You are on page 1of 19

CHUYÊN ĐỀ

VAI TRÒ CỦA TRÍ TUỆ CẢM XÚC TRONG


CUỘC SỐNG CỦA CON NGƯỜI
1. Đặt vấn đề
ÔÛ nöôùc ta, khaùi nieäm “trí tueä caûm xuùc” ñang ñöôïc nhieàu nhaø taâm
lyù hoïc, xaõ hoäi hoïc,... quan taâm vaø nghieân cöùu. Ñaëc bieät trong nền giáo
dục Việt Nam hiện nay, bên cạnh những thành tựu đạt được, đang rất cần một
hướng tiếp cận mới nhằm giải quyết vấn đề “dạy người” “dạy kỹ năng sống cho
học sinh”. Từ kết luận của Bộ chính trị về việc thực hiện nghị quyết Trung ương 2
(khóa VIII) về giáo dục và đào tạo đã chỉ rõ giáo dục Việt Nam cần thực hiện một
số nhiệm vụ, cụ thể là “thực sự coi trọng vai trò của khoa học giáo dục, đẩy mạnh
nghiên cứu khoa học giáo dục, giải quyết tốt những vấn đề lý luận và thực tiễn
trong quá trình đổi mới giáo dục, đưa đến sự đổi mới mạnh mẽ nội dung và phương
pháp đào tạo của các trường và khoa học sư phạm, nâng cao chất lượng đội ngũ
nhà giáo và chất lượng học sinh”. Như vậy, với việc ứng dụng các nghiên cứu về
trí tuệ cảm xúc vào nhà trường sẽ góp một phần giải quyết được vấn đề mà nghị
quyết Trung ương 2 khóa VIII đặt ra. Hơn nữa, giáo dục trí tuệ cảm xúc chính là
quá trình hình thành nhân cách cho con người. Vì vậy, các nhà giáo dục hoï ñang
baét ñaàu chuù yù ñeán vieäc hình thaønh trí tueä caûm xuùc cho treû em ngay töø
löùa tuoåi raát nhoû. Bởi vì xuùc caûm laø cô sôû ñeå hình thaønh tình caûm, tình
caûm laïi laø caùi coát loõi trong nhaân caùch cuûa con ngöôøi. Suy cho cuøng,
giaùo duïc ñeå hình thaønh xuùc caûm, tình caûm hay giáo dục trí tuệ cảm xúc cho
treû chính laø xaây döïng neàn taûng cuûa ñaïo ñöùc. Ñoù cuõng chính laø quaù
trình hình thaønh nhaân caùch con ngöôøi.
Phát triển trí tuệ cảm xúc cho sinh viên sư phạm nhằm góp phần nâng cao chất
lượng đào tạo của nhà trường là yêu cầu cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Tại Đại
hội Đảng IX đã xác định: “phải phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh của người
Việt Nam, coi trọng giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và
động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Trong nguồn lực trí tuệ đó
thì nguồn lực trí tuệ của sinh viên mà đặc biệt là sinh viên sư phạm là những giáo

1
viên tương lai đóng góp một phần rất quan trọng trong sự nghiệp trồng người, sinh
viên sư phạm với kiến thức vững chắc và trí tuệ cảm xúc tốt là nhân tố thiết yếu để
sinh viên có thể trở thành những giáo viên thực hiện thành công hoạt động dạy và
hoạt động giáo dục sau này.
Trí tueä caûm xuùc laø moät trong nhöõng yeáu toá quan troïng giuùp trí tueä
con ngöôøi trôû neân hoaøn chænh, goùp phaàn giuùp cho con ngöôøi thaønh
coâng trong cuoäc soáng. Ñaëc bieät laø ñoái vôùi giáo viên để thành công trong
con đường giảng dạy của mình, người giáo viên không chỉ có trình độ chuyên môn
vững mà còn phải có sự nhạy cảm, tinh tế trong việc nhận biết và đánh giá những
cảm xúc của học sinh, có khả năng dự đoán nhu cầu học tập và sự phát triển nhân
cách của người học để đưa ra những phương hướng sáng suốt đúng đắn trong việc
vạch dự án phát triển nhân cách của học sinh, đây chính là trí tuệ cảm xúc mà
người giáo viên cần có. Điều đó cho thấy sinh vieân ngaønh sö phaïm neáu coù
moät trí tueä caûm xuùc toát seõ laø yeáu toá thuaän lôïi giuùp caùc em thaønh
coâng treân con ñöôøng giaùo duïc cuûa mình, và chứng tỏ trí tuệ cảm xúc có ảnh
hưởng to lớn đối với sinh viên sư phạm trong quá trình rèn luyện để trở thành
người giáoviên thành công trong tương lai. Ñaây laø muïc tieâu thieát yeáu cuûa
nhaø tröôøng cuõng nhö toaøn ngaønh giaùo duïc đang hướng đến. Vì vậy, việc
nghiên cứu trí tuệ cảm xúc của sinh viên ngành sư phạm trường Đại học Thủ Dầu
Một là việc làm rất cần thiết góp phần phát triển toàn diện nhân cách người giáo
viên tương lai.

2. Phương pháp nghiên cứu và cách tiếp cận


2.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lí luận: Phân tích, tổng hợp, so sánh,
hệ thống hóa những tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
2.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu để thu thập thông tin:
+ Phương pháp khảo sát bằng bảng hỏi (điều tra bằng test)
+ Phương pháp phỏng vấn
+ Phương pháp quan sát.
2.3. Phương pháp thực nghiệm (dự kiến)
2.4. Phương pháp xử lý thông tin: sử dụng các phương pháp thống kê toán
học và các phần mềm xử lý số liệu thống kê. Phương pháp toán thống kê với sự trợ

2
giúp của phần mềm Microsoft Excell; Phần mềm thống kê SPSS dành cho các
nghiên cứu khoa học xã hội.
2.5.Cách tiếp cận
Với đề tài: “Khảo sát trí tuệ cảm xúc của sinh viên sư phạm trường Đại học
Thủ Dầu Một” chúng tôi tiếp cận theo quan điểm hoạt động, quan điểm hệ thống
cấu trúc, quan điểm lịch sử-logic, quan điểm lịch sử.
3. Nội dung nghiên cứu và kết quả đạt được
3.1.Vai trò của trí tuệ cảm xúc
-Vai trò của trí tuệ cảm xúc đối với quá trình nhận thức của con người:
Vai trò của trí tuệ cảm xúc đối với hoạt động trí tuệ, hoạt động nhận thức của
cá nhân đã được đề cập trong nhiều công trình nghiên cứu của các nhà tâm lý học
lớn trên thế giới như: G.Piagie, L.X.Vugoxki, D.Goleman…Các nhà tâm lý học này
đều cho rằng trong các hành vi ứng xử của chủ thể đối với hoàn cảnh, các cảm xúc
là động lực của ứng xử, các hành vi thích ứng với hoàn cảnh.
Trong thực tế cảm xúc con người thường xuyên tham gia vào hoạt động nhận
thức trên hai bình diện sau:
+Cảm xúc là động lực thúc đẩy hay kìm hãm một hoạt động nhận thức nào
đó.
+Cảm xúc là người hướng đạo cho hoạt động: cảm xúc như là yếu tố bên
trong xâm nhập vào toàn bộ quá trình nhận thức từ quá trình nhận thức cảm tính
(cảm giác, tri giác) đến quá trình nhận thức lý tính (tư duy, tưởng tượng). Trong
suốt quá trình hành động ngay từ những thao tác đầu tiên cho tới thao tác cuối cùng,
mỗi khi xuất hiện một thao tác thì liền ngay sau đó xuất hiện một cảm xúc tương
ứng và các cảm xúc này trở thành tâm thế có tác dụng thúc đẩy, dẫn dắt chuỗi thao
tác tiếp theo đi theo hướng phù hợp với tâm thế đó.
Có thể nói, cảm xúc ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động sống của mỗi người.
Vì sao con người phải xúc cảm và chúng ta cần phải làm gì khi chúng nảy sinh.
Chúng ta có cảm xúc vì nó rất quan trọng cho sự tồn tại, cho sự giải quyết vấn đề
trong các tình huống của cuộc sống thích hợp và hiệu quả. Cảm xúc không phải là
phiền muộn để bị lờ đi hay vứt bỏ, cảm xúc là thuộc tính của loài người. Đặc biệt là
những giáo sinh sư phạm tương lai cần phải có cảm xúc nhạy cảm trước mọi thay

3
đổi của học sinh, làm gì khi bản thân có xúc cảm khi học sinh nảy sinh xúc cảm …
Đó là vấn đề cần được nhiều nhà tâm lý học quan tâm, nhiều người có hiểu biết về
giáo dục chú ý.
3.2.Tầm quan trọng của trí tuệ cảm xúc
Từ những phân tích trên chúng ta thấy rằng, cảm xúc đóng một vai trò rất
quan trọng trong quá trình nhận thức của mỗi chúng ta. Chính nhờ những phản ứng
cảm xúc tích cực mà chúng ta có thể hành động trong cuộc sống hay không. Nói
cách khác xúc cảm bao trùm toàn bộ các mối quan hệ lành mạnh và tốt đẹp của mỗi
cá nhân chúng ta. Chúng nói cho con người biết rằng họ đang tự hào, buồn bã, giận
dữ hay trống rỗng. Cảm xúc xuất hiện để khiến cho mỗi chúng ta hành động theo
một quá trình liên tục của sự sống trong từng giờ từng ngày.
Trí tuệ cảm xúc có chức năng thông tin cho con người: chúng là những dấu
hiệu đáng giá để được lắng nghe, chúng gởi thông tin đến để được báo hiệu cho con
người đang bị nguy hiểm, báo hiệu vùng ranh giới của người đó đã bị xâm phạm,
rằng người đó đang cảm thấy gần gũi bên một ai đó an toàn và thân thiện, hay người
đó đang lơ đãng. Cảm xúc nói cho con người biết rằng sự việc đó có diễn ra theo
hướng của chúng không và sắp xếp tổ chức chúng lại nhằm nhanh chóng trả lời cho
các tình huống để đảm bảo sự việc đi đúng theo con đường đó.
Trí tuệ cảm xúc sắp xếp cho con người một hành động: trí tuệ cảm xúc chỉ
cho chúng ta làm thế nào để điều khiển cuộc sống. Khi chúng ta trãi qua cảm giác
khó chịu, có nghĩa là có một điều gì đó sai sót trong công việc mình đang thực hiện.
Vì vậy, trên cơ sở đọc những thông điệp phản ứng của cơ thể và nhận thức được
vấn đề, chúng ta có khả năng hành động phù hợp.
Trí tuệ cảm xúc nói cho con người biết bản chất các mối quan hệ xã hội mà
mình đang có và cách thức kiểm soát được chúng: chúng thông báo cho chúng ta
biết khi mối quan hệ họ đạt đỉnh cao hay bị phá vỡ hoặc trong tình trạng họ cần vun
đắp thêm. Không có dấu hiệu bên ngoài nào báo cho con người biết những người
khác đang suy nghĩ gì. Ngược lại cảm xúc có thể nhận thấy trên khuôn mặt hay và
trong giọng nói của một người, bằng cách đó chúng ta điều chỉnh bản thân người đó
và người khác. Cảm xúc xây dựng chủ đề và các mối quan hệ và trở thành người
sắp xếp mối quan hệ chủ yếu các mối quan hệ. Nỗi buồn thì dành cho sự mất mát,

4
giận dữ khi vỡ mộng hay cảm thấy bất công, sợ hãi thì dành cho sự đe dọa, ganh tị
khi bị chiếm chỗ hay bị phản bội…Mỗi cảm xúc xác định mối quan hệ của mỗi
người với người khác hay với môi trường xung quanh, điều đó định hướng suy nghĩ
của mỗi người.
Trí tuệ cảm xúc làm nổi bật sự thông minh của con người: con người rõ ràng
là thông minh hơn hẳn nhờ vào hoạt động trí tuệ độc lập của họ. Bằng cách nắm bắt
những kiểu mẫu sẵn có nhanh hơn nhiều lần tư duy phân tích thông tin, cảm xúc xử
lý tình huống một cách hợp lý. Cảm xúc không phải đơn thuần là sự phá vỡ hoạt
động sống đang cần điều khiển phía trước. Hơn thế nữa, chúng đang sắp xếp các
tiến trình mà con người phải tham gia. Kết hợp với lí trí, chúng giúp con người
nhanh chóng thích nghi hơn với hoàn cảnh hay thay đổi và bằng cách tạo thuận lợi
cho việc giải quyết các vấn đề mang tính thích ứng cao.
Trí tuệ cảm xúc làm cho cuộc sống thêm màu sắc và có ý nghĩa: Nếu một
người không thể trãi nghiệm cảm xúc thì họ sẽ thiếu định hướng về thế giới và sẽ
không thể biết được cái gì là quan trọng đối với mình. Hơn thế nữa, nó là cách thức
biểu đạt và bộc lộ trạng thái tâm lý của cá nhân cho người khác biết.
Nhờ những chức năng trên làm cho cảm xúc mang tính trí tuệ. Do vậy, mỗi
con người trong xã hội có được thành công hay không là nhờ mối quan hệ tốt đẹp
của mình. Điều này thì lại được quyết định phần lớn bởi mức độ trí tuệ cảm xúc của
mỗi người. Đặc biệt là những giáo viên tương lai có giảng dạy và giáo dục học sinh
tốt hay không ngoài việc được đào tạo tốt phải có một trí tuệ cảm xúc tốt.
3.3. Các yếu tố ảnh hưởng sự hình thành và phát triển trí tuệ cảm xúc
Bàn về các yếu ảnh hưởng đến sự hình thành, phát triển trí tuệ nói chung, trí
tuệ cảm xúc nói riêng có nhiều quan điểm khác nhau. Nhìn chung, các nhà nghiên
cứu thống nhất có ba yếu tố cơ bản là: di truyền, môi trường, hoạt động của cá nhân.
Tuy nhiên, việc đánh giá vai trò và mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố đối với sự
hình thành, phát triển trí tuệ cảm xúc là hoàn toàn khác nhau:
- Các nhà tâm lý phương Tây thường tuyệt đối hóa hoặc đánh giá quá cao vai
trò của yếu tố di truyền: đặc điểm giải phẫu sinh lý, đặc điểm của não bộ và các giác
quan, các gen,… Chủ trương này cho rằng có sự di truyền trí tuệ, sự phát triển và sự
khác biệt trí tuệ của cá nhân đã được quy định bởi yếu tố gen, đã được chương trình

5
hóa trước. Các nhà tâm lý học phương Tây thường đặt con người trong môi trường
rất hạn hẹp, bất biến để xem xét sự phát triển của trí tuệ.
- Các nhà tâm lý học dựa trên triết học duy vật biện chứng thì đánh giá cao vai trò
của yếu tố môi trường, trước hết là giáo dục. Họ cho rằng yếu tố di truyền chỉ là tiền đề,
điều kiện cần của sự phát triển trí tuệ, yếu tố giáo dục- văn hóa là yếu tố quyết định chủ
đạo, còn yếu tố hoạt động tích cực của cá nhân là yếu tố quyết định trực tiếp. [19, 21]
Quá trình hình thành, phát triển trí tuệ chịu sự chi phối của nhiều yếu tố: yếu
tố bẩm sinh di truyền, môi trường tự nhiên và hoàn cảnh xã hội, giáo dục, hoạt động
của cá nhân,… Mỗi yếu tố đều có một vai trò nhất định. Theo chúng tôi, mức ảnh
hưởng của các yếu tố đến sự hình thành và phát triển trí tuệ cảm xúc như sau:
- Di truyền không quyết định trực tiếp đến sự phát triển trí tuệ mà được khúc
xạ và phát động bởi hoạt động của chủ thể. Yếu tố di truyền chỉ là tiền đề, nền tảng
vật chất, là điều kiện cần cho sự hình thành, phát triển trí tuệ cảm xúc. Nếu có được
những đặc điểm di truyền ưu việt về hệ thần kinh, não bộ, các giác quan,… thì sẽ có
nhiều thuận lợi cho sự phát triển trí tuệ sau này và đặt ra trước chủ thể nhiều tiềm
năng khác nhau. Việc khai thác những tiềm năng đó như thế nào còn tùy thuộc vào
chủ thể và hoạt động của chủ thể.
- Môi trường không có mối quan hệ trực tiếp đối với sự phát triển tâm lý,
nhân cách của cá nhân, trong đó có cả trí tuệ cảm xúc. Môi trường là yếu tố quyết
định nhưng quyết định bên ngoài, gián tiếp đến sự phát triển trí tuệ cảm xúc thông
qua hoạt động của cá nhân, như C.Mác từng nói: “Con người tạo ra hoàn ảnh đến
mức nào thì hoàn cảnh cũng tạo ra con người đến mức ấy”. Con người phát triển trí
tuệ của mình chủ yếu bằng hoạt động tương tác tích cực với các điều kiện sống bên
ngoài của môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Môi trường là nguồn gốc cho
sự phát triển nhưng ở dạng tiềm năng và chỉ có ý nghĩa khi có sự tích cực hoạt động
của cá nhân. Trong các yếu tố của môi trường, giáo dục là yếu tố có vai trò chủ đạo,
định hướng quá trình hình thành và phát triển trí tuệ của con người. Giáo dục của
gia đình và nhà trường là hai yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến việc bồi dưỡng, hình
thành và phát triển trí tuệ cảm xúc. Vì thế, gia đình và nhà trường cần phối hợp, tạo
điều kiện tốt nhất để hình thành và phát triển trí tuệ cảm xúc của sinh viên[2].
- Yếu tố chủ thể, trong đó tính tích cực hoạt động của chính cá nhân là yếu tố

6
quyết định trực tiếp sự phát triển trí tuệ cảm xúc của cá nhân đó. Những tiềm năng
trí tuệ của cá nhân có được phát huy hay không là tuỳ thuộc vào tính chất hoạt động
khai thác của cá nhân đó. Trí tuệ cảm xúc cao hay thấp chủ yếu do hoạt động và
giao lưu của cá nhân với môi trường xã hội [2].
3.4. Sự hình thành và phát triển trí tuệ cảm xúc
Các công trình trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng: khác với IQ tồn tại hầu như
không thay đổi trong cả cuộc đời, EQ có biên độ thay đổi lớn hơn, có thể được dạy
từ giáo viên, gia đình và mọi người xung quanh. Điều này có ý nghĩa như Mayer kết
luận: “Trí tuệ cảm xúc tiến triển theo độ tuổi và kinh nghiệm từ thời thơ ấu tới tuổi
trưởng thành”. [9, 382]. Vì thế, trí tuệ cảm xúc có thể được giáo dục.
Nghiên cứu của nhà thần kinh học Mỹ- Joseph LeDoux và một số nhà khoa
học khác đã chỉ ra rằng hai bộ phận của não là hạnh nhân (amygdala) và cá ngựa
(hippocampus) không chỉ là nơi hình thành mà còn là nơi lưu giữ phản ứng cảm
xúc. Vì vậy, khi những trải nghiệm cảm xúc càng nhiều thì những phản ứng cảm
xúc càng được đưa ra một cách có lựa chọn hơn. Những xúc cảm mạnh mẽ của
chúng ta đã xuất hiện từ lúc mới lọt lòng với những tiếng kêu. Tuy nhiên, bộ não
chỉ trưởng thành khi hệ thần kinh phát triển đầy đủ- một quá trình kéo dài cả tuổi
thơ ấu và buổi đầu tuổi thiếu niên thì những xúc cảm của chúng ta mới mang hình
thức hoàn chỉnh. Vì vậy, việc giáo dục trí tuệ cảm xúc theo các nhà nghiên cứu
“không bao giờ là quá sớm cả”. Nếu chúng ta mạng lại cho trẻ một loạt những trải
nghiệm tốt sẽ giúp trẻ có những kỹ năng cần thiết trong cuộc sống. Bác sỹ tâm thần
David Hamburg sau khi đánh giá ưu điểm của các chương trình giáo dục EI cho
rằng: những năm chuyển tiếp sau khi vào trường tiểu học, rồi trường trung học là
hai thời điểm then chốt. Đồng với ý kiến này, Goleman cho rằng: “Những bài học
tâm lý người ta học được thời thơ ấu, ở nhà hay ở trường học, uốn nắn tinh thần của
chúng ta và cho phép chúng ta tìm thấy cơ sở của EI tương đối dễ dàng. Nói cách
khác, tuổi thơ ấu và thiếu niên là những thời kỳ then chốt để rèn luyện thói quen
tâm lý chi phối cuộc sống của chúng ta sau này”.[8, 16]
Theo Goleman, đời sống gia đình ngày càng giúp ít hơn cho trẻ đương đầu
với khó khăn trong cuộc sống, và trường học vẫn là nơi có thể tạo điều kiện dễ dàng
cho sự phát triển trí tuệ cảm xúc của trẻ. Vì lẽ đó, giáo viên có vai trò quan trọng

7
trong sứ mệnh này. Mỗi lần một giáo viên trả lời một học sinh là cơ hội để hàng
chục học sinh trong lớp được dạy bảo. Ngày nay, có rất nhiều chương trình giáo dục
trí tuệ cảm xúc dành cho học sinh ở các lứa tuổi khác nhau: chương trình phát triển
trẻ em do nhà tâm lý học Eric Schaps soạn thảo nhằm tạo năng lực đồng cảm, năng
lực tự thúc đẩy bản thân học tập, chế ngự xung lực của bản thân để học tốt, năng lực
tự đặt mình vào vị trí người khác hay chương trình nâng cao sự thành thạo xã hội do
Roger Weissberg của trường Đại học Illinois ở Chicago xây dựng tiến hành trên
sinh viên,…
Ngoài ra, các nhà tâm lý học còn đưa ra 5 bước luyện tập để nâng cao EQ
dưới sự hướng dẫn của nhà tâm lý:
- Bước 1: Cá nhân phải có nhu cầu thay đổi trí tuệ cảm xúc của mình.
- Bước 2: Cá nhân phải học cách phản ánh thế giới nội tâm của mình.
- Bước 3: Cá nhân phải tự điều khiển xúc cảm của bản thân.
- Bước 4: Cá nhân thực hành thấu cảm.
- Bước 5: Cá nhân phải đánh giá đúng và tôn trọng xúc cảm của người khác
dù xúc cảm ấy khác với những gì mình cảm thấy trong hoàn cảnh tương tự.
Cuộc sống luôn mang đến những cơ hội để chúng ta cải thiện những kỹ năng
cảm xúc. Và sự chín chắn thể hiện quá trình trở nên thông minh hơn trong cảm xúc
và các mối quan hệ của chúng ta[2].

4.Kết luận và kiến nghị

1. Kết luận
A. Về kết quả nghiên cứu lí luận:
Trí tuệ cảm xúc là một hiện tượng tâm lý phức tạp của con người, trí tuệ cảm
xúc được nghiên cứu và đề cập từ rất sớm từ tác phẩm của E.L. Thorndike, ông là
người đầu tiên tìm cách nhận dạng trí tuệ cảm xúc mà lúc đó ông gọi là trí tuệ xã
hội vào cuối những năm 1930.
Trí tuệ cảm xúc theo quan điểm mới chính là sự tương tác của con người với
môi trường sống, đặt biệt là môi trường xã hội. Con người sống trong cộng đồng với
nhiều người khác đòi hỏi phải có sự chú ý đến các quy luật xã hội, có sự thừa nhận
và đánh giá đúng các chuẩn mực xã hội và cũng như sự chuẩn đoán phù hợp về

8
hành động của người khác để từ đó tổ chức, đặt kế hoạch và quyết định về hành
động của mình, đó chính là thành phần của trí tuệ xã hội.
Tuy nhiên hiện tại người nghiên nhấn mạnh đến các mặt biểu hiện sau khi
nói đến trí tuệ cảm xúc:
+Khả năng nhận biết đánh giá và thể hiện cảm xúc của bản thân: Khía cạnh này
bao gồm năng lực nhận thức được các cảm xúc của mình và nhận biết được những
suy nghĩ về các xúc cảm đó khi chúng nảy sinh, nói chung là năng lực nhận biết xúc
cảm, (bạn có phải là người cảm nhận đầy đủ không ?)
+Khả năng nhận biết đánh giá cảm xúc của người khác: khả năng nhận biết
chính xác các xúc cảm của người khác và khả năng thể nghiệm lại được cảm xúc đó
vào bản thân mình. Hai khả năng này đều nói lên năng lực thấu cảm của con người.
Chính sự thấu cảm là một biểu hiện quan trọng của trí tuệ cảm xúc. Sự thấu cảm là
sự lựa chọn để đáp lại những cảm xúc, năng lực này không dừng lại ở mức độ
hưởng ứng các cảm xúc của người khác mà còn là khả năng đáp lại cảm xúc của
bản thân đối với một người nào đó. Sự thấu cảm rất có ích trong việc điều chỉnh
cảm xúc và giúp đỡ con người suy ngẫm về chúng. Do đó để nhận biết được cảm
xúc của người khác, việc trước tiên là phải nhạy cảm. Một khi con người nhận biết
và thừa nhận cảm giác của người khác, họ cũng cần giúp đỡ những người này để
những cảm xúc của những người đó cung cấp thông tin và hướng dẫn họ. [17,36]
Hay nói cách khác đó là năng lực sử dụng xúc cảm trong việc suy luận và giải quyết
vấn đề xảy ra trong cuộc sống xung quanh và công việc của bản thân, không để cảm
xúc của mình bị ảnh hưởng bởi người khác.
+Khả năng điều chỉnh cảm xúc của bản thân và của người khác: năng lực này
liên quan đến sự trãi nghiệm những cảm xúc của bản thân và sự theo dõi, đánh giá,
xử sự để thay đổi, điều hòa cảm xúc của mình và của người khác. [18,177].
Điều chỉnh cảm xúc cũng bao gồm cả những năng lực thay đổi các phản ứng
tương ứng của người khác, ví dụ như khả năng làm dịu đi, vơi bớt đi cơn giận của
người khác, vơi bớt đi sự bực bội của người khác, khả năng làm người khác vui vẻ
hạnh phúc khi họ buồn bã…[18,177]. (bạn là người sống hướng nội hay hướng
ngoại?)
Do vậy, mặt biểu hiện này của trí tuệ cảm xúc đã nói lên khả năng tự điều chỉnh

9
cảm xúc của mỗi cá nhân khi chúng nảy sinh ở bản thân hay ở người khác trong các
mối quan hệ của cá nhân đó, khả năng này tỉ lệ thuận với nỗ lực khắc phục những
cảm xúc tiêu cực của cá nhân. …[18,177].
+Năng lực sử dụng cảm xúc để hành động: con người có thể kìm nén những cơn
bốc đồng để hành động và quả thật cảm xúc có khả năng thiết lập các cách thức
hành động cho con người một khi chúng ta ý thức về nó. Những cảm xúc của con
người có vai trò như là động lực thúc đẩy hoặc kìm hãm hành động, tạo ra sự định
hướng, sự chú ý của cá nhân đối với hành động nào đó…[18,178]. Còn gọi là năng
lực áp dụng các quy luật xúc cảm để hiểu bản thân và hiểu người khác.
B. Về kết quả nghiên cứu thực tiễn:
Khảo sát trí tuệ cảm xúc của sinh viên sư phạm là khảo sát:
+ Năng lực nhận biết xúc cảm.
+ Năng lực sử dụng xúc cảm trong việc suy luận và giải quyết vấn đề xảy ra
trong cuộc sống xung quanh và công việc của bản thân, không để cảm xúc của mình
bị ảnh hưởng bởi người khác.
+ Năng lực hiểu biết xúc cảm, điều khiển, quản lý xúc cảm của bản thân để hiểu
bản thân và hiểu người khác.
*Kết quả thu được từ trắc nghiệm MSCEIT:
Hầu hết sinh viên ngành sư phạm trường Đại học Thủ Dầu Một có EQ ở mức
độ trung bình 40% và mức cao 39%, điều này phù hợp với giả thuyết khoa học đã
nêu ban đầu. (Hầu hết sinh viên sinh viên thuộc khối sư phạm được nghiên cứu
có trí tuệ cảm xúc biểu hiện ở mức độ trung bình nếu nhà giáo dục có biện
pháp tác động sư phạm phù hợp thì trí tuệ cảm xúc của các em sẽ được nâng
cao hơn), điều phát hiện đáng mừng là trí tuệ cảm xúc của sinh viên sư phạm là
39% sinh viên được nghiên cứu có trí tuệ cảm xúc ở mức cao. Như vậy gần 80%
sinh viên sư phạm nếu được quan tâm rèn luyện, giáo dục để nâng cao trí tuệ cảm
xúc thì mức độ trí tuệ cảm xúc của các em sẽ được nâng lên ở mức cao và rất cao
trong thời gian tới.
Đa số các em sinh viên nam và nữ ngành sư phạm đều có mức EQ cao, tuy
nhiên các em sinh viên nam có mức EQ cao hơn sinh viên nữ (47,1% > 41,2%), về
mức EQ thấp: đa số các em nữ sinh viên có mức EQ thấp cao hơn các em nam sinh

10
viên (26,5 %> 17,6%). Về kết quả kiểm nghiệm Chi-quare cho thấy có sự khác biệt
rõ rệt ý nghĩa giữa mức EQ nam va nữ sinh viên (Sig. =.035 và .042)<.05. Điều này
cho thấy giới tính có ảnh hưởng rõ rệt đến mức độ EQ, trong nghiên cứu này mức
EQ của sinh viên nam cao hơn sinh viên nữ. Theo Goleman, nam giới sẽ tự tin lạc
quan, bản lĩnh và dễ dàng thích nghi chấp nhận sự thay đổi hơn nữ giới còn nữ giới
thì khả năng bày tỏ cảm xúc hiểu cảm xúc rõ hơn nam giới. Đa số sinh viên nam và
nữ có mức EQ cao, mức EQ của sinh viên nam cao hơn sinh viên nữ, có sự khác
biệt về giới tính đối với chỉ số EQ.
Sinh viên sư phạm khoa ngoại ngữ có mức EQ cao nhất 112,94; các em sinh
viên này có nhiều cơ hội học tập những phương pháp mới thuộc chuyên ngành có
nhiều cơ hội tiếp xúc với các thầy cô người nước ngoài để mở rộng khả năng giao
tiếp, các em trở nên năng động linh hoạt hơn khi được tiếp thu những nét văn hóa
khác nhau từ nội dung tri thức bài học, từ các môn về khoa học xã hội …kế đến là
sinh viên sư phạm thuộc khoa KHXH &NV mức EQ là (105,13) các em sinh
viên này học các môn chủ yếu là về khoa học xã hội và nhân văn cho nên các em có
điều kiện lĩnh hội những tri thức về con người, về các ứng xử, các giá trị đạo đức
thẩm mỹ, các chuẩn mực xã hội…đây là điều kiện thuận lợi để hình thành trí tuệ
cảm xúc cho sinh viên. Mức EQ thấp nhất thuộc về sinh viên khoa KHGD, có lẻ các
em sinh viên này chưa có nhận thức về tầm trọng của EQ trong cuộc sống và trong
nghề nghiệp sau này, các em cần được quan tâm hơn, cần được học tập và bổ sung
kiến thức về trí tuệ cảm xúc, các em sinh viên cần được nghe chuyên gia tâm lý sẽ
trình bày các vấn đề về trí tuệ cảm xúc.
Sinh viên năm thứ 2 có mức EQ thấp hơn nhiều so với sinh viên năm thứ 3, điều
này cũng dễ dàng lý giải vì sinh viên năm thứ 3 trãi qua thời gian đào tạo ở trường,
tuổi đời và kinh nghiệm sống, sự từng trãi cũng ảnh hưởng đến EQ. Thực tế cho
thấy có rất nhiều yếu tố tham gia vào sự hình thành và phát triển EQ, nhưng phần
lớn phụ thuộc vào tính tích cực hoạt động, ý thức tự rèn luyện của cá nhân trong các
hoạt động sống, kinh nghiệm từng trãi của cá nhân, kiến thức mà cá nhân tích lũy
được trong hoạt động học tập của mình…

11
*Kết quả thu được từ trắc nghiệm trí tuệ cảm xúc SSEIT( Seft Scoring EI
Tests):
Khả năng nhận biết và thấu hiểu các cảm xúc của bản thân ở các sinh viên sư
phạm chủ yếu ở mức độ trung bình, mức độ cao và mức độ trung bình xấp xỉ nhau,
mức độ thấp chiếm tỉ lệ rất nhỏ. (Bảng 7)
Hầu hết sinh viên biết phản ứng một cách độc lập với các cảm xúc của bản
thân, những phản ứng này mang tính trí tuệ dẫn đến những hành động phù hợp
trong tình huống khó khăn. (Bảng 9)
Qua kết quả bảng 11 cho thấy chỉ có 26 sinh viên (10,8%) có biểu hiện cách
sống hướng ngoại ở mức độ cao. Ở mức độ này, các em sinh viên có khả năng
khẳng định, định hướng cho những phản ứng của mình một cách tự tin và quả quyết
trong bất kỳ trường hợp nào, đó là những em sinh viên rất năng động nhiệt tình vả
linh hoạt ứng xử trong học tập và trong cuộc sống.
Ở mức độ II biểu hiện lối sống nội tâm hướng nội hướng ngoại ở mức trung
bình có 153 sinh viên chiếm tỉ lệ 63,8%. Theo đánh giá của tiểu test này thì các em
có biểu hiện kiểu sống hướng ngoại ở mức độ trung bình thường các em mang tính
rụt rè và không tự tin vào chính mình. Điều này rất bất lợi cho các em trong công
tác thực tập, giảng dạy và giáo dục học sinh sau này và các em cũng rất khó khăn
khi có những phản ứng xúc cảm mang tính trí tuệ.
Ở mức độ III mức độ thấp có 61 sinh viên chiếm tỉ lệ 25,4% , các em được
đánh giá là những người sống rất nội tâm, biết dung hòa giữa ý thức bản thân và sự
suy xét quả quyết. Tuy nhiên, cũng có lúc các em lại thận trọng để khắc phục những
xúc cảm chồng chéo lên nhau khi tự mình nhìn lại mình và tự xem xét nội tâm của
mình.
Qua kết quả phỏng vấn cho thấy hầu hết sinh viên đều biết vận dụng trí tuệ
cảm xúc vào quá trình tiếp xúc tìm hiểu học sinh và có những phản ứng phù hợp với
tâm lý của học sinh, tuy nhiên còn một phần nhỏ sinh viên sư phạm chưa ý thức
được tầm quan trọng của trí tuệ cảm xúc và chưa có cách ứng xử phù hợp.

2. Biện pháp (kiến nghị)


Qua khảo sát mức độ trí tuệ cảm xúc của sinh viên sư phạm trường đại học Thủ
Dầu Một, chúng tôi đưa ra những kiến nghị sau:

12
+Về phía những người có ảnh hưởng đến sinh viên trong phạm vi nhà
trường:
-Giảng viên phải là những người thành thục trong chuyên môn (việc giảng dạy
phải được chuyên môn hóa), tránh việc giảng dạy không phù hợp với chuyên môn,
giảng viên luôn cập nhật thông tin tri thức chuyên ngành, liên ngành.
-Giảng viên phải ý thức được việc rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp mà đặc biệt là
kỹ năng sư phạm cho sinh viên ngành sư phạm là vô cùng quan trọng, phải được
tiến hành thường xuyên và đồng bộ ở tất cả các môn học các chuyên ngành ở các
khoa có đào tạo sư phạm như: khoa khoa học giáo dục, khoa khoa học tự nhiên,
khoa khoa học xã hội và nhân văn, khoa ngoại ngữ, khoa công nghệ thông tin.
-Phải tự tin, linh hoạt, sáng tạo, nhiệt tình trong cách giải quyết vấn đề, đặc biệt
là những vấn đề liên quan đến sinh viên, sinh viên sư phạm.
-Phải cởi mở, xử sự thông thoáng, không ích kỷ hẹp hòi, sẵn sàng cho phép và
động viên sinh viên mình giao tiếp tiếp xúc làm việc phối hợp với bạn bè, làm việc
trong nhóm, hoặc làm việc với giảng viên khác, sẵn lòng lắng nghe và đáp lại những
câu trả lời và câu hỏi của sinh viên một cách chân thành.
-Vui lòng làm việc với sinh viên cá biệt.
-Thông cảm với những cá tính, thậm chí đôi khi có những lập dị của sinh viên
không thành kiến hay trách phạt những em đó.
-Khích lệ sinh viên đặt câu hỏi cũng như những thắc mắc.
-Có kỹ năng lắng nghe và đáp lại câu trả lời.
-Có kỹ năng tổ chức các cuộc thảo luận nhóm.
- Có kỹ năng làm cho sinh viên tin yêu, cảm phục mình như là một tấm gương.
-Luôn động viên sinh viên cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ.
+Về phía sinh viên sư phạm:
-Sinh viên sư phạm phải luôn luôn có mong muốn nâng cao mức độ trí tuệ cảm
xúc của mình để hoàn thành tốt nhiệm vụ giảng dạy và giáo dục học sinh.
-Sinh viên cần phải ý thức được rằng sự phát triển trí tuệ cảm xúc không chỉ
diễn ra trong học tập trong phạm vi nhà trường mà còn thông qua các hoạt động
tương tác với người khác. Do đó, bên cạnh việc nỗ lực tích cực học tập, đọc nhiều
sách, tài liệu tham khảo, sinh viên cần phải tích cực tham gia các hoạt động mang

13
tính tập thể, xây dựng các mối quan hệ tình cảm tập thể, trãi nghiệm và tích lũy kinh
nghiệm xã hội thông qua các hoạt động ngoài giờ học, các hoạt động bên ngoài xã
hội.
+Về phía các cấp quản lí:
-Cần đưa nội dung bồi dưỡng, hướng dẫn sinh viên sư phạm rèn luyện nâng cao
mức độ biểu hiện trí tuệ cảm xúc trong chương trình rèn luyện kỹ năng nghiệp vụ sư
phạm.
-Cần hướng dẫn sinh viên sư phạm rèn luyện nâng cao trí tuệ cảm xúc theo 05
bước đã dự kiến: 5 bước cụ thể để nâng cao EQ. Các bước như sau:
Bước 1: Cá nhân phải nhận thức được tầm quan trọng của trí tuệ cảm xúc và
có nhu cầu thay đổi trí tuệ cảm xúc của bản thân: sinh viên sư phạm tự bản thân
mình phải hình thành cho mình nhu cầu nâng cao khả năng biểu hiện trí tuệ cảm xúc,
đây là quyết định quan trọng nhằm xác định động cơ thay đổi bản thân mà xuất hiện
những động lực thôi thúc cá nhân cố gắng, nỗ lực hành động nâng cao trí tuệ cảm
xúc của bản thân mình.
Bước 2: Cá nhân học cách phản ánh những điều xảy ra trong nội tâm của
bản thân. Trong bước này sinh viên sư phạm phải học được cách phản ánh, các
sinh viên sư phạm sẽ không có được khả năng biểu hiện trí tuệ cảm xúc cao nếu
như không biết cách phản ánh những điều đang xảy ra trong nội tâm của mình,
nói cách khác khi không hiểu được mình sẽ không hiểu được người khác. Đây
chính là giai đoạn các sinh viên sư phạm nâng cao khả năng nhận biết và thấu
hiểu các cảm xúc của bản thân mình.
Bước 3: Cá nhân phải tự điều khiển được cảm xúc của bản thân. Giai đoạn
này sinh viên sư phạm phải tập luyện việc tự điều khiển các cảm xúc của bản thân,
điều này rất có ý nghĩa đối với các sinh viên sư phạm vì các em cần phải có những
phản ứng cảm xúc phù hợp và mang tính sư phạm cao đối với các hành vi ứng xử
của học sinh.
Bước 4: Cá nhân thực hành thấu cảm, các sinh viên sư phạm phải được bồi
dưỡng và thực hành những kỹ năng lắng nghe chủ động, giai đoạn này hình thành
cho các em sinh viên khả năng tách được những thông báo của học sinh ra khỏi
những cảm xúc của học sinh về những điều học sinh muốn nói hoặc muốn thể hiện.

14
Bước 5: Cá nhân phải đánh giá đúng và tôn trọng cảm xúc của người khác
cho dù các cảm xúc ấy có khác với những gì mình cảm thấy trong hoàn cảnh tương
tự. Điều này có nghĩa là các sinh viên sư phạm cần phải biết tôn trọng các cảm xúc
khác nhau của học sinh và của người xung quanh cho dù cảm xúc ấy khác với
những gì sinh viên sư phạm cảm thấy trong hoàn cảnh tương tự.
-Cần sử dụng chỉ số về trí tuệ cảm xúc như là một trong những chỉ số để
tuyển chọn sinh viên vào học ngành sư phạm, nhà trường cần quan tâm đến loại chỉ
số này để có kế hoạch lồng ghép rèn luyện giáo dục hình thành cho sinh viên sư
phạm về trí tuệ cảm xúc.
-Các nhà tâm lý học giáo dục học cần sớm quan tâm đến việc xây dựng một
chương trình giáo dục trí tuệ cảm xúc cho học sinh từ bậc mầm non đến học sinh
trung học phổ thông để sớm nâng cao năng lực trí tuệ này cho các em nhằm góp
phần hoàn thiện nhân cách cho con người.
-Các trường đại học, cao đẳng cần nhấn mạnh đào tạo về các kỹ năng nghề
nghiệp, trong đó có kỹ năng cảm xúc, cần quan tâm nhiều đến trí tuệ cảm xúc của
sinh viên đặc biệt là sinh viên ngành sư phạm, trên cơ sở đó cần xây dựng nội dung,
phương pháp giáo dục tạo điều kiện cho người học biết cách tự học, tự làm việc và
hòa nhập vào xã hội vào cộng đồng, điều này rất quan trọng trong việc giáo dục
phát triển nhân cách toàn diện cho người học.
-Nhà trường cần tăng cường tổ chức các hoạt động tập thể cũng như các lớp
học về kỹ năng sống cho sinh viên trong đó có sinh viên sư phạm để sinh viên có
thể tự tin, chủ động trong giao tiếp và rèn luyện những kỹ năng cần thiết trong hoạt
động tương tác.
Trí tuệ cảm xúc là một dạng trí tuệ có biểu hiện rất đa dạng, phong phú theo
sự thích ứng của con người với các yêu cầu của xã hội và cuộc sống. Vì thế các biểu
hiện của trí tuệ cảm xúc có tính ổn định tương đối không bất biến. Dó đó cần phải
nghiên cứu thường xuyên và với quy mô lớn hơn.
Trí tuệ cảm xúc là vấn đề còn rất mới mẻ, nên chúng tôi không thể tránh khỏi
những thiếu sót chúng tôi rất mong được sự góp ý của các chuyên gia để chúng tôi
có những công trình nghiên cứu sâu hơn, rộng hơn và toàn diện hơn.

15
5. Danh mục tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Thị Minh Anh (2006), Tìm hiểu về trí tuệ cảm xúc, Tạp chí GD số
145.
2. Nguyễn Thị Tuấn Anh (2008) Trí tuệ cảm xúc của sinh viên trường CĐSP
Bình Dương, trường ĐHSP Hà Nội.
3. Nguyễn Thị Dung (2002), Bước đầu tìm hiểu trí tuệ cảm xúc và thử đo đạc
loại trí tuệ này của giáo viên tiểu học. Luận văn thạc sĩ tâm lý, Viện khoa học
giáo dục.
4. Nguyễn Thị Dung (2008), trí tuệ cảm xúc với công tác giáo viên chủ nhiệm
lớp ở trường THCS và con đường nâng cao loại trí tuệ này. Luận án tiến sĩ
tâm lý học, Viện khoa học giáo dục.
5. Vũ Dũng (chủ biên) (2000), từ điển tâm lý học, NXB Khoa học xã hội Hà
Nội.
6. Daniel Goleman (2007), trí tuệ cảm xúc-làm thế nào để biến cảm xúc thành
trí tuệ, NXB Khoa học lao động-xã hội Hà Nội.
7. Daniel Goleman (2007), trí tuệ cảm xúc ứng dụng trong công việc, NXB Tri
thức.
8. Haward Gardner (2007), Cơ cấu trí khôn-lý thuyết về nhiều dạng trí khôn
(bản dịch của Phạm Toàn), NXBGD
9. Phạm Minh Hạc (2001), Về phát triển con người trong thời đại công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, NXB Chính trị quốc gia.
10. Nguyễn Thị Hiền (2007), Ảnh hưởng của trí tuệ cảm xúc với việc hình thành
kỹ năng làm công tác chủ nhiệm lớp của sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm
Hà Tây, Luận văn thạc sĩ, trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
11. Lê Văn Hồng (chủ biên) (1998), Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm,
NXB Giáo dục.
12. Trần Kiều (chủ biên) (2005), Trí tuệ và đo lường trí tuệ, NXB Chính trị
quốc gia Hà Nội.
13. Lê Ngọc Lan (2003), Nguồn lực trí tuệ, NXB Chính trị quốc gia TP HCM.
14. Nguyễn Hồi Loan (2007), Trí tuệ cảm xúc của sinh viên các lớp chất lượng
cao thuộc Đại học quốc gia Hà Nội thực trạng và giải pháp, Trường Đại học

16
KHXH & NV Hà Nội.
15. Phan Trọng Nam (2006), Mức độ trí thông minh và trí tuệ cảm xúc của sinh
viên trường Đại học sư phạm Đồng Tháp, luận văn thạc sĩ, Trường Đại học
Huế.
16. Đỗ Thị Nga (2008) Khảo sát trí tuệ cảm xúc của sinh viên sư phạm mầm non,
Trường CĐSP Bình Phước.
17. Phan Trọng Ngọ (chủ biên) (2001) Tâm lý học trí tuệ, NXB Đại học Quốc
gia Hà Nội.
18. Lê Đức Phúc (2002), Bàn về chỉ số trí tuệ, Thông tin khoa học giáo dục.
19. Huỳnh Văn Sơn (2004), Nghiên cứu mức độ trí tuệ của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi,
Luận án tiến sỹ, Viện chiến lược và chương trình giáo dục.
20. Nguyễn Thạc (chủ biên) (2007) Sư phạm Đại học, NXB Đại học sư phạm.
21. Trần Trọng Thủy (1992), Khoa học chuẩn đoán tâm lý, NXB GD Hà Nội.
22. Dương Thiệu Tống (1995), trắc nghiệm và đo lường thành quả học tập,
trường Đại học tổng hợp TP HCM.
23. Nguyễn Huy Tú (2000), Trí tuệ cảm xúc –bản chất và phương pháp chẩn
đoán, Tạp chí tâm lý học số 6.
24. Nguyễn Huy Tú (2001), chỉ số trí tuệ cảm xúc cao-một tiền đề thành công
của nhà doanh nghiệp, nhà quản lý, Tạp chí tâm lý học số 1.
25. Nguyễn Huy Tú (2004), Tài năng quan niệm và đào tạo, NXB GD.
26. Nguyễn Quang Uẩn (2004), Thử đo đạc chỉ số trí tuệ cảm xúc ở sinh viên sư
phạm, Tạp chí Tâm lý học số 11.
27. Nguyễn Khắc Viện (1991), Từ điển tâm lý học, NXB Đại học Quốc gia Hà
Nội.
28. Dương Thị Hoàng Yến (2007), Giáo dục trí tuệ cảm xúc –nội dung quan
trọng và cần thiết trong giáo dục ở nhà trường phổ thông, Tạp chí tâm lý học
số 8.
29. Dương Thị Hoàng Yến (2010), Trí tuệ cảm xúc của giáo viên tiểu học, Luận
án tiến sỹ tâm lý học, Viện Tâm lý học-Viện KHXH VN.
30. Trang web: www.wikipedia.org
31. Trang web: www.emotional

17
32. Trang web: www.intelligence

TIẾNG ANH

33. Ciarrochi Joseph, Forgas P.Joseph, Mayer D.John (EDS) (2006), Emotional
Intelligence in Everyday, 2nd Edition, Psychology Press, New York.
34. Peter Salovey&David J.Sluyter (1997), Emotional Development and
Emotional Intelligence, Basic Book, New York.
35. Lin V.Wesley (2006) (Edition), Intelligence research, Nova Science
Publishers, Inc, New York.
36. Robert K.Scooper, Ph.D & Ayman Sawaf, (2009) Emotional Intelligence in
Leadership and Organizations, The Berkley Publish Group, New York
37. Schulze Ralf, Roberts D.Richard EDS (2005) Emotional Intelligence, An
International Handbook, Hogrefe & Huber Publishers, Germany.
38. Steven J.Stein, Ph.D and Howard E.Book, MD (2006), Emotional
Intelligence and your Success, Canada.

6.Phụ lục

7. Xác nhận thực hiện chuyên đề


7.1. Người chủ trì thực hiện chuyên đề Người phối hợp thực hiện chuyên đề

Đỗ Thị Nga Hoàng Hữu Miến

7.2. Ký xác nhận báo cáo chuyên đề của đơn vị chủ trì đề tài
Trưởng khoa

Trương Văn Ân

18
19

You might also like