You are on page 1of 7

Chú ý: những chỗ in đậm là nội dung xuất hiện trong slide

Khái niệm:
Trong kinh tế vĩ mô, lạm phát là sự tăng mức giá chung một cách liên tục của hàng
hóa và dịch vụ theo thời gian và sự mất giá trị của một loại tiền tệ nào đó.
Tỷ lệ lạm phát là tốc độ tăng mặt bằng giá của nền kinh tế. Nó cho thấy mức độ
lạm phát của nền kinh tế. Thông thường, người ta tính tỷ lệ lạm phát dựa vào chỉ số giá
tiêu dùng CPI hoặc chỉ số giảm phát GDP.

Bối cảnh lạm phát Việt Nam:


Kết quả kiềm chế lạm phát năm 2020:
Chỉ số giá tiêu dùng năm 2020 tăng 3,23% so với năm 2019 và tăng 0,19% so với
tháng 12 năm 2019. Lạm phát cơ bản bình quân năm 2020 tăng 2,31% so với bình quân
năm 2019.
Mặt bằng giá cả thị trường trong năm 2020 chịu ảnh hưởng chủ yếu từ các yếu tố cung
cầu thay đổi liên tục và phức tạp trước diễn biến của dịch bệnh Covid-19. Mặt bằng giá có
xu hướng giảm hoặc ổn định ở mức thấp trong các thời điểm cung cầu chịu tác động tiêu
cực của dịch bệnh và hồi phục khi dịch bệnh được kiểm soát. CPI tăng cao nhất vào tháng
1, tăng 1,23% và giảm mạnh nhất vào tháng 4, giảm 1,54% (Hình 1).

Hình 1
Kết quả kiềm chế lạm phát 6 tháng đầu năm 2021:
Theo thống kê, mặt bằng giá tiêu dùng trong 6 tháng đầu năm 2021 tăng cao vào đầu
năm, sau đó giảm trong hai tháng tiếp theo và tăng nhẹ trở lại trong tháng 5 và tháng 6. CPI
bình quân 6 tháng đầu năm 2021 tăng 1,47% so với cùng kỳ năm trước (Hình 2), mức
tăng thấp nhất kể từ năm 2016. Lạm phát cơ bản bình quân 6 tháng đầu năm tăng
0,87% so cùng kỳ năm 2020, thấp hơn mức CPI bình quân chung (tăng 1,47%), điều này
phản ánh biến động giá tiêu dùng chủ yếu do giá lương thực, giá xăng, dầu tăng.
Hình 2
Các biện pháp kiềm chế lạm phát của Chính phủ Việt Nam trong thời gian qua:
Trong 6 tháng đầu năm 2021, các chính sách, biện pháp kiểm soát lạm phát của Chính
phủ đã được phát huy hiệu quả, các biện pháp quản lý, điều hành giá đã tiếp tục được triển
khai quyết liệt, phối hợp linh hoạt, đồng bộ với các chính sách tài khóa, tiền tệ đã giúp cho
cung cầu nói chung cơ bản ổn định, ít xảy ra tình trạng khan hiếm và tạo sự ổn định cho nền
tảng kinh tế vĩ mô của Việt Nam ở trạng thái tốt, đóng góp tích cực vào việc giảm áp lực lên
lạm phát nhưng vẫn hỗ trợ được kinh tế hồi phục tăng trưởng nhanh.
Công tác quản lý, điều hành giá góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm
phát:
Bộ Tài chính đã chỉ đạo các đơn vị thuộc Bộ Tài chính, Sở Tài chính các tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương chủ động triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả các
nhiệm vụ về quản lý, điều hành, bình ổn giá cả thị trường và thực hiện nghiêm túc chế
độ báo cáo trong dịp Tết Nguyên đán nhằm kịp thời nắm bắt tình hình thị trường, theo dõi
sát diễn biến cung cầu, giá cả thị trường các mặt hàng thiết yếu, từ đó có các biện pháp phù
hợp nhằm bình ổn thị trường khi cần thiết; chủ động chuẩn bị các nguồn hàng dự trữ đáp
ứng nhu cầu tăng cao vào dịp lễ, Tết để hạn chế tăng giá.
Trong 6 tháng đầu năm 2021, các mặt hàng do nhà nước định giá được giữ ổn định
nhằm tạo điều kiện cho công tác kiểm soát lạm phát; một số hàng hóa dịch vụ quan trọng
thiết yếu tiếp tục được giảm giá để hỗ trợ nền kinh tế (như mặt hàng điện, dịch vụ chứng
khoán, mặt hàng xăng dầu, sách giáo khoa…), một số mặt hàng không xem xét tăng giá
dù các yếu tố chi phí đầu vào có xu hướng tăng; qua đó đã góp phần giảm chi phí đẩu
vào, hỗ trợ sự phục hồi của sản xuất, kinh doanh.
Trong đó, tiếp tục thực hiện chủ trương giữ ổn định giá điện bán lẻ bình quân để
đảm bảo hỗ trợ cho người dân, doanh nghiệp. Mặt khác, qua đánh giá tác động tích cực từ 2
lần hỗ trợ giá điện trong năm 2020, Chính phủ đã chấp thuận phương án hỗ trợ giảm giá
điện, giảm tiền điện đợt 3 cho khách hàng sử dụng điện như các cơ sở lưu trú du lịch,
các cơ sở đang thực hiện cách li, khám bệnh tập trung, xét nghiệm, điều trị bệnh nhân
nhiễm Covid-19; ước tính số tiền hỗ trợ giảm đợt 3 khoảng 1.200 - 1.300 tỷ đồng.
Giá một số dịch vụ trong lộ trình điều chỉnh nhưng không tăng hoặc hạn chế mức
tăng như dịch vụ khám chữa bệnh, dịch vụ giáo dục; giá nhiều mặt hàng trong danh mục
nhà nước định giá cũng được xem xét giảm giá (như dịch vụ hàng không,…)
Nhằm hỗ trợ các tổ chức, cá nhân liên quan chịu ảnh hưởng do dịch Covid-19, ngày
14/5/2021 Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 30/2021/TT-BTC ngày về việc tiếp
tục kéo dài quy định miễn thu hoặc giảm giá đối với một số dịch vụ chứng khoán.
Đối với mặt hàng xăng dầu, Bộ Tài chính đã phối hợp với Bộ Công Thương trong
việc cập nhật diễn biến giá thế giới, thường xuyên đánh giá tác động giá xăng dầu
trong nước đối với mục tiêu kiểm soát lạm phát, đồng thời căn cứ diễn biến tình hình kinh
tế xã hội và các giải pháp điều hành vĩ mô của Chính phủ để điều hành giá xăng dầu trong
nước phù hợp; trong đó quỹ bình ổn giá liên tục được điều hành theo hướng ngừng trích
lập và tăng chi sử dụng để hạn chế mức tăng giá xăng dầu trong nước trước biến động
tăng của giá thế giới. Trong 6 tháng đầu năm 2021, giá xăng có 9 lần tăng, 1 lần giảm và 2
lần giữ ổn định; giá dầu có số lần điều chỉnh tăng ít hơn (7-8 lần tùy loại).
Trong 6 tháng đầu năm, Bộ Tài chính đã kịp thời có các công văn đề nghị các Nhà
xuất bản thực hiện kiểm soát, tiết giảm các chi phí trong cơ cấu giá thành sách giáo
khoa để giảm giá sách giáo khoa. Đến nay, các Nhà xuất bản đã nhiều lần thực hiện kê
khai và kê khai lại điều chỉnh giảm giá các cuốn sách giáo khoa lớp 1, lớp 2 và lớp 6 mới.
Ngoài ra, các Bộ, ngành, địa phương chủ động tuyên truyền, thực hiện công khai
minh bạch thông tin về giá cũng như công tác quản lý điều hành giá giúp ổn định tâm lý
người tiêu dùng, kiểm soát lạm phát kỳ vọng và tạo sự đồng thuận trong dư luận.
Điều hành chính sách tiền tệ góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát:
Chính sách tiền tệ là chính sách vĩ mô, trong đó, Ngân hàng Trung ương thông qua các
công cụ của mình thực hiện kiểm soát và điều tiết lượng tiền cung ứng. Chính sách tiền tệ
thường chủ yếu hướng vào kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị của đồng nội tệ. Chính sách
tiền tệ chủ yếu phát huy tác động tích cực của nó trong ngắn hạn, nếu như sử dụng nó kéo
dài thì có thể gây ra tình trạng lạm phát gia tăng bởi thực chất chính sách tiền tệ không tác
động trực tiếp vào tổng cầu.
Trong bối cảnh đại dịch Covid19 kéo dài ảnh hưởng nền kinh tế Việt Nam, các giải
pháp tiền tệ, tín dụng hỗ trợ doanh nghiệp, người dân đã được Ngân hàng Nhà nước chủ
động triển khai quyết liệt, kịp thời, góp phần quan trọng trong việc đạt mục tiêu kiểm soát
lạm phát. Cụ thể:
Thứ nhất, các công cụ chính sách tiền tệ (như lãi suất, tỷ giá hối đoái,…) được điều
hành đồng bộ, linh hoạt; đồng thời, chính sách tiền tệ cũng được phối hợp chặt chẽ với
các chính sách kinh tế vĩ mô khác để điều tiết thanh khoản, kiểm soát tiền tệ, giảm thiểu
áp lực gia tăng lạm phát, ổn định thị trường, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, ứng phó với tác
động bất lợi của đại dịch Covid-19. Lạm phát cơ bản bình quân ổn định ở mức dưới 4%
(từ 2019 đến 2021) cho thấy sự phù hợp của công tác điều hành chính sách tiền tệ, đóng
góp tích cực đến việc ổn định lạm phát bình quân chung (Đồ thị 1).
Đồ thị 1
Thứ hai, liên tục điều chỉnh giảm đồng bộ các mức lãi suất với quy mô lớn, để hỗ
trợ nền kinh tế. Tính chung trong năm 2020 và 2 tháng đầu năm 2021, Ngân hàng Nhà
nước đã điều chỉnh giảm 1,5 - 2,0%/năm lãi suất điều hành (Đồ thị 2), sẵn sàng hỗ trợ thanh
khoản, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng tiếp cận nguồn vốn chi phí thấp từ Ngân hàng
Nhà nước; giảm 1,5%/năm trần lãi suất cho vay ngắn hạn VND đối với các lĩnh vực ưu tiên
để hỗ trợ giảm chi phí vay vốn của doanh nghiệp, người dân. So với các nước trong khu
vực, Việt Nam là một trong các quốc gia có mức giảm lãi suất điều hành mạnh nhất.

Đồ thị 2
Thứ ba, song song với định hướng giảm lãi suất cho vay đối với nền kinh tế, để kịp
thời tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số
01/2020/TT-NHNN quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài
cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách
hàng chịu ảnh hưởng do dịch Covid-19, tạo điều kiện để các tổ chức tín dụng tháo gỡ khó
khăn về vốn vay cho khách hàng, phục hồi sản xuất - kinh doanh.
Đến 22/02/2021, hệ thống các tổ chức tín dụng đã:
(1) Cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho 265.191 khách hàng bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-
19 với dư nợ 366.309 tỷ đồng
(2) Miễn, giảm, hạ lãi suất cho 625.064 khách hàng với dư nợ 1.061.522 tỷ đồng
(3) Cho vay mới lãi suất ưu đãi với doanh số lũy kế từ 23/01/2020 đến 22/02/2021 đạt
2.655.887 tỷ đồng cho 426.134 khách hàng. Ngoài ra, Ngân hàng Chính sách xã hội
(NHCSXH) đã thực hiện gia hạn nợ cho 169.770 khách hàng với dư nợ 4.230 tỷ đồng, cho
vay mới đối với 2.258.413 khách hàng với số tiền 81.000 tỷ đồng. (Bảng 1)

Thứ tư, trong bối cảnh cầu tín dụng của nền kinh tế suy yếu do tác động tiêu cực của
dịch bệnh Covid-19, Ngân hàng Nhà nước đã chỉ đạo các tổ chức tín dụng tập trung
mọi nguồn lực, cải thiện quy trình, thủ tục cho vay để nâng cao khả năng tiếp cận vốn
của nền kinh tế, giảm lãi suất cho vay và lợi nhuận để hỗ trợ khách hàng; đồng thời,
Ngân hàng Nhà nước chủ động thường xuyên rà soát để điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín
dụng cho các tổ chức tín dụng có khả năng mở rộng tín dụng an toàn, lành mạnh. Cơ cấu tín
dụng tiếp tục có sự điều chỉnh tích cực, tín dụng có xu hướng tập trung vào các lĩnh vực có
đóng góp và là động lực của tăng trưởng kinh tế như lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực
ưu tiên.
Thứ năm, điều hành tỷ giá linh hoạt, công bố tỷ giá trung tâm biến động hàng
ngày, phù hợp với thị trường trong và ngoài nước, cân đối kinh tế vĩ mô, tiền tệ và
mục tiêu chính sách tiền tệ; góp phần hạn chế tình trạng đầu cơ, găm giữ ngoại tệ và hấp
thu các cú sốc đối với nền kinh tế. Đồng thời, kết hợp với các giải pháp điều tiết thanh
khoản hợp lý, chủ động truyền thông, can thiệp mua/bán ngoại tệ với tổ chức tín dụng
để bình ổn thị trường, ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần kiểm soát lạm phát.
Nhờ đó, thanh khoản thị trường tốt, các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp được đáp ứng đầy
đủ, kịp thời. Dự trữ ngoại hối Nhà nước tăng cao giúp gia tăng tiềm lực tài chính và củng cố
uy tín quốc gia. Thị trường ngoại tệ duy trì ổn định trong những tháng đầu năm 2021, ngày
11/3/2021, tỷ giá trung tâm ở mức 23.204 VND/USD, tỷ giá bình quân liên ngân hàng ở
mức 23.051 VND/USD.
Thứ sáu, chính sách tiền tệ cũng được điều hành phối hợp chặt chẽ với chính sách
tài khóa và các chính sách khác. Ngân hàng Nhà nước thường xuyên trao đổi thông tin,
phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành trong công tác điều hành chính sách tiền tệ, giá hàng
hóa dịch vụ, dự báo lạm phát; đồng thời, phối hợp chặt chẽ với Bộ Tài chính trong trao đổi
thông tin về tiền gửi có kỳ hạn của Kho bạc Nhà nước tại hệ thống ngân hàng, qua đó ổn
định thanh khoản hệ thống, kiểm soát tiền tệ, tạo điều kiện để giảm lãi suất trái phiếu chính
phủ và kéo dài kỳ hạn phát hành. Tình hình thực tế trong 2 tháng đầu năm 2021 cho thấy,
mặt bằng lãi suất trái phiếu chính phủ tiếp tục xu hướng giảm khoảng 0,1 - 0,19%/năm ở
các kỳ hạn; đến cuối tháng 2/2021, lãi suất kỳ hạn 5 năm là 1,03%/năm; 10 năm là
2,17%/năm; 15 năm là 2,4%/năm; 20 năm: 2,89%/năm; 30 năm là 3,01%/năm.
Chính sách tài khóa phối hợp chặt chẽ, đồng bộ với chính sách tiền tệ giúp ổn định
kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát:
Năm 2021, những diễn biến phức tạp của dịch Covid-19 khiến Chính phủ phải có những
biện pháp ứng phó mới, khi doanh nghiệp tiếp tục lao đao. Chính phủ đã điều hành chính
sách tài khóa chủ động, tích cực tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, người dân ứng phó với
đại dịch Covid-19.
Nhiều chính sách được thực hiện, như: tiếp tục gia hạn thời hạn nộp thuế, tiền thuê
đất trong năm 2021 cho các đối tượng gặp khó khăn do ảnh hưởng dịch Covid-19,
giảm 30% mức thuế bảo vệ môi trường đối với nhiên liệu bay đến hết năm 2021, giảm
nhiều loại phí, lệ phí đến hết năm 2021...Trong 5 tháng đầu năm 2021, đã thực hiện gia
hạn thuế trên 24 nghìn tỷ đồng, miễn giảm khoảng 2,46 nghìn tỷ đồng các khoản thuế, phí,
lệ phí cho các đối tượng. Qua đó giúp doanh nghiệp, người dân giảm bớt khó khăn, tiếp tục
duy trì các hoạt động sản xuất - kinh doanh, thích ứng với trạng thái bình thường mới.
Ngoài các cơ chế hỗ trợ người dân và doanh nghiệp, trong nửa đầu năm, cả ngân sách
trung ương và ngân sách địa phương đã ưu tiên nguồn, bố trí chi cho công tác phòng,
chống dịch Covid-19 và đảm bảo đời sống cho người dân (thực hiện tốt các chính sách
hỗ trợ người có công với cách mạng, đối tượng bảo trợ xã hội, hộ nghèo và cận nghèo,
người lao động bị mất việc làm, thu nhập giảm sâu, hộ kinh doanh; hỗ trợ tiền ăn và tiền
chữa bệnh nền cho người cách ly tập trung và hỗ trợ tiền trực cho các cá nhân tham gia
phòng, chống dịch). Tính cả số 16,83 nghìn tỷ đồng đã chi năm 2020, đến nay Ngân sách
Nhà nước đã chi khoảng 21,1 nghìn tỷ đồng cho công tác phòng chống dịch và hỗ trợ cho
người dân gặp khó khăn bởi đại dịch Covid-19.
Đánh giá:
Những kết quả tích cực về ổn định vĩ mô, kiềm chế lạm phát, tạo lập môi trường kinh
doanh thuận lợi, hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế cho thấy các giải pháp về điều
hành giá, chính sách tiền tệ, tài khóa thực thi thời gian qua là đúng hướng, có tác dụng
thiết thực đối với các doanh nghiệp và người dân, góp phần thực hiện thắng lợi “mục
tiêu kép” và đóng góp lớn vào thành tựu chung về các chỉ số phát triển kinh tế - xã hội
của cả nước mà Đảng và Quốc hội đã đề ra, tạo nền tảng vững chắc tiếp tục thực hiện
các mục tiêu trong giai đoạn tới. Mặc dù vậy, thị trường thế giới còn diễn biến bất thường,
đặc biệt đại dịch Covid-19, thiên tai, dịch bệnh diễn biến khó lường còn tiếp tục ảnh hưởng
tiêu cực tới nền kinh tế, tăng trưởng kinh tế ở mức thấp (mặc dù là số ít trong các quốc gia
có tăng trưởng dương), lạm phát vẫn chịu áp lực khó lường từ giá cả thế giới, áp lực nợ xấu
hệ thống ngân hàng gia tăng từ tác động của đại dịch,….

You might also like