Professional Documents
Culture Documents
MUC LUC
- Về sinh lý : Kinh lạc là đường tuần hành khí huyết đi nuôi dưỡng toàn thân,
duy trì mọi hoạt động sinh lý của cơ thể, chống ngoại tà, bảo vệ cơ thể. Nếu chức
năng vận hành khí huyết của Kinh lạc bị trở ngại, khí huyết không thông lập tức sẽ
xuất hiện dấu hiệu bệnh lý.
- Về bệnh lý : Kinh lạc là nơi bệnh tà xâm nhập vào cơ thể và truyền bệnh từ
nông vào sâu (khi bệnh nặng lên) hoặc từ sâu ra nông (khi bệnh nhẹ đi). Vì thế, khi
tạng phủ có bệnh, bệnh sẽ thông qua Kinh lạc mà phản ảnh ra ngoài cơ thể như :
Bệnh Phế, ấn thấy đau huyệt Trung phủ, Phế du. Bệnh ở Can, ấn đau huyệt Kỳ
môn, Can du…
- Về chẩn đoán : Mỗi đường kinh có liên hệ và biểu thị cho 1 Tạng phủ nhất
định, do đó, có thể dựa vào cách thăm khám các đường kinh, dựa vào điện trở của
huyệt Nguyên, hoặc độ cảm giác của huyệt Tĩnh… Mà xác định được Kinh lạc,
Tạng phủ bệnh.
Thí dụ : Người bệnh đau vùng sau gáy.
Áp dụng nguyên tắc “Kinh lạc sở qua, chủ trị sở cập” ta thấy, vùng gáy có
kinh Đởm và kinh Bàng quang chạy qua, như thế, có thể là Đởm kinh hoặc Bàng
quang kinh bị trở ngại, cũng có thể là cả 2 kinh trên cùng bị bệnh. Như vậy việc
điều trị mới có hiệu quả và chính xác được.
- Về chữa bệnh : Học thuyết kinh lạc được ứng dụng nhiều nhất trong châm
cứu và dược. Học thuyết Kinh lạc chỉ đạo việc quy tác dụng của thuốc tương ứng
với Tạng phủ hoặc đường kinh nào đó, gọi là sự quy kinh của thuốc.
Thí dụ : Bạc Hà, vị cay, vào phế nên có tác dụng chữa ho, cảm…
Long nhãn, vị ngọt, vào Tỳ có tác dụng bồi bổ cơ thể…
Thí dụ 2 : Đau vùng cạnh đầu, lấy huyệt ở kinh Thiếu dương. Đau vùng sau
gáy, lấy huyệt ở kinh Thái dương…
Nắm được Kinh hoặc Tạng phủ bệnh… Tác động đúng vào huyệt có liên
quan với bệnh của những kinh, tạng phủ đó thì hiệu quả trị bệnh sẽ cao và chính
xác hơn.
Để kết thúc về hệ thống kinh mạch, chúng tôi xin mượn lời của thiên ‘Kinh
Mạch’ : “Kinh mạch là những con đường, dựa vào đó để quyết được việc sống
chết, là nơi sắp xếp trăm bệnh, là nơi điều hoà hư thực mà thầy thuốc không thể
không thông” (LKhu 10, 7).
Sách ‘Y Môn Pháp Luật’ cũng nhấn mạnh : “Phàm chữa bệnh mà không rõ
tạng phủ, kinh lạc thì hễ đụng đến việc là bị sai lầm”.
BẢNG TÓM TẮT HỆ THỐNG KINH LẠC MẠCH
Kinh
+ “Kinh Biệt là 1 bộ phận đi riêng biệt của 12 Kinh Mạch, nhưng nó lại khác
với Lạc mạch, vì thế, nó là ?đường đi riêng rẽ của kinh chính? gọi tắt là ?Kinh
Biệt? (Trung Y Học Khái Luận).
+ Kinh Biệt còn gọi là kinh Nhánh, là bộ phận đặc biệt phân ra từ 12 kinh
Chính. Mỗi kinh Chính tách ra 1 kinh Biệt.
+ Tên gọi của các kinh Biệt giống tên gọi của kinh Chính chỉ khác thêm chữ
Biệt ở đầu. Thí dụ : Biệt thủ Thái Âm Phế, Biệt túc Quyết âm Can…
+ Thiên ?Kinh Biệt? (LKhu 11) gọi là ?Lục Hợp?.
+ Tìm hiểu về Kinh Biệt rất quan trọng để hiểu được phương pháp ?Cự
Thích? và ?Mậu Thích? được mô tả rất rõ trong thiên ?Mậu Thích? (TVấn 63).
b- Vận Hành Của Kinh Biệt
Đa số kinh Biệt đi từ khuỷ tay, khuỷ chân, nối liền các kinh Âm Dương để
phối hợp Biểu và Lý, nối liền các Tạng Phủ rồi đi lên gáy, cổ và đầu, mặt rồi nhập
lại với kinh mạch của các kinh Dương.
Nếu là kinh nhánh tách từ kinh Dương thì nhập về kinh cũ. Nếu là kinh Âm
thì nhập vào kinh Dương có quan hệ Biểu Lý với kinh Âm mà nó tách ra.
Theo thiên ?Kinh Biệt?, các đường kinh chính của Dương đều thành các
đường kinh Biệt của Âm.
Theo thiên ?Kinh Biệt? (LKhu. 11) :
Thủ Thái Dương hợp với Ở đầu trong con Vùng huyệt Tình
Thiếu Âm mắt. Minh - Bq.1.
(Hợp của 2 kinh này là
Hợp Thứ Tư).
Thủ Dương Minh hợp Ở cuống họng. Vùng huyệt Phù Đột
với thủ Thái Âm - Đtr.18.
(Hợp của 2 kinh này là
Hợp Thứ Sáu).
Như vậy, theo quan hệ Biểu Lý thì kinh Biệt chia làm 6 tổ, hợp với 6 kinh
Dương, gọi là 6 hợp. Trong mối quan hệ này, kinh Dương giữ vai trò chính còn
kinh Âm phải hợp vào kinh Dương.
c-Cơ Cấu Của Kinh Biệt
Thiên ?Mậu Thích? ghi : “Tà khí khách ở đại lạc, nếu ở bên trái sẽ rót sang
bên phải và nếu ở bên phải sẽ rót sang bên trái. Trên dưới, phải trái cùng giao
thông với kinh tương ứng để phân tán ra tứ chi (tay chân). Khi đó, tà khí không ở
hẳn 1 chỗ nào mà cũng không chuyển vào kinh, vì vậy gọi là Mậu Thích” (TVấn
63,4).
Cũng trong thiên ?Mậu Thích?, Hoàng Đế đã đặt vấn đề : “Xin nói cho Ta
biết : Tại sao trong phép Mậu Thích, bệnh ở bên trái lại châm ở bên phải, bên phải
bệnh lại châm ở bên trái … Mậu Thích với Cự Thích khác nhau ra sao?” - Kỳ Bá
trả lời : “Tà khách ở kinh, bên trái thịnh thì bên phải mắc bệnh, bên phải thịnh thì
bên trái mắc bệnh. Nhưng cũng có khi thay đổi. Bên trái đau chưa khỏi mà mạch
bên phải đã mắc bệnh, như vậy, phải dùng phép Cự Thích, nhưng phải châm cho
trúng Kinh mạch chứ không phải Lạc mạch. Cho nên bệnh ở Lạc mạch, sự đau
đớn khác với Kinh mạch cho nên gọi là Mậu Thích”(TVấn 63, 5-6).
d- Tác Dụng Của Kinh Biệt
12 Kinh Biệt có tác dụng duy trì mối quan hệ xuất nhập Biểu Lý, tăng cường
mối quan hệ giữa kinh chính với Tạng Phủ và mối quan hệ giữa các kinh Âm,
Dương có quan hệ Biểu Lý với nhau, làm cho sự liên hệ giữa các chức năng sinh
lý càng thêm chặt chẽ.
Sách Trung Y Học Khái Luận nhận định : ” …Một điểm đặc biệt là 6 kinh
Âm cũng đều có tác dụng ở bộ phận đầu, mặt, nếu chỉ đem bộ vị tuần hành của 12
Kinh Mạch nói ở trên mà xét, thì trong 6 kinh Âm, trừ kinh mạch túc Quyết Âm có
thể lên đến đỉnh đầu ra, còn 5 kinh mạch Âm kia đều chỉ đi đến cổ họng là đứng
lại. Nhưng sau khi kinh Biệt của 6 kinh Âm đã đi đến đầu, mặt, cổ họng rồi, lại
cũng đều hội với kinh Biệt của 6 kinh Dương ở trên đầu mặt, và nhận lấy khí huyết
của 6 kinh Biệt Âm giao cho, do đó mới có thể hiểu được vì sao kinh Âm cũng có
thể tác dụng ở đầu và mặt” - ” Chính vì giữa khoảng kinh Âm và Dương có sự
quan hệ mật thiết, cho nên, trong lâm sàng : nếu thấy kinh Dương nào bị bệnh, có
thể trị ở kinh Âm có quan hệ biểu lý với nó. Kinh Âm nào bị bệnh có thể trị ở kinh
Dương có quan hệ biểu lý với nó…) - “Một số vùng bệnh, có 1 số không phải
đường kinh mạch có thể đi đến mà là chỗ kinh Biệt đi đến…. Thí dụ : kinh thủ
Quyết Âm không đi đến họng nhưng huyệt Đại Lăng, Gian Sử của kinh đó đều có
thể trị được bệnh ở họng. Đó là do đường thông vận hành của kinh Biệt của kinh
Quyết Âm ?theo ra đường cuống họng”.
e- Chẩn Đoán Kinh Biệt
Vì Kinh Biệt là những nhánh tách ra của Kinh Chính, nên tà khí ở các Kinh
Chính bị thực thì tà khí có thể chuyển qua các nhánh của mình là Kinh Biệt, để từ
đó chuyển vào Tạng Phủ, và khi tà khí đang di chuyển như vậy, vẫn có sự giao
tranh giữa chính khí và tà khí, do đó triệu chứng chính của kinh Biệt là đau từng
cơn.
f- Điều Trị Kinh Biệt
v “Điều trị các kinh Biệt, nếu chỗ tà khí đi qua mà không gây ra bệnh thì
dùng phép Mậu Thích” [châm ở lạc mạch nghịch với bên bệnh] (TVấn 63,24).
v “Nếu tà khí khách ở Kinh thì dùng phép ?Cự Thích?” [đau bên phải châm
bên trái của kinh bệnh ](TVấn 63,6).
-Cách Châm
+ Đau bên phải châm bên trái và ngược lại (TVấn 63, 8).
+ Thường dùng huyệt Tỉnh + A Thị Huyệt.
Vì Mậu Thích liên hệ với Lạc Mạch (Kinh Cân), trong điều trị kinh Cân
thường dùng đến A Thị Huyệt do đó khi châm Mậu Thích, thường kèm theo dùng
A Thị Huyệt.
+“Quan sát ở bì bộ (vùng da), thấy có huyệt Lạc hiện lên, đều phải châm hết.
Đó là phương pháp Mậu Thích” (TVấn 63, 30).
Thiên ?Mậu Thích? từ câu 7 - 23, nêu lên 16 trường hợp thực tiễn áp dụng
Mậu Thích, trong đó, thường xử dụng công thức :
+ Châm huyệt Tỉnh của đường kinh liên hệ với bệnh chứng.
+ Châm theo Mậu Thích (châm bên không đau - bệnh bên phải châm bên trái
và ngược lại).
Dựa theo Nội Kinh Tố Vấn, khi điều trị Kinh Biệt thường theo các nguyên
tắc sau :
a- Do Tà Khí :
Châm huyệt Tỉnh của kinh bệnh và kinh có quan hệ Biểu Lý ( Phía đối
(nghịch) với bên bệnh - tức là theo Mậu Thích).
Châm huyệt Du của kinh bệnh và kinh có quan hệ Biểu Lý (ở phía bên
bệnh).
12 Kinh Biệt.
12 Kinh Cân.
15 Lạc.
12 Kinh Chính.
8 Mạch Kỳ Kinh.
B1- HỆ THỐNG KINH CHÍNH
Thủ Mặt Đau nơi kinh Ngực đầy tức, Sốt bệnh
Thái âm trong, bờ đi qua, đau nhiều ho, khó thở, khát, ở ngực, phế,
PHẾ trước của thì tay bắt chéo ôm tiểu gắt, nước tiểu họng, thanh
KINH tay, từ hố ngực, mắt tối sầm, vàng, gang tay quản, tiểu ít,
(Mỗi bên nách ngực tim đập loạn nóng, cảm phong khó hành khí
11 huyệt) chạy ra hàn thì có sốt và gai hoạt huyết,
ngón tay rét khí huyết ứ
chiều ly trệ
tâm
VÙNG NGỰC
THÁI ÂM Phế ß Tỳ
Theo thiên ?Doanh Khí? (LKhu 16), Khí huyết tuần hoàn trong 12
kinh chính đi khắp cơ thể thành 1 vòng khép kín. Tinh hoa thức ăn, sau khi được
hấp thu ở trung tiêu lên Phế, chuyển hóa thành Vinh khí, cùng với huyết tuần hoàn
từ kinh Thái Âm Phế qua các kinh khác, theo trình tự nhất định sau : khởi đầu từ
kinh thủ Thái Âm Phế, chuyển qua Đại Trường à Vị à Tỳ à Tâm à Tiểu Trường à
Bàng Quang à Thận à Tâm Bào à Tam Tiêu à Tiểu Trường à Đởm à Can rồi lại
chuyển về Phế, cứ theo vòng tròn khép kín như vậy không ngừng nghỉ. Vì vậy,
thiên ‘Mạch Độ’ ghi : ” Khí không thể không vận hành, ví như nước phải chảy,
như trời trăng chuyển vận không ngừng. Cho nên Âm mạch làm vinh cho Tạng,
Dương mạch làm vinh cho phủ, như chiếc vòng ngọc không đầu mối, không biết
cái kỷ ở chỗ nào, chung rồi lại thuỷ. Khí tràn ngập của nó, bên trong tưới ướt tạng
phủ, bên ngoài làm trơn ướt tấu lý” (LKhu 17, 28-30).
c- Tác Dụng Của Kinh Mạch
- Về Sinh Lý :
1- Kinh lạc có chức năng vận hành khí huyết nuôi dưỡng toàn thân.
- Thiên ‘Kinh Mạch’ ghi : “Kinh mạch có nhiệm vụ doanh cho sự vận hành
của khí, nó ‘chế’ để cho khí trở thành ‘độ lượng’, bên trong nó làm cho khí của
ngũ hành vận hành thành thứ tự, bên ngoài nó làm cho lục phủ phân biệt nhau”
(LKhu 10, 1).
- Thiên ‘Hải Luận’ ghi : “12 kinh mạch, trong thì thuộc vào tạng phủ, bên
ngoài lạc với tứ chi và cốt tiết” (LKhu 33, 1).
- Nan thứ 23 Nan Kinh ghi : ‘Kinh Mạch là nơi vận hành của khí huyết, là nơi
để cho khí Âm Dương thông nhau nhằm làm cho cơ thể tươi tốt” (NKinh 23,6).
Như vậy chức năng của kinh mạch là vận hành khí huyết nuôi dưỡng toàn
thân.
&#Khí tuần hành trong hệ thống kinh lạc gọi là ‘Kinh khí’. Dưới sự thúc đẩy
của kinh khí, khí huyết tuần hành không ngừng trong kinh lạc, không ngừng đưa
dinh dưỡng đến toàn thân, bảo đảm chức năng sinh lý bình thường của các tổ chức
trong cơ thể và bảo đảm sự liên hệ ăn khớp giữa các tổ chức đó. Nếu tuần hoàn khí
huyết mất điều hoà sẽ gây ra bệnh.
2- Kinh Lạc có chức năng phản ảnh thay đổi bệnh lý và dẫn truyền kích thích.
- Về Bệnh Lý :
Khi tạng phủ có bệnh, bệnh sẽ thông qua kinh lạc mà phản ảnh ra ngoài cơ
thể :
+ Thiên ‘Bì Bộ Luận’ ghi : “12 kinh mạch là bộ phận ngoài da, vì vậy trăm
thứ bệnh khi bắt đầu phát sinh là phát từ ngoài da lông trước, tà khí trúng vào thì
tấu lý mở ra, tấu lý mở ra thì tà khí xâm nhập vào Lạc mạch. nếu tà khí cứ ở đó
không trừ được thì sẽ chuyển vào kinh. Tà khí ở kinh không trừ đi thì sẽ truyền
vào phủ, và ở tại trường Vị” (TVấn 56,9).
- Về Chẩn Đoán
+ Thiên ‘Quan Năng’ ghi : “Thẩm sát được những bộ vị đau trên cơ thể rồi
kết hợp với những biểu hiện về màu sắc ở trên, dưới, bên phải, bên trái, ở trên mặt
để biết được bệnh đang thuộc hàn hoặc ôn, đang xẩy ra ở kinh nào” (LKhu 73, 17).
+ Thiên ‘Vệ Khí’ ghi : ” Nếu biết phân biệt 12 kinh của Âm Dương, sẽ biết
được bệnh sinh ra ở đâu” (LKhu 52, 8).
+ Mỗi đường kinh có liên hệ với 1 tạng phủ nhất định nào đó, vì vậy, có thể
dựa theo 1 số nguyên tắc sau để chẩn đoán :
+ Theo Cơ Quan Bệnh
. Bệnh ở hệ hô hấp ( ho, hen suyễn…) nên nghĩ đến Phế vì theo Nội Kinh :
Phế chủ hô hấp”; bệnh ở hệ tiêu hoá (bụng đầy, tiêu chảy…) nên nghĩ đến Tỳ Vị vì
theo Nội Kinh : ‘Tỳ chủ tiêu hoá’…
+ Dựa Vào Huyệt Chẩn Đoán
Mỗi đường kinh khi có xáo trộn, bị bệnh, thường phát ra dấu hiệu báo bệnh
như đau ở 1 số huyệt nhất định, gọi là Mộ huyệt, do đó, có thể dò tìm các huyệt
chẩn đoán này để tìm ra kinh bệnh.
Thí dụ : Kinh Phế bệnh, huyệt Trung Phủ (P.1) ấn vào sẽ đau, kinh Can bệnh,
ấn đau huyệt Kỳ Môn (C.14) …
+ Theo đường vận hành của kinh (tuần kinh chẩn pháp) : dựa theo nguyên
tắc : ‘Kinh lạc sở qua chủ trị sở cập’ (kinh lạc đi qua chỗ nào, trị bệnh ở đó), cho
phép ta chẩn được bệnh lý liên hệ với kinh vận hành. Thí dụ :
. Đau vùng hông sườn có liên hệ đến kinh Can.
. Đau vùng mặt trong cánh tay kèm ho, có liên hệ đến kinh Phế…
+ Dựa Vào Sự Cảm Nhiệt của Tỉnh Huyệt
Còn gọi là phương pháp Akabane’s Test (Nhật Bản) : khi 1 đường kinh bị
bệnh thì cảm giác về nóng ở huyệt của kinh đó sẽ thay đổi, cảm giác bên bệnh
khác với bên lanh. Sự chênh lệch này rõ nhất ở các Tỉnh huyệt, do đó, có thể xử
dụng phương pháp đo cảm giác về nhiệt độ, so sánh sự chênh lệch giữa 2 bên phải
trái ( và giữa các kinh với nhau) có thể tìm ra kinh bệnh.
- Đổng Thừa Thống (Trung Quốc) cũng dùng phương pháp đo thời gian cảm
ứng với nhiệt độ để so sánh chênh lệch giữa 2 bên phải - trái, rồi chọn huyệt châm
để điều trị, cũng thấy có tác dụng đièu chỉnh sự chênh lệch của cảm giác đối với
nhiệt độ và cũng chữa được bệnh (Học Viện Y Học I Thượng Hải).
- Có thể dùng lượng thông điện qua huyệt Tỉnh làm đại biểu để xem xét tình
trạng sinh lý, bệnh lý của mỗi đường kinh (Học Viện Y Học I Thượng Hải).
+ Dựa Vào Sự Thay Đổi Điện Trở Của Huyệt Nguyên
- Đo lượng dẫn điện qua các huyệt của 50 người khoẻ mạnh thấy : nếu lấy
trung bình cộng của tất cả các huyệt của 1 đường kinh thì bằng với lượng thông
điện qua huyệt Nguyên của đường kinh đó. Như vậy, có thể lấy huyệt Nguyên làm
đại biểu cho lượng thông điện của mỗi kinh (Trung Cốc Nghĩa Hùng , Nhật Bản).
Lấy lượng thông điện trung bình của 5 huyệt Ngũ Du (Tỉnh, Vinh, Du, Kinh,
Hợp) và huyệt Nguyên cũng thấy bằng lượng thông điện của huyệt Nguyên, do đó,
có thể dùng huyệt Nguyên làm đại biểu cho sự dẫn điện của mỗi kinh (Học Viện Y
Học I Thượng Hải).
Kỳ Kinh Bát Bộ
Theo người xưa, 4 khí dương từ trên đi xuống (Thiên khí) và 4 khí âm (địa
khí) từ dưới đi lên, 8 dòng khí hóa trên giao lưu qua cơ thể con người, tạo thành 8
kinh, gọi là Kỳ kinh bát mạch.
Kỳ kinh bát mạch gồm : Nhâm mạch, Đốc mạch, Dương duy mạch, Âm duy
mạch, Dương Kiều (Kiểu) mạch, Âm Kiều (Kiểu) mạch, Xung mạch và Đái (Đới)
mạch.
Trong 8 mạch, trừ 2 mạch Nhâm và Đốc có huyệt riêng, còn 6 mạch khác
không có huyệt riêng, có thể dùng 1 số huyệt của các kinh chính (huyệt Hội với 8
mạch) để điều hòa mạch khí của 6 mạch này.
Khác với 12 kinh chính, đường tuần hoàn mạch khí của 8 mạch, chỉ đi từ
phần dưới cơ thể lên đầu mặt, trừ mạch Đới đi vòng quanh bụng dưới và thắt lưng.
Trên lâm sàng, chỉ có Mạch Nhâm và Mạch Đốc là thường được dùng đến,
các mạch khác rất ít khi dùng hoặc chỉ được dùng như có tính cách phân chia trên
lý thuyết cho hợp với hệ thống hoặc chỉ được nghiên cứu và dùng trong phép
châm “Linh Quy Bát Pháp”.
- 8 mạch, Nhâm, Đốc, Dương duy, Âm duy, Âm kiều, Dương kiều, Đới, Xung
và Đới giao hội với 8 kinh : Tỳ, Tâm bào, Tiểu trường, Bàng quang, Đởm, Tam
tiêu, Phế và Thận ở các huyệt : Công Tôn, Nội quan, Hậu khê, Thân mạch, Túc
lâm khấp, ngoại quan, Liệt khuyết và Chiếu hải.
- 8 mạch có tác dụng : bổ sung chỗ thiếu hụt của 12 kinh
- Đốc, Nhâm, Xung và Đới trực tiếp với chức năng sinh đẻ.
- Dương kiều, Âm kiều trực tiếp với chức năng vận động.
- Dương duy, Âm duy trực tiếp với chức năng thăng bằng của cơ thể.
BẢNG TÓM KẾT KỲ KINH BÁT MẠCH
ĐỐC Cột sống vận động khó, bệnh Cứng lưng, uốn ván do
nặng thì như uốn ván, đầu váng, bệnh não, bệnh của tạng phủ
(28
lưng yếu
huyệt riêng)
ĐỚI Bụng đầy trướng, lưng lạnh, Bụng, thắt lưng đau
kinh nguyệt không đều, khí hư, thắt, kinh nguyệt không đều,
(Không
chân teo, liệt khí hư, chân yếu
huyệt riêng)
DƯƠNG Mắt mờ, đau mắt đỏ, mất ngủ, Bàn chân lệch ngoài,
KIỂU động kinh, lưng đau động kinh, mất ngủ
(Không
huyệt riêng)
DƯƠNG Sức yếu, sốt rét, đầu váng, hoa Chứng sốt ở Biểu
DUY mắt, suyễn, đau sưng thắt lưng
(Không
huyệt riêng)
ÂM Vùng tim đau, ngực sườn đau, Bao tử đau, vùng tim
DUY Thắt lưng đau, vùng sinh dục nam đau, ngực đau, bụng đau.
(Không
huyệt riêng)
Cập nhật ( 23/01/2005 )
Lạc Mạch
A- ĐẠI CƯƠNG:
-Thiên ?Kinh Mạch? ghi : “Các mạch nổi lên mà chúng ta thấy đều thuộc về
Lạc mạch” (LKhu 10, 117) và ?Những mạch hiện ra đều thuộc Lạc mạch” (LKhu
10, 121).
Trương Cảnh Nhạc khi chú giải đoạn này của thiên Kinh Mạch giải thích :
“Phàm những sợi gân nằm ở phía ngoài cánh tay đều hiện lên rõ ràng, tục gọi là
gân xanh. Thực ra đây không phải là gân , không phải là mạch, đó là những đại lạc
chứa huyết, gọi là ?Phù Lạc?”.
b- Cơ Cấu Của Lạc Mạch
Sách Nan Kinh, điều 26 ghi : “Kinh có 12, Lạc có 15…”.
Các tài liệu Kinh điển như Nội Kinh, Nan Kinh đều xác nhận có 15 Lạc
Mạch, đó là :
12 Lạc của 12 Kinh.
1 Đại lạc của Tỳ.
2 lạc của Kỳ Kinh Bát Mạch.
c- Phân Loại Lạc Mạch
Tuy gọi chung là Lạc Mạch nhưng xét về vị trí, chức năng, có thể phân làm 2
loại Lạc Mạch là Lạc Dọc và Lạc Ngang.
c.1) Lạc Dọc : “Là những nhánh tách ra từ Kinh chính, có thể đi song song
với Kinh chính nhưng nó không đi vào sâu cũng không dài như các Kinh chính”
(Trung Y Học Khái Luận).
c.2) Lạc Ngang : (Sách ?Trung Y Học Khái Luận? gọi là Biệt Lạc) là những
nhánh từ kinh mạch rẽ ra, thường ngắn vì chủ yếu là nối kinh khí giữa các Lạc và
Nguyên huyệt của 2 đường kinh có quan hệ Biểu Lý với nhau.
d- Vận Hành Của Lạc Mạch
Xét kỹ về Lạc mạch, có thể nhận thấy :
+ Lạc ngang : đa số khu trú ở khủy tay, bàn tay và bàn chân.
+ Lạc Dọc : đi từ các kinh đến trực tiếp các tạng phủ và vùng đầu mặt.
+ Tôn lạc : đa số nổi dưới da thành các mạch máu nhỏ.
e- Tác Dụng Của Lạc Mạch
+ Lạc Ngang : Nối kết sự hoạt động liên lạc chủ yếu giữa 2 kinh có quan hệ
Biểu Lý với nhau [qua các huyệt Lạc và Nguyên] (Trung Y Học Khái Luận).
+ Lạc Dọc : Đưa kinh khí từ các kinh chính đến các Tạng phủ và vùng đầu
mặt (Trung Y Học Khái Luận).
+ Tôn Lạc : Giúp dễ chẩn đoán, nhất là qua các mạch máu nhỏ nổi ở vùng
hoặc đường đi của kinh lạc bị bệnh.
f- Điều Trị Lạc Mạch
+ Nếu là Lạc Ngang
* Thực chứng : Tả Lạc huyệt kinh Chính + bổ Nguyên huyệt của kinh có
quan hệ Biểu Lý với kinh bệnh.
* Hư Chứng : Bổ Nguyên huyệt kinh Chính + tả Lạc huyệt của kinh có quan
hệ Biểu Lý với kinh bệnh.
+ Nếu là Lạc Dọc
* Thực chứng : Tả Lạc huyệt của kinh Chính.
* Hư Chứng : Tả Nguyên huyệt của kinh Chính + Bổ Lạc huyệt của kinh có
quan hệ Biểu Lý với kinh bệnh.
+ Nếu là Tôn Lạc, Huyết Lạc, Phù Lạc
Theo thiên ?Kinh Mạch? (LKhu 10), chủ yếu là châm cho ra máu (xuất
huyết).
BẢNG TỒNG KẾT 15 LẠC MẠCH
Đại Lạc Toàn thân Khớp toàn thân lỏng lẻo, Đại
của TỲ đau không có sức Bao
BIỂU ĐỔ NGUYÊN TẮC TRỊ LIỆU
KINH BIỆT, KINH CÂN VÀ LẠC MẠCH
Lạc Ngang Tả huyệt Lạc (kinh bệnh) + bổ huyệt Nguyên kinh có quan
hệ Biểu Lý.
Bì Bộ
12 khu da cũng là phần phụ thuộc bên ngoài của hệ thống kinh lạc, vì thế
thiên “Bì bộ luận” sách Nội Kinh ghi : “Bì bộ dĩ kinh mạch vi kỳ” (Các khu da
được phân định bởi các đường kinh). Mỗi đường kinh chính phân định 1 khu da
thuộc về nó. Khu da khác với khu chính ở chỗ nó là 1 bề mặt rộng. Như vậy, khu
da vừa là phần ngoài của cơ thể vừa là phần đại biểu bên ngoài của hệ thống kinh
lạc.
Vệ khí chủ yếu phân bố ở da, vì vậy nó là tuyến phòng ngự đầu tiên của cơ
thể chống tà khí. Sách Tố Vấn, thiên “Bì bộ luận” ghi : “Tà khí đã vào da thì tấu lý
khai, tấu lý khai thì tà vào lạc mạch, vào đầy lạc mạch rồi thì vào kinh mạch, vào
kinh mạch đầy rồi thì vào tạng phủ”.
Phương pháp “Bán thích” “Mao thích” mô tả trong thiên “Quan châm” sách
Tố Vấn cũng như phương pháp “Gõ Kim Mai Hoa” là dựa vào đặc điểm của khu
da.