Professional Documents
Culture Documents
TRIỀU NGUYỄN
Tác giả : NGUYỄN-THẾ-ANH
Nhà xuất bản : LỬA THIÊNG
Năm xuất bản : 1971
------------------------
Nguồn sách : tusachtiengviet.com
ánh máy : laithuylinh, kd1995, bhp, thuantran46,
Khongtennao, ThuongNguyen
Kiểm tra chính tả : Mai Trâm Trần, Tào Thanh Huyền, Phan
Anh Quốc, Nguyễn Ngọc Thanh, Nguyễn ăng Khoa, Lê Thị
Phương Hiền, Trần Ngô Thế Nhân, Ngô Thanh Tùng, Nguyễn
Văn Huy
Biên tập ebook : Thư Võ
Ngày hoàn thành : 22/12/2019
Ebook này đư c thực hiện theo dự án phi l i nhuận
« SỐ HÓA 1000 QUY N SÁCH VIỆT MỘT THỜI VANG
BÓNG » của diễn đàn TVE-4U.ORG
Cảm ơn tác giả NGUYỄN-THẾ-ANH và nhà xuất bản
L A THIÊNG đã chia s với bạn đ c nh ng kiến thức
quý giá.
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
CHƯƠNG I : DÂN-CƯ VIỆT-NAM DƯ I CÁC VUA
NHÀ NGUYỄN
I. DÂN SỐ
II. CÁC SỰ BIẾN-THIÊN NHÂN-KHẨU VÀ CÁC HÌNH-THỨC
QUẦN-TỤ
III. HOA KIỀU Ở VIỆT-NAM VÀO THẾ-K XIX
CHƯƠNG II : TỔ-CHỨC XÃ-HỘI : GI I SĨ-PHU
PHỤ-TRƯƠNG : DỤ CỦA VUA TỰ- ỨC, K -DẬU (1849)
NGÀY 2 THÁNG 6
a) Trích trong « Công-thần Lục, Công-thần ời Gia-
Long »
b) Vài oạn trong bài « Khiêm cung k » của Tự- ức
CHƯƠNG III : NÔNG-DÂN VÀ CÁC HOẠT-ĐỘNG NÔNG-
NGHIỆP
I. CHẾ- Ộ IỀN-THỔ
a) Công- iền và công-thổ
b) Tư- iền tư-thổ
II. CÁC HOẠT- ỘNG NÔNG-NGHIỆP
III. THỰC-TRẠNG CỦA NÔNG-DÂN VÀ CÁC BIỆN-PHÁP
CỦA CHÍNH-PHỦ Ể CỨU NẠN
IV. CHÍNH-SÁCH KHAI-HOANG CỦA CHÍNH-PHỦ
a) Chủ trương ể cho tư nhân tự do tổ chức việc khai-
hoang
b) Chủ-trương ể cho làng xã tổ-chức việc khai hoang
c) Chính-sách thiết-lập ồn iền và dinh iền
Í Ố Ề Í Ê
PHỤ TRƯƠNG : TRÍCH TRONG QUỐC-TRIỀU CHÍNH-BIÊN
TOÁT-YẾU
a) Cứu Chẩn
b) Khẩn hoang
CHƯƠNG IV : CÁC HOẠT-ĐỘNG CÔNG-NGHỆ
I. TỔ-CHỨC CÔNG-NGHỆ
II. NGÀNH KHAI MỎ
a) Thương nhân ngoại quốc lĩnh trưng
b) Thổ-tù các giống dân thiểu số lĩnh trưng
c) Chủ mỏ người Việt lĩnh trưng
d) Nhân-dân ịa-phương tự khai thác mỏ và nộp thuế
theo ầu người
e) Chính-phủ ứng ra tổ-chức các công-trường khai mỏ
g) Các sự cản trở ối với ngành khai mỏ
III. THỰC-TRẠNG CỦA GIỚI TH THUYỀN
PHỤ TRƯƠNG : ẠI-NAM THỰC-LỤC CHÍNH-BIÊN
a) Thuế mỏ sắt
b) Các loại sắt
CHƯƠNG V : CÁC HOẠT-ĐỘNG THƯƠNG MẠI
I. CÁC HOẠT- ỘNG CỦA NGÀNH NỘI THƯƠNG
a) Hệ-thống giao-thông
b) Các trung-tâm buôn bán
c) Các hoạt- ộng thương-mại
II. NỀN NGOẠI THƯƠNG
a) Sự quản-chế ngành thương mại quốc tế
b) Thái- ộ của chính-phủ ối với các nhà buôn Tây-
phương
c) ịa-vị của thương-gia Hoa-kiều trong nền ngoại
thương
PHỤ-TRƯƠNG : CÁC LOẠI HÀNG-HÓA XUẤT CẢNG VÀ
NHẬP CẢNG TRONG TIỀN BÁN THẾ-K XIX
a) Xuất cảng
b) Nhập cảng
CHƯƠNG VI : CÁC VẤN-ĐỀ XÃ-HỘI VÀ CÁC ĐỀ-NGHỊ
CẢI-CÁCH
I. CÁC CUỘC NỔI LOẠN CỦA NÔNG-DÂN VÀ TÌNH-TRẠNG
LOẠN LẠC
II. THÁI- Ộ CỦA CHÍNH-PHỦ ỐI VỚI DÂN CÔNG GIÁO
III. CÁC Ề NGHỊ CẢI CÁCH
a) ề-nghị về chính-sách ngoại-giao
b) ề-nghị cải cách quân-sự
c) ề-nghị khuếch-trương kinh-tế và tài-chính
d) ề-nghị cải cách nền học-chính
e) ề-nghị cải cách hành-chánh và xã-hội
PHỤ BẢN
THƯ-MỤC TỔNG-QUÁT
a) Tài liệu tham khảo
b) Thư tịch
c) Tác-phẩm tổng-quát
d) Những chữ viết tắt
NGUYỄN-THẾ-ANH
THẠC-SĨ S -H C
Trưởng-Ban Sử-Học
ại-Học Văn-Khoa Saigon
c
iểm của xã-hội Việt-Nam trong thế-k XIX là một
xã-hội tiền tư-bản, căn-cứ trên một nền kinh-tế nông-
nghiệp v n còn ở trong giai- oạn kinh-tế thực-sinh, trong
khung-cảnh của thôn xã. Chính-phủ cố gắng duy-trì cho tất
cả mọi tầng lớp xã-hội một tình-trạng vật-chất dung-phàm,
phù-hợp với truyền-thống của ạo Khổng. Sản-phẩm của
nông-nghiệp ược tiêu-thụ ngay tại ch ; hầu hết toàn-thể
dân-chúng là nông-dân sống trong làng xã, ngoại trừ một
thiểu-số nhỏ bé sinh sống với những hoạt- ộng thương-mãi
hay thủ-công. Tuy nhiên, trên l thuyết, xã hội ược phân
chia thành bốn giới người là sĩ, nông, công, thương ; trong
tổ-chức này, giới sĩ-phu lập nên giai-cấp lãnh- ạo, vì các
phần-tử của giới này gia-nhập ngạch quan-lại và nắm
những chức-vụ công quyền.
Thấy rằng xã-hội này có những c- iểm tương tự với
các xã-hội Âu-châu thời Trung-cổ, các sử-gia áp-dụng duy-
vật biện-chứng-pháp ã gọi tổ-chức xã-hội Việt-Nam dưới
triều Nguyễn là một tổ-chức phong kiến. Lương- ức-Thiệp
53
viết rằng :
« Trong xã-h i nông-nghiệp, đ ng-cấp th ng-tr là đ a-
ch phong-ki n và quan-liêu qui-t quanh m t vương tri u
d a trên quân-đ i và lu t-pháp đ bảo-vệ uy-quy n ; đ ng-
cấp b tr là đ i đa-s dân-chúng nông-dân với m t thi u-s
thương nhân và th công ».
Thật ra, sự phân-biệt thành bốn giới người là một sự
phân chia căn cứ trên nghề-nghiệp chứ không dựa trên của
cải, và nó không ược qui- ịnh rõ-ràng. Trái lại, nó còn là
một sự phân chia rất linh- ộng : các giới này không lập nên
những ngăn óng ch t, mà v n tương thông với nhau ; một
cá-nhân có thể nay ở giới này, ngày mai bước sang giới
khác. Có câu tục-ngữ nói là : « Ai gi u ba h , ai khó ba
đời ». vì thế, ông Phan Khoang ã có thể gọi 4 giới ấy là
những lưu ph m, chứ không coi chúng như là những giai-
54
cấp thật-thụ . Chính Lương- ức-Thiệp cũng nhìn nhận
rằng :
« Người thường dân do các cu c thi c l a ch n hay do
tài-năng l i l c c a mình cũng có th gia-nh p vào đ ng-
cấp th ng-tr khi đã chi m đư c m t đ a-v trong các ng ch
quan l i c a tri u đình ».
ể bổ quan, triều- ình lấy khoa-mục làm thước ể kén
55
chọn nhân tài . Song những người khoa-bảng và sĩ-tử
cũng là con nhà nông-dân, trong dân-chúng mà ra. Bất k
thuộc tầng lớp nào, ai có học và thi thì ược tham-dự
việc nước, chứ không bắt buộc phải có iều-kiện gì khác.
Quan-niệm « hi n giả t i v , năng giả t i ch c » khuyến-
khích nho-học, khiến triều ình mở các khoa thi ại- iển,
hoan-nghênh các nho-sĩ có tài-năng vào chính quyền.
Những k thi ở các khoa thi là thanh-niên tri-thức ưu-tú
hơn cả trong dân gian, ược lựa chọn từ khắp nơi. Chế- ộ
khoa cử không nhất thiết chỉ tuyển những con cháu nhà
quan và nhà giầu, vì không phải chỉ có con nhà quan, nhà
giầu mới có quyền i học và i thi.
Ngạch quan lại ược chia làm hai ngành, văn và võ. Kể
từ thời Minh-Mạng, ược xác- ịnh rõ rệt giai-chế phẩm-trật,
m i ngành i từ cửu phẩm lên tới nhất phẩm và m i phẩm
56
lại còn chia ra chánh và tòng hai bậc . Trừ trong các giai-
oạn loạn-lạc, các quan võ thường nhường bước trước các
quan văn. Nhưng thật ra, không có một sự phân-biệt rõ rệt
giữa quyền-hành dân-sự và quân-sự, mà sự kiêm-nhiệm
các chức-vụ lại là một thông lệ : quan tổng- ốc vừa cai trị
tỉnh, vừa iều-khiển quân lính của tỉnh-hạt. Các quan-viên
không lập nên một giai cấp theo úng nghĩa của nó : các
khoa thi mở ường công-danh cho tất cả mọi người ; quan-
viên từ dân-chúng xuất-thân ra và con cháu họ lại trở về với
dân-chúng nếu họ không thể nổi lên bằng tài cán riêng của
họ ược.
57
Lương bổng của các quan tương- ối ít ỏi . Tình trạng
này xuất-phát từ hai nguyên-nhân :
- Nhà nho ược gọi i làm quan là nhờ ở tài năng và
ức- ộ của mình ; vì thế, ông quan phải sống thanh ạm
trong khi làm việc công, không ược màng tới của cải.
- Chính-phủ không ủ lợi-tức ể trả lương cao cho các
quan.
Nhưng quan-viên ược hưởng nhiều quyền-lợi. Theo lệ
58
quan-viên-phủ, qui- ịnh bởi Vua Tự- ức năm 1851 , cha
các quan văn từ lục-phẩm, võ từ ngũ-phẩm trở lên, ược
tha khỏi i lính, làm sưu và ược miễn các hạng thuế ; cha
các quan văn thất-phẩm và võ lục phẩm cũng ược tha khỏi
i lính và làm sưu, nhưng phải nạp thuế như dân tráng.
ối với con quan, các nghị những năm Gia-Long 18 và
Minh-Mạng 21 ịnh lệ b ấm, nghĩa là cho các quan-viên-tử
chiếu phẩm-hàm của cha mà tập ấm ; lệ này ược nhắc lại
năm 1865. Chiểu theo lệ này, trong gia- ình các quan ã
quá cố, văn từ tùng tam phẩm, võ từ tùng nhị phẩm trở lên,
59
một người con ược ấm-th theo thể-lệ như sau :
- Nếu cha làm quan có công, quan chánh nhất phẩm,
con ược ấm-thụ chánh lục-phẩm ; quan tùng nhất phẩm,
con ược ấm-thụ tùng lục-phẩm ; quan chánh nhị phẩm,
con ược ấm-thụ chánh thất phẩm ; quan tùng nhị phẩm,
con ược ấm-thụ tùng thất phẩm ; quan chánh tam phẩm,
con ược ấm-thụ tùng bát phẩm ; quan tùng tam phẩm,
con ược ấm-thụ chánh cửu phẩm.
- ối với các quan không có công, ấm-thụ phải kém một
trật.
Ngoài ra, con các quan từ ngũ-phẩm trở lên ược mang
danh-hiệu ấm-sinh : ến 30 tuổi, các ấm-sinh ược phép dự
k hạch-khiêu, tổ-chức bởi Bộ Lễ trong các năm thìn, tuất,
sửu và mùi. Những người trúng tuyển k sát hạch này ược
bổ chức Hậu-bổ, với phẩm hàm từ tùng cửu phẩm ến tùng
bát phẩm, theo thứ hạng. Tuy nhiên, lệ năm ầu Vua Tự-
ức ịnh rằng các ấm-sinh dù có làm ủ văn-bài lúc sát-
hạch, mà sức học ngày thường kém cỏi và vần bài quá dốt
60
nát, thì cũng phải sa thải.
Sau hết, năm 1854, Vua Tự- ức quyết- ịnh cho con các
quan văn vũ sau khi chết mà ược truy t ng gia hàm, ược
quyền vào học ở Quốc-Tử-Giám với một học-bổng. Song ta
cũng không nên quên là trường này cũng nhận những học-
trò giỏi từ các tỉnh ến, xuất thân từ nông-dân.
Tuy nhiên, không có một giai-cấp quí-tộc có c quyền
nào xen vào giữa nhà Vua và dân-chúng. Nếu có thể nói tới
một giới quí-tộc, thì giới này không lập nên một oàn-thể
óng kín, mà luôn luôn ược ổi mới với những phần-tử
mới ; thêm nữa, các danh-tước của giới quí-tộc này không
ược di-truyền một cách tự- ộng. ể tưởng thưởng các
công-thần và các phần-tử của hoàng-gia, triều Nguyễn
phong những tước : Vương, Công, Hầu, Bá, Tử, Nam.
Nhưng các tước này, khi ược truyền cho con cháu, cứ m i
thế-hệ lại giảm i một bực, và với iều kiện là người thừa
hưởng tước ấy phải xứng- áng và m i lần phải ược nhà
61
Vua ban cho một sắc-chỉ tập tước mới . Hậu tự thứ năm
của một Công không còn tước nữa, mà chỉ còn ược gọi là
nhiêu ấm và ược miễn thuế ; những quyền-lợi ấy s biến
62
i sau khi người này chết.
Họ Tôn-thất cũng không có một qui-chế c-biệt nào :
« K -D u (1849), tháng giêng… Mới đ nh lệ « Ấm th
con các quan Tôn-thất ». Phàm Tôn-thất, người nào có
công-lao, đã đư c phong tước, thời con cháu cho t p
phong ; con văn t -ph m, võ tam-ph m trở lên, đ u chi u
hàm cho m t người con ấm th : chánh nhất con đư c ấm
th chánh ngũ ; tùng nhất con ấm th tùng ngũ ; nh , tam
63
t ph m c th giảm l n ».
Hạng quí-tộc này không có những c-quyền chính trị
hay kinh-tế quan-trọng như giai-cấp quí-phái phong kiến ở
Âu-châu thời Trung-cổ. ời L , ời Trần, ời Lê, những
người ược phong ều ược một số ruộng, tùy theo tước
của họ (thái-ấp, lộc- iền, tự- iền). Các Vua nhà Nguyễn
cũng duy-trì thể-lệ này ; năm Thiệu-Trị thứ bảy, ược xác-
ịnh rằng :
« Khi phong tước qu c-công, qu n-công thì lấy tên
ph ; tước h u lấy tên huyện ; tước bá lấy tên t ng ; tước
t lấy tên xã, tước nam lấy tên thôn. Sau đó, n u đư c tấn
phong lên tước trên, cũng chu n cho dùng cái tên đất lúc
64
mới đư c phong l n đ u ».
Nhưng ruộng ất cấp cho các tước v n thuộc quyền sở-
hữu quốc-gia, và v n phải nạp thuế ịa-tô cho nhà nước.
Trên ất- ai ấy, người ược phong không ược lập một bộ
máy chính-quyền riêng, và cũng không ược em chia cắt,
phong cấp cho thân-thuộc ho c tay chân ; dân-chúng sống
ở ấy v n phải tuân theo pháp-luật chung của quốc-gia.
Thêm vào ó, các triều- ại khác nhau ã chống lại sự thiết-
lập những lãnh- ịa lớn bằng cách giảm dần diện-tích các
thực ấp và lộc- iền ã ược phong cho các ại công-thần.
ời Vua Gia-Long, tự- iền ược ban nhiều nhất là 300 m u,
còn thì ều từ 100 m u trở xuống ; nhưng, khi mới t
niên-hiệu (1802), và có l với mục- ích lấy lòng dân chúng
bằng một hành- ộng chính-trị, nhà Vua phong cho dòng dõi
nhà Lê là Lê Duy Hoán làm Diên-tự-công « cho th -t p
tước-v , đ vâng gi việc thờ cúng ở mi u nhà Lê, cấp cho
t -dân 1.016 người, t -đi n 10.000 m u » ; ồng thời, nhà
Vua cũng cấp 500 m u tự- iền cho họ Trịnh, khiến Trịnh Tư
65
coi việc tế tự.
Nhưng Vua Minh-Mạng năm 1835 quyết- ịnh tước trừ
các ngạch con cháu nhà Lê và họ Trịnh và dành riêng 100
m u tự- iền vào việc thờ miếu Vua Lê.
Kể từ ời Gia-Long, ất- ai ược cấp cho các tước phần
nhiều có tính-cách những tự- iền, mà mục ích là ể thực-
hiện các sự tế-tự, lễ bái và gìn-giữ các mộ phần. Nếu vào
năm 1804, Gia-Long cấp cho con của cố Thái-úy quốc-công
66
Võ-Tánh 300 m u tự- iền và 200 tự-dân , ây là một
trường-hợp rất c-biệt, vì các công-thần thời quốc-sơ
67
không ược ban cấp nhiều tự iền như vậy :
- Công thần bực trên : ược tự- iền 15 m u, mộ phu 6
người.
- Công thần bực nhất : ược tự- iền 9 m u, mộ phu 4
người.
- Công thần bực hai : ược tự- iền 6 m u, mộ phu 3
người.
- Công thần bực ba : ược tự iều 3 m u, mộ phu 2
người.
ầu niên-hiệu Gia-Long, Diễn-quốc-công Nguyễn-Phúc-
Trung ược ban cấp tự- iền 100 m u ở hai làng Lam- iền
và Thi-Ông thuộc tỉnh Quảng-Trị ; hàng năm, lấy tiền và
thóc tá canh ể sử-dụng cho việc tế-tự. Nhưng, năm 1835,
Vua Minh-Mạng ra lệnh ổi cấp bằng tiền, m i năm cho 500
quan, ruộng tự- iền lấy lại bởi nhà Vua ược chia cho dân
68
sở-tại cày cấy và nộp thuế . ây có l là trường hợp ầu
tiên cho thấy sự thay ổi trong ường lối cấp phát tự- iền
của các vị Vua ầu triều Nguyễn.
ến năm 1876 thì Vua Tự- ức hạn-chế h n việc cấp
phát các tự- iền, lộc- iền ; nhà Vua quyết- ịnh là cứ do nơi
nguyên-quán hay ngụ-quán, trích số ruộng mà cấp theo t -
69
lệ sau :
- Công : 10 m u
- Hầu : 8 m u
- Bá : 6 m u
- Tử : 4 m u
- Nam : 2 m u
Vào khoảng 1883, Vua Tự- ức lại quyết- ịnh rằng các
công thần ược cấp lộc- iền, tự- iền từ này ổi ruộng ra
tiền, cứ m i m u m i năm lãnh 40 quan tiền, còn ất ấy
ược giao cho làng xã ể ược phân-phối giữa dân-chúng.
ể tưởng thưởng các quan-viên ã trung-thành với nhà
Vua, và ã giúp nhà Vua khôi-phục lại nước non, Gia-Long
thiết lập một giai-cấp quí-tộc mới gồm có 7 cấp bực : các
Tá-Vận, Dực-Vận, Tá-Trị, Tá-L , Minh-Nghĩa, Dương-Vũ và
70
Tĩnh-Nạn Công-Thần . Từ ệ nhất-cấp xuống tới ệ ngũ-
cấp, tư-cách quí-tộc là một tư-cách thế tập, và cứ m i thế-
hệ lại giảm i một cấp, nhưng cho tới ệ ngũ-cấp mà thôi ;
từ ệ ngũ-cấp trở i, người có tước truyền tước cho con
cháu theo thứ-tự ích-trưởng cho tới khi nào nhà Nguyễn
chấm dứt. Song Vua Minh-Mạng phế bỏ chế- ộ Công-thần
là một chế- ộ lâu ngày có thể tạo nên một giai-cấp quí-tộc
thế-tập.
Xem như thế, giới quí-tộc dưới triều Nguyễn không thể
ược ồng-hóa với một ng-cấp thế-tập, nắm giữ ất- ai
và bất biến. Chức tước của giai-cấp này không bao-hàm
một c-quyền chính-trị, hành-chánh hay quân sự nào, và
không hiến một vai-trò c-biệt trong quốc gia cho những
người hưởng thụ chúng. Các tước chỉ là một sự phân-biệt
xã-hội, i ôi với vài quyền-lợi ngôi thứ trong các lễ nghi
của triều- ình, và với vài sự miễn thuế. ây chỉ là những
tước tạm thời, ược nhà Vua phong cho các quan viên có
công nhất với nhà Vua : cứ m i thế-hệ, chức tước này ược
giảm i một bực, và chúng chỉ là những dấu-hiệu danh-dự.
Quyền thế-tập chỉ ược hưởng vài ời rồi hết, và con cháu
người ược hưởng trở về với dân-chúng, cho nên không thể
lập nên một giai-cấp quí-tộc vĩnh-viễn như trong xã-hội Âu-
châu.
Xứ Việt-Nam là một vương-quốc t dưới một vị quân-
vương chuyên-chế, mà uy-quyền không ai có thể cư ng lại
ược. Nhà Vua nắm mọi quyền-hành trong tay, vì nhà Vua
với tư-cách Thiên-tử, ã thừa mệnh Trời ể cai-trị nhân-
dân. Vua là cha m thần-dân nên tài-sản, sinh-mệnh của
dân-chúng là của Vua hết. Song nhà Vua có nhiệm-vụ là
iều-khiển quốc-gia một cách tốt p ể bảo- ảm thái-bình
hạnh-phúc cho ám thần-dân ã ược Trời giao phó cho
Vua. Trong công việc này, nhà Vua cần có những viên-chức
phụ-lực cho nhà Vua. Các quan tại triều là những người
giúp- nhà Vua mà ảm ương quốc-chính. Các quan
ngoại-chức (tỉnh, phủ, huyện) là những người vâng mệnh
thay m t Vua ể cai-trị nhân-dân. Vì thế, các quan cũng là
cha m dân. Gốc của quan-chức là tự quyền-thế của Vua,
phản ối các quan là chống lại nhà Vua. Với tư-cách « dân
chi phụ m u », quan-viên ược tôn-trọng : dân gian k nào
xâm-phạm ến danh-dự của ông quan thì bị pháp-luật ghép
vào tội phạm thượng, k nào hại ến sinh-mệnh của ông
quan, thì bị tội n ng hơn là ối với thường-dân.
Song, như chúng ta ã thấy, nhà Vua không muốn rằng
dòng dõi hiến một c-quyền cho một giai-cấp nào, và cũng
không chấp-thuận rằng của cải tạo nên quyền-thế. ể
tuyển chọn quan thay m t Vua mà cai-trị dân, nhà Vua chỉ
dựa trên tiêu-chuẩn kiến-thức. Khoa-cử có mục- ích kiểm-
soát khả-năng những người s ược nhà Vua giao phó cho
công việc. Chỉ có các khoa thi mới có thể hiến cho nhà Vua
những cộng-sự-viên cần-thiết. Tương-lai của xứ sở lại phụ-
thuộc các khoa thi : sự tổ-chức ch t ch của các khoa thi s
hiến cho chính-phủ những nhà hành-chánh ắc-lực, nhưng
nếu những qui-tắc mà chúng dùng làm mực thước suy yếu
i, thì ch ng bao lâu nền hành-chánh s suy- ồi, và cả
quốc-gia cũng thoái-hóa nữa. Vì thế, m i khi có khoa thi
Hương, các quan ở Kinh ra chấm thi ều mang cái biển ề 4
chữ « Phụng chỉ cầu hiền ».
Năm 1802, khi Vua Gia-Long lên ngôi, Vua chỉ có một
ám cận-thần ể giúp sức nhà Vua. Vấn- ề nhân sự khiếm-
khuyết khiến Gia-Long lưu về việc mở-mang sự học-
hành ; ngay từ năm 1803, nhà Vua cho mở trường Quốc-tử-
giám ở Huế ể dậy con các quan và các sĩ-tử. Năm 1807,
nhà Vua xuống chỉ mở 6 trường thi Hương, xác- ịnh các
chương-trình và các thể thức giám thị và chấm bài. Năm
1822, Vua Minh-Mạng mới mở khoa thi Hội, thi ình ể lấy
71
tiến-sĩ, còn phép thi thì v n theo ời Gia-Long.
Những người thi ậu ở các khoa thi s ược nhà Vua
chọn làm quan. i học và thi ậu, không phải chỉ là ã trở
thành người có học thức và ã thu thập ược những hiểu
biết trừu-tượng, nhưng cũng là ã trở thành nhà nho c
xuất, tôn trọng tất cả những gì lập nên nếp sống truyền-
thống, là có thể trở thành một nhà hành-chính s không
bao giờ quấy rối trật-tự chính-trị và những quan-niệm
chính-trị hiện-hữu.
Phải ợi ến khi nền ộc-lập của nước Việt-Nam bị e
dọa bởi sự xâm-lược của người Pháp, Vua Tự- ức vào
khoảng 1871 mới bắt ầu hiểu là khoa-mục không phải là
cách thức ộc nhất cho phép lựa chọn tất cả những nhân-tài
trong nước. Một m t, nhà Vua ra lệnh các học thần phải
thường dạy học-trò những iều binh, tài thao lược, nông-
iền, thủy-lợi ; m t khác, nhà Vua khiến các văn võ ấn
quan xét cử người hiền tài :
« Chia làm 8 h ng… : nh ng người đ c h nh hi n tài, tài
trí r ng sâu, gi i việc tr dân, gi i việc tr binh, gi i việc
thương-thuy t, gi i việc lý-tài, văn-h c r ng thông, k -nghệ
khéo, bi t ch đ khí v t, hay là tinh ngh thu c, ngh bói,
coi thiên-văn và làm l ch. Nh ng mấy h ng ấy, các quan
72
phải h t lòng xét k tâu lên ».
Nhưng trong thời-k thịnh ạt của nhà Nguyễn, khoa-cử
là cách thức tiến thân ộc nhất. Quan-chức ược dành cho
các người khoa-bảng. Song, trên nguyên-tắc, không có
ịnh-qui nào bắt buộc nhà Vua phải ban chức tước cho một
cử-nhân hay tiến-sĩ tân-khoa. Khoa-cử không tạo nên một
quyền làm quan, cũng như không gây nên một nghĩa vụ
nào ối với người khoa-bảng. ã có lần nhà Vua từ chối bổ-
nhiệm những cử-nhân hay tiến-sĩ quá tr tuổi. Năm 1835,
Vua Minh-Mạng còn ịnh rằng phàm những người tiến-sĩ
mà tuổi từ 20 trở xuống ều phải học tập thêm ở Quốc-tử-
giám, nhưng ược hưởng lương hàng quan thất phẩm ; sau
một, hai năm xét ã thành tài, những người này mới ược
73
cất dùng.
Nhưng cũng có trường-hợp của những người khoa-bảng
từ bỏ vận may làm quan như Nguyễn-Hữu-Huy, thân-sinh
của Nguyễn-Hữu- ộ, mà Vua Tự- ức ã phái làm khâm-sai
ại-thần tới Hà-Nội năm 1882 ể thương-nghị với người
Pháp.
Thật ra, dưới triều Nguyễn, vì thiếu nhân-tài, ít khi nhà
Vua ã phải từ-chối bổ-nhiệm các vị tân-khoa. Người khoa-
bảng không chịu ra làm quan thường chỉ vì l -do sức-khỏe
mà thôi.
ường quan-nghiệp tương- ối nhiêu khê, sự tiến thủ có
tính-cách chậm-chạp trong những năm ầu và tùy thuộc với
các bằng-cấp ạt ược : sau 2 năm tối a cho các tiến-sĩ,
12 năm tối a cho các cử-nhân, vị tân quan s ược bổ làm
tri-phủ (chánh ngũ phẩm). Sau ó, sự thăng chức tùy thuộc
ở các bản báo-cáo của quan trên và Bộ Lễ. Nhưng nhà Vua
cũng thường giáng chức các quan phạm l i, kể cả những
quan ại-thần nổi tiếng nhất.
ể có một -niệm về sự tiến-thủ của các quan viên,
chúng ta chọn hai ví-dụ, ược coi là tương ối mau chóng.
Ví-dụ thứ nhất là trường-hợp Cao Xuân Dục : ậu cử-nhân
năm 1875, ông ược bổ nhiệm Hậu-bổ năm 1877. Một năm
sau, ông ược thăng chức Kinh-lịch (chánh thất phẩm). Sau
những bản báo-cáo liên tiếp của cấp trên, năm 1879 ông
ược phái làm tri-huyện tạm thời tại một vùng luôn bị quấy
phá bởi gi c cướp mà ông d p yên sau một năm. Quan
tuần-phủ mới dựa vào những công lớn của ông ể xin thăng
chức cho ông : ông ược bổ làm Biên-tu (chánh thất
phẩm) ; ây là một sự tưởng thưởng, nhưng v n không phải
là một sự thăng cấp. Phải ợi ến năm 1881, ông mới ược
bổ làm tri-huyện thật thụ (tùng lục phẩm). Cuối năm 1882,
sau những sự kêu nài khẩn khoản của cấp trên, ông mới
ược bổ làm tri-phủ (chánh ngũ phẩm). M c dầu có nhiều
công-trạng và ược cấp trên khen ngợi nhiều lần, Cao Xuân
74
Dục ã phải mất 5 năm mới ược bổ-nhiệm chức tri-phủ.
75
Ví-dụ thứ hai : Phan Thanh Giản . Ông là tiến sĩ ầu
tiên của xứ Nam-k , và có l vì thế mà sự thăng cấp của
ông ã rất mau chóng. Thi ậu năm 1826, khi 21 tuổi, ông
ược bổ làm Biên-tu (chánh thất phẩm), nhưng không bao
lâu nhẩy lên chức Lang-trung (chánh tứ phẩm) ở Bộ Hình.
Sau không ầy hai năm, ông ược bổ làm Thám-hiệp trong
tỉnh Quảng-Bình. Năm 1829, ông ược vời về Huế giữ chức
Thủ-phủ-doãn (tòng tam phẩm). Năm 1830, ông lên chức
Thị-lang (chánh tam phẩm) Bộ Lễ. Sự-nghiệp của Phan
Thanh Giản không phải ã ngừng lại tại ây…
Nhưng một nho-sĩ khoa-bảng ã trở nên một quan viên
như thế nào ? a số các quan-viên, trong suốt ời họ, v n
giữ ảnh-hưởng nền học-vấn văn-chương mà họ ã thụ-
hưởng. Họ em theo vào quan-nghiệp các huyền niệm, các
ước-vọng và nếp sống thanh-lịch của các nho sĩ. Nhiều vị
quan suốt ời v n ọc sách, viết sách và làm thơ. Không
phải chỉ có Vua nhà Nguyễn mới là thi sĩ, mà nhiều vị quan
ại-thần, ngoài việc viết sách sử, cũng còn sáng-tác thi-
76
văn. Lê Quang ịnh là một trong những người ấy. Hữu-
tham-tri Bộ Lễ dưới triều Vua Gia-Long, Nguyễn-Du, viết
quyển Đo n-trường tân thanh, một áng văn-chương tuyệt
tác. Trịnh-Hoài- ức làm những bài thơ mà mọi người ều
thưởng-thức. Phan Thanh Giản là một nhà thi-sĩ nổi tiếng
trong thời ông và Vua Tự- ức không ngớt khen ngợi các
tác-phẩm của ông.
Các quan-viên hiện ra trước hết như là một giới quí-phái
trí-thức, và -thức ược họ là một giới thượng lưu trí-thức.
Song học-vấn mà họ ạt ược ể soạn các khoa thi, và tiếp
tục trau dồi sau khi ã thành ạt, không phải chỉ có mục-
ích duy nhất là tạo nên một giới thượng-lưu gồm những
nhà nho tao nhã. Sự học, nhìn dưới con mắt nhà nho, có
mục- ích là sửa mình. Sau những năm dài ọc sách thánh-
hiền, các quan có thể tự cho là ã ạt ược một phần của
cái ức hiền-minh của ức Khổng. Cùng một lúc, họ có một
trách-nhiệm tinh-thần : ức Khổng ã nói rằng sự kinh-
bang tế-thế là nhiệm-vụ tốt p nhất, vì nhận trách-nhiệm
ấy là ưa ạo- ức tới cho những người mình cai-trị. Chỉ có
người hiền mới có thể trị dân, và chỉ có học vấn mới hiến
cho hiền ức. Cái trách-nhiệm tinh-thần ấy của các quan
phân biệt họ với các giới khác. Một ông quan xử án trước
hết cố-gắng sửa chữa hơn là trừng phạt, dùng công-l ể
răn dạy, khuyến giới. Và cũng vì khía cạnh ạo- ức của họ
mà các quan phải làm gương cho mọi người : họ phải sống
một ời sống chính-trực, phù-hợp với các giáo-huấn họ ã
nhận ược.
Sau hết, Nho-giáo dậy cho giới sĩ-phu rằng trách nhiệm
cốt-yếu của họ là duy-trì trật-tự xã-hội ã có trước khi họ
sinh ra. Các quan là những người ã học rằng Vua là Thiên-
tử, thừa mệnh Trời ể trị dân, trị nước. Quyền thế ấy, nhà
Vua ủy thác cho các quan, ể thay m t Vua mà cai-trị thần
dân. Vì thế, một quan-viên không phải là một người thường
như những người khác, mà là phản ảnh của nhà Vua. Và
cũng vì thế mà nhà Vua giao-phó cho các quan không
những tất cả quyền-hành trong mọi lãnh-vực, mà còn hiến
cho họ một thế-lực rất lớn ể thực-hiện những quyền-hành
ó.
Tuy nhiên, vì sợ các quan lạm-quyền, triều- ình thiết lập
ô-sát viện với các ngự-sử ể giám-sát việc hành-chánh
của các quan, và nhà Vua cũng t nhiều iều-lệ ể chế-tài
các quan nữa :
- Quan lại không ược thụ-nhiệm ở tỉnh hạt nhà, hay ở
nơi cách tỉnh nhà không ầy 500 d m, ể cho thân-thích
bằng-hữu khỏi cậy thế-thần mà làm ngang.
- Quan lại không ược tậu ất ai nhà cửa trong trị-hạt
vì sợ hiếp bách dân ể mua r .
- Quan lại không ược lấy vợ nơi trị-hạt, vì sợ gia- ình
nhà vợ cậy thế mà nhũng-nhiễu.
- Quan lại hồi-hưu không ược lui tới nha môn ể cầu
77
cạnh.
Sự cai-trị của các quan có hữu-hiệu hay không ? Quan-
viên ược tuyển bằng chế- ộ khoa cử, và chế- ộ này lại
phỏng theo chế- ộ khoa-cử của Trung-Quốc. Trong bao
nhiêu thế-k nuôi dư ng trong tư-tưởng của Khổng giáo,
giới sĩ-phu không thể quan-niệm một nền văn-hóa nào
ngoài nền văn-hóa của thế-giới Trung-Hoa. Với sự tập trung
quyền-hành ngày một gia-tăng, và với sự phát-triển của
chế- ộ quan-liêu, sự học ã thoái-hóa ể trở thành cái học
chuyên về m t cử-nghiệp, nghĩa là biến thành một phương-
sách ể bước vào con ường danh-vọng.
Chế- ộ khoa-cử này rất có hại, vì nó không mở một
cánh cửa nào ra cho ời sống thực-tại. Chương-trình sự học
cử-nghiệp chỉ chú vào lối văn-chương phù-phiếm, kinh- iển
xa xôi moi trong dĩ vãng : các khoa-học vật l hay tự nhiên
l dĩ nhiên không có một ịa-vị nào trong chương-trình này.
Các bài luận về sử là những bài bình luận về các triều- ại
thượng-cổ của Trung-Hoa, ược coi như là hoàng-kim thời-
ại của nhân-loại. Hầu hết công phu của người i học nhắm
vào sự học thuộc lòng các sách Tứ Thư, Ngũ Kinh, cùng các
lời thể-chú của học phái Chu-Tử. Sự ạt là kết-quả của
sự thuộc nghĩa và tài thi phú. Hình-thức câu-nệ này ã úc
các trí-óc trong cùng một cái khuôn, làm cho tất cả giới sĩ-
phu nghĩ theo một lối nhất- ịnh, cảm theo một lối nhất- ịnh
và hành- ộng theo những nguyên-tắc cố- ịnh. Do ó, nước
Việt-Nam ở trong một tình-trạng phi tiến-bộ, làm khô khan
78
tất cả mọi tư-tưởng ộc- áo. Ô. Phạm-Văn-Diêu ã có thể
nói là : « …Ch -đ , phép t c h c và thi rất khe kh t, th -
tiêu các cá tính, nh ng s c-thái đ c đáo c a nhân-tài ».
Ho c giả có những người có những tư-tưởng mới lạ, nhưng
vì tính nết ngang tàng phóng túng, không chịu ép mình theo
khuôn sáo của giai-cấp, cho nên không ược ai hiểu mình,
ến n i bất mãn mà phải nổi loạn chống ối tất cả tổ-chức
79
xã-hội như trường-hợp Cao-Bá-Quát.
Vì sự học cử-nghiệp, mà ời Nguyễn « là m t thời-đ i
văn-chương ngưng trệ… Nhìn chung toàn b các tác-ph m
đời này, v m t hình-th c, không có nh ng c ng hi n th c
80
v ng vàng và đ c-đáo ».
Và ã không có một sĩ phu Việt-Nam nào sáng-lập ược
một học thuyết mới m hay khởi xướng một thuyết chính-trị
thật c sắc, m c dầu các nhà nho Việt-Nam ã sôi kinh
nấu sử trong hàng chục thế-k liên tiếp. Vua Minh-Mạng ã
thấy rõ tình-trạng bi át này, khi nhà Vua than về sự lầm
l n của ám sĩ-phu, học chỉ cốt lấy ể ra làm quan :
« Lâu nay khoa c làm cho người ta sai l m. Tr m nghĩ
văn-chương v n không có qui-c nhất đ nh, mà nay nh ng
văn c -nghiệp ch câu nệ cái h sáo, khoe khoang l n với
nhau, biệt l p m i nhà m t l i, nhân-ph m cao hay thấp do
t đó, khoa trường lấy hay b cũng do t đó. H c như th
thì trách nào mà nhân-tài ch ng m i ngày m t kém. Song
t p t c đã quen r i, khó đ i ngay đư c, v sau nên d n d n
81
đ i l i ».
Trần-Trọng-Kim cho rằng nếu có « nh ng v quan ngay
chính và sáng su t, việc nước đư c yên tr : n u có nh ng
82
người gian n nh mờ t i, thì việc nước hư h ng » . Nhiều
bằng chứng cho thấy là những sự hà lạm của quan-lại, như
tiếm nghịch, biển thủ của công và ăn hối-lộ, không phải là
83
hiếm.
Nhưng nguyên-nhân của sự bất lực của nền hành-chánh
vào thế-k XIX còn sâu xa hơn thế nữa : ó là hệ-thống
hành-chánh thiếu sự kiểm-tra và iều-khiển. Nguyên-tắc
chủ-quyền của nhà Vua ã ược phát-triển một cách thái
quá ; mọi tôn-chỉ ều hướng về mục- ích giữ v tôn-
nghiêm thần-thánh của nhà Vua. Quyền tuyệt- ối của nhà
Vua trên thân-dân, t thành nguyên-tắc, ã bắt dân-chúng
vào khuôn phép, rất tuân lệnh trên. Nếu quan Án-sát xử xét
không úng, nếu quan Bố-chính nhầm l n, nếu quan Phủ,
quan Huyện lạm quyền, dân-chúng không phải lo lắng, vì
vấn- ề s ược xét lại bởi quan trên và tối-hậu bởi nhà Vua.
Mọi việc lên tới nhà Vua, và tất cả nền hành-chánh căn cứ
trên nhà Vua, nghĩa là trên một nhân-vật thường ã lớn lên
trong cung cấm và ã không ược huấn-luyện k càng về
phép trị dân trị nước. Quan-viên không có một sự giám ốc
nào ngoài vương-quyền, nhưng nghị-lực, trí thông minh và
sức làm việc của nhà Vua lại không bao giờ ủ ể lo xuể tất
cả những phận-sự to tát của người cầm ầu vận-mệnh
84
quốc-gia . Nhà Vua là cơ-quan chủ- ộng của một guồng
máy hành-chánh rất là tập-trung, nhưng cơ-quan chủ- ộng
này lại ít phát ra những ộng-lực iều chỉnh nền hành-
chánh và l tất nhiên dân-chúng không ược cai-trị một
cách ứng ắn.
Hệ-thống quan-liêu là bộ máy thừa-hành mệnh-lệnh của
triều- ình ể duy-trì các tổ-chức, bảo-vệ sinh-mệnh của xã-
hội. Song phải nhìn nhận là nhà Vua cho phép các quan
phát biểu kiến riêng của họ về việc nước : các quan hàng
tỉnh m i năm có quyền gởi tấu sớ lên tới tận nhà Vua ; vào
khoảng ầu năm, lấy cớ thỉnh-an quân vương, họ có thể ệ-
trình lên nhà Vua những nhận xét riêng của họ về việc cai-
trị tỉnh-hạt và ề-nghị những cải-cách chính-trị. Nhưng, nếu
những nhận-xét và ề-nghị ấy không p lòng nhà Vua, họ
s phải chịu các hậu-quả không tốt của hành- ộng táo-bạo
của họ. Tuy nhiên, cũng có những người bộc trực, ã không
ngần ngại chỉ-trích trực-tiếp nhà Vua, như tổng- ốc Bình-
Phú Thân-Văn-Nhiếp, trước những sự xây cất tổn ải của Vua
Tự- ức, ã tâu th ng với nhà Vua vào năm 1868 như sau :
« Tôi xem s th ngày nay, đất cũ phía Nam b mất,
gi c giã phía B c càng nhi u, bão l t và h n hán ch nào
cũng báo, mà làm sở V n-Niên t n gấp mười lăng Thiên-
Th . Vả l i, ngói s t mua ở H -Châu, hia hát mua bên
Hương-Cảng, gấm t t và đ đ ng rư u năm nào cũng phái
người đi mua, đờn Tây và đ v Tây năm nào cũng có giấy
trả ti n. Nay l u trong cung v a r i, l i làm l u ngoài bờ
sông, hay là Ngài nghĩ r ng làm v y cũng không h i chi
chăng ? »
May cho Thân-Văn-Nhiếp là Vua Tự- ức ã không bất-
bình vì những lời nói ngay th ng ấy :
« Ngài ban r ng : ngươi trách mấy chuyện, đ u là l i ta,
ch vì nay nhi u việc, ta l i l m bệnh, n u câu thúc quá thì
ta ch u không kham, còn có s c nào tr nước đư c. H người
ta đ n khi thác r i tâm tích hay dở mới rõ, không đ i ai nói.
Nhưng đ o làm tôi thường nên can-gián khi n ta đư c nghe
đi u l i là phải, ch lòng ta gìn-gi v n không dám sai, lúc
85
bình-sinh ta h c th nào mà bây giờ ta toàn d i ai ? »
PHỤ-TRƯƠNG : DỤ CỦA VUA TỰ-ĐỨC,
K -DẬU (1849) NGÀY 2 THÁNG 6
a) Công-điền và công-thổ
Công-đi n (ruộng làng) và công-th ( ất thổ trạch, tức
là ất chiếm cứ bởi nhà cửa, và các loại ất dùng ể trồng
những loại cây khác cây lúa). Ruộng ất này, do chính-phủ
giao cho xã thôn sử-dụng, là của công, xã thôn không ược
phép bán i, trừ ra g p buổi cơ cận hay tai họa thì mới có
thể xin phép tạm cầm trong hạn 3 năm, hết hạn lại phải lấy
91
lại. Bộ-phận ruộng ất công này có một lịch-sử lâu dài ;
vì nó thuộc quyền sở-hữu tối cao của chính phủ, các xã thôn
phải nộp tô cho chính-phủ ể ổi lấy quyền sử-dụng.
Phần lớn công- iền công-thổ thuộc vào hạng kh u phân
đi n, theo ịnh k ba năm một lần chiếu sổ inh trong làng
mà phân cấp cho dân. Sự phân cấp này ược thực-hiện bởi
các hương-chức, chiếu theo sổ inh của làng, theo thứ tự
ngôi thứ. Tất cả mọi inh trong xã, từ quan-viên cho ến
các hạng thấp nhất của bậc thang xã hội ều ược chia
ruộng ất. Nhưng, theo lệ ịnh bởi Vua Gia-Long năm 1804,
phần chia cho m i người ít nhiều lại tính theo phẩm tước ối
với quan-viên và thứ bậc xã hội ối với các tầng lớp xã-hội
khác (xem bảng Lệ quân cấp ru ng đất công).
LỆ QUÂN CẤP RUỘNG ĐẤT CÔNG QUY ĐỊNH BỞI
92
VUA GIA-LONG
(Số phần : Hạng ược cấp)
- 18 phần : Quan-viên trên nhất phẩm
- 15 phần : Chánh nhất phẩm
- 14,5 phần : Tòng nhất phẩm
- 14 phần : Chánh nhị phẩm
- 13,5 phần : Tòng nhị phẩm
- 13 phần : Chánh tam phẩm
- 12,5 phần : Tòng tam phẩm
- 12 phần : Chánh tứ phẩm
- 11,5 phần : Tòng tứ phẩm
- 11 phần : Chánh ngũ phẩm
- 10,5 phần : Tòng ngũ phẩm
- 10 phần : Chánh lục phẩm
- 9,5 phần : Tòng lục phẩm
- 9 phần : Chánh tòng thất phẩm, các vệ ội thuyền
thuộc cấm binh
- 8,5 phần : Chánh tòng bát phẩm, tòng cấm binh, tinh
binh, các ty cung Trường-thọ và các vệ cơ ội thuyền Kiên-
thuận, Cửu-dực, v.v…
- 8 phần : Chánh tòng cửu phẩm và vị nhập lưu, tòng
tinh binh
- 7,5 phần : Con cháu tập ấm
- 7 phần : Binh lệ thuộc và thợ ở ồ-gia
- 6.5 phần : Các hạng dân thực nạp
- 5,5 phần : Các hạng dân inh và lão tật
- 4,5 phần : Các hạng lão nhiêu, cố, cùng
- 4 phần : Các hạng tiểu nhiêu, nhiêu tật, ốc phế
- 3 phần : Con mồ côi và àn bà góa
Thêm vào những khẩu-phần kể trên, lão nhiêu và quả-
phụ tuổi 70 trở lên, thì chiếu khẩu-phần cấp thêm cho một
phần. Vợ góa của quan từ ngũ phẩm trở lên ược một nửa
phần ruộng của chồng và vợ góa của quan từ lục phẩm trở
xuống ược 2/5 phần ruộng của chồng làm ruộng « khuyến
tiết ».
Phải ợi ến năm 1840, với sự sửa ổi thể lệ phân cấp
ruộng công của Vua Minh-Mạng, danh-từ quân cấp mới
úng với nghĩa của nó :
« Đ nh l i lệ quân cấp kh u ph n đi n th . Phàm xã dân
quân cấp công đi n th , thì lương đi n c a lính đáng đư c
bao nhiêu c y theo lời B Ngh trong năm Minh-M ng th
17 mà chi u cấp ; còn ngoài ra so đi n th hiện t i chi u
theo s quan l i, binh, tư ng và các h ng dân thiệt n p,
biệt n p, cấp cho m i người m t ph n kh u ph n, không k
ph m tr t h ng b c gì. Còn lão nhiêu, lão h ng và ph t t,
đ c t t đ u chi u s m t ph n chia làm 2 thành, m i người
cấp 1 thành. H ng cô nhi, quả ph , cũng chi u s m t ph n
chia làm 3 thành, m i người cấp 1 thành. T u trung quan
l i, cùng các h ng người, có k nào đã trót l p gia-cư ở ch
công đi n công th , thì phải k s m u sào khấu tr ph n
kh u ph n mình đáng đư c mà ch u n p thu ; như ch đất
ở chưa tới s kh u ph n mình đáng đư c, thì s tính cấp
thêm ; n u ch đất ở quá hơn s kh u ph n, thì các s
th ng đó phải n p thu gấp hai ; trong s ti n thu ấy đem
m t n a sung công, m t n a cho dân. Xã dân không đư c
thấy người ta đã thành cơ ch mà bảo là công th c nhất
93
khải đu i người ta đi mà lấy quân cấp ».
Trên nguyên-tắc, sự phân cấp có mục- ích chia ều các
bực ruộng xấu tốt cho dân xã. Nhưng, vì sự phân chia ược
thực-hiện theo thứ tự ngôi thứ, những người ứng ầu trong
sổ làng ược chọn trước phần ất của mình, và ược hưởng
phần tốt nhất, những thửa ruộng phì-nhiêu và dễ cày nhất.
Bên cạnh hạng khẩu phân iền kể trên, các làng giầu có
còn có tr sưu đi n ể giúp cho những tráng- inh nghèo
khó một phần sưu, h c đi n ể lấy hoa-lợi nuôi thầy học và
mua giấy bút cho học trò nghèo, bút đi n ể ài thọ phí tổn
giấy bút của các chức-dịch của làng, cô nhi đi n và quả ph
đi n ể trợ giúp những k mồ côi góa bụa trong làng. Xã
thôn cũng có thể xuất quĩ ra ể mua lại ruộng của tư-nhân,
hay thay tư-nhân mà nộp thuế : loại ruộng này gọi là b n
94
thôn đi n, có thể bán hay cầm ược . Những người tuyệt
tự có khi cũng cúng vào ình làng hay chùa làng những h u
đi n ể khi chết i ược thờ ở ình hay ở chùa.
Nhân những công-tác xây cất, chính-phủ có thể sử dụng
ất công của làng. Trong trường hợp này, Vua Gia-Long năm
1809 ịnh là phải trích tiền công ể bồi thường cho làng :
- Ruộng hạng nhất, m i m u 100 quan.
- Ruộng hạng nhì, m i m u 75 quan.
- Ruộng hạng ba, m i m u 50 quan.
Năm 1827, Vua Minh-Mạng ịnh lại là nếu có công tác
mở vào ruộng ất công, thì chỉ chiếu ng hạng mà miễn
95
thuế mà thôi.
b) Tư-điền tư-thổ
Tư-đi n tư-th là ất riêng của tư-nhân, do tư-nhân
trồng cấy và nộp thuế. ất ai này có thể ược di-truyền
cho con cháu, có thể em mua bán, cầm cố. Nếu nhà Vua
cần trưng-dụng ất tư-sản này vào việc công, nhà Vua
thường chiếu giá mà bồi-thường : năm 1809, Vua Gia-Long
ịnh là, nếu chủ ất có văn-khế, thì chiếu giá mà trả nửa
tiền ; còn nếu không có văn-khế, thì chính-phủ chỉ trả m i
m u 50 quan mà thôi. Năm 1827, Vua Minh-Mạng mới qui-
ịnh lại việc bồi-thường một cách sòng ph ng hơn : nếu
chính-phủ xâm vào ruộng ất tư bao nhiêu, phải chiếu
96
nguyên giá, trích tiền công ra mà trả cho chủ sở-hữu.
Quyền sở-hữu của tư-nhân trên tư- iền tư-thổ không
phải là một quyền tuyệt- ối : nếu chủ ruộng bỏ hoang ất
ai của mình mà không cày cấy và nộp thuế, quyền sở-hữu
s mất i, tư- iền s bị sung công và trở thành ất của
chính-phủ. Ngược lại, tư-nhân cũng có thể chiếm hữu ất bỏ
hoang bằng cách canh-tác ất hoang ấy và trả thuế iền-
thổ cho chính-phủ.
Về thuế ruộng, năm 1804 Vua Gia-Long ịnh thuế lệ
97
sau :
- Các ph Quảng-Bình, Triệu-Phong, Điện-Bàn, Thăng-
Hoa, Quảng-Ngãi, Qui-Nhơn, Phú-Yên, Bình-Hòa, Diên-
Khánh, ruộng công và tư m i m u nộp :
Hạng nhất : 40 thăng thóc và 3 tiền
Hạng nhì : 30 thăng thóc và 3 tiền
Hạng ba : 20 thăng thóc và 3 tiền
- Các trấn Nghệ-An, Thanh-Hóa, Sơn-Tây, Kinh-B c,
Hải-Dương, Sơn-Nam thư ng h và ph Ph ng-Thiên, m i
m u nộp thóc :
Hạng nhất : công-đi n (120 bát ồng quan), tư-đi n (40
bát ồng quan)
Hạng nhì : công-đi n (84 bát ồng quan), tư-đi n (30
bát ồng quan)
Hạng ba : công-đi n (50 bát ồng quan), tư-đi n (20
bát ồng quan)
- Các trấn Yên-Quảng, Hưng-Hóa, Thái-Nguyên, L ng-
Sơn, Tuyên-Quang và Cao-B ng, m i m u nộp thóc :
Hạng nhất : tư-đi n (20 bát ồng quan)
Hạng nhì : công-đi n (42 bát ồng quan), tư-đi n (15
bát ồng quan)
Hạng ba : công-đi n (25 bát ồng quan), tư-đi n (10
bát ồng quan)
- T Bình-Thu n đ n Gia-Đ nh và các đ o Long-Xuyên,
Kiên-Giang, theo lệ năm 1801 thu nộp.
Vào khoảng 1836, Vua Minh-Mạng ịnh lại thuế ruộng
ất, và phân chia cả nước ra làm ba khu-vực thu thuế
98
ruộng :
- Khu-v c I : gồm các tỉnh từ Quảng-Bình ến Khánh-
Hòa.
- Khu-v c II : gồm các tỉnh từ Nghệ-Tĩnh ra Bắc.
- Khu-v c III : gồm Bình-Thuận và lục-tỉnh Nam-k .
THUẾ RUỘNG ĐẤT ĐƯ C CHUẨN ĐỊNH NHƯ SAU :
KHU VỰC I :
- Hạng nhất : Công-đi n m i m u 40 thăng thóc tô, Tư-
đi n m i m u 40 thăng thóc tô.
- Hạng nhì : Công-đi n m i m u 30 thăng thóc tô, Tư-
đi n m i m u 30 thăng thóc tô.
- Hạng ba : Công-đi n m i m u 20 thăng thóc tô, Tư-
đi n m i m u 20 thăng thóc tô.
KHU VỰC II :
- Hạng nhất : Công-đi n m i m u 80 thăng thóc tô, Tư-
đi n m i m u 26 thăng thóc tô.
- Hạng nhì : Công-đi n m i m u 56 thăng thóc tô, Tư-
đi n m i m u 20 thăng thóc tô.
- Hạng ba : Công-đi n m i m u 33 thăng thóc tô, Tư-
đi n m i m u 13 thăng thóc tô.
KHU VỰC III :
99
- Ruộng cỏ : Công-đi n m i m u 26 thăng thóc tô,
Tư-đi n m i m u 26 thăng thóc tô.
100
- Ruộng núi : Công-đi n m i m u 23 thăng thóc tô,
Tư-đi n m i m u 23 thăng thóc tô.
Còn về thuế ất, các loại và hạng ất khác nhau tùy
theo m i một khu-vực có một thuế-biểu nhất ịnh. Ví-dụ, từ
101
Bình-Thuận vào ến Nam-K :
- ất trồng dâu, mía, trầu không 1 m u : 2 quan
- Vườn cau 1 m u : 1 quan 4 tiền
- ất trồng khoai ậu và ất ở 1 m u : 8 tiền
- ất trồng tre, dừa 1 m u : 4 tiền
- Vườn hồ tiêu 1 m u : 30 cân hồ tiêu
Biểu-thuế qui- ịnh bởi Vua Minh-Mạng không thay ổi gì
mấy trong suốt thời nhà Nguyễn. Nhưng năm 1875, Vua Tự-
ức nhận ịnh rằng từ Hà-Tĩnh trở ra Bắc, thuế ruộng công
quá n ng so với thuế ruộng tư, và nhà Vua khiến áp-dụng
102
một thế lệ ồng nhất cho toàn cõi lãnh-thổ ; bất k
ruộng công hay tư, m i m u :
- Nhất ng nộp 40 thăng lúa
- Nhị ng nộp 30 thăng lúa
- Tam ng nộp 230 thăng lúa
Thuế ruộng ất phải nộp bằng hiện-vật, nhưng chính-
phủ cũng cho phép nộp tiền thay thóc lúa vào những
trường-hợp như vận-chuyển khó khăn và lâu, hay mất mùa
không ủ thóc, v.v…
Thuế iền-thổ dưới triều Nguyễn có quá n ng hay
không ? Theo sự chuẩn- ịnh các ơn-vị o lường bởi Vua
103
Minh-Mạng vào năm 1825, 1 thăng = 1/16 hộc . Như vậy,
vì một hộc bằng 71,905 lít ngày nay, một thăng bằng 2,765
lít. Nếu tính theo lượng ong thời nay, thì một m u công
iền nhất- ng ở Bắc-k s phải nộp 221,20 lít thóc tô, còn
1 m u ho c ruộng công ho c ruộng tư nhất ng ở Trung-k
s phải nộp 110,60 lít thóc tô. Nhưng chúng ta chỉ có thể có
một nhận xét xác- áng về tô thuế này nếu chúng ta biết
ược năng-suất của m i hạng ruộng, ngõ hầu có thể tính
xem m i năm chính-phụ thu của nông dân bao nhiêu phần
trăm số-lượng sản-xuất.
M t khác, thuế ruộng không ồng-nhất, tùy theo các
vùng khác nhau, và nh nhất ở Nam-k . Ngoài ra, nếu từ
Quảng-Bình vào Nam, thuế ruộng công và ruộng tư bằng
nhau, thì từ Hà-Tĩnh ra Bắc cho ến năm 1875, ruộng công
phải trả thuế n ng hơn ruộng tư nhiều. Chúng ta không
ược biết rõ về l -do của sự khác biệt này. iều chắc chắn
là, theo quan-niệm của chính-phủ, công- iền ược cấp
không cho nông-dân cày cấy, thì dĩ nhiên nông dân phải nộp
thuế cho chính-phủ. Ở những vùng thừa người thiếu ất,
chính-phủ ã không ngần ngại ánh thuế n ng lên các loại
công- iền. Nhiều tác-giả ã có thể nói rằng chính-phủ ã có
một chính-sách nâng- giai-cấp ịa-chủ, khi ánh thuế
nh hơn lên ruộng ất tư, và :
« Toàn-b chính-sách thu khóa v ru ng đất c a nhà
Nguy n đ i với ru ng đất công ch nh m m t m c-đích duy
nhất là bóc l t m t cách triệt-đ nh ng nông-dân không
104
ru ng đất đ ng thu đư c c a cải t i đa ».
Song, hiện-tượng nông-dân ẩn lậu thuế má hay bỏ ất
i phiêu-lưu nơi khác ể trốn thuế là một hiện-tượng rất
phổ biến. Nhiều biện-pháp ược áp-dụng ể ngăn ch n sự-
kiện này, mà rõ rệt nhất là lệ năm Minh-Mạng thứ mười lăm
(1834) :
- Các ruộng ất công tư ở xã thôn trước giờ có cày cấy
mà không nộp thuế phải ược trước bạ ể ánh thuế. Nếu
có ẩn lậu mà bị phát giác thì m i m u bắt thu 3 quan tiền
phạt.
- Ruộng ất tư bỏ hoang cho người ngoài ược khai
khẩn ; sau 3 năm, ruộng thành thuộc rồi ược trước bạ theo
hạng ruộng ất tư ể ánh thuế.
- Ruộng ất bỏ hoang của dân xiêu giạt s ược giao
cho người ở gần chia cày ể nộp thuế, nhưng khi dân ấy trở
105
về thì trả lại ủ số cho họ.
Nhiều biện-pháp ược áp-dụng ể chiêu dụ dân lưu tán
106
trở về, như tha thuế trong khoảng 3 năm hay thưởng các
quan viên có công trong việc chiêu dụ lưu dân và phạt các
107
quan viên mà ịa-phương mất quá nhiều dân.
Trên toàn-diện, t -lệ ất công- iền thường không quá
một phần năm diện-tích canh-tác, còn lại ược phân phối
giữa nông-dân mà a số chỉ làm chủ tới 5 m u là nhiều.
Trong m i tỉnh có thể có ược một vài mươi người có trên
dưới 100 m u ruộng. Còn hạng có 100 m u trở lên thì rất ít,
m i tỉnh ược 5, 3 người là cùng. Trường hợp những iền-
chủ giàu có như quả-phụ Nguyễn-Thị-Khiết và con trai là
Lê-Mậu- iều (người xã ốn-An, huyện ịa-Linh, tỉnh
Quảng-Trị), vào năm 1838 xin ốt văn-tự nợ tính tất cả hơn
200 lạng bạc, 34.000 quan tiền và hơn 370 hộc thóc, là
108
trường-hợp hiếm có.
Nhưng chế- ộ công- iền công-thổ cho phép cả những
người cùng inh cũng có ược vài sào ất ể trồng trọt và
cày cấy mà nộp tế ho c óng góp lệ làng. Tuy nhiên, với
chế- ộ iền-thổ này và với sinh-hoạt kinh-tế tự cung tự
cấp, ruộng ất khó có thể tập-trung ại ịa sản trong tay
một số thiểu-số iền-chủ : nông-dân ít tư-bản, không thể
ầu tư bằng cách mua ịa-sản. Chính-phủ cũng chống ối
sự tập-trung các ruộng ất : từ 1802 trở i, nhiều ạo dụ
ược công-bố ể nhắc nhở quan viên và dân giàu ừng lợi-
dụng sự nghèo cực của nông-dân hay các dân làng phân tán
ể chiếm oạt ruộng ất. Năm 1839, Vua Minh-Mạng còn
tìm cách bảo-vệ những người cần tiền phải cầm ợ ruộng
ất : nhà Vua ra lệnh là, phàm việc bán ợ ruộng ất sản-
nghiệp, trong văn-khế phải ghi rõ niên-hạn chuộc, khi hết
hạn : « Người ch ru ng đất sản-nghiệp đem ti n đ chu c,
người ch lấy đ không đư c c chấp, n u trái lệ chi u lu t
109
tr t i » . Năm 1861, Vua Tự- ức cũng xuống dụ qui- ịnh
việc mua bán ruộng ất, ể ngăn ch n các sự lạm dụng :
« Phàm dân gian mua bán ru ng đất, m t sau tờ văn-
kh phải có đ cha m và v , nàng h u người bán ký tên
hay đi m ch . N u t u ru ng đất ở làng ấy, lý-trưởng sở t i
phải đóng triện ký tên ; t u ru ng đất ở xã thôn khác, hay
là ở hai xã thôn, thì hai lý-trưởng phải cùng nhau đóng triện
ký tên. N u người bán người t u thông đ ng với nhau mà
mua bán ng m, không có thân nhân (cha m và v ) ký tên
hay đi m ch và thi u cả ch ch ng th c c a lý-trưởng, m t
khi việc phát giác ra, người t u s mất s ti n t u, văn-kh
s b th tiêu trước m t nhà ch c trách, ru ng đất s l i
110
giao trả người bán đư c quản-nghiệp ».
Song le, vào ầu triều Nguyễn, ta chứng kiến một sự
phát-triển của tư- iền mà kết-quả là sự thu h p của diện-
tích công- iền công-thổ. Sự trạng này do nhiều nguyên-
nhân, bắt nguồn từ cuối thế-k XVIII :
- Những nông-dân có máu m t và phú-hào ịa phương
thừa cơ-hội nội-chiến liên miên ể cướp oạt ruộng ất.
- Nhân dịp cuộc khởi-nghĩa Tây-Sơn thành công, nông-
dân phân chia nhau ruộng ất. Nhà Tây-Sơn cũng khuyến-
khích việc mua bán ruộng ất.
Vào ầu thế-k XIX, Phan Huy Chú ã có thể viết trong
quyển L ch tri u hi n chương lo i chí là :
« Nước ta duy có trấn Sơn-Nam h rất nhi u ru ng công
và đất bãi công… Còn các x khác thì các h ng ru ng công
không có mấy, dù x nào có n a thì cũng ch đ đ cung
cấp binh lương và ngu l c, không th san chia cho các
h ng ».
ầu ời Nguyễn, công- iền công-thổ ã bị thu h p rất
nhiều. Phan Huy Chú, một trong những nhân-vật chú ến
vấn- ề, ã có những ề-nghị sau :
« Ch -đ ru ng đất ở B c-Hà t trước đ n nay, s sách
thi u sót không th kê c u đư c. Nhưng đ i đ ru ng đất
c a dân, đ m c cho b n cường-hào chi m đo t… Hiện nay
nước nhà mới bình đ nh, nh ng tệ cũ chưa tr b h t, nhân-
dân b kh sở đã lâu, người giàu không có mấy mà người
nghèo thì rất nhi u… chính-sách bây giờ mu n cho dân kh i
đói rét, c n phải chia đ u đ a l i cho dân, ai cũng có tài-sản
bình thường đ nâng cao m c s ng… Phải xét k đ n ch
nhi u bù ít, ch t t bù xấu, tính t ng nhân-kh u mà cấp
ru ng, đ i lư c m i người 5 m u, cày cấy n p tô, không
đư c t tiện mua bán, c 5 năm quân cấp l i m t l n đ
chia đ u đ a l i… Xã nào người nhi u ru ng ít thì trích lấy
ch ru ng th a ở các xã lân c n mà quân cấp cho h . N u
ru ng th a ở các xã lân-c n không đ cấp thì phải đ t k
ho ch di dân, đem nh ng người b n cùng ở nơi này đ n nơi
khác có ru ng hoang, cấp tăng cho m i người 10 m u đ h
ở đó… M c-đích việc quan đi n này là c t làm th nào cho
m t tấc đất cũng đ u khai kh n, m i người dân đ u có
ru ng làm, ch a kh i cái bệnh đói kh c a người nghèo,
111
d p t t đư c cái tệ chi m đo t c a b n bóc l t… »
Ngay từ khi mới lên ngôi, Vua Gia-Long ã phải ra lệnh
cấm bán ruộng ất công và qui- ịnh ch t ch việc cầm cố
loại công- iền công-thổ ể bảo- ảm ất cầy cho mọi nông-
112
dân. ạo dụ năm Gia-Long thứ hai (1803) ghi rõ :
« Theo lệ cũ thì công-đi n công-th cho dân quân cấp,
đem bán riêng là có t i, do đó, nhân dân đ u đư c l i cả. T
lo n Tây-Sơn b h t lu t cũ, dân gian nhi u người đ i ru ng
công làm ru ng tư, cũng có k t s việc công mà c m bán
ru ng đất công… Phàm xã dân có công đi n công-th đ u
không đư c mua bán riêng, làm trái là có t i. Ai mua nh m
thì mất ti n. N u nhân có việc mà cho người mướn đ chi
dùng việc công trong xã thôn thì ch h n cho 3 năm, quá
h n thì x t i n ng. Người nào t cáo đúng th c thì thưởng
cho ru ng nhất đ ng m t m u, cày cấy 3 năm, h t h n trả
v dân ».
Năm 1844, Vua Triệu-Trị nhắc lại luật cấm mua bán
ruộng ất công, ồng thời qui- ịnh cụ thể và ch t ch hơn
trường-hợp cho thuê công- iền lấy tiền tiêu việc chung :
- Dân làng phải họp lại ể thỏa thuận về việc cho thuê
ất.
- Thời gian lĩnh canh không ược quá ba năm.
- Văn-khế cầm cố công- iền phải ược nhiều người cùng
k , và phải xác- ịnh rõ rệt nguyên-nhân cố ruộng, cùng
diện-tích và vị-trí ruộng ất cho lĩnh canh.
Mục ích của những iều luật tỉ mỉ này là cốt ể ngăn
cấm hào-l quyền thế, tạ sự việc công ể cầm bán ruộng
công, chiếm công- iền công-thổ làm ruộng tư, hay cho thuê
113
làm lợi.
Còn nếu quan to thế cướp ruộng ất của dân cũng bị
xử trí theo luật :
« Chưởng cơ lĩnh trấn-th Thanh-Hóa ngo i là Ngô-Văn-
Sở chi m cướp ru ng dân c a xã Hoàng-Đan, việc phát b
114
mất ch c ».
ể gia-tăng diện-tích công- iền công-thổ, nhà Nguyễn
không ngần-ngại sung công ruộng ất tư. Nếu ruộng tư bị
bỏ hoang, chủ ruộng không thể cày cấy ược thì sung làm
công iền. ạo dụ tháng 9 năm Minh-Mạng thứ 21 (1840)
còn ra lệnh cho tất cả các nhà giầu tình nguyện hiến 3/10
số ruộng của mình ể làm ruộng công chia cấp cho dân.
Nhưng chỉ có ịa-chủ Gia- ịnh mới hưởng ứng lời kêu gọi
này và tự-nguyện hiến ruộng : ở Nam-phần, nhân-dân ã
tự-do ến khẩn hoang với tư-cách cá-nhân ho c tập-thể
dưới sự giúp- của chính phủ, nên ruộng công không có là
bao, trong khi có nhiều ất hoang màu m .
Lệnh hiến iền nói trên còn ể cho ịa chủ tự mình hiến
ruộng ; nhưng trong trường-hợp công- iền bị hao hụt quá
nhiều thì triều- ình còn áp dụng một biện-pháp mạnh hơn,
biện-pháp trưng-thu : ây là trường-hợp tỉnh Bình- ịnh.
Vấn- ề xuất-phát với tập thỉnh-an của Tổng- ốc Bính-Phú
Vũ-Xuân-Cẩn dâng Vua Minh-Mạng năm 1838 ; trong
trường tập thỉnh-an này, Vũ-Xuân-Cẩn cho thấy là số công-
iền của Bình- ịnh chỉ còn trên 5.000 m u, mà tư- iền,
thường bị bọn hào-phú chiếm cả, lên ến 17.000 m u.
Thậm chí có những hào-phú có ến một, hai trăm m u, mà
người nghèo không có gì, suốt ời làm ầy tớ người giàu.
Lần ầu, Vũ-Xuân-Cẩn ề-nghị hạn ịnh phần ruộng tư ở
mức 5 m u m i người, còn bao nhiêu em làm ruộng công
chia cấp cho binh dân ể làm ruộng lương và ruộng khẩu
115
phần.
ầu năm 1839, Vũ-Xuân-Cẩn lại nhắc lại vấn- ề và ề-
nghị chỉ ể cho ịa-chủ 1 hay 2 phần 10 số ruộng tư, còn 8,
116
9/10 em chia cấp cho binh dân và người nghèo.
Khi ầu, Vua Minh-Mạng không nghe theo, vì sợ gây bất
mãn ; nhưng, sau khi ể cho các bộ hợp bàn, nhà Vua
quyết- ịnh trích lấy một nửa tư- iền sung công trong những
thôn-ấp nào ruộng ất tư tự nhiên nhiều hơn ruộng ất
công. Chủ ruộng không ược bồi-thường và cả những ruộng
công-thần, thế-tộc, cũng ều cắt lấy một nửa. Tuy nhiên,
riêng ối với ruộng hương hỏa của khai-quốc công thần
ào-Duy-Từ, nhà Vua ra lệnh chuẩn giá cho m i m u 50
117
quan tiền.
Việc quân cấp ruộng công ở Bình- ịnh ược giao phó
cho Vũ-Xuân-Cẩn, bây giờ ược bổ làm Thượng-thư Bộ Hình
kiêm quản viện ô-sát, và Hữu tham-tri Bộ Hộ là Doãn-
Uẩn. Công việc hoàn tất vào cuối năm 1839 ; kết quả, theo
lời tâu của quan Bộ Hộ Hà-Duy-Phiên, là :
« (Bình-Đ nh) nguyên s công-đi n g m có 6, 7.000
m u, tư-đi n hơn 70.000 m u ; nay lấy n a tư-đi n làm
118
công, thời s công-đi n lên ch ng 40.000 m u ».
Tuy nhiên, việc quân- iền này vấp phải nhiều trở ngại,
vì ch nào ruộng tốt thì cường hào chiếm, gây nên sự tranh
giành kiện cáo. Năm 1841, Tổng- ốc Bình- ịnh ng-Văn-
Thiêm lại phải ề-nghị với Vua Thiệu-Trị cứ số ruộng m i
người dân hiện có chia làm hai, một phần làm ruộng công,
119
một phần làm ruộng tư, và ại-bộ phải ược sửa lại.
Nhưng v n- ề không ược giải-quyết ổn thỏa cho ến
10 năm sau ; năm 1851, Vua Tự- ức phải phái ng-Văn-
Thiêm, ã ược thăng Hiệp-tá lãnh Hình-bộ, i thanh-tra ở
Bình- ịnh. Khi trở về, ng-Văn-Thiêm ã báo cáo như
sau :
« L i trước chia ru ng, trong 10 m u lấy 5 m u làm
ru ng công, 5 m u làm ru ng tư ; nhưng lâu nay ru ng
công ch nào t t thì cường hào chi m lấy, ho c có l loi
đám nào, l i b hương, lý bao choán, còn dân thì ch đư c
ru ng xấu mà thôi, nên tôi khi n s a l i bờ b n phân minh,
120
đ làm cho dân đư c l i ».
Nhưng các iều luật ể bảo-vệ công- iền công-thổ tuy
ược nhắc i nhắc lại, hình như không ược thi-hành triệt-
ể, rồi bị lãng quên. Nếu vào năm 1864 Vua Tự- ức còn
121
nhắc lại một lần nữa luật cấm mua bán ruộng ất công ,
thái ộ cương quyết ể nhằm ngăn ch n sự xáo trộn của
quyền sở-hữu xã thôn và ể giữ nguyên số lượng ruộng ất
công không còn ược duy-trì, kể từ khi ngân-sách của triều-
ình bị thiếu hụt sau các sự thất-bại trước quân Pháp và sự
chuyển nhượng các tỉnh miền Nam cho người Pháp. Năm
1871, Vua Tự- ức chính thức cho phép bán ruộng ất công
và ất lưu hoang làm ruộng ất tư, ể lấy tiền trợ quân
phí :
« Ngài chu n t nay phàm các t nh ngoài B c-kỳ, có
ru ng đất công và các h ng đất lưu hoang, không nệ người
trong làng ho c người làng khác huyện khác, như có ai tình
nguyện mua làm ru ng đất tư, cho đ n t nh đ u đơn xin
mua, người nào mua mà kh n đư c bao nhiêu, chi u y m i
m u giá là mấy mà n p ti n, việc xong r i s phải khán,
quan t nh cho b ng, biên vào đi n b , y theo ng ch cũ đánh
thu , chi u theo ch khó d h n cho mấy năm thành ru ng
khởi thâu thu , biên theo h ng ru ng tư đ làm c a mình.
H mua ru ng đã thành thu c, m i m u giá 120 quan ti n,
ru ng hoang d kh n giá 60 quan, khó kh n giá 30 quan :
t Thanh-Hóa trở vào Nam, đất nhi u ch xấu, giá đ u
122
chước giảm m t n a ».
Song không phải ợi tới khi ấy ruộng công mới giảm i
nhiều, trong khi ruộng tư ã chiếm phần lớn diện-tích canh-
tác. Nạn chiếm ruộng công làm ruộng tư là một hiện-tượng
tiếp diễn trong suốt thời nhà Nguyễn, m c dầu các lệnh cấm
bán ruộng ất công ược nhắc lại nhiều lần. Năm 1828,
Nguyễn-Công-Trứ trình lên Vua Minh-Mạng một bài sớ về tệ
iêu hào tại các làng, trong ó có oạn :
« …Chúng nó công nhiên không s hãi gì, t hùng
trưởng với nhau, chuyên l i làm gi u, d i l a quan l i đ
làm việc tư c a mình. Nh ng nơi có ru ng đất công, thường
thường mư n việc c m mướn đ làm việc b béo cho mình,
nh ng b n dân nghèo không bi t kêu van vào đâu… Th m
chí n l u đi n hàng nghìn m u mà không n p thu ch đ
cho b n điêu hào tiêu riêng, đinh hàng trăm người mà
123
không vào s ch đ cho b n điêu hào sai khi n… »
Nhân những k lập sổ ịa-bạ, có nhiều trường-hợp hào-
l ghi công- iền vào trong sổ là tư- iền ể chịu thuế nh
hơn, và ể tránh việc thi-hành lệnh cấm bán công- iền
công-thổ. Kết quả là năm 1852, quan Thượng-thư Bộ Hộ
Hà-Duy-Phiên tâu lên Vua Tự- ức như sau :
« Th a-Thiên, Quảng-Tr , ru ng công nhi u hơn ru ng
tư ; Quảng-Bình ru ng công ru ng tư ngang nhau ; còn các
t nh khác ru ng tư nhi u, ru ng công ít ; Bình-Đ nh ru ng
công càng ít hơn, nên ch năm trước Võ-Xuân-C n xin chia
hai ru ng tư, 10 ph n lấy 5 ph n làm ru ng công, quân cấp
124
bình dân đ cho có ch ân nhờ… »
II. CÁC HOẠT-ĐỘNG NÔNG-NGHIỆP
a) Cứu Chẩn
(Năm 1834) B -chính t nh Thanh-Hóa là Nguy n-Đăng-
Giai có nói trong t p th nh an r ng :
« …Trong t nh h t, năm ngoái mất mùa, nhi u l n đư c
mi n, hoãn thu khóa, bán r thóc và cho vay, cũng thư
đư c s cấp bách trước mất. Nhưng nghĩ : nh ng n n h n,
l t là l thường c a s trời. Nay đem cái s thóc có h n mà
h ng năm thi-hành chính-sách c u đói, thì tài-chính có th
đảm-bảo thường đ không ? V y xin ph ng theo cái phép
xã thương c a Chu-T đời T ng, châm chước mà làm. N u
v chiêm lúa t t thì ra lệnh cho các viên ph huyện hiệu
triệu dân các xã thôn, tùy theo s ru ng nhi u ít, bất c
ru ng công, ru ng tư, ngoài s thu nhà nước ra, c m i
m u n p 10 thưng thóc, d ng kho đ ch a, r i ch n nh ng
người có v t l c trong làng trông coi, cho vay lãi. Đ n mùa
đông, thu l i, c tính lãi 3 ph n 10. R i l i thu s thóc v
mùa này m i m u 5 thưng, h p với s thóc v chiêm, ch a
vào kho, r i l i cho vay như lệ cũ. Năm sau và nh ng năm
sau n a cũng th . Đ 5 năm r i, các viên ph huyện tính s
thóc ch a ở các thôn xã, n u có th đ cung cấp cho dân
nghèo trong m t năm đói kém thì thôi không cho vay lãi
n a. Nhưng hàng năm, c đ n tháng hai, ba, tám, chín là
giáp h t, phát ra cho dân xã vay. Đ n lúc trả vào kho thì c
10 thưng phải n p m t thưng thóc hao. Năm nào cũng làm
như th , thì dù có g p năm mất mùa, v ph n nhà nước đã
đ đư c nhu phí v việc đi u hòa c u t , mà v ph n dân
cũng tránh đư c cái lo đói kém ».
Vua không thu n, cho r ng khoản thu chính cung, m i
m u l i thu 10 thưng, chưa ch c dân đã vui lòng đóng góp.
b) Khẩn hoang
Tháng 10 năm M u-Tý th IX (1828)… mới đ t huyện
Ti n-Hải thu c v ph Ki n-Xương trấn Nam-Đ nh. Nguyên
trước ở g n bi n có m t dải bãi ti n-châu b hoang, gi c
thường tr n núp t i đó, khi quan Dinh-đi n-s Nguy n-
Công-Tr đ n chiêu d d y bảo dân, nh m đo đất b hoang
ở ti n-châu và hai bên bờ, chia cấp cho dân cùng, cả th y
đư c 14 lý, 27 ấp, 20 tr i, 10 giáp, s đinh 2.350 người,
ru ng hơn 18.970 m u chia làm 7 t ng, tâu xin biệt l p m t
huyện, đ t tên là huyện Ti n-Hải. L i ở làng Ninh-Cường,
Hải-Cát, mở đư c 4 lý, 4 ấp, 1 tr i, xin l p m t t ng thu c
v huyện Nam-Chân. Ở t ng Hoàng-Nha, mở đư c 5 ấp, 1
tr i, 3 giáp, cũng làm 1 t ng, thu c v huyện Giao-Th y,
còn bao nhiêu tùy g n t ng nào thu c vào t ng ấy. Đ n như
nhà c a và ngưu canh, đi n khí, lư ng lấy ti n công chi cấp
cho. Ngài ban khen, mới cho tri huyện Quỳnh-Lưu là Võ-
Danh-Dương (người trấn Sơn-Nam) làm tri-huyện Ti n-Hải.
Công-Tr l i tâu : « Nh ng dân nghèo mu n xin lãnh
ru ng hoang mà kh n còn đ n hơn 1.000 người, tôi xét
huyện An-Khánh, An-M thu c v Ninh-Bình, đ i ngay với
huyện Nam-Chân trấn Nam-Đ nh, theo m t dải bờ bi n, còn
nhi u nơi b hoang c y đư c, cũng ch ng kém gì huyện
Ti n-Hải : tôi xin qua đó nh m đo, l p thành ấp lý ». Ngài
khi n h i với quan đ o Ninh-Bình mà làm…
Năm K -S u th X (1829)… mới đ t huyện Kim-Sơn
thu c v ph Yên-Khánh đ o Ninh-Bình, l a người đ t làm
tri huyện đ khuyên d y dân. Nhà c a, lương tháng, ngưu
canh, đi n khí thời đ u cấp cho dân, y như lệ huyện Ti n-
Hải ; còn ru ng thiệt trưng và ru ng đã thành th c thời lấy
thu t năm nay, ru ng lưu hoang thời đ n năm Minh-M ng
th XII s đánh thu ; đó là theo lời Nguy n-Công-Tr xin.
Công-Tr l i dâng sớ xin l p qui ước khi n cho dân ki m
thúc, lâu cũng nên thói hay đư c :
- L p nhà h c (đ t ru ng h c tha thu , khi n dân c y
ru ng đ làm h c b ng, h c trò 8 tu i phải vào h c).
- Đ t xã thương, chăm d y bảo dân làm ăn.
- C n việc phòng gi .
- Nghiêm việc khuyên răn.
Ngài khen phải…
Năm Nhâm-Thìn th XIII (1832), Th t ng-đ c Hải-An
là Nguy n-Công-Tr tâu : « Đất Quảng-Yên nhi u nơi b
hoang, kh n tr đư c, đ n ch ng 100 m u, nhưng dân x ấy
ch quen ngh đánh cá, đi buôn, không ưng làm ru ng ; xin
theo phép đ n-đi n, lư ng phái lính thú, quân cấp cho đ
công nhu, khi n khai kh n c y cấy, ch nào nên đ p bờ đê
thời tùy nghi mà đ p, đ n khi c t lúa, coi đư c bao nhiêu
chia làm 3 ph n, đem 2 ph n n p vào kho, còn m t ph n
cho quân cấp. Khi thành ru ng r i, m dân lãnh quản, mà
theo lệ công đi n đánh thu ».
Ngài d khi n phải tới nơi xem xét. Công-Tr mới h i
đ ng với tu n-ph Lê-Đ o-Quảng l a đư c ở làng Lưu-Kh ,
làng V -Dương (thu c huyện Yên-Hưng), làng Yên-Phong
(thu c huyện Ba-Can), có đất hoang c y đư c cả th y
3.500 m u, nghĩ xin đ p đê ngăn nước m n, dài hơn 2.740
trư ng, đem lính thú Quảng-Yên và phái thêm lính cơ Hải-
Dương hiệp nhau mà làm ; khi đê xong r i, lư ng đ lính l i
kh n tr . Ngài cho.
CHƯƠNG IV : CÁC HOẠT-ĐỘNG CÔNG-
NGHỆ
I. TỔ-CHỨC CÔNG-NGHỆ
Nhờ ở sự khéo léo chân tay, nhờ giàu khiếu thích ứng và
nh n nại, thợ thủ công ạt ược những kết-quả áng kể,
tuy chỉ có những phương-tiện hạn chế. Nhưng các người thợ
có tài mô phỏng hơn là óc sáng kiến, họ có thể « b t chước
in hệt nh ng đ kỳ l nhất c a Trung-Hoa hay Nh t-Bản,
n u có đư c nh ng v t-liệu tương t » như Bénigne Vachet
ã nhận xét từ thế-k XVIII, hay như viên mại-biện Pháp
Auguste Borel ã nhìn thấy vào năm 1817 :
« …Người th Việt-Nam rất là khéo léo, tuy không cải-
thiện nh ng đ v t h trông thấy, h bi t cách b t chước
235
đúng hệt các đ v t ấy ».
Dụng cụ sử dụng là một loại dụng cụ ơn giản, nh , dễ
chế tạo, rất thích-ứng với các vấn- ề mà phải giải-quyết
người thợ khéo léo không phải tiết kiệm thời giờ. Với một sự
cơ khí hóa sơ ng, thủ công nghệ tỏ ra thục luyện ; thường
ược dùng nhiều nhất : òn cân, chèm ể ép, bánh xe răng
cưa, sức nước (máy xay nước, chầy giã gạo hay những vật-
liệu khác), máy ạp chân, guồng quay sợi, nòng thụt, v.v…
Sự chế-ngự sức nước ể chạy máy ã ược cả chính-phủ ể
ến :
« (M u-tuất-1838-tháng 3)… Làm xe máy x g ở thác
dài thôn Dương-Hòa, ngu n Tả-Tr ch. Sai b Binh b t m t
quản vệ, 300 bi n-binh khơi đường nước chảy, đ p bờ đê,
tùy th mà làm, công việc làm xong, c m g làm cưa, máy
móc nhanh nh , x thành tấm ván, cũng đư c b ng ph ng,
thưởng cho phó giám-đ c ch ra là b n Vũ Huy Trinh 100
l ng b c. Vua bảo b Công r ng : xe máy này so với công
người làm không kém l m, nhưng đ ng kia là s c người mà
236
đây thì t nhiên, thì hơn kém có th thấy đư c ».
Ngoài ra, cách thức pha ồng và chì ể úc chuông cũng
ược các k -thuật-gia thời thuộc- ịa sau này khen ngợi.
Sự phân-phối các chế-phẩm ã có một tổ chức phức
tạp. Như trên ã thấy, phần lớn các thợ thủ công nhóm họp
trong các làng chuyên nghiệp ; cùng một lúc, họ cũng là
những người bán chế-phẩm của họ, chứ không qua trung
gian của thương-gia. Do sự chuyên nghiệp hóa ấy, các chế-
phẩm của thủ công nghệ ược lưu thông rộng rãi.
Và các thủ công nghệ nông-thôn càng có tính-cách
chuyên nghiệp hóa và ộc chiếm, thì các nơi chợ búa, là nơi
giao dịch của chế-phẩm công nghệ, lại càng thêm phát-
triển. Có nhiều chợ ược thiết lập ở những nơi thích hợp với
các iều-kiện kinh-tế ịa-phương : các chợ thường họp gần
các ình, chùa, ho c tại nơi nào giao-thông thuận tiện.
Phiên chợ phần nhiều có k hạn nhất ịnh, ho c 3 ngày,
ho c 5 ngày, ho c 15 ngày một lần, tùy theo tình-trạng c
biệt của các ịa-phương.
Trong số các chợ này, có K -Chợ là một thị-trường giao-
dịch lớn của các chế-phẩm, nhờ vị-trí trọng yếu trên ường
giao-thông thủy-lục, nhờ sự hiện-diện của ô thành lịch
triều cho tới nhà Lê tại Thăng-Long, nhờ sự phát-triển của
237
thủ công nghệ nông-thôn trong miền châu thổ Bắc-phần .
Ở ây, các thôn xã chuyên nghiệp hóa từ xưa ã ộc chiếm
các thương khu, với mục- ích bảo ảm cho sự tiêu thụ chế-
phẩm của mình, ồng thời ề phòng sự cạnh tranh. Thợ
thuyền nhóm thành từng khu riêng theo ngành chuyên-môn
của họ ; m i một khu, gọi là « phường », là một xã ộc-lập,
có cơ-quan hành-chánh riêng mà sở tại là cái ình, nơi thờ
thành-hoàng và nơi hội họp của các hương chức. M i một
phường có một hương ước riêng. Từ triều Minh-Mạng, Hà-
Nội có 36 ph phường, chia thành 2 huyện, nhưng m i
phường v n là một cộng ồng ộc-lập, không dính-dáng gì
với các phường phụ cận. Các phường cũng hoàn toàn xa lạ
với ô-thành của nhà Vua, nơi sở tại của quan Kinh-lược
ại-thần kể từ 1834 trở i khi Hà Nội trở nên thủ-phủ Bắc-
K .
Rất sớm, ươc thiết lập ở K -Chợ những chợ thường
xuyên (cuối thế-k XIX có cả thảy 5 chợ), làm nơi cung-cấp
phẩm vật thường ngày cho dân-chúng. Nhưng quan-trọng
hơn là chợ phiên họp vào ngày mùng một và ngày rằm ; thợ
thủ công và nông-dân của những làng rất xa cũng tham-dự
chợ phiên này, cho thấy khu-vực hoạt- ộng của nó bao gồm
phần lớn châu-thổ Bắc-phần.
Trong khối thợ thuyền ở K -Chợ, có thể phân biệt hai
loại :
- Thợ thủ công nghèo trong các thương khu ; nhu cầu
của dân-chúng ịa-phương là giới-hạn của bản-chất và tầm
quan-trọng của hoạt- ộng của họ. Thỉnh thoảng họ cũng
cung-cấp những ồ do các thương gia ngoại kiều t làm.
- Thợ thuyền làm việc trong các công xưởng của chính-
phủ trong thành, theo chế ộ cư ng trưng.
Nói chung, tình-trạng của khối thợ thủ công có ược tốt
p lắm không ? Crawfurd nhận- ịnh rằng vào năm 1822,
dân thợ ở Huế kiếm ược gấp 9 lần số gạo họ tiêu-thụ ; một
phần quan-trọng của sở ắc của họ ược dùng ể mua
những thực phẩm khác gạo. Nhưng họ v n còn lại một nửa
lợi-tức ể dùng vào các chi tiêu khác như áo quần, nhà cửa,
v.v… Song, sự thật thì ời sống của người thợ thủ công rất
eo h p. Họ thu rất ít, vì nhu-cầu của phần ông dân-chúng
sống về nông nghiệp còn quá ơn giản, mà khối nông-dân
vì nghèo khổ lại chỉ là một tiêu trường hạn-chế ; vì thế, họ
chi cũng rất ít : họ luôn luôn phải xoay xở cố gắng ể hạn-
chế các nhu-cầu. Chỉ những sự sản-xuất ể áp ứng các òi
hỏi của triều- ình mới có thể hoạt- ộng mạnh : nghề gốm ở
Long-Thọ (Thừa-Thiên) phát-triển mạnh ược là nhờ những
nhu-cầu kiến-trúc của triều- ình ; năm 1810, Vua Gia Long
ã ra lệnh cho Hoa-kiều Hà ạt, bang trưởng Quảng- ông,
thuê ba người thợ Quảng- ông ến Long-Thọ ể làm loại
ngói lưu-ly, và, vào năm 1880, mức sản-xuất hàng tháng
238
lên ến 200.000 viên.
Song, các lò gốm ở Long-Thọ thuộc công-trường thủ-
công của chính-phủ, chứ còn các thợ thủ-công không có ủ
phương-tiện ể phát-triển hoạt- ộng của họ. Các thợ thủ
công vì nghèo, ít vốn, thiếu nguyên-liệu, phải cố gắng sản-
xuất nhanh ể có thể thu hồi sớm số vốn ít ỏi của họ ; giá
bán các chế-phẩm cũng lại chỉ có thể cao hơn số tiền ã bỏ
ra ể mua nguyên-liệu một chút mà thôi, mà tiền lãi là tiền
thù-lao sự làm lụng vất-vả. Riêng ối với ngành khai mỏ,
trong thực-tế ời sống của người dân phu khai mỏ rất khốn
ốn. Trước hết, người dân phu chỉ ược lãnh tiền công trong
ngày làm việc mà thôi, còn những khi mưa gió hay nghỉ việc
ều không ược tính công. Sau nữa, trong những ngày làm
việc người dân phu chỉ ược lĩnh tiền công ầy ủ khi lấy ủ
số qu ng theo úng sự qui ịnh của chính-phủ ; lấy không
ủ số qui ịnh ấy thì những ngày sau phải làm bù vào. Mà
số qui ịnh của chính-phủ, ể bảo- ảm sự thu thập của
trường mỏ, thường vượt quá khả-năng lao- ộng của người
phu mỏ. Trong lúc ấy, việc khai mỏ lại là một việc làm rất
n ng nhọc, và các mỏ thường ở miền rừng núi hoang vắng,
khí hậu rất ộc. Vì thế, chính-phủ g p nhiều khó-khăn trong
việc thuê mướn dân phu, và người dân phu coi việc i khai
mỏ cho chính-phủ là một thứ lao dịch, chỉ mong chóng hết
239
hạn ể ược tha về.
Chính-sách kinh-tế trọng nông của chính-phủ có l ã
không cung hiến những iều-kiện thuận-lợi cho sự phát-
triển của các hoạt- ộng công-nghệ. Phải ợi ến triều Vua
Tự- ức, chính-phủ mới bắt ầu cho thấy những dấu hiệu
chú-trọng ến công-nghệ ngoài mục- ích thuế-khóa : năm
1866, nhà Vua cho chọn 20 người có khiếu ở hai tỉnh Vĩnh-
Long và An-Giang, ể cấp học-bổng cho tới Saigon (khi bấy
240
giờ thuộc Pháp) học tập các nghề công xảo.
Năm 1875, ể khuyến-khích các nghiệp hộ dệt nhung ở
Hà-Nội, nhà Vua ban hàm tùng cửu-phẩm cho những người
241
nào dệt hàng tinh-xảo.
Năm 1878, chính-phủ cấp học-bổng cho những thanh-
niên chừng 20 tuổi i Hương-Cảng hay Âu-Châu học nghề :
học ược một nghề như óng tàu, úc súng, chế ồ binh-
khí, khai mỏ, người thành tài ược bổ cửu-phẩm ; học ược
hai nghề, ược bổ theo lệ « c nhân không ph n s » ; học
ược ba nghề, ược bổ-dụng theo lệ « c nhân có ph n
242
s ».
Cũng năm ấy, nhà Vua phái Nguyễn Thành , lãnh-sự ở
Gia- ịnh, em ồ thổ nghi i dự ấu xảo ở Paris, và sang
năm sau, lại phái Nguyễn Thành em du-học-sinh i học
243
trường cơ-khí ở Toulon.
Chế- ộ cư ng trưng của chính-phủ là một cản trở lớn
cho sự phát-triển của công nghiệp. Lương trả bởi chính-phủ
thì ít, mà các iều-kiện làm việc trong các công xưởng của
chính-phủ thì lại rất xấu xa, vì sự hà khắc của quan lại. Sự
bất mãn của các công tượng thường ược bầy tỏ bằng cách
bỏ trốn, nhưng có khi cũng ã ược bộc lộ bằng những cuộc
244
nổi loạn, mà iển-hình là loạn Chày vôi.
Cuối năm 1864, Vua Tự- ức cho xây Vạn niên cơ, tức
Khiêm-Lăng ; áng nh phải 6 năm mới hoàn thành, nhưng
quan Biện-l Công-bộ Nguyễn Văn Chất tâu chỉ cần 3 năm.
Nhà Vua ã ra lệnh binh lính và phu thợ dùng trong việc xây
lăng cứ 6 tháng ược thay phiên ể nghỉ ngơi. Nhưng Chất
muốn làm cho mau, ã không ể cho lính và thợ nghỉ ngơi ;
người mãn phiên lại không ược thay thế. Vì thế mối bất
bình trở nên sâu rộng và có câu ca-dao nói rằng :
« M t th ng Biện chất nên ghê,
245
Xem quân như c ch ng h xót thương ».
N i khốn khổ thiếu thốn của lính và thợ trưng dụng ể
kiến tạo Khiêm-Lăng ược tả bi thiết trong bài Trung nghĩa
ca, bài trường ca gồm 509 câu thơ, mà tác-giả là oàn hữu
Trưng, một trong những người ã khai thác lòng bất mãn ấy
ể lôi cuốn thợ Khiêm-Lăng nổi loạn vào cuối năm 1866 :
« …Tới thăm công sở V n niên
Lùa quân trèo ngư c đ y mi n núi non.
Đôi vai gánh đá xương mòn,
Mông tròn roi đánh ch ng còn mảng da.
Đưa người cất đá xông pha,
Cả đêm vôi quét ch ng tha canh nào.
K thời s c mõn hơi hao,
Người thời m c lấy m đau ch ng lành.
Người thời qu n áo tan tành,
Miệng thèm khát nước, d đành đói cơm.
Phá tan m t cõi trời Nam,
Xương xây thành kín, máu làm hào sâu.
Gh san ru i đ u ki n bâu,
Đ y chân s t đóng, r i đ u tơ quay.
Có đâu sướng đ ng lâu ngày,
Ly sơn thuở trước tới r y in không
Kìa chàng biện Chất đ c công
C u yên m t chúa mất lòng muôn dân.
Trăm b sâu đ c lưới giăng
Trời trong bu i t i đất b ng sấm nghiêng.
Thương quân lưng s ch đ ng ti n
Cơm lương g ng nu t, nước phèn chua le,
N ng dan đ u ch ng chi che,
Đ n cơn mưa gió d m d l nh da.
B c ban khéo l n đ ng già.
246
Đói ăn khó đ i đư c vài c khoai… »
247
Loạn Chày vôi chỉ là « m t ng n l a rơm » , nhưng ã
làm cho Vua Tự- ức giật mình. Ngay sau khi d p yên cuộc
khởi loạn này, nhà Vua ích thân thảo một bản cáo thị dài,
sai quan sáng ngày 18 tháng 9 năm Bính-dần (1866) ến
Khiêm-cung, tập họp ội quản, binh sĩ và thợ thuyền, ọc
bản cáo thị ấy và giải-thích cho mọi người rõ ràng nhà Vua
ã không bao giờ t quân lính và thợ thuyền dưới một chế-
ộ khắc nghiệt, mà ã ra lệnh cấp phát ầy ủ lương thực
và quần áo cho họ ; giờ giấc làm việc cũng ã ược xác-
ịnh ể họ có thể nghỉ ngơi buổi tối. Nhà Vua ổ l i cho các
quan có nhiệm-vụ ốc xuất công-tác là ã vượt quá mệnh-
lệnh của Vua, và ã bắt thợ thuyền quân lính làm việc quá
sức chịu ựng của họ.
Loạn Chày vôi, tuy không có một ảnh hưởng sâu rộng
trong sự diễn-biến lịch-sử của triều Tự- ức, ã là một sự
báo ộng ối với chế- ộ xã-hội.
PHỤ TRƯƠNG : ĐẠI-NAM THỰC-LỤC
CHÍNH-BIÊN
a) Thuế mỏ sắt
(Đ i-Nam th c-l c chính-biên, ệ nhị k , quyển 141)
(Năm 1834) b H bàn tâu, cho r ng trước kia v thu
s t, có nơi n p b ng s t s ng, có nơi n p b ng s t th i. T
khi đ i ra lệ n p b ng s t chín, có nhi u ít khác nhau (có
người n p 72 cân, có người n p 28 cân), tưởng chưa t rõ
đư c s công b ng… Nay xin tùy theo th sản và đ a-
phương có hay không, nhi u hay ít mà châm chước tăng
giảm v phân s , đ nh thành ng ch thu đ cho có qui-t c
nhất-đ nh.
Nh ng h làm s t ở Hà-Tĩnh, Nghệ-An trước kia m i
người n p 100 cân s t s ng, sau đ i là n p 60 cân s t chín.
Nay cho n p theo lệ ấy…
Nh ng h làm s t ở Thanh-Hóa, trước m i người n p s t
th i 40 cân, sau đ i n p s t chín 48 cân, nay tăng lên là 60
cân.
Nh ng h làm s t ở B c-Ninh, trước m i người n p s t
th i 60 cân, sau đ i n p s t chín 48 cân, nay b t theo lệ cũ
n p 60 cân.
Nh ng h làm s t ở Quảng-Nam, trước m i người n p
s t s ng 50 cân, sau đ i n p s t chín 30 cân, nay tăng làm
60 cân.
Nh ng h làm s t ở Biên-Hòa trước n p s t s ng 50
cân, sau đ i n p s t chín 35 cân, nay tăng là 60 cân.
Các h làm s t ở Gia-Đ nh, Vĩnh-Long, Đ nh-Tường, An-
Giang, Hà-Tiên, trước m i người n p s t 50 cân, sau đ i
n p s t chín 38 cân 10 l ng, nay cho theo lệ cũ, n p 50
cân.
Thu s t ở đ u ngu n Bình-Thu n, trước n p s t th i
227 cân 8 l ng, sau đ i n p s t chín 159 cân 4 l ng, nay
tăng 230 cân.
Thu s t ở Sơn-Tây, có m t m , trước n p s t th i 300
cân, sau đ i n p s t chín 240 cân, nay cho theo lệ trước
n p 300 cân.
Thu s t ở B c-Ninh, có 2 m :
- M Đ ng-Hòa, trước n p s t th i 300 cân, sau đ i n p
s t chín 240 cân, nay cho theo lệ trước n p 300 cân.
- M mới khai ở B Sơn, phải n p s t chín 600 cân, nay
cho theo n p như cũ.
Thu s t Thái-Nguyên có 7 m :
- M Linh-Nham, trước n p s t th i 1.200 cân, sau đ i
n p s t chín 960 cân.
- M Bảo-Nang, trước n p s t th i 2.500 cân, sau đ i
n p s t chín 2.000 cân.
- M Na-Không, trước n p s t th i 2.000 cân, sau đ i
n p s t chín 1.600 cân.
- M Vân-Đ n, trước n p s t th i 600 cân, sau đ i n p
s t chín 480 cân.
- M Na-Hóa, trước n p s t th i 300 cân, sau đ i n p
s t chín 240 cân.
- M Quan-Hòa, trước n p s t th i 300 cân, sau đ i n p
s t chín 240 cân.
- M Cù-Văn trước n p s t th i 300 cân, sau đ i n p s t
chín 240 cân : nay đ u cho n p theo như cũ.
Thu s t ở Tuyên-Quang, có m t m , trước n p s t th i
400 cân, sau đ i n p s t chín 320 cân, nay cho n p theo lệ
trước là 400 cân.
Vua y lời bàn.
a) Hệ-thống giao-thông
Phần lớn các sự giao-dịch ược thực-hiện bằng ường
nước : kênh lạch, sông ngòi trong các châu-thổ là những
con ường giao-thông và vận-tải ược sử-dụng nhiều nhất.
Thời Gia-Long ược ánh dấu bởi một chính sách làm ường
sá và ào kênh ngòi rất hoạt- ộng, mà Crawfurd năm 1822
ã ghi lại như sau :
« Các con đường lớn và các kênh ngòi th c-hiện bởi c
vương góp ph n m t cách h u-hiệu vào s phát-tri n c a
thương nghiệp và công nghiệp. Nhờ chúng mà Đàng Trong
và Đàng Ngoài bây giờ đư c n i li n với nhau, cho phép có
nh ng s liên-l c thường xuyên gi a hai x , không phải ph
250
thu c với gió mùa ».
Nhưng ường bộ sự thật chỉ bổ trợ cho ường thủy, ở
những nơi ã ược cố- ịnh các iểm giao-dịch. Làng này
sang làng khác, phủ kia ến huyện nọ, sự giao thông bằng
ường bộ dùng những con ường nhỏ theo bờ ruộng, bờ
ngòi, bờ sông, thường ứt quãng và hễ mưa xuống thì lầy
bùn. Ở Bắc-k , những ường lớn nhất thường là các con ê
ắp dọc bờ sông Nhị-Hà và Thái-Bình. Còn con ường quan
lộ, mà Lương- ức-Thiệp gọi là « con đường Nam-ti n c a
dân-t c Việt-Nam », ã giữ một vai trò chính-trị hơn là
kinh-tế : nó ược thiết-lập với một mục ích tập quyền
hành-chánh, cho phép Vua nhà Nguyễn óng ô ở Thuận-
Hóa nhận tin tức một cách mau chóng về các biến cố xảy ra
ở Bắc-K ; trong những trường-hợp khẩn trương, thư tín gửi
từ Hà-Nội chỉ mất ba ngày ể ạt tới Huế. ầu thế-k XIX,
Vua Gia-Long cho sửa lại con ường quan lộ, ịnh rằng bề
rộng phải là 3 trượng, và phân chia con ường ấy ra từng
cung một, cứ cách khoảng 15 cây số lại t trạm ể chuyển
ệ công-văn cùng vận-tải ồ ạc của các quan chức bằng
kiệu, bằng cáng, bằng ngựa. Tại những trạm này, khách bộ
hành có thể nghỉ ngơi, ăn uống và thuê phu vận-tải cung-
cấp bởi các thôn xã lân cận. Nhiều trạm cũng có những ội
quân canh phòng, có nhiệm-vụ xua uổi các oàn gi c cướp
từ núi xuống hay từ miền biển lên.
Con ường quan lộ là một con ường mấp mô, qua èo
xuống giốc và bị cắt ra từng oạn bởi sông ngòi, mà phải
vượt qua bằng thuyền, vì chỉ những sông nhỏ mới ược bắc
cầu ; các cầu lại thường làm bằng g , dễ bị nước lũ cuốn i.
Quyển Nhất-th ng dư đ a-chí lại còn khuyên khách bộ hành
phải ề phòng thú dữ và gi c cướp trên con ường quan lộ.
Dưới triều Nguyễn, cũng còn ược thiết-lập một hệ-
thống sông ào, thông các con sông lớn với nhau ể nối liền
Huế với Hà-Nội, nhưng thường hay bị lầy bùn nên việc vận-
tải cũng khó khăn.
Hàng-hóa cũng ược vận-tải bởi các thuyền chạy dọc
theo bờ biển : nghề cận hải hành cho phép nối liền Gia-
ịnh, ã trở thành một thương cảng quan-trọng, với Nha-
Trang, Qui-Nhơn, Hội-An, à-N ng và Hà-Nội, m c dầu Hà-
Nội có một vị-trí trong nội ịa mà thuyền bè lớn v n vào tới
nơi ược. Một hạng người chuyên sống bằng nghề vận-tải
ường thủy : các lái thuyền ; ối với những người này,
chính-phủ cũng hay áp-dụng chế- ộ cư ng trưng, bắt họ
phải chuyên-chở các vật hạng của chính-phủ. Trên nguyên-
tắc, các thuyền vận-tải của tư-nhân cứ một năm lại phải
chở của công, còn thì phải nộp tiền thuế ể ược i buôn.
Khi phải chở gạo về Kinh, chính-phủ cấp cho cước-phí ; dưới
251
thời Vua Gia-Long, giá tiền thuê chở ược tính như sau :
- Chở từ Gia- ịnh ến Kinh, cứ 1 thùng gạo cấp tiền 3
quan
- Chở từ Bình Thuận, cứ 1 thùng gạo cấp tiền 2,6 quan
- Chở từ Bình-Hòa cứ 1 thùng gạo cấp tiền 2,2 quan
- Chở từ Phú-Yên cứ 1 thùng gạo cấp tiền 1,8 quan
- Chở từ Bình- ịnh cứ 1 thùng gạo cấp tiền 1,4 quan
- Chở từ Quảng-Ngãi cứ 1 thùng gạo cấp tiền 1 quan
- Chở từ Quảng-Nam cứ 1 thùng gạo cấp tiền 0,6 quan
(1 thùng = 57 phương 9 thăng)
- Chở từ Bắc-Thành ến Kinh, cứ 75 thăng gạo cấp 10
thăng cước phí
- Chở từ Thanh-Hóa ến Kinh, cứ 75 thăng gạo cấp 8
thăng cước phí
- Chở từ Nghệ-An ến Kinh, cứ 75 thăng gạo cấp 6
thăng cước phí
- Chở từ Quảng-Bình ến Kinh, cứ 75 thăng gạo cấp 4
thăng cước phí
- Chở từ Quảng-Trị ến Kinh, cứ 75 thăng gạo cấp 2
thăng cước phí
Giá-biểu cước-phí ược Vua Minh-Mạng sửa ổi lại vào
252
năm 1836 :
- Chở từ Quảng-Nam ến Kinh, m i 100 phương gạo cấp
1 quan
- Chở từ Quảng-Ngãi ến Kinh, m i 100 phương gạo cấp
1,7 quan
- Chở từ Bình- ịnh ến Kinh, m i 100 phương gạo cấp
2,4 quan
- Chở từ Phú-Yên ến Kinh, m i 100 phương gạo cấp
3,1 quan
- Chở từ Khánh-Hòa ến Kinh, m i 100 phương gạo cấp
3,8 quan
- Chở từ Bình-Thuận ến Kinh, m i 100 phương gạo cấp
4,5 quan
- Chở từ Lục tỉnh Nam-K ến Kinh, m i 100 phương
gạo cấp 5,2 quan
- Chở từ Quảng-Trị ến Kinh, m i 100 phương gạo cấp 3
quan
- Chở từ Quảng-Bình ến Kinh, m i 100 phương gạo cấp
5,1 quan
- Chở từ Hà-Tĩnh, Nghệ-An ến Kinh, m i 100 phương
gạo cấp 7,2 quan
- Chở từ Thanh-Hóa ến Kinh, m i 100 phương gạo cấp
9,3 quan
- Chở từ Bắc-K ến Kinh, m i 100 phương gạo cấp
11,4 quan
Các lái thuyền và thủy-thủ phải thuê mướn, nếu chở i
qua 1 tỉnh ến 4 tỉnh, chở gạo từ 450 phương ến 850
phương, ược 6 quan tiền và 6 phương gạo ; từ 1.000 ến
1.600 phương, cấp 7 quan tiền và 7 phương gạo ; từ 1.800
phương trở lên, thì tiền 8 quan gạo 8 phương. Nếu phải chở
qua 5 tỉnh trở lên, thì chiếu từng hạng, trả thêm tiền 3
quan, gạo 3 phương.
Tuy nhiên, phương-tiện vận-tải ít ỏi và chậm chạp làm
cho hàng-hóa và thổ-sản trong nước vận-chuyển rất khó
khăn. G p những năm mất mùa vì lụt lội hay hạn hán, thóc
lúa ở miền này không chở sang miền khác ược mau chóng
và dễ-dàng, làm giá gạo lên cao một cách quá áng trong
những miền cơ cận. Các biện-pháp kiểm-soát áp dụng bởi
chính phủ là một cản trở không nhỏ ối với các sự giao-
thông. Thường-dân muốn i lại trong nước, bằng ường
thủy cũng như ường bộ, phải xin cấp giấy thông-hành
253
trong ấy ược ghi rõ tên tuổi và k -hạn i về.
a) Xuất cảng
Sản-phẩm xuất cảng bằng thổ sản tại xứ : Nhận xét
- Qu : Nhiều hạng. Hạng thứ nhất bán ắt hơn vàng.
- H t tiêu : Sự trồng ã giảm i vì thuế má quá áng.
- Cau : Giá cau ã hạ theo t lệ từ 6 xuống 1, kể từ khi
người Mã-Lai trồng cho người Anh. Trước kia, thương-gia
Bồ- ào-Nha hàng năm em tới ến 19 tàu biển ể chở cau.
Khi ấy một tạ giá gần 2 piastres.
- Bông s ng : Hàng này gần như không có, xấp xỉ 7
piastres một tạ.
- Tơ s i : Tùy theo hạng tốt xấu, từ 3 ến 4 piastres
một livre (20 onces).
- Đường : Giá cả thay ổi từ 3 ến 4 piastres 1 tạ.
- G đ nhu m : Giá rất r .
- D u sơn B c-kỳ
- Các lo i cá khô : Một trong những loại hàng người Tàu
mua nhiều nhất. Tôi ã thấy cá khô mua 2 piastres một tạ
trong miền Hạ Nam-K , ược bán lại 12 piastres ở Macao.
Sản-phẩm xuất cảng bằng thổ sản của các quốc-gia
láng giềng : Nhận xét
- Răng voi nguyên hình : Từ Cao-Miên và Lào tới nhiều
nhất. Giá cả tùy theo hạng. Hai răng n ng một tạ trị giá gần
40 piastres.
- Thư-hoàng : Từ Cao-Miên tới ; giá rất biến ổi, từ 18
ến 40 piastres.
- Sa-nhân : Cùng nơi xuất xứ ; giá ổi thay tùy theo
hạng, từ 150 ến 200 piastres một tạ.
- Cá khô và m c : Cùng nơi xuất xứ.
- Vây cá : Cùng nơi xuất xứ.
- Da voi : Như trên. Người Tàu dùng ể làm ông
sương, canh ; giá từ 5 ến 10 piastres một tạ.
- Xương voi, xương trâu : Vật ổi chác với các loại bình.
- Vải chàm : Các loại vải bông do các man tộc dệt.
- Vải Cao-mên : Lụa, xuất cảng rất ít.
b) Nhập cảng
(Hàng nhập cảng : Nhận xét)
- Vải l a : Người Tàu em lại kim ngân oạn, lụa v , vải
hoa, dệt với tơ sợi mà họ ã ến mua.
-Đ s
- Trà
- Các lo i giấy : Giấy trắng, giấy phủ tường, giấy v
hoa, giấy mầu, giấy thếp vàng dùng trong tang lễ.
- Quả khô và ướp đường ướp mu i : Người Việt rất thích
ăn loại này.
- Các lo i bình : Làm bằng ất trắng, nh , chịu lửa.
- Đ chơi tr con : Xương trâu, xương voi ược biến-
chế.
CHƯƠNG VI : CÁC VẤN-ĐỀ XÃ-HỘI VÀ
CÁC ĐỀ-NGHỊ CẢI-CÁCH
b) Thư tịch
- CORDIER H., Bibliotheca Indosinica. Paris, 1912-1915,
4 quyển.
- EMBREE J.F. và DOTSON L.O., Bibliography of the
peoples and cultures of mainland Southeast Asia. New
Haven, Yale Univ., 1950, 821 tr.
- HOBBS C. et al., Indochina. A bibliography of the land
and people. Washington, Library of Congress, 1950, XII-367
tr.
- JUMPER R., Bibliography of the political and
administrative history of Vietnam. Saigon, Michigan State
University Advisory Group, 1962, 179 tr.
- NGUYỄN THẾ ANH, Bibliographie critique sur les
relations entre le Vietnam et l’Occident. Paris, G.P.
Maisonneuve et Larose, 1967, 310 tr.
c) Tác-phẩm tổng-quát
- BUTTINGER J., The smaller dragon, a political history
of Viêtnam. New York, 1958, 535 tr.
- CHESNEAUX J., Contribution à l’histoire de la nation
vietnamienne. Paris, 1955, 322 tr.
- CHESNEAUX J., L’Asie orientale aux XIXè et XXè
siècles. Paris, 1966, 371 tr.
- CULTRU P., Histoire de la Cochinchine française des
origines à 1883. Paris, 1910, 444 tr.
- ÀO DUY ANH, Việt-Nam văn-hóa s -cương, Saigon,
1951, 342 tr.
- DIGUET E., Les Annamites. Société, coutumes,
religions, Paris, 1906.
- GRIVAZ R., Aspects sociaux et économiques du
sentiment religieux en pays annamite. Paris, 1942.
- GOSSELIN Ch., L’Empire d’Annam. Paris, 1904, XXVI-
560 tr.
- HUARD P., và DURAND M., Connaissance du Việt-Nam.
Paris-Hanoi, 1954, 356 tr.
- ISOART P., Le phénomène nationnal vietnamien. Paris,
1961, 437 tr.
- LÊ THÀNH KHÔI, Vietnam. Histoire et Civilisation.
Paris, 1955, 587 tr.
- LƯƠNG ỨC THIỆP, Xã h i Việt-nam. Hanoi, 1944, 426
tr.
- LURO E., Le pays d’Annam. Paris, 1897, 248 tr.
- NGUYỄN VĂN HUYÊN, La civilisation annamite. Hanoi,
1943.
- ORY P., La commune annamite. Paris, 1894, 147 tr.
- ROUILLY M., La commune annamite. Paris, 1929, 147
tr.
- SCHREINER A., Les institutions annamites de la Basse
Cochinchine. Saigon, 1900-1902, 3 quyển.
- SILVESTRE J., L’Empire d’Annam et le peuple
annamite. Paris, 1889.
- TRẦN TRỌNG KIM, Việt-Nam s -lư c, in lần thứ 7.
Saigon, 1964, 586 tr.
- VŨ QUỐC TH C, L’économie communaliste du
Vietnam. Paris, 1950.
- VŨ VĂN HIỀN, La propriété communale au Tonkin.
Contribution à l’étude historique, juridique et économique
des công đi n et công th en pays d’Annam. Paris, 1939,
200 tr.
d) Nh ng ch viết tắt
B.A.V.H. : Bulletin des Amis du Vieux Huế.
B.E.F.E.O. : Bulletin de l’Ecole Française d’Extrême-
Orient.
B.S.E.I. : Bulletin de la Société des Etudes
Indochinoises.
NHÀ XUẤT-BẢN
L A-THIÊNG
442, Phú- ịnh (Phú-Lâm)
CHOLON
Chủ trương : VÕ-PHƯỚC-LỘC
TỦ SÁCH GIÁO-KHOA ĐẠI-H C
Sách đã xuất-bản :
- DÂN SỐ HỌC c a LÂM THANH LIÊM
- ỊA-L GIAO-THÔNG c a LÂM THANH LIÊM
- LỊCH-SỬ HOA-K (Từ ộc-lập ến chiến-tranh Nam-
Bắc) c a NGUY N TH ANH
- BÁN- ẢO ẤN Ộ (Từ khởi thủy ến thế-k thứ XVI)
c a PH M CAO DƯƠNG
- BẢO-T N TÀI-NGUYÊN THIÊN-NHIÊN c a PHÙNG
TRUNG NGÂN
- ỊA CHẤT HỌC THỰC-HÀNH c a TR N KIM TH CH,
NGUY N VĂN VÂN, LÊ QUANG XÁNG
- VIỆT-NAM DƯỚI THỜI PHÁP Ô HỘ c a NGUY N TH
ANH
- LỊCH-SỬ THÀNH LẬP ẤT VIỆT c a TR N KIM TH CH,
LÊ QUANG XÁNG, LÊ TH ĐÍNH
- ỊA-L KINH-TẾ (Dầu hỏa thế-giới và Hơi thiên-nhiên)
c a LÂM THANH LIÊM
- ỊA-L HÌNH-THỂ. Quyển I ( ịa hình-thái học) c a
LÂM THANH LIÊM
- ỊA-L HÌNH-THỂ. Quyển II (Khí-hậu-học nhập môn)
c a LÂM THANH LIÊM
- XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN-HÓA GIÁO-DỤC c a
NGUY N KH C HO CH
Sách sắp phát hành :
- THỔ NHƯỠNG HỌC ẠI-CƯƠNG (Bản chất và tính-chất
của ất) c a THÁI CÔNG T NG
- NHÂN-CHỦNG HỌC VÀ LƯ C-KHẢO THÂN-TỘC HỌC
c a B U L CH
- LỊCH-SỬ CHÁNH-TRỊ VÀ BANG GIAO QUỐC-TẾ THẾ-
GIỚI HIỆN ẠI. Quyển I (Giai oạn 1918-1939) c a HOÀNG
NG C THÀNH
Sách s in :
- GIẢI TÍCH HỌC c a NGUY N VĂN TH CH
- KHÍ-HẬU HỌC ( ại-cương và các khí-hậu nóng) c a
NGUY N TH ANH
- ỊA HÌNH-THÁI HỌC CẤU-TẠO c a LÂM THANH LIÊM
- PHƯƠNG-PHÁP NGHỊ-LUẬN VÀ PHÂN-TÍCH VĂN-
CHƯƠNG c a NGUY N THIÊN TH
- BÁN- ẢO ẤN- Ộ (Từ thế-k thứ XVI ến năm 1857)
c a PH M CAO DƯƠNG
- CUỘC TRƯỜNG-CHINH CỦA DÂN-TỘC VIỆT-NAM (Từ
Âu-Lạc ến Hậu-Lê) c a TR N H I VÂN
- BIÊN-KHẢO VỀ NGƯỜI TIỀN-SỬ (Thế-giới và Việt-
Nam) c a TR N KIM TH CH, TR N H I VÂN
- CƠ-L HỌC THẠCH-CẦU c a NGUY N H I
- LỊCH-SỬ CHÁNH-TRỊ VÀ BANG GIAO QUỐC-TẾ THẾ-
GIỚI HỆN ẠI. Quyển II (Từ ệ nhị thế chiến ến nay) c a
HOÀNG NG C THÀNH
- THỰC-VẬT CH NG c a PH M HOÀNG H
TỦ SÁCH « HƯƠNG BAY »
Đã phát-hành :
- NG QUÊ (Phóng sự, giải nhất cuộc thi văn-chương
của hội khuyến học Cần-Thơ năm 1943) c a PHI VÂN
Sắp phát hành :
- NG I QUÁN (thơ) c a VŨ HOÀNG CHƯƠNG
- ỜI V NG EM R I SAY VỚI AI ? (thơ) c a VŨ HOÀNG
CHƯƠNG
S in :
- TIẾNG CA BỘ LẠC (thơ) c a ĐINH HÙNG
- CÔ GÁI MA (kịch thơ) c a VŨ HOÀNG CHƯƠNG
- R NG PHONG (thơ) c a VŨ HOÀNG CHƯƠNG
- CÂU CHUYỆN HOA THƠ c a QUÁCH TẤN
TỦ SÁCH « HƯƠNG-XA »
S in :
- BÓNG CÂU QUA CỬA (tuyển tập truyện ngắn chiến
tranh của các nhà văn Do-Thái, Hòa-Lan, ức, …) Bản d ch
c a VŨ MINH THI U
- V NG ẦU của A. Soljenitsyne (giải thưởng Nobel
1970). Bản d ch c a VŨ MINH THI U
- KHU UNG THƯ
của A. Soljenitsyne (giải thưởng Nobel 1970). Bản d ch
c a VŨ MINH THI U
- MƯA TUYẾT (tuyển tập truyện ngắn của các nhà văn
Nga). Bản d ch c a VŨ MINH THI U
KINH TẾ VÀ XÃ HỘI VIỆT-NAM DƯỚI CÁC VUA TRIỀU
NGUYỄN CỦA NGUYỄN THẾ ANH DO LỬA THIÊNG ẤN HÀNH
LẦN THỨ HAI, NĂM 1970. BÌA DO HỌA SĨ VĂN THANH
TRÌNH BÀY.
Phát hành : Nhà sách PHONG-PHÚ
120, ĐINH-TIÊN-HOÀNG, 120
SAIGON
In xong 3.000 quyển ngày 15-12-1970
Tại Ấn Quán Phong-Phú.
442 Phú- ịnh Phú-Lâm (Cholon).
Notes
[←1]
Đ i-Nam đi n-lệ. Saigon, 1962, tr. 169.
[←2]
Đ i-Nam th c-l c chính-biên, ệ nhị k , q.199.
[←3]
Đ i-Nam Th c-l c Chính-biên, ệ 1 k , q.20.
[←4]
Đ i-Nam đi n-lệ, s d., tr. 155.
[←5]
Mân tiền : tức tiền chu i mây.
[←6]
iệu : chỉ chung các loại thuế lực-dịch.
[←7]
Cước mễ : thuế thu bằng gạo ể chi vào tiền công cước ho c cước phí.
[←8]
Đ i-Nam th c-l c chính-biên, ệ nhị k , q.180 và 204.
[←9]
Đ i-Nam Th c-l c Chính biên, ệ nhị k , q.121.
[←10]
« Đinh-D u, Minh-M ng năm th 18, mùa xuân, tháng 2… Vua d N i-các
r ng : 6 năm 1 l n duyệt tuy n là đ bi t h ng già, h ng tr , chia đ u
thu khóa, th c là việc to trong dân chính, không phải ch c t phô-trương
s đinh nhi u làm gì, th mà t trước đ n nay các đ a-phương c đ n kỳ
tuy n, s đinh thường thường thêm gấp lên, đ n năm sau l i giảm xu ng
như trước, toàn vì tuy n quan không bi t kính theo đ c ý c a tri u đình,
không h i tăng hay hao, không bi t th c hay d i, đ u cho biên thêm s
nhi u đ c u khen thưởng, đ n khi tuy n xong, s dân thêm hay giảm, l i
h i không liên-quan, có tính gì đ n… Chu n cho t nay, các quan l i vâng
mệnh đi duyệt tuy n, c t phải xem xét s dân tăng hay hao, chước lư ng
nhi u người hay ít người, không đư c cho tr n tránh, giấu gi m, cũng
không đư c b t ép tăng hão, còn có tình tệ cho quan đ a-phương c th c
h c tâu, n u thiên tư n giấu không phát ra, m t khi t ng lý đi kêu, l p t c
đem quan l i duyệt tuy n và quan đ a-phương giao b nghiêm ngh , n u
t ng lý không t cáo ngay, s tuy n đã xong mới tìm cách nói b a đ t là
ch t hay tr n đi đ mong đư c giảm bớt, thì phải t i ». (Đ i-Nam th c-l c
chính-biên, ệ nhị k , q.178)
[←11]
Đ i-Nam Th c-l c chính-biên, ệ nhị k , q.167.
[←12]
LÊ THÀNH KHÔI, Le Việt-Nam, Histoire et Civilisation, tr. 34.
[←13]
A. BOUINAIS và A. PAULUS, L’Indochine française contemporaine. Paris,
1885, q.II, tr. 495.
[←14]
Sách vừa d n trên, q.I, tr. 160-161 và Annuaire de la Cochinchine. Paris,
1884, tr. 402.
[←15]
Nhu vi n trong Khâm-đ nh H i đi n s lệ. Saigon, 1965-1966, 2 quyển.
[←16]
P. GOUROU, Le Tonkin. Paris, 1931.
[←17]
(1) : Đ i-Nam Nhất-th ng chí.
(2) : Châu bản ( c-biệt triều Minh-Mạng, tập LV, tờ 191-192)
(3) : Sử Qu c-tri u chánh-biên toát-y u, tr. 286-287.
(4) : số của năm 1831
[←18]
(1) : Đ i-Nam Nhất-th ng chí.
(2) : Châu bản ( c-biệt triều Minh-Mạng, tập LV, tờ 191-192).
(3) : Sử Qu c-tri u chánh-biên toát-y u, tr. 286-287.
ính chánh :
Xin thêm : tri u Gia-Long :
- Lạng-Sơn : 5.300
- Thái-Nguyên : 6.700
- Tuyên-Quang : 3.831
- Quảng-Yên : 2.100
[←19]
PHẠM-CAO-DƯƠNG, Thực-trạng của giới nông-dân Việt-Nam dưới thời
Pháp-thuộc. Saigon, Khai-Trí, 1967, tr. 223-227.
[←20]
G. KHERIA, Le problème démographique en Indochine. Hà-nội, 1937.
[←21]
P. GOUROU, L’utilisation du sol en Indochine française. Paris, 1940 tr. 196.
[←22]
NGUYỄN-THẾ-ANH, Quelques aspects économiques et sociaux du problème
du riz dans la première moitié du XIXè siècle. Bulletin de la Société des
Etudes Indochinoises. 1967, tr. 14.
[←23]
Annales de l’Association de la Propagation de la Foi, 1852, tr. 24.
[←24]
LÊ THÀNH KHÔI, sách ã d n, tr. 38.
[←25]
Tổ-chức hành-chánh của xứ Nam-k ến cuối thế-k XVII mới ược thực-
hiện : « M u-D n (1698). B t đ u đ t ph Gia-Đ nh. Sai th ng-suất
Nguy n-H u-Kính kính-lư c đất Chân-L p, chia đất Đông-ph , lấy x
Đ ng-Nai làm huyện Phúc-Long (nay thăng làm ph ), d ng dinh Trấn-Biên
(t c Biên-Hoà ngày nay), lấy x Saigon làm huyện Tân-Bình (nay thăng
làm ph ), d ng dinh Phiên-Trấn (t c Gia-Đ nh ngày nay), m i dinh đ u đ t
các ch c lưu-th , cai b , k l c và các cơ đ i thuy n thu b tinh binh và
thu c binh. Mở r ng đất đư c nghìn d m, đư c hơn 4 v n h , bèn chiêu
m nh ng dân xiêu gi t t B -Chính trở v nam cho đ n ở cho đông.
Thi t-l p xã thôn phường ấp chia c t giới-ph n, khai-kh n ru ng nương,
đ nh lệ thu tô d ng, làm sở đinh-đi n ». ( ại-Nam Thực-lục tiền-biên,
q.7)
[←26]
Xem thêm PHAN KHOANG, Lược sử chế- ộ xã thôn ở Việt-Nam. Sử ịa, số
1, 1966, tr. 34-51.
NGUYỄN HỮU KHANG, La commune anamite. Paris, 1946.
[←27]
Một ví-dụ : P. PASQUIER, L’Annam d’autrefois. Paris, 1930, 338 tr.
[←28]
Paul MUS, Việt-nam. Sociologie d’une guerre. Paris, Ed, du Seuil. 1952, tr.
20.
[←29]
Canh-Tuất… ra lệnh cho những người ường thuộc các tỉnh Quảng- ông,
Phúc-Kiến, Hải-Nam, Triều-Châu, Thượng-Hải, ngụ ở trong hạt, m i tỉnh
t một người cai phủ và một người k phủ, rồi chiếu theo số hiện tại,
ho c làm binh ho c làm dân, làm thành 2 sổ do Binh bộ và Hộ bộ phê chữ
làm bằng… (Đ i Nam Th c-l c chính-biên, ệ nhất k , q.4)
[←30]
CHEN-CHING-HO, Làng Minh-hương và phố Thanh-Trà thuộc tỉnh Thừa-
Thiên. Đ i-h c, tháng 7-1961, tr. 120.
[←31]
Mạc Thiên-tử là người Tầu lai Việt : nếu cha ông, Mạc Chử, người khai tác
tỉnh Hà-Tiêu, là Hoa-kiểu, thì m ông, Bùi-Thị-L m, người làng ồng-Môn,
trấn Biên-Hòa là dân Việt : Xem E.GASPARDONE, Un Chinois des mers du
Sud. Journal Asiatique, 1953, tr. 363.
[←32]
TRẦN KINH H A, Thành-trì chí của Trịnh Hoài ức. Hoa kiều và Nam-k
ầu thế-k XIX. Đ i-h c, số 5, 1961, tr. 62-68.
[←33]
Vài ví-dụ :
- « Ất-Mùi (1835)… người nhà Thanh, h biệt n p ở ph L c-Lai, huyện
Kiên-Giang, t nh Hà-Tiên, theo lệ phải n p s t chín m i người 50 cân, nay
xin n p thay b ng s t s ng ở Ngưu-Giang 120 cân ». (Đ i-Nam th c-l c
chính-biên, ệ nhị k , q.150)
- « Ất-Mùi (1835), tháng 11… An-Hà T ng-đ c Trương Minh Giảng và An-
Giang Tu n-ph Lê Đ i Cương tâu nói : chiêu m đư c 108 người nhà
Thanh l p làm h nh a chàm và h d u rái, 35 người làm h diêm-tiêu,
v y xin liệu đ nh ng ch thu . Vua y cho : Hai h nh a và d u h ng năm
m i người n p 50 cân ; h diêm-tiêu h ng năm m i người n p 8 cân ».
(Như trên, q.162)
[←34]
M.VERDEILLE. Edits de Minh-Mạng concernant les Chinois de Cochinchine.
B.S.E.I, oct-dec. 1933, tr. 13-25.
[←35]
Đ i-Nam th c-l c chính-biên, ệ nhị k , q.195.
[←36]
Đ i-Nam đi n-lệ, s d., q.181.
[←37]
TRẦN KINH H A, bài ã d n, Đ i-h c, 1961 (5), tr. 62-74 ; 1961 (6), tr.
32-62 ; 1962.
[←38]
Thông chí Cương v c chí, d n bởi TRẦN-KINH-H A, Đ i-h c 1962, tr. 159.
[←39]
Qu c-tri u chính-biên toát y u, q.1.
[←40]
V. PURCELL, The Chinese in South-east Asia. London 1965 (2nd ed.).
[←41]
CHEN CHING HO, Mấy iều nhận xét về Minh-hương xã và các cổ tích tại
Hội-An, Việt-Nam khảo c t p san, số 1, tr. 1-30 ; số 2, tr. 3-40.
[←42]
« …H i-An là m t mã-đ u lớn, nơi t p-h p c a khách hàng các nước, th ng
bờ sông, m t con đường dài ba b n d m là Đ i-Đường-Cái, hai bên đường
hàng ph ở li n nhau khít r t, ch ph th y đ u người Phúc-Ki n, v n ăn
m c theo l i ti n-tri u… Nh ng khách trú ở đây hay cưới v bản-x cho
tiện việc thương mãi… » (THÍCH ẠI-SÁN, Huế, Hải-ngo i k -sư 1963, tr.
151).
[←43]
TRẦN-KINH-H A, Làng Minh-hương và phố Thanh-Hà thuộc tỉnh Thừa-
Thiên. ại-học, 1961, số 3, tr, 96-121.
[←44]
Đ i-Nam Th c-l c chính-biên, ệ nhất k , q.3.
[←45]
Như trên, q.20.
[←46]
Đ i-Nam Th c-l c chính-biên, ệ nhị k , q.104 và 109.
[←47]
Như trên, q.105.
[←48]
Như trên, q.109.
[←49]
Đ i-Nam Th c-l c chính-biên, ệ nhị k , q.122.
[←50]
Đ i-Nam Th c-l c chính-biên, ệ nhị k , q.143.
[←51]
Trước là ồn An-Man ở Nam-Vang, ược ổi làm thành Trấn-Tây ể làm
trung-tâm của nền bảo-hộ trên xứ Chân-Lạp.
[←52]
Đ i-Nam Th c-l c chính-biên, ệ nhị k , q.176.
[←53]
Xã-h i Việt-Nam. Hà-Nội, 1944, tr. 97.
[←54]
Xã-h i Việt-nam trước đây có phải là phong ki n không ? Sử- ịa, số 6, tr.
29.
[←55]
Về iều-lệ thi cử, xem : Đ i-Nam Đi n-lệ, s d., tr. 357-375.
[←56]
Đ i-Nam Đi n-lệ, s d., tr. 19-27.
[←57]
Xem ngạch lương bổng của các quan-viên trong Đ i-Nam Đi n-lệ, tr. 227-
229.
[←58]
Quốc-triều chính biên, s d., q.V.
[←59]
ại-Nam iển-lệ, tr. 83.
[←60]
ại-Nam iển-lệ, tr. 65-67.
[←61]
Lấy ví-dụ dòng dõi của Lê Duy Hoán ã ược Vua Gia-Long phong cho tước
Diên-tự-công : năm 1874, hậu-duệ của Lê Duy Hoán là Lê Duy Kiến ược
Vua Tự- ức chuẩn phong làm Diên-tự-nam. Khi ấy, Lê Duy Kiến cư trú tại
Bình- ịnh ; ược lệnh về Thanh-Hóa ể chủ-tự nhà Lê, Kiến ã xin ược
lưu lại Bình- ịnh, Vua Tự- ức chấp thuận, nhưng ình việc lập tước và
giám tự ; song nhà Vua cho Lê Duy Kiến ược tha thuế trọn ời. Qu c-tri u
chính-biên toát-y u, q. V.
[←62]
ại-Nam Đi n-lệ, tr. 79-81.
[←63]
Quốc-triều chính-biên toát-yếu, q.V.
[←64]
Đ i-Nam Đi n-lệ, tr. 105.
[←65]
Đ i-Nam Th c-l c chính-biên, ệ I k , q.17.
[←66]
Như trên, q.23.
[←67]
Như trên, q.26.
[←68]
Đ i-Nam Th c-l c chính-biên, ệ nhị k , q.159.
[←69]
Đ i-Nam Đi n-lệ, tr. 157.
[←70]
Xem : Công-th n L c. Công-th n đời Gia-Long, Saigon, Bộ Giáo Dục,
1968.
[←71]
Muriel TEXIER, Le mandarinat au Vietnam au XIXè siècle. B.S.F.I., 1962, tr.
330-376, có một thư mục dồi dào. Cũng ọc thêm quyển tiểu-thuyết lịch-
sử của NGÔ TẤT TỐ, L u chõng và TRẦN VĂN GIÁP, Lư c khảo v khoa c
Việt-Nam t khởi th y đ n khoa M u-Ng , 1918. Hà-Nội. 1941, 48 tr.
[←72]
Qu c-tri u chính-biên toát-y u, q.V.
[←73]
Đ i-Nam Th c-l c chính-biên, ệ nghị k , q.154.
[←74]
Ch. PATRIS, Notice nescrologique de S.E. Cao Xuân D c. B.A.V.H., 1923,
tr. 433-472.
[←75]
Tập-san S -Đ a, số 7, c khảo về Phan Thanh Giản, và Đ i-Việt l ch-tri u
đăng khoa l c. Saigon, Bộ Giáo-dục, 1968, q.Nhì, tr. 744.
[←76]
Binh-bộ Thượng-thư dưới thời Vua Gia-Long, tác-giả quyển Nhất th ng dư
đ a chí.
[←77]
Ng t nghèo hơn nữa, năm 1837 Vua Minh-Mạng ra dụ cho các quan không
ược thụ-nhiệm cả tại quê ở ngụ, quê m , quê vợ và ịa-phương lúc bé i
học. Ví-dụ cụ-thể là trường-hợp Nguyễn-Song-Thanh : « B -chính Đ nh-
Tường là Tr n-Tuyên có tang xin ngh việc, Vua cho Th B -chính Bình-
Đ nh là Hà-Đăng-Khoa làm B -chính Đ nh-Tường, Lang-trung b H biện-lý
b -v là Nguy n-Song-Thanh thăng Th B -chính Bình-Đ nh. Trước đình-
th n c a Song-Thanh thăng Th B -chính Đ nh-Tường. Vua đã y cho, r i
l i nghĩ Song-Thanh t lúc bé đi h c ở Nam-kỳ, quen bi t nhi u mới đ i b
đ n Bình-Đ nh ». (Đ i-Nam Th c-l c chính-biên, ệ nhị k , q.180)
[←78]
PHẠM VĂN DIÊU, Việt-Nam văn-h c giảng bình, Sàigon, Hoành-Sơn, 1970,
tr. 108.
[←79]
Xem Bản tri u b n ngh ch liệt truyện. Saigon, 1963, tr. 109-121.
[←80]
PHẠM VĂN DIÊU, sđđ tr. 108 và 110.
[←81]
TRẦN TRỌNG KIM, Việt-Nam s -lư c. Saigon, Tân-Việt, 1964, tr. 435.
[←82]
Như trên, tr. 480.
[←83]
Xem Đ i-Nam đi n-lệ, tr. 492-495, và ạo dụ của Vua Tự- ức nói về các
tệ- oan của nền hành-chánh, trong phần phụ trương chương này.
[←84]
Xem những lời tự thán của Vua Tự- ức, phần phụ-trương II chương này.
[←85]
Qu c-tri u chính-biên toát-yếu, q.V.
[←86]
Tức là Vua cày 3 luống.
[←87]
Đ i-Nam H i-đi n, tr. 335.
[←88]
Đ i-Nam Th c-l c chính-biên, ệ nhất k , q.4.
[←89]
TRẦN TRỌNG KIM, sdđ, tr. 437.
[←90]
Đ i-Nam Th c-l c chính-biên, ệ nhị k , q.171.
[←91]
Xem : PHAN HUY LÊ, Ch -đ ru ng đất và kinh-t nông-nghiệp thời Lê sơ.
Hà-Nội, 1959.
[←92]
Đ i-Nam Th c-l c chính-biên, ệ nhất k , q.24.
[←93]
Qu c-tri u chính-biên toát-y u, q.III, Canh-t (1840), tháng sáu.
[←94]
ÀO DUY ANH, Việt-Nam văn-hóa s -cương, tr. 55.
[←95]
Đ i-Nam đi n-lệ, tr. 173.
[←96]
Đ i-Nam đi n-lệ, tr. 173
[←97]
Đ i-Nam Th c-l c chính-biên, ệ nhất k , q.3.
[←98]
Đ i-nam Th c-l c, ệ nhị k , q.172. Cũng xem : VŨ HUY PH C, Chính-
sách công- iền, công-thổ của nhà Nguyễn nửa ầu thế-k XIX, Nghiên-c u
L ch-s , tháng 5-1964, tr. 41 và tiếp theo.
[←99]
Công thêm tiền thập vật m i m u 3 tiền.
[←100]
Công thêm tiền thập vật m i m u 3 tiền.
[←101]
Đ i-Nam Th c-l c chính-biện, ệ nhị k , q.172.
[←102]
Qu c-tri u chính-biên toát-y u q.V, Ất-hợi, tháng bảy.
[←103]
Đ i-Nam đi n-lệ, tr. 223.
[←104]
VŨ HUY PH C, bài ã d n, tr. 48-49.
[←105]
Đ i-Nam đi n-lệ, tr. 223.
[←106]
Qu c-tri u chính-biên, q.II, Bính-dần, tháng bảy.
[←107]
Như trên, q.V, Ất-mão (1855), tháng bảy.
[←108]
Đ i-Nam Th c-l c chính-biên, ệ nhị k , q.190.
[←109]
Đ i-Nam th c-l c chính-biên, ệ nhị k , q.190.
[←110]
Đ i-Nam đi n-lệ, tr. 163.
[←111]
L ch-tri u hi n-chương lo i chí, Qu c-d ng chí, q.30.
[←112]
Đ i-Nam Th c-l c chính-biên, ệ nhị k , q.21.
[←113]
« Canh-Tý (1840), tháng 8… Ph An-Khánh có xã B ng-Hải đ nh s hơn
900 người, đi n-th hơn 10.000 m u, công-đi n ph n nhi u b k cường-
hào cho thuê mưu l i, thường sinh tranh kiện, đ n n i ng ch thu đ
thi u ». (Qu c-tri u chính-biên, q.III).
[←114]
Đ i-Nam Th c-l c chính-biên, ệ nhị k , q.3.
[←115]
Đ i-Nam Th c-l c chính-biên, ệ nhị k , q.186.
[←116]
Như trên, q.200.
[←117]
Như trên, q.204.
[←118]
Qu c-tri u chính-biên, q.III, K -hợi.
[←119]
Như trên, q.IV. Tân-sửu.
[←120]
Qu c tri u chính biên, q.V, Nhâm-t (1852), tháng I
[←121]
Qu c tri u chính biên quyển 5 : « Giáp-Tý, tháng 10. Nghiêm cấm bán
riêng ru ng công. Ru ng công không đư c bán riêng : như có việc công
kh n tr ng, thời lý-trưởng đư c phép h i-đ ng dân mà cho thuê mướn,
nhưng không đư c quá h n 3 năm ».
[←122]
Qu c tri u chính biên, quyển 5, Tân-vị (1871).
[←123]
LÊ THƯỚC, Nguyễn-Công-Trứ, Hà-Nội, 1928, tr. 136.
[←124]
Qu c tri u chính biên, quyển 5, Nhâm-T , tháng 2.
[←125]
NHÀN VÂN ÌNH, Quần-phương nông tuế khảo. Nam-phong, tháng 4-
1931, tr. 385-398.
[←126]
Sách ã d n, trang 44.
[←127]
Một trượng bằng 4 m. Chiều dài của hệ-thống ê iều vào năm 1809 như
thế vào khoảng 960 km.
[←128]
Tức là khoảng 1.215 km. Về chính-sách hộ ê, xem Đ i-Nam đi n-lệ, s d.,
tr. 545-563.
[←129]
Đ i-Nam đi n-lệ, tr. 557-561.
[←130]
ÀO DUY ANH, sách ã d n, tr. 48.
[←131]
Cái guồng, ược nhập-cảng trong miền Thừa-Thiên bởi L Văn Phúc sau
khi i sứ ở Trung-Quốc về.
[←132]
Đ i-Nam Th c-l c chính-biên, ệ nhị k , q.115.
[←133]
Đ i-Nam Th c-l c chính-biên, ệ nhị k , q.135.
[←134]
HOA BẰNG, Lược khảo về lịch-sử ê qua các triều- ại, Tập san Nghiên-cứu
Văn Sử ịa, số 31, tháng 8-1957, tr. 1-17.
[←135]
Qu c-tri u chính-biên. q.V, Nhâm-Thân.
[←136]
D n bởi Bùi-Công-Tung, La succession de Thiệu-Trị. B.S.E.I, 1er sem.
1967, tr. 52.
[←137]
T m d ch : ở Văn-Giang và Tiên-Lữ, có những vụ lụt liên tiếp gây thiệt hại
vô kể. Trên khoảng rộng 10.000 d m, nhà cửa hoàn toàn iêu tàn sụp ổ.
Sâu bọ làm tổ trên ỉnh tre và cây. Thu ến nhưng cây lúa không có ược
nửa bông, các hạt thóc còn ược giữ lại bị ếch và rùa ăn hết. Ai nấy cũng
chạy i tìm kế sinh nhai, nhưng vì không mua ược gạo, phải trở về với hai
bày tay trống r ng…
[←138]
Xin ọc thêm : NGUYỄN THẾ ANH.
[←139]
ÀO DUY ANH, sách ã d n, tr. 51. Trong một bức thư ề ngày 2-1-1858,
giám-mục Relord cũng viết : « …các dân nghèo bán cho nhà gi u và với
giá rát h các th a ru ng c a h , hay mư n vài đấu g o, với lời h a h n là
s trả gấp b n l n trong mùa g t tới, thành th s thu ho ch s p có ch đ
đ trả các món n , h s phải ch u ngay t c thì m t v đói mới. Vào lúc tôi
vi t các hàng ch này, g n như không th tìm ra g o đ mà vay mư n, cả
với nh ng đi u-kiện n ng-n như th … » (d n bởi B I QUANG TUNG, La
succession de Thiệu-Trị, B.S.E.I. lersem. 1967, tr. 61).
[←140]
Lê-tri u chi u-l nh thiện-chính. Saigon, ại-học Luật-khoa, 1961.
[←141]
Qu c-tri u chính-biên toát-y u, q.II.
[←142]
ại-Nam Thực-lục chính-biên, ệ nhị k , q.190.
[←143]
E. LURO, Le Pays d’Annam, tr. 243-244.
[←144]
NGUYỄN ỔNG CHI và NINH VIẾT GIAO, Hát gi m Nghệ-Tĩnh, tập II, tr.
24-25.
[←145]
Bản tri u b n ngh ch liệt truyện, tr. 25.
[←146]
« Quí-T , mùa thu tháng 8… B -chính Hưng-Yên Vũ-Tuấn tâu : dân b th y
tai trong t nh h t đư c ch n cấp. Nhưng ở t nh l , dân xiêu gi t nghe tin
đư c ch n cấp, kéo đông đ n ki m ăn. Hiện đ t trường phát ch n ở m t đê
ngoài thành, 3 ngày m t l n phát ch n. Vua bảo B H : t h p dân ở t nh
thành, không phải là chính-sách t t đ c u đói, mà ti u-dân hôm sớm
ch u ch c mi ng ăn, có h i đ n việc làm l ng sinh s ng. Phái Phan Bá Đ t
đ n h i-đ ng với t nh-th n, chi u theo s người liệu cấp cho ti n và g o
m t l n (người lớn 5 ti n và 15 uy n g o, người nh 3 ti n và 10 uy n
g o), r i ra lệnh cho h trở v quê hương làm ăn, đ i sau khi g t mùa r i,
n u còn th c tr ng đói rét ng t nghèo, thì do t nh th n tâu lên, s ra ơn
cho ch n cấp ». (Đ i-Nam Th c-l c chính biên, ệ nhị k , q.103)
[←147]
Đ i-Nam đi n-lệ, tr. 277.
[←148]
Đ i-Nam Th c-l c chính-biên, ệ nhị k , q.104.
[←149]
Đ i-Nam Th c-l c chính biên, ệ nhỉ k , q.160.
[←150]
Đ i-Nam đi n-lệ, tr. 215.
[←151]
Đ i-Nam đi n-lệ, tr. 283.
[←152]
Đ i-Nam Th c-l c chính-biên, ệ nhị k , q.144.
[←153]
Đ i-Nam Th c-l c chính biên, ệ nhị k , q.103.
[←154]
Như trên, q.149.
[←155]
B I QUANG TUNG, bài ã d n, tr. 63.
[←156]
NGUYỄN KH C ẠM, Vai-trò của nhà nước về vấn- ề khai hoang trong
lịch-sử Việt-Nam. Nghiên-c u l ch-s , số 39, 1962.
[←157]
Qu c-tri u chính-biên toát-y u, q.III, Tân-Mão (1831), tháng 5.
[←158]
« Huyện Ti n-Hải nguyên là đất b tr ng theo d c bờ bi n hai huyện Chân-
Đ nh và Giao-Th y, năm Minh-M ng th 10 mới đ t huyện, năm th 13
biệt làm phân ph th ng h t ». (Đ i-Nam Nhất-Th ng-Chí, t nh Nam-Đ nh)
« Huyện Kim-Sơn nguyên là huyện h t An-Mô, phía đông nam d c theo
mi n bi n đ u là ru ng hoang, năm Minh-M ng th 10 Dinh-đi n-s
Nguy n-Công-Tr vâng mệnh đo đ c l p làm 1 huyện… » (Đ i-Nam Nhất-
Th ng-Chí, t nh Ninh-Bình)
[←159]
LÊ THƯỚC, Nguy n-Công-Tr , tr. 44.
[←160]
« Giáp-Tý, tháng 4, đ nh l i lệ kh n ru ng trước t ch. Người nào xuất c a
nhà ra làm, cho nh n làm ru ng tư, còn người nào quan cho mư n ti n mà
làm thời trong s ru ng đã kh n đó, lấy hai ph n làm ru ng công, m t
ph n làm ru ng tư ». (Qu c-Tri u Chính-biên toát-y u. q.V)
[←161]
Qu c-Tri u chính-biên, q.IV, Tân-Sửu, tháng 6.
[←162]
« Vua cho là đảo Côn-Lôn t nh Vĩnh-Long, đất r ng t t màu mà dân ở thưa
thớt. D cho quan t nh s c b n bi n binh trú phòng ra s c khai kh n, đ u
lư ng cấp cho canh ngưu đi n khí và thóc gi ng tùy theo th nghi mà gieo
tr ng lúa m khoai đ u đ ăn dùng. L i truy n d 5 t nh là Long, Tường,
Đ nh, Biên và An Giang, đ u m dân trong h t, không c trai gái già tr ,
n u ai tình nguyện đ n ở đảo ấy, thì cấp ti n v n m i người 10 quan ho c
3, 5 quan ». (Đ i-Nam Th c-l c chính-biên, ệ nhị k , q.210)
[←163]
(1) : Đ i-Nam Th c-l c chính biên, ệ nhị k , q.171.
(2) : Như trên, q.208.
[←164]
(1) : Đ i Nam Th c l c chính biên, ệ nhị k , q.171.
(2) : Như trên, q.208.
[←165]
« K ra m dân làm đ n đi n, có l i rất nhi u. Lúc vô s thì ở yên c y cấy,
quân th a lương, dân th a ăn ; lúc có việc thì bảo-vệ cho nhau, dân đ u là
quân, gi thì v ng, đánh thì th ng. Đó là mưu k t t nhất đ đ lương, đ
quân, có th gi v ng bờ cõi và phòng b gi c ngoài ». (Đ i-Nam Th c-l c
chính-biên, ệ nhị k , q.155)
[←166]
Đ i-Nam Th c-l c chính-biên, ệ nhất k , q.5.
[←167]
Đ i-Nam Th c-l c chính-biên, ệ nhị k , q.147.
[←168]
Đ i-Nam Th c-l c chính-biên, ệ nhị k , q.179.
[←169]
Đ i-Nam Th c-l c chính-biên, ệ nhị k , q.155.
[←170]
Đ i-Nam Th c-l c chính-biên, ệ nhị k , q.172, Bính-Thân (1836), tháng
8.
[←171]
Đ i-Nam Th c-l c chính-biên, ệ nhất k , q.5 và q.8.
[←172]
Qu c-tri u chính-biên toát-y u, q.V, Quí-Sửu, tháng giêng.
[←173]
Qu c-tri u chính-biên toát-y u, q.V, Ất-Sửu, tháng 6 và Bính-Dần, tháng
9.
[←174]
P. GOUROU, L’utilisation du sol en Indochine française. Paris, 1940, tr. 265.
[←175]
Qu c-tri u chính-biên toát-y u, q.V.
[←176]
PHAN GIA BỀN, Sơ thảo l ch-s công-nghiệp Việt-Nam. Hà Nội, 1957, tr.
111. Tác-giả này có d n ví-dụ một số làng Bắc-K tại ó một số thợ thủ
công phải thuê thêm thợ ở các làng lân-cận.
[←177]
PHAN GIA BỀN, s , tr. 139.
[←178]
P.GOUROU, Les paysans du delta tonkinois. Paris, 1936, tr. 527.
[←179]
Charles ROBEQUAIN, Le Thanh-Hóa, Paris 1929, tr. 445.
[←180]
PHAN GIA BỀN, sđd, tr. 146.
[←181]
Đ i-nam đi n-lệ, s d, tr. 183.
[←182]
Đ i-Nam đi n-lệ, tr. 187.
[←183]
Đ i-Nam th c-l c chính-biên, ệ nhị k , q.176 (Bính-thân, tháng 12).
[←184]
« C 6 ngày thì có phiên ch ở Hà-N i. Người buôn bán và th th -công t
thôn kéo v , người bán tơ l a thì vào ph Hàng Đào, th dao kéo vào ph
Hàng Đ ng, th làm nón vào ph Hàng Nón, tóm l i m i người vào ph
phường chuyên môn c a mình ». (P. BOURDE, De Paris au Tonkin. Paris,
1885, tr. 286-287)
[←185]
PHAN GIA BỀN, sđd, tr. 170.
[←186]
Đ i-Nam th c-l c chính-biên, ệ nhị k , q.209.
[←187]
Đ i Nam th c l c chính biên, ệ nhị k , q.147.
[←188]
Như trên, q.220.
[←189]
Đ i Nam th c l c chính biên, ệ nhị k , q.175.
[←190]
Như trên, q.178.
[←191]
Đ i-Nam th c-l c chính bi n, ệ nhị k , q.202.
[←192]
P. HUARD và M. DURAND, Connaissance du Vietnam. Paris-Hanoi, 1954, tr.
153.
[←193]
Đ i-Nam đi n-lệ, s d, tr. 569.
[←194]
Qu c-tri u chính-biên, q.2, Nhâm-thân.
[←195]
Như trên, Quí-hợi, tháng 10.
Năm 1834, lương thợ úc ở cục úc tiền Hà-Nội ược ịnh như sau :
« Người đ u lò m i tháng 6 quan, người phó lò tháng 5 quan, người ph lò
tháng 4 quan, và m i người m i tháng đư c 1 phương g o ». (Đ i-Nam
th c-l c chính-biên, ệ nhị k , q.120)
[←196]
Đ i-nam đi n-lệ, s d, tr. 211.
[←197]
Đ i-Nam th c-l c chính-biên, ệ nhị k , q.109 và 180.
[←198]
P. HUARD và M. DURAND, Connaissance du Việt-Nam, tr. 129.
[←199]
Châu-bản, Minh-Mạng năm thứ 19, tập 72, tờ 151-152.
[←200]
Đ i-nam th c-l c chính-biên, ệ nhị k , q.201.
[←201]
Đ i-nam th c-l c chính-biên, ệ nhị k , q.214.
[←202]
Như trên, q.215.
[←203]
Như trên, q.181.
[←204]
Châu bản, Minh-Mạng năm thứ 7, tập 15, tr. 65 : « B n Cao Khôi, th hiệp
th đóng thuy n ở 5 xã Do-L , L c-Châu, V n-L c, Hoàng-Lao và Áng-Đ
thu c trấn Nghệ-An kính tâu : chúng tôi là dân làm ngh đóng thuy n, t
tháng 9 năm Minh-M ng th 6 trở v trước, nhân s 693 người, thường
năm thay phiên v Kinh và ở trấn làm công v , mong đư c chu n mi n
ti n dung mân và g o cước. Tháng 10 năm ấy g p kỳ duyệt tuy n, có tước
b nh ng người già bệnh, đi tr n và ch t c ng 137 tên, dân đinh đ n tu i
đăng t ch đư c 131 tên, mà nh ng viên ch c thâu thu t i trấn c chi u s
dân đăng t ch ấy d c thâu ti n dung mân và g o cước, rất là kh sở… »
Châu bản, Minh-Mạng năm thứ 10, tập 37, tr. 58 : « Kỳ mới r i, đòi 5 tên
nấu đường ở Quảng-nam và 2 tên th v giấy kim-tiên ở B c-Thành tới sở
Võ-kh làm việc, cấp m i tên ăn lương tháng c ti n 1 quan, g o 1
vuông… »
[←205]
Đ i-nam th c l c chính-biên, ệ nhị k , q.220, Canh-t (1840), tháng 12.
[←206]
P. de LA BISSACHERE, Relation sur le Tokin et la Cochinchine. Paris, 1919.
[←207]
Michel ức CHAIGNEAU, Souvenirs de Hu . Paris, 1867, tr. 169.
[←208]
PHAN HUY CH , L ch tri u hi n chương lo i chí. Saigon, 1957, tr. 465-471.
[←209]
PHẠM HUY LÊ, Tình hình khai mỏ dưới triều nguyễn, Nghiên-c u l ch-s ,
tháng 6-1903, tr. 40-48 ; tháng 7-1964, tr. 46-54.
[←210]
Đ i-nam th c-l c chính-biên, ệ nhị k , q.208.
[←211]
Trích trong PHAN HUY LÊ, Tình hình khai mỏ dưới triều Nguyễn, Nghiên
c u l ch s , số 51 (VI-1953), tr. 41.
[←212]
« Nhâm-thìn (1832). Tháng 5, l i mở m vàng ở t nh B c-Ninh, L ng-Sơn,
Cao-B ng, Thái-Nguyên, Tuyên-Quang đ thu thu . Khi trước gia thu
không ai lĩnh trưng, phải lấp l i, đ n đây mới thuê người Tàu lấy ». (Qu c
tri u chính-biên toát y u, q.III)
[←213]
Đ i-Nam th c-l c chính-biên, ệ nhất k , q.20.
[←214]
Như trên, q.6.
[←215]
Như trên, ệ nhị k , q.121.
[←216]
Như trên, ệ nhị k , q.202.
[←217]
Năm 1811 : « người Phúc-ki n Lý Tài-Tú và Lâm-Húc-Tam trưng th u (m
s t Gò-S t thu c t nh Biên-Hòa) n p thu ; b n ấy bi t cách ch luyện
đư c nhi u s t t t, và rèn đ bán đư c nhi u lời, nhân trở nên giàu có,
đem c a v Tàu ». (Qu c tri u chánh biên, quyển thứ 2)
[←218]
« Phàm người Thanh buôn bán làm thuê làm mướn mà v nước, dám riêng
mang vàng b c ra kh i đ a giới, thì l p t c b t giải đ n quan x theo lu t,
trái phép, tang v t đ n 50 l ng trở lên thì tr t i n ng, 120 l ng trở lên thì
x trảm giam h u, còn tang v t xung công ». (Đ i-Nam th c-l c chính-
biên, ệ nhị k , q.201, K -hợi (1839), tháng 4)
[←219]
Đ i-Nam th c-l c chính-biên, ệ nhất k , q.19.
[←220]
Như trên, q.24.
[←221]
Đ i-Nam th c-l c chính-biên, ệ nhị k , q.161 và 175. Những người làm
việc trong hai trường mỏ Lũng-Sơn và Chỉ-Sơn của chính phủ chỉ ược trả
m i tháng tiền 3 quan, gạo một phương. Vì có công chiêu mộ hóa-phu,
Chu Danh Hổ ược thưởng thụ chánh bát phẩm bá-hộ.
[←222]
Đ i-Nam th c-l c chính-biên, ệ nhất k , q.21, và Qu c-tri u chính-biên,
q.III.
[←223]
« Sai t nh Tuyên-Quang đ t mua đ ng đ T -Long, giao trước ti n công đ
làm v n cho các nghiệp-h , h ng năm đ t s ng ch nhất đ nh là 100.000
cân, cấp ti n 40 quan » (Đ i Nam th c l c chính biên, ệ nhị k , q.175,
Bính-thân (1836), tháng 11)
[←224]
Đ i Nam th c-l c chính biên, ệ nhị k , q.208.
[←225]
Đ i-Nam th c l c chính biên, ệ nhị k , q.203.
[←226]
Đ i-Nam th c l c chính biên, ệ nhị k , q.150.
[←227]
Như trên, q.203, K -hợi, tháng 6.
[←228]
Đ i-Nam th c-l c chính-biên, ệ nhỉ k , q.204 và 206.
[←229]
« Lệ năm T -Đ c th hai đ nh r ng người ở trong h t B c Kỳ, n u có tìm
đư c m sản-xuất k m tr ng, mà tình-nguyện t xuất tài l c đ khai ra lấy
qu ng, thì mi n cho ti n thu m ; đ t ba, b n năm sau, s theo thu
ng ch mà thu ». (Đ i-Nam đi n-lệ, s d., tr. 177)
[←230]
ệ nhị k , q.199.
[←231]
Tháng 11 năm 1833, tổng- ốc Thái-Nguyên Nguyễn ình Phổ báo cáo về
triều rằng trong hàng ngũ quân Nông Văn Vàn có « người Th , Man sở t i
và người Thanh ở các m vàng, m b c, m s t, theo nhi u ». (Đ i-Nam
th c-l c, ệ nhị k , quyển 108)
[←232]
Đ i-Nam th c-l c chính biên, ệ nhị k , q.162.
[←233]
Năm 1835, Vua Minh-Mạng dụ Bộ Hộ rằng : « Trước đây, B c-Kỳ có việc,
h ng ti u dân không bi t gì, có k lén đem diêm tiêu, lưu hoàng đ i chác
với b n gi c, đ đ n n i nảy sinh s bi n. Ta đã xu ng d : phàm các m
diêm tiêu, lưu hoàng đ u đóng ngay l i. Nay, gi c cướp đã yên r i, n u
cấm ch m t lo t thì dân chuyên làm ngh ấy s trông nhờ vào đâu ? V y
các m lưu hoàng v n c nghiêm ng t phong t a như trước. Còn các m
diêm tiêu đ u chu n cho khai, n p thu theo lệ ; có th a, đem n p h t vào
nhà nước, s theo giá trả cho. Dân gian ch búa có ai dám d a thân th
mà giấu di m ho c mua th m bán v ng với nhau, t quá m t cân trở lên,
t c thì khép vào lu t vi ph m qui ch mà tr t i n ng hơn ; đ a phương sơ
sót trong việc ngăn ng a, cũng b tr t i nghiêm nh t ». (Đ i-Nam th c-
l c, ệ nhị k , quyển 150)
[←234]
Ch vi t t t :
l. = lạng
c. = cân
b. = lạng bạc.
[←235]
H. CORDIER, Bordeaux et la Cochinchine sous la Restauration. T’oung-Pao,
vol.V, 1904, tr. 516-521.
[←236]
Đ i-Nam th c-l c chính biên, ệ nhị k , q.190.
[←237]
TRẦN KINH H A, K -Chợ. Đ i-h c, tháng 12-1962, tr. 973-986. G.
AZAMBRE, Les origines de Hanoi. B.S.E.I. 3è trim. 1958, tr. 261-300.
[←238]
RIGEAUX, Le Long-Thọ, ses poteries anciennes et modernes. B.A.V.H.,
1917, tr. 26.
[←239]
PHAN HUY LÊ, bài ã d n, tr. 61.
[←240]
Qu c-tri u chính-biên, q.V (Bính-dần, tháng 2).
[←241]
Như trên, Ất-hợi, tháng 9.
[←242]
Như trên, Mậu-dần, tháng 10.
[←243]
Như trên, K -mão, tháng giêng.
[←244]
Xem B I QUANG TUNG, Loạn Chày vôi, Văn hóa Nguyệt-san, 1962, số 67.
BỬU KẾ, Từ việc Hồng-Bảo bị truất phế ến việc phản nghịch ở Kinh thành,
Đ i-H c, 1958, số 6-8.
BỬU KẾ, Ai ã xuyên tạc lịch-sử khi viết gi c Chày vôi. Bách Khoa, 1960,
số 84-85.
[←245]
Bản tri u b n ngh ch liệt truyện, tr. 157.
[←246]
B I QUANG TUNG, Một áng văn chương chưa hề xuất bản. Bài « Trung
nghĩa ca » của oàn hữu Trưng, Đ i-H c, tháng 6 1963, tr. 510-529.
[←247]
BỬU KẾ, Lăng Tự- ức, Đ i-H c, tháng 2-1963, tr. 132.
[←248]
Đ i-nam th c-l c chính-biên, ệ nhị k , q.167, Bính-thân (1836), tháng 3.
[←249]
Như trên, q.166.
[←250]
Jonh CRAWFURD, Journal of an embassy from the governor of India to the
courts of Siam and Cochina China. London, 1828.
[←251]
Đ i-Nam th c l c chính biên, ệ nhất k , q.33.
[←252]
Đ i-Nam th c-l c chính-biên, ệ nhị k , q.171.
[←253]
Đ i-Nam th c-l c chính-biên, ệ nhị k , q.208, K -hợi (1839) tháng 12.
[←254]
Charles ROBEQUAIN, sách ã d n, tr. 580-581.
[←255]
Đ i-Nam th c-l c chính-biên, ệ nhị k , q.181.
[←256]
Capitaine REY, Relation du second voyage du « Henri » à la Cochichine
(1819-1820). B.S.E.I., Janv-mars 1932, tr. 71.
[←257]
« Phía Nam tr sở là ch ph M -Tho, nhà ngói c t ch m, chùa r ng đình
cao ; th ng sông tấp n p ghe thuy n, ph n hoa huyên náo, th c là m t
nơi đ i đô h i… Ch Sa-Đéc ở phía đông tr sở huyện Vĩnh-An, ph ch
th ng bờ sông, nhà cất li n nhau, kéo dài năm d m ; dưới sông, nhà bè
đ u thành hàng, bán đ các th tơ l a nam b c, d u m than c i, tre mây
m m mu i, v.v… Trên bờ sông, mua bán tấp n p đ th hàng-hóa chóa
m t mê h n, th c là m t nơi ph n hoa danh th ng v y ». (TRẦN KINH
H A, Thành trì chí của Trịnh Hoài ức, ại Học, tháng 2-1962, tr. 144 và
148).
[←258]
Qu c-tri u chính-biên, q.V, Giáp-tuất, tháng 8.
[←259]
DUTREUIL DE RHINS, Le Royaume d’Annam et les Annamites. Paris, 1889,
tr. 79-80.
[←260]
TRẦN KINH H A, bài ã d n, ại-Học, tháng 10-1961 ; tr. 51.
[←261]
Michel ức CHAIGNEAU, sách ã d n, tr. 193.
[←262]
Đ i-Nam th c-l c chính-biên, ệ nhị k , q.177.
[←263]
Đ i-Nam th c-l c chính-biên, ệ nhị k , q.196.
[←264]
Như trên, q.131, Minh-Mạng thứ 15.
[←265]
Như trên, q.151, Ất-mùi (1835), tháng 5.
[←266]
Tuy nhiên, trong tâm l của người dân mà ời sống còn n ng tính-cách
kinh-tế nông-nghiệp, các loại kim thuộc quí giá này ược em cất trữ, chứ
ít ược ầu-tư trong công việc kinh doanh. Năm Minh-Mạng thứ 19, bộ Hộ
phải tâu lên nhà Vua là : « Nhân dân hay chôn vàng, b c và ti n đ ng,
thành th b c vàng ngày m t lên giá, và hay đem bán ra người ngo i
qu c, cho nên vàng b c ngày m t bớt s . Xin s c các nhà hào phú có đ
c a cho con cháu thì mua ru ng đất có sinh l i hơn, mà cấm không cho
bán ra nước ngoài ». (Châu-bản, triều Minh-Mạng, tập 71, tr. 127-128)
[←267]
Đ i-Nam th c-l c chánh-biên, ệ nhất k , q.19.
[←268]
Đ i-Nam th c-l c chính biên, ệ nhất k , q.19.
[←269]
Châu-bản, triều Minh-Mạng, tập 56, tờ 67-68.
[←270]
Châu-bản, triều Minh-Mạng, tập 58, tờ 26-27.
[←271]
Đ i-Nam th c-l c chính-biên, ệ nhị k , q.202, K -hợi (1839) tháng 5.
[←272]
Qu c-tri u chính-biên, q.IV.
[←273]
Qu c-tri u chính-biên, q.V.
[←274]
Châu-bản, triều Minh-mạng, tập 55, tờ 163-166 và Đ i-Nam th c-l c
chính-biên, ệ nhị k , q.187.
[←275]
Đ i-Nam th c-l c chính-biên, ệ nhất k , q.21.
[←276]
Châu-bản, triều Minh-Mạng, tập 39, tờ 96-98.
[←277]
Đ i-Nam th c-l c chính biên, ệ nhị k , q.160.
[←278]
Đ i-Nam th c-l c chính biên, ệ nhất k , q.4. Năm 1800 thuế cảng các
thuyền buôn ngoại-quốc thu ược 489.790 quan.
[←279]
Capt.REY, Relation du second voyage du Henri à la Cochinchine, bđd, tr.
64-65.
[←280]
Châu-bản, triều Minh-Mạng, tập 40, tờ 21 và tập 52, tờ 67-68.
[←281]
Châu-bản, triều Thiệu-Trị, tập 25, tờ 4-12.
[←282]
Đ i-Nam th c-l c chính biên, ệ nhị k , q.139.
[←283]
Đ i-Nam th c-l c chính-biên, ệ nhị k , q.178.
[←284]
Như trên, q.211.
[←285]
Xem : NGUYỄN THẾ ANH, L’Angleterre et le Vietnam en 1803 : la mission
de J.W. Roberts. B.S.E.I., 1965, tr. 339-34.
[←286]
Đ i-Nam th c-l c chính-biên, ệ nhị k , q.24.
[←287]
Châu-bản, Gia-Long năm thứ 16, tập 4, tờ 28-29.
[←288]
Đ i-Nam th c-l c chính-biên, ệ nhất k , q.33.
[←289]
Xem J.P. FAIVRE, L’expansion française dans le Pacifique de 1800 à 1842.
Paris, 1953.
[←290]
Capt. REY, Relation du second voyage du « Henri » à la Cochinchine (1819-
1820). B.S.E.I. 1932, tr. 45-82.
[←291]
John WHITE, History of a voyage in the Chine sea. Boston, 1823, IX-372 tr.
[←292]
H. CORDIER, Le Consulat de France à Hu sous la Restauration. Paris, E.
Leroux, 1804, 134 tr.
[←293]
Qu c-tri u chính-biên, q.III, Giáp-thân, tháng 12.
[←294]
Edmund ROBERTS, Embassy to the Eastern Courts of Cochinchina, Siam
and Muscat. New York, 1837, tr. 181-181.
[←295]
« Bính-d n, Minh-M ng năm th 17, tháng 4… Binh thuy n Ma-Li-Căn đ u
ở vũng Trà-Sơn thu c Đà-N ng, Quảng-Nam, nói có qu c-thư c u thông
đ t, xin vào ch u… Sai Đào Trí Phú cùng với th -lang b L i Lê Bá Tú, làm
thu c-viên Thương-b c, đ n t n nơi y l o thăm h i. Khi đ n nơi, viên
thuy n-trưởng nói là b m, không th ti p ki n đư c. Ta sai thông-ngôn
đ n thăm, h cũng sai người đáp l , r i ngay ngày ấy, giương bu m kéo
đi ». (Đ i-nam th c-l c chính-biên, ệ nhị k , q.168)
[←296]
Hàng năm, thường có thuyền Anh hay Pháp tới à-N ng buôn bán, bị ánh
thuế m i thước 112 quan (nếu trả bằng bạc tây m i ồng ăn 2 quan). Giá-
trị các hàng-hóa mua bán rất lớn : năm 1825, có thuyền buôn Pháp em
lưu-hoàng, súng iểu-thương và á lửa tới bán cho chính-phủ ; lưu-hoàng
ược khấu trừ bằng ường cát, còn súng iểu thương và á lửa một nửa
trả bạc 468 nén inh 7 tiền 8 phân, một nửa trả bằng tiền 13.165 quan.
Năm 1830, có tàu Pháp ến mua 45.000 cân ường cát, m i cân giá 6,30
ồng bạc.
[←297]
Đ i-Nam th c-l c chính-biên, ệ nhị k , q.110.
[←298]
Đ i-Nam th c-l c chính-biên, ệ nhị k , q.159.
[←299]
Như trên, q.213.
[←300]
Đ i-Nam th c-l c chính-biên, ệ nhị k , q.207.
[←301]
R.P. DELVAUX, L’ambassade de Minh-M ng à Louis-Philippe, B.A.V.H.,
1928, tr. 257-264.
[←302]
Châu-bản, triều Minh-Mạng, tập 79, tờ 90-92.
[←303]
Năm 1840, nhà buôn người Anh tên là Yết-Giả ến à N ng mua ường
cát ; tỉnh-thần ề-nghị ánh thuế 1/10 giá-trị các hóa-vật. Nhà Vua dụ
rằng : « Nay Y t-Giả đem hàng-hóa Tây dương đ n, nhà nước mua, cũng
lấy hóa-v t c a công mà cung cấp. N u nhất khái đánh thu hàng-hóa,
không phải là cách v yên thân m n người xa. Nên cho mi n thu ». (Đ i-
Nam th c-l c chính-biên, ệ nhị k , q.216)
[←304]
Đ i-Nam th c-l c chính-biên, ệ nhị k , q.196.
[←305]
Đ i-Nam th c-l c chính-biên, ệ nhị k , q.207.
[←306]
M. Isidore HEDDE, Notices on Chochinchina made during a visit in the
spring of 1844, Chinese Repository, vol. XV, tr. 113-124.
[←307]
G. TABOULET, Un engagement naval sur les côtes du Viet-Nam : le combat
de Tourane (16 avril 1847), Revue Maritime ; 1957, No 130, tr. 208-226.
[←308]
Qu c-tri u chính-biên, q.III, Bính-tuất.
[←309]
Bản tri u bản ngh ch liệt truyện, tr. 11-13.
[←310]
Qu c-tri u chính-biên, q.II, K -mão.
[←311]
Đ i-Nam đi n lệ, tr. 345.
[←312]
Năm 1839, Vua Minh-Mạng ịnh iều lệ cấm thuốc phiện rất ng t : ai hút
vụng thuốc phiện bị phạt nh nhất là 100 trượng và phát lưu 3.000 d m,
n ng là xử giảo giam hậu và tịch thu gia-sản. Ai bán hay tàng-trữ thuốc
phiện cũng bị xử giảo giam hậu, tịch biên gia-sản xung công. Thuyền buôn
ngoại-quốc mang thuốc phiện ến thì cả thuyền và hàng-hóa bị sung công,
còn can phạm bị xử giảo lập quyết. (Đ i-Nam th c-l c chính-biên, ệ nhị
k , q.207)
[←313]
Đ i-Nam đi n-lệ, tr. 311.
[←314]
Qu c-tri u chính-biên, q.V, Mậu-thìn.
[←315]
Như trên, Nhâm-thân, tháng 4.
[←316]
« Năm ngoái, tất cả mi n hải t n Đàng Trong và Đàng Ngoài đã b quấy
phá bởi b n gi c ; chúng đi t ng đoàn g m 50, 60 chi c thuy n, nh ng
chi c nh với đàn bà tr con đ chuyên chở đ v t cướp đư c, nh ng chi c
lớn và võ trang c n th n với m t thuy n đ i đông đảo đ chi n-đấu và
cướp phá. May thay, có hai khí thuy n Anh đã tới t n bờ bi n B c-Kỳ đ
tìm ki m b n hải-t c Tàu, và đã đánh đ m đ n sáu ch c chi c thuy n c a
chúng, cùng gi t ch t rất nhi u người ; nh ng thuy n còn l i c a b n kh n
n n này đã phân tán m i nơi. Nhưng chúng l i t t p trở l i và bây giờ
chúng ti p t c các chi n công trên bi n c a chúng ». (Thư ề ngày 2-5-
1860 của giám-mục Retord, trong Annales Propagation de la Foi, 1861, tr.
277).
Cũng xem thêm Bản tri u bản ngh ch liệt truyện, tr. 35, 39, 77, 197-199,
v.v…
[←317]
TRẦN HUY LIỆU, Phong-trào cách-mạng Việt-Nam qua các thơ văn. T p-
san Nghiên-c u Văn S -Đ a, số 26, tháng 3-1957, tr. 42-43.
[←318]
A. SALLES, Le mémoire sur la Cochinchine de jean Baptiste Chaigneau.
B.A.V.H., 1993, tr. 271.
[←319]
Đ i-Nam th c-l c chính-biên, ệ nhị k , q.164 (Ất-mùi, tháng 12).
[←320]
ÀO DUY ANH, sách ã d n, tr. 330.
[←321]
Đ i-Nam th c-l c chính-biên, ệ nhị k , q.160.
[←322]
Đ i-Nam th c-l c chính-biên, ệ nhị k , q.192.
[←323]
Đ i-Nam th c-l c chính biên, ệ nhị k , q.202.
[←324]
Xem chương trước.
[←325]
D n bởi BỬU-KẾ, Từ việc Hồng-Bảo bị truất phế ến việc phản nghịch ở
Kinh-thành. Đ i-H c, tháng XI-1958, tr. 26-27.
[←326]
Trung nghĩa ca, bài ã d n.
[←327]
Annales de l'Association de la Propagation de la Foi, 1866, tr. 362.
[←328]
Annales de l’Association de la Propagatlion de la Foi, 1870, tr. 276-277.
[←329]
Qu c tri u chính biên, quyển thứ 5.
[←330]
Qu c tri u chính biên, q.thứ 5.
[←331]
Về các ề-nghị cải-cách của Nguyễn Trường Tộ, xin ọc thêm :
- NGUYỄN LÂN, Nguy n Trường T , Huế, 1941.
- TRƯƠNG BÁ CẦN, L’action diplomatique de la France en vue de
consolider son établissement en Cochinchine (1862-1874), Paris, 1963.
[←332]
Xem NGUYỄN THẾ ANH, Việt-Nam dưới thời Pháp đô-h . Saigon, Lửa
Thiêng, 1970, tr. 71-73.