You are on page 1of 6

Nguyên nhân thực trạng sở hữu trí tuệ ở Việt Nam

– Do hệ thống thực thi pháp luật về sở hữu trí tuệ chưa đáp ứng yêu cầu thực
tiễn. Các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành, bổ sung chưa theo kịp
những phát sinh, thay đổi lớn của thực tiễn. Hình thức và mức xử phạt chưa đủ
sức dăn đe.

– Xuất phát từ lợi ích cá nhân, do đó một số cá nhân, tổ chức vẫn sẵn sàng vi
phạm pháp luật sở hữu trí tuệ để thu về lợi ích.

– Chưa đẩy mạnh việc ứng dụng khoa học công nghệ trong công tác quản lý , phát
hiện hành vi xâm phạm sở hữu trí tuệ

– Công tác tuyên truyền, thực thi bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam chưa
thực sự đi vào cuộc sống; nhận thức về quyền sở hữu trí tuệ còn nhiều hạn chế. 1

Có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến tình trạng vi phạm sở hữu trí tuệ ngày
một gia tăng. 

Thứ nhất, hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả, xâm phạm sở hữu trí tuệ luôn tạo
ra “siêu lợi nhuận” nên rất có sức hút, lôi kéo được nhiều đối tượng tham gia, kể
cả những người lao động thuần túy, trên nhiều địa bàn và nhiều lĩnh vực khác
nhau.

Thứ hai,  trong quá trình hội nhập, ngoài những tác động tích cực góp phần làm
nên những kết quả đáng kể trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội,
còn phát sinh những yếu tố tiêu cực xâm nhập vào nền kinh tế nhiều thành phần
với tính cạnh tranh cao và diễn biến phức tạp của nước ta. Các mặt hàng nội địa
tuy đa dạng, phong phú và có cải tiến nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu cho
người tiêu dùng, nhất là trong điều kiện thu nhập bình quân thấp, giá hàng hoá
sản phẩm phục vụ sinh hoạt cao tạo nên sự bất cân đối. Vì vậy, nhiều người tiêu

1
https://accgroup.vn/thuc-trang-so-huu-tri-tue-o-viet-
nam/#3_Nguyen_nhan_va_giai_phap_tu_thuc_trang_so_huu_tri_tue_o_Viet_Nam
dùng ưa lựa chọn những sản phẩm giả nhưng mẫu mã, kiểu dáng công nghiệp
“như thật” mà lại có giá bán thấp. Lợi dụng tình trạng này, không ít doanh nghiệp
thiếu ý thức tôn trọng pháp luật, thiếu sự tôn trọng người tiêu dùng, vì mục tiêu
lợi nhuận sẵn sàng làm giả, làm nhái những sản phẩm được bảo hộ có uy tín, chất
lượng, kiểu dáng để gây nhầm lẫn đối với người tiêu dùng. Vì vậy, việc sao chụp,
mô phỏng, làm nhái các sản phẩm của nhau để giành giật thị trường trở thành
hiện tượng phổ biến. Đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sản
xuất, buôn bán hàng giả và xâm phạm sở hữu trí tuệ tồn tại và ngày càng mở rộng
quy mô hoạt động.

Thứ ba, phần lớn các chủ sở hữu trí tuệ chưa thực sự chú ý đến việc bảo vệ quyền
lợi của mình, chưa có ý thức cao trong việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá,
trong khi trình độ và hiểu biết về tác hại của xâm phạm sở hữu trí tuệ đối với sức
khoẻ, lợi ích của cộng đồng còn rất hạn chế. Hiện nay rất ít doanh nghiệp có bộ
phận chuyên chăm lo về sở hữu trí tuệ, hầu như chưa có doanh nghiệp nào có
chiến lược về sở hữu trí tuệ, coi vấn đề sở hữu trí tuệ là bộ phận trong chiến lược
phát triển của mình. Tài sản trí tuệ chưa trở thành đối tượng quản lý như quản lý
tài sản thông thường. Trong thời gian qua, các doanh nghiệp đã chú trọng vào
việc xây dựng thương hiệu, kiểu dáng công nghiệp, tên gọi, chất lượng hàng hóa
nhưng lại quên mất khâu đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá của mình ở những
khu vực thị trường đã và sẽ phát triển. Nhiều doanh nghiệp chưa có ý thức trong
việc phát hiện và ngăn ngừa việc làm giả các sản phẩm của mình, chưa chủ động
phối hợp với các cơ quan chức năng trong việc kiểm tra, kiểm soát. Có những
doanh nghiệp do sợ bị ảnh hưởng đến doanh số và mức tiêu thụ sản phẩm, không
dám công khai về sản phẩm bị làm giả. Có những sản phẩm làm giả tinh vi đến
mức chính doanh nghiệp sản xuất cũng không phát hiện được, đến khi biết, tuy có
một số biện pháp khắc phục nhưng không đáng kể, coi như “chấp nhận sống
chung với hàng giả”.

Thứ tư, các quy định về sở hữu trí tuệ và hành vi xâm phạm sở hữu trí tuệ còn
chưa tập trung, mà rải rác trong quá nhiều văn bản, như: Hiến pháp năm 1992, Bộ
luật Dân sự, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 1997 (sửa đổi bổ sung năm
2002, 2008), Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2001), Luật Khoa
học và Công nghệ năm 2000, Pháp lệnh Giống cây trồng năm 2004, Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2003, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung
2011), Luật Hải quan năm 2002… và trong nhiều văn bản hướng dẫn, thi hành các
luật, pháp lệnh nêu trên.
Trong khi đó, những quy định về sở hữu trí tuệ và hành vi xâm phạm sở hữu trí
tuệ lại chưa thật đầy đủ, chưa đồng bộ, đặc biệt là những quy định về các biện
pháp và chế tài xử lý mới chủ yếu dừng ở các hình thức xử lý hành chính, chưa
phù hợp với tình hình thực tế, chưa đủ sức răn đe đối tượng vi phạm. Chế tài về
hình sự chỉ được áp dụng với cá nhân, trong khi nhóm tội về sở hữu trí tuệ chủ
yếu là do tổ chức thực hiện, vì vậy, không thể truy cứu trách nhiệm hình sự với
pháp nhân được. Các quy định về yếu tố cấu thành của tội xâm phạm quyền sở
hữu công nghiệp, tội xâm phạm quyền tác giả, tội sản xuất, buôn bán hàng giả
chưa cập nhật được những nội dung mới  trong Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005,
chưa phù hợp với yêu cầu của các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc
tham gia, như Hiệp định thương mại Việt-Mỹ và các hiệp định của Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO).

Thứ năm, trên thực tế, tổ chức và hoạt động của các cơ quan có trách nhiệm đấu
tranh với các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ còn thiếu đồng bộ và chồng
chéo, nhiều tầng nấc xử lý khiến hiệu lực thực thi bị phân tán, phức tạp. Hiện có
tới 6 loại cơ quan (UBND các cấp, thanh tra khoa học và công nghệ, thanh tra văn
hóa, cảnh sát kinh tế, quản lý thị trường, hải quan) cùng có thẩm quyền xử phạt vi
phạm[5]. Theo thông lệ ở các nước trên thế giới thì tòa án phải đóng vai trò rất
quan trọng trong việc xử lý các vi phạm về sở hữu trí tuệ, nhưng ở Việt Nam thì
ngược lại, vai trò của tòa án rất mờ nhạt so với các cơ quan hành chính. Mỗi năm
có tới hàng nghìn vụ vi phạm sở hữu trí tuệ được xử lý bởi các cơ quan hành
chính, nhưng số vụ được đưa ra xét xử tại tòa án lại không quá 10 trường hợp.
Chưa kể, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của phần lớn đội ngũ cán bộ làm công
tác bảo vệ pháp luật còn hạn chế, đặc biệt là trong các lĩnh vực liên quan đến sở
hữu trí tuệ, tài chính, ngân hàng, chứng khoán, công nghệ máy tính… 2

Xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trong giai đoạn hiện nay được thực hiện bằng
nhiều phương thức, thủ đoạn mới như áp dụng công nghệ cao, sử dụng các thiết

2
https://luatminhkhue.vn/xam-pham-so-huu-tri-tue--thuc-trang--nguyen-nhan-va-giai-phap.aspx#4-nguyen-nhan-
xam-pham-quyen-so-huu-tri-tue
bị hiện đại để sản xuất hàng hoá làm cho người tiêu dùng và cơ quan quản lý thị
trường khó phát hiện thật/giả. Nhất là hiện nay khi nhu cầu mua sắm online trên
các trang thương mại điện tử như ngày càng nhiều thì việc mua phải các sản
phẩm kém chất lượng, không đúng mẫu cũng là điều dễ thấy. Các hành vi vi phạm
này ngày càng nguy hiểm hơn ở tính chất vi phạm, có tổ chức chặt chẽ không
những trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam mà còn mở rộng đối với tổ chức và cá
nhân nước ngoài.

Thực tế cho thấy việc vi phạm pháp luật sở hữu trí tuệ luôn tạo ra siêu lợi nhuận
nhưng mức xử phạt lại chủ yếu dừng ở mức xử phạt hành chính và chưa đủ sức
răn đe đối với đối tượng vi phạm. Ví dụ mức phạt cao nhất đối với hành vi xâm
phạm quyền đối với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại, kiểu dáng công
nghiệp là 250.000.000 đồng (Theo điều 11 Nghị định 99/2013/ NĐ-CP quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp).3

2.1.Do sự bất cập trong cơ chế quản lý.


Lý giải về tình trạng hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng hiện nay, nhiều ý
kiến cho rằng nguyên nhân quan trọng nhất là do cơ chế phối hợp và chế tài xử lý
đối với hành vi vi phạm còn nhẹ. Hiện nay, có tới năm cơ quan hành chính có chức
năng và thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính về sở hữu trí tuệ gồm cơ quan
quản lý thị trường, thanh tra chuyên ngành Khoa học - Công nghệ, Văn hóa, Thể
thao và Du lịch, công an kinh tế, UBND các cấp cùng cơ quan hải quan kiểm soát
hàng nhập khẩu. Lực lượng quản lý, kiểm tra này tuy đông nhưng không mạnh. Do
hoạt động rời rạc, thiếu sự đồng bộ về chất lượng cũng như số lượng, chức năng
nhiệm vụ giữa các cơ quan lại chồng chéo nên dù chịu sự kiểm tra của năm cơ
quan nêu trên nhưng nạn hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng vẫn tràn ngập
trên thị trường.
Phát hiện hàng giả, hàng nhái trên thị trường không khó vì chúng được bày bán
khá công khai tại những nơi công cộng, nhiều loại chỉ cần nhìn mắt thường cũng
biết là hàng giả, nhưng để khẳng định đó là hàng giả trước khi xử lý lại không dễ
chút nào. Theo quy định của pháp luật, để xử lý được hàng giả thì bắt buộc phải
có giám định kết luận hàng giả. Nhiều mặt hàng giả, hàng kém chất lượng, chi phí
giám định rất đắt, khi đưa đi giám định buộc lực lượng thực thi phải tạm ứng kinh
3
http://hangluatanhbang.vn/blogs/so-huu-tri-tue/thuc-trang-xam-pham-quyen-so-huu-tri-tue-tai-viet-nam
phí giám định, nếu đúng là hàng giả thì phải tiêu hủy. Theo quy định của pháp luật
thì chính đương sự vi phạm phải nộp khoản tiền giám định đó nhưng hầu như
không có đương sự nào tự nguyệt chịu nộp và việc cưỡng chế thi hành cũng khó
khăn.
2.2.Do sự “tiếp tay” của người tiêu dùng
Người tiêu dùng không có nhiều thông tin về mặt hàng mình đang mua mà chỉ
dựa vào những gì được in trên bao bì hoặc nhận thông tin từ người bán hàng trực
tiếp trong khi vẫn có câu “người mua thua người bán”.
Bên cạnh một số người mua lầm phải hàng giả do khó phân biệt được đâu là hàng
thật, đâu là hàng giả thì vẫn có không ít người tiêu dùng biết mình đang mua bán
hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng nhưng vẫn không có động thái phù hợp
để giúp cơ quan chức năng, doanh nghiệp kịp thời xử lý đôi khi còn chấp nhận bởi
loại hàng hóa này phù hợp với túi tiền của họ. Nhiều người đã gián tiếp tiếp tay
cho hàng giả, hàng nhái trong việc phân phối và tiêu thụ để rồi ngày càng chiếm
thị phần trên thị trường.
2.3.Do người tiêu dùng ngại động chạm đến việc kiện cáo.
Thứ nhất: Do thói quen sử dụng tình cảm, niềm tin trong giao dịch nên phần
nhiều người dân Việt Nam đều tiến hành giao mua bán hàng hóa theo kiểu thấy
ưng là mặc cả, mặc cả xong là mua. Mua xong là… xong. Với phương thức giao
dịch kiểu “tiền trao - cháo múc” trên, người tiêu dùng hầu như không có bất kỳ
giấy tờ, hóa đơn nào để chứng minh quá trình giao dịch. Nếu có đi chăng nữa (ví
dụ như mua hàng ở siêu thị) thì họ cũng chỉ coi tờ hóa đơn là tờ giấy liệt kê hàng
hóa, giá cả và thường bỏ đi trước khi sử dụng hàng hóa. Do thói quen đó nên khi
“có chuyện gì” họ cũng chỉ biết “rút kinh nghiệm” vì không có cơ sở để “bắt đền”
hay kiện tụng.
Thứ hai: Do xuất phát từ gốc của nền văn minh nông nghiệp và văn hóa trọng
tình truyền thống nên người Việt Nam có quan niệm “Một bồ cái lý không bằng
một tý cái tình”. Bởi vậy mà ngay cả những người “cầm cân nảy mực” ở nhiều nơi
vẫn có tư tưởng thiên về khuyến khích các đương sự “tự dàn xếp”. Và cuối cùng
họ tự giải quyết mâu thuẫn trong hòa bình bằng cách “tự thỏa thuận, hòa giải”.
Thứ ba: Do vẫn mang nặng tâm lý tiểu nông chỉ thấy lợi ích trước mắt, không
thấy lợi ích lâu dài. Chỉ thấy lợi ích cá nhân, không thấy lợi ích tập thể, cộng đồng
nên người tiêu dùng rất dễ bị “bịt miệng” bằng vật chất, bằng vũ lực của những kẻ
sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng. Chính điều này gây
khó khăn rất lớn trong quá trình xử lý hành vi vi phạm của những đối tượng sản
xuất, buôn bán hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng.
Thứ tư: Do phần đông người dân hiểu và nắm luật rất hạn chế nên có muốn
kiện họ cũng không biết nên bắt đầu từ đâu, thủ tục thế nào, cộng thêm quan
niệm sai lầm "vô phúc đáo tụng đình" nên nếu có mua dính phải hàng “lởm”
nhiều người chỉ “ngậm bồ hòn làm ngọt” bụng bảo dạ “lần sau chừa cái mặt nó
ra” chứ rỗi hơi mà đi “kiện củ khoai” vừa mất thời gian, tiền bạc, không khéo lại…
vác họa vào thân.
Thứ năm: Đi khiếu nại đồng nghĩa với mất công, mất buổi, mất chi phí đi lại,
công việc tồn đọng… Do đó, đối với những mặt hàng có giá trị không lớn (vài trăm
ngàn) thì dù có thắng kiện đi chăng nữa có khi vẫn… lỗ.
Thứ sáu: Những người thực sự có tâm huyết, muốn “chiến đấu” đến cùng với
vấn nạn hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng thì bị cản trở rất nhiều bởi nạn
tham ô, tham nhũng; từ các thế lực của “xã hội đen” đe dọa và đặc biệt là từ sự
khó khăn về nguồn tài chính để thuê các dịch vụ pháp lý, thuê luật sư, theo đuổi
vụ kiện…
2.4. Do ý thức tự bảo vệ mình từ phía doanh nghiệp
Các doanh nghiệp chưa có các biện pháp bảo vệ chính mình và người tiêu dùng
trước các nguy cơ bị làm giả hàng hóa trong lúc các cơ quan chức năng chưa thể
hiện hết vai trò của mình
Các doanh nghiệp chưa triển khai câu nối xác thực hàng hóa với người tiêu dùng
để đưa đầy đủ thông tin của doanh nghiệp lên hàng hóa, ghi nhận phản ánh của
người tiêu dùng đối với doanh nghiệp.
Doanh nghiệp chân chính hiện tại chỉ có thể cầu cứu các cơ quan chức năng có
thầm quyền mà chưa có nhiều biên pháp giúp khách hàng phân biệt được hàng
hóa do mình sản xuất và hàng hóa bị làm giả.
Chưa có nhiều giải pháp giảm chi phí nguồn lực để giải quyết các vấn đề liên quan
đến hàng giả, hàng nhái dẫn đến mất tính cạnh tranh của sản phẩm
Trên hàng hóa của doanh nghiệp chưa thể cung cấp đầy đủ thông tin của hàng
hóa cùng với doanh nghiệp sản xuất một cách bảo mật chống sai lệch. 4

4
http://vnptcheck.vn/news/details/36-vn-nn-hang-gi-hang-nhai-hang-kem-cht-lung

You might also like