You are on page 1of 28

Tác phẩm: Bạch Đằng giang phú

白藤江賦

Phú sông Bạch Đằng

Tác giả: Trương Hán Siêu

Nguồn: http://www.thivien.net/, http://lib.agu.edu.vn, wikipedia,


wiktionary, Nam Phong tạp chí.

********

Cover: rockyou.

Sưu tầm, biên tập và làm ebook: 4DHN


Bản Hán văn
白藤江賦

客有:
掛汗漫之風帆,
拾浩蕩之海月。
朝嘎舷兮沅湘,
暮幽探兮禹穴。
九江五湖,
三吳百粵。
人跡所至,
靡不經閱。
胸吞雲夢者數百而,
四方壯志猶闕如也。
乃舉楫兮中流,
縱子長之遠遊。
涉大灘口,
溯東潮頭。
抵白藤江,
是泛是浮。
接鯨波於無際,
蘸繇尾之相繆。
水天一色,
風景三秋。
渚获岸蘆,
瑟瑟颼颼。
折戟沉江,
枯骨盈丘。
慘然不樂,
佇立凝眸。
念豪傑之已往,
嘆蹤跡之空留。
江邊父老,
謂我何求。
或扶黎杖,
或棹孤舟。
揖余而言曰:
此重興二聖擒烏馬兒之戰地,
與昔時吳氏破劉弘操之故洲也。
當期:
舳艫千里,
旌旗旖旎。
貔貅六軍,
兵刃蜂起。
雌雄未決,
南北對壘。
日月昏兮無光,
天地凜兮將毀。
彼:
必烈之勢強,
劉龔之計詭。
自謂投鞭,
可掃南紀。
既而:
皇天助順,
凶徒披靡。
孟德赤壁之師談笑飛灰,
符堅合淝之陣須臾送死。
至今江流,
終不雪恥。
再造之功,
千古稱美。
雖然:
自有宇宙,
故有江山。
信天塹之設險,
賴人傑以奠安。
孟津之會鷹揚箬呂,
濰水之戰國士如韓。
惟此江之大捷,
猶大王之賊閒。
英風可想,
口碑不刊。
懷古人兮隕涕,
臨江流兮厚顏。
行且歌曰:
大江兮滾滾,
洪濤巨浪兮朝宗無盡。
仁人兮聞名,
匪人兮俱泯。
客從而賡歌曰:
二聖兮並明,
就此江兮洗甲兵。
胡塵不敢動兮,千古昇平。
信知:不在關河之險兮,
惟在懿德之莫京。
Bản diễn Nôm

Bạch Đằng giang phú

Khách hữu:
Quải hạn mạn chi phong phàm,
Thập hạo đãng chi hải nguyệt.
Triêu dát huyền hề Nguyên[1], Tương[2],
Mộ u thám hề Vũ Huyệt[3].
Cửu Giang[4], Ngũ Hồ[5],
Tam Ngô[6], Bách Việt[7].
Nhân tích sở chí,
Mị bất kinh duyệt.
Hung thôn Vân Mộng[8] giả sổ bách nhi,
Tứ phương tráng chí do khuyết như dã.
Nãi cử tiếp hề trung lưu,
Túng Tử Trường[9] chi viễn du.
Thiệp Đại Than[10] khẩu,
Tố Đông Triều[11] đầu.
Để Bạch Đằng giang[12],
Thị phiếm thị phù.
Tiếp kình ba ư vô tế,
Trám diêu vĩ chi tương mâu.
Thuỷ thiên nhất sắc,
Phong cảnh tam thu.
Chử địch ngạn lô,
Sắt sắt sâu sâu.
Chiết kích trầm giang,
Khô cốt doanh khâu.
Thảm nhiên bất lạc,
Trữ lập ngưng mâu.
Niệm hào kiệt chi dĩ vãng,
Thán tung tích chi không lưu.
Giang biên phụ lão,
Vị ngã hà cầu.
Hoặc phù lê trượng,
Hoặc trạo cô châu.
Ấp dư nhi ngôn viết:
“Thử Trùng Hưng nhị thánh[13] cầm Ô Mã Nhi[14] chi chiến địa,
Dữ tích thời Ngô thị[15] phá Lưu Hoằng Thao[16] chi cố châu dã”.
Đương kỳ:
Trục lô thiên lý,
Tinh kỳ ỷ nỉ.
Tỳ hưu lục quân,
Binh nhẫn phong khỉ.
Thư hùng vị quyết,
Nam Bắc đối luỹ.
Nhật nguyệt hôn hề vô quang,
Thiên địa lẫm hề tương huỷ.
Bỉ:
Tất Liệt[17] chi thế cường,
Lưu Cung[18] chi kế quỷ.
Tự vị đầu tiên,
Khả tảo Nam kỷ.
Ký nhi:
Hoàng thiên trợ thuận,
Hung đồ phi mỵ.
Mạnh Đức Xích Bích[19] chi sư đàm tiếu phi hôi,
Bồ Kiên Hợp Phì[20] chi trận tu du tống tử.
Chí kim giang lưu,
Chung bất tuyết sỉ.
Tái bạo chi công,
Thiên cổ xưng mỹ.
Tuy nhiên:
Tự hữu vũ trụ,
Cố hữu giang san.
Tín thiên tạm chi thiết hiểm,
Lại nhân kiệt dĩ điện an.
Mạnh Tân chi hội[21] ưng dương nhược Lã[22],
Duy Thuỷ[23] chi chiến quốc sĩ như Hàn[24].
Duy thử giang chi đại tiệp,
Do đại vương chi tặc nhàn.
Anh phong khả tưởng,
Khẩu bi bất san.
Hoài cổ nhân hề vẫn thế,
Lâm giang lưu hề hậu nhan.
Hành thả ca viết:
“Đại giang hề cổn cổn,
Hồng đào cự lãng hề triều tông vô tận.
Nhân nhân hề văn danh,
Phỉ nhân hề câu dẫn”.
Khách tòng nhi canh ca viết:
“Nhị thánh hề tịnh minh,
Tựu thử giang hề tẩy giáp binh.
Hồ trần bất cảm động hề, thiên cổ thăng bình.
Tín tri: bất tại quan hà chi hiểm hề,
Duy tại ý đức chi mạc kinh”.
Bản dịch của Nguyễn Hữu Tiến, Bùi Văn Nguyên

Khách có kẻ:
Giương buồm giong gió chơi vơi,
Lướt bể chơi trăng mải miết.
Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương,
Chiều lần thăm chừ Vũ huyệt.
Cửu Giang, Ngũ Hồ,
Tam Ngô, Bách Việt.
Nơi có người đi,
Đâu mà chẳng biết.
Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều,
Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết.
Bèn giữa dòng chừ buông chèo,
Học Tử Trường chừ thú tiêu dao.
Qua cửa Đại Than,
Ngược bến Đông Triều,
Đến sông Bạch Đằng,
Thuyền bơi một chiều.
Bát ngát sóng kình muôn dặm,
Thướt tha đuôi trĩ một màu.
Nước trời một sắc,
Phong cảnh ba thu.
Bờ lau san sát,
Bến lách đìu hiu
Sông chìm giáo gãy,
Gò đầy xương khô.
Buồn vì cảnh thảm,
Đứng lặng giờ lâu.
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu.
Bên sông bô lão hỏi,
Hỏi ý ta sở cầu.
Có kẻ gậy lê chống trước,
Có người thuyền nhẹ bơi sau.
Vái ta mà thưa rằng:
“Đây là chiến địa buổi trùng hưng nhị thánh bắt Ô Mã,
Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao”.
Đương khi ấy:
Thuyền tàu muôn đội,
Tinh kì phấp phới.
Hùng hổ sáu quân,
Giáo gươm sáng chói.
Trận đánh được thua chửa phân,
Chiến luỹ bắc nam chống đối.
Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,
Bầu trời đất chừ sắp đổi.
Kìa:
Tất Liệt thế cường,
Lưu Cung chước dối.
Những tưởng gieo roi một lần,
Quét sạch Nam bang bốn cõi.
Thế nhưng:
Trời cũng chiều người,
Hung đồ hết lối
Trận Xích Bích, quân Tào Tháo tan tác tro bay,
Trận Hợp Phì, giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.
Đến nay sông nước tuy chảy hoài,
Mà nhục quân thù khôn rửa nổi.
Tái tạo công lao,
Nghìn xưa ca ngợi.
Tuy nhiên:
Từ có vũ trụ,
Đã có giang san.
Quả là: trời đất cho nơi hiểm trở,
Cũng nhờ: nhân tài giữ cuộc điện an!
Hội nào bằng hội Mạnh Tân, có vương sư họ Lã,
Trận nào bằng trận Duy Thuỷ, có quốc sĩ họ Hàn.
Khi trận Bạch Đằng mà đại thắng,
Bởi đại vương coi thế giặc nhàn.
Tiếng thơm còn mãi,
Bia miệng không mòn.
Đến chơi sông chừ ủ mặt,
Nhớ người xưa chừ lệ chan.
Rồi vừa đi vừa ca rằng:
“Sông Đằng một dải dài ghê,
Sóng hồng cuồn cuộn tuôn về bể Đông.
Những người bất nghĩa tiêu vong,
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh!”
Khách cũng nối tiếp mà ca rằng:
“Anh minh hai vị thánh quân,
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.
Giặc tan muôn thuở thanh bình,
Bởi đâu thoát hiểm cốt mình đức cao.”
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Bản dịch của Đông Châu

Khách có kẻ:
Chèo quế bơi trăng
Buồm mây giong gió
Sớm ngọn Tương kia
Chiều hang Vũ nọ
Vùng vẫy Giang, Hồ
Tiêu dao Ngô, Sở
Ði cho biết đây
Ði cho biết đó
Chằm Vân, Mộng chứa ở trong kho tư tưởng, đã biết bao nhiêu:
Mà cái chí khí tứ phương, vẫn còn hăm hở
Mới học thói Tử Trường
Bốn bể ngao du
Qua cửa Ðại Thần
Sang bến Ðông Triều
Ðến sông Bạch Ðằng
Ðủnh đỉnh phiếm chu
Trắng xoá sóng kình muôn dặm
Xanh rì dặng ác một màu
Nước trời lộn sắc
Phong cảnh vừa thu
Ngàn lau quạnh cõi
Bến lách đìu hiu
Giáo gãy đầy sông
Cốt khô đầy gò
Ngậm ngùi đứng lặng
Ngắm cuộc phù du
Thương kẻ anh hùng đâu vắng tá?
Mà đây dấu vết vẫn còn lưu
Kìa kìa bên sông, lão phủ người đâu?
Lượng trong bụng ta, chừng có sở cầu
Hoặc gậy chống trước, hoặc thuyền bơi sau.
Vái tạ mà thưa rằng:
Ðây là chỗ chiến địa của vua Trần bắt giặc Nguyên,
Và là nơi cố châu của vua Ngô phá quân Lưu đấy.
Ðương khi:
Muôn đội thuyền bày, hai quân giáo chỉ
Guơm tuốt sáng lòe, cờ bay đỏ khé
Tướng Bắc quân Nam
Ðôi bên đối lũy
Ðã nổi gió mà bay mây
Lại kinh thiên mà động địa
Kìa Nam Hán nó mưu sâu
Nọ Hồ Nguyên nó sức khoẻ
Nó bảo rằng:
Phen này đạp đổ nước Nam, tưởng chừng cũng dễ.
May thay:
Trời giúp quân ta
Mây tan trận nó
Khác nào như:
Quân Tào Tháo bị vỡ ở sông Xích Bích khi xưa.
Giặc Bồ Kiên bị tan ở bến Hợp Phì thuở nọ
Ấy cái nhục tầy trời của họ, há những một thời
Mà cái công tái tạo của ta, lưu danh thiên cổ
Tuy vậy, từ thuở có trời có đất, vẫn có giang san
Trời đất ra nơi hiểm trở
Người tính lấy cuộc tôn an
Hội nào bằng hội Mạnh Tân như vương sư họ Lã
Trận nào bằng trận Duy Thuỷ như quốc sĩ họ Hàn
Kìa trận Bạch Ðằng này mà đại thắng
Bởi chưng Ðại vuơng coi thế giặc nhàn
Tiếng thơm còn mãi
Bia miệng bao mòn
Nhớ ai sa giọt lệ
Hổ mình với nước non
Rồi vừa đi vừa hát rằng
Sông Ðằng một giải dài ghê
Luồng to sóng lớn dồn về bể Ðông
Trời Nam sinh kẻ anh hùng
Tăm kình yên lặng, non sông vững vàng
Khách lại nối mà hát rằng
Triều ta hai vị thánh nhân
Sông kia còn dấu tẩy trần giáp binh
Nghìn xưa gẫm cuộc thăng binh
Tại đâu đất hiểm, bởi mình đức cao.
Nguồn: Khảo về địa dư và lịch sử tỉnh Quảng Yên, Nam phong
tạp chí, tập XIV số 8, tháng 6-1924
Tiểu sử tác giả

Trương Hán Siêu (chữ Hán: 張 漢 超 ;?-1354), tên tự là Thăng


Phủ hoặc Thăng Am, hiệu Đôn Tẩu, là một vị quan, một danh nhân
văn hóa đời Trần, kiệt tác văn chương nổi tiếng nhất trong sự
nghiệp sáng tác của ông là bài Bạch Đằng giang phú - một áng
thiên cổ hùng văn rất được lưu truyền...
Trương Hán Siêu quê ở làng Phúc Am, huyện Yên Ninh, lộ
Trường Yên (nay là phường Phúc Thành, thành phố Ninh Bình, tỉnh
Ninh Bình).
Theo chính sử, Trương Hán Siêu xuất thân là môn khách của
Trần Quốc Tuấn, tính tình cương nghị, học vấn uyên thâm, ông mất
năm 1354. Trần Quốc Tuấn mất năm 1300, khi đó hẳn Trương Hán
Siêu phải là người trưởng thành, tức hơn 18 tuổi. Lược truyện các
tác gia Việt Nam viết: Trương Hán Siêu “lập được nhiều công trạng
trong hai trận đánh giặc Nguyên; Từ điển văn học ghi: Trương Hán
Siêu “có ít nhiều đóng góp trong hai cuộc kháng chiến chống
Nguyên lần thứ hai và thứ ba”.
Như vậy, Trương Hán Siêu tham dự cuộc kháng chiến chống
Nguyên Mông lần thứ hai và thứ ba khi ông còn trẻ và ông cùng với
Nguyễn Trung Ngạn là những vị quan thời Trần thọ hơn 80 tuổi.
Sự nghiệp chính trị
Trương Hán Siêu là nhà chính trị, nhà thơ, nhà sử học danh
tiếng, học thức sâu rộng, được các vua Trần luôn tôn gọi là Thầy
chứ không gọi tên húy. Ông từng làm nhiều chức quan trải suốt 4
đời vua nhà Trần:
Năm 1308, vua Trần Anh Tông phong Trương Hán Siêu làm Hàn
lâm học sĩ.
Năm, 1314, vua Trần Minh Tông phong Trương Hán Siêu giữ
chức Hành khiển.
Năm 1339, vua Trần Hiến Tông phong Trương Hán Siêu làm
môn hạ hữu ty lang trung.
Năm 1342, vua Trần Dụ Tông phong Trương Hán Siêu làm tả ty
lang trung kiêm Kinh lược sứ ở Lạng Giang, rồi thăng tả gián nghị
đại phu năm 1345 và năm 1351 làm tham tri chính sự (như chức
Thượng thư). Năm Quý Tỵ 1353, ông lãnh quân Thần sách ra trấn
nhậm ở Hóa Châu (Huế), giữ đất này yên ổn. Tháng 11 năm sau,
ông cáo bệnh xin về nghỉ, nhưng về chưa đến kinh sư thì ông mất.
Sau khi ông mất, vua cho truy tặng hàm thái bảo
Năm 1363, thượng hoàng Trần Nghệ Tông truy tặng Trương Hán
Siêu chức thái phó và được thờ ở Văn Miếu quốc gia (từ năm 1372),
ngang với các bậc hiền triết đời xưa.
Trong Đại Việt sử ký toàn thư, Phan Phu Tiên nhận xét về việc
nhà Trần thờ phụng Trương Hán Siêu và Chu Văn An ở Văn miếu
như sau:
Bậc danh nho các đời có bài trừ được dị đoan, truyền giữ được
đạo thống thì mới được tòng tự ở Văn Miếu, thế là để tỏ rõ đạo học
có ngọn nguồn. Nghệ Tông cho Chu An, Trương Hán Siêu được dự
vào đó, thì Hán Siêu là người cứng cỏi, bài xích đạo Phật, An sửa
mình trong sạch, bền giữ khí tiết, không cầu hiển đạt.
Sự nghiệp văn chương

Trương Hán Siêu là người có học vấn sâu rộng, giàu lòng yêu
nước, được các vua đời Trần tôn quý như bậc thầy. Thời trẻ, ông bài
xích (phản đối) Phật, nhưng vua không trách, còn bổ ông làm quản
tự cho một ngôi chùa lớn. Về cuối đời, ông lại là người sùng đạo
Phật và những sáng tác của ông cũng chịu ảnh hưởng tư tưởng
này. Các tác phẩm của ông hiện còn 17 bài thơ: Cúc hoa bách vịnh
(Vịnh hoa cúc còn 4 bài), Hoá Châu tác (Thơ làm ở Hoá Châu), Dục
Thuý sơn (Núi Dục Thuý sơn), Quá Tống đô (Qua kinh đô nhà
Tống). Về văn xuôi ông có 2 bài: Khai Nghiêm tự bi ký (Văn bia chùa
Khai Nghiêm) và Dục Thuý sơn linh tế tháp ký (Bài ký tháp linh tế
núi Dục Thuý sơn), hai bài đều được viết bằng chữ Hán. Riêng hai
quyển Hoàng triều đại điển và Hình thư soạn chung với Nguyễn
Trung Ngạn, bài biểu Tạ trừ Hàn lâm viện trực học sĩ được dẫn
trong Đại Việt sử ký toàn thư và Kiến văn tiểu lục hiện nay vẫn lưu
lạc và chưa tìm thấy.
Trương Hán Siêu cũng soạn Linh tế thập ký (bài ký tháp Linh
Tế), Quang nghiêm tự bi văn (bài văn bia chùa Quang Nghiêm). Hai
bài đó có đề cao Nho học và phê phán Phật giáo. Ông và Nguyễn
Trung Ngạn hợp soạn bộ Hoàng triều đại điển và Hình thư đặt nền
tảng cho chế độ Phong kiến Việt Nam vận hành theo pháp luật.
Ông còn là một nhà văn hoá, có tầm nhìn du lịch sớm nhất Việt
Nam.
Về Bạch Đằng giang phú

Bạch Đằng Giang phú là tác phẩm xuất sắc của Trương Hán
Siêu, đồng thời cũng là tác phẩm tiêu biểu của văn học yêu nước
thời Lí - Trần, một đỉnh cao nghệ thuật của thể phú trong văn học
và được xem là một áng thiên cổ hùng văn trong lịch sử văn học
Việt Nam. Bạch Đằng giang phú thể hiện lòng yêu nước và niềm tự
hào về truyền thống anh hùng bất khuất và truyền thống đạo lí
nhân nghĩa sáng ngời của dân tộc Việt Nam. Do đó, Bạch Đằng
giang phú cũng thể hiện tư tưởng nhân văn cao đẹp của việc đề
cao vai trò, vị trí của con người trước lịch sử. Đây là một áng văn
chứa chan niềm tự hào dân tộc, có ý nghĩa tổng kết lại chiến thắng
Bạch Đằng thời bấy giờ:
“Giặc tan muôn thủa thái bình,
Tại đâu đất hiểm, bởi mình đức cao”.
Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu là một trong những
bài phú chữ Hán nổi tiếng bậc nhất từ thời Trần còn lại đến nay. Có
nhiều vấn đề cần giải mã tác phẩm xuất sắc này, một trong những
vấn đề cốt tử làm nên sức sống lâu dài của nó có lẽ chính là nỗi
lòng của Trương Thăng Phủ với những vấn đề liên quan đến vận
mệnh của vương triều Trần, sâu xa hơn là vận mệnh của nhân dân,
dân tộc, của non sông đất nước Đại Việt.
Bạch Đằng giang phú được viết theo phú cổ thể, nguyên tác viết
bằng chữ Hán. Cấu tứ của tác phẩm theo hình thức đối đáp giữa
chủ và khách. Khách là người yêu cảnh trí thiên nhiên, có thú du
ngoạn, tâm hồn khách. Khách là người yêu cảnh trí thiên nhiên, có
thú du ngoạn, tâm hồn khoáng đạt, tâm huyết với lịch sử dân tộc.
Khách tìm đến sông Bạch Đằng không chỉ vì yêu thiên nhiên mà
còn vì lòng ngưỡng mộ nơi có chiến công oanh liệt và khát vọng tìm
hiểu lịch sử dân tộc, noi gương của Tử Trường xưa (sử gia nổi tiếng
Trung Quốc đời Hán). Chủ là những bô lão ở ven sông Bạch Đằng
mà khách gặp, vừa là dân địa phương, vừa là những người đã từng
chứng kiến, từng tham gia chiến trận. Cũng có thể nhân vật bô lão
là nhân vật có tính chất hư cấu, tác giả xây dựng lên để dễ dàng
bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ về đất nước, dân tộc.
(Nguồn: wikipedia)
Chú thích

[1]
Sông Nguyên, là một trong 4 con sông lớn ở tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc, một chi lưu
của sông Dương Tử.
[2]
Sông Tương, là một con sông, chi lưu chính của sông Trường Giang, chảy qua tỉnh
Hồ Nam, Trung Quốc.
[3] Còn gọi là Vũ Huyết, là một địa danh thuộc tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc.
[4]
Cửu Giang một địa danh nằm bên bờ nam của sông Trường Giang ở tây bắc tỉnh
Giang Tây, Trung Quốc.
[5]
Ngũ hồ là 5 hồ gồm hồ Động Đình và các hồ lân cận, ở đây có nhiều cảnh đẹp, ở
phía Đông Bắc tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc.
Theo sách "Tiều học kiểm châu" thì Ngũ Hồ gồm: Thái Hồ ở Hồ Châu, Xạ Dương hồ ở
Sở Châu, Thanh Thảo hồ ở Nhạc Châu, Đan Dương hồ ở Nhuận Châu và Cung Đình
hồ ở Hồng Châu.
[6] Chỉ vùng Ngô Châu, Thường Châu và Hồ Châu.
[7]
Bách Việt bao hàm các dân tộc cổ không bị Hán hóa hoặc bị Hán hóa một phần đã
từng sống ở vùng đất mà ngày nay thuộc lãnh thổ phía nam Trung Quốc và miền Bắc
Việt Nam giữa thiên kỷ I trước công nguyên và thiên niên kỷ I sau công nguyên. Đây
cũng là từ cổ chỉ vùng đất mà các dân tộc này đã sinh sống.
[8]
Đầm lầy lớn Vân Mộng (雲夢大澤 - Vân Mộng đại trạch) nằm ở phía bắc hồ Động
Đình, ở tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc là nơi chứa lũ của sông Dương Tử.
[9]
Hiệu của Tư Mã Thiên đời Hán, sử gia vĩ đại của Trung Quốc, tác giả bộ Sử ký và là
người nổi tiếng đi nhiều, ông đã từng đến các nơi thắng cảnh vùng Giang, Hoài,
Nguyên, Tương, Cối Kê, Vũ Huyệt.
[10]
Bến đò Bình Than thuộc làng Trần Xá, xã Nam Hưng, huyện Nam Sách, tỉnh Hải
Dương. Nơi diễn ra Hội nghị Bình Than là một hội nghị quân sự do vua Trần Nhân
Tông triệu tập vào năm 1282 để bàn phương hướng kháng chiến khi quân Nguyên
Mông sang xâm lược Việt Nam lần thứ hai.
[11]Đông Triều là vùng đất ghi đậm nhiều dấu ấn lịch sử và văn hoá. Đây là vùng đất
cổ, thời Bắc thuộc thuộc châu Giao, thời Ngô Đinh - Tiền Lê thuộc lộ Nam Sách Giang,
thời Trần thuộc phủ Tân Hưng, thời Hậu Lê thuộc phủ Kinh Môn trấn Hải Dương.
Sông Bạch Đằng, còn gọi là Bạch Đằng Giang (chữ Nho: 白藤江; tên Nôm: sông
[12]
Rừng), hiệu là sông Vân Cừ, là một con sông chảy giữa thị xã Quảng Yên (Quảng
Ninh) và huyện Thủy Nguyên (Hải Phòng), cách vịnh Hạ Long, cửa Lục khoảng 40 km.
Nó nằm trong hệ thống sông Thái Bình.
[13] Tức vua cha Trần Thánh Tông và vua con Trần Nhân Tông.
Ô Mã Nhi (tên chữ Hán phồn thể: 烏 馬 兒 ; giản thể: 乌 马 儿 , tiếng Ả Rập: ‫ﻋﻤﺮ‬,
[14]
Omar) tên ông cho thấy có thể ông là người Ả Rập phục vụ trong quân đội Mông Cổ.
Ông là một viên danh tướng, giỏi thao lược, có thể chỉ huy quân đánh cả bộ chiến lẫn
thủy chiến. Ô Mã Nhi và nhiều tướng sĩ quân Nguyên bị quân nhà Trần bắt sống trong
trận Bạch Đằng, về sau bị nhà Trần giết.
[15]Ngô Quyền (chữ Hán: 吳 權 , 898 - 944), còn được biết đến với tên gọi Tiền Ngô
Vương (前吳王), là vị vua đầu tiên của nhà Ngô trong lịch sử Việt Nam. Năm 938, ông
là người lãnh đạo nhân dân đánh bại quân Nam Hán trong trận Bạch Đằng nổi tiếng,
chính thức kết thúc hơn một thiên niên kỉ Bắc thuộc, mở ra một thời kì độc lập lâu dài
của Việt Nam. Sau chiến thắng này, ông lên ngôi vua, trị vì từ năm 939 đến năm 944.
Lưu Hồng Thao (chữ Hán: 劉洪操, ?-938), hay Lưu Hoằng Thao (劉弘操), là một
[16]
hoàng tử và tướng lãnh nhà Nam Hán thời Ngũ Đại Thập Quốc trong lịch sử Trung
Quốc. Ông là người chỉ huy đội binh thuyền Nam Hán tấn công Tĩnh Hải quân và bị
Ngô Quyền đánh bại rồi giết chết trong trận đánh trên sông Bạch Đằng cuối năm 938.
Hốt Tất Liệt (23/9/1215 - 18/2/1294) (tiếng Mông Cổ: Хубилай хаан, chữ Hán: 忽必
[17]
烈; bính âm: Hūbìliè) là đại hãn thứ năm của Mông Cổ đồng thời là người sáng lập ra
nhà Nguyên. Ông là con trai thứ hai của Đà Lôi với vợ cả là Sorghaghtani Beki (Toa Lỗ
Hòa Thiếp Ni), nhưng là con trai thứ tư khi tính cả các con của các bà vợ bé, cháu nội
của Thành Cát Tư Hãn.
Lưu Cung (Chữ Hán: 劉恭), tức Hán Tiền Thiếu Đế (漢前少帝) (? – 184 TCN) là vị
[18]
Hoàng đế thứ ba của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc, kế vị Hán Huệ Đế. Về
sau bị Lã Hậu giam đến chết.
[19]Trận Xích Bích (phồn thể: 赤壁之戰; bính âm: Chìbì Zhī Zhàn, Hán Việt: Xích Bích
chi chiến) là một trận đánh lớn cuối thời Đông Hán có tính chất quyết định đến cục
diện chia ba thời Tam Quốc. Trận đánh diễn ra vào mùa Đông năm Kiến An thứ 13 (tức
năm 208) giữa liên quân Tôn Quyền-Lưu Bị với quân đội lấy danh nghĩa triều đình của
Tào Tháo. Trận Xích Bích kết thúc với chiến thắng quyết định của phe Tôn-Lưu trước
đội quân đông đảo hơn của Tào Tháo. Chiến thắng này đã góp phần củng cố vị trí cho
hai chư hầu Tôn Quyền, Lưu Bị ở hai bờ Trường Giang đồng thời ngăn cản việc Tào
Tháo mở rộng phạm vi quyền lực xuống phía Nam Trung Hoa, tạo cơ sở cho sự hình
thành hai nước Thục Hán và Đông Ngô.
[20]Trận Phì Thủy (Phì Thủy chi chiến: 淝水之戰) là trận đánh nổi tiếng năm 383 thời
Đông Tấn - Ngũ Hồ thập lục quốc trong lịch sử Trung Quốc giữa quân Tiền Tần và
quân Đông Tấn. Gần 100 vạn quân Tiền Tần gồm nhiều sắc tộc Ngũ Hồ và Hán, dưới
sự chỉ huy của vua Tần Phù Kiên vừa thống nhất miền bắc đi thân chinh, cuối cùng bị
quân Đông Tấn dưới sự chỉ huy của danh tướng Tạ Huyền đập tan. Không chỉ quân
Tiền Tần tan nát mà bản thân vua Tần Phù Kiên cũng bị thương. Trận chiến Phì Thủy,
với đại thắng của quân Đông Tấn, được đánh giá là trận đánh quan trọng nhất thời kỳ
Ngũ Hồ thập lục quốc, và cũng được xem là một trong những trận "lấy ít thắng nhiều"
tiêu biểu nhất trong lịch sử.
[21]Đây chỉ cuộc hôi quân của Chu Võ Vương ở bến Mạnh Tân, nay thuộc tỉnh Hà
Nam, Trung Quốc. Cuối đời ân, Thương, vua Trụ tàn bạo. Chu Võ Vương đã hội quân
với các nước chư hầu ở bến Mạnh Tân để chuẩn bị đánh Trụ.
[22]
Lã Vọng, là quân sư tài giỏi, đã giúp vua Vũ hội quân các nước chư hầu ở Mạnh
Tân để diệt vua Trụ.
[23]
Tháng 10 năm 203 TCN, Hàn Tín đánh úp Tề. Tề vương Điền Quảng bỏ kinh thành
Lâm Tri chạy và phái người cầu cứu Tây Sở. Hạng Vũ phái Long Thư mang 20 vạn
quân đi cứu. Tháng 11, đôi bên đối trận ở Duy Thủy. Hàn Tín trong đêm tối ở thượng
lưu cho lấy đất đắp đập ngăn nước. Hôm sau, quân Hán vượt sông tấn công, mới
được một nửa thì bỏ chạy. Long Thư hô lớn: "Vốn biết Tín hèn nhát mà!" rồi soái quân
đuổi theo. Hàn Tín khơi đập nhấn chìm quân Sở, rồi quay lại đánh. Long Thư không
địch nổi, bị giết.
Hàn Tín Trung văn giản thể: 韩信; Trung văn phồn thể: 韓信; bính âm: Hán Xìn (229
[24]
– 196 TCN), còn gọi là Hoài Âm hầu ( 淮 陰 候 ), là một danh tướng bách chiến bách
thắng, thiên hạ vô địch, được vua Hán Cao Tổ ca ngợi là "Nắm trong tay trăm vạn
quân đã đánh là thắng, tiến công là nhất định lấy thì ta không bằng Hoài Âm Hầu". thời
Hán Sở tranh hùng, là 1 trong "tam kiệt nhà Hán" có công rất lớn giúp Hán Cao Tổ Lưu
Bang đánh bại Hạng Vũ lập nên nhà Hán kéo dài 400 năm.

You might also like