You are on page 1of 11

ĐIỀU HÀNH GIÁ

Trong bối cảnh đó, công tác quản lý, điều hành giá các mặt hàng thiết yếu được
triển khai thận trọng, đúng theo chủ trương và chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ - Trưởng Ban Chỉ đạo điều hành giá. Các hàng hóa, dịch vụ thiết yếu vẫn
được điều hành theo hướng giữ ổn định mặt bằng giá, một số mặt hàng có chính sách
giảm giá kịp thời hỗ trợ các đối tượng tiêu dùng, một số mặt hàng không xem xét
tăng giá dù các yếu tố chi phí đầu vào có xu hướng tăng; qua đó đã góp phần giảm
chi phí đẩu vào, hỗ trợ sự phục hồi của sản xuất, kinh doanh. Trong đó giá điện được
giảm cho tất cả các đối tượng sử dụng trong quý II và quý IV năm 2020 đã phần nào
làm giảm khó khăn cho người dân và doanh nghiệp; giá nước sạch cũng được thực
hiện giảm tại hầu hết các địa phương trong quý II năm 2020 theo chỉ đạo của Thủ
tướng Chính phủ; giá xăng dầu được điều hành linh hoạt, kết hợp với việc sử dụng
quỹ bình ổn giá góp phần giúp giá không tăng sốc trong những thời điểm giá xăng
dầu thế giới lên cao. Giá một số dịch vụ trong lộ trình điều chỉnh nhưng không tăng
hoặc hạn chế mức tăng như dịch vụ khám chữa bệnh, dịch vụ giáo dục; giá nhiều mặt
hàng trong danh mục nhà nước định giá cũng được xem xét giảm giá như dịch vụ
hàng không…
Kết quả, CPI bình quân năm 2020 được kiềm soát ở mức 3,23% so với cùng kỳ
năm 2019, đã đạt được mục tiêu kiêm soát lạm phát do Quốc hội và Chính phủ đã đặt
ra trong năm 2020; từ đó góp phần vào kết quả công tác kiểm soát lạm phát cả nhiệm
kỳ 5 năm qua đều thực hiện tốt theo mục tiêu đã đề ra.
Đồng thời theo dõi sát diễn biến cung cầu, giá cả thị trường các mặt hàng thiết
yếu để có giải pháp bình ổn thị trường phù hợp theo thẩm quyền, nhất là đối với một
số mặt hàng thiết yếu có nhu cầu tiêu dùng cao vào dịp cuối năm; chủ động chuẩn bị
các nguồn hàng dự trữ đáp ứng nhu cầu tăng cao vào dịp lễ Tết để hạn chế tăng giá.
Đặc biệt chú trọng việc chuẩn bị hàng hóa, nhu yếu phẩm phục vụ sinh hoạt của
người dân tại các địa phương miền Trung đã chịu ảnh hưởng bởi thiên tai, bão lũ, sạt
lở đất, không để xảy ra tình trạng thiếu hàng, sốt giá cục bộ trong dịp tết ảnh hưởng
đến tâm lý, đời sống người dân.
Việc điều chỉnh giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý nên tận dụng các tháng có
CPI tăng thấp để điều chỉnh giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý nhằm hạn chế lạm
phát.
Văn phòng Chính phủ có Công văn 655/VPCP-KTTH về công tác điều hành giá
năm 2021:
https://thuvienphapluat.vn/cong-van/Tai-chinh-nha-nuoc/Cong-van-655-VPCP-
KTTH-2021-cong-tac-dieu-hanh-gia-463697.aspx
https://quochoi.vn/tintuc/Pages/tin-doan-dai-bieu-quoc-hoi.aspx?ItemID=52432
https://thuvienphapluat.vn/cong-van/Tai-chinh-nha-nuoc/Cong-van-3025-VPCP-
KTTH-2021-cong-tac-quan-ly-dieu-hanh-gia-473754.aspx
https://sav.gov.vn/Pages/chi-tiet-tin.aspx?ItemID=38317&l=TinTucSuKien
https://thuvienphapluat.vn/cong-van/Thuong-mai/Cong-van-4896-BTC-QLG-
2021-tang-cuong-quan-ly-va-thong-tin-gia-ca-thi-truong-tai-dia-phuong-479912.aspx
Chủ động xây dựng kịch bản điều hành giá

Trước tình hình trên, ngày 22/4/2021 Bộ Tài chính có văn bản số 64/TTr-BTC
báo cáo Thủ tướng Chính phủ về kết quả công tác điều hành giá quý I năm 2021 và
định hướng công tác điều hành giá những tháng còn lại năm 2021; trên cơ sở kiến
nghị của Bộ Tài chính, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái có ý kiến chỉ đạo
các Bộ, ngành, địa phương và các cơ quan có liên quan theo chức năng nhiệm vụ
được giao tại văn bản số 3025/VPCP-KTTH ngày 08/5/2021 về công tác điều hành
giá năm 2021 triển khai tập trung các biện pháp, trong đó, đối với mặt hàng thép xây
dựng, Phó Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Công Thương nghiên cứu có các biện pháp
thúc đẩy tăng năng lực sản xuất thép thành phẩm trong nước, hướng tới đáp ứng được
cơ bản nhu cầu trong nước; nghiên cứu điều chỉnh sự mất cân đối cung ứng sản phẩm
thép trên thị trường để ưu tiên thị trường trong nước thông qua việc điều chỉnh, cân
đối khối lượng xuất khẩu thép thành phẩm; Giao Bộ Xây dựng chủ động nghiên cứu,
hướng dẫn thay đổi công nghệ xây dựng nhằm giảm tải lượng thép tiêu thụ trong các
công trình xây dựng.

Đối với công tác điều hành giá năm 2021, Phó Thủ tướng chỉ đạo phải tiếp tục
thực hiện công tác quản lý, điều hành giá, kiểm soát lạm phát năm 2021 một cách
thận trọng, linh hoạt và chủ động, tập trung vào việc hỗ trợ thực hiện mục tiêu kép
của Chính phủ, vừa giữ ổn định mặt bằng giá để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh
doanh và đời sống của người dân, vừa hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; chủ động,
phối hợp chặt chẽ nghiêm túc triển khai thực hiện ý kiến chỉ đạo của Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ, Trưởng Ban chỉ đạo điều hành giá; tăng cường kiểm tra chuyên
ngành, chuyên đề về giá, giám sát giá cả thị trường, kịp thời tham mưu cho các cấp
có thẩm quyền điều hành giá cả cho phù hợp với nguyên tắc thị trường và điều hành
kinh tế vĩ mô.

Tiếp tục làm tốt hơn nữa công tác dự báo, phân tích giá cả, để chủ động xây dựng
các kịch bản điều hành giá theo tháng/quý/năm để có phương án điều hành giá phù
hợp từng giai đoạn đảm bảo mục tiêu kiểm soát lạm phát. Trong đó, chú trọng việc
đánh giá, tính toán, xây dựng kịch bản điều hành giá đối với các mặt hàng do Nhà
nước quản lý; các hàng hóa thiết yếu có tác động ảnh hưởng đến CPI. Đồng thời, đẩy
mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về chủ trương, biện pháp bình ổn giá, kiểm
soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, góp phần tạo ra sự đồng
thuận trong xã hội để hạn chế tối đa các tác động tăng giá do yếu tố tâm lý, kỳ vọng
lạm phát.

Thực hiện rà soát để sửa đổi, bổ sung ngay một số văn bản quy phạm pháp luật có
vướng mắc, chồng chéo, nhất là những vấn đề về chức năng, nhiệm vụ trong quản lý
điều hành giá; đồng thời chủ động các khâu thuộc quy trình soạn thảo văn bản quy
phạm pháp luật quy định giá một số hàng hóa, dịch vụ do nhà nước định giá để có thể
điều chỉnh giá tại các thời điểm thích hợp; tiếp tục nghiên cứu tổng kết đánh giá thi
hành Luật giá và các văn bản hướng dẫn. Trong dài hạn, tiếp tục đẩy mạnh các khâu
thuộc quy trình để đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật giá cho phù hợp với quan điểm,
nguyên tắc và tính thống nhất, đồng bộ trong xây dựng pháp luật; đáp ứng yêu cầu
quản lý kinh tế thị trường, phát triển kinh tế xanh và bền vững. Qua đó, hướng đến
mục tiêu khắc phục triệt để những tồn tại, hạn chế phát sinh trong thời gian qua, nâng
cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực giá.

Tăng cường công tác quản lý giá tại địa phương

Ngày 14/5/2021, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Lê Minh Khái tại
Công văn số 3025/VPCP-KTTH, Bộ Tài chính ban hành công văn số 4896/BTC-
QLG đề nghị Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tiếp tục tăng
cường công tác quản lý, điều hành và bình ổn giá cả thị trường trên địa bàn để hỗ trợ
cho việc thực hiện mục tiêu kép của Chính phủ, vừa giữ ổn định mặt bằng giá để tháo
gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh và đời sống của người dân, vừa hỗ trợ thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, tránh để xảy ra các biến động bất thường về giá ảnh hưởng đến
đời sống kinh tế - xã hội. Theo đó, các địa phương cần theo dõi sát diễn biến giá cả
thị trường trên địa bàn để kịp thời có biện pháp bình ổn giá theo quy định của pháp
luật, nhất là đối với những hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng thiết yếu của người dân, hàng
hóa thiết yếu là đầu vào cho sản xuất trên địa bàn như vật tư y tế phòng dịch, các sản
phẩm nông nghiệp tại các khu vực bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19...; phối hợp chặt
chẽ với các Bộ ngành trong công tác lưu thông phân phối hàng hóa để tránh hiện
tượng sốt giá cục bộ do khan hiếm hàng hóa hoặc sụt giảm giá bất lợi đối với hàng
nông sản do bị ùn tắc trong lưu thông, phân phối. Tổng hợp các khó khăn, vướng mắc
báo cáo kịp thời Ban Chỉ đạo điều hành giá (qua Bộ Tài chính) để có chỉ đạo.

Ngoài ra, các địa phương cần tăng cường công tác quản lý kê khai giá, niêm yết
giá, nhất là đối với vật tư y tế phòng chống dịch, hàng hóa thiết yếu trên địa bàn;
kiểm soát chặt chẽ yếu tố hình thành giá đối với các hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước
định giá, hàng hóa, dịch vụ mua sắm từ nguồn ngân sách nhà nước, hàng hóa, dịch vụ
công ích, dịch vụ sự nghiệp công... Đồng thời, tăng cường công tác kiểm tra chuyên
ngành, chuyên đề về giá, giám sát giá cả thị trường; xử lý nghiêm đối với các trường
hợp vi phạm pháp luật về giá. Chủ động tính toán, xây dựng phương án giá đối với
các mặt hàng do Nhà nước định giá thuộc thầm quyền quy định giá của địa phương
trong đó đánh giá kỹ liều lượng, mức độ điều chỉnh cho phù hợp từng giai đoạn đảm
bảo mục tiêu kiểm soát lạm phát.

Bên cạnh đó, các địa phương đẩy mạnh công tác tuyên truyền, thông tin kịp thời
về tình hình thị trường giá cả; công khai, minh bạch thông tin về giá, nhất là đối với
các hàng hóa, dịch vụ thuộc diện kê khai giá để hạn chế tối đa các tác động tăng giá
do yếu tố tâm lý, kỳ vọng lạm phát, tránh các tin đồn thất thiệt gây ảnh hưởng đến
mặt bằng giá cả thị trường, đời sống người dân. Đồng thời tăng cường công tác tổng
hợp, phân tích, dự báo thị trường giá cả, thực hiện chế độ báo cáo kịp thời theo quy
định.
http://sotaichinh.hatinh.gov.vn/no-luc-kiem-soat-lam-phat-binh-quan-nam-2021-
o-muc-khoang-4-1621297376.html
2.1. Nhóm giải pháp tác động vào tổng cầu
Các giải pháp này nhằm hạn chế sự gia tăng quá mức của tổng cầu.

Trước hết là thực hiện một CSTT thắt chặt do nguyên nhân cơ bản của lạm phát
cầu kéo là sự gia tăng của khối lượng tiền cung ứng. Sự hạn chế cung ứng tiền sẽ có
hiệu quả ngay đến sự giảm sút của nhu cầu có khả năng thanh toán của xã hội.

Một CSTT thắt chặt được bắt đầu bằng việc kiểm soát và hạn chế cung ứng tiền
cơ sở (MB), từ đó mà hạn chế khả năng mở rộng tín dụng của hệ thống ngân hàng
trung gian. Lãi suất ngân hàng và lãi suất thị trường tăng lên sau đó sẽ làm hạn chế
nhu cầu tiêu dùng và đầu tư, làm giảm áp lực đối với hàng hoá và dịch vụ cung ứng.
Cùng với việc thực thi CSTT thắt chặt là sự kiểm soát gắt gao chất lượng tín dụng
cung ứng nhằm hạn chế khối lượng tín dụng, đồng thời đảm bảo hiệu quả của kênh
cung ứng tiền cũng như chất lượng của việc sử dụng tiền tệ.

Kiểm soát chi tiêu của ngân sách nhà nước từ trung ương đến địa phương nhằm
đảm bảo tiết kiệm và hiệu quả trong chi tiêu ngân sách: rà soát lại cơ cấu chi tiêu, cắt
giảm các khoản đầu tư không có tính khả thi và các khoản chi phúc lợi vượt quá khả
năng của nền kinh tế, cải tiến lại bộ máy quản lý nhà nước vốn cồng kềnh, không
hiệu quả, gây lãng phí ngân sách. Khai thác các nguồn thu, đặc biệt là thu thuế nhằm
giảm mức bội chi, cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước … Và cuối cùng là hạn
chế phát hành tiền để bù đắp thiếu hụt ngân sách.

Thực hiện chính sách khuyến khích tiết kiệm, giảm tiêu dùng. Lãi suất danh nghĩa
được đưa lên cao hơn tỷ lệ lạm phát để hấp dẫn người gửi tiền. Biện pháp này thường
được sử dụng trong trường hợp lạm phát cao và có tác động tức thời. Tuy nhiên,
trong thời gian áp dụng chính sách lãi suất cao, cần có sự điều chỉnh linh hoạt cho
phù hợp với mức độ biến động của lạm phát và hạn chế hậu quả tiềm tàng cho các tổ
chức nhận tiền gửi.

Trong điều kiện nền kinh tế mở, sự can thiệp vào tỷ giá nhằm điều chỉnh tỷ giá
tăng dần dần (chứ không để tăng lên ngay) theo mức độ lạm phát cũng được sử dụng
như một giải pháp nhằm giảm cầu do tỷ giá tăng khiến giá hàng xuất khẩu rẻ đi làm
tăng nhu cầu xuất khẩu dẫn đến tăng tổng cầu và do đó là tăng sức ép lên giá. Mặt
khác, việc điều chỉnh tỷ giá từ từ cũng sẽ làm cho giá nội địa của hàng nhập khẩu
không tăng nhanh quá, giảm bớt áp lực tăng mặt bằng giá trong nước.

Đối với những nước phụ thuộc vào hàng nhập khẩu, điều này đặc biệt có ý nghĩa.
Tuy nhiên, hành động can thiệp này có thể làm cạn kiệt nguồn dự trữ ngoại tệ vì phải
bán ra để kìm hãm tỷ giá tăng. Chính vì thế việc sử dụng giải pháp này cũng cần cân
nhắc đến khả năng dự trữ ngoại hối cũng như khả năng phục hồi nguồn dự trữ của
quốc gia.

2.2. Nhóm giải pháp tác động vào tổng cung


Giải pháp quan trọng nhất là tác động vào mối quan hệ giữa mức tăng tiền lương
và mức tăng của năng suất lao động xã hội. Thực chất là thiết lập một cơ chế để đảm
bảo mức chi trả tiền lương phù hợp với hiệu quả kinh doanh của từng doanh nghiệp
cũng như toàn bộ nền kinh tế. Sự thành công của cơ chế này sẽ hạn chế những đòi hỏi
tăng tiền lương (chi phí chủ yếu trong giá thành sản phẩm) bất hợp lý dẫn đến vòng
luẩn quẩn: tăng lương -> tăng tiền -> tăng giá -> tăng lương…

Việc thiết lập cơ chế tiền lương trong khuôn khổ hiệu quả kinh doanh được thực
hiện bằng các phương pháp khác nhau: có thể nhà nước tham gia ấn định các mức thu
nhập một cách đơn phương (Mỹ), có thể trên cơ sở thoả thuận giữa nhà nước, giới
chủ và tổ chức công đoàn để xây dựng một hệ thống các mức thu nhập (Thuỵ điển,
Úc) hoặc thoả thuận tiền lương được thực hiện ngay tại cơ sở kinh doanh giữa giới
chủ và đại diện công đoàn. Chính sách kiểm soát giá cả phải được tiến hành đồng
thời với cơ chế tiền lương nhằm hạn chế sự biến động của tiền lương thực tế, tránh
rơi vào vòng xoáy: lạm phát -> tăng lương -> tăng giá -> tăng tiền. khóa học đào tạo
thực hành c&b

Các giải pháp tác động vào chi phí ngoài lương nhằm sử dụng tiết kiệm và hiệu
quả như: Xây dựng định mức tiêu hao nguyên liệu và kỷ luật lao động nhằm tôn
trọng định mức đó; Hợp lý hoá nguồn khai thác, vận chuyển và sử dụng nguyên liệu;
Hạn chế tối đa các chi phí trung gian làm tăng giá nguyên liệu. khóa học kế toán thuế

Trong trường hợp sử dụng nguyên liệu nhập ngoại, cần quan tâm tới những ảnh
hưởng bên ngoài đến giá nhập khẩu và có xu hướng tìm nguyên liệu thay thế nếu giá
tăng quá cao, sự giúp sức của chính sách tỷ giá cũng như thuế nhập khẩu đóng một
vai trò quan trọng trong việc giảm giá nội địa nguyên liệu nhập. Ngoài ra, các chi phí
quản lý gián tiếp cũng như các chi phí liên quan đến việc bố trí dây truyền công nghệ
bất hợp lý cũng phải được xem xét và giảm thiểu tối đa. tài liệu nguyên lý kế toán

2.3. Nhóm giải pháp nhằm mở rộng khả năng cung ứng hàng hoá
Giải pháp tình thế và tác động tức thời đến cân đối tiền hàng là nhập khẩu hàng
hoá, nhất là các hàng hoá đang khan hiếm, góp phần làm giảm áp lực đối với giá cả.
Tuy nhiên giải pháp này chứa đựng những nguy cơ tiềm tàng: làm cạn kiệt nguồn dự
trữ quốc tế, tạo thói quen dùng hàng ngoại và đặc biệt làm suy giảm sức sản xuất
trong nước. nên học kế toán thực hành ở đâu

Tăng khả năng sản xuất hàng hoá trong nước được coi là giải pháp chiến lược cơ
bản nhất, tạo cơ sở ổn định tiền tệ một cách vững chắc. Thực chất đây là giải pháp
nhằm tăng mức sản lượng tiềm năng của xã hội. Đây là chiến lược dài hạn tập trung
vào việc khai thác triệt để năng lực sản xuất của xã hội, nâng cao trình độ của lực
lượng lao động, đổi mới thiết bị, hiện đại hoá dây truyền sản xuất và quan trọng nhất
là đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, khuyến khích cạnh tranh và hiệu quả
https://phantichtaichinh.com/cac-bien-phap-kiem-che-lam-phat/

Theo đó, Bộ Công thương yêu cầu Sở Công thương các tỉnh, thành phố trực thuộc
T.Ư chủ động tham mưu cho UBND các tỉnh, thành phố phương án chuẩn bị nguồn
hàng, dự trữ hàng hóa thiết yếu phục vụ tiêu dùng của người dân trong trường hợp
dịch bệnh bùng phát, thực hiện các biện pháp BOTT theo quy định của pháp luật;
phối hợp Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chi nhánh tỉnh, thành phố hỗ trợ, kết nối
các doanh nghiệp sản xuất, phân phối hàng thiết yếu với các tổ chức tín dụng trên địa
bàn để tiếp cận được nguồn vốn vay với lãi suất ưu đãi, dự trữ hàng hóa BOTT trong
tình hình hiện nay…
https://nhandan.vn/baothoinay-kinhte/binh-on-thi-truong-kiem-che-lam-phat-
646626/
Tổng cục Thống kê kiến nghị Bộ Công Thương và Bộ Tài chính theo dõi sát diễn
biến giá xăng dầu thế giới, đồng thời kết hợp Quỹ bình ổn xăng dầu để hạn chế mức
tăng giá của mặt hàng này đối với CPI chung của nền kinh tế. Bộ Công Thương cần
chủ động chuẩn bị sẵn sàng các điều kiện thúc đẩy sản xuất kinh doanh, bảo đảm
nguồn cung và lưu thông hàng hóa, giảm áp lực lạm phát. Đặc biệt, thông tin kịp thời,
chính xác và rõ ràng các chính sách, giải pháp chỉ đạo, điều hành của Chính phủ
nhằm loại bỏ thông tin sai lệch về giá cả thị trường, không để xảy ra hiện tượng lạm
phát do tâm lý từ thông tin sai lệch gây ra.
https://cand.com.vn/Thi-truong/xu-huong-lam-phat-gia-tang-i622458/
Từ diễn biến lạm phát có thể thấy, mặc dù nguy cơ lạm phát tăng cao trên nhiều
khu vực thế giới song việc kiểm soát lạm phát trong nước vẫn trong tầm kiểm soát
của Chính phủ. Các chính sách, biện pháp kiểm soát lạm phát của Chính phủ đã được
phát huy hiệu quả.
Các biện pháp quản lý, điều hành giá đã được triển khai quyết liệt, phối hợp linh
hoạt với các chính sách tài khóa, tiền tệ, thương mại đã giúp cho cung cầu nói chung
cơ bản ổn định, ít xảy ra tình trạng khan hiếm và tạo sự ổn định cho nền tảng kinh tế
vĩ mô của Việt Nam.
https://laodong.vn/kinh-te/quyet-liet-kim-lam-phat-duoi-4-theo-muc-tieu-quoc-
hoi-de-ra-927468.ldo
Điều hành CSTT góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát
Chính sách tiền tệ là chính sách vĩ mô, trong đó, Ngân hàng Trung ương (NHTW)
thông qua các công cụ của mình thực hiện kiểm soát và điều tiết lượng tiền cung ứng.
Chính sách tiền tệ thường chủ yếu hướng vào kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị của
đồng nội tệ và NHTW chủ yếu thực thi CSTT bằng cách đặt ra một mục tiêu cho lãi
suất qua đêm trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng và điều chỉnh lượng cung tiền của
NHTW. CSTT chủ yếu phát huy tác động tích cực của nó trong ngắn hạn, nếu như sử
dụng nó kéo dài thì có thể gây ra tình trạng lạm phát gia tăng bởi thực chất CSTT
không tác động trực tiếp vào tổng cầu.
Chính sách tỷ giá đã được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) điều hành chủ động,
linh hoạt, phù hợp với cân đối vĩ mô, diễn biến thị trường và mục tiêu CSTT trong
từng giai đoạn cụ thể. Theo đó, NHNN thực hiện công bố tỷ giá trung tâm hàng ngày
trên cơ sở tham chiếu diễn biến thị trường trong và ngoài nước, các cân đối kinh tế vĩ
mô, tiền tệ và mục tiêu CSTT góp phần ổn định tỷ giá và thị trường ngoại tệ trong
nước.
https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/su-dung-chinh-sach-tien-te-nham-kiem-soat-
lam-phat-o-viet-nam-trong-giai-doan-hien-nay-74833.htm
Các giải pháp tiền tệ, tín dụng hỗ trợ doanh nghiệp, người dân đã được NHNN
chủ động triển khai quyết liệt, kịp thời, góp phần quan trọng trong việc đạt mục tiêu
kiểm soát lạm phát, củng cố nền tảng vĩ mô, duy trì môi trường kinh doanh lành
mạnh, hỗ trợ đà phục hồi tăng trưởng kinh tế. Cụ thể:

Thứ nhất, các công cụ CSTT được điều hành đồng bộ, linh hoạt; đồng thời, CSTT
cũng được phối hợp chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác để điều tiết thanh
khoản, kiểm soát tiền tệ, giảm thiểu áp lực gia tăng lạm phát, ổn định thị trường, hỗ
trợ tăng trưởng kinh tế, ứng phó với tác động bất lợi của đại dịch Covid-19. Lạm phát
cơ bản bình quân ổn định ở mức dưới 4% cho thấy sự phù hợp của công tác điều
hành CSTT, đóng góp tích cực đến việc ổn định lạm phát bình quân chung. Lạm phát
được kiểm soát ổn định đã tạo lập nền tảng vững chắc, duy trì niềm tin của cộng đồng
doanh nghiệp đối với môi trường kinh doanh Việt Nam, góp phần thu hút đầu tư nước
ngoài. (Đồ thị 2)
Thứ hai, liên tục điều chỉnh giảm đồng bộ các mức lãi suất với quy mô lớn, để hỗ
trợ nền kinh tế. Tính chung trong năm 2020 và 2 tháng đầu năm 2021, NHNN đã điều
chỉnh giảm 1,5 - 2,0%/năm lãi suất điều hành, sẵn sàng hỗ trợ thanh khoản, tạo điều
kiện cho các tổ chức tín dụng (TCTD) tiếp cận nguồn vốn chi phí thấp từ NHNN;
giảm 1,5%/năm trần lãi suất cho vay ngắn hạn VND đối với các lĩnh vực ưu tiên để
hỗ trợ giảm chi phí vay vốn của doanh nghiệp, người dân. Đồng thời, chỉ đạo các
TCTD chủ động cân đối khả năng tài chính để áp dụng lãi suất cho vay hợp lý; triệt
để tiết giảm chi phí hoạt động, tập trung mọi nguồn lực để giảm lãi suất cho vay
nhằm hỗ trợ và đồng hành cùng doanh nghiệp, người dân vượt qua khó khăn. So với
các nước trong khu vực, Việt Nam là một trong các quốc gia có mức giảm lãi suất
điều hành mạnh nhất.

Nhờ đó, mặt bằng lãi suất thị trường giảm, lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng
VND đối với các lĩnh vực ưu tiên của TCTD giảm 1,5%/năm so với cuối năm 2019
(cuối năm 2020 là 4,5%/năm); lãi suất cho vay bình quân của các NHTM áp dụng
cho các khoản vay mới phát sinh giảm hơn 1%/năm trong năm 2020 và tiếp tục giảm
0,07%/năm đến hết tháng 01/2021. (Đồ thị 3)
Thứ ba, song song với định hướng giảm lãi suất cho vay đối với nền kinh tế, để
kịp thời tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế, NHNN đã ban hành Thông tư số
01/2020/TT-NHNN ngày 13/3/2020 quy định về việc TCTD, chi nhánh ngân hàng
nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm
hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng do dịch Covid-19, tạo hành lang pháp lý, cơ chế
đột phá để các TCTD tháo gỡ khó khăn về vốn vay cho khách hàng, phục hồi sản
xuất - kinh doanh.

Đến 22/02/2021, hệ thống các TCTD đã: (1) Cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho
265.191 khách hàng bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19 với dư nợ 366.309 tỷ đồng;
(2) Miễn, giảm, hạ lãi suất cho 625.064 khách hàng với dư nợ 1.061.522 tỷ đồng; (3)
Cho vay mới lãi suất ưu đãi với doanh số lũy kế từ 23/01/2020 đến 22/02/2021 đạt
2.655.887 tỷ đồng cho 426.134 khách hàng. Ngoài ra, Ngân hàng Chính sách xã hội
(NHCSXH) đã thực hiện gia hạn nợ cho 169.770 khách hàng với dư nợ 4.230 tỷ
đồng, cho vay mới đối với 2.258.413 khách hàng với số tiền 81.000 tỷ đồng. (Bảng 1)
Thứ tư, trong bối cảnh cầu tín dụng của nền kinh tế suy yếu do tác động tiêu cực
của dịch bệnh Covid-19, NHNN đã chỉ đạo các TCTD tập trung mọi nguồn lực, cải
thiện quy trình, thủ tục cho vay để nâng cao khả năng tiếp cận vốn của nền kinh tế,
giảm lãi suất cho vay và lợi nhuận để hỗ trợ khách hàng; đồng thời, NHNN chủ động
thường xuyên rà soát để điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho các TCTD có
khả năng mở rộng tín dụng an toàn, lành mạnh. Với việc triển khai kịp thời các giải
pháp đồng bộ, quyết liệt của NHNN cùng sự tích cực, chủ động vào cuộc của hệ
thống các TCTD, chia sẻ khó khăn với nền kinh tế, song song với sự phục hồi nhanh
của nền kinh tế, tín dụng ngân hàng tăng nhanh hơn từ giữa quý III/2020. Đến cuối
năm 2020, dư nợ tín dụng toàn hệ thống tăng 12,17% so với cuối năm 2019, ngày
08/3/2021 tiếp tục tăng 0,61% so với cuối năm 2020, tăng trưởng tín dụng đảm bảo
phù hợp với chỉ tiêu định hướng, khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, đi đôi với
chất lượng tín dụng. Cơ cấu tín dụng tiếp tục có sự điều chỉnh tích cực, tín dụng có
xu hướng tập trung vào các lĩnh vực có đóng góp và là động lực của tăng trưởng kinh
tế như lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên; trong khi đó, tín dụng đối với
lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro được hệ thống các TCTD kiểm soát chặt chẽ.

Thứ năm, điều hành tỷ giá linh hoạt, công bố tỷ giá trung tâm biến động hàng
ngày, phù hợp với thị trường trong và ngoài nước, cân đối kinh tế vĩ mô, tiền tệ và
mục tiêu CSTT; góp phần hạn chế tình trạng đầu cơ, găm giữ ngoại tệ và hấp thu các
cú sốc đối với nền kinh tế. Đồng thời, kết hợp với các giải pháp điều tiết thanh khoản
hợp lý, chủ động truyền thông, can thiệp mua/bán ngoại tệ với TCTD để bình ổn thị
trường, ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần kiểm soát lạm phát.

Nhờ đó, cuối năm 2020, tỷ giá trung tâm ở mức 23.131 VND/USD, giảm -0,1%
cuối năm 2019; tỷ giá bình quân liên ngân hàng khoảng 23.090 VND/USD, giảm
-0,35% so với cuối năm 2019. Thanh khoản thị trường tốt, các nhu cầu ngoại tệ hợp
pháp được đáp ứng đầy đủ, kịp thời. Dự trữ ngoại hối Nhà nước tăng cao giúp gia
tăng tiềm lực tài chính và củng cố uy tín quốc gia. Thị trường ngoại tệ duy trì ổn định
trong những tháng đầu năm 2021, theo đó ngày 11/3/2021, tỷ giá trung tâm ở mức
23.204 VND/USD, tăng 0,32% so với mức cuối năm 2020; tỷ giá bình quân liên ngân
hàng ở mức 23.051 VND/USD, giảm 0,17% so với cuối năm 2020.

Thứ sáu, CSTT cũng được điều hành phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và
các chính sách khác. NHNN thường xuyên trao đổi thông tin, phối hợp chặt chẽ với
các bộ, ngành trong công tác điều hành CSTT, giá hàng hóa dịch vụ, dự báo lạm
phát; đồng thời, phối hợp chặt chẽ với Bộ Tài chính trong trao đổi thông tin về tiền
gửi có kỳ hạn của Kho bạc Nhà nước tại hệ thống ngân hàng, qua đó ổn định thanh
khoản hệ thống, kiểm soát tiền tệ, tạo điều kiện để giảm lãi suất trái phiếu chính phủ
khoảng 0,78 - 1,41%/năm ở các kỳ hạn 5 - 30 năm so với cuối năm 2019 và kéo dài
kỳ hạn phát hành (tập trung ở kỳ hạn 10 - 15 năm, chiếm khoảng 80% khối lượng
phát hành) trong năm 2020. Tình hình thực tế trong 2 tháng đầu năm 2021 cho thấy,
mặt bằng lãi suất trái phiếu chính phủ tiếp tục xu hướng giảm khoảng 0,1 -
0,19%/năm ở các kỳ hạn; đến cuối tháng 2/2021, lãi suất kỳ hạn 5 năm là
1,03%/năm; 10 năm là 2,17%/năm; 15 năm là 2,4%/năm; 20 năm: 2,89%/năm; 30
năm là 3,01%/năm.

Những kết quả tích cực về ổn định vĩ mô, thị trường tài chính tiền tệ, tạo lập môi
trường kinh doanh thuận lợi, hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế... cho thấy, các
giải pháp ngành Ngân hàng thực thi thời gian qua là đúng hướng, có tác dụng thiết
thực đối với các doanh nghiệp và người dân, góp phần thực hiện thắng lợi “mục tiêu
kép” và đóng góp lớn vào thành tựu chung về các chỉ số phát triển kinh tế - xã hội
của cả nước mà Đảng và Quốc hội đã đề ra, tạo nền tảng vững chắc tiếp tục thực hiện
các mục tiêu trong giai đoạn tới. Mặc dù vậy, thị trường thế giới còn diễn biến bất
thường, đặc biệt đại dịch Covid-19, thiên tai, dịch bệnh diễn biến khó lường còn tiếp
tục ảnh hưởng tiêu cực tới nền kinh tế và hệ thống ngân hàng trong nước, tăng trưởng
kinh tế ở mức thấp (mặc dù là số ít trong các quốc gia có tăng trưởng dương), lạm
phát vẫn chịu áp lực khó lường từ giá cả thế giới, áp lực nợ xấu hệ thống ngân hàng
gia tăng từ tác động của đại dịch... là những thách thức to lớn đối với ngành Ngân
hàng trong thời gian tới.
http://tapchinganhang.gov.vn/dieu-hanh-chinh-sach-tien-te-ho-tro-nen-kinh-te-
chong-do-voi-dai-dich-covid-19-va-dinh-huong-nam-202.htm

You might also like