You are on page 1of 19

BẢNG ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ LÀM VIỆC NHÓM

1.     Thông tin chung

1.
Tên lớp tín chỉ  : (120)_03 Thứ 3 Tiết 5 – 7 Địa điểm C304
1

1.
Tên học phần    : Luật Hình sự 1 Giảng viên GD: TS. Nguyễn Thị Hồng Hạnh
2

1.
Nhóm số       :6 Tên nhóm     :
3

1. Nhóm trưởng : Lữ Thị Yến Nhi


4 Thư ký          : …………………………...

2.     Nội dung / Tình huống nghiên cứu (tóm tắt nội dung ngắn gọn gợi nhớ)

So sánh PVCĐ & TTCT; Tình huống xác định đồng phạm; Đặt câu hỏi về tình tiết loại trừ tính chất nguy
hiểm cho xã hội của hành vi.

3.     Bảng phân công công việc và tự đánh giá (Theo thứ tự đóng góp giảm dần)

 
STT   Tổng điểm
Mức độ Nhóm đánh giá
Tên thành viên nhóm Nội dung công việc   GVGD Ghi chú
tham gia phần điểm (%)
Điểm Phản đánh giá
biện 

Nguyễn Dương Câu 2 + 3 câu


1 Tốt 14,2%      
Quỳnh Anh hỏi

Câu 2 + 2 câu
2 Hoàng Anh Thư Tốt 14,2%      
hỏi

Bảng so sánh +
3 Lữ Thị Yến Nhi Tốt 14,2%      
3 câu hỏi 

Câu 1 + 2 câu
4 Tống Khánh Linh  Tốt 14,2%      
hỏi 

Lương Tường
5 Câu 2 Tốt 14,2%      
Vân

6 Trần Thanh Hiền Câu 1 Tốt 14,2%      

7 Đỗ Thu Thủy PPT Tốt 14,2%      

4.     Đánh giá chung (Giáo viên giảng dạy đánh giá)


Nội dung Nội dung Phương pháp trình Sáng tạo Hình thức slide, trình Tổng điểm
đánh giá (60/100) bày (10/100) (10/100) bày (20/100) (…/100)

           

           

Tổng điểm          

5.     Cam kết

T Tên thành viên nhóm Chữ ký TT Tên thành viên nhóm Chữ ký
T

1 Lữ Thị Yến Nhi   5 Trần Thanh Hiền  

2 Hoàng Anh Thư   6 Lương Tường Vân  

3 Tống Khánh Linh   7 Đỗ Thu Thủy  

4 Nguyễn Dương Quỳnh Anh        

Các thành viên trong nhóm xin cam kết các nội dung phân công và đánh giá trên đây là đúng sự thật và
không có thắc mắc về kết quả đánh giá.

   Hà Nội, ngày 24 tháng 09 năm 2020

  T/M nhóm 06
Thư ký Nhóm trưởng
 

Lữ Thị Yến Nhi

Câu 1: 
GIẢN LƯỢC:

BẢNG SO SÁNH TÓM LƯỢC GIỮA 


TÌNH THẾ CẤP THIẾT & PHÒNG VỆ CHÍNH ĐÁNG

Tình thế cấp thiết Phòng vệ chính đáng


- Đều là hành vi nhằm loại trừ một yếu tố nguy hiểm cho xã hội, nhằm bảo
vệ lợi ích xã hội (ở đây lợi ích xã hội được hiểu tương đương với lợi ích
của Nhà nước, của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc
của người khác)
Giống
- Hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết hoặc phòng vệ chính đáng
không phải là hành vi phạm tội.
- Nếu vượt quá giới hạn thì đều phải chịu trách nhiệm hình sự.
- Là một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

Là tình thế của người vì muốn tránh một


Là hành vi của người vì, mà
nguy cơ đang thực tế đe dọa lợi ích xã hội 
chống trả lại một cách cần
Khái niệm mà không còn cách nào khác là phải gây
thiết người đang có hành vi
một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn
xâm phạm đến lợi ích xã hội
ngừa.

Đa dạng, có thể là từ thiên tai, sự cố kỹ


Nguồn gây ra
thuật… và cũng có thể là do hành vi của con Là hành vi của con người.
nguy hiểm
người.

Phương pháp
thực hiện hành vi Chống trả lại một cách cần
Gây một thiệt hại khác.
loại trừ nguồn thiết.
nguy hiểm

Thiệt hại gây ra không nhất


Mức độ thiệt hại
Khá Nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa. thiết là phải nhỏ hơn thiệt hại
của hành vi
c cần ngăn ngừa.

Chỉ được gây thiệt hại cho


Thiệt hại gây ra phải là thiệt hại nhỏ hơn và
Phạm vi để thực người có hành vi xâm hại
không được thực hiện hành vi gây tổn hại
hiện hành vi lợi ích hợp pháp chứ không
đến sức khỏe, tính mạng của người khác.
gây thiệt hại cho người khác

Phải là lựa chọn cuối cùng, không còn cách


Ưu tiên lựa nào khác để ngăn ngừa thiệt hại thì mới Không nhất thiết phải là lựa
chọn khi thực được phép gây ra một thiệt hại khác nhỏ hơn chọn cuối cùng của người
hiện hành vi. để ngăn ngừa thiệt hại cho xã hội bởi thiên phòng vệ chính đáng.
tai, súc vật…

Điều 22  Bộ luật hình sự


Điều 23 Bộ luật hình sự 2015 2015
Căn cứ pháp lý
Khoản d, Điều 51 BLHS 2015 Khoản c, Điều 51 BLHS
2015

CỤ THỂ: 

I. So sánh về Tình thế cấp thiết và Phòng vệ chính đáng

a, Phòng vệ chính đáng (PVCĐ)


Theo Điều 22 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về Phòng vệ chính đáng, như
sau:

“1. Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình,
của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết
người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.

2. Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không
phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.”

 Như vậy, có thể hiểu, một hành vi được coi là phòng vệ chính đáng phải hội tụ đủ các yếu tố sau:

1. Hành vi nguy hiểm cho xã hội đang gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại thực sự và ngay tức
khắc cho những lợi ích cần phải bảo vệ.

Trước hết nạn nhân của PVCĐ phải là người đang có hành vi xâm phạm đến các lợi ích của Nhà
nước, của tổ chức, của cá nhân người phòng vệ hoặc của người khác. “Đang có hành vi xâm phạm” ở đây
được hiểu là hành vi đã bắt đầu và chưa kết thúc. Nếu hành vi chưa bắt đầu hoặc đã kết thúc thì mọi hành
vi chống trả đều không được coi là hành vi phòng vệ chính đáng. Tuy nhiên, trong trường hợp hành vi
xâm phạm này đã kết thúc, nhưng lại có tiếp hành vi khác của chính người đó xâm phạm đến lợi ích chính
đáng cần bảo vệ thì cũng không coi là hành vi xâm phạm đã kết thúc và người có hành vi chống trả vẫn
được coi là phòng vệ.

2. Phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi nguy hiểm
cho xã hội đang gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại thực sự và ngay tức khắc cho những lợi ích cần
phải bảo vệ.

Cần thiết là sự thể hiện tính không thể không chống trả, không thể bỏ qua trước một hành vi xâm
phạm đến các lợi của xã hội. Hành vi chống trả phải là biện pháp “cần thiết” để ngăn chặn và đẩy lùi hành
vi tấn công. Tức là, trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, người phòng vệ trên cơ sở tự đánh giá tính
chất của quan hệ xã hội bị xâm hại, tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi tấn công và những yếu tố khác
để quyết định biện pháp chống trả mà người đó cho là “cần thiết” nhằm ngăn chặn và đẩy lùi hành vi xâm
hại đến các khách thể được Luật Hình sự bảo vệ.

Ví dụ 1: Vụ án chém chết đối tượng đột nhập vào nhà năm 2019 của bà Nguyễn Thị Thúy Hằng
-31 tuổi- (xã thuận bắc, huyện Cần Giuộc). Cụ thể, rạng sáng 11/3 chị Hằng cùng anh chồng đang
ngủ tại nhà thì nghe tiếng động, chị Hằng quay lại thấy chồng và kẻ đột nhập (Trung) giằng co
nhau, Trung trực tiếp đâm nhiều nhát vào anh chồng gây tử vong tại chỗ. Chị Hằng bỏ chạy,
Trung tiếp tục đuổi theo chém nhiều nhát vào người chị Hằng (thương tích 35%), trong lúc phản
kháng chị Hằng chụp được dao của Trung và đâm chết Trung. Được biết Trung nợ tiền anh chồng
60 triệu và có ý định giết người xóa nợ. Vụ án này đã được kết luận là phòng vệ chính đáng, chị
Hằng không phải chịu TNHS về việc đâm chết Trung (theo điều 22 BLHS 2015)

Khi đánh giá một hành vi chống trả có cần thiết hay không còn phải căn cứ vào nhiều yếu tố khác
như: mối tương quan lực lượng giữa bên xâm phạm và bên phòng vệ, thời gian, không gian xảy ra sự
việc. Khi đã xác định hành vi chống trả là cần thiết thì thiệt hại gây ra cho người có hành vi xâm phạm dù
có lớn hơn thiệt hại mà người có hành vi xâm phạm gây ra cho người phòng vệ vẫn được coi là phòng vệ
chính đáng.

Vấn đề xác định thế nào là phòng vệ chính đáng và vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng: phòng vệ
chính đáng không phải là tội phạm, nhưng nếu hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù
hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại thì là vượt quá giới hạn phòng vệ
chính đáng. Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự. Việc
đánh giá một hành vi chống trả lại sự xâm hại là phòng vệ chính đáng hay vượt quá giới hạn phòng vệ
chính đáng là rất phức tạp trong các vụ án cụ thể vì không có một công thức nào đúng cho mọi trường
hợp. Không ít trường hợp, thủ phạm mượn cớ "phòng vệ chính đáng" để giết hại nạn nhân, xong tự mình
đóng vai nạn nhân để qua mặt cơ quan điều tra. Thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi, đồi hỏi cơ quan
điều tra và thực thi công lý càng phải tinh nhạy và sáng suốt hơn, tránh những án oan cũng như để tội
phạm thật sự nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật. 

Ví dụ 2: Bản án số 28, ngày 16/6/2020 nhóm của Vũ Văn Tuấn và nhóm của K có mâu thuẫn
ngay tại quán nước dẫn đến ẩu đả, C bạn của K vào ngăn cản thì bị T3 bạn của Tuấn đấm vào
mặt, được mọi người can ngăn nên hai nhóm dừng lại. Nhưng sau đó, C lại gọi cho V1 nhằm để
trả thù, khi đến nơi V1,C và K đã tiến đến chỗ Tuấn, do lo sợ bị đánh nên Tuấn cầm ghế đứng
dậy, V1,C, K liên tục dùng tay, chân đấm đá, Tuấn bỏ chạy nhưng V1,C,K đuổi theo, Tuấn rút
dao ra phản kháng đâm K ( tổn thương 33%), V1 và C biết nhưng vẫn tiếp tục dùng tay, chân
đánh T, T đâm V1 (thương tật 32%) C bị thương nhẹ trong khi Tuấn (thương tật 2%). Theo điều
136 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015 - TAND TX.Bỉm Sơn, Thanh Hóa đã
kết án Tuấn phạm tội cố ý gây thương tích do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng - phạm tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng
vệ chính đáng.

Tóm lại, có thể kết luận:

- Gây thiệt hại trong lúc chống trả cần thiết là việc làm không trái pháp luật và không có lỗi;

- Hành vi cần loại trừ này phải đang diễn ra và đe dọa nguy hiểm đến người gây thiệt hại 

- Hành vi phòng vệ này chỉ được thực hiện khi cần thiết và để đẩy lùi hành vi tấn công

- Khi đánh giá một hành vi chống trả có cần thiết hay không còn phải căn cứ vào nhiều yếu tố
khác như: mối tương quan lực lượng giữa bên xâm phạm và bên phòng vệ, thời gian, không gian
xảy ra sự việc 

b, Tình thế cấp thiết (TTCT)

Tình thế cấp thiết trong pháp luật Hình sự là một trong các tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm cho
xã hội của hành vi gây thiệt hại bên cạnh các tình tiết khác như phòng vệ chính đáng, bắt giữ người phạm
pháp, thi hành mệnh lệnh cấp trên,…

Theo Điều 23 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về tình thế cấp thiết:

“1. Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh gây thiệt hại cho quyền, lợi ích hợp pháp
của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà không còn cách nào
khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa.

Hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không phải là tội phạm.

2. Trong trường hợp thiệt hại gây ra rõ ràng vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết, thì người gây
thiệt hại đó phải chịu trách nhiệm hình sự.”
Như vậy, quy định này xác định việc gây thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa không bị coi là tội
phạm. Đồng thời, người có hành vi gây thiệt hại sẽ không bị truy cứu trách nhiệm Hình sự.

 Tình thế cấp thiết là tình thế của người đứng trước sự đe dọa đến lợi ích được pháp luật bảo vệ đồng
thời muốn bảo vệ lợi ích này, người ta không còn cách nào khác là phải gây thiệt hại cho lợi ích khác
cũng được pháp luật bảo vệ. Trong luật hình sự, người được coi là đã hành động trong tình thế cấp thiết
khi người đó đã biết hy sinh một cách hợp lý lợi ích nhỏ để bảo vệ lợi ích khác lớn hơn, cần thiết hơn.

Bản chất của tình thế cấp thiết được thể hiện thông qua các vấn đề sau:

1. Trong LHS, điều kiện hợp pháp của tình thế cấp thiết được thể hiện qua nguyên tắc: “Người có
hành động gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết đã hy sinh lợi ích nhỏ để bảo vệ lợi ích lớn hơn” và  được
chia ra làm 2 loại:

+ Điều kiện về tính chất của sự nguy hiểm: cơ sở pháp lý làm phát sinh quyền được hành động
trong tình thế cấp thiết chính là sự nguy hiểm đang đe dọa những quyền hoặc lợi ích được pháp luật bảo
vệ. Sự nguy hiểm này là thực tế, đang gây ra hoặc đe dọa gây ra những thiệt hại nhất định cho quyền hoặc
lợi ích chính đáng của bản thân người hành động trong tình thế cấp thiết hoặc cho lợi ích Nhà nước, của
tập thể, quyền hoặc lợi ích chính đáng của người khác. 

LHS không quy định cụ thể các loại nguồn nguy hiểm nào, tuy nhiên có thể hiểu: nguồn nguy
hiểm trong tình thế cấp thiết là tất cả những gì làm phát sinh sự gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho
quyền hoặc lợi ích được pháp luật bảo vệ, có thể là do con người, do súc vật, do các sức mạnh của thiên
nhiên (bão, lũ, động đất,…) hoặc do những nguyên nhân khác gây ra. 

Nguồn nguy hiểm phải thỏa mãn tính hiện tại, nghĩa là sự nguy hiểm đó đang tồn tại khách quan,
đang xảy ra, đang diễn ra một cách thực tế và có khả năng gây ra thiệt hại nếu không được ngăn chặn, đã
bắt đầu và chưa kết thúc (ví dụ: Đang có người muốn tước đoạt đi tính mạng, sức khỏe của mình). Tuy
nhiên, nếu thực tế không có sự nguy hiểm cấp bách mà tưởng tượng lầm là tình thế cấp thiết thì người có
hành vi gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm hình sự như trường hợp sai lầm về sự việc. 

+ Điều kiện về tính chất của hành vi khắc phục hậu quả: trong trường hợp được coi là tình thế cấp
thiết thì cách xử sự của chủ thể phải được coi là biện pháp cuối cùng như là việc hy sinh lợi ích này để
bảo vệ lợi ích khác lớn hơn, cần thiết và quan trọng hơn. Vì mục đích của chế định tình thế cấp thiết là
nhằm bảo vệ lợi ích lớn bằng cách hy sinh lợi ích nhỏ hơn. Vậy nên, nếu gây ra thiệt hại lớn hơn để tránh
thiệt hại nhỏ thì đó không được coi là tình thế cấp thiết. Xuất phát từ lý do đó mà LHS cũng không coi là
hợp pháp khi hy sinh lợi ích để bảo vệ lợi ích khác tương đương. (Ví dụ: Việt Nam bước vào trạng thái
bình thường mới dù biết như vậy sẽ gây khó khăn hơn đối với việc dập dịch nhưng phục hồi nền kinh tế
đang là vấn đề cấp thiết hơn cả, tuy nhiên điều này không đồng nghĩa với việc lơ là phòng bị) 

Trên thực tế, không phải lúc nào lợi ích của cá nhân cũng xếp sau lợi ích Nhà nước và tập thể. Cũng
không phải lúc nào hy sinh lợi ích nhỏ hơn để bảo vệ lợi ích lớn hơn cũng là tình thế cấp thiết mà nó còn
phù hợp với đạo đức xã hội.

2. Dấu hiệu cơ bản của mặt chủ quan của người gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết là phải có
mục đích bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tập thể, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác
trước nguy cơ bị đe dọa gây thiệt hại. Nếu thiếu dấu hiệu về mục đích này thì sự gây thiệt hại sẽ không
còn đúng nghĩa của tình thế cấp thiết nữa mà trở thành tội phạm có thể ở giai đoạn hoàn thành hoặc phạm
tội chưa đạt. Nếu thiệt hại đạt đến hậu quả nguy hiểm cho xã hội thì sẽ cấu thành tội phạm ở giai đoạn
hoàn thành, ngược lại là phạm tội chưa đạt.
Mục đích hành động trong tình thế cấp thiết có các hình thức sau:

+ Bảo vệ lợi ích của Nhà nước

+ Bảo vệ lợi ích của tập thể

+ Bảo vệ lợi ích chính đáng của mình

+ Bảo vệ lợi ích chính đáng của người khác (người thứ 3)

Trên thực tế thì hành động của con người được tạo ra nhằm cho nhiều mục đích khác nhau nhưng chỉ
cần trong số đó có các mục đích kể trên thì đều được coi là tình thế cấp thiết.

Ví dụ 1: Vào ngày 14/2 Cảnh sát đã nổ súng tiêu diệt đối tượng truy nã Lê Quốc Tuấn (33 tuổi, tự
Tuấn "khỉ") sau khi đối tượng dùng súng AK chống trả lực lượng cảnh sát vây bắt, cụ thể đã bắn 3 phát
vào cảnh sát tẩu thoát. Trước tình thế nguy hiểm này, cảnh sát có quyền nổ súng tiêu diệt để đảm bảo an
toàn cho người dân và lực lượng vây bắt

Ví dụ 2: Vào ngày 24/8/2017, ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1964 đã dùng kéo đâm chết anh Tăng
Thành Th. Đêm hôm đó, khi hai người nhậu thì xảy ra xích mích, cụ thể anh Th đã có những lời xúc
phạm đến ông H, sau khi ông H bỏ đi ra võng, Th tiếp tục cố tình lặp lại những lời này, ông H đã nói lại “
nếu chê tao thì lần sau đừng uống rượu với t nữa”. Nghe vậy, Th dùng tay đấm ông H xuống đất, ngồi lên
người dùng tay đánh nhiều lần vào bị cáo, chị vợ thấy vậy ra can và kéo bị cáo đứng dậy. Nhưng Th tiếp
tục xô ngã ông H, chị vợ tiếp tục đỡ bị cáo, sau khi đứng dậy thấy Th tiến đên ông H nghĩ Th là tiếp tục
muốn đánh mình lên đã cầm cái kéo bên cạnh bàn đâm vào ngực của anh Th, gây tử vong tại chỗ. Trường
hợp này của ông H được TAND Trà Vinh kết án là tội giết người, và trên thực tế ông H đã vượt quá yêu
cầu của tình thế cấp thiết.

Trong thực tế, để xác định một trường hợp có phải tình thế cấp thiết hay không rất phức tạp, phụ
thuộc vào nhiều yếu tố thực tiễn khác nhau

Ví dụ 3: Tài xế xe khách Đỗ Hùng Mạnh đi trên đường cao tốc tông vào xe cứu hỏa trên cao tốc Pháp
Vân - Cầu Giẽ ngày 18/3/2018. Hôm đó trời mưa, anh Mạnh đã giảm tốc xuống 87 km/h dù được phép đi
100 km/h thì bất ngờ đâm phải xe cứu hỏa đang đi ngược chiều. Anh đã chọn cách đâm trực diện để bảo
toàn tính mạng cho 40 hành khách trên xe thay vì bẻ lái để bảo vệ an toàn cho bản thân và chấp nhận đâm
vào xe cứu hỏa. Vụ va chạm đã khiến tổng cộng 11 người bị thương trong đó, 6 chiến sĩ nhập viện (3
thương nặng, 1 sĩ tử nạn), 5 người trên xe khách nhập viện bao gồm lái xe và phụ lái. Đến hiện tại vụ va
chạm vẫn chưa có kết luận chính thức, tuy nhiên phái Bộ CA có chỉ ra yếu tố lỗi từ bên lái xe khách

Tóm lại, có thể rút ra một số kết luận sau:

- Gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết là việc làm không trái pháp luật và không có lỗi;

- Thiệt hại trong tình thế cấp thiết là thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, tài sản và trong trường
hợp đặc biệt là quyền tự do của công dân;

- Mục đích bảo vệ lợi ích Nhà nước, tập thể hoặc lợi ích chính đáng của công dân là dấu hiệu bắt
buộc của tình thế cấp thiết, có thể kết hợp với đạo đức xã hội;

- Lợi ích cần hy sinh trong tình thế cấp thiết không những phải nhỏ hơn lợi ích được bảo vệ mà
còn phải phù hợp với đạo đức xã hội.
Như vậy, hành vi của một người cố ý tạo nên nguy cơ rồi từ đó gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà
nước, của tập thể hoặc của công dân thì không được coi là gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết.

II. Cơ sở phát sinh:

a, Cơ sở phát sinh quyền phòng vệ chính đáng:

Khoản 1, Điều 22, BLHS quy định: “Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc
lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của tổ chức mà chống trả lại một
cách cần thiết người đang có hành vi xâm hại các lợi ích nói trên.” 

Như vậy, quyền phòng vệ phát sinh khi quyền hoặc lợi ích chính đáng của cá nhân, lợi ích của Nhà
nước; đồng thời, hành vi xâm phạm là cơ sở của quyền phòng vệ chính đáng. Hành vi chống trả trong
phòng vệ chính đáng thực chất là hành vi trực tiếp chống hành vi phạm tội cũng như hành vi vi phạm
pháp luật và do vậy là cần thiết trong mọi trường hợp.

b, Cơ sở phát sinh quyền hành động trong tình thế cấp thiết:

Khoản 1, Điều 23, BLHS quy định: “Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh gây thiệt
hại cho quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ
chức mà không còn cách nào khác là phải gây thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa.”

Mỗi người có quyền được hành động (biện pháp ngăn ngừa) trong tình thế cấp thiết mỗi khi có thiệt
hại đang bị đe dọa xảy ra ngay, kể cả biện pháp phải gây ra thiệt hại khác. Biện pháp gây thiệt hại để ngăn
ngừa thiệt hại chỉ phù hợp với lợi ích xã hội và được coi là hợp pháp khi không còn biện pháp khác (biện
pháp không gây thiệt hại).

Trong tình thế cấp thiết, lợi ích bị gây thiệt hại và lợi ích cần bảo vệ đều là lợi ích hợp pháp. Do vậy,
quyền được hành động trong tình thế cấp thiết chỉ được phát sinh khi chỉ còn biện pháp phải gây ra thiệt
hại để tránh thiệt hại đang bị đe dọa xảy ra ngay.

III. Nội dung

a, Nội dung của quyền phòng vệ chính đáng:

Bản chất của hành vi phòng vệ chính đáng là ngăn chặn sự tấn công bất hợp pháp, hạn chế thiệt hại
do sự tấn công đe dọa gây ra. Theo Điều 22 BLHS, hành vi chống trả của người phòng vệ phải nhằm vào
người đang có hành vi xâm phạm, mục đích là ngăn ngừa hoặc hạn chế thiệt hại mà hành vi trên có thể
gây ra.

b, Nội dung của quyền hành động trong tình thế cấp thiết:

Người hành động trong tình thế cấp thiết được phép gây thiệt hại mà không phải chịu TNHS về việc
gây thiệt hại này với điều kiện thiệt hại gây ra nhỏ hơn thiệt hại bị đe dọa gây ra.

IV. Phạm vi

a, Phạm vi của quyền phòng vệ chính đáng:

Phòng vệ chính đáng không phải là biện pháp trả thù mà là biện pháp ngăn chặn kịp thời hành vi có
tính gây thiệt hại cho xã hội. Phòng vệ chính đáng cũng không đòi hỏi phương pháp, phương tiện người
phòng vệ được phép sử dụng phải tương tự với phương pháp, phương tiện người có hành vi xâm phạm sử
dụng.

Căn cứ đánh giá sự cần thiết của phòng vệ chính đáng:

-  Tính chất của quan hệ xã hội bị đe dọa xâm phạm;

-  Mức độ thiệt hại bị đe dọa gây ra;

-  Sức mạnh và sức mãnh liệt của hành vi xâm phạm;

-  Tính chất và mức độ nguy hiểm của phương pháp và phương tiện hay công cụ mà người có hành
vi xâm phạm sử dụng;

-  Khả năng phòng vệ của người phòng vệ đặt trong hoàn cảnh cụ thể.

Như vậy, sự cần thiết nói trong phòng vệ chính đáng chỉ đòi hỏi là sự cần thiết tương đối.

b, Phạm vi của quyền hành động trong tình thế cấp thiết:

Thông thường, thiệt hại gây ra trong tình thế cấp thiết là thiệt hại về tài sản. Về nguyên tắc, luật hình
sự Việt Nam không chấp nhận thiệt hại về tính mạng trong tình thế cấp thiết. Thiệt hại này chỉ được chấp
nhận trong tình thế đặc biệt.

Như vậy, khi có cơ sở được hành động trong tình thế cấp thiết, mỗi người đều có thể được b phép
gây ra thiệt hại nhỏ hơn để ngăn ngừa thiệt hại lớn hơn. Sự so sánh hai thiệt hại này được xét cả về tính
chất và mức độ của thiệt hại.

Câu 2:
Bài làm:

        a, Đây là vụ đồng phạm về tội cướp tài sản. Vì đồng phạm là trường hợp có hai người trở
lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm (theo Khoản 1 điều 17 BLHS 2015 sửa đổi bổ sung 2017)

- Các dấu hiệu:

 ● Mặt khách quan:

Có 2 người trở lên tham gia: 8 người: Xai, In, Hưng, Khánh, Vĩnh, Bến, Long, Rúa ( Giả sử
cả 8 người đều có năng lực trách nhiệm hình sự).

 Chủ thể : 

Cả 8 chủ thể cùng thực hiện tội phạm đều là người thực hành (khoản 3, điều 17 BLHS
2015 sửa đổi, bổ sung 2017) , tức là đều thực hiện hành vi được mô tả trong khoản 1
Điều 168 BLHS 2015 sửa, đổi bổ sung 2017 về tội cướp tài sản: “1. Người nào dùng vũ
lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công
lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản…”: trói và nhét giẻ
vào mồm tất cả mọi người trong gia đình ông Mia, và dùng dao, búa cạy phá hòm tủ để
tìm kiếm tiền, vàng…

 Hậu quả: Kết quả chung do hành vi của cả 8 người tham gia đồng phạm là: Cướp chiếc
điện thoại di động và chiếc mũ bảo hiểm xe máy.
 Mối quan hệ nhân quả:

Hành vi cướp tài sản của 8 chủ thể là hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật hình sự
xảy ra trước khi hậu quả là điện thoại di động và mũ bảo hiểm xe máy bị cướp về mặt thời gian.

Hành vi cướp tài sản của 8 chủ thể chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả nguy
hiểm cho xã hội: “Xâm hại đến quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân.”

Thực tế, hành vi cướp tài sản của 8 chủ thể đã hiện thực hóa khả năng làm phát sinh hậu
quả: Quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân bị xâm phạm.

 ● Mặt chủ quan:

- Dấu hiệu lỗi: 8 người tham gia đồng phạm đều có lỗi cố ý với hành vi của mình và mong
muốn sự cố ý tham gia của những người đồng phạm khác. Sự cố ý này thể hiện ở lý trí và ý chí:

+ Lý trí:

Cả 8 người đều nhận thức được hành vi cướp tài sản của mình có tính gây thiệt hại cho xã
hội. Và đều biết những người đồng phạm còn lại cũng có hành vi như vậy.

Cả 8 người đều thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội: Xâm hại đến quan hệ sở hữu và
quan hệ nhân thân của gia đình ông Mia, do hành vi của mình và hành vi của các đồng phạm
khác gây ra.

   + Ý chí: Cả 8 người đồng phạm đều mong muốn có hoạt động chung và mong muốn hậu
quả đó xảy ra: Bàn nhau: “Bằng mọi giá phải chiếm đoạt được tài sản nhà ông Mia”.

Như vậy, cả 8 đồng phạm đều có lỗi cố ý trực tiếp.

- Mục đích: Cả 8 người tham gia đồng phạm đều cùng có chung mục đích: chiếm đoạt được
tài sản nhà ông Mia.

Kết luận: Đây là vụ đồng phạm.

● Xét theo dấu hiệu chủ quan:

Đây là vụ đồng phạm có thông mưu trước: Cả 8 đồng phạm đã có sự thỏa thuận, bàn bạc
với nhau trước khi thực hiện tội phạm.

● Xét theo dấu hiệu khách quan: 

Đây là vụ đồng phạm giản đơn: Cả 8 đồng phạm đều giữ vai trò là người thực hành. 
Cả 8 chủ thể đều phải chịu TNHS cho hành vi cướp tài sản.

Ngoài ra hành vi giết ông Mia là hành vi vượt quá của Khánh.

b, Chỉ có Khánh phải chịu TNHS về cái chết của ông Mia, vì:

Chỉ có Khánh là chủ thể duy nhất thực hiện tội phạm này và không có sự bàn bạc cũng như
sự biết trước của 7 người còn lại, bởi vậy cái chết của ông Mia không phải là một vụ đồng phạm.
Hành vi giết người là hành vi vượt quá của Khánh, vậy nên những người còn lại không phải chịu
TNHS về cái chết của ông Mia mà chỉ phải chịu TNHS trộm cắp, chiếm đoạt tài sản và hành vi
bắt, trói người trái phép như đã phân tích ở trên ( Theo khoản 4, điều 17, BLHS 2015 sửa đổi, bổ
sung 2017)

Cấu thành tội phạm của tội giết người trong trường hợp này là:

 Khách thể:

Đối tượng tác động: Con người ông Mia còn sống vào thời điểm Khánh thực hiện hành vi.

Khách thể bị xâm phạm: Quan hệ xã hội về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của
con người - Quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ.

 Khách quan:
 Hành vi trái pháp luật: Dùng súng bắn 3 viên đạn vào ông Mia.
 Hậu quả: Làm thiệt hại tính mạng của ông Mia.
 Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả:

Hành vi bắn chết người của Khánh xảy ra trước hậu quả là tính mạng ông Mia bị thiệt hại
về mặt thời gian.

Hành vi bắn chết người của Khánh chứa đựng khả năng thực tế làm thiệt hại tính mạng của
ông Mia.

Hành vi bắn chết người của Khánh đã thực tế hóa khả năng làm phát sinh hậu quả nguy
hiểm cho xã hội: tính mạng của ông Mia bị cướp đoạt.

+ Công cụ phạm tội: Súng

+ Phương pháp thủ đoạn thực hiện tội phạm: Bắn 3 phát đạt vào ông Mia

+ Thời gian: 23h30 ngày 28/11/2006.

+ Địa điểm:  nhà ông Mia (An Giang)

- Chủ thể: Khánh ( giả sử có năng lực trách nhiệm hình sự)

- Chủ quan: Khánh có lỗi cố ý trực tiếp.


+ Lý trí:

Khánh nhận thức rõ tính chất nguy hiểm của hành vi bắn người của mình.

Khánh nhận thức được hậu quả nguy hiểm của hành vi: Tính mạng ông Mia bị tước đoạt.

+ Ý chí: Khánh mong muốn cho hậu quả đó xảy ra.

Kết luận: Như vậy, Khánh là người duy nhất phải chịu trách nhiệm hình sự về cái chết
của ông Mia.

 c,  Giả sử rằng: Dù bị khống chế nhưng ông Mia chống cự quyết liệt và đã dùng dao
đâm chết tên Khánh khi tên này doạ bắn ông thì hành vi gây ra cái chết cho Khánh được coi
là PVCĐ, vì:

 Cơ sở làm phát sinh quyền phòng vệ chính đáng là: 

 Đang có hành vi xâm phạm quyền, lợi ích chính đáng của cá nhân, Nhà nước, cơ quan tổ
chức. Cụ thể trong trường hợp này là: Đe dọa sẽ xảy ra ngay tức khắc hành vi bắn ông Mia của
Khánh, xâm phạm đến quyền và lợi ích chính đáng - tính mạng - của ông Mia.

Hành vi phòng vệ chính đáng của ông Mia nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của mình.

 Điều kiện thuộc về nội dung:

Hành vi chống trả của ông Mia nhằm vào Khánh - người đe dọa sẽ xảy ra ngay tức khắc
hành vi xâm phạm đến tính mạng của ông Mia. Đây là biện pháp cần thiết để có thể ngăn chặn
được hành vi trái pháp luật của Khánh.

 Điều kiện thuộc về phạm vi của phòng vệ chính đáng:

Sự chống trả của ông Mia là sự chống trả cần thiết.  

Mục đích của hành động phòng vệ của ông Mia không phải để trả thù mà là để ngăn chặn,
đẩy lùi hành vi tấn công của Khánh.

Hành động của ông Mia là phòng vệ chính đáng, là biện pháp cần thiết, phù hợp với tính
chất, mức độ nguy hiểm của hành vi xâm phạm của Khánh trong hoàn cảnh này, dựa vào những
căn cứ sau:

Tính chất của quan hệ xã hội bị hành vi của Khánh đe dọa xâm hại: Quan hệ xã hội về tính
mạng. Cụ thể là tính mạng của ông Mia, đây là quan hệ xã hội đặc biệt quan trọng được Luật
Hình sự bảo vệ và điều chỉnh.

 Mức độ thiệt hại bị đe dọa gây ra: Rất nghiêm trọng. Cụ thể là thiệt hại về tính mạng
của ông Mia.
 Sức mạnh, sức mãnh liệt của hành vi tấn công: Khánh đe dọa sẽ ngay lập tức giết ông
Mia.
 Tính chất và mức độ nguy hiểm của phương pháp và phương tiện hay công cụ mà
người có hành vi xâm phạm sử dụng: Khánh đã dùng công cụ là súng - công cụ đặc
biệt nguy hiểm nhằm ngay lập tức tấn công ông Mia.
 Khả năng phòng vệ của người phòng vệ đặt trong hoàn cảnh cụ thể là: Ông Mia với
khả năng phòng vệ yếu do bị trói và nhét giẻ vào mồm, giảm khả năng phòng vệ và
chống cự giảm.

Kết luận: Ông Mia bị đặt trong hoàn cảnh khó khăn khi bị khống chế, sức khỏe và tính
mạng bị đe dọa nghiêm trọng nên có thể rơi vào trường hợp “… người phải phòng vệ có khi
không thể có điều kiện để bình tĩnh lựa chọn được chính xác phương pháp, phương tiện
chống trả thích hợp, nhất là trong trường hợp họ bị tấn công bất ngờ”. Trong tình huống giả
sử trên, hành vi gây ra cái chết cho Khánh của ông Mia là Phòng vệ chính đáng.

CÂU 3: TỔNG HỢP CÂU HỎI

Câu 1: A và H xảy ra mâu thuẫn trong công việc dẫn đến xô xát thì được anh C can
ngăn nhưng bất thành. A cầm 2 con dao tiếp tục xông vào chém H liên tiếp. Trong lúc
giằng co, do H dùng nón bảo hiểm đỡ được nên 1 trong 2 con dao bị văng ra chỗ kệ
bồn. Ngay sau đấy, H nhặt được con dao đó ở kệ bồn chém lại 3 nhát, trong đó 1 nhát
trúng vào cổ của A. Hậu quả A tử vong. Hỏi trường hợp của H có phải phòng vệ chính
đáng không? 

A. Có. Vì đây là tình thế cấp thiết.


B. Có. Vì đó là sự kiện bất ngờ
C. Không. Vì đây là hành vi vượt quá phòng vệ chính đáng.
D. Không có đáp án nào đúng.

=> Chọn đáp án: C

Vì: Bởi lẽ, đánh giá, xem xét toàn bộ một chuỗi các sự việc trong vụ án cho thấy hành vi
của H có động cơ là muốn trốn tránh khỏi hành vi trái pháp luật của nạn nhân; sai phạm
là đã vượt quá phạm vi được phép phòng vệ, chống trả rõ ràng là quá quyết liệt và rất
nguy hiểm bằng việc chém tận 3 nhát, việc gây hậu quả A chết là không cần thiết trong
khi có thể lựa chọn cách xử sự khác. Vì vậy, đủ cơ sở cho rằng H phạm tội “Giết người
do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng”.

Câu 2: Khi thử nghiệm 1 loại vacxin chống Covid- 19 mới, các nhà nghiên cứu đã thí
nghiệm, thử nghiệm thuốc nhiều lần trên động vật và thử nghiệm thuốc theo quy định
pháp luật cho kết quả tốt. Để đảm bảo hiệu quả có thực sự tốt thì thuốc đã được sử
dụng trên một số bệnh nhân nhất định, tuân thủ đầy đủ, đúng quy trình liên quan và
cho kết quả tốt, nhưng đến khi thuốc được sử dụng rộng rãi trong cộng đồng thì đã
gây ra hậu quả làm chết người.

Như vậy, các nhà nghiên cứu có phải chịu trách nhiệm hình sự không? 
A. Có. Vì các nhà nghiên cứu đang đe dọa làm ảnh hưởng tới lợi ích cộng đồng.
B. Không. Vì đây là sự kiện bất ngờ.
C. Không. Vì đây là trường hợp rủi ro trong nghiên cứu mà hậu quả xảy ra khi các
nhà khoa học đã làm đúng các thủ tục, biện pháp phòng ngừa.
D. Không thể xác định

=> Chọn  đáp án: C. Vì tình huống này đã quy định rõ ở điều 25 BLHS 2015 sủa đổi
bổ sung 2017

Câu 3: Trong lúc đang đợi bạn ở đầu ngõ vào buổi tối, A nhìn thấy một tên nghiện có
vẻ đang chầm chậm tiến về phía mình, trên tay cầm kim tiêm. Vốn dĩ tên nghiện ấy
chỉ tìm chỗ tối để chích thuốc. Nhưng A lại cho rằng người đó tiến tới để tấn công
mình nên đã dùng dao đâm người này dẫn đến tổn thương phần bụng. Hỏi A có phải
chịu TNHS không?

A. Có. Vì đây là hành vi cố ý gây thương tích của A từ trước.


B. Có. Vì đây chỉ là phòng vệ tưởng tượng
C. Không. Vì đây là hành vi phòng vệ chính đáng.
D. Không thể kết luận được.

=> Chọn đáp án: B. Vì trường hợp này hoàn toàn không có người tấn công nhưng lầm
tưởng là có sự tấn công, dẫn đến hậu quả không mong muốn.

Câu 4: A vay B 50 triệu đồng và hứa một tuần sau, tức ngày 15/07/2020 sẽ trả. Tuy
nhiên, đến ngày đó, B liên lạc với A nhưng không được, đến nhà tìm thì hàng xóm nói
A đã không về nhà từ hôm qua. Nghi là A chạy trốn, B đã lập tức lái xe máy đi tìm.
Chạy xe đến một khu nhà hoang thì B thấy A đang ở đó. B chạy lại đòi tiền A nhưng
A lật lọng không trả. Quá tức giận, B đã đấm A một cái khiến A ngã xuống đất. B
đang định cúi xuống đánh A tiếp thì bất ngờ, A nhặt hòn đá bên cạnh và đập vào đầu
B khiến B chết ngay tại chỗ. Hỏi hành vi của A có tình tiết loại trừ tình chất gây nguy
hiểm cho xã hội không?

A, Có vì đó là phòng vệ chính đáng

B, Có vì đó là trong tình thế cấp thiết

C, Không vì hành vi đó đã vượt quá phòng vệ chính đáng

D, Chưa đủ dữ kiện để kết luận

=> Chọn đáp án: C


Giải thích: Đây là hành vi chống trả quá mức rõ ràng, vượt quá mức cần thiết, không
phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiền chi xã hội của hành vi xâm hại. Cụ thể về sự
vượt quá tính chất của hành vi xâm hại:

 Tính chất của quan hệ xã hội bị đe dọa xâm phạm: hành vi vi phạm đã xâm phạm
đến quan hệ xã hội về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự nhưng hành vi vi
phạm ở mức độ rất nhẹ là một vài cú đấm
 Mức độ thiệt hại đe dọa gây ra: mức độ nhẹ, có thể chỉ là trầy xước ngoài da
 Sức mạnh và sức mãnh liệt của hành vi xâm phạm: thấp do B chỉ đấm A một cái
trong lúc tức giận, không có hung khí nguy hiểm
 Tính chất và mức độ nguy hiểm của phương pháp, phương tiện, công cụ mà người
có hành vi xâm phạm sử dụng: không có hung khí nguy hiểm, chỉ dùng nắm đấm
 Khả năng phòng về của người phòng vệ: anh A hoàn toàn khỏe mạnh, có khả năng
chống trả.

=> Như vậy, việc A đánh B chết tại chỗ là hành vi không cần thiết, vượt quá
phòng vệ chính đáng

Câu 5: Anh A và chị B là 2 vợ chồng. Một ngày, khoảng 8h tối, khi A say rượu trở về nhà
thấy nhà cửa bừa bộn, chưa có cơm tối để ăn và không thấy chị B ở nhà nên đã trở nên
tức giận. Khoảng 15’ sau chị B trở về nhà và đi nấu cơm tối cho chồng. Vì đã sẵn bực tức
nên anh A đã mắng chửi vợ, gây cớ đánh nhau sau đó liên tục tát và đấm vào bụng chị B.
Trong tình trạng bị thất thế và vốn tức giận khi chồng say rượu còn chửi mắng và đánh
mình, chị B đã lấy con dao đang cầm để nấu thức ăn ra dọa và chém khiến anh A bị
thương. Chị B sau đó đã đưa chồng mình đến bệnh viện. Bệnh viện kết luận vết thương
của anh A chỉ là chấn thương phần mềm, không làm ảnh hưởng đến các bộ phận khác, tỷ
lệ thương tích là 10%.

Hỏi hành vi của chị B có tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm cho xã hội hay không? Nếu
không thì chị B sẽ phải chịu trách nhiệm về tội gì?

A. Có, vì đây là hành vi tự vệ chính đáng

B. Có, vì đây là hành vi phạm tội trong tình thế cấp thiết

C. Không, chị B phạm tội cố ý gây thương tích do vượt quá giới hạn phòng vệ chính
đáng

D. Chị B không có tội.

Chọn đáp án : A
Giải thích: Cơ sở làm phát sinh quyền phòng vệ chính đáng: sự tấn công là hành vi liên
tục tát và đấm vào bụng chị B và hành vi phòng vệ đi liền nhằm ngăn chặn hành vi gây ra
thiệt hại là lấy dao ra dọa

- Nội dung: hành vi chống trả nhằm vào người đang có hành vi xâm phạm là A

- Phạm vi: đây là hành vi cần thiết, phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi
xâm phạm:

 tính chất của quan hệ xã hội bị đe dọa xâm phạm: xâm phạm quyền được đảm đảm
bảo an toàn về tính mạng, sức khỏe
 mức độ thiệt hại bị đe dọa gây ra: lớn, gây ảnh hưởng đến sức khỏe và tính mạng
chị B
 sức mạnh và sự mãnh liệt của hành vi xâm phạm: hành vi diễn ra đột ngột, liên
tục, trước đó còn đe dọa về tinh thần chị B thông qua việc chửi bới
 tính chất, mức độ nguy hiểm của phương pháp, phương tiện, công cụ mà người có
hành vi xâm phạm sử dụng: dùng sức mạnh của một người đàn ông trường thành
liên tục đấm chị B trong tình trạng bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
 khả năng phòng vệ của người phòng vệ: chị B, người bình thường và yếu thế hơn
anh A
 Mức độ thiệt hại do hành vi chống trả: nhỏ hơn 11% và không cố ý gây thương tật
cho anh A, và có hành động khắc phục lỗi là nhanh chóng đưa tới cơ sở y tế

Câu 6: Phạm tội do phòng vệ quá sớm/ quá muộn có được coi là vượt quá phòng vệ chính
đáng không?

A. Có, vì hành vi của người gây ra thiệt hại nhằm mục đích ngăn chặn hành vi xâm hại
tới lợi ích của xã hội (do họ biết trước người đó sẽ tấn công/ sau đó sẽ tấn công người
khác)

B. Tùy vào từng trường hợp cụ thể thì sẽ có những kết luận khác nhau

C. Không, vì hành động này không nhằm mục đích năng chặn hành vi xâm hại tới lợi
ích xã hội 

D. Không có đáp án nào đúng

=> Chọn đáp án C. Vì phòng vệ quá sớm hoặc quá muộn vi phạm vào yêu cầu đầu tiên
của PVCĐ là có sự tấn công đang hiện hữu, xâm phạm đáng kể đến quyền và lợi ích
chính đáng của người phòng vệ hoặc của người khác.

Câu 7: Người mắc bệnh tâm thần thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định
trong BLHS thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.
A. Đúng, vì bị tâm thần là đã mất năng lực hành vi dân sự nên không phải chịu TNHS

B. Sai, vì người tâm thần nhưng chưa mất hoàn toàn nhận thức thì vẫn phải chịu
TNHS

C. Đúng, vì căn cứ vào điều 21, BLHS 2015 đã quy định như thế.

D. Sai, vì người bị tâm thần vẫn là chủ thể trực tiếp của hành vi, nên đây sẽ là tình tiết
giảm nhẹ

=> Chọn đáp án C

Câu 8: Chị C đang đi trên đường thì bị tên D chạy vụt qua và cướp mất chiếc túi hàng
hiệu trị giá 50 triệu đồng, trong đó có một chiếc iphone 11 pro max trị giá 25 triệu đồng,
10 triệu đồng tiền mặt cùng với giấy tờ tùy thân. Chị D kêu lớn, anh H nghe thấy đã lập
tức chạy đuổi theo tên D đang tẩu thoát. Đuổi kịp D, anh H kéo hắn lại, vật xuống đất để
lấy lại tài sản cho chị C. Khi bị vật xuống đất, chân của D đã đập vào lan can sắt và bị
gãy. Hỏi hành vi của anh H có tình tiết loại trừ tình chất gây nguy hiểm cho xã hội
không?

A, Có vì hành động đó là phòng vệ chính đáng

B, Có, vì đây là hành động gây thiệt hại khi bắt giữ người phạm tội

C, Có vì đó là tình huống cấp thiết

D, Không vì thực tế đã xâm phạm đến sức khỏe của D, khiến D bị gãy chân

Đáp án: B

Giải thích:

- Cơ sở cho phép gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội: ngay sau khi D thực
hiện hành vi cướp tài sản: thì bị H phát hiện và đuổi theo ( bắt người phạm tội quả tang)

- Nội dung và phạm vi:

+ Việc H đuổi theo D là cách duy nhất lúc đấy để có thể ngăn chặn hậu quả của hành
vi cướp giật do D gây ra.

+ Việc anh H vật D xuống đất nhằm lấy lại tài sản nhưng không có ý định làm D bị
thương là hành vi cần thiết

+ Mối tương quan giữa sự chống trả việc bắt giữ và khả năng bắt giữ của người bắt
giữ: D chạy trốn rất nhanh dẫn đến H buộc phải đuổi theo để bắt giữ.
Câu 9: G (18t) và L (20t) do mâu thuẫn cá nhân nên cả 2 đã xảy ra xô xát nhẹ với T (18t)-
con trai ông H nhưng không gây thương tích gì cho T. Ông H nổi giận và cùng với con
trai T và con trai A (17t) đi tìm G và L để giải quyết. Đến nơi thấy G và L đang ngồi ăn
bánh, 3 cha con đã xông vào đánh G. Khi đó, ông H cầm cục đá, T có mang theo dao. T
đâm 2 nhát vào G, ông H dùng đá đập vào đầu G. G cố gắng bỏ chạy nhưng bị 3 cha con
đuổi theo. Khi đang đuổi theo G, T đã nhìn thấy L đang đuổi theo sau nên chạy đuổi L
đến cuối ngõ. Tại đây, T cầm dao liên tục khua, chém loạn xạ dọa giết L, L đá vào cánh
tay T làm con dao rơi ra, T đã chống trả được và kẹp cổ L, L bị thất thế nên đã nhặt được
con dao mà T làm rơi rồi đâm T để cố thoát ra nhưng nhát dao đâm vào ổ bụng làm chảy
nhiều máu khiến T tử vong tại chỗ. Sau khi gây án, gia đình đã dẫn L đi tự thú.

Hỏi hành vi của L có tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm cho xã hội hay không? Nếu
không thì L sẽ phải chịu TNHS về tội gì?

A. Có, vì L phạm tội trong tình thế cấp thiết

B. Có, vì L phạm tội trong tình trạng bị thất thế, muốn bảo toàn sức khỏe và tính mạng
và được coi là phòng vệ chính đáng

C. Không, L phạm tội Giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng

D. Không, L phạm tội khác.

=>  Chọn đáp án: B.

- Cơ sở làm phát sinh quyền phòng vệ chính đáng: sự tấn công là hành vi liên tục khua
dao, chém vào cánh tay của L, sau khi L chống trả lại tiếp tục kẹp cổ L, hành vi này đang
diễn ra nên hành vi đâm T để thoát ra là hành vi PVCĐ

- Nội dung: hành vi chống trả nhằm vào người đang có hành vi xâm phạm là T

- Phạm vi: đây là hành vi cần thiết, phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi
xâm phạm:

 Tính chất của quan hệ xã hội bị đe dọa xâm phạm: xâm phạm quyền được đảm
bảo an toàn về sức khỏe và tính mạng
 Mức độ thiệt hại bị đe dọa gây ra: lớn, ảnh hưởng đến sức khỏe, tinh thần và đe
dọa đến tính mạng của L
 Sức mạnh và sự mãnh liệt của hành vi xâm phạm: hành vi diễn ra đột ngột, liên tục
và bất ngờ
 Tính chất, mức độ nguy hiểm của phương pháp, phương tiện, công cụ mà người có
hành vi xâm phạm sử dụng: dùng dao để hành động có thể gây thương tích cho
những người xung quanh.
 Khả năng phòng vệ của người phòng vệ: anh L, giả sử là người khỏe mạnh, mới
chạy theo T chưa có bất kì hành động nào có chủ ý làm T bị thương.
 Tình thế lúc đó: cấp bách, và chỉ có thể dùng vũ lực để ngăn cản

Câu 10: Một bác sĩ khoa cấp cứu, vì để bảo toàn tính mạng của bệnh nhân nên buộc phải
cắt bỏ phần chân bị hoại tử theo yêu cầu của trưởng khoa mà chưa có giấy đồng ý từ
người nhà của bệnh nhân (do tình thế quá gấp). Tuy đã cố gắng hết sức, ca phẫu thuật
không có sai sót gì nhưng do thể chất của nạn nhân quá yếu, nên không thể duy trì tiếp sự
sống. Vậy hành vi này của bác sĩ có tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm cho xã hội
không? Nếu không bác sĩ này phải chịu TNHS về tội gì?

A. Không, vì chưa được sự đồng ý của người nhà nạn nhân, vị bác sĩ phạm tội lỗi vô ý
do quá tự tin

B. Không, bác sĩ phải chịu TNHS cho cái chết của bệnh nhân và trái thủ tục khám
chữa bệnh

C. Có, vì Bác sĩ phạm tội trong tình thế cấp thiết

D. Không, vì bác sĩ này thi hành theo mệnh lệnh của cấp trên

Chọn đáp án: B 

Giải thích: Trường hợp miễn TNHS khi thi hành mệnh lệnh cấp trên chỉ áp dụng đối với
lĩnh vực quốc phòng, an ninh. 

You might also like