấm
vào các khối đá làm tăng khả năng hòa tan do trong nước có chứa các chất axít có phản ứng với đá vôi (cácbonat
canxi). Hệ thống hang động hùng vĩ của Phong Nha được tạo ra do quá trình các khe nứt kiến tạo, sau đó là quá
trình phong hoá vật lý và hoá học đã gặm mòn, hoà tan, rửa trôi qua hàng triệu năm. Trong điều kiện nhiệt đới
ẩm, quá trình Karst hoá rất mạnh mẽ về cường độ và tốc độ phá huỷ. Ngoài hệ thống núi đá vôi, vùng núi đất có
nền đá mẹ chủ yếu là đá Macma axít, đá sét, đá biến chất và phù sa cổ.
Về thổ nhưỡng, khu vực Phong Nha có nhiều hoại đất hình thành từ các nguồn đá mẹ khác nhau. Đất chủ yếu là
đất Ferarít đỏ vàng trên núi đá vôi, đất Feralit vàng trên đá Mácma axít, đất Ferarit vàng nhạt và đất phù sa bồi tụ
ven sông.
Khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng có hang động có tuổi cổ nhất Đông Nam Á, với thời gian bắt đầu hình thành hang
động là 35 triệu năm trước đồng thời với pha tách giãn hình thành Biển Đông. Các hướng chạy của hệ thống
hang động tại khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng trùng với hướng các đứt gãy mang tính khu vực và địa phương.
Lũ ở trong các khu vực thung lũng xảy ra từ tháng 9 đến tháng 11 nhưng trong mùa khô từ tháng 2 đến tháng 8
thì hầu như các con suối đều khô cạn.
Hệ thống hang động:

24
Tìm hiểu Vườn quốc gia Việt Nam. Đỗ Thương Huyền K4Địa
Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng là một trong hai khu vực đá vôi lớn nhất thế giới. So với 41 di sản thế giới
khác có carxtơ, Phong Nha-Kẻ Bàng có các điều kiện địa hình, địa mạo và sinh vật khác biệt. Carxtơ tại đây có
niên đại từ thời kỳ Đại Cổ Sinh, 400 triệu năm trước, do đó Phong Nha-Kẻ Bàng là vùng carxtơ lớn cổ nhất châu
Á. Nếu như khu vực Hin Namno, một khu vực bảo tồn tự nhiên của tỉnh Khăm Muộn, Lào, giáp Phong Nha-Kẻ
Bàng về phía tây được kết hợp thành một khu bảo tồn liên tục, thì khu vực bảo tồn này sẽ là khu rừng carxtơ còn
tồn tại lớn nhất ở Đông Nam Á với diện tích 317.754 ha.
Tại Phong Nha-Kẻ Bàng có một hệ thống gồm khoảng 300 hang động lớn nhỏ. hệ thống động Phong Nha đã
được Hội nghiên cứu hang động Hoàng gia Anh (BCRA) đánh giá là hang động có giá trị hàng đầu thế giới với 4
điểm nhất: có các sông ngầm dài nhất, có cửa hang cao và rộng nhất, những bờ cát rộng và đẹp nhất, những
thạch nhũ đẹp nhất.
So với 3 vườn quốc gia khác đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới khác ở Đông Nam Á (Vườn quốc
gia Gunung Mulu ở Malaysia, Vườn quốc gia sông ngầm Puerto Princesa ở Palawan của Philippines và Vườn
quốc gia Lorentz ở Tây Irian của Indonesia) và một số khu vực carxtơ khác ở Thái Lan, Trung Quốc, Papua New
Guinea thì carxtơ ở Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng có tuổi già hơn,
cấu tạo địa chất phức tạp hơn và có hệ thống sông ngầm đa dạng và phức
tạp hơn.
Lịch sử khám phá hang động:
Thạch Nhũ và măng đá trong động Phong Nha
Các văn tự khắc trên vách đá bằng ngôn ngữ Chăm Pa cổ cho thấy động
Phong Nha được người Chăm phát hiện từ thời xa xưa khi vùng đất này còn thuộc Vương quốc Chăm Pa. Năm
1550, Dương Văn An là người đầu tiên viết về động Phong Nha. Động Phong Nha đã được chạm lên một trong
Cửu Đỉnh Đại Nội triều Nguyễn ở Huế. Năm 1824, động Phong Nha được vua Minh Mạng sắc phong là "Diệu
ứng chi thần". Ngoài ra còn được các vua nhà Nguyễn "Thần Hiển Linh".
Cuối thế kỷ 19, ông Léopold Michel Cadière, một linh mục người Pháp, thám hiểm động, khám phá các chữ viết
của người Chăm và ông đã suy tôn Phong Nha "Đông Dương đệ nhất động". Tháng 7 năm 1924, nhà thám hiểm
người Anh Barton sau khi khảo sát Phong Nha đã đánh giá rằng động Phong Nha có thể sánh ngang với các hang
động nổi tiếng trên thế giới như động Padirac (Pháp), động sông Drac (Tây Ban Nha) về vẻ đẹp kỳ vĩ của hang
động.
Năm 1935, một người dân địa phương đã tình cờ phát hiện ra một động khô có cửa động nằm cách cửa động
Phong Nha 1000 m, trên độ cao 200 m. Động này nằm trong khối núi đá vôi Kẻ Bàng thuộc xã Sơn Trạch, huyện
Bố Trạch. Đây là động có cảnh quan kỳ vĩ không kém động Phong Nha nhưng lại không có sông ngầm.
Năm 1937, Phòng du lịch của Khâm sứ Pháp (ở Huế) đã ấn hành một cuốn tập gấp giới thiệu du lịch ở Quảng
Bình, trong đó có giới thiệu về động Phong Nha. Địa điểm du lịch này đã được xếp hạng nhì ở Đông Dương
thuộc Pháp. Trước năm 1990, đã có nhiều cuộc thám hiểm hang động của các nhà khoa học Việt Nam và nước
ngoài nhưng chưa hé lộ nhiều về hệ thống hang động Phong Nha.

25
Năm 1990, lần đầu tiên Đại học Tổng hợp Hà Nội đã cùng với Hiệp hội nghiên cứu hang động Anh (British
Cave Research Association) đã phối hợp khám phá và nghiên cứu hang động trong khu vực này một cách sâu
rộng. Cuộc khám phá hang động lần đầu được tiến hành năm 1990 bởi một nhóm các chuyên gia về hang động
của Hiệp hội nghiên cứu hang động Anh và Khoa Địa chất Địa hình của Đại học Tổng hợp Hà Nội, do Howard
Limbert chỉ huy. Nhóm thám hiểm này đã hoàn tất nghiên cứu động Vòm.
Năm 1992, một nhóm gồm 12 nhà khoa học Anh và 6 giáo sư của Đại học Tổng hợp Hà Nội tiến hành cuộc
thám hiểm thứ hai và đã hoàn tất thám hiểm 7.729 m thuộc động Phong Nha và 13.690 m thuộc động Vòm và
các hang động lân cận. Cuộc thám hiểm thứ 3 vào năm 1994 bao gồm 11 nhà khoa học Anh và 5 nhà khoa học
Việt Nam thuộc Đại học Tổng hợp Hà Nội.
Việc thám hiểm các hang động trong khu vực này là một công việc khó khăn và nguy hiểm. Các đoàn thám hiểm
đã mất nhiều thời gian với những khó khăn như: hang động sắc nhọn dễ gây thương tích, lòng hang hẹp, các
sông suối ngầm có thể dâng lên đột ngột làm bít cửa hang, lượng ô xy trong nhiều khu hang động có thể không
đủ.
Các kết quả thám hiểm, nghiên cứu này đã mang đến một sự hiểu biết toàn diện về hệ thống hang động ở Phong
Nha-Kẻ Bàng và đã được làm cơ sở cho bảo vệ, quy hoạch và phát triển du lịch cũng như hoàn thiện hồ sơ để
trình lên UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới.
Các nhà khoa học đã khám phá và nghiên cứu 20 hang động với tổng chiều dài 70 km hang động, trong số đó có
17 hang động tại khu vực Phong Nha và 3 hang động tại khu vực Kẻ Bàng. Năm 1999, các nhà khoa học của
Trung tâm Nhiệt đới Việt-Nga cũng tiến hành các khảo sát về hệ động thực vật ở khu vực Kẻ Bàng. Động Phong
Nha dài 7.729 m, có 14 hang, có dòng sông ngầm dài 13.969 m. Các thạch nhũ trong động trải qua hàng triệu
năm kiến tạo từ nước có hòa tan đá vôi (CaHCO3) mà tích tụ thành những hình tượng lạ mắt như hình sư tử, hình
ngai vàng, hình đức Phật v.v.
Hang động trong Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng
Năm 2005, Hội hang động Anh phát hiện một hang động khô, đặt tên Động Thiên
Đường, lớn nhất và đẹp nhất tại Phong Nha-Kẻ Bàng Theo đánh giá, hang động
Thiên Đường còn to lớn và đẹp hơn cả động Phong Nha.
Ngày 1 tháng 6 năm 2006, Bộ Văn hóa Thông tin Việt Nam đã phát hành bộ tem
chọn lọc Phong Nha-Kẻ Bàng
Hệ thống động Phong Nha: Cho đến nay, các nhà khoa học đã khảo sát 44,5 km hang động nhưng du khách
bình thường chỉ có thể vào được 1500 m. Hệ thống động Phong Nha có các hang động đáng chú ý sau:
- Hang Tối: nằm trên thượng lưu sông Son. Hang này có chiều dài 5.258 m và cao 83 m.
- Hang: dài 736 m.
- Hang Chà An: dài 667 m và cao 15 m.
- Hang Thung: có sông ngầm dài 3351 m.
- Hang Én: dài 1645 m và cao 78,6 m, có bãi cát bên trong, là nơi sinh sống của én.

26
Tìm hiểu Vườn quốc gia Việt Nam. Đỗ Thương Huyền K4Địa
- Hang Khe Tiên: tọa lạc phía nam Phong Nha, dài 520 m.
- Hang Khe Ry: tọa lạc ở phía nam Phong Nha.
- Hang Khe Thi.
Hệ thống động Vòm:
- Hang Vòm: dài 15,05 km và cao 145 m có nhiều thạch nhũ và măng đá đẹp.
- Hang Đai Cao: dài 1645 m và cao 28 m.
- Hang Duột: dài 3,927 km và cao 45 m, có bãi cát mịn.
- Hang Cá: dài 1.500 m cao 62 m.
- Hang Hổ: dài 1.616 m và cao 46 m
- Hang Over: dài 3.244 m và cao 103 vời chiều rộng trong khoảng 30–50 m.
- Hang Pygmy: dài 845 m.
- Hang Rục Caroòng: nơi sinh sống của người thiểu số Arem. Họ sống trong hang động và săn bắn hái lượm tự
nhiên.
Động Tiên Sơn
Cửa vào động Tiên Sơn hay động Khô
Động Tiên Sơn hay động Khô là một động đẹp nổi tiếng ở khu vực Phong Nha-
Kẻ Bàng. Cửa vào động Tiên Sơn nằm cách cửa động Phong Nha khoảng 1.000
m, ở độ cao so với mực nước biển khoảng 200 m. Động Tiên Sơn có chiều dài
là 980 m. Từ cửa động đi vào khoảng 400 m có một vực sâu chừng 10 m, và
sau đó là động đá ngầm tiếp tục dài gần 500 m, khá nguy hiểm nên du khách
chưa được phép đến khu vực này mà chỉ tham quan tới khoảng cách 400 m từ tính từ cửa động. Động này được
phát hiện năm 1935, ban đầu, cư dân địa phương gọi động này là động Tiên, do vẻ đẹp kỳ bí thần tiên của nó.
Sau này động Tiên Sơn được gọi là động Khô, để phân biệt với động Phong Nha là động nước. Động Tiên Sơn
là nơi có cảnh thạch nhũ và măng đá kỳ vĩ huyền ảo như trong động Phong Nha nhưng lại có nét riêng là các âm
thanh phát ra từ các phiến đá và cột đá khi được gõ vào vang vọng như tiếng cồng chiêng và tiếng trống. Theo
các nhà khoa học thuộc Hội hang động Hoàng gia Anh, động Tiên Sơn được hình thành cách đây hàng chục triệu
năm, khi một dòng nước chảy qua quả núi đã đục rỗng, bào mòn núi đá vôi Kẻ Bàng. Sau đó, do kiến tạo địa
chất khối núi này hoặc đã được nâng lên, hoặc đã bị hạ xuống khiến các khối đá đổ sụp ngăn chặn dòng chảy
làm nên động Tiên Sơn ở phía trên. Còn phần có sông ngầm chảy qua tạo ra hang động Phong Nha. Dù động
Phong Nha và động Tiên Sơn nằm liền kề nhau nhưng giữa hang động này lại không thông nhau. Cư dân địa
phương đã nhặt được một số hiện vật có thể là di chỉ di chỉ của người xưa ở trên bãi đất bằng phẳng trước cửa
động.
Động Thiên Đường: Động Thiên Đường được đánh giá là động lớn và dài hơn động Phong Nha. Đây là một
động khô, không có sông ngầm chảy qua như động Phong Nha. Theo kết quả khảo sát sơ bộ của các nhà khoa
học, so với động Phong Nha thì động Thiên Đường có chiều dài và quy mô lớn hơn nhiều. Trong động Thiên

27
Đường có nhiều khối thạch nhũ và măng đá kỳ ảo. Phần lớn nền động là đất dẻo, khá bằng phẳng nên thuận tiện
cho việc tham quan và thám hiểm. Trong khi nhiệt độ mùa Hè ở bên ngoài là 36-37°C thì nhiệt độ trong động
Thiên Đường luôn ở 20-21°C.
Hệ thống sông ngòi và đỉnh núi:
Sông ngòi:
Sông ngầm tại lối vào động Phong Nha
Ngoài hệ thống hang động, Phong Nha-Kẻ Bàng còn có các sông ngầm dài
nhất. Đặc trưng núi đá vôi của khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng đã tạo ra một hệ
thống sông ngòi trong vùng khá phức tạp, có rất ít sông suối có nước thường
xuyên. Có 3 con sông chính trong vườn quốc gia này là sông Chày, sông Son và
sông Troóc. Nguồn nước cung cấp cho các con sông này là hệ thống các sông suối ngầm dưới lòng đất, các suối
này đều nổi lên mặt đất tại các hang động như Én, Vòm, Tối và Phong Nha. Cả ba con sông chính trong vườn
quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng đều chảy vào sông Gianh, sau đó đổ ra biển Đông ở thị trấn Ba Đồn thuộc huyện
Quảng Trạch.
Nước sông Chày đoạn trước Hang Tối có màu xanh đặc trưng mà theo nhiều chuyên gia là do có chứa lượng
CaHCO3 và các loại khoáng chất khác với nồng độ cao.
Khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng còn có hàng chục con suối và thác nước đẹp như: Thác Gió, Thác Mệ Loan, Suối
Mọc phun lên từ chân một dãy núi đá vôi, Suối Trạ Ang.
Các đỉnh núi: Phong Nha-Kẻ Bàng có một số ngọn núi cao hơn 1000 m, đáng chú ý là đỉnh Co Rilata với độ
cao 1.128 m và đỉnh Co Preu cao 1.213 m.
Các núi ở vùng carxtơ của vườn quốc gia này có chiều cao điển hình trên 800 m và tạo thành một dãy núi liên
tục dọc theo đường biên giới hai nước Việt Nam và Lào, trong đó đáng chú ý là các đỉnh: Phu Tạo (1174 m), Co
Unet (1150 m), Phu Canh (1095 m), Phu Mun (1078 m), Phu Tu En (1078 m), Phu On Chinh (1068 m), Phu
Dung (1064 m), Phu Tu Ôc (1053 m), Phu Long (1015 m), Phu Ôc (1015 m), Phu Dong (1002 m). Nằm xen giữa
các đỉnh này là các đỉnh có chiều cao từ 800-1000 m: Phu Sinh (965 m), Phu Co Tri (949 m), Phu On Boi (933
m), Phu Tu (956 m), Phu Toan (905 m), Phu Phong (902 m), núi Ma Ma (835 m).
Vùng địa hình phi carxtơ chiếm một tỷ lệ nhỏ, chủ yếu nằm ở vòng ngoài về phía bắc, đông bắc và đông nam
của Phong Nha-Kẻ Bàng với các đỉnh núi cao 500-1000 m với độ dốc 25-30 độ và sự chia cắt cao. Có một số
thung lũng hẹp dọc theo các con suối và khe như: khe Am, khe Cha Lo, khe Chua Ngút và một thung lũng nằm
dọc theo Rào Thương ở rìa cực nam. Theo hướng bắc-nam có các đỉnh núi đáng chú ý như: Phu Toc Vu (1000
m), Mã Tác (1068 m), Cổ Khu (886 m), U Bò (1009 m), Co Rilata (1128 m) (đỉnh cao nhất của vườn quốc gia
này, nằm ở rìa cực nam của vườn quốc gia).
Động thực vật:
Hệ thực vật:

28
Tìm hiểu Vườn quốc gia Việt Nam. Đỗ Thương Huyền K4Địa
Thực vật trên núi đá vôi, dạng thực vật điển hình tại vườn quốc gia Phong
Nha-Kẻ Bàng.
Vườn quốc gia này là một bộ phận của vùng sinh thái Trường Sơn. Cho đến
nay, chủng loại thực vật lớn nhất ở đây là rừng thường xanh ẩm, rậm nhiệt đới
trên đá vôi cao 800 m so với mực nước biển. 96,2% diện tích khu vườn quốc
gia này được rừng bao phủ; 92,2% là rừng nguyên sinh; 74,7% (110.476 ha)
khu vườn quốc gia này là rừng ẩm nhiệt đới thường xanh trên đá vôi có độ cao dưới 800 m; 8,5% (12.600 ha) là
rừng ẩm nhiệt đới thường xanh trên đá vôi có độ cao trên 800 m; 8,3% (12.220 ha) là rừng ẩm nhiệt đới trên đất
núi đất có cao độ dưới 800 m, 1,3% (1.925 ha) là bụi cây và cỏ và cây rải rác trên đá vôi; 2% (2.950 ha) là cỏ,
bụi cây và cây rải rác trên núi đất; 180 ha là rừng tre nứa và mây song; thảm cây nông nghiệp 521 ha.
Theo số liệu thống kê mới nhất, Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng là rừng nguyên sinh trên núi đá vôi điển
hình với các loại thực vật đặc trưng như: nghiến (Burretiodendron hsienmu), chò đãi (Annamocarya spp.), chò
nước (Plantanus kerii) và sao (Hopea spp.). Thực vật có mạch 152 họ, 511 kiểu gen, 876 loài thực vật có mạch,
trong dó có 38 loài nằm trong Sách đỏ Việt Nam và 25 loài nằm trong Sách đỏ thế giới, 13 loài đặc hữu Việt
Nam, trong đó có sao và cây họ Dầu (Dipterocarpaceae) .
Ở vườn quốc gia này có một khu vực rừng bách xanh được phân bổ trên đỉnh núi đá vôi có diện tích khoảng trên
5000 ha, có khoảng 2500 cây với mật độ 600 cây/ha. Các cây bách xanh ở vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng
có tuổi 500-600 năm. Bởi hiện trên thế giới chỉ có 3 loài bách xanh đã được nhận diện. Đây là quần thể bách
xanh núi đá (Calocedrus rupestris) lớn nhất Việt Nam. Loài bách xanh này nằm trong nhóm 2A theo quy định
tại công văn số 3399/VPCP-NN (ngày 21 tháng 6 năm 2002) đính chính cho nghị định 48 của Chính phủ, thuộc
nhóm quý hiếm, hạn chế khai thác.
Trường Đại học Khoa học tự nhiên thuộc Đại học quốc gia Hà Nội, phối hợp với Trung tâm nghiên cứu khoa
học của Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng phát hiện thêm tại vườn quốc gia này 1.320 loài thực vật mới, trong
đó có một số quần thể thực vật lớn được đánh giá là đặc biệt quý hiếm.
Các nhà khoa học cũng phát hiện 3 loài lan hài quý hiếm, và rừng bách xanh núi đá duy nhất trên toàn lãnh thổ
Việt Nam. Lan Hài ở đây có ở vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng có 3 loài: lan hài xanh (Paphiopedilum
malipoense), lan hài xoắn (Paphiopedilum dianthum), lan hài đốm (Paphiopedilum concolor). IUCN (Hiệp hội
Bảo vệ Thiên nhiên Thế giới) trong năm 1996 đã xếp lan hài là loài đang đứng trước nguy cơ diệt vong rất cao
(tuyệt chủng trong tương lai gần) .
Hệ động vật:
Thằn lằn Phong Nha-Kẻ Bàng, một loài mới được các nhà khoa học Đức phát
hiện ở Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng.
Phong Nha-Kẻ Bàng là nơi sinh sống của 113 loài thú lớn, nổi bật nhất là hổ và
bò tót, loài bò rừng lớn nhất thế giới, 302 loài chim, trong đó có 35 loài nằm
trong Sách đỏ Việt Nam và 19 loài nằm trong Sách đỏ thế giới; 81 loài bò sát

29
lưỡng cư (18 loài trong Sách đỏ Việt Nam và 6 loài Sách đỏ thế giới); 259 loài bướm; 72 loài cá, trong đó có 4
loài đặc hữu Việt Nam. Năm 1996, ở đây có loài cá mới phát hiện ở Việt Nam. Linh trưởng có 10 bộ linh trưởng,
chiếm 50% tổng số loài thuộc bộ linh trưởng ở Việt Nam, 7 loài nằm trong Sách đỏ Việt Nam, đặc biệt là voọc
Hà Tĩnh, sao la, mang. Phong Nha-Kẻ Bàng được đánh giá là có hệ tự nhiên đa dạng nhất trong tất cả các vườn
quốc gia và khu dự trữ sinh quyển quốc gia trên thế giới.
Phong Nha-Kẻ Bàng là nơi có cộng đồng linh trưởng phong phú bậc nhất Đông Nam Á. Năm 2002, nhà khoa
học Đức Thomas Zegler đã phát hiện ra một loài thằn lằn tai mới có tên là Tripidophrus Nogei tại vùng núi Karst
thuộc khu vực Chà Nòi. Loài thằn lằn này đã được đăng trên số báo 114 (2) phát hành tháng 7 năm 2007 của tạp
chí Revue Suise De Zoologie. Các nhà khoa học đã đặt tên loài này là Thằn lằn Phong Nha-Kẻ Bàng (danh pháp
khoa học: Cyrtodactylus phongnhakebangensis). Các nhà khoa học Đức đã xây dựng một khu giới thiệu Vườn
quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng tại Vườn thú Köln để giới thiệu sự đa dạng sinh học của vườn quốc gia này, ở đây
cũng phát hiện ra loại rắn mai gầm mới. Qua một thời gian khảo sát, các nhà khoa học Đức, Nga và Việt Nam đã
phát hiện thêm 10 loài mới trong vườn quốc gia này, trong đó bao gồm 5 loài rắn, 5 loài tắc kè, thằn lằn, nhiều
loài trong số mới phát hiện này là động vật đặc hữu ở đây.
Các nhà khoa học Việt Nam và các nhà khoa học Nga thuộc Viện Động vật hoang dã Sankt-Peterburg, các
nhà khoa học Đức của Vườn thú Koln đã phát hiện thêm tại vườn quốc gia này hơn 100 loài mới trong khu hệ
cá. Mười loại cá chưa từng thấy ở Việt Nam đã được phát hiện ở vườn quốc gia này.
Trong 3 loài cá ở Phong Nha-Kẻ Bàng được ghi vào Sách Đỏ Việt Nam thì đã có 2 loài cá chình. Đó là cá
Chình hoa (Anguilla marmorota) và cá Chình mun (Anguilla bicolo).
Tổ chức Bảo tồn Động vật hoang dã Thế giới (FFI) đã tiến hành khảo sát và đã có báo cáo cho rằng Vườn
Quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng có 4 loài được xếp vào diện nguy cấp trên phạm vi toàn cầu, đó là voọc Hà Tĩnh,
voọc đen tuyền, voọc ngũ sắc và vượn đen má trắng.
Ngày 27 tháng 2 năm 2005, một đàn bò tót với số lượng lớn xuất hiện tại Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ
Bàng.
Giá trị khảo cổ, lịch sử, văn hóa:
Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng cũng chứa đựng nhiều di vật khảo cổ. Các bằng chứng về sự sinh sống
của con người ở khu vực này là các đầu rìu thuộc Thời kỳ Đồ đá mới và các hiện vật tương tự đã được các nhà
khảo cổ Pháp và Việt Nam tìm thấy trong các hang động. Năm 1899, một giáo sĩ truyền đạo người Pháp tên là
Léopold Cadière đã khảo sát và nghiên cứu về về văn hoá và phong tục, tập quán của người dân vùng thung lũng
sông Son. Trong thư viết cho Trường Viễn Đông bác cổ, ông khẳng định: “Những gì còn lại của nó đều rất quí
giá đối với sử học. Giữ nó là giúp ích cho khoa học”.
Đầu thế kỷ 20, các nhà thám hiểm hang động và và học giả Anh, Pháp đã đến Phong Nha và họ đã phát hiện
ở đây một số di tích Chăm và Việt cổ như bàn thờ Chàm, chữ Chàm khắc trên vách đá, gạch, tượng đá, tượng
phật, mảnh gốm và nhiều bài vị v.v.

30
Tìm hiểu Vườn quốc gia Việt Nam. Đỗ Thương Huyền K4Địa
Năm 1995, Viện Khảo cổ học Việt Nam nhận định động Phong Nha có dấu hiệu là một di tích khảo cổ học
vô cùng quan trọng. Viện này cho rằng có khả năng dấu tích ở hang Bi Ký trong động là một thánh đường Chăm
Pa từ thế kỷ 9 đến thế kỷ 11. Tại động Phong Nha, người ta đã phát hiện nhiều mảnh thân và miệng các bình
gốm có tráng men của Chàm với các mảnh gốm thô sơ có lõi đen, có vòng miệng loe rộng so với thân, tạo một
góc gần vuông. Ngoài ra, người ta còn phát hiện ra các mảnh gốm hoa văn miệng hình cánh sen, màu xanh ngọc,
màu lông thỏ hồng nhạt.
Động Phong Nha là nơi vua Hàm Nghi trú ngụ trong thời kỳ thực hiện Chiếu Cần Vương kháng chiến chống
thực dân Pháp.
Các di tích lịch sử cách mạng có: Bến phà Xuân Sơn, Đường mòn Hồ Chí Minh và đường 20 Quyết Thắng,
Mụ Giạ, A.T.P, Trà Ang, Cà Tang, cua Chữ A, Khe Ve... hay các di tích Hang Tám Cô, hang Chín Tầng, bến
phà Nguyễn Văn Trỗi, các kho hàng hoá trong hệ thống hang động ở Tuyên Hoá, Minh Hóa trong thời kỳ Chiến
tranh Việt Nam.
Di sản thiên nhiên thế giới:
Di sản thế giới lần 1: tiêu chí địa chất, địa mạo.
Hồ sơ đề nghị công nhận vườn quốc gia này là di sản thế giới đã được Chính phủ Việt Nam trình lên UNESCO
năm 1998. Lý do đưa ra để đề nghị công nhận vườn quốc gia này là di sản thế giới bao gồm: sự đa dạng sinh học
cao, sự độc đáo và vẻ đẹp của hệ thống hang động và phong cảnh núi đá vôi.
Ban đầu, Chính phủ Việt Nam đề nghị UNESCO công nhận Khu bảo tồn Phong Nha năm 1998 và IUCNđã tiến
hành kiểm tra tại hiện trường trong tháng 1 và 2 năm 1999.
Tại cuộc họp bình thường vào tháng 7 năm 1999, Ủy ban đánh giá của UNESCO đã kết luận rằng Khu bảo tồn
Phong Nha được đề cử sẽ đáp ứng được tiêu chí (i) và (iv) của UNESCO cho ứng cử viên di sản thế giới nếu như
ranh giới được mở ra thành vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng rộng hơn. Ủy ban này cũng đề nghị hai nhà nước
Việt và Lào thảo luận và kết nối hai khu bảo tồn Phong Nha-Kẻ Bàng (Việt Nam) và Hin Namno (Lào) thành
một khu bảo tồn liên tục để phối hợp bảo tồn.
Trong lần đề nghị thứ hai của Chính phủ Việt Nam gửi UNESCO vào năm 2000, phạm vi khu vực đề cử gồm cả
khu vực rừng Kẻ Bàng như ý kiến năm 1999 của UNESCO.
Tuy nhiên, vào thời điểm này, Chính phủ Việt Nam cũng tuyên bố xây dựng đường Hồ Chí Minh và đường nối
quốc lộ 20 với đường Hồ Chí Minh cắt qua vùng lõi của vườn quốc gia này. Nhiều tổ chức quốc tế như IUCN và
Tổ chức động thực vật quốc tế đã thuyết phục và khuyên Chính phủ Việt Nam thận trọng trong việc xây dựng
các con đường này qua Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng.
Trong một bức thư của Tổ chức động thực vật gửi UNESCO ngày 15 tháng 12 năm 2000 ước tính cần 4,5 tấn
thuốc nổ cho mỗi km đường. Do đó việc xem xét đánh giá để công nhận là di sản thế giới đối với vườn quốc gia
này không tiến triển gì hơn. Tháng 5 năm 2002, Chính phủ Việt Nam cung cấp thêm thông tin cho UNESCO về
việc nâng cấp Khu bảo tồn Phong Nha-Kẻ Bàng thành Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng với diện tích rộng
hơn hai lần đề cử trước (85.754 ha) kèm theo kế hoạch bảo tồn (quyết định của Chính phủ tháng 12 năm 2001).

31
Chính phủ đã thay đổi tuyến đường Hồ Chí Minh và UNESCO đã đánh giá tuyến mới không ảnh hưởng đến
vườn quốc gia này do tuyến đường được xây với mức độ trách nhiệm đối với môi trường cao, ngoài ra tuyến
đường này cung cấp đường tiếp cận khu vực vườn nhưng vẫn cho rằng đường nối đường Hồ Chí Minh và đường
20 đi qua khu lõi vườn quốc gia này là không cần thiết và tác động xấu đến hệ động thực vật ở đây (chặt cây, xe
cộ gây xáo trộn cuộc sống sinh vật, tạo điều kiện thuận lợi cho săn bắt động vật và chặt cây). Ủy ban đánh giá
cho rằng tiêu vườn quốc gia này được đề nghị theo hai tiêu chí i (lịch sử Trái Đất và nổi bật địa chất) và iv (đa
dạng sinh học và các loài bị đe dọa) chưa đạt do chưa có bằng chức thực về địa chất địa mạo được cung cấp
trong hồ sơ và khu vực vườn quốc gia này chưa đủ rộng để bảo tồn các loài quý hiếm.
Chính phủ Việt Nam đã bổ sung thông tin về giá trị địa chất địa mạo khu vực vườn quốc gia này. Tại kỳ họp
toàn thể lần thứ 27 từ 30 tháng 6 đến 5 tháng 7 năm 2003, đại diện 160 quốc gia thuộc Tổ chức Giáo dục, Khoa
học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO) đã công nhận Vườn Quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng, cùng với 30 địa
danh khác trên toàn thế giới, là di sản thiên nhiên thế giới. Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng được UNESCO
công nhận là di sản thế giới vì đạt tiêu chuẩn viii “là ví dụ nổi bật đại diện cho các giai đoạn của lịch sử trái đất,
bao gồm bằng chứng sự sống, các tiến triển địa chất đang diễn ra đáng kể đang diễn ra trong quá trình diễn biến
của các kiến tạo địa chất hay các đặc điểm địa chất và địa văn”.
Đề nghị công nhận lần 2: tiêu chí đa dạng sinh học.
Năm 2007, Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia Việt Nam đã thống nhất đề nghị Thủ tướng cho phép Bộ Văn hóa
- Thể thao và Du lịch Việt Nam ký trình hồ sơ gửi UNESCO công nhận vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng là
Di sản thiên nhiên thế giới lần 2 về tiêu chí đa dạng sinh học. Bộ hồ sơ trình lần này đã được bổ sung các tư liệu
quý về hệ động thực vật tại vườn quốc gia này. Hồ sơ trình UNESCO lần này cũng đã nêu rõ tính nổi bật toàn
cầu về đa dạng sinh học, và tính toàn vẹn của vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng.
Nhiều chuyên gia trong nước và quốc tế cho rằng nếu Việt Nam hoàn thiện hồ sơ thì có nhiều khả năng
UNESCO sẽ công nhận Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng là di sản thiên nhiên thế giới lần 2 với hai tiêu chí
địa chất địa mạo và đa dạng sinh học, so với một tiêu chí được công nhận năm 2003. Tính đa dạng sinh học của
vườn quốc gia này sánh ngang với các khu vực đã được công nhận là di sản hay các khu đề xuất ở châu Á và
châu Úc, đặc biệt so sánh với các khu di sản hoặc đang đề xuất có chứa núi đá vôi như khu vực núi Emi và núi
Phật Lạc Sơn (Trung Quốc), vườn quốc gia sông ngầm Puerto Princesa ở Palwan của Philippines - một di sản thế
giới tại Philippines. Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng được các nhà khoa học đánh giá là là trung tâm của khu
vực miền trung Việt nam. WWF thừa nhận khu vực vườn quốc gia này có tính đa dạng sinh học cao nhất hành
tinh.
Cuộc bầu chọn 7 kỳ quan thiên nhiên thế giới mới.
Cùng với Vịnh Hạ Long và Phan Xi Păng, Phong Nha-Kẻ Bàng là một trong 3 địa danh tại Việt Nam được đưa
vào danh sách ứng cử viên cho cuộc bầu chọn 7 kỳ quan thiên nhiên thế giới mới. Đây là cuộc bầu chọn qua
mạng Internet do tổ chức NewOpenWorld, một tổ chức phi chính phủ không được hậu thuẫn bởi UNESCO, có
trụ sở tại Thụy Sỹ đứng ra tổ chức toàn cầu. Theo kết quả sơ bộ, và sẽ còn thay đổi, do New7Wonders công bố

32
Tìm hiểu Vườn quốc gia Việt Nam. Đỗ Thương Huyền K4Địa
lúc 6 giờ sáng ngày 22 tháng 2 năm 2008 (giờ Việt Nam), Phong Nha-Kẻ Bàng lần đầu tiên vượt lên đứng thứ
nhì trên bảng xếp hạng 77 kỳ quan được bình chọn nhiều nhất thế giới, chỉ xếp sau Vịnh Hạ Long.
Hoạt động du lịch:
Thuyền phục vụ du khách tham quan Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng
Với những ưu thế như nêu trên, Vườn Quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng có điều
kiện thuận lợi để phát triển các loại hình du lịch:
- Du lịch khám phá hang động bằng xuồng
- Du lịch sinh thái, khám phá hệ động thực vật
- Leo núi mạo hiểm: ở đây có hang chục đỉnh núi có độ cao tương đối trên 1.000 m, dốc đá vôi dựng đứng phù
hợp cho các họat động leo núi thể thao mạo hiểm.
Một trong những tuyến du lịch mới là đi bằng du thuyền theo dòng sông Chày để ngược vào rừng sâu. Càng đi
ngược dòng sông Chày, dòng chảy sông này càng khúc khuỷu, đi qua nhiều thác ghềnh và đến khu vực rừng Trộ
Mợng. Tuyến này đã được các đơn vị kinh doanh du lịch khảo sát và đề nghị mở tuyến du lịch sinh thái rừng
Phong Nha-Kẻ Bàng để sớm đưa vào phục vụ khách du lịch ngoài tuyến tham quan các hang động Phong Nha và
Tiên Sơn. Khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng có thác Chài cao khoảng 50 m, có bãi Ràn Bò... Tên gọi Ràn Bò do đây
là nơi bò tót sinh sống và sinh đẻ ở đây.
Khu vực Phong Nha - Kẻ Bàng có nhiều địa danh được gọi theo đặc điểm của rừng như Nước Ngang - để chỉ
một dòng suối chảy vắt ngang, khác với các dòng suối khác chảy xuối xuống trong khu vực này; Ðá Nằm - một
hòn đá lớn nằm ngay giữa dòng thác chảy; Chân Thớt - một hòn đá có hình dạng giống như một chiếc thớt dùng
để thái thịt. Con suối đặc biệt ở khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng là Nước Trồi - nơi có dòng nước chảy trồi lên khỏi
mặt đất.
Trong 3 năm sau khi được UNESCO công nhận, lượng du khách đến tham quan Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ
Bàng đã gia tăng đột biến. Sân bay Đồng Hới đang được xây dựng để đáp ứng nhu cầu khách du lịch. Việc
Phong Nha-Kẻ Bàng được công nhận là di sản thế giới như là một cách quảng cáo tự nhiên, là một cú hích cho
phát triển du lịch, đặc biệt là thu hút du khách quốc tế. Tỉnh Quảng Bình cũng đã cấp phép cho một số dự án du
lịch lớn như: khu biệt thự nghỉ dưỡng sông Son, khu nghỉ mát Đá Nhảy, khu nghỉ mát 4 sao Sun Spa... để tăng
chất lượng phục vụ khách du lịch. Phong Nha Kẻ Bàng, cùng với các di sản thế giới khác tại miền Trung: Cố đô
Huế, Phố cổ Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn, Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên, cũng là một tuyến
điểm quan trọng trong chương trình quốc gia về du lịch mang tên Con đường di sản miền Trung do Tổng cục Du
lịch khởi xướng và phát động.
Nhờ lượng du khách tham quan khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng, khoảng 1.000 dân khu vực Xuân Sơn đã sống
bằng nghề du lịch (dịch vụ thuyền tham quan, hướng dẫn viên, nhiếp ảnh…). Nhiều người trước đây là lâm tặc
nhưng hiện đã chuyển sang bảo vệ rừng trong vườn quốc gia này. Trung tâm Văn hóa Du lịch Phong Nha-Kẻ
Bàng hiện có 248 thuyền, tạo việc làm cho 500 cư dân địa phương, với mỗi thuyền bao gồm 2 người được huấn
luyện các kỹ năng an toàn và hướng dẫn du khách và có thu nhập khoảng 70.000 đồng mỗi ngày. Trong năm

33
2000, trung tâm này đã đào tạo cho những người sơn tràng địa phương để họ chuyển đổi nghề nghiệp từ phá
rừng sang bảo vệ rừng và cung cấp dịch vụ du lịch.
Tuy nhiên, do công tác quảng bá (trang web của tỉnh Quảng Bình không có thông tin cụ thể và cập nhật về di sản
thiên nhiên này), dịch vụ, tiện ích cho khách du lịch đến thăm vườn quốc gia này hầu như chưa có nên từ năm
2005 đến nay, khách đến tham quan Phong Nha-Kẻ bàng bắt đầu chững lại và giảm dần, chủ yếu là khách nội
địa, trong đó lượng khách đến Phong Nha-Kẻ Bàng đến lần thứ hai chỉ chiếm 10%.
Việc bố trí đèn chiếu sáng trong các hang động vẫn chưa được thực hiện một cách khoa học, không làm nổi bật
nét đẹp huyền ảo tự nhiên của thạch nhũ. Bên trong hang động vẫn chưa bố trí hợp lý nhà vệ sinh dành cho du
khách tham quan.
Công tác bảo tồn và quản lý:
Công tác bảo tồn: Ban quản lý dự án vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng hiện có đội ngũ nhân viên 115 người
bao gồm các chuyên gia về động vật học, thực vật học, lâm sinh học, kinh tế-xã hội học nhưng lại không có thẩm
quyền xử lý các vi phạm và thiếu các phương tiện quản lý hữu hiệu đối với các mối đe dọa đối với vườn quốc
gia này.
Hiện có một khu bán hoang dã dành cho linh trưởng với diện tích 18 ha tại vườn quốc gia này với hàng rào điện
tử. Dự án này do Hội động vật Frankfurt (Zoologische Gesellschaft Frankfurt) (Đức) đầu tư dành riêng cho
Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng để bào tồn 10 loại linh trưởng, trong đó có voọc Hà Tĩnh, voọc chà vá chân
nâu quý hiếm. Khu vực này có có hệ sinh cảnh với đầy đủ thức ăn cho linh trưởng phát triển tốt.
Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ bàng được đưa vào quy hoạch phát triển kinh tế của tỉnh Quảng Bình trong giai
đoạn 1997-2010. Vườn quốc gia này cũng được đưa vào kế hoạch bảo tồn đa dạng sinh học xuyên biên giới
Phong Nha-Kẻ Bàng và Hin Namno giữa Lào và Việt Nam. Nhiều cuộc hội thảo đã được chính quyền hai tỉnh
Quảng Bình và Khăm Muộn tổ chức để phối hợp bảo tồn khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng và Hin Namno của Lào.
Các vấn đề về quản lý và bảo tồn: Có hai làng người dân tộc thiểu số Arem và Ma Coong sinh sống ở trong
vùng lõi của Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng. Bên trong vùng đệm của vườn quốc gia này, có 52.001 người
đang sinh sống, chủ yếu là người Kinh và một số nhỏ người Chứt và Vân Kiều, nhiều người trong số họ mưu
sinh bằng cách khai thác lâm sản.
Núi đá tại khu vực Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng bị dân địa phương khai thác, đục đẽo để lấy đá bán khiến
cho nhiều triền núi bị nham nhở còn chính quyền địa phương thì làm ngơ.
Kể từ khi trở thành di sản thể giới, lượng khách du lịch đến đây tăng vọt, các hoạt động của lâm tặc, tình trạng
săn bắn động vật hoang dã là mối nguy cho vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng, trong khi lực lượng kiểm lâm
lại khá mỏng. Sự gia tăng du khách thăm quan khu vườn quốc gia này cũng gây ra vấn đề cho môi trường ở đây
như các rác thải, ô nhiễm nước do hoạt động du lịch, ảnh hưởng của con người lên hang động (nhiều người bẻ
các măng đá mang về, khắc chạm linh tinh lên vách động…), nhưng đặc biệt ảnh hưởng nhất là đe dọa đến sự đa
dạng sinh học. Nhiều cộng đồng dơi ở trong các hang động cũng bị tác động xấu do sự tham quan của du khách.

34
Tìm hiểu Vườn quốc gia Việt Nam. Đỗ Thương Huyền K4Địa
Việc xây dựng một nhà máy nhiệt điện chạy bằng than đá tại thôn Vĩnh Sơn, xã Quảng Đông, huyện Quảng
Trạch, cách Phong Nha-Kẻ Bàng 40 km về hướng đông bắc với công suất 3.600 MW được nhiều người đánh giá
là có thể gây ô nhiễm không khí và nước ở khu vực vườn quốc gia này.
Cháy rừng trong mùa khô cũng là một mối đe dọa thường trực đối với toàn khu vực.
Hoạt động xây dựng đường nối đường Hồ Chí Minh và quốc lộ 20 chạy xuyên qua lõi vườn quốc gia này và
cũng gây ra mối đe dọa về môi trường, làm ảnh hưởng đến khu vực sinh sống của nhiều loài động thực vật, họat
động nổ mìn phá đá làm đường khiến nhiều loài động vật phải di dời khỏi nơi sinh sống, dù Chính phủ Việt Nam
đã có quyết định xây dựng đường Hồ Chí Minh chạy theo tuyến đường 15 và 12A, cũ dọc theo ranh giới phía
đông của khu vườn quốc gia này chứ không cắt ngang qua khu vườn này để giảm thiểu ảnh hưởng đến hệ động
thực vật cũng như địa hình khu vực.
Do công tác quản lý còn yếu kém, những khu vực rừng ở vùng đệm của vườn quốc gia này bị tàn phá nặng nề,
nhiều vùng gần như bị chặt trắng, các loài gỗ quý bị khai thác đến cạn kiệt. Hoạt động khai thác và buôn bán gỗ
quý từ khu vườn quốc gia này được tổ chức thành hệ thống hoàn chỉnh, ước tính mỗi ngày có khoảng 1 tấn gỗ bị
khai thác cho mục đích thương mại, đặc biệt các loại gỗ quý có giá cao như gỗ mun Diospyros spp., Giáng
Hương Pterocarpus macrocarpus. Tình trạng săn bắt ồ ạt thú rừng hoang dã trong vườn quốc gia này để bán cho
các quán ăn, nhà hàng địa phương rất nghiêm trọng. Động vật hoang dã ở đây bị săn bắt, mua bán, giết thịt do ý
thức của người dân kém, các cơ quan có thẩm quyền địa phương làm ngơ, thậm chí một số cán bộ lãnh đạo thôn
xã lại là lái buôn động vật hoang dã, có cán bộ công an địa phương làm chủ một nhà hàng thịt rừng chuyên phục
vụ các món ăn từ động vật hoang dã được săn bắt từ Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng. Vườn quốc gia Phong
Nha-Kẻ Bàng hiện không còn có ý nghĩa đối với bảo tồn hổ Panthera tigris, voi Elephas maximus và các loài bò
hoang dã.
Các giống cá chình quý ở đây là cá chình hoa và cá chình mun cũng bị cư dân địa phương săn bắt ồ ạt phục vụ
cho các nhà hàng, quán ăn do mọi người tin rằng ăn thịt các loại cá chình này có tác dụng tráng dương bổ thận.
Công tác quy hoạch khu vực phụ cận: Công tác quy hoạch khu vực phụ cận vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ
Bàng hầu như không được thực hiện bài bản. Công tác quản lý quy hoạch xây dựng trong khu vực phụ cần này
cũng bộc lộ nhiều vấn đề. Điều này dẫn đến việc cấp sổ đỏ tràn lan cho dân địa phương, hàng lọat ngôi nhà và
hàng quán được dân xây dựng một cách tự phát, lộn xộn. Các chủ đầu tư đo thị mới và khu du lịch trong khu vực
này cũng đăng ký dự án để chiếm đất và không triển khai dự án. Bản quy hoạch tổng thể và chi tiết với diện tích
200 ha do Trung tâm quy hoạch tỉnh Quảng Bình thực hiện và chưa được phê duyệt được nhiều người đánh giá
là không có tầm nhìn tương lai. Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Bình đã tuyên bố sẽ thuê tư vấn nước ngoài quy
hoạch xây dựng và phát triển du lịch khu vực phụ cận Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng
Hỗ trợ quốc tế: Năm 2005, chính phủ Đức hỗ trợ hơn 12,6 triệu euro cho việc bảo vệ đa dạng sinh học của
Phong Nha – Kẻ Bàng.
Năm 2007, chính phủ Đức đã ủng hộ cho Việt Nam 1,8 triệu euro để giúp bảo vệ đa dạng sinh học, cải thiện thu
nhập cho cư dân ở vùng đệm.

35
Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng cũng nhận được tài trợ
132.000 USD cho công tác bảo tồn loài linh trưởng trong vườn
quốc gia này cũng như khu vực vùng đệm từ Tổ chức bảo tồn
động thực vật hoang dã quốc tế (FFI).
Năm 1998, Tổ chức Bảo vệ Động Thực vật Quốc tế (FFI) đã
thực hiện dự án đào tạo cho cán bộ quản lý vườn quốc gia này.
Ban Phát triển Quốc tế của Anh cũng hỗ trợ vốn cho Quỹ Bảo
vệ Thiên nhiên Thế Giới (WWF) để thực hiện dự án bảo tồn
song hành vườn quốc gia này và khu bảo tồn Hin Namno. Tổ
chức FFI cũng cũng nhận được sự tài trợ từ quĩ môi trường và
quĩ các loài tiêu biểu thuộc phòng Môi trường, Bộ Nông thôn
và Lương thực Anh quốc để thực hiện dự án nâng cao nhận
thức bảo tồn cho học sinh địa phương cũng như du khách.
Một vài hình ảnh:

Sông Son Cửa vào động với sông ngầmBên trong động Sông ngầm bên trong

Cảnh trong động Một góc vườn quốc gia


Thạch nhũ

14.VƯỜN QUỐC GIA BẠCH MÃ.


Vườn quốc gia Bạch Mã là một vườn quốc gia thuộc tỉnh Thừa Thiên-Huế, cách thành phố Huế 40 km. Được
thành lập theo quyết định số 214-CT ngày 15 tháng 7 năm 1991 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam.
Vị trí: Tọa độ 16°05′ tới 16°15′ vĩ bắc và 107°43′ tới 107°53′ kinh đông.
Với diện tích 22.030 ha, chủ yếu nằm trên 2 huyện Phú Lộc và Nam Đông thuộc tỉnh Thừa Thiên-Huế. Đỉnh
Bạch Mã với độ cao 1.450 m so với mực nước biển là đỉnh núi cao nhất của vườn.Tháng 1 năm 2008, Chính phủ
nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam quyết định mở rộng diện tích vườn quốc gia Bạch Mã lên thành
37.480 ha.
Thác Đỗ Quyên cao 300m trong vườn quốc gia Bạch Mã

36
Tìm hiểu Vườn quốc gia Việt Nam. Đỗ Thương Huyền K4Địa
Vườn có tính đa dạng sinh học cao. Thực vật ở đây gồm 2147 loài, trong đó có một số loài hiếm và có giá trị như
hoàng đàn giả, trầm hương. Động vật đã ghi nhận được 1.493 loài, đặc biệt có một số loài thú mới được phát
hiện ở Việt Nam như sao la.
Lịch sử: Thế kỷ thứ 20 đã mang lại một số biến đổi lớn cho Bạch Mã. Vào thời Vua Khải Định từ 1916-1925,
Bạch Mã được biết đến như một khu rừng hoang sơ và ảm đạm. Đầu tiên, nó đã gây sự chú ý đến những người
làm công tác bảo tồn vào năm 1925 khi có một kế hoạch thành lập Vườn quốc gia được đệ trình lên các nhà chức
trách thuộc địa Pháp nhằm bảo vệ loài gà Lôi lam mào trắng (Lophura edwardsi). Năm 1932 khu vực Bạch Mã
được khám phá bởi ông Girard, một kỹ sư người Pháp, với tham vọng phát triển một khu nghỉ mát ở trên núi.
Tiếp theo những năm sau đó, một hệ thống gồm 139 biệt thự, khách sạn, bể bơi, đường giao thông,... được hình
thành ở đây để phục vụ cho việc tham quan, nghỉ dưỡng của giới quan chức người Pháp và nhà giàu thời bấy
giờ.
Sau khi Pháp rời khỏi Việt Nam năm 1954, khu nghỉ mát sớm bị quên lãng và bấy giờ chỉ còn sót lại một vài
ngôi nhà bị che lấp bởi rừng rậm tái sinh. Năm 1960, Chính phủ Miền Nam Việt Nam Cộng Hòa đã thành lập
Vườn Quốc Gia Bạch Mã - Hải Vân những công việc bảo tồn bước đầu đã không kéo dài được bao lâu. Chiến
tranh Việt Nam đã xảy ra những trận đánh ác liệt ở Vườn. Đỉnh Bạch Mã biến thành sân bay trực thăng và đồn
bốt, chiến hào của quân Mỹ Ngụy với ý đồ kiểm soát khu vực Huế, Đà Nẵng và biển Đông.
Sau khi thống nhất lại năm 1975, nhiều dự án có ý định phát triển việc trồng trọt cây ăn quả ở núi nhưng do
ảnh hưởng của điều kiện thời tiết, những nổ lực này đã thất bại liên tục. Cuối cùng, khi Vườn Quốc gia Bạch Mã
được thành lập vào năm 1991 với tổng diện tích là 22.031 ha nằm trên địa phận hành chính của hai huyện Phú
Lộc và Nam Đông của tỉnh Thừa Thiên-Huế.
Tuy những nghiên cứu về đa dạng sinh học ở rừng Bạch Mã chưa được đầy đủ nhưng cũng đã chứng minh khá
rõ ràng về một số lượng rất lớn các loài đang sinh sống ở đây. Sự đa dạng này có thể giải thích bởi sự phức tạp
của địa hình cũng như sự chuyển tiếp của hai vùng
địa lý Bắc và Nam Việt Nam.

Thực vật: Thực vật ở VQG BM bao gồm 2 thành ph


Rừng kín thường xanh mưa mùa nhiệt đới ở độ cao
rừng kín thường xanh mưa mùa á nhiệt đới ở độ ca
Rừng ở độ cao trên 900m là rừng giàu và ít bị ảnh hư
người. Thực vật ở Bạch Mã bao gồm 2.147 loài chiế
tổng số loài thực vật ở Việt Nam. Trong số này có 86
kê vào sách đỏ Việt Nam có nguy cơ bị tuyệt chủng.
loài có tiềm năng thương mại và được sử dụng làm câ
Mã có ít nhất 3 loài cây mang tên của mình : Piper
bachmariaefolia, cissus bachmaensis va elaeocarpus

37
Tại khu vực đỉnh có một vài loài thực vật hạt trần hiếm thuộc họ kim giao như Hoàng đàn giả, podocarpus
neriifolius va podocarpus fleuryi. Vào tháng 2, bạn có thể tìm thấy rất nhiều hoa Đỗ Quyên dọc theo các con suối
nhỏ và đặc biệt là dưới chân thác Đỗ Quyên.
Các khu rừng còn chứa các loài cây lá rộng có giá trị như các loài thuộc họ Dipterocarpaceae, gỗ hồng mộc và
Trầm hương. Ở trên núi cao, các loài cây gỗ sồi và hạt dẻ là rất phổ biến. Các khu rừng ở đây giàu về các loài
thuộc họ cau dừa như mây và cọ đuôi cá, cũng như các loài dương xỉ và các loài lan. Do ảnh hưởng của việc rải
chất độc diệt cỏ và bom đạn trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam, rừng nguyên sinh ở một số vùng của Vườn
Quốc Gia đã bị ảnh hưởng đáng kể.
ĐA DẠNG SINH HỌC:
Động vật: Khu hệ động vật ở đây cũng rất phong phú với nhiều loài đặc hữu và quí hiếm. Cho đến nay các nhà
khoa học đã ghi nhận được 1.493 loài động vật bao gồm: 132 loài thú (chiếm 1/2 số loài thú ở Việt Nam), 358 loài
chim, 31 loài bò sát, 21 loài ếch nhái, 57 loài cá, 894 loài côn trùng đang có mặt trong Vườn. Trong tổng số các
loài hiện thống kê được, đã có đến 68 loài được ghi vào sách Đỏ Việt Nam là những loài cần phải bảo vệ nghiêm
ngặt.
Đặc biệt có những loài thú mới cũng được tìm thấy ở đây như Sao la (Pseudoryx nghetinhensis), Mang Trường
Sơn (Muntiacus truongsonensis) và Mang lớn (Megamuntiacus vuquangensis). Các loài thú lớn như hổ và báo
có thể vẫn còn nhưng chỉ ở những vùng hẻo lánh thuộc phía Tây Nam của Vườn.
Tính đa dạng còn được chứng minh rõ ràng qua sự ghi nhận với 358 loài chim, chiếm một phần ba số loài chim
có mặt ở Việt Nam. Trong đó bộ Gà có 7 loài trên tổng số 12 loài ở Việt Nam, trong đó có những loài quí hiếm
như Trĩ sao (Rheinardia ocellata) và gà Lôi lam mào trắng (Lophura edwardsi) là loài vừa mới được phát hiện ở
đây sau hơn 55 năm được cho là đã tiệt chủng ngoài thiên nhiên.

Sao la là 1 trong những loài thú Voọc Ngũ Sắc (Pygathrix nemaeus
lớn mới được phát hiện cuối thể kỷ nemaeus) là một loài quí hiếm, đang phân
XX bố ở Bạch Mã
Đến với Bạch Mã bạn sẽ có dịp thưởng thức một chuỗi
các đường mòn độc đáo chỉ dành cho những người yêu
thích thiên nhiên hoang dã và văn minh hay đơn giản là

38
Tìm hiểu Vườn quốc gia Việt Nam. Đỗ Thương Huyền K4Địa
những người thích thưởng thức những cảnh đẹp thiên
nhiên đặc trưng nơi đây. Bạn có thể mất ít nhất một ngày
để khám phá cho mỗi đường mòn mà không cần bất kỳ
một thiết bị leo núi đặc biệt nào. Một đôi giày thể thao,
tất vớ chống vắt và một tấm lòng nhiệt tình ủng hộ bảo
tồn nhưng giá trị của thiên nhiên có thể sẽ làm cho
chuyến thăm của bạn thú vị hơn.
Đường mòn Trì Sao:Đi xuyên qua cánh rừng nhiệt đới sẽ dẫn bạn đến thác Trĩ Sao tuyệt đẹp. Đường mòn này là một trong
những địa điểm thám hiểm ở Bạch Mã. Như tên gọi của nó, ở đây có rất nhiều chim Trĩ sao đang sinh sống. Do mật độ rừng
ở đây rất dày nên điều này có nghĩa là ta chỉ có thể nghe nhiều hơn thấy.

* Đường mòn thác Đỗ Quyên


Những phong cảnh tuyệt đẹp từ đỉnh của thác nước hùng vĩ này là nét thu hút đặc sắc cho du khách đến Bạch Mã.
thay đổi của rừng khi đi trên con đường này để dẫn đến đỉnh của một thác nước cao 300 m – thác Đỗ Quyên. Có rấ
đây nở hoa vào tháng 3.

Đường mòn thác Ngũ Hồ.


Băng qua khu rừng tuyệt đẹp và những ngôi nhà bị đổ nát, đường mòn này dẫn bạn đến một loạt các thác nước duy
đây bạn có thể bơi lội thỏa thích trong những hồ nước trong suốt tựa pha lê. Tuy nhiên nước ở đây khá lạnh vì bạn

39
* Đường mòn Hải Vọng Đài: Khoảng 500 m từ điểm dừng cuối cùng của con đường lên Bạch Mã - Km 0, bạn sẽ
độ cao1450 m. Đứng ở đây bạn có thể nhìn thấy cảnh quan bao la hùng vĩ của các dãy núi nối tiếp ra tận biển đôn
được yêu thích nhất tại Bạch Mã, đặc biệt với nhiều biệt thự đỗ nát là bằng chứng của một thời du lịch vàng son n

15.VƯỜN QUỐC GIA CHƯ MOM RAY.


Vườn quốc gia Chư Mom Ray, nguyên là khu bảo tồn thiên nhiên Chư Mom Ray, thuộc tỉnh Kon Tum, là một v
thống các khu rừng đặc dụng của Việt Nam. Được thành lập thep quyết định của Thủ tướng chính phủ Cộng hòa X
Nam số 103/2002/QĐ-TTg ngày 30 tháng 7 năm 2002.
Vị trí: Vườn quốc gia Chư Mom Ray nằm ở phía bắc Tây Nguyên và phía tây của tỉnh Kon Tum, trên địa phận củ
Ngọc Hồi. Phía bắc giáp địa giới hành chính các xã: Bờ Y, Sa Loong (thuộc huyện Ngọc Hồi). Phía nam giáp địa
Mórai, Yasia. Phía đông giáp địa giới hành chính các xã: Rờkơi, Sa Nhơn và thị trấn Sa Thầy. Phía tây giáp biên g
Campuchia–Lào.
Tọa độ địa lý: từ 14°18′ đến 14°38′ vĩ bắc, và từ 107°29′ đến 107°47′ kinh đông. Tổng diện tích: 56.621 ha, trong
- Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt: 40.566 ha.
- Phân khu phục hồi sinh thái: 12.137 ha.
- Phân khu hành chính dịch vụ và du lịch: 3.918 ha.
Vùng đệm của vườn quốc gia Chư Mom Ray có diện tích 188,749 ha bao gồm các xã: Bờ Y, Sa Loong (thuộc huy
Sa Nhơn, Sa Sơn, Mụrai, Ya Sia, thị trấn Sa Thầy (thuộc huyện Sa Thầy), tỉnh Kon Tum.

16.VƯỜN QUỐC GAI KON KA KINH.


Vườn Quốc gia Kon Ka Kinh là một vườn quốc gia của Việt Nam, được thành lập theo Quyết định số 167/2002/
11 năm 2002 của Thủ tướng chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam trên cơ sở chuyển đổi và nâng cấp t
Kon Ka Kinh.
Vườn quốc gia Kon Ka Kinh là một khu vực ưu tiên về bảo tồn đa dạng sinh học của Việt Nam, khu vực và quốc
còn là một địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn.
Ngoài sự đa dạng và phong phú của hệ động thực vật rừng, Vườn quốc gia Kon Ka Kinh đóng vai trò quan trọng t
đầu nguồn của các con sông như sông Ba và sông Đắk Pne, cung cấp nước tưới tiêu cho hàng ngàn ha cà phê, hồ t
cung cấp nước sinh hoạt cho các huyện của tỉnh Gia Lai và Kon Tum. Phía tây của vườn quốc gia là một phần lưu
điện Yaly.
Thông tin chung: Vườn quốc gia Kon Ka Kinh nằm trên cao nguyên Kon Tum, thuộc địa bàn ba huyện Mang
Đoa của tỉnh Gia Lai. Phần trung tâm nằm ở xã Ayun, huyện Mang Yang, phía đông bắc tỉnh Gia Lai, cách thành
về hướng đông bắc, phân bố trên diện tích 41.780 ha với tọa độ địa lý từ 14°09′ đến 14°30′ vĩ bắc và từ 108°16′ đế
Phía bắc giáp xã Đắk Roong huyện KBang, phía nam giáp xã Hà Ra và một phần xã A Yun, xã Đắk Yă cùng huyệ
giáp các xã Đắk Roong, Kon Pne, Kroong và Lơ Ku huyện KBang, phía tây giáp xã Hà Đông huyện Đắk Đoa.
Vườn quốc gia Kon Ka Kinh có tên trong danh sách các khu rừng đặc dụng từ năm 1986 theo Quyết định số 194/C

40
Tìm hiểu Vườn quốc gia Việt Nam. Đỗ Thương Huyền K4Địa
1986 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng CHXHCN Việt Nam, với diện tích 28.000 ha nhằm bảo tồn rừng cận nhiệt
hạt trần. Năm 1999, Viện điều tra qui hoạch rừng Việt Nam (FIPI) kết hợp với Tổ chức Chim quốc tế (BirdLife In
án đầu tư thành lập Khu bảo tồn thiên nhiên Kon Ka Kinh. Dự án này được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông th
thẩm định, phê duyệt cùng năm, với diện tích là 41.780 ha. Vườn quốc gia Kon Ka Kinh là 1 trong 4 vườn quốc g
Bể, Chư Mom Ray và Hoàng Liên), đồng thời là 1 trong 27 vườn của khu vực Đông Nam Á được công nhận là vư
Địa hình: Độ cao của vườn quốc gia Kon Ka Kinh nằm trong khoảng từ 570 m (thung lũng sông Ba) tới 1.748 m
dòng suối từ phía đông vườn quốc gia cấp nước cho sông Ba, con sông chảy ngoàn ngoèo gần như theo hướng bắc
sông A Yun rồi đổi hướng thành gần như tây bắc-đông nam để đổ vào biển Đông gần thành phố Tuy Hòa; trong k
lưu vực của các sông nhánh cho sông Mê Kông. Do địa hình dốc đứng, các sông suối bắt nguồn từ vườn quốc gia
nhanh với nhiều thác nước.
Vườn quốc gia Kon Ka Kinh có khoảng 33.565 ha rừng tự nhiên, chiếm 80% tổng diện tích của nó. Vườn quốc gi
các kiểu môi trường sống miền núi. Cụ thể, ở đây có khoảng 2.000 ha rừng hỗn giao lá kim và lá rộng, chứa chủ y
hodginsii).
Sinh vật:
Thực vật: Do đặc điểm đa dạng về địa hình, độ cao, khí hậu, đất đai và các nhân tố hình thành rừng khác đã tạo c
Vườn quốc gia Kon Ka Kinh khá phong phú và đa dạng. Đây là điểm hội tụ của các luồng thực vật sau:
- Luồng thực vật thuộc khu hệ Bắc Việt Nam có các loài cây thuộc các họ Fabaceae, Euphorbiaceae, Magnoliacea
Lauraceae, Fagaceae v.v. Luồng thực vật này thường phân bố nhiều ở khu vực chịu ảnh hưởng chế độ mưa ẩm nh
có nhiều loài cây trên đơn vị diện tích và các loài ưu thế có tổ thành không lớn.
- Luồng thực vật thuộc khu hệ Vân Nam-Quý Châu và chân dãy núi Himalaya có các loài cây lá kim của nhóm thự
nàng (Podocarpus imbricatus), hoàng đàn giả (Dacrydium pierrei), kim giao nam (Nageia wallichiana), pơ mu (F
- Luồng thực vật thuộc khu hệ Malaysia-Indonesia: Đại diện cho luồng thực vật này là các loài cây thuộc họ Dipte
(Anogeissus acuminata), chò đen (Parashorea stellata), chò chỉ (Parashorea chinensis), cẩm (?) v.v
- Luồng thực vật Ấn Độ-Myanma: Tiêu biểu có các loài cây thuộc các họ Combretaceae như choại (Terminalia be
như bằng lăng ổi (Lagerstroemia tomentosa) v.v.
Kết quả điều tra hệ thực vật rừng ở vườn quốc gia Kon Ka Kinh đã thống kê được 687 loài thực vật thuộc 459 chi
ngành 2 lá mầm chiếm đa số (104 họ, 337 chi, 528 loài). Sau đó là ngành 1 lá mầm (15 họ, 82 chi, 111 loài). Các n
16 họ, 32 chi và 40 loài. Thực vật hạt trần có 5 họ, 8 chi, 8 loài. Vườn quốc gia Kon Ka Kinh có hệ thực vật rất ph
thành phần loài. Đặc biệt có rất nhiều loài thực vật đặc hữu, quý hiếm cần phải bảo tồn nguồn gen như:
- Có 11 loài đặc hữu là: thông Đà Lạt (Pinus dalatensis), hoa khế, gõ đỏ (Afzelia xylocarpa), trắc trung (Dalbergia
(Dialium cochinchinense), bọ nẹt Trung Bộ (Alchornea annamica), du moóc, song bột (Calamus poilanei), lọng h
(Dendrobium bellatulum).
- Hệ thực vật rừng vườn quốc gia Kon Ka Kinh có 34 loài quý, hiếm, có giá trị bảo tồn nguồn gien và nghiên cứu
trong sách đỏ Việt Nam và thế giới. Trong tổng số 34 loài ghi trong sách đỏ, có 24 loài ghi trong sách đỏ Việt Nam
cấp E (đang nguy cấp, bị đe dọa tuyệt chủng), 6 loài ở cấp V (sẽ nguy cấp, có thể bị đe dọa tuyệt chủng), 7 loài thu

41
thuộc cấp bị đe doạ (T), và 8 loài thuộc cấp K (không biết chính xác). Theo phân loại của IUCN năm 1997 có 141
thế giới gồm 1 loài thuộc cấp E, 2 loài bị đe dọa ở cấp V, 12 loài thuộc cấp hiếm.
Phần lớn diện tích vườn quốc gia Kon Ka Kinh là rừng nguyên sinh với các kiểu thảm thực vật rừng chính sau:
- Kiểu rừng kín thường xanh, mưa ẩm cận nhiệt đới núi thấp.
- Kiểu rừng kín hỗn giao lá rộng, lá kim mưa ẩm cận nhiệt đới núi thấp. Đây là kiểu rừng hỗn giao giữa cây lá kim
quốc gia này cây lá kim (pơ mu) chiếm ưu thế.
Động vật: Kết quả điều tra hệ động vật rừng Vườn quốc gia Kon Ka Kinh cho thấy có 428 loài động vật. Trong đ
xương sống sinh sống trên cạn (34 bộ, 74 họ) và 205 loài động vật không xương sống (như bướm) thuộc 10 họ tro
(Lepidoptera).
Hệ động vật rừng vườn quốc gia Kon Ka Kinh có 16 loài đặc hữu là:
- Lớp Thú: Có 5 loài thú lớn đặc hữu cho Đông Dương và Việt Nam là: vượn má hung (Hylobates gabriellae), vo
(Pygathrix cinerea), hổ (Panthera tigris), mang Trường Sơn (Muntiacus truongsonenensis) và mang Vũ Quang (M
vuquangensis).
- Lớp Chim: Kon Ka Kinh nằm trong khu đặc hữu chim cao nguyên Kon Tum. Có 7 loài chim đặc hữu, trong đó c
Nam: khướu đầu đen (Garrulax milleti), khướu mỏ dài (Jabouilleia danjoui), khướu Kon Ka Kinh (Garrulax konk
năm 1999 và 4 loài đặc hữu cho Việt Nam và Lào: khướu đầu xám (Garrulax vassali), trèo cây mỏ vàng (Sitta sol
(Lophura nycthemera) và thày chùa đít đỏ (Megalaima lagrandieri). Đặc biệt, khướu Kon Ka Kinh là một loài mớ
khoa học trong vòng 30 năm trở lại đây ở khu vực châu Á. Vì các lý do này, Kon Ka Kinh được ghi nhận như là k
(IBA).
- Bò sát, ếch nhái: Vườn quốc gia Kon Ka Kinh cũng là khu vực quan trọng toàn cầu về bảo tồn đa dạng động vật
có một loạt các loài lưỡng cư đặc hữu trong khu vực rừng núi Tây Nguyên, bao gồm cả 4 loài được đánh giá là bị
trong quá trình đánh giá lưỡng cư toàn cầu là Leptobrachium banae, L. xanthospilum, Rana attigua và Rhacophor
đặc hữu cho vùng và cho Việt Nam là: thằn lằn Buôn Lưới (Sphenomorphus buonluoicus), loài đặc hữu cho vùng
3 loài đặc hữu cho Việt Nam bao gồm thằn lằn đuôi đỏ, chàng Sa Pa (Rana chapaensis), ếch gai sần (Rana verruc
Ngoài những loài mới phát hiện và những loài có giá trị đặc hữu nêu trên, hệ động vật rừng vườn quốc gia Kon Ka
quý hiếm, có giá trị bảo tồn nguồn gen và nghiên cứu khoa học, được ghi trong sách đỏ Việt Nam và Thế giới. Cụ
- Lớp Thú: 10 loài, trong đó có 9 loài ghi trong sách đỏ thế giới, 7 loài ghi trong sách đỏ Việt Nam.
- Lớp Chim: 14 loài, trong đó có 8 loài ghi trong sách đỏ thế giới và 11 loài ghi trong sách đỏ Việt Nam.
- Các lớp Bò sát, Ếch nhái: 14 loài ghi trong sách đỏ Việt Nam.

17.VƯỜN QUỐC GIA YOK ĐÔN.


Vườn quốc gia Yok Đôn là một trong những khu rừng đặc dụng lớn nhất Việt Nam, thuộc tỉnh Đăk Lăk.
Vị trí địa lý: Vườn quốc gia Yok Đôn nằm trên địa bàn 4 xã thuộc 3 huyện: Xã Krông Na, huyện Buôn Đôn, x
huyện Ea Súp (tỉnh Đăk Lăk) và xã Ea Pô huyện Cư Jút (tỉnh Đăk Nông); vườn cách thành phố Buôn Ma Thuột kh
bắc. Vườn quốc gia Yok Đôn được phê duyệt theo quyết định số 352/CT ngày 29 tháng 10 năm 1991 của Chủ tịch

42
Tìm hiểu Vườn quốc gia Việt Nam. Đỗ Thương Huyền K4Địa
Nam với mục đích bảo vệ 58.200 ha hệ sinh thái rừng khộp đất thấp. Ngày 24 tháng 6 năm 1992 Bộ Lâm nghiệp r
thành lập Vườn quốc gia Yok Đôn trực thuộc Bộ Lâm nghiệp. Vườn quốc gia Yok Đôn được mở rộng theo quyết
ngày 18 tháng 3 năm 2002 của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam.
Toạ độ địa lý: Từ 12°45′ đến 13°10′ vĩ bắc và từ 107°29′30″ đến 107°48′30″ kinh đông. Quy mô diện tích: Được m
115.545 ha, trong đó phân khu bảo vệ nghiêm ngặt là 80.947 ha, phân khu phục hồi sinh thái là 30.426 ha và phân
là 4.172 ha. Vùng đệm: có diện tích 133.890 ha, bao gồm các xã bao quanh Vườn quốc gia.
Vườn nằm trên một vùng tương đối bằng phẳng, với hai ngọn núi nhỏ ở phía nam của sông Serepôk. Rừng chủ yế
lớn là rừng khộp. Yok Đôn cũng là vườn quốc gia duy nhất ở Việt Nam bảo tồn loại rừng đặc biệt này.
Ranh giới của vườn quốc gia này như sau:
- Phía bắc theo đường tỉnh lộ 1A từ ngã ba Chư M'Lanh qua đồn biên phòng số 2 đến biên giới Việt Nam-Campuc
- Phía tây giáp biên giới Việt Nam-Campuchia.
- Phía đông theo tỉnh lộ 1A từ ngã ba Chư M'Lanh đến Bản Đôn, ngược dòng sông Serepôk đến giáp ranh giới huy
- Phía nam giáp huyện Cư Jút và cắt đường 6B tại Km 22+500, theo đường 6B đến suối Đăk Dam giáp biên giới V
Đa dạng sinh học: Nơi đây có 63 loài động vật có vú, 196 loài chim, 40 loài bò sát, 13 loài lưỡng cư, 464 loài thự
rừng, trâu rừng và bò tót khổng lồ.
Đây là nơi trú ngụ của một số loài động vật nguy cấp mang tính toàn cầu như: bò xám (Bos sauveli), mang lớn (M
vuquangensis), nai cà tông (Cervus eldi), bò banteng (Bos javanicus), voi châu Á (Elephas maximus), hổ (Panther
alpinus) và chà vá chân đen (Pygathris nigripes). Công tác điều tra vẫn đang tiếp tục, nhưng các kết quả nghiên cứ
Yok Đôn là một trong những nơi có khu hệ chim phong phú nhất Đông Dương..
Các vấn đề: Ngành lâm nghiệp, chính quyền các cấp và ban quản lý vườn quốc gia Yok Đôn có nhiều nỗ lực tron
sinh học của vườn nhưng vẫn phải đối mặt với trạng săn bắt, xâm lấn đất đai và nguy cơ cháy rừng. Bên cạnh đó,
tại nhiều khu rừng rộng lớn, trong đó phần lớn được giao để khai thác gỗ thương phẩm do các lâm trường quốc do
Thư viện ảnh:

Kiểm lâm và voi trong vườn Yók Đôn Đà điểu trong vườn Yók ĐônMột thoáng Yók ĐônCưỡi voi sang vườn

Vườn Yók Đôn trong mùa khô Tây NguyênVườn Yók Đôn mùa khô

18. VƯỜN QUỐC GIA CHƯ YANG SIN.


Vườn quốc gia Chư Yang Sin là một khu rừng đặc dụng của Việt Nam. Được thành lập theo quyết định số 92/20

43
tháng 7 năm 2002 của Thủ tướng chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Điều kiện tự nhiên:
Vị trí địa lý: Vườn quốc gia Chư Yang Sin nằm trên địa bàn các xã: Yang Mao, Chư Drăm, CưVui, Hoà Phong, H
Ngọc Điền thuộc huyện Krông Bông và các xã: Yang Cao, Bông Krang, Krông Nô, Đắk Phơi thuộc huyện Lắk, tỉ
đỉnh núi Chư Yang Sin (2.442 mét) cao nhất hệ thống núi cao cực Nam Trung Bộ. Phía Đông: dọc sông Krông Bô
Brô đến đường phân thuỷ sông Krông Ana. Phía Tây: từ suối Đắk Cao đến ngã ba suối Đắk Kial và đến đường ph
Đắk Phơi. Phía Nam: dọc sông Krông Nô, ranh giới Đăk Lăk và Lâm Đồng. Phía Bắc: bắt đầu từ thác Krông Kma
Jang Bông đến suối Ea Ktuor.
Toạ độ địa lý:Từ 120°14′16″ đến 130°30′58″ vĩ bắc
Từ 108°17′47″ đến 108°34′48″ kinh đông
Diện tích: Tổng diện tích là: 58.947 ha
Trong đó gồm: Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt: 19.401 ha
Phân khu phục hồi sinh thái: 39.526 ha
Phân khu hành chính, dịch vụ: 20 ha
Diện tích vùng đệm của Vườn quốc gia Chư Yang Sin là 183.479 ha, nằm trên địa bàn các huyện Lạc Dương, Lâm
Đồng và các huyện Krông Bông, Lắk thuộc tỉnh Đắk Lắk.
Mục tiêu, nhiệm vụ: Bảo vệ mẫu chuẩn các hệ sinh thái rừng trên núi cao Tây Nguyên, bảo tồn các loài động, thự
là các loài đặc hữu và quý hiếm.
Nghiên cứu khoa học, giáo dục môi trường, phát triển du lịch sinh thái,...
Góp phần phát triển kinh tế, xã hội địa phương.
Bảo vệ rừng đầu nguồn sông Serepôk, Mê Kông, điều hoà và cung cấp nguồn nước cho sản xuất nông nghiệp.
Đa dạng sinh học: Có 876 loài thực vật (143 loài đặc hữu Việt Nam, 54 có tên trong sách đỏ Việt Nam); 203 loài
ghi nhận có mặt ở đây.
Thư viện ảnh:

19.VƯỜN QUỐC GIA BIDOUP NÚI BÀ.


Vườn quốc gia Bidoup Núi Bà nằm trên địa bàn huyện Lạc Dương và huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng, cách th
km theo tỉnh lộ 723.

Vườn quốc gia Tràm Chim thuộc tỉnh Đồng Tháp là một khu đất ngập nước, được xếp trong hệ thống rừng đặc
Nơi đây có nhiều loài chim quý, đặc biệt là sếu đầu đỏ, một loài chim cực kỳ quý hiếm, có tên trong sách đỏ.
Vị trí địa lý: Vườn quốc gia Tràm Chim nằm trong vùng Đồng Tháp Mười, thuộc huyện Tam Nông, tỉnh Đồng
10°40′ – 10°47′ vĩ bắc, 105°26′ - 105°36′ Đông với tổng diện tích 7.588 ha nằm trong địa giới của 5 xã (Phú Đức,
Phú Thọ, Tân Công Sinh) và Thị trấn Tràm Chim. Với só dân trong vùng là 30.000 người.
44
Tìm hiểu Vườn quốc gia Việt Nam. Đỗ Thương Huyền K4Địa
20.VƯỜN QUỐC GIA CÁT TIÊN.
Vườn quốc gia Cát Tiên là một khu bảo tồn thiên nhiên nằm trên địa bàn ba huyện Tân Phú, Vĩnh Cửu (Đồng N
và Bù Đăng (Bình Phước), cách Thành phố Hồ Chí Minh 150 km về phía bắc. Đặc trưng của vườn quốc gia này
Được thành lập theo quyết định số 01/CT ngày 13 tháng 1 năm 1992 của Thủ tướng chính phủ Cộng hòa Xã hội
nối khu rừng cấm Nam Cát Tiên (được thành lập theo quyết định số 360/TTg, ngày 7 tháng 7 năm 1978 của Thủ
thiên nhiên Tây Cát Tiên (được thành lập theo quyết định số 194/CT, ngày 9 tháng 8 năm 1986 của Chủ tịch Hội đ
Tiên nằm ở khu vực có toạ độ từ 11°21′ tới 11°48′ vĩ bắc, và từ 107°10′ tới 107°34′ kinh đông, trên địa bàn của ba
Phước với tổng diện tích là 73.878 ha.

Bò rừng banteng

Các hợp phần:
Phần nằm trên địa bàn Cát Tiên và Bảo Lộc thường được gọi là khu vực Cát Lộc. Kh
giác một sừng. Phần trên địa bàn Tân Phú và Vĩnh Cửu thường được gọi là khu vực Nam Cát Tiên. Khu vực này c
như Bàu Sấu (rộng 5-7 hecta thuộc huyện Tân Phú), Bàu Chim (50-100 hecta), Bàu Cá, Bàu Đắc Lớ, Trảng Cò,...
toàn bộ các vùng đất ngập nước rộng khoảng 137,6 km² (trong đó 1,5 km² ngập nước thường xuyên, 53,6 km² ngập
độ cao tuyệt đối không quá 125m)ở Nam Cát Tiên. Phần trên địa bàn Bù Đăng thường được gọi là Tây Cát Tiên.
Lịch sử: Năm 1978, Vườn quốc gia này được bảo tồn và được chia thành 2 khu vực: Nam Cát Tiên và Tây Cát Tiê
Tiên cũng được bảo tồn do ở đây có loài tê giác Java sinh sống. Chính nhờ loài tê giác này đã làm khu bảo tồn này
Một cuốn hút khác của rừng Cát Tiên là sự tồn tại của đàn bò tót khổng lồ nặng trên hàng tạ, với số lượng khoảng
cơ tuyệt chủng cao do bị săn bắn trộm và mất chỗ ở vì rừng bị chặt phá. Năm 1998, ba khu này được sáp nhập thàn
dạng sinh học gần đây nhất (2004) là việc thả 38 con cá sấu gốc Thái Lan vào hồ Bầu Sấu ở giữa rừng. Phát hiện k
đang đặt ra dấu hỏi có một nền văn minh cổ đã tồn tại ở đây. Trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam, khu vực này bị
Kỳ hủy hoại nặng nề. Những khu vực bị rải chất độc da cam ngày nay chỉ có các loại tre, cỏ mọc, không có các loạ
thú rừng trước và sau chiến tranh giảm đáng kể. Ngoài ra, các dân tộc sinh sống quanh rừng đã đốt, phá rừng để là
nhỏ đến rừng.
Đa dạng sinh học: Khoảng 50% diện tích của Cát Tiên là rừng cây xanh, 40% là rừng tre, 10% là nông trại. Động
sừng, voi châu Á, bò tót, gấu chó, gấu ngựa, trâu rừng, hổ, báo hoa mai, báo gấm, nai...Các loài chim của Cát Tiên
đen, vịt trời cánh trắng, chim mỏ sừng lớn...Cát Tiên là nơi cư ngụ của 40 loài nằm trong Sách đỏ thế giới, trong đ
địa phương và người Trung Hoa tin rằng khả năng chữa bệnh của sừng tê giác như thần dược và được mua bán vớ
trên dưới 20.000 USD/sừng). Cát Tiên cũng được UNESCO công nhận là "Khu dự trữ sinh quyển".
21.VƯỜN QUỐC GIA BÙ GIA MẬP.
Vườn quốc gia Bù Gia Mập là nơi bảo tồn các nguồn sinh quyển ở miền Đông Nam Bộ, Việt Nam.
Lịch sử: Vườn quốc gia này được chuyển hạng từ khu bảo tồn thiên nhiên Bù Gia Mập thành vườn quốc gia theo q

45
phủ số 170/2002/QĐ-TTG ngày 27 tháng 11 năm 2002.
Vị trí: Vườn quốc gia Bù Gia Mập nằm ở phía Đông Bắc tỉnh Bình Phước, trên địa bàn xã Bù Gia Mập huyện Phư
cực Bắc của tỉnh. Phía Đông vườn quốc gia này là tỉnh Đắk Nông, phía Tây Bắc là biên giới Việt Nam - Campuch
12°17′30″ vĩ bắc, và từ 107°03′30″ đến 107°14′30″ kinh đông.
Quy mô: Vườn quốc gia Bù Gia Mập có tổng diện tích 26.032 ha, nhưng trong đó diện tích rừng tự nhiên là 21.37
2.798 ha rừng trung bình, 1.692 ha rừng nghèo, 5.064 ha rừng hỗn giao và 11.434 ha rừng tre nứa. Vùng đệm vườn
gồm 7.200 ha thuộc tỉnh Bình Phước và 8.000 ha của tỉnh Đăk Nông.
Nhiệm vụ: Vườn quốc gia Bù Gia Mập vừa là nơi bảo tồn hệ động vật, thực vật hoang dã, nguồn dược liệu quý hi
đầu nguồn cho những hồ chứa nước của thủy điện Thác Mơ và thủy điện Cần Ðơn. Ngoài ra, nó còn phục vụ nghiê
trường và phát triển dịch vụ du lịch sinh thái. Đây là nơi bảo tồn các nguồn gien quý hiếm của hệ động, thực vật ph
Nam Bộ.
Hệ động thực vật: Hệ thực vật ở đây có 724 loài thực vật nằm trong 326 chi, 109 họ, 70 bộ thuộc 6 ngành thực vậ
vẫn còn đảo bảo tính chất của rừng nguyên sinh, với đa số thuộc những loài cây họ dầu và cây họ đậu, quý hiếm nh
mật, thạch tùng, giáng hương, trắc, ... Ngoài ra vườn có 278 giống cây dược liệu.
Vườn bao gồm nhiều kiểu rừng:
- kiểu rừng kín rụng lá hơi ẩm nhiệt đới (rừng dầu rụng lá theo mùa, còn gọi là rừng khộp);
- kiểu rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới (rừng lồ ô xen cây gỗ).
Hệ động vật của vườn quốc gia này gồm rất nhiều loài động vật hoang dã, tất cả có 437 loài.
- Về có thú có 73 loài, trong đó có 59 loài có mặt trong sách đỏ Việt Nam như: gấu chó, báo gấm, sói lửa, bò tót, b
đen, ... Vườn quốc gia là nơi cư trú của nhiều loại động vật thuộc bộ linh trưởng như: khỉ đuôi lợn, khỉ mặt đỏ, khỉ
- Các loài chim thì vườn có 168 loài, hiện có 10 loài đang bị đe dọa tuyệt chủng như: gà lôi, chim hồng hoàng, chi
xanh, niệc mỏ vằn, chim công, gà tiền mặt đỏ, chim yến hồng xám...
- Bò sát có 30 loài trong đó 12 loài ghi trong sách đỏ.
- Các nhà khoa học cũng đã xác định được hơn 200 loài động vật của vườn có thể làm dược liệu như: khỉ, rắn, trăn

23.VƯỜN QUỐC GIA TAM ĐẢO.


Vườn quốc gia Côn Đảo là một khu vực bảo tồn nằm ở phía bắc huyện Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Phạm
một phần diện tích đảo và khu vực biển lân cận. Được thành lập theo Quyết định số 135/TTg ngày 31 tháng 3
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Vị trí: Tọa độ: 8°34′ đến 8°49′ vĩ bắc và từ 106°31′ đến 106°45′ kinh đông
Diện tích: Tổng diện tích là 15.043 ha, trong đó:
• Phần trên đảo là 6.043 ha
• Phần biển là 9.000 ha
Đa dạng sinh học: Hệ động thực vật đặc trưng của vườn quốc gia Côn Đảo là các loại sinh vật biển, trong đó đặc
loài rùa biển. Năm 2006, một phái đoàn đại diện UNESCO Việt Nam đã đến khu vực vườn quốc gia này khảo sát v

46
Tìm hiểu Vườn quốc gia Việt Nam. Đỗ Thương Huyền K4Địa
học của hệ tự nhiên ở đây. UNESCO Việt Nam cho rằng, vườn quốc gia này đủ điều kiện để đệ trình lên UNESCO
nhiên và văn hóa. Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Văn hóa Thông tin và UBND tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu lập hồ
phần thực vật Côn Đảo tương đối phong phú và đa dạng với khoảng 882 loài thực vật bậc cao thuộc 562 chi, 161 h
30 loài phong lan, 103 loài dây leo, 202 loài thảo mộc v.v. 44 loài thực vật được các nhà khoa học tìm thấy lần đầu
khoa học lấy tên Côn Sơn đặt tên loài. Một số loài được xếp vào danh mục quý hiếm như lát hoa (Chukrasia tabul
hexandra) v.v.
Hệ động vật rừng Côn Đảo đến nay đã ghi nhận được 144 loài, trong đó lớp Thú chiếm 28 loài, chim 69 loài, bò s
động vật đặc hữu tại Côn Đảo như: sóc mun (Callosciunis filaysoni), sóc đen (Ratufa bicolor condorensis), chuột h
condorensis), thạch sùng Côn Đảo (Cyrstodactylus condorensis). Côn Đảo là vườn quốc gia có hệ động vật có xươ
của vùng đảo xa đất liến với nhiều loài đặc hữu.
Hệ sinh thái biển của Côn Đảo cũng đa dạng và phong phú với 1.321 loài sinh vật biển đã thống kê được, trong đó
rong biển 127 loài, cỏ biển 7 loài, phù du thực vật 157 loài, phù du động vật 115 loài, san hô 219 loài, thú và bò sá
sách đỏ Việt Nam. Nhiều loài có giá trị kinh tế cao như thuỷ sản, rong biển. Các loài thú biển quý hiếm như: cá vo
nược (Orcaella brevirostric), đu gông (Dugon dugong). Đặc biệt Côn Đảo còn là bãi đẻ trứng của một số loài rùa b
Vấn đề: Gần đây, có một dự án xuyên qua vườn quốc gia này gây nhiều tranh cãi, đó là dự án đường dài 25 km rả
học phản đối do can thiệp xấu vào Vườn Quốc gia Côn Đảo.

23.VƯỜN QUỐC GIA GÒ XA MÁT.


Vườn quốc gia Lò Gò - Xa Mát là một vườn quốc gia của Việt Nam, được thành lập theo Quyết định số 91/2002
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam trên cơ sở nâng cấp Khu Bảo tồn thiên nhiên Lò Gò - Xa Mát. Tên gọi khác
quốc gia Lò Gò - Sa Mát.
Vị trí địa lý: Vườn quốc gia Lò Gò - Xa Mát nằm trên địa phận 3 xã Tân Lập, Tân Bình, Hoà Hiệp thuộc huyệ
xã Tây Ninh khoảng 30 km về phía bắc tây bắc, theo đường 781, diện tích 18.765 ha với tọa độ từ 11°02' tới 11°47
kinh đông trong vùng sinh thái nông nghiệp Đông Nam Bộ.
Lịch sử hình thành: Lò Gò - Xa Mát có tên trong Quyết định số 194/CT ngày 9 tháng 8 năm 1986 của Chủ tịch H
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Theo quyết định này thì Lò Gò - Xa Mát có diện tích là 10.000 ha. Trước khi được cô
Gò-Xa Mát thuộc sự quản lý của hai lâm trường Hoà Hiệp và Tân Bình. Đến tháng 12 năm 1996, Phân viện Điều t
xây dựng dự án đầu tư cho Lò Gò-Xa Mát với diện tích 16.754 ha, nhưng lại xác định tên là Khu rừng Văn hoá Lịc
đã được Bộ NN& PTNT phê duyệt theo Công văn số 842NN/PTLN/CN ngày 21 tháng 3 năm 1997 và Uỷ ban Nhâ
ngày 16 tháng 7 năm 1997 theo Quyết định số 261/QĐ-UB. Trên cơ sở quyết định của Uỷ ban Nhân dân tỉnh, Ban
thành lập.
Năm 1999, khi rà soát lại toàn bộ hệ thống các khu rừng đặc dụng của Việt Nam, Viện Điều tra Quy hoạch Rừng v
International) đã xác định Lò Gò - Xa Mát hiện còn nhiều diện tích rừng tự nhiên quan trọng với diện tích lớn, và đ
rộng khu bảo tồn. Ngay sau đó, hai cơ quan này đã tiến hành khảo sát nhanh khu Lò Gò-Xa Mát vào tháng 12 năm
có giá trị cao về đa dạng sinh học. Năm 2001, Birdlife International, Viện STTNSV và Đại học Khoa học Tự nhiên

47
tra trong khu vực, kết quả đã cho thấy Lò Gò-Xa Mát có giá trị đa dạng sinh học cao.
Ngày 12 tháng 7 năm 2002, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 91/2002/QĐ-TTg chính thức chuyển hạng K
Mát thành vườn quốc gia. Theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, tổng diện tích vườn quốc gia này là 18.765
nghiêm ngặt 8.594 ha, phân khu phục hồi sinh thái 10.084 ha, phân khu hành chính, dịch vụ 87 ha. Trách nhiệm qu
giao từ Sở NN&PTNT sang UBND tỉnh Tây Ninh. Hiện tại Ban Quản lý vườn quốc gia có 22 cán bộ biên chế, 53
rừng.
Lò Gò - Xa Mát có trong danh lục các khu rừng đặc dụng Việt Nam đến năm 2010 được xây dựng bởi Cục Kiểm l
18.765 ha (Cục Kiểm lâm, 2003), danh lục này hiện vẫn chưa được Chính phủ Việt Nam phê duyệt.
Địa hình, thủy văn: Vườn quốc gia Lò Gò - Xa Mát nằm ở phía tây vùng đất thấp miền Đông Nam Bộ. Địa hình k
5-10 m trên mực nước biển. Con sông lớn nhất trong khu vực là sông Vàm Cỏ. Con sông này bắt nguồn từ Campu
của biên giới dài 16 km giữa Việt Nam và Campuchia. Trong vườn quốc gia có một số sông suối nhỏ chảy vào sôn
đông bắc và các sông Mẹc Mu, Xa Nghê, Tà Đót, Bà Diệc.
Đa dạng sinh học:
Thực vật: Vườn quốc gia Lò Gò - Xa Mát là khu vực có rừng che phủ lớn nhất tại tỉnh Tây Ninh, chiếm 26% tổng
tỉnh . Thảm thực vật rừng khu vực có dạng khảm giữa rừng bán rụng lá, rừng rụng lá trên đất thấp (do đất nghèo v
không có vòm lá dày dặc) và các dải hẹp rừng thường xanh ven sông suối và rừng tràm (Melaleuca spp.). Gần biên
đồng cỏ đất lầy với các thảm cói lác.
Các loài cây phổ biến tại vườn quốc gia Lò Gò - Xa Mát có vên vên (Anisoptera costata), dầu nước (Dipterocarpu
chai (D. intricatus), dầu song nàng (D. dyeri), sao đen (Hopea odorata), sến mủ (Shorea roxburghii), căm xe (Xyli
xylocarpa), gõ mật (Sindora siamensis), xoay (Dialium cochinchinensis), cẩm lai (Dalbergia sp.), giáng hương (Pt
(Lagerstroemia sp.) và sến cát (Shorea cochinchinensis). Có một vài khu vực rừng thuần (đơn loài) của các loài câ
như Dipterocarpus costatus và D. intricatus. Rừng tại vườn quốc gia này có một loạth các loài có tên trong sách đ
hương và mạc nưa (Diospyros mollis) .
Động vật: Quần động vật của vườn quốc gia Lò Gò - Xa Mát vẫn chưa được nghiên cứu kỹ, mặc dù nhóm của Lê
(2000) nhận được một số báo cáo về sự tồn tại của một số loài đáng quan tâm về mặt bảo tồn, như voọc chà vá châ
bạc Đông Dương ( Trachypithecus villosus), khỉ mặt đỏ (Macaca arctoides), gấu ngựa (Ursus thibetanus), sói đỏ (
aureus). Một số đợt khảo sát nhanh đã được tiến hành và ghi nhận một số loài có tầm quan trọng bảo tồn[2][6]. Kết q
tồn tại các loài có giá trị bảo tồn như cu li nhỏ (Nycticebus pygmaeus), khỉ đuôi lợn (Macaca leonina), khỉ đuôi dà
Trong lần khảo sát tháng 1 năm 2001, sự hiện diện của công (Pavo muticus), gà lôi hồng tía (Lophura diardi) và h
được thông báo một cách đáng tin cậy. Ngoài ra, hạc cổ trắng (Ciconia episcopus) và vẹt má vàng (Psittacula eupa
Đông Dương, cũng như gầm ghì lưng xanh (Ducula aenea), một loài chim của các cánh rừng đất thấp, cũng được
các loài đã ghi nhận, một số các loài khác đáng quan tâm về mặt bảo tồn cũng có thể có tại Lò Gò - Xa Mát. Chúng
(Polyplectron germaini), già đẫy nhỏ (Leptoptilos javanicus), quắm cánh xanh (Pseudibis davisoni) và quắm lớn (
Khu hệ chim tại vườn quốc gia này rất đặc trưng, tại các sinh cảnh đất ngập nước có rừng đã ghi nhận nhiều loài c
(Ciconia episcopus), già đẫy nhỏ (Leptoptilos javanicus) và cò nhạn (Anastomus oscitans). Các sinh cảnh rừng ghi

48
Tìm hiểu Vườn quốc gia Việt Nam. Đỗ Thương Huyền K4Địa
gà lôi hông tía (Lophura diardi), hai loài có vùng phân bố giới hạn gà tiền mặt đỏ (Polyplectron germaini), chích c
Ngoài ra, Lò Gò - Xa Mát còn là nơi dừng chân bay qua của loài sếu đầu đỏ (Grus antigone), trên tuyến di cư giữa
sinh sản tại Campuchia. Dựa trên tầm quan trọng của các loài đang bị đe dọa toàn cầu và các loài có vùng phân bố
nhận là một trong các vùng chim quan trọng của Việt Nam.
Qua phỏng vấn ngư dân địa phương, người ta ghi nhận thông tin về sự có mặt của cá sấu xiêm (Crocodylus siamen
toàn cầu mức cực kỳ nguy cấp tại sông Vàm Cỏ trong vườn quốc gia. Nhóm của Tordoff cũng ghi nhận thông tin t
bắt tại sông Vàm Cỏ nhưng ở địa phận Campuchia, tại thượng nguồn vườn quốc gia. Hiện tại, chưa có bất kỳ đợt k
Vàm Cỏ để xác định chính xác sự tồn tại của loài này.
Các vấn đề: Trong suốt thời kỳ chiến tranh, Lò Gò - Xa Mát là nơi hứng chịu các đợt đánh bom ác liệt, dải thảm c
Các vấn đề bảo tồn hiện vẫn còn nhiều hạn chế, nhiều trở ngại. Lò Gò-Xa Mát là khu vực rộng lớn, dễ tiếp cận, lực
không đủ sức quản lý, bảo vệ.Mối đe dọa lớn nhất đối với đa dạng sinh học tại vườn quốc gia là việc biến đổi các s
nông nghiệp. Năm 2001, hệ thống đường và kênh nước được thiết kế xây dựng tại một trong những trảng đất ngập
với mục đích đưa dân vào tái định cư tại khu vực. Do khu vực có giá trị đa dạng sinh học cao, các cấp chính quyền
đình chỉ việc xây dựng. Tuy nhiên, khu vực này sẽ còn gặp nhiều mối đe dọa nếu không có nhận thức, đánh giá đú
Hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau trong việc tiếp tục bảo vệ các vùng đất ngập nước tại vườn qu
Các mối đe dọa khác phải kể đến trong quá trình đánh giá nhu cầu bảo tồn là khai thác gỗ trái phép, săn bắn, bẫy b
ngoài gỗ và cháy rừng. Trong số này săn bắn và bẫy bắt hiện được đánh giá là các mối đe dọa nguy hiểm nhất đối
Các giá trị khác: Trong chiến tranh chống Mỹ, Lò Gò - Xa Mát là cơ sở của Đài phát thanh Giải phóng miền Nam
cứ cách mạng của quân giải phóng. Bởi vậy, khu vực này còn có ý nghĩa quan trọng về mặt lịch sử. Ngoài ra, rừng
quan trọng trong việc phòng hộ đầu sông Vàm Cỏ. Nhiều hộ dân cư sống phụ thuộc vào nguồn tài nguyên thuỷ sản
Các dự án có liên quan: Chương trình 661 là nguồn kinh phí chủ yếu cho các hoạt động của Ban quản lý vườn q
cho Chương trình 327 từ năm 1999. Ban quản lý vườn quốc gia tiến hành dự án "Hỗ trợ bảo tồn các sinh cảnh đất
- Xa Mát, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh". Mục đích của dự án nhằm tăng cường năng lực cho cán bộ vườn quốc
nước, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của các vùng đất ngập nước trong cộng đồng địa phương và đảm bảo
quan trọng trong vườn quốc gia sẽ được bảo vệ đúng mức. Dự án này được tài trợ bởi dự án bảo tồn vườn quốc gia
hai năm 2003 - 2004.
Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) đánh giá đề xuất vay vốn phát triển nông thôn của Bộ NN& PTNT Việt N
Hòa, dự án nước sạch lớn tại các tỉnh Tây Ninh, Long An, Bình Dương và Bình Phước. Một trong số các hoạt độn
tưới tiêu của hồ Dầu Tiếng sang địa phận huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, bao gồm cả diện tích vùng đệm cho vườ
này có thể sẽ có nhiều tác động ảnh hưởng đến vườn quốc gia, đặc biệt mật độ dân số tăng nhanh làm tăng áp lực l
vực, nhất là tại vùng đệm của vườn quốc gia. Tuy nhiên, chương trình quản lý vườn quốc gia và vùng đệm của dự
động tiêu cực trên, các chương trình này dự kiến sẽ được thực hiện trong vòng 7 năm.
Đánh giá nhu cầu bảo tồn: Nhu cầu bảo tồn đã được BirdLife International phối hợp cùng Ban quản lý vườn quố
năm 2003 với sự hỗ trợ của dự án bảo tồn vườn quốc gia Cát Tiên. Dựa trên các đánh giá về giá trị đa dạng sinh họ
và gián tiếp, có 6 hoạt động cần ưu tiên để nhận tài trợ của VCF đã được xác định:

49
- Nâng cao năng lực cho cán bộ vườn quốc gia.
- Tăng cường phối kết hợp với các cơ quan thực thi pháp luật khác.
- Nâng cao nhận thức cho các nhà hoạch định chính sách, cán bộ hành pháp và cộng đồng địa phương.
- Đồng quản lý cộng đồng.
- Hoạch định lại ranh giới.
- Thiết lập các chương trình giám sát các loài và sinh cảnh đất ngập nước chính.
Kế hoạch quản lý: Kế hoạch quản lý do Birdlife International phối hợp cùng Ban quản lý Vườn Quốc gia xây dự
của Dự án bảo tồn Cát Tiên. Các hoạt động quản lý cần ưu tiên đã được xác định:
- Duy trì sự toàn vẹn của tất cả các vùng đất ngập nước theo mùa.
- Bảo vệ tất cả các diện tích rừng trên đất thấp khỏi tình trạng chuyển đổi thành các mục đích sử dụng đất khác.
- Xác định lại chính xác ranh giới vườn quốc gia.
- Kiểm soát tình trạng khai thác gỗ lậu.
- Kiểm soát săn bắn, bẫy các loài động vật.
- Kiểm soát khai thác quá mức các LSPG.
- Kiểm soát cháy rừng.
- Tổ chức điều tra, nghiên cứu đa dạng sinh học
- Nâng cao năng lực cho cán bộ vườn quốc gia.
- Trang bị đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị cho Ban quản lý.
- Tăng cường phối hợp với chính quyền địa phương và các tổ chức có liên quan.
- Tiến hành, tổ chức các chương trình giáo dục, nâng cao nhận thức.
- Phát triển kinh tế cho cộng đồng dân cư vùng đệm.
24.VƯỜN QUÓC GIA TRÀM CHIM.
Vườn quốc gia Tràm Chim thuộc tỉnh Đồng Tháp là một khu đất ngập nước, được xếp trong hệ thống rừng đặc d
nhiều loài chim quý, đặc biệt là sếu đầu đỏ, một loài chim cực kỳ quý hiếm, có tên trong sách đỏ.
Vị trí địa lý: Vườn quốc gia Tràm Chim nằm trong vùng Đồng Tháp Mười, thuộc huyện Tam Nông, tỉnh Đồng
10°47′ vĩ bắc, 105°26′ - 105°36′ Đông với tổng diện tích 7.588 ha nằm trong địa giới của 5 xã (Phú Đức, Phú Hiệp
Sinh) và Thị trấn Tràm Chim. Với só dân trong vùng là 30.000 người.
Lược sử:
- Năm 1985, Tràm Chim được Ủy ban Nhân dân tỉnh Đồng Tháp thành lập với tên gọi là Công ty Nông Lâm Ngư
trồng tràm và khai thác thủy sản, và vừa giữ lại được một phần hình ảnh của Đồng Tháp Mười xa xưa.
- Năm 1986, loài sếu đầu đỏ (chim hạc, sếu cổ trụi), được tái phát hiện ở Tràm Chim.
- Năm 1991, Tràm Chim trở thành Khu Bảo tồn Thiên nhiên Tràm Chim cấp tỉnh, nhằm bảo tồn loài sếu đầu đỏ (G
- Năm 1994, nơi đây trở thành Khu Bảo tồn Thiên nhiên Tràm Chim, cấp quốc gia, theo Quyết định số 47/TTg ngà
tướng Chính phủ kèm theo thông tư số 4991/KGVX, với diện tích 7.500 ha. Vào tháng 9 năm 1998, diện tích của V
điều chỉnh lại là 7.588 ha.

50
Tìm hiểu Vườn quốc gia Việt Nam. Đỗ Thương Huyền K4Địa
- Năm 1998, nơi đây trở thành Vườn quốc gia Tràm Chim theo Quyết định số 253/1998/QĐ-TTg, ngày 29 tháng 1
phủ.
Chức năng: Bảo tồn hệ sinh thái đất ngập nước đặc trưng của vùng Đồng Tháp Mười, bảo vệ khu vực di trú cho c
chim sếu (Grus antigone)., bảo tồn các loài động-thực vật bản địa, các nguồn gen quý hiếm, và duy trì những điều
môi trường tự nhiên và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên.
Điều kiện tự nhiên:
Địa hình: Nói chung là thấp trũng, nơi cao nhất là 2,3 m, nơi thấp nhất là 0,4 m (so với mực nước biển Tây Nam B
• Những vùng đất trũng chiếm 152 ha
• Những vùng gò cao chiếm 194 ha
• Vùng phẳng chiếm 5858 ha
Khí hậu-Thủy văn:

Bản đồ thảm thực vật VQG Tràm Chim - 2006


- Nhiệt độ: Nhiệt độ ở đây cao quanh năm và tương đối ít biến động, nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 27°C, n
cuối mùa khô (từ tháng 12 đến tháng 2) và tăng lên khoảng 1-2°C vào các tháng cuối mùa khô, đầu mùa mưa (từ th
nhất là 37°C vào tháng tư và thấp nhất là khoảng 16°C.
- Độ ẩm: Độ ẩm trung bình hàng năm duy trì trong khoảng 82 - 83%. Độ ẩm cao nhất có thể lên đến 100% và thấp
- Chế độ gió: Từ tháng 5 đến tháng 11, hướng gió thịnh hành ở vùng này là hướng Tây–Nam, tốc độ gió trung bình
và gây mưa. Từ tháng 12 đến tháng 4 có gió Đông–Bắc, tốc độ gió trung bình khoảng 2 m/s. Bão hầu như không ả
gió với tốc độ lớn trong cơn mưa chưa từng xảy ra.
- Lượng mưa: Lượng mưa phân bố theo mùa rõ rệt, trung bình khoảng 1.650 mm/năm. Mùa mưa tập trung từ tháng
mưa tập trung vào khoảng thời gian này. Trong khi đó, tháng 1, 2, 3 lại là những tháng khô hạn nhất, thời tiết hầu n
trung bình đo được tại Vườn quốc gia Tràm Chim khoảng 110-160 ngày/năm.
- Chế độ nước: Vườn quốc gia Tràm Chim chịu ảnh hưởng thủy văn của vùng châu thổ sông MeKong, nhận nguồn
thông qua hệ thống kinh thủy lợi (kênh Hồng Ngự–Long An, Đồng Tiến, An Hòa và Phú Hiệp) tràn vào nội đồng
đến tháng 12. Vườn quốc gia Tràm Chim được chia thành 5 vùng quản lý khác nhau (A1-A5), mỗi khu vực được b

51
kênh và đê với tổng chiều dài lên đến 59 km. Mực nước bên trong vườn quốc gia được điều tiết thông qua hệ thống
xung quanh. Hiện nay, để giảm rủi ro do lửa vào mùa khô, mực nước bên trong vườn quốc gia luôn được giữ ở mứ
quá khứ. Thành phần thực vật, phân bố và tốc độ sinh trưởng đã bị ảnh hưởng bởi những tác động này.
Địa chất:
Trầm tích: Khu vực vườn quốc gia Tràm Chim được hình thành trên hai nền trầm tích Pleistocen và Holocen, với
Trầm tích Pleistocen
- Trầm tích biển gió (mvQiv2-3). Trầm tích mang nhiều vật liệu thô (quartz) tạo thành những gò cao trong vùng Đ
- Trầm tích biển (mQiii2). Cùng với trầm tích biển gió, trầm tích biển cũng thuộc Pleistocen, và chiếm diện tích kh
Trầm tích Holocen
- Trầm tích đầm lầy-biển (bmQiv2-3) chiếm 3.565 ha, chứa nhiều khoáng pyrit (FeS2 đây là nguồn vật liệu góp ph
tàng (sulfaquents).
- Trầm tích lòng sông cổ (ab2Qiv2-3) chiếm khoảng 717 ha. Đây là những con sông chết và được bồi đấp bở nhữn
cơ, thịt và sét.
- Trầm tích proluvi (pQiv2-3) chiếm 1.835 ha. Chủ yếu là vật liệu lắng tụ từ xói mòn.
- Nhóm đất cát cổ (aeric Tropaquults), được hình thành thông qua quá trình phong hóa trầm tích Pleistocene chiếm
- Đất xám điển hình (Typic Tropaquults), khoảng 476 ha.
- Đất xám đọng mùn (humic Tropaquults), 274 ha.
- Các nhóm đất dốc tụ trên nền trầm tích Proluvi chiếm diện tích 1.559 ha.
- Các nhóm Đất phù sa có nên phèn: Trầm tích sông - biển (amQiv2-3) chồng lên lớp trầm tích đầm lầy - biển (bm
phù sa có tầng sinh phèn (sulfidic) (sulfic Tropaquents, sulfic Tropaquept
có tầng phèn (sulfuric) chứa các khoáng jarosit.
- Đất phèn hoạt động (Sulfaquepts), hình thành từ nền trầm tích đầm lầy b
khoảng 355 ha, phân bố nhiều nhất tại khu A5. Độ chua của đất: pH chỉ k
Đa dạng sinh học:
Hệ sinh thái động vật:

Sếu đang hạ cánh ở VQG Tràm Chim


Vườn quốc gia Tràm Chim, có diện tích 7.588 ha, thuộc huyện Tam Nông tỉnh Đồng Tháp. Đây là nơi cư trú của t
sống, 40 loài cá và 147 loài chim nước. Trong đó, có 13 loài chim quý hiếm của thế giới. Đặc biệt là một loài chim
antigone) hay sếu cổ trụi.
Hệ sinh thái thực vật:
Với các yếu tố tự nhiên: trầm tích, địa mạo, và đặc tính đất khá đa dạng, từ đất xám, phát triển trên nền trầm tích c
phù sa mới và đất phèn phát triển trên trầm tích trẻ Holocen đã góp phần làm đa dạng các quần xã thực vật tự nhiê
ghi nhận được 130 loài thực vật, phân bố đơn thuần cũng như xen kẻ với nhau tạo thành những quần xã thực vật đặ
Hệ sinh thái rừng tràm:

52
Tìm hiểu Vườn quốc gia Việt Nam. Đỗ Thương Huyền K4Địa

Tràm trên đất phèn ở VQG Tràm Chim


Rừng tràm (Melaleuca cajuputi) là thảm thực vật thân gỗ có diện tích lớn
tác động con người, hầu hết những cánh rừng tràm nguyên sinh đã biến m
cánh rừng tràm trồng, thuộc loài Melaleuca cajuputi (họ Myrtaceae), như
có những cụm tràm phân bố theo kiểu tự nhiên. Hai kiểu phân bố được gh
và tràm phân tán. Tràm phân tán có sự hiện diện thảm cỏ xen kẽ gồm các
cỏ mồm (Ischaemum rugosum và I. indicum), hoàng đầu Ấn (Xyris indica), nhĩ cán vàng (Utricularia aurea), cỏ ố
(Nymphaea lotus), cú muỗi (Caprimulgusmaeruru), chèo bẻo (Dicrurus macrocercus), hút mật (Aethopiga siparaj
palpebrosa), chim sẻ (Carpodacus erythrinus), én (Apus affinis), rẻ quạt (Rhipidura albicollis), chích chòe (Lucus
Những loài chim thường gặp: cò trắng (Egretta garzetta), cò bợ (Ardeola bacclus), cò lửa (Ixobrychus sinensis), cò
diệc lửa (Ardea purpurea), diệc xám (Ardea cinerea), điêng điểng (Anhinga melanogaster), cồng cộc (Pharacroco
(Streptopelia tranquebarica), cú cườm (Caprimulgusmaerurus), cú (Tyto capensis),
Đồng ngập nước theo mùa:
Đồng cỏ ngập nước theo mùa là một trong những hệ sinh thái khá phổ biến trong khu vực VQG Tràm Chim. Nhữn
cao đã thành những đồng cỏ đơn thuần, trong khi đó có những loài cùng phát triển chung với các loài thực vật khá
đoàn thực vật tiêu biểu của vùng đất ngập nước.
Đồng cỏ năng:

Hoàng đầu Ấn (Xyris indica) và cỏ năng kim (Eleocharis atropurpurea) ở VQG Tràm Chim
Đồng cỏ năng (Eleocharis sp.) chiếm diện tích khoảng 2.968 ha, tạo thành một trong những thảm cỏ rộng lớn; bao
atropurpurea) - đây là bãi ăn của loài chim sếu (Grus antigone), khoảng 235 ha, năng ống (Eleocharis dulcis), 1.2
thành các quần xã thực vật: năng kim – năng ống (E. atropurpurea – E. dulcis), vài nơi xuất hiện của hoàng đầu Ấ
(E. atropurpurea – P. repens); năng ống - cỏ ống (E. dulcis – P. repens), khoảng 937 ha; năng ống - cỏ ống – lúa m
O.rufipogon), 443 ha; năng ống - cỏ ống - cỏ chỉ (E. dulcis - P. repens – C. dactylon), khoảng 72 ha. Những nơi có
năm thì xen lẫn trong quần xã năng là những loài thực vật thủy sinh như nhĩ cán vàng (Utricularia aurea), súng m
chồn (Ceratophyllum demersum).
Những loài chim thường gặp: sếu (Grus antigone), cò trắng (Egretta garzetta), cò bợ (Ardeola bacclus), trích cồ, t
poecilorhyncha), le khoang cổ (Nettapus coromandelianus), diệc lửa (Ardea purpurea), diệc xám (Ardea cinerea),
53
lép.
Đồng cỏ mồm: Đồng cỏ mồm (Ischaemum spp.); chiếm diện tích khá nhỏ so với các cộng đồng thực vật khác, kho
thuần và quần xã mồm - cỏ ống (Ischaemum spp.- Panicum repens). Phân bố hiện diện chủ yếu trên những dải liếp
trong một vùng địa hình thấp.Những loài chim thường gặp: cồng cộc (Pharacrocoraxniger), chiền chiện (Prinia fl
cò lửa (Ixobrychus sinensis), cút nhỏ (Turnix syluatica), diệc lửa (Ardea purpurea), diệc xám (Ardea cinerea), cú (
leucocephala), già đãy (Leptoptilos dubius).
Đồng cỏ ống: Đồng cỏ ống (Panicum repens); cỏ ống phân bố trên một diện rộng, chiếm diện tích khoảng 958,4 h
đến 98% hoặc cùng xuất hiện với các loài thực vật thân thảo khác: cỏ ống - cỏ xã (Panicum repens - Cymbopogon
trên đất giồng cổ; cỏ ống – lúa ma (Panicum repens – Oryza rufipogon), khoảng 268 ha; cỏ ống - cỏ chỉ (Panicum
khoảng 50 ha; cỏ ống – mai dương (Panicum repens – Mimosa pigra), khoảng 86 ha, đây là khu quần xã cỏ ống bị
hại. Những loài chim thường gặp: công đất (Houbaropsis bengalensis), chiền chiện (Prinia flaviventris), sơn ca (A
caprata), trảu đầu hung (Merops superciliosus), cú (Tyto capensis), trích, cò (Ardeola bacclus), giang sen (Mycter
(Leptoptilos dubius), chích đầm lầy (Locustella certhiola)
Đồng lúa ma: Đồng lúa ma (Oryza rufipogon); phân bố khá rộng, chiếm diện tích khoảng 824 ha. Tuy nhiên, cánh
đơn thuần có diện tích khá nhỏ, khoảng 33 ha, diện tích còn lại có sự hiện diện của lúa ma là sự kết hợp với những
quần xã thực vật đặc trưng cho vùng đất ngập nước: lúa ma - cỏ ống (O. rufipogon – Panicum repens), khoảng 544
rufipogon - Leersia hexandra), khoảng 160 ha; lúa ma - cỏ ống - cỏ chỉ ( O. rufipogon – P. repens – C. dactylon),
Hầu như tất cả các loài chim trong Tràm Chim đều thích với đồng lúa ma, kể cả sếu đầu đỏ (Grus antigone), sinh c
Lác nước (Cyperus malaccensis); phân bố rải rác dọc theo kinh đào và dọc theo đường rạch cũ, diện tích tập trung
Hệ sinh thái đầm lầy: Sen và nghễ trong vùng đầm lầy lòng sông cổ ở VQG Tràm Chim
Nghễ (Polygonum tomentosum) phân bố ở những nơi địa hình trũng thấp, khoảng 159 ha. Trong đó, nghễ đơn thuầ
lại hiện diện chung với loài thực vật khác như lúa ma (O. rufipogon), rau dừa (Jussiaea repens), nhĩ cán vàng (Utr
Những loài thường gặp: cò lửa (Ixobrychus sinensis), cò lép (Egretta garzetta), cò óc (Anastomus oscitans), cò bợ
Hội đoàn sen – súng (Nelumbium nelumbo – Nymphaea spp.) chủ yếu trên các vùng đầm lầy ngập nước quanh năm
sông cổ, chiếm diện tích khoảng 158 ha.
Những loài chim thường gặp: le hôi (Tachybaptus raficollis), le khoang cổ (Nettapus coromandelianus), vịt trời (A
ré, gà lôi nước (Hydrophasianus chirurgus), gà nước vằn (Rallus striatus), cuốc ngực nâu (Porzana fusca), mòng k
rudis)
Tiềm năng du lịch: Đến Tràm Chim, du khách sẽ bắt gặp ẩn hiện trước cảnh bao la của đất trời Đồng Tháp mênh
tháng 12 đến tháng 5 dương lịch, đây là nơi cư trú của khoảng 60% quần thể sếu đầu đỏ, là loài chim cao nhất tron

54
Tìm hiểu Vườn quốc gia Việt Nam. Đỗ Thương Huyền K4Địa

Những vấn đề đặt ra:

Mai dương xâm lấn Tràm Chim


Những vấn đề, thách thức mà Ban quản lý VQG đang quan tâm:
- Áp lực của cộng đồng nghèo sống trong xung quanh vườn quốc gia Tràm Chim và sự phụ thuộc của cộng đồng, n
thiên nhiên đất ngập nước bên trong. Chế độ bảo vệ nghiêm ngặt trong nhiều năm qua đã dẫn tới xung đột gay gắt
và cũng đã không ngăn cản được sự xâm nhập vào bên trong để khai thác tài nguyên, dẫn đến sự suy kiệt tài nguyê
- Vấn đề quản lý thủy văn cho phù hợp với nhu cầu của hệ sinh thái đất ngập nước, trong bối cảnh chế độ thủy văn
thay đổi do sự phát triển hệ thống kênh đào rộng khắp. Từ việc quản lý thủy văn chưa phù hợp đã làm thu hẹp diện
kim (Eleocharis atropurpurea) làm cho không còn nguồn thức ăn cho chim sếu dẫn đến mật độ cá thể của loài chi

Mật độ cá thể sếu (Grus antigone) thay đổi qua từng năm ở VQG Tràm Chim (1986 - 2006)
- Vấn đề phát triển du lịch sinh thái, sao cho vừa mang lại lợi ích cho cộng đồng, đóng góp cho bảo tồn mà không
- Sự xâm lấn của các loài ngoại lai xâm hại. Hiện nay vườn quốc gia Tràm Chim đang bị đe dọa nghiêm trọng bởi
(Mimosa pigra), một loài thực vật được IUCN xếp trong 100 loài ngoại lai xâm hại nguy hiểm nhất thế giới. Nếu k
10-15 năm nữa, toàn bộ vườn quốc gia sẽ bị loài này xâm lấn thành loài độc tôn. Sự đa dạng sinh học sẽ mất đi hoà

25.U MINH THƯỢNG.


Vườn quốc gia U Minh Thượng là một vườn quốc gia của Việt Nam, được nâng cấp từ khu bảo tồn thiên nhiên U
quốc gia theo Quyết định số 11/2002/QĐ-TTg ngày 14 tháng 1 năm 2002 của Thủ tướng chính phủ Cộng hòa Xã h
Vị trí địa lý: Tọa độ: Từ 9°31 đến 9°39' vĩ bắc và từ 105°03' đến 105°07' kinh độ đông.
Sông Trẹm chia U Minh thành hai vùng thượng và hạ. U Minh Hạ thuộc tỉnh Cà Mau, U Minh Thượng thuộc tỉnh
Rừng U Minh (U Minh Thượng và U Minh Hạ) là kiểu rừng rất đặc thù, được xếp hạng độc đáo và quí hiếm trên t

55
Do nhiều nguyên nhân tác động, rừng tập trung ở U Minh Thượng nhiều hơn và loại rừng nguyên sinh chiếm phần
được công nhận là vườn quốc gia vào tháng 1 năm 2002, với diện tích 8.053 hécta. Rừng nằm trong địa giới của cá
Thuận của tỉnh Kiên Giang, thuộc vùng bán đảo Cà Mau.
Mục tiêu, nhiệm vụ: Bảo tồn mẫu chuẩn hệ sinh thái rừng tràm úng phèn trên đất than bùn, một vùng ngập nước q
Long.
Bảo tồn đa dạng sinh học của hệ sinh thái rừng ngập nước, đặc biệt 8 loài chim nước quan trọng và các loài động v
Góp phần bảo tồn và tôn tạo di tích lịch sử cấp quốc gia về chiến khu cách mạng U Minh Thượng trong thời kỳ ch
Góp phần cân bằng sinh thái, tăng độ che phủ của rừng, đảm bảo an ninh môi trường và sự phát triển bền vững của
thời phát huy giá trị của hệ sinh thái rừng tràm phục vụ nghiên cứu khoa học và tham quan, du lịch sinh thái.

26.VƯỜN QUỐC GIA MŨI CÀ MAU.


Vườn quốc gia Mũi Cà Mau là một vườn quốc gia tại xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau. Được thành l
TTg của Thủ tướng chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ngày 14 tháng 7 năm 2003 trên cơ sở nâng c
(thành lập theo quyết định số 194/CT, ngày 9 tháng 8 năm 1986).
Vị trí: Vườn quốc gia này có vị trí tại mũi đất cực Nam của lãnh thổ Việt Nam.
Tọa độ: từ 8°32′ đến 8°49′ vĩ bắc và từ 104°40′ đến 104°55′ kinh đông.
Tổng diện tích tự nhiên: 41.862 ha, trong đó:
• Diện tích phần trên đất liền: 15.262 ha.
• Diện tích phần ven biển: 26.600 ha.
Phân khu chức năng trên đất liền
- Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt: 12.203 ha. Thuộc tiểu khu 2 và tiểu khu 3 của khu rừng đặc dụng Đất Mũi và khu
- Phân khu phục hồi sinh thái: 2.859 ha. Thuộc tiểu khu 4 và phần ven biển tiểu khu 1 của khu rừng đặc dụng Đất M
- Phân khu hành chính dịch vụ: 200 ha. Thuộc khu vực ven Rạch Tàu, khu kênh Hai Thiện, khu Rạch Bàu Lớn và
Phân khu chức năng phần trên biển: Phạm vi tính từ mép bờ biển phía tây ra phía biển, chức năng chủ yếu của p
sinh vật biển và hệ sinh thái ven bờ, duy trì và nghiên cứu quá trình địa mạo và sinh thái tự nhiên của Vườn quốc g
sau:
- Cửa Sào Lưới thuộc huyện Cái Nước. Tọa độ: Từ 104°47′30″ kinh đông và 8°48′ vĩ bắc.
- Cách bờ biển 4.700 mét. Tọa độ: Từ 104°45′ kinh đông và 8°48′ vĩ bắc.
- Ngoài biển. Tọa độ: Từ 104°42′ kinh đông và 8°40′ vĩ bắc.
- Ngoài biển. Tọa độ: Từ 104°42′ kinh đông và 8°35′ vĩ bắc.
- Ngoài biển. Tọa độ: Từ 104°48′ kinh đông và 8°33′30″ vĩ bắc.
- Đầu rạch Trương Phi thuộc huyện Ngọc Hiển. Tọa độ: Từ 104°48′ kinh đông và 8°34′30″ vĩ bắc.
Vùng đệm: Vùng đệm của Vườn quốc gia Mũi Cà Mau có tổng diện tích 8.194 ha, nằm trên địa bàn các xã: Đất M
huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau.
Mục tiêu

56
Tìm hiểu Vườn quốc gia Việt Nam. Đỗ Thương Huyền K4Địa
- Bảo tồn lâu dài mẫu chuẩn sinh thái có tầm quan trọng quốc gia, khu vực và thế giới trên cơ sở các giải pháp kho
sinh thái đất ngập nước vùng đất mũi đang trong quá trình diễn thế tự nhiên.
- Xây dựng Vườn quốc gia Mũi Cà Mau để phục vụ các hoạt động tham quan, du lịch sinh thái và hợp tác quốc tế,
hình bảo tồn và sử dụng bền vững tài nguyên rừng ngập mặn, phát huy giá trị và chức năng kinh tế của hệ sinh thá
- Phát huy vai trò phòng hộ bảo vệ môi trường, hạn chế xói lở, thúc đẩy quá trình bồi tụ bờ biển, để bảo vệ đời sốn
vùng đất liền, bảo vệ khu cư trú của ngư dân ở vùng ven biển, tạo nền tảng cho quá trình phát triển bền vững ở vùn
- Bảo vệ đa dạng sinh học của các hệ sinh thái rừng ngập mặn, nơi cư trú cho các loài sinh vật ở vùng ven biển, cu
sản, hỗ trợ cho các hoạt động sản xuất ở vùng ven biển.
- Xây dựng cơ cấu xã hội nghề rừng ổn định, phù hợp với các mục tiêu quản lý, bảo vệ và phát triển rừng thông qu
bền vững của các hệ canh tác Lâm-Ngư nghiệp, tăng năng suất của rừng để nâng cao lợi ích kinh tế của những diện
của Vườn quốc gia.
- Cải thiện cơ sở hạ tầng nông thôn nhằm cải thiện điều kiện sinh sống của nhân dân trong vùng. Nâng cao nhận th
rừng và của hệ sinh thái đất ngập nước và các phương pháp sử dụng bền vững tài nguyên đất ngập nước.
- Góp phần củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị và trật tự xã hội ở vùng cực Nam của Việt Nam.
Đa dạng sinh học: Đặc trưng của vườn quốc gia này là hệ động thực vật rừng ngập mặn. Thực vật đặc trưng gồm:
vật khu vực vườn này đa dạng, gồm có: rùa, rắn, trăn, cua, các loại cá nước lợ, ba khía, sóc v.v. Diện tích mặt đất c
được mở rộng một cách tự nhiên do hàng năm Mũi Cà Mau lấn ra biển hàng chục mét bằng nguồn phù sa do hệ th
27.VƯỜN QUỐC GIA U MINH HẠ.
Vườn quốc gia U Minh Hạ là một vườn quốc gia tại tỉnh Cà Mau. Được thành lập theo quyết định số 112/QĐ-TT
Thủ tướng chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, trên cơ sở nâng cấp khu bảo tồn thiên nhiên Vồ Dơi.
đặc trưng vùng đất ngập nước trên lớp than bùn do xác thực vật tích tụ lâu năm tạo thành. Thực vật đặc hữu ở đây
mắm... Động vật đặc trưng là: rùa, rắn, trăn, cá thòi lòi, các loại cá nước ngọt, chim, côn trùng...Đây là một trong h
Việt Nam.
Vị trí, diện tích: Tọa độ: Từ 9°12′30″ tới 9°17′41″ vĩ bắc và 104°54′11″ tới 104°59′16″ kinh đông.
Vườn quốc gia U Minh Hạ có tổng diện tích 8.286 ha nằm trên địa bàn các xã Khánh Lâm, Khánh An thuộc huyện
Bình Tây Bắc thuộc huyện Trần Văn Thời.
Vườn quốc gia U Minh Hạ có ba phân khu chính gồm:
- Khu bảo tồn hệ sinh thái rừng trên đất than bùn: 2.570 ha
- Phân khu phục hồi và sử dụng bền vững hệ sinh thái rừng ngập nước: 4.961 ha
- Phân khu dịch vụ hành chính: 755 ha
Ngoài ra, Vườn quốc gia U Minh Hạ còn có hơn 25.000 ha vùng đệm thuộc các lâm-ngư trường U Minh 1, 3, lâm-
giam K1 Cái Tàu và trung tâm nghiên cứu ứng dụng rừng ngập Minh Hải.
Mục tiêu: Bảo tồn, tái tạo các giá trị về cảnh quan thiên nhiên, môi trường sinh thái và đa dạng sinh học của hệ sin
tràm trên đất than bùn.Vườn quốc gia U Minh Hạ còn có nhiệm vụ bảo tồn và phát triển nguồn gen các loài động t
thần, di tích lịch sử, phục vụ công tác nghiên cứu khoa học, tham quan và phát triển du lịch.

57
28.VƯỜN QUỐC GIA PHƯỚC BÌNH
Vườn quốc gia Phước Bình thuộc xã Phước Bình, huyện Bác Ái, tỉnh Bình Thuận. Thành lập theo Quyết định số
2006 do phó thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký quyết định chuyển Khu bảo tồn thiên nhiên Phước Bình thành Vườn
thống các khu rừng đặc dụng của Việt Nam.
Vị trí:Tọa độ: Từ 11°58′32″ tới 12°10′00″ vĩ bắc và 108°41′00″ tới 108°49′05″ kinh đông.
Vườn có tổng diện tích 19.814 ha, góp phần bảo tồn sinh cảnh rừng tự nhiên của hệ sinh thái rừng vùng núi cao, đồ
BiDoup - Núi Bà ở Lâm Đồng để tạo thành một vùng bảo tồn thiên nhiên rộng lớn, góp phần cho việc bảo tồn đa d
và Nam Trung Bộ. Bảo tồn sinh cảnh rừng tự nhiên tiêu biểu, độc đáo của hệ sinh thái rừng vùng núi cao với các k
rừng mưa ẩm nhiệt đới; rừng hỗn hợp cây lá rộng và cây lá kim á nhiệt đới; rừng lá kim; rừng thưa cây họ dầu tiêu
tỉnh Ninh Thuận.
Ngoài ra, vườn còn có nhiệm vụ góp phần nâng cao năng lực phòng hộ đầu nguồn nước cho hệ thống sông Cái của
hoạt động sản xuất và đời sống, phát triển kinh tế - xã hội của vùng Nam Trung Bộ.
Vườn có 3 phân khu chức năng:
Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt
• Khu phục hồi sinh thái
• Phân khu hành chính - dịch vụ
Động thực vật: Vườn quốc gia Phước Bình có 513 loài thực vật và 170 loài động vật quý hiếm.

29. VƯỜN QUỐC GIA NÚI CHÚA


Vườn quốc gia Núi Chúa là một vườn quốc gia tại huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận, Việt Nam được thành lập v
134/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ngày 9 tháng 7 năm 2003.
Vị trí địa lý: VQG Núi Chúa thuộc huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận giáp với tỉnh Khánh Hoà. Ở vị trí cực đô
giữa vùng Đông Nam Bộ và Nam Trung Bộ, có toạ độ từ 11035’25” đến 11048’38” vĩ độ Bắc và 10904’5” đến 109
bắc là ranh giới giáp tỉnh Khánh Hoà. Nếu dựa trên địa hình tự nhiên cả quần thể vùng núi thì ranh giới phía bắc p
thuộc Hòn Một ngay cửa vịnh Cam Ranh, như vậy chiều bắc nam sẽ là khoảng 33km và tổng chiều dài đường bờ b
Chúa có ba mặt giáp biển. Ngay phía bắc là phần dưới của vịnh Cam Ranh thuộc xã Cam Lập huyện Cam Ranh tỉn
là biển Đông với các xã Vĩnh Hải và Nhơn Hải thuộc huyện Ninh Hải. Phía nam là đầm Nại, phía tây giới hạn bằn
Địa chất thổ nhưỡng: VQG Núi Chúa nằm trong miền Trường Sơn Nam thuộc địa đới Kontum, có tuổi địa chất c
tạo chủ yếu trên nền địa chất vững chắc của khối magma xâm nhập và phún xuất xen kẽ nhau với 3 loại đá mẹ đặc
và Granite chiếm chủ yếu ở khu vực này. Ở ven rìa khối núi là trầm tích đệ tứ nguồn gốc biển và đầm lầy biển. Trê
phong hoá hình thành đất có các loại đất chính như sau:
- Đất bạc màu trên đá Magma acid và cát: Có hầu hết ở các vùng đồi, núi thấp, phân bố ở độ cao dưới 700m. Loại
phẩm của đá mẹ magma acid và cát nên đất có thành phần cơ giới nhẹ, tầng đất mỏng, có nhiều kết von và đá ong
chua cao, dể thoát nước và nghèo chất dinh dưỡng. Trong quá trình phong hoá bào mòn thì đây chính là loại đất dễ

58
Tìm hiểu Vườn quốc gia Việt Nam. Đỗ Thương Huyền K4Địa
vực và là một trong những nguồn cung cấp sản phẩm cát tích tụ ở chân đồi núi.
- Đất xám nâu vàng bán khô hạn: Có phân bố ở vùng bán sơn địa, cũng được hình thành trên đá mẹ magma acid và
hạn. Đất có màu xám đen đến nâu xám, có thành phần cơ giới nhẹ, tầng đất mặt có nhiều sỏi sạn và đá lộ đầu (tỉ lệ
lượng dinh dưỡng thấp, chua, khô. Nhóm đất này phân bố chiếm gần hết diện tích của khu núi chúa, có thành phần
- Đất vàng đỏ trên đá mẹ magma acid: Phân bố ở nhiều độ cao khác nhau, nhưng thường tập trung nhiều ở vùng nú
dốc lớn, tầng đất khá dày, có thành phần cơ giới nhẹ, chua, nghèo mùn và chất dinh dưỡng và khả năng giữ nước k
- Đất xói mòn trơ sỏi đá (E): Phân bố ở các vùng sườn, dông, đỉnh vùng đồi, núi có độ dốc lớn, đất bị bào mòn, rửa
tỉ lệ đá lẫn và lộ đầu khá cao (từ 50-70%), nghèo chất dinh dưỡng, chua và khô, thảm thực vật rừng nghèo nàn (ch
rìa đông bắc.
- Đất cát: phần ven biển phía đông nam và đông còn có đất cát điển hình vùng ven biển, phân bố dọc bờ biển, kéo
những đoạn có núi ăn lan ra biển, tạo thành những bãi cát có diện tích khá lớn.
- Đất phù sa: Phân bố hẹp, chỉ có ở một số suối lớn, địa hình bằng phẳng như ở suối Đông Nha ở phía tây nam và ở
được bồi tụ, phẫu diện đất chưa phân hoá thành các tầng đất rõ rệt.
- Đất mặn đầm lầy: Phân bố khu vực quanh đầm Nại, xung quanh núi Quít xã Tri Hải.
Địa hình, địa mạo: Trên phạm vi khu vực nhỏ, về mặt địa mạo thì khu vực VQG Núi Chúa thuộc dãy núi khối tản
huớng bắc đông bắc-nam đông nam, giới hạn về phía nam là đứt gãy Krongpha - Phan Rang, phái tây bởi đứt gãy
này là kết quả của hoạt động kiến tạo nâng tạo núi nhiều lần thời kỳ Miocene và Pliocene. Hoạt động nâng tạo vòm
nhau đã tạo nên các bậc địa hình gần giống như bậc địa hình ngày nay. Với các bề mặt san bằng Miocene giữa ở đ
muộn 700 - 850m, Pliocene sớm 500 - 650m, Pliocene giữa 300 - 350m và Pliocene muộn 150 - 200m. Các bề mặ
Miocene giữa gần như ở trung tâm, thấp và trẻ dần theo các hướng. Khối núi này, sau pha nâng đầu Miocene muộn
cao khoảng 170 - 200m, cho tới Pliocene giữa, khối núi đã đạt độ cao 600-650m, và các pha nâng sau đó đã đưa độ
theo các hoạt động nâng thì khối núi cũng bị bóc mòn mạnh và lộ ra các khối đá xâm nhập như khối đá xâm nhập t
các quá trình xâm thực, đổ lở và bóc mòn vẫn còn đang phát triển mạnh.
Ở phạm vi rộng hơn, cho cả vùng Phan Rang liền kề thì Phan Rang thuộc kiến trúc hình thái kiểu đồng bằng tích tụ
được hình thành từ kết quả của sụt lún kèm theo bóc mòn, là nơi giao nhau của các hệ thống đứt gãy Cam Ranh-Ph
hình bị hạ thấp và bóc mòn nhiều. Giới hạn phía bắc chính là khối Núi Chúa. Xem xét tổng thể thì khu vực Phan R
khối núi tảng cao hơn hình thành một dạng bồn trũng khép kín chỉ hở ra mặt phía Đông là biển. Từ các hoạt động t
ngày nay ở các khu vực lân cận VQGNC và tại ngay khu vực Núi Chúa, về mặt địa hình, VQGNC có các đặc điểm
- Khu vực Núi Chúa là một khối núi khá liền lạc, nhìn từ ảnh vệ tinh thì Núi Chúa có hình dạng như một con rùa c
phần nhô ra của mũi Xốp thò vào vịnh cam Ranh như đang từ biển bò lên đất liền. Khối núi này có nhiều đỉnh ở cá
nhất là đỉnh núi Cô Tuy có dộ cao 1.039m.
-Địa hình thấp dần từ trung tâm ra, phần phía bắc và tây có độ dốc lớn hơn phía nam và phía đông. Phía tây và tây
khối núi nhỏ tạo thành các thung lũng sườn núi theo hướng đông bắc-tây nam; còn phía bắc, đông và đông nam địa
núi ra biển
- Địa hình có độ cao dưới 300m: phân bố phía đông và nam và các khu vực ở phía bắc giáp biển, địa hình ít bị chia

59
- Địa hình có độ cao từ 300-700m: phân bố phía tây và tây nam, địa hình bị chia cắt mạnh, hình thành các thung lũ
đến 350.
- Địa hình có độ cao trên 700m: phân bố phần trung tâm, có nhiều đỉnh núi ở các độ cao khác nhau, bị ngăn cắt bở
đến 400.
Xa hơn về phía tây nam là đồng bằng nhỏ Phan Rang, bao bọc xung quanh bởi các khối núi cao. Cả khu vực Núi C
dạng địa hình lòng chảo, ngăn cách ở phía bắc, tây và nam là các khối núi có địa hình cao trên 500m cho đến trên 1
bị chặn lại bởi các khối núi ăn lan ra biển có cao độ trung bình 500-700m.
Khí hậu, thủy văn: Khu vực VQG Núi Chúa nằm lọt hoàn toàn trong khu vực khí hậu ven biển miền trung thuộc
đặc điểm là khô hạn cao trong toàn bộ chế độ mưa-ẩm, mà đặc điểm này liên quan đến vị trí bị che khuất của vùng
phía bắc, tây và nam với hai luồng gió mùa chính. Trong vùng khí hậu khô hạn này thì khu vực Phan Rang được c
với lượng mưa trung bình năm dưới 700mm, có những năm dưới 500mm.
Mùa mưa ở khu vực này đến muộn so với các vùng khác và kết thúc cũng sớm hơn, bắt đầu khoảng tháng 9 - 10 v
mùa Đông Bắc không ảnh hưởng nhiều đến khu vực nên không cung cấp thêm lượng ẩm vào mùa gió mùa đông b
mưa thì lại bị các khối địa hình cao hơn ở vị trí bên trong hứng gần hết lượng ẩm mà gió mùa tây nam mang lại và
gió mùa Tây Nam. Do vị trí tiếp giáp như vậy lượng mưa tại khu vực Núi Chúa có thể đạt xấp xỉ 1000mm hoặc hơ
Rang-Mũi Dinh chỉ đạt 650-750mm/năm.
Chế độ nhiệt của khu vực mang những nét đặc trưng của chế độ nhiệt miền Nam, không có mùa đông lạnh, nhiệt đ
độ tháng lạnh nhất không xuống thấp hơn 230C (cho địa hình thấp, đồng bằng) (Bảng 3.1), nền nhiệt độ các tháng
chuyển tiếp khí hậu xích đạo – nhiệt đới. Các yếu tố cực trị về nhiệt có thể thấy qua các trị số cực tiểu như nhiệt độ
150C ở đồng bằng và giảm thêm theo độ cao.
Độ ẩm không khí liên quan đến chế độ nhiệt và mưa như trên nên độ ẩm trung bình chỉ khoảng 80%, trong các thá
85%, trong các tháng mùa khô, độ ẩm tối thấp tuyệt đối có thể xuống dưới 20-25%.
Theo Luận chứng Khoa học của VQG Núi Chúa (4), tính toán các chỉ số nhiệt và mưa hàng tháng thì khu vực này
tháng kiệt và được xếp vào loại khô hạn nhất ở Việt Nam. Chỉ số khô hạn X = 9 . 4 . 2
Hệ thống dòng chảy – thủy văn: Với địa hình là một khối núi nhỏ độc lập như vậy nên hệ thống thủy văn sông suố
dòng chảy ngắn, nhỏ và lưu lượng thay đổi theo mùa, diện tích lưu vực cho từng dòng chảy không lớn.
Nhìn chung khu vực VQGNC không có suối lớn, chỉ có một số suối nhỏ, ngắn đến mùa khô gần như không có nướ
như suối Nước ngọt, Suối Nước giếng, Suối Kiền Kiền, suối Đông Nha, suối Lồ ồ, suối Đá. Các suối trên đều bắt n
đông.
- Suối Đồng Nha : bắt nguồn từ phía nam Núi Chuá chảy xuống đầm Nại, qua địa bàn các xã Phương Hải, Tri Hải
diện tích lưu vực =37 km, dòng chảy chuẩn qo = 0,193 ¬m3/giây.
- Suối Nước Ngọt 3: bắt nguồn từ núi Ông, núi Chúa Anh, diện tích lưu vực = 33,7 ha dòng chảy chuẩn qo = 0,115
5,52.106 m3.
- Suối Kiền Kiền : bắt nguồn từ Núi Chúa chảy về hướng tây thuộc địa bàn xã Lợi Hải. diện tích lưu vực = 22 km2
m3/giây, lưu lượng wo = 3,63.106 m3.

60
Tìm hiểu Vườn quốc gia Việt Nam. Đỗ Thương Huyền K4Địa
- Suối Nước Ngọt 1 : ( bãi cấp ) bắt nguồn từ phía bắc Núi Chúa chảy về hướng đông ra biển Bình Tiên ở bãi Cấp,
chảy chuẩn q0 = 0,102 m3 /giây, w0 = 3,22.106m3.
Ngoài ra trong vùng đệm còn có một số sông suối nhỏ khác, có lưu lượng không đáng kể, về mùa khô hầu như khô
Thủy văn: Do địa hình hiểm trở, độ dốc cao 10 – 25o nên đã hình thành hệ thống suối trong vùng với mật độ khe su
các suối với diện tích lưu vực nước lớn như: Suối Nước Ngọt, Suối Kiền Kiền, Suối Đông Nha.
Hầu hết các suối trên đều bắt nguồn từ các khu vực núi cao chảy ra biển Đông. Ngoài ra, VQG Núi Chúa có khoảng hơn 40
trong đó có một số bãi cát và cồn cát nhỏ, và có một hồ nước nhỏ trên núi Đá Vách, ở gần biển khu vực Vĩnh Hy có nư
đọng quanh năm, là nơi có khá nhiều thực vật thân thảo, cây bụi và động vật: thú, lưỡng thê, bò sát sinh sống.
Thủy triều trong khu vực mang tính bán nhật triều không đều, trong ngày có hai lần triều lên và hai lần triều rút. Đ
cường khoảng 2 – 3,5m.
Sóng biển: Từ tháng 1 – 4: Hướng thịnh hành là Tây – Tây Nam, độ cao trung bình 1 – 1,1m, cực đại khoảng 2m;
hành là Đông Bắc, độ cao trung bình khoảng 1,2m, cực đại khoảng 2,5m. Nhiệt độ trung bình của nước biển trong
bình của nước biển từ 31 – 33%.

30.VƯỜN QUỐC GIA PHÚ QUỐC


Vườn quốc gia Phú Quốc là một vườn quốc gia của Việt Nam, nằm tại đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.
Vườn quốc gia Phú Quốc được thành lập theo Quyết định số 91/2001/QĐ-TTg ngày 8 tháng 6 năm 2001 của Thủ
Chủ nghĩa Việt Nam về việc chuyển hạng Khu Bảo tồn thiên nhiên Bắc đảo Phú Quốc thành Vườn Quốc gia Phú Q
Vị trí: Vườn quốc gia Phú Quốc bao gồm địa phận khu Bảo tồn thiên nhiên Bắc đảo, khu vực núi Hàm Rồng, G
ranh giới hành chính thuộc các xã: Gành Dầu, Bãi Thơm, Cửa Cạn và một phần các xã Cửa Dương, Hàm Ninh, Dư
thuộc huyện đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.
Vườn quốc gia Phú Quốc trải dài từ 10°12' đến 10°27' vĩ bắc và từ 103°50' đến 104°04' kinh đông.
Quy mô diện tích: Tổng diện tích 31.422 ha, bao gồm: khu bảo vệ nghiêm ngặt 8.603 ha, phân khu phục hồi sinh
chính và dịch vụ 33 ha.
Mục tiêu:
-Bảo tồn hệ sinh thái rừng nhiệt đới hải đảo, nguồn gen động, thực vật rừng quý hiếm và có giá trị, các sinh cảnh r
đảo.
- Duy trì và phát triển độ che phủ của thảm thực vật rừng để đảm bảo chức năng phòng hộ rừng đầu nguồn, cung c
hoạt của nhân dân, phát triển bền vững kinh tế, xã hội của huyện đảo Phú Quốc.
- Góp phần củng cố an ninh quốc phòng, tăng cường sức mạnh cho tuyến phòng thủ tây nam Việt Nam.
Cơ quan quản lý: UBND tỉnh Kiên Giang đã có Quyết định 01/2002/QĐ-UB ngày 17/01/2002 thành lập Ban quả
Phát triển Nông thôn, gồm Ban giám đốc và các phòng chức năng. Năm 2002, biên chế của Ban quản lý là 32 ngườ
Hoạt động du lịch: Vườn quốc gia Phú Quốc đã thu hút nhiều khách du lịch nhờ cảnh đẹp thiên nhiên và những b
rất có tiềm năng về du lịch sinh thái được chính quyền cho là một chiến lược lâu dài để phát triển kinh tế một cách
động của du lịch với môi trường tự nhiên.

61
Các giá trị đa dạng sinh học:

Bò biển dugong
Rặng san hô. Coral section; dyed to determine growth rat.
Hiện nay có ít thông tin về khu hệ động vật đảo Phú Quốc. Thảm thực vật nơi đây là rừng thường xanh trên đị
Phú Quốc có đến 12.794 ha rừng, trên các đai cao rừng còn giầu, tuy vậy ở các đai thấp rừng bị suy thoái nhiều, vớ
Fabaceae. Đến nay đã ghi nhận được 929 loài thực vật trên đảo. Cũng có một vài ghi nhận cho rằng ở Phú Quốc tr
sống.
Phần biển Phú Quốc rất phong phú và đa dạng, các rặng san hô bắt gặp ở quanh các đảo nằm ở phía nam. Các
rặng san hô này chiếm đến 41% diện tích. Khu hệ cá trong các rặng san hô rất phong phú, các loài họ Cá mú
(Serranidae) và họ Cá bướm (Chaetodontidae) và nhiều loài có giá trị kinh tế khác. Đã thống kê được 89 loài san
hô cứng, 19 loài san hô mềm, 125 loài cá ở rặng san hô, 132 loài thân mềm, 32 loài da gai và 62 loài rong biển,
trong đó nhiều loài quan trọng như trai tai tượng (Tridacna squamosa) và ốc đun cái (Trochus nilotichus). Phú
Quốc đã ghi nhận loài đồi mồi (Eretmochelys imbricata) đến vùng biển này đẻ trứng, nhưng đến nay tần suất gặp
chúng là rất ít, ngoài ra có các thông tin từ người dân địa phương về sự xuất hiện của bò biển dugong nhưng vẫn
chưa có nghiên cứu chính thức.
Dân số trong vùng: Dân cư trên đảo Phú Quốc là dân du nhập từ nhiều vùng khác nhau. Trên đảo ngư nghiệp là h
du canh, du cư là mối đe doạ lớn đối với đa dạng sinh học.

62
Tìm hiểu Vườn quốc gia Việt Nam. Đỗ Thương Huyền K4Địa
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. NON NƯỚC VIỆT NAM ( Tổng cục du lịch Việt Nam).
2. ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN VIỆT nam ( Vũ Tự Lập)
3. Các trang Web:
- www.vncreatures.net.
- www.dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn.
- www.vi. Wikipedia.org.
- www.vietnamtourism.com.
- www. Webdulich.com.
- www.congdongdulich.com.
- www.vietnam-travel.com.vn.

63

You might also like