Professional Documents
Culture Documents
Viện Công Nghệ Sinh Học-Thực Phẩm Phương Pháp Bao Gói Kẹo
LỜI MỞ ĐẦU
Bao bì đã được sử dụng rất phổ biến để chứa đựng tất cả các lọai hàng hóa trong
quá trình bảo quản, vận chuyển, phân phối và kiểm tra. Bao bì có tác dụng bảo vệ chất
lượng hàng hóa từ khi sản xuất , đến trao đổi thương mại và tiêu thụ, mang lại hiệu quả
kinh tế và thể hiện sự tiến bộ xã hội.Từ những vật chứa đựng thô sơ thời xưa , khoa học
kỹ thuật phát triển nhiều phương pháp đóng gói tương ứng và lọai vật liệu bao bì , tạo nên
nhiều lọai bao bì đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội , trong đó bao bì cho thực
phẩm đóng vai trò chủ đạo.Vì vậy ,có thể nói “bao bì là trái tim của cong nghệ thực
phẩm” là nhân tố tạo nên chất lượng thực phẩm, vì chính sự phát triển của kỹ thuật bao bì
đã tác động đến sự phát triển của ngành công nghệ thực phẩm.
Chính vì tầm quan trọng nói trên mà nhóm chúng em quyết định tìm hiểu nhiều
hơn nữa về bao bì và phương thức bao gói của chúng trong ngành công nghệ bánh kẹo.
Nhóm chúng em chân thành cảm ơn cô đã đưa cho chúng em ý tưởng và vừa tạo
điều kiện thuận lợi để chúng em thực hiện đề tài này vừa giúp chúng em có thêm những
kiến thức vững chắc giúp cho sự nghiệp sau này.
Do lượng kiến thức to lớn nhưng thời gian có hạn nhóm chúng em không khỏi
mắc những thiếu sót,rất mong được sự góp ý và chia sẽ của cô để bài tiểu luận được hòan
thiện hơn.
Chân thành cảm ơn cô.
như bụi, cát, sạn, các tác nhân vật lý như oxy, ánh sáng,hơi ẩm, mùi…và các tác nhân
sinh học như côn trùng, gậm nhấm,và quan trọng hơn hết là vi sinh vật.
Bao bì phải không bị ăn mòn bởi môi trường của thực phẩm và vật liệu bao bì
không đi vào môi trường thực phẩm.
1.2.3 Chức năng cung cấp thông tin
Bao bì có thể cung cấp đầy đủ thông tin về sản phẩm đến khách hàng một cách dễ
dàng bằng cách in trực tiếp hoặc dán nhãn ngòai bao bì.Bao bì này thường cung cấp 3 lọai
thông tin chủ yếu bao gồm cung cấp những thông tin cơ bản,cung cấp thông tin nhằm tiếp
thị ,quảng cáo sản phẩm và cung cấp những thông tin thuận lợi trong quá trình quản lý ,
vận chuyển,bảo quản,phương thức sử dụng và thông tin về vệ sinh an tòan thực phẩm.
Cung cấp các thông tin cơ bản:
+ Tên nhà sản xuất,địa chỉ sản xuất, ngày sản xuất,tên cơ quan cho đăng kí,cửa
hiệu đăng ký chất lượng sản phẩm
+ Tên sản phẩm,thời hạn sử dụng, cách sử dụng
+ Các thành phần cơ bản của sản phẩm
+ Thành phần cấu tạo của sản phẩm
+ Chỉ tiêu chất lượng chủ yếu
+ Thành phần phụ gia
+ Các khuyến cáo khi sử dụng
+ Cơ quan đăng ký chất lượng sản phẩm.
+ Tên thương hiệu
Tất cả các thông tin phải chính xác và nhà sản xuất phải chịu trách nhiệm trước
pháp luật về những thông tin mình đưa lên bao bì.
Cung cấp các thông tin nhằm tiếp thị quảng cáo sản phẩm
Hình dạng bao bì , các biểu tượng, hình ảnh, chữ viết,màu sắc nhằm thu hút sự
chú ý của khách hang,giúp khách hang nhận diện sản phẩm và có ấn tượng về sản
phẩm đó.
Cung cấp những thông tin thuận lợi:
Ví du đưa ra những biểu tượng trên bao bì để giúp khách hang thận trọng khi
sữ dụng củng như bảo quản.
1.2.4 Chức năng văn hóa
Các sản phẩm thực phẩm hầu hết được chế biến từ nguyên liệu là nông
sản,thủy hải sản.Các sinh vật này tồn tại trên nhiều vùng đất, khí hậu, tập quán canh
tác khác nhau do đó đều mang những sắc thái khác nhau. Khi sản xuất thực phẩm phải
thể hiện những nét văn hóa đó của từng cộng đồng dân cư,từng dân tộc trên bao bì
thực phẩm cái mà được thể hiện trong chính thực phẩm hay thể hiện trên hình thức
trình bày thực phẩm và bao bì…
1.2.5 Tạo sức hấp dẩn,tiện lợi trong phân phối,quản lý và tiêu dùng
Thành công hay thất bại của một mặt hàng củng phụ thuộc vào lọai bao bì của
nó.Bao bì có thể hướng dẫn người tiêu dùng từ lúc chọn mua đến lúc sử dụng. Đây
củng là phương thức quản cáo hiệu quả mà ít tốn chi phí .Để tạo sự hấp dẫn thì bao bì
phải đẹp, hình dáng thích hợp.Các sản phẩm hấp dẩn có thể bao gói trong bao bì nhìn
thấy được.
1.2.6 Bảo vệ môi trường sinh thái
Nhờ có bao bì mà sản phẩm không bị rơi vãi ra môi trường, tránh được sự
nhiễm bẩn, ôi thối do thực phẩm gây ra.
Để bảo vệ môi trường thì bao bì phải đãm bảo các điều kiện sau:
+ Có khả năng tái sử dụng hoặc sử dụng vào những mục đích khác mà không
bị thải ra môi trường .
+ Có khả năng tái chế nghĩa là sau khi thải ra nó có thể dùng làm nguyên liệu
cho các ngành công nghiệp khác.
+ Có khả năng tự phân hủy bởi tác động của môi trường tự nhiên,khi phân giải
không hình hành các chất độc làm ô nhiễm nguồn nước, mặt nước và bầu khí quyển.
Có khả năng xử lý bằng các giải pháp công nghệ trong các cơ sở xử lý rác.[2, 92]
1.3 Phân lọai bao bì
Có 4 cách phân lọai bao bì chủ yếu:
1.3.1 Phân lọai theo kích cỡ:
Chia làm 2 lọai:
Bao bì lớn:là lọai bao bì đóng gói lớn để dễ dàng khuân vác,vận
chuyển.Bao bì lớn chứa nhiều đơn vị sản phẩm trong đó .Ví dụ như thùng
cacton, thùng gỗ lớn…..
Bao bì nhỏ:là bao bì đóng gói để tiêu thụ trực tiếp trong mỗi lần xử
dụng theo khẩu phần hay trong một thời gian. Ví dụ như chay nước mắm,gói
mì ăn liền, gói kẹo…
1.3.2 Phân lọai theo vật liệu:
Bao bì kim loai cứng
Bao bì kim loại dẻo
Bao bì thủy tinh
Bao bì giấy
Bao bì gỗ
Bao bì plastic cứng
Bao bì Plastic dẻo
Bao bì màng ghép
Bao bì ăn được
1.3.3 Phân lọai theo vị trí tương đối của thực phẩm
Bao bì thứ cấp:Không trực tiếp tiếp xúc với thực phẩm, nó chứa sản phẩm và
bao bì sơ cấp. Ví dụ như thùng đựng mì ăn liền..
Bao bì sơ cấp:tiếp xúc trực tiếp với thực phẩm.Bao bì sơ cấp không độc và
phải tương hợp với thực phẩm. Nếu bao bì sơ cấp là bao bì ăn được thì nhiều khi thực
phẩm cần có them bao bì sơ cấp phi thực phẩm. Ví dụ như hộp sữa tươi, kẹo dừa….
1.3.4 Phân lọai theo tính năng kỹ thuật
Theo các yêu cầu của từng lọai sản phẩm ,các nhà sản xuất thường nhóm các
lọai bao bì có khả năng thỏa mãn các yêu cầu kỹ thuật để so sánh và lựa cho thích
hợp. Ví dụ như bao bì vô trùng, chịu được nhiệt độ cao, bao bì chịu lực, chân
không,bao bì cách ẩm,bao bì trong và chắn sáng, bao bì chống côn trùng, bao bì chịu
nhiệt, lạnh…[2, 96]
1.4 Các yêu cầu đối với bao bì sử dụng bao gói thực phẩm
1.4.1 Yêu cầu bảo vệ sản phẩm và bảo vệ môi trường
Không độc và tương hợp với từng loại sản phẩm : điểm quan trọng nhất trong
sản xuất là sự an toàn không độc. Nếu thực phẩm được chế biến không độc thì không thể
để cho thực phẩm bị nhiễm độc bởi bao bì. Sự nhiễm độc có thể do bản thân bao bì mang
chất độc hay do sự tương tác,phản ứng giữa thực phẩm và bao bì sinh độc. Ví dụ: trong
bai bì chất dẻo có các phụ gia như dung môi, mực in, chất hóa dẻo thường chứa các kim
loại nặng như: Pb, Mn, As, là những tác nhân làm thực phẩm bị nhiễm độc, hay trường
hợp thực phẩm đồ hộp sinh H2S nó sẽ phản ứng với lớp thiếc hay oxit thiếc tạo ra SnS,
muối Fe2+, H2 làm cho thực phẩm sẫm mầu và có mùi tanh.
Phải đảm bảo vệ sinh: Bao bì phải đảm bảo không bị nhiễm bẩn bởi các tác nhân
vật lý, hóa học, sinh học từ môi trường ngoài làm hư hỏng sản phẩm thiệt hại cho nhà sản
xuất và ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng. Ví dụ: ánh sáng, oxy không khí, các
chất từ xăng dầu. Bao bì cũng phải bảo vệ sản phẩm không bị phân tán, rơi vãi ra môi
trường làm ô nhiễm môi trường. Các yêu cầu đó phụ thộc nhiều vào cách thức bao gói,
tình trạng vệ sinh trong công đoạn bao gói gồm vệ sinh phòng ốc, bụi, gió, công nhân, vi
trùng. Do vậy cần phải làm tốt công tác này.
Giữ độ ẩm và chất béo thực phẩm: Bao bì phải bảo vệ không làm thay đổi độ
ẩm thực phẩm. Vì độ ầm ổn định thì không những giữ được giá trị cảm quan cao nhất mà
còn đảm bảo sự ổnđịnh không hư hỏng đối với thực phẩm khô. Cấu trúc thực phẩm
thường chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của độ ẩm. Trong trường hợp thực phẩm được bảo quản
do làm khô thì độ ẩm quyết định tính ổn định của thực phẩm. Trường hợp ngoại lệ ở hoa
tươi, trứng thì bao bì cần sự thoát ầm do sự hô hấp sinh ra.
Giữ khí và mùi:
+ Mùi hấp dẫn của thực phẩm cần được bảo vệ không thoát ra bên ngoài để ổn
định được lâu dài phẩm chất. Tuy nhiên các loại vật liệu đơn thuần sẽ không đủ kín để
giữ mùi, do vậy khi chọn bao bì cần kết hợp một số loại vật liệu thích hợp để có thể đáp
ứng được yêu cầu. Ví dụ: sản phẩm trà,cà phê được giữ trong bao bì nhiều lớp
(xelophan/PE/giấy/keo/lớp nhôm/PE)
+ Bao bì còn phải không thấm mùi từ bên ngoài vào thực phẩm.
+ Một số loại thực phẩm cần sự vắng mặt của oxy hay sự hiện diện của một số
nồng độ thích hợp CO2, N2O bao bì cần phải có khả năng bảo vệ ngăn sự thấm của các
khí này.
+ Bao bì phải không sinh ra mùi có thể làm biến đổi mùi của thực phẩm, ví dụ
plastic chứa các dung môi, các chất phụ gia có phân tử nhỏ để làm thoát ra một lượng nhỏ
chất mang mùi làm ảnh hưởng đến chất lượng thực phẩm.
Bảo vệ tính nguyên vẹn của sản phẩm : Yêu cầu này để thông tin với khách
hàng sự đảm bảo phẩm chất bên trong của bao bì là nguyên vẹn chưa sử dụng hay đánh
tráo sản phẩm có chất lượng khác. Để đảm bảo tính nguyên vẹn của sản phẩm người ta sử
dụng các biện pháp in ấn.
Bảo vệ sản phẩm khi va chạm: vận chuyển thực phẩm thường có va chạm gây đổ
vỡ, hư hỏng sản phẩm. Bao bì phải đủ sức chịu lực, dùng đệm lót hoặc tạo cấu trúc hình
dạng thích hợp cho phép gia tăng khả năng chịu va chạm của sản phẩm.
1.4.2 Yêu cầu về marketing
Màu sắc của bao bì cần bắt mắt và phù hợp với yêu cầu sản phẩm bên trong: ích
màu sắc gồm màu nền, màu của các biểu tượng, hình ảnh, chữ viết. Chúng ta chọn màu
cho từng phần trên sao cho khi kết hợp lại nó có ảnh hưởng tốt đến tâm lý người tiêu
dùng.
Kiểu dáng kích cỡ cần thích hợp và thẫm mỹ: Yếu tố này còn liên quan đến sự
tiêu hao vật liệu bao bì trên một đơn vị sản phẩm, tiêu hao không gian chứa trong kho,
hay không gian vận chuyển.
Yêu cầu thông tin trực tiếp lên sản phẩm: Bao bì cần được in ấn bên ngoài để giới
thiệu sản phẩm, nhà sản xuất chịu trách nhiệm trước người tiêu thụ và trước pháp luật về
sản phẩm của mỉnh. Các thông tin có thể in trực tiếp hoặc dán nhãn in trên bao bì gồm:
tên sản phẩm, tên công ty, trọng lượng tịnh, phương pháp chế biến, cách bảo quản, cách
sử dụng,giá trị dinh dưỡng, hạn sử dụng, giá cả, cách xác nhận về ISO, HACCP, cơ quan
đăng ký chất lượng.
1.4.3 Yêu cầu bán hàng
Bao bì và hình thức bao gói phải tạo điều kiện thuận lợi nhất cho việc: vận
chuyển, bảo quản và mua bán.
Bao bì sử dụng cần phải:
+ Dễ nhặt lên và cầm trên tay
+ Kích cỡ vừa vào tủ, giá, tủ lạnh
+ lượng của một đơn vị sản phẩm phù hợp với nhu cầu người tiêu dùng
Giá cả phải hợp lý và phù hợp với sản phẩm bên trong
1.4.4 Yêu cầu của người mua hàng
Các ký, mã hiệu trên bao bì
+ Phải ghi đầy đủ các ký hiệu, mã hiệu.
+ Phải thể hiện các thông tin như loại sản phẩm, nhà sản xuất,chất lượng, số
lượng, giá cả.
+ Phải rõ ràng không gây khó đọc, khó hiểu cho người tiêu dùng
+ Phải ấn tượng để người mua dễ nhận ra sản phẩm cho những lần sau.
Hấp dẫn được sự chú ý: phải kết hợp hài hòa giữa màu sắc, hình ảnh và chữ viết.
Màu sắc: có màu nền, màu của các biểu tượng, hình ảnh, chữ viết.
Sự quen thuộc của bao bì giúp cho người mua nhận ra sản phẩm
Sự thuận tiện, thuận lợi trong bảo quản,vận chuyền và sử dụng
1.4.5 Yêu cầu theo tiêu chuẩn nhà nước
TCVN 4736; TCVN4869-89; TCVN 4870-89; TCVN 5117-90; TCVN 4291-86;
TCVN 5513-1991; TCVN 4736-89; TCVN 5512-1991 về một số loại bao bì và quy định
đo lường chất lượng trong khâu bao gói.
Tiêu chuẩn an toàn vệ sinh vật liệu bao bì chứa đựng thực phẩm được ban
hành trong “danh mục tiêu chuẩn vệ sinh đối với lương thực thực phẩm “ theo quyết
định số 067/ 1998/QĐ-BYT của Bộ trưởng bộ y tế ngày 4/4/1994
1.4.5.1 Qui định hàm lượng kim loại trong vật liệu làm bao bì
Vật liệu làm bao bì Tên chỉ tiêu Tiêu chuẩn
Kim loại Pb < 5%
Sb ( Antimon ) < 5%
Phẩm màu dùng Theo danh mục các Dung dịch ngâm
trong BB phẩm màu cho phép của Bộ không làm hoà tan phẩm
y tế màu
1.4.5.2 Qui định hàm lượng kim loại nặng trong vật liệu bao bì dạng PE,
PP,PET,PVC
Vật liệu làm bao bì Tên chỉ tiêu Tiêu chuẩn
PE , PP, PET, PVC Pb < 100mg/kg
cadimi < 100mg/kg
1.5 Các căn cứ để lựa chọn bao bì thực phẩm
Hiện nay bao bì được sản xuất từ rất nhiều loại nguyên liệu khác nhau. Công
nghiệp bao bì càng phát triển, người ta càng sản xuất ra nhiều loại bao bì siêu việt bằng
cách ghép nhiều loại vật liệu với nhau hoặc bổ sung phụ gia vào trong quá trình sản xuất.
nếu chọn bao bì bao gói sản phẩm không thích hợp thì sẽ có sự tương tác giữa sản phẩm
và bao bì hay các chất độc phát tán từ bao bì vào thực phẩm làm thực phẩm bị nhiễm độc.
1.5.1 Bản chất của thực phẩm
Thực phẩm có nguồn gốc từ động vật hay thực vật; tươi khô hay đông lạnh; trạng
thái gì, sản phẩm ăn liền hay bán thành phẩm thì thành phần hóa học khác nhau. Những
tính chất đặc biệt của sản phẩm sẽ quyết định tính chất bao bì.
1.5.2 Hình dạng và kích thước của sản phẩm
Hình dạng của sản phẩm và kích thước của một đơn vị sản phẩm bao nhiêu cũng
là yếu tố chính để quyết định chọn vật liệu làm bao bì và cách bao gói.
1.5.3 Độ chắc của sản phẩm
Chọn bao bì theo quy luật: độ bền chắc của bao bì tỉ lệ nghịch với độ bền chắc của
sản phẩm. Đối với sản phẩm bảo quản trong kho phải sắp chồng thành nhiều lớp, với sản
phẩm không bền thì ta phải sử dụng bao bì bao gói ngoài chắc chắn, chịu lực cơ học,
giảm sóc, giảm rungg. Ví dụ bánh quy là loại rất dễ hỏng do tác động cơ học nên người ta
sử dụng hộp cacton hoặc hộp kim loại để bao gói.
1.5.4 Độ nhạy của thực phẩm với hơi nước và không khí
Đối với những sản phẩm nhạy cảm với hơi nước và không khí thì bao bì cần phải
ngăn cản được chúng.
1.5.5 Độ nhạy với ánh sáng của thực phẩm
Đối với những sản phẩm nhậy cảm với ánh sáng cần sử dụng những bao bì có màu
sắc tối. Ví dụ bánh ngọt giàu chất béo
1.5.6 Bảo vệ sự thoát dầu của sản phẩm
Lipit là một trong những thành phần quan trọng quyết định tính chất cảm quan và
thành phần dinh dưỡng của thực phẩm. Khi bảo vệ sản phẩm lâu ngày, lipit trong sản
phẩm dễ bị tiết ra, vì vậy với những sản phẩm giàu lipit thì bao bì phải không thấm dầu để
bảo tồn được thành phần này.
1.5.7 Tính chất hóa học của bao bì
Với những loại bao bì hoạt động hóa học thì chỉ bao gói cho nhưng sản phẩm trơ
về mặt hóa học và ngược lại những sản phẩm hoạy động hóa học thì nhất thiết bao bì phải
trơ.
Ngày nay với công nghệ tiên tiến, người ta chế tạo ra các loại bao bì nhiều lớp
hoặc bổ sung các chất phụ gia để tăng thêm sự tiện lợi cho bao bì.
1.5.8 Độ bền nhiệt của bao bì
Tùy điều kiện bảo quản và sử dụng sản phẩm ở nhiệt độ tấp hay cao mà ta chọn
vật liệu cho thích hợp để tránh các hư hỏng do sản phẩm hay bao bì gây ra.
Để có được bao bì tiện lợi trong vận chuyển và đảm bảo chất lượng hàng hóa bên
trong, ta cần quan tâm đến quy định chung về ký hiệu bằng hìn vẽ cho bao bì như một
ngôn ngữ riêng dành cho lĩnh vực này
1.6.3.1. Quy cách ký hiệu, ý nghĩa
Các ký hiệu được in trực tiếp trên bao bì đơn vị gửi đi không bắt buộc đóng khung
đậm cho các ký hiệu
+ Màu sắc của ký hiệu
Màu sắc dùng cho ký hiệu phải là màu đen. Nếu màu của bao bì làm cho màu đen
của ký hiệu không rõ thì nên chọn màu sắc tương phản, thích hợp làm nền. Phải tránh các
màu có thể nhầm lẫn với màu của nhãn hàng hóa thuộc loại nguy hiểm. Tránh dùng màu
đỏ, da cam hoặc vàng, trừ khi có yêu cầu đặc biệt
+ Kích thước của ký hiệu
Chiều cao thông thường của ký hiệu là 100mm, 150mm hoặc 200mm
Tuy nhiên tùy theo kích thước và hình dạng của bao bì có thể sử dụng các ký hiệu
có kích thước lớn hơn hoặc nhỏ hơn
12 Dấu hiệu
không được
kẹp
Ngày nay giấy chiếm hơn phân nửa trong tổng số nguyên liệu để làm bao bì. Giấy
được sử dụng phổ biến bởi một số tính chất đặc trưng như:
+ Tính bền cơ học (dù không bằng các vật liệu khác)
+ Nhẹ
+ Dễ phân hủy nên không gây ô nhiễm môi trường
+ Tái sinh dễ dàng
Bên cạnh đó, giấy có những khuyết điểm như:
+ Dễ rách, thấm nước, thấm khí. Tính dễ xé rách càng cao khi hàm ẩm càng cao
+ Độ ẩm cho phép bảo đảm tính bền của giấy là 6 ÷ 7%
+ Không thể niêm phong bằng nhiệt
Quy cách của giấy được quy định bởi trọng lượng trên một đơn vị diện tích giấy:
g/cm2
Để tăng độ bền cơ cho giấy, người ta thường ghép nhiều loại giấy lại với nhau.
Các loại giấy có chất lượng khác nhau là do sự kết hợp với những loại nguyên liệu khác
nhau. Giấy là vật liệu bao bì lâu đời không gây độc hại môi trường, đã được xử lý để tăng
cường tính kháng hơi ẩm, chống oxy hóa, kháng vi khuẩn, chống dính, khó cháy, chống
thấm nước, bề mặt có độ trượt cao, độ bóng cao, chống thấm chất béo.
Tùy đặc điểm, tính chất, thành phần hóa hóc cuả từng loại thực phẩm mà ta chọn
loại giấy cho thích hợp để sản xuất bao bì
+ Các loại thực phẩm dạng rắn, khô cho phép dùng giấy thường để bao gói.
+ Các loại thực phẩm ẩm, bán ẩm nhạy cảm với hơi nước, ánh sáng và oxy không
khí cần dùng các loại giấy đặc biệt như giấy tráng sáp, giấy phủ kim loại hoặc mạng
mỏng polime để bao gói.
2.1.2 Giấy sulphit
thân tạo thân lon. Nhôm tấm được dùng phương pháp dập và vuốt tạo thân dính liền đáy;
do đó tạo nên đặc điểm về độ dày lon: có những vùng có độ dày khác nhau như đáy có độ
dày cao nhất, thân trụ có độ dày thay đổi mỏng dần về phía bụng lon, cổ lon nơi ghép có
độ dày cao hơn phần bụng.
Một đặc điểm quan trọng của Al là chống được tia cực tím do đó ngoài dạng lon,
nhôm còn được dùng ở dạng lá nhôm ghép với các vật liệu khác như plastic để bao gói
thực phẩm, chống thoát hương, chống tia cực tím. Nhôm được sử dụng làm bao bì thực
phẩm có độ tinh khiết từ 99 – 99.8 %.
Ở dạng lá, nhôm có thể có độ dày như sau: 7, 9, 12, 15 và µm. Nhôm dùng để chế
tạo lon hộp có độ dày khoảng 360 µm đến 320 µm (0.32mm)
Nhôm được gia công thành màng mỏng, trên bề mặt màng nhôm thường xuất hiện
các lỗ nhỏ có đường kính từ 1 đến 80 micron. Số lượng lỗ tùy thuộc vào độ dày của màng
nhôm.
Bảng: Số lỗ của lá nhôm tương ứng/ 1m2
Độ dày của lá nhôm Số lỗ trên 1m2
(micron)
9 260
12 230
15 210
20 170
25 0
> 25 0
Lá nhôm thường được dùng bao gói các loại kẹo, chocolate, phomat do tính mềm
dẻo của lá nhôm, lá nhôm có thể áp sát bề mặt các loại thực phẩm này, ngăn cản sự tiếp
xúc với không khí, vi sinh vật, hơi nước. Do đó màng nhôm thích hợp để bảo quản các
thực phẩm giàu protein, giàu chất béo chống sự oxy hóa bởi O2 và ngăn ngừa sự tăng độ
ẩm, khiến vi sinh vật không thể phát triển. Ngày nay có thể dùng bao bì plastic thay thế
màng nhôm để bao gói chocolate hoặc kẹo, phomat, nhưng bao bì phải được ghép mí kín
và rút chân không để tạo sự áp sát bao bì vào bề mặt thực phẩm.
2.2.2 Ưu điểm và nhược điểm của bao bì nhôm
Hạn chế của bao bì nhôm:
Dễ móp méo, không sử dụng được cho sản phẩm thanh trùng.
Hiện nay OPP có thể thay thế hoàn toàn cellophan và còn có những tính chất ưu
việt hơn cellophan trong lĩnh vực bao bì.
2.4 Bao bì
nhiều lớp
2.4.1 Ứng
dụng
Màng nhựa phức hợp hay còn gọi là màng ghép là một loại vật liệu nhiều lớp mà
ưu điểm là nhận được những tính chất tốt của các loại vật liệu thành phần.
Người ta đã sử dụng cùng lúc (ghép) các loại vật liệu khác nhau để có được một
loại vật liệu ghép với các tính năng được cải thiện nhằm đáp ứng các yêu cầu bao bì. Khi
đó chỉ một tấm vật liệu vẫn có thể cung cấp đầy đủ tất cả các tính chất như: tính cản khí,
hơi ẩm, độ cứng, tính chất in tốt, tính năng chế tạo dễ dàng, tính hàn tốt… như yêu cầu đã
đặt ra.
Tính chất cuối cùng của một loại vật liệu nhiều lớp phụ thuộc nhiều vào những
tính chất của các lớp thành phần riêng lẻ.
Màng ghép thường được sử dụng rộng rãi làm nguyên liệu cho bao bì thực phẩm,
dược phẩm… Sự hình thành màng ghép là việc kết hợp có chọn lựa giữa màng nguyên
liệu ban đầu, mực in, keo dán, nguyên liệu phủ... sử dụng các phương pháp gia công có
nhiều công đoạn, đa dạng.
Về mặt kỹ thuật vật liệu ghép được ứng dụng thường xuyên, chúng đạt được các
yêu cầu kỹ thuật, các yêu cầu về tính kinh tế, tính tiện dụng thích hợp cho từng loại bao
bì, giữ gìn chất lượng sản phẩm bên trong bao bì, giá thành rẻ, vô hại …
2.4.2 Cấu trúc
Các polymer khác nhau được sử dụng tùy thuộc vào vai trò của chúng như là lớp
cấu trúc, lớp liên kết, lớp cản, lớp hàn.
Lớp cấu trúc: đảm bảo các tính chất cơ học cần thiết, tính chất in dễ dàng và
thường có cả tính chống ẩm. Thông thường đó là những loại nhựa rẻ tiền. Vật liệu được
dùng thường là LDPE, HDPE, EVA, LLDPE, PP (đối với những cấu trúc mềm dẻo) và
HDPS hay PD (đối với cấu trúc cứng).
Các lớp liên kết: là những lớp keo nhiệt dẻo (ở dạng đùn) được sử dụng để kết hợp
các loại vật liệu có bản chất khác nhau.
Các lớp cản: được sử dụng để có được những yêu cầu đặc biệt về khả năng cản
khí và giữ mùi. Vật liệu được sử dụng thường là PET (trong việc ghép màng), nylon,
EVOH và PVDC.
Các lớp vật liệu hàn: thường dùng là LDPE và hỗn hợp LLDPE, EVA, inomer,…
Một số loại màng phức hợp:
2 lớp: BOPP/PE; PET/PE; BOPP/PP; NY/PE
3 lớp: BOPP (PET)/PET (M)/PE; BOPP (PET)/Al/PE
4 lớp: BOPP (PET)/PE/Al/PE; Giấy/PE/Al/PE
5 lớp: PET/PE/Al/PE/LLDPE
2.4.3 Các phương pháp tạo màng phức hợp
Sơ đồ ghép màng
Có ba phương pháp tráng ghép màng cơ bản thường được ứng dụng trong sản xuất
bao bì mềm, trong đó mỗi phương pháp bao gồm các dạng riêng của chúng:
Tráng ghép đùn: đùn đơn, đùn trước và sau, đùn kép.
Ghép khô: ghép có dung môi, ghép không dung môi và ghép kết hợp.
Ghép ướt.
Phương pháp ghép ướt
Ở phương pháp ghép ướt là phương pháp ghép bằng keo, tại thời điểm ghép hai
lớp vật liệu với nhau chất kết dính (keo) ở trạng thái lỏng. Đây là phương pháp ghép được
sử dụng khá rộng rãi đặc biệt ứng dụng nhiều nhất khi ghép màng nhôm với giấy.
Keo sử dụng trong phương pháp ghép này là dạng keo polimer nhân tạo gốc
nước.Trong quá trình ghép keo ở trạng thái lỏng chúng sẽ thẩm thấu qua một lớp vật liệu
và bay hơi sau đó.
Keo được tráng lên lớp vật liệu 1 ít có tính thấm nước hơn, sau đó ngay lập tức
được ghép với lớp vật liệu thứ 2. Bộ phận ghép gồm cặp lô trong đó có một lô được mạ
crom và một lô cao su. Sau khi ghép nước chứa trong keo sẽ bay hơn tại đơn vị sấy, keo
khô tạo kết dính giữa hai lớp vật liệu.
Phương pháp ghép khô
Ghép khô không dung môi:
Là phương pháp ghép bằng keo, như tên công nghệ đã chỉ ra, kỹ thuật ghép màng
không dung môi không sử dụng tới các loại keo có gốc dung môi mà sử dụng loại keo
100% rắn. Nhờ đó ta có thể giảm một cách đáng kể việc tiêu thụ năng lượng tiêu tốn cho
các công đoạn sấy khô dung môi trong keo hoặc cho việc thổi và thông gió.
Keo được sử dụng là loại keo 1 hoặc 2 thành phần, loại keo một thành phần được
dùng chủ yếu để ghép với giấy.
Để ghép bằng keo không dung môi, đòi hỏi phải có bộ phận tráng keo đặc biệt,
bằng cách dùng trục tráng keo phẳng thay vì trục khắc, gồm các trục được gia nhiệt và
các trục cao su.
Sức căng bề mặt của màng phải được chú ý đặc biệt, để xử lý độ bám dính, vì độ
bám dính ban đầu của keo rất yếu khi chưa khô. Lớp keo được tráng vào khoảng từ: 0.8-
1.5g/m2.
Sức căng bề mặt của màng phải được chú ý đặc biệt, để xử lý độ bám dính, vì độ
bám dính ban đầu của keo rất yếu khi chưa khô. Lớp keo được tráng vào khoảng từ: 0.8-
1.5g/m2.
Các ưu điểm của công nghệ ghép màng không dung môi như sau:
Giảm được tiếng ồn do bởi không có hệ thống thông gió
Không còn sót dung môi trong lớp màng đã ghép, do đó rất thích hợp cho
việc dùng làm bao bì thực phẩm, dược phẩm.
Không gây ô nhiễm không khí
Chi phí đầu tư thấp
Các loại thực phẩm như kẹo, sản phẩm ăn liền được đóng trong bao bì plastic. Bao
bì có thể được xé nhanh một cách dễ dàng nhờ làm bằng bao bì ghép có lớp OPP ngoài
cùng và có một vết cắt nhỏ ở bìa hay vết răng cưa ở đầu hàn dán mí bao bì, do đó không
cần dùng dụng cụ cắt như dao kéo.[1, 49]
Màng OPP chính là màng PP cải tiến, cũng thuộc dạng homopolyme, công thức
phân tử:
Tương tự như PP, nhưng màng OPP được định hướng theo cả hai chiều thẳng góc
nhau trong quá trình chế tạo: phương dọc theo chiều dài của
màng được đùn ép và phương ngang thẳng góc với chiều dọc của
màng (do sự định hướng cả hai chiều nên trước đây
được gọi là BOPP:Bi-oriented polypropylene) và hiện
nay chỉ dùng từ OPP.
Đặc tính
Do được chế tạo đặc biệt có sự định hướng hai chiều, nên các mạch polymer có
khả năng tạo vùng kết tinh tăng cao, tạo nên tính chất đặc biệt khác PP và các loại plastic
khác là:
Tính bền cơ học cao (bền xé và bền kéo đứt)
Đặc biệt khả năng bị xé rách dễ dàng khi có một vết cắt hoặc một vết thủng nhỏ
OPP có tỉ trọng gần tương đương với PP: 0.902-0.907 g/cm3
OPP có độ trong suốt, độ bóng bề mặt cao hơn PP, tiếng kêu khi vò cũng trong và
thanh hơn PP
OPP có tính bền nhiệt tương tự như PP
OPP có tính chất chống thấm o2, khí và hơi cao hơn so với PP. Do đó OPP được
chế tạo dạng màng đễ ghép tạo lớp ngoài cùng cho bao bì nhiều lớp để nhằm tăng tính
chống thấm khí hơi và dễ xé rách để mở bao bì (do có tạo sẵn một vết đứt) và tạo độ bóng
cho bao bì
2.5.2. PP (Polypropylene)
Polypropylene (PP) có mối quan hệ gần nhất với PE. Cả hai thuộc họ polyolefin,
được hình thành từ những nguyên tử C và H. Trên thị trường PP được sản xuất ở hai dạng
chính: homopolyme (chuỗi polymer của propylene) và dạng copolymer với ethylene, một
số mắc xích của chuỗi polymer được thay thế bằng ethylene.
Polyme có cấu trúc cân đối được sản xuất bằng xúc tác lập thể đặc hiệu được gọi
là thể Isotactic, tên này xuất phát từ cấu trúc khá đặc biệt: nhóm methyl luôn ở vị trí
giống nhau dọc theo nhánh polymer. Những nguyên tử C tự sắp xếp vào một chuỗi xoắn
ốc với nhóm methyl nằm bên ngoài, hai dạng cấu trúc của thể isotactic
Loại isotactic có cấu trúc cân đối và chặt khít trong khi loại atactic thì có sắp xếp
ngẫu nhiên.
Hai loại cầu trúc khác là syndiotactic và stereoblock loại syndio tactic có nhóm
CH3 phân bố xen kẽ đều đặn ở hai bên của mạch chính. Những polymer stereoblock có
thể có sự nghịch chuyển không bình thường và trở thành loại polymer isotactic
1400C, không thuận lợi như PE và có thể gây chảy hư hỏng cấu trúc các lớp màng ghép
phía ngoài
Màng PP có tính chống thấm khí hơi rất tốt, chống thấm chất béo tốt.
Màng PP có tính bền cơ học cao, khá cứng vững, không mềm dẻo như PE, không
bị kéo giãn dài do đó được chế tạo thành sợi, dệt thành bao bì đựng lương thực.
Màng PP cho khả năng in ấn cao, nét in rõ.
Ứng dụng của PP
Dùng làm bao bì một lớp chống thấm nước, hơi, khí CO 2 chứa đựng bảo quản
thực phẩm, nếu yêu cầu chống oxy hóa một cách nghiêm ngặc thì dùng màng PP có độ
dày cao khoảng 25-30 μm
PP cũng được sản xuất dạng màng ghép cùng với nhiều loại màng vật liệu khác để
đảm bảo tính chống thấm khí, hơi, dầu, mỡ…[1, 205]
2.5.3. PE (Polyethylene)
Được sản xuất từ sự trùng hợp khí ethylene C 2H4 tạo thành mạch polymer (-CH2-
CH2-)n. Tùy mục đích sử dụng có thể pha các phụ gia vào PE như chất TiO 2 để tạo độ
đục, C để tạo màu đen ngăn chặn ánh sáng thấy được, các tác nhân trượt, chất làm chậm
cháy hoặc chất màu
PE được phân thành ba nhóm chính theo khối lượng riêng như sau:
LDPE 0.91-0.925 g/cm3
MDPE 0.926-0.94 g/cm3
HDPE 0.941-0.965 g/cm3
LLDPE 0.92 g/cm3
Plastic PE được sử dụng với tỷ lệ cao nhất so với tổng lượng plastic được sử dụng
hằng năm (khoảng 40-50%) trong đó số lượng ba loại LDPE, LLDPE,HDPE được sử
dụng với tỷ lệ gần tương đương nhau
Cấu trúc của PE
Cấu trúc của mạch polyethylene có thể không mang nhánh
-CH2- CH2- CH2- CH2- CH2- CH2-
Hoặc mang nhánh với các mạch nhánh có thể dài và ngắn khác nhau và sự phát
sinh nhiều mạch nhánh sẽ ngăn cản sự phát sinh độ dài của mạch chính
Đặc tính của màng bao bì LDPE và LLDPE
Màng LDPE và LLDPE trong suốt hơi có ánh mờ, có bề mặt bóng láng, mềm dẻo.
Tính chống oxy hóa kém nên không dùng làm bao bì chống oxy hóa.
LLDPE có tính bám dính thấp so với PVC và EVA nên không thuận tiện khi làm
màng co, có thể cấu tạo màng ghép với LLDPE làm lớp ngoài và LDPE làm lớp trong để
tạo được màng tăng tính bền tác động cơ học, hoặc pha trộn LLDPE và EVA để làm
màng co bọc thực phẩm
LDPE có điểm mềm thấp hơn 100 0C, do đó không thể sử dụng làm bao bì thực
phẩm có thanh trùng, tuyệt trùng bằng hơi nước hoặc sấy bằng không khí nóng khoảng
1000C nhưng LDPE có tính hàn dán nhiệt dễ dàng cho nên được dùng làm lớp trong các
bao bì ghép để dễ hàn kín, nhiệt độ hàn kín xấp xỉ 110 0C trong khi LLDPE rất khó hàn
dán nhiệt
Khả năng in ấn trên bề mặt PE không cao, dễ bị nhòa nét in do màng PE có thể bị
kéo dãn…
Công dụng của màng bao bì LDPE và LLDPE
LDPE thường dùng làm lớp lót trong cùng của bao bì ghép nhiều lớp đễ hàn dán
dễ dàng do nhiệt độ hàn thấp, mối hàn đẹp, không bị rách cấu tạo bao bì sao cho (do
plastic bên ngoài có nhiệt độ hàn cao hơn nhiệt độ hàn PE) khi tiếp xúc trực tiếp với bộ
phận hàn mối hàn sẽ không bị nứt và rách.
Có thể dùng làm lớp phủ bên ngoài của các loại giấy, bìa cứng, giấy bìa carton
gợn sóng để chống thấm nước, hơi nước.…[1, 196]
2.5.4. PET (Polyethylene terephthalate)
PET thuộc nhóm polyester là loại copolymer được chế tạo bởi phản ứng trùng
ngưng. Tên viết tắt PET để chỉ loại polyester đã sử dụng ethylene glycol làm chất nền
khởi đầu cho quá trình trùng hợp. Tương tự đối với loại polyester được viết tắt là PBT thì
chất buthyleneglycol là chất khởi đầu. PET còn có tên thương mại là Mylar, Milinex,
Hoslaphane và Terphane.
PET là loại vật liệu plastic quan trọng dùng làm bao bì thực phẩm. PET được sản
xuất từ phản ứng trùng ngưng giữa ethylene (TPA) dưới áp suất thấp. Phản ứng trùng
ngưng tạo PET như sau:
Các monomer tham gia phản ứng trùng ngưng tạo nên PET đều có hai nhóm chức
như: OH trong ethyleneglycol và COOH trong TPA và nhóm COOH 3 trong DMT. Sự
trùng ngưng tạo nên phân tử polymer mạch dài, các phân tử H 2O hoặc CH3OH được loại
tùy thuộc monomer tác chất.
Tính trong suốt, tính bền cơ và tính mềm dẻo được tăng lên khi màng PET được
định hướng hai chiều. Do đó trong thực tế sản xuất và áp dụng, từ PET được dùng để chỉ
màng PET đã được định hướng hai chiều bởi vì PET không định hướng không thể được
ứng dụng phổ biến vì một số tính năng kém.
Tính chất
PET là một loại bao bì thực phẩm quan trọng có thể tạo màng hoặc tạo dạng chai
lọ bởi có các tính chất:
- Tỉ trọng: 1,4
- Bền cơ học cao, có khả năng chịu đựng lực xé và lực va chạm, chịu đựng sự mài
mòn cao, có độ cứng vững cao.
- Trơ với môi trường thực phẩm.
- Trong suốt.
- Chống thấm khí O2 và CO2 tốt hơn các loại polyelefin.
- Màng PET luôn được phủ một lớp plastic khác bên ngoài để có thể hàn dán nhiệt
ghép mí bao bì, thường dùng là PVDC nhằm đồng thời làm tăng tính chống thấm hơi
nước và khí O2, hoặc cũng có thể dùng lớp phủ PE để hàn dán nhiệt tốt (chứ không để
tăng khả năng chấm thấm khí, hơi).[1, 219]
Màng PET Xoắn
Loại màng PET này được thiết kế đặc biệt cho ứng dụng bao bì kẹo xoắn , dùng
thay thế cho giấy bóng kính trong bao bì kẹo!
Có 2 loại sản phẩm : Màng PET Bao Bì Xoắn và Màng PET Bao Bì Xoắn cách
điện (chống tĩnh điện)
Màu sắc :có màng trong và màng phủ kim loại(màu bạc).
Độ dày : 18 mic , 23 miccron
Sản phẩm thân thiện với môi trường và đã được chứng nhận phù hợp với yêu cầu
về an toàn của FDA của Mỹ và EEC từ Châu Âu về sức khỏe và môi trường.
Màng PET Bao Bì Xoắn
Tốc độ bao bì nhanh so với PVC và giấy bong kính
Màng này một mặt được phủ corona.
Màng PET Bao Bì Xoắn cách điện (chống tĩnh điện)
Loại màng này một mặt được phủ chất cách điện và một mặt còn lại trơn, không
phủ hoặc có phủ corona.
Sản phẩm có thể dung cho bao bì kẹo nóng và lạnh.[4]
2.5.5. PS (Polystyrene)
Được sản xuất từ dầu thô bằng phương pháp trùng hợp styrene. PS thì hoàn toàn
trong suốt nhưng tính ngăn cản độ ẩm và khí thấp. PS cứng nhưng độ kháng va đập thấp
vì thế người ta thường trộn nó với loại cao su tổng hợp butadien để tăng thêm độ bền va
chạm. Tuy nhiên, thêm butadien vào sẽ làm mất trong suốt và PS chịu va đập thường có
màu trắng. PS rất dễ cho các quy trình dùng sản xuất bao bì. Sự định hướng 2 chiều sẽ
làm màng PS có lực bền và tính dai cao hơn, nó được gọi là màng PS được định hướng
(OPS).[3]
Công dụng:
Dùng để thay thế Al foil trong vài lĩnh vực.
Dùng để cải thiện tính chất chống thấm của các sản phẩm sao cho
đạt sự cân bằng thích hợp của các tính chất chống thấm đặc trưng, giá thành, hình
dáng và phù hợp với các thiết bị gia công.
Tuỳ thuộc vào chiều dày của lớp mạ trên màng mà nó cải thiện thêm các tính chất
tự nhiên của màng nền. Ví dụ màng MOPP có tính chống ẩm cao hơn OPP 20 lần.
Các loại màng Metalize thông dụng:
MCPP : CPP Metalized
Yêu cầu:
Nguyên liệu plastic nhập liệu không được lẫn nước trong quá trình đùn ép, sự quá
nhiệt cũng gây hư hỏng cấu trúc của plastic, sự gia nhiệt plastic đến trạng thái nóng chảy
phải thực hiện ổn định cũng như tốc độ nhập liệu cũng đồng nhất.
Định hướng màng plastic theo hai chiều
Nguyên tắc định màng plastic để cải thiện tính năng, trường hợp OPP thì màng PP
sau khi được đùn ép từ cửa khuôn là khe thẳng được tiếp tục gia nhiệt và được kéo dãn
theo chiều dọc và chiều ngang bằng các trục lăn với tốc độ tương ứng.
Để tạo plastic ghép nhiều lớp vật liệu với nhau thì mỗi loại vật liệu được đưa qua
từng thiết bị đùn ép. Theo nguyên tắc này (hình 8.12) cho thấy ba loại vật liệu được đùn
từ các thiết bị (1), (2), (3) và theo các đường dẫn a, b, c đến khe hở thẳng tạo màng hoặc
tấm 5 lớp.
Nguyên tắc đóng gói bao bì plastic theo phương pháp dập
Từ ống trụ có thể được rọc thành hai lớp màng và các màng này có thể được ghép
với các loại plastic khác bằng phương pháp ép nhiệt hay có khối keo kết dính tạo thành
màng nhiều lớp làm bao bì thực phẩm (hình 8.18) dạng a một đường hàn thân ở giữa và
hàn đáy hàn miệng túi hoặc dạng b hai đường hàn mép thân và hàn đáy và hàn miệng túi.
[1, 241]
Cuộn bao bì đã được in nhãn hiệu sẵn, được duỗi ra va xếp thành hình khối chữ
nhật, một hệ thống tự động định lượng và đặt thực phẩm (bánh khô) lên bờ mặt băng tải,
màng plastic bao bọc thực phẩm, được cắt rời và xếp thành bao hoàn chỉnh và được hàn
đường thân và hàn mí hai đầu.[1, 253]
2.6. Vật liệu phụ
Đây là thành phần rất quan trọng góp phần hoàn thiện bao bì bao gói sản phẩm
2.6.1. Keo dán
Dùng để kết dính các bề mặt vật liệu lại với nhau. Yêu cầu của lớp keo là phải bền
chắc, kín mối ghép. Lớp keo càng mỏng thì càng tốt , tùy theo mục đích, yêu cầu của bao
bì mà ta sử dụng loại keo cho thích hợp. Trong công nghiệp bao bì và bao gói người ta
thường sử dụng các loại keo dán sau:
2.6.1.1. Keo dán thực vật
Loại keo sản xuất từ tinh bột, nhưng tinh bột được xử lý đặc biệt (như tinh bột hòa
tan, tinh bột clo hóa, các loại dextrin,…) để có chất lượng tốt. Thường nó được sử dụng
dán các bao, hộp giấy, nhãn.
Nhựa từ cây Melanorrhoca (có ở Việt Nam), nhựa cây đào lộn hột, nhựa thông…
Keo được chế biến từ cao su thiên nhiên.
2.6.1.2. Keo tổng hợp
Là loại keo có nguồn gốc từ polime. Loại keo này rất thông dụng vì giá rẻ và nó
đáp ứng được các yêu cầu về dán kín (như mức độ kín, dễ dán, tốc độ khô nhanh).
Một số loại keo
Keo phenol-formaldehit: Nhựa phenol-formaldehit là thành phần cơ bản
của nhiều loại keo, kết hợp được nhiều tính năng quý và có ứng dụng rộng rãi để dán kim
loại, gỗ, chất dẻo và nhiều loại vật liệu khác. Sau khi đóng rắn nhựa rất giòn nên thường
phải biến tính. Nhựa không biến tính dùng để sản xuất gỗ, chất dẻo bọt và vật liệu xốp.
Keo từ nhựa epoxi: Trong 25 năm trở lại đây, nhựa epoxi hầu như đã trở
thành cơ sở cho những loại keo lý tưởng. Gía thành cao của chúng đã được bù lại bằng
những tích chất quý giá và được sử dụng rất rộng rãi để dán đồ sứ, kim loại, thủy tinh và
nhiều loại vật liệu khác.
Keo PVA: Keo này thu được bằng cách trùng hợp etylenvinyl axetat, có
đặc tính là chịu lạnh, ít thấm khí nhưng không chịu được nhiệt độ cao.
2.6.2. Băng dính
Băng dính là vật liệu phụ nhằm liên kết các bộ phận của bao bì hay làm kín bao bì.
Thường người ta dùng loại keo gelatin, keo này được chế biến đặc biệt để tạo ra băng
dính có chất lượng tốt.
2.6.3. Nhãn, mác, tem
Đây là thành phần phụ không thể thiếu trên bao bì sản phẩm, nhằm cung cấp
những thông tin về sản phẩm đến người tiêu dùng đảm bảo tính pháp lý bảo vệ quyền lợi
của người sản xuất cũng như người tiêu dùng.[2]
thế chỉ có một cách để ngăn ngừa sự thừa sản phẩm đó là tắt máy ở khu vực sản xuất khi
có những cá nhân nghĩ hoặc thay thế với những công nhân tạm thời.
Một cái vật đệm cái mà họat động trên nguyê tắc của băng tải thẳng đứng và có
sức chứa tương đối lớn đi xuống bộ phận bao gói.Một cái nhà tháp truyền những gầu tải
cái mà cung cấp những sản phẩm.Những dây chuyền này đi qua một hệ thống rồng rọc
một cách độc lập và số lượng sản phẩm khác nhau sẽ được them vào hay lấy ra khỏi gàu
tải cùng một thời gian.Gầu tải chỉ có thể không tải khi một máy đống gói kết hợp họat
động.Mặt hạn chế của tháp lọai này chúng chỉ có thể được bóc hàng ở máy đóng gói cuối
cùng cái mà mất thời gian dài.
Một hệ thống được thiết kế sau cho những hạt liên tục đến băng tải liên tục và sẽ
được phân phối đến những vật đệm riêng theo một ơ chế phức tạp.Mặt hạn chế của những
bộ phận bao gói lọai này khi một trong những vật đệm bị hỏng thì máy bao gói sẽ không
cung cấp sản phẩm nữa nó họat động một cách riêng lẽ.Mặt khác máy đống gói không
họat động cò có thể do thay đổi cuộn vật liệu bao gói cái mà làm cho nó cần thiết phải tắt
máy ở máy sản xuất bởi vì vật đệm đã đầy.
3.2 Tóm tắt về phát minh
Mục đích của phát minh này là để đưa ra một phương pháp và một khu vực bao
gói .Nó sẽ cho phép những vật phẩm đến liên tục và được cung cấp đến máy bao gói càng
trực tiếp càng tốt vì vậy vật phẩm sẽ được bao gói .Nếu như việc sản xuất này trở nên
không thể làm do sự gián đọan các họat động bởi vì thay đổi cuộn vật liệu bao gói …tại
một hoặc nhiều máy bao gói thì vật phẩm sẽ được lưu trữ tạm thời khi cần thiết Trong
suốt sự gián đọan ,tất cả những máy bao gói được tắt khi những nhân viên nghĩ tạm
nghĩ,sức chứa của vật đệm tăng lên đển cho phép những vật phẩm liên tục đến. và cái
lượng vật đệm sẽ được đóng gói hết khi nhân viên quay trở lại làm việc. Hệ thống này
luôn họat động với sự dư thừa máy bao gói nghĩa là tổng sản lượng của máy đóng gói thì
phải cao hơn máy sản xuất để luôn tạo ra sản lượng dự trữ .Phương pháp mới này thì có
nhiều tiến bộ.Về cơ bản ,hầu hết những những sản lương của máy sản xuất ,những vật
phẩm đang đến được đóng gói một cách trực tiếp trên thiết bị đóng gói mà không cần di
chuyển trực tiếp qua những thùng đệm tránh sự làm bản không thể tránh khỏi bên trong
thùng đệm.Những vật phẩm được lưu trữ chỉ khi nào hòan tòan cần thiết.Những vật phẩm
được giữ trong những thùng đệm lúc đầu thì rỗng sau đó đuợc làm đầy hòan tòan hoặc
không hòan tòan.Bởi vì một thùng đệm thì kết hợp với một máy đóng gói, khối lượng cái
mà phải di chuyển xung quanh những thùng đệm riêng lẻ thì nhỏ hơn những thùng đệm
cái mà phải di chuyển xung quanh những thùng đệm trung tâm và những thùng đệm
được họat động với tốc độ không đổi .Tính đơn giản của những thiết bị chuyển hương
củng có thể phản ánh sự đáng tin cậy cao trong họat động của chúng và mức độ nhạy cảm
với hư hỏng thì cực kỳ thấp.Những thiết kế cơ bản này củng có thể họat động cho nhiều
thủ tục tiềm năng .Có sự ngược lại đối với đối với những thiết bị trước là nó sẽ không có
vấn đề thật sự khi sản lượng của máy bao gói thấp hơn sức chứa của khu vực sản xuất
.Những vật phẩm đang đến có thể được cung cấp dễ dàng thậm chí khi hai hoặc ba máy
đống gói bị giảm xuống. Có thể tháo ra một bộ đệm khi nó gặp sự cố hoặc khi nó cần làm
sạch. Đó là thời điểm phù hợp nhất có thể để làm sạch riêng rẽ từng bộ đệm sau một
khoảng thời gian đã được quy định trước và sau đó vẫn hoạt động thường mà không làm
gián đoạn hoạt động của động cơ sản xuất. Vì khối lượng của từng bộ đệm riêng rẽ nhỏ
hơn khối lượng của một bộ đệm trung tâm. Chúng có thể hoạt động chậm hơn, ở tốc độ
vừa với vật phẩm được đóng gói đi đến. Bởi đóng gói và lưu trữ tạm thời cả hai có thể
xảy ra đồng thời tại một mô đun của máy đóng gói và bộ đệm, một máy đóng gói khác, ví
dụ một trong số đó là không hoạt động. Một lợi thế khác là máy đóng gói có thể hoạt
động tại các số gia khác nhau củ đầu ra. Sauk hi sự gián đoạn được giải quyết có nghĩa là
máy ban đầu có thể hoạt động bằng 1/3 tốc độ đầu ra của nó, máy khác bằng 2/3 tốc độ
của vật phẩm đi vào bộ đệm, sau đó tăng lên 2/3 và cuối cùng là 3/3, đó là đầu ra của máy
đóng gói. Các bộ đệm được gắn vào và hoặc gỡ ra theo trình tự và trong vạch chia tương
ứng tương ứng với sự phân bố công suất của chúng. Công suất của các bộ đệm liên quan
đến máy đóng gói riêng rẽ đều như nhau. Mỗi bộ đệm được chia thành các vạch chia
riêng rẽ chẳng hạn là 4 và tải của chúng được theo dõi bằng cách xác định. Ví dụ một
trong những bộ đệm hoàn toàn lớn hơn ¼ và bộ khác hoàn toàn lớn hơn ¾…Nếu số lượng
các vật phẩm đến vượt quá tổng năng suất của máy đóng gói, chúng cần phải lưu trữ tạm
thời tuy nhiên hoàn toàn độc lập với máy đóng gói họ phải lưu trữ tạm thời, tuy nhiên
hoàn toàn độc lập với tất cả khi máy đóng gói không hoạt động. Quyết định nơi lưu trữ là
các vật phẩm cần lưu trữ. Điều ngược lại xảy ra trong quá trình dỡ, nếu năng suất hoạt
động sản xuất của tất cả các máy đóng gói vượt quá năng suất sản xuất bởi do nhiều hơn
một máy, thường là một bộ đệm nên có thể dỡ ra trong quá trình đóng gói liên tục. Qúa
trình dỡ ra giống như quá trình gắn vào đã được mô tả, chúng sẽ không hoàn toàn lấp đầy
chỗ trống của bộ đệm nhưng cố gắng sẽ phân bố các vật phẩm vào trong số các bộ đệm
được và điều này là có thể bởi vì sự chuyển hướng của máy đóng gói hoặc sự gián đoạn
của bộ đệm sẽ xảy ra tại nơi không thể đoán trước được. Điều đó hoàn toàn có thể do một
hay nhiều bộ đệm có thể gắn vào hoặc dỡ ra đồng thời ngay cả ở tốc độ khác nhau.
Phương pháp này có ý nghĩa trong quá trình sản xuất các sản phẩm phức tạp ví dụ như
chocolate với toàn bộ là các loại hạt và phải được vận hành chậm hơn. Khi các vật phẩm
cung cấp trực tiếp cho máy đóng gói thì tốc độ các băng chuyền của dòng phân phối sẽ đi
chậm hơn nhiều mặc dù năng suất cao hơn, trong quá trình này nếu cần thiết có thể dỡ bỏ
một bộ đệm, việc dỡ ra và đóng gói tương đối nhanh trong các máy đóng gói có thể tiến
hành tại cùng một sản lượng, nó có thể xảy ra ở một số máy đóng gói có nhiều bộ đệm
được dỡ ra, cơ bản phải cung cấp thêm các đệm liên kết và phù hợp với bộ đệm, tại một
tốc độ thấp hơn khi gỡ bỏ chúng khỏi máy đóng gói. Như vậy các bộ đệm cuối cùng cũng
trở thành vô tác dụng do sự khác biệt giữa hai tốc độ.
Đóng gói sử dụng các phương pháp đặc trưng của bộ đệm đó là lưu trữ tạm thời,
các vật phẩm được liên kết với máy đóng gói trong đó có sự thêm tải cho mỗi máy đóng
gói và trong mỗi bộ đệm có thể được tải thông qua tải thứ hai và dỡ ra thông qua băng
chuyền đầu ra kết quả là một loạt các s bao gồm máy đóng gói, một bộ đệm, hai tải độc
lập, một băng chuyền loại bỏ của máy đóng gói, một băng chuyền vào và một băng
chuyền loại bỏ của bộ đệm. Có một nhánh được tạo ra giữa máy đóng gói và bộ đệm
trong đó bao gồm băng chuyền đầu của nó, nghĩa là nó có thể gắn vào và dỡ ra trong máy
đóng gói tại cùng một thời điểm với băng chuyền loại bỏ của nó, vĩnh viễn máy đóng gói
không song song cũng không nồi tiếp với bộ đệm. Hai tải độc lập làm cho nó có thể
chuyển đổi qua lại giữa song song và nồi tiếp, điều này mở rộng đáng kể phạm vi vận
hành của máy đóng gói và bộ đệm, giả sử đường dây phân phối có ít nhất là hai tốt nhất
từ 3-5 mô đun. Việc tách các tải trong vùng lân cận của mỗi mô đun để đơn giản hóa việc
thiết kế của chúng và làm chức năng của chúng tương đối mạnh. Thiết kế này làm cho
chúng có thể đóng gói vật phẩm một cách trực tiếp đây là điều kiện tiên quyết trong các
nhà máy có bộ đệm nằm phía trên máy đóng gói. Công suất tổng của các bộ đệm có thể
được phân phối giống nhau mà người sản xuất mong muốn mỗi bộ đệm phải riêng rẽ để
có thể di chuyển nhẹ hơn để họ có thể vận hành ở tốc độ giống như các vật phẩm trên
băng tải liên tục hoặc dây chuyền phân phối, lợi thế khác là một số bộ đệm có thể gắn vào
hoặc dỡ xuống cùng lúc. Máy đóng gói và bộ đệm được phân bố dọc theo đường phân
phối theo một số mô đun, với mỗi mô đun tronh máy đóng gói được cung cấp các vật
phẩm độc lập trực tiếp với máy đóng gói khác hoặc gián tiếp từ bộ đệm thông qua tải
khác. Thực tế mỗi bô đệm phù hợp cho một máy đóng gói trong một thời gian cụ thể vì
mỗi bộ đệm có thể dễ dàng tháo bỏ ví dụ để làm sạch. Có thể công suất tổng của đệm đủ
cao để káo dài thời gian khi máy đóng gói đi xuống nhưng máy sản xuất vẫn tiếp tục hoạt
động, mỗi mô đun của mỗi bộ đệm có thể được gắn vào thông qua tải thứ hai bằng cách
dùng một băng chuyền đầu vào và dỡ ra khỏi máy đóng gói bằng cách dùng băng chuyền
đầu ra của bộ đệm, các bộ đệm có thể hoạt động độc lập với máy đóng gói nó hoàn toàn
là có thể do bộ đệm liên kết đầu tiên với máy đóng gói và thích ứng với vật phẩm được
cung cấp chẳng hạn cho máy đóng gói thứ ba, các tải đầu tiên có thể ở phía trên tải thứ
hai dọc theo đường phân phói với những mô đun riêng biệt, ưu điểm là ngay cả khi máy
đóng gói đang hoạt động vật phẩm có thể cung cấp trực tiếp cho máy đóng gói thông qua
tải đầu tiên. Khi một nhánh khác của máy đóng gói đi xuống dòng vật phẩm đầu tiên
không được chấp nhận có thể bị chặn bởi bộ đệm liên kết với nó hay có thể do việc bố trí
tải thứ hai nằm trên tải thứ nhất. Gíam sát điều khiển tình trạng hoạt động của từng máy
đóng, thành phần trong mỗi bộ đệm, mức độ kích hoạt bộ tải, bộ đệm và băng chuyền,
giám sát điều khiển và kiểm soát các thành phần khác nhau theo một cách đơn giản. Các
máy đóng gói và bộ đệm có thể tắt máy riêng biệt và độc lập ví dụ như để làm sạch hoặc
nghỉ định kỳ trong thời gian dài, hai tải có thể được thiết kế ở các vị trí khác nhau, có thể
đưa lên hoặc xuống phụ thuộc vào ứng dụng. Một sự kết hợp dễ dàng nhất là cả máy đóng
gói và bộ đệm có thể ở trên cùng một phía của dây chuyền phân phối, tất cả đều quan
trọng để đảm bảo rằng mỗi bộ đệm có thể được kết nối với băng chuyền loại bỏ được liên
kết với máy đóng gói
3.3 Mô tả tóm tắt bằng bản vẽ
Bản vẽ được mô tả chi tiết hơn bằng các bản vẽ hình chiếu
Hình1 là bản vẽ chi một trong những bộ phận của máy đóng gói
Hình2 là bản vẽ chi tiết khác những bộ phận trong máy đóng gói
Hình3 là bản vẽ hình chiếu cạnh của bộ phận đóng gói trong Hình 2
Hình4 là bản vẽ hình chiếu cạnh của bộ phận máy đóng gói trong Hình1
Hình5 là điểm đầu của điểm giao giữa một tải và một băng chuyền loại bỏ
Hình6 là 14 hình minh họa cho phần bao bì được minh họa trong Hình 1 ở các giai
đoạn khác nhau trong quá trình hoạt động
rộng theo hướng thể hiện bằng mũi tên. Hình 4 minh họa các băng chuyền cung cấp 3a đi
vào băng chuyền loại bỏ 7a dẫn đến máy đóng gói 1a, khi tải đầu tiên 5a ở vị trí chỉ định
đó là các đường sản phẩm bị hỏng, mặt khác nếu tải 5a hông xuống các hang ngang của
vật phẩm 10 sẽ được chuyển cho băng chuyền chuyển tiếp 4a và sẽ tiếp cận vùng tải thứ
hai 6a. Khi tải 6a được kích hoạt lần 2 sẽ chuyển vào vị trí minh họa trong Hình 4 đó là
chúng nằm trên hoặc dưới mặt phẳng đường phân phối ví dụ tải đầu tiên 5a (Hình 4)
chúng phụ thuộc vào hệ thống thiết kế, các vật phẩm sẽ đến trên bộ đệm băng chuyền đầu
vào 8a (Hình 1 và 5) và sẽ được gắn vào bộ đệm 2a. Các bộ đệm được dỡ bỏ bởi bộ đệm
băng chuyền đầu ra 9a sau đó đi thẳng trực tiếp vào băng chuyền loại bỏ 7a do đó vật
phẩm 10 có thể được dỡ xuống từ bộ đệm 2a và cung cấp cho máy đóng gói 1a. Đây là
thiết kế cơ bản và giữa các máy và bộ đệm phân phối giống nhau giữa các mô đun a, b, c,
d, bản vẽ mô tả cách sử dụng 4 mô đun a, b, c, d, số mô đun thích hợp nhỏ nhất là hai nếu
không có thể nhiều hơn tùy thuộc vào năng suất nhà máy. Các mũi tên khác nhau trong
hình 11 chỉ các hướng đi khác nhau của vật phẩm 10 có thể di chuyển mà không phải tất
cả các máy đóng gói 1a, 1b, 1c và 1d phải hoạt động đồng thời, trong thực tế có một số
mô đun sẽ được điều chỉnh cùng một lúc, vì bộ điều khiển 12 điều chỉnh tập hợp tất cả
các đơn vị a, b, c và d các tín hiệu điều khiển được dẫn đến màn hình cảm biến bằng các
mô đun cho phép chúng được theo dõi và kiểm soát, tất cả tín hiệu được thể hiện bằng
dấu chấm và đường gạch ngang, ví dụ một tín hiệu từ bộ kiểm soát 12 đến máy đóng gói
1a bộ kiểm soát 12 thông báo rằng máy đóng gói 1a đang hoạt động cho phép các điều
khiển có thể bật hoặc tắt máy do một đường dẫn đến băng chuyền loại bỏ 7a và một phần
đến tải đầu tiên 5a, một đường dẫn khác đến tải thứ hai 6a đến đệm băng chuyền đầu vào
8a, đến đệm 2a và đệm băng chuyền đầu ra 9a, chức năng của đệm 2a là theo dõi truyền
đạt và lưu vào bộ điều khiển 12 cho phép chúng có thể xác định tại bất kỳ thời gian nào
và lúc nào bộ đệm cũng gắn với vật phẩm 10. Bộ đệm 2a, 2b, 2c và 2d được chia thành
từng phần bằng nhau vì vậy bộ đệm sẽ chiếm 25% vạch chia đầu tiên, cũng tương tự như
các mô đun khác a, b, c và d chỉ có phần đầu của bộ điều khiển 12 được minh họa đơn
giản mặt dù tải thứ nhất 5 luôn nằm trên tải thứ hai 6 ở mỗi mô đun a, b, c và d được
minh họa trong bản vẽ (Hình 1), trình tự đảo ngược lại được minh họa trong Hình 2 với
mỗi tải thứ 6 nằm trên tải thứ 5, nói cách khác tải thứ 6 là phần cuối của băng chuyền
cung cấp và băng chuyền đệm đầu vào 8 cũng có thể tải cùng với băng chuyền loại bỏ 7
dẫn đến máy đóng gói 1 chúng phân nhánh từ tải đầu tiên 5. Ngược lại Hình 1 minh họa
chi tiết máy đóng gói 1a qua 1d rồi qua băng chuyền bên 3a
Thông qua 4d và bộ đệm 2a đi qua 2d ở mặt khác. Hình 2 minh họa rằng nó cũng
có thể xác định vị trí máy đóng gói 1 và bộ đệm 2 trên cùng một phía của đường phân
phối. Mặc dù hình 1 minh họa chỉ có ngăn a và b và phần đầu của ngăn c, các khái niệm
của một vài dãy sẽ rõ ràng.
Hình 3 được kết hợp với hình 2, hình 4 là cái nhìn một bên của tất cả hoặc một
phần sự biểu diễn được minh họa ở hình 1. Nó được thấy rõ từ hình 4 là tất cả các nhánh
5a và 5b, 6a và 6b, v.v có thể được nâng lên, tất cả có thể được hạ xuống, hoặc một số có
thể được nâng lên và hạ xuống phần còn lại để kích hoạt chúng. Chế độ đặc biệt làm việc
không có sự khác nhau về nguyên tắc, và tất cả những gì quan trọng là mỗi máy đóng gói
1 luôn luôn được đóng gói trực tiếp bằng dây 7 và dây đệm vào 8,từ đó mỗi bộ đệm 2 sẽ
được nâng lên bằng các mạch thứ hai 6 với dây đệm ra 9 và trở về dây 7.Sự tách rời của
dây đệm ra 9 bị giảm kể từ hình biểu diễn minh họa 2 nếu dòng quay của dây 7 của mạch
thứ nhất 5 đi qua lối thoát từ ổ đệm 2.
Chúng ta có thể thấy rõ ràng rằng khi thành phẩm 10 được chuyển tới dây cung
ứng 3 đi đến dây chuyển tiếp 4 hoặc ngược lại, thành phẩm sẽ không trượt dọc theo vành
đai.Những dây khác nhau được sắp thẳng hàng tại mỗi điểm và đưa vào vận hành, đặc
biệt vận hành theo cơ chế băng chuyền liên tục 13 ( hình 3 và 4), các hàng ngang chứa
những thành phẩm sẽ đến từ máy sản xuất đi vào quá trình đóng gói, nơi mà chúng được
chuyển tới dây chuyền cung ứng thứ nhất 3a.Mỗi lần thành phẩm 10 được chuyển tới dây
7, dây đệm vào 8, hoặc 1 dây đệm ra 9, mặt khác chúng sẽ được chạy vòng qua hướng
đối diện, vì những dây sẽ gặp nhau tại 1 góc bên phải (hình 5) và tiếp tục trượt lên các
dây đến 1 mức độ nhất định .Có thể thấy đc, do đó, cần có các chốt định vị, dù thế đôi khi
những trường hợp quá đơn giản thì không cần thiết. Mỗi lần trượt tất nhiên cũng có thể có
nguy cơ bị cọ xát các mãnh vỡ của thành phẩm có thể dẫn tới bẩn hay trục trặc kĩ
thuật.Khi đang trượt trường hợp trên cũng thường xảy ra ở một vùng lân cận của ổ đệm,
hoặc có thể xảy ra 1 lần duy nhất khi thành phẩm 10 đc chuyển trực tiếp đến máy đóng
gói 1.Loại chuyển động này cũng ko tránh khỏi khi những thành phẩm 10 đi vào bộ đệm
2, thường xuyên đi kèm với tuabin, van thu vào, hoặc những cấu trúc tương tự. Các bộ
đệm bị tắc ngẽn khi những thành phẩm làm ra không tương thích với sự vận hành của
máy , hoặc ko đáp ứng sản lượng sản xuất của nhà máy.
Lát cắt của quá trình đóng gói đã được biểu diễn trong hinh 1 và 4 là sự vận hành
và bây giờ là quá trình kiểm soát một cách tỉ mỉ trong hình 6 đến 14.
Hình 6 nói về quá trình khởi đầu.Tất cả các bộ đệm 2 đều rỗng và tất cả các máy
đóng gói 1 đều đang vận hành, nghĩa là nó có thể nâng lên những nguyên liệu đóng gói và
sẵn sàng hoạt động.Trường hợp này kết hợp với quá trình kiểm soát 12.Thành phẩm 10 sẽ
đi từ máy sản xuất đến các thiết bị chuyên chở 13 đến dây cung ứng đầu tiên 3a.Những
thành phẩm được biểu diễn dưới dạng những dấu chấm, được phân phối cách đều theo
hàng ngang.Quá trình kiểm soát bắt đầu từ máy 1a và kích hoạt các mạch thứ nhất 5a,
chuyển dòng thành phẩm đến dây curoa đầu ra 7. Từ đó dây cung ứng 3a cũng đi đến dây
chuyển tiếp 4a, 2 dòng sản phẩm kế tiếp sẽ được đưa vào.Mỗi dòng thứ 3 sẽ được chuyển
tới dây 7a và không ngừng cung cấp thành phẩm 10 vào máy đóng gói 1.Chúng sẽ được
đóng gói theo từng dãy.Có thể thấy từ những dấu chấm được biểu diễn, tất cả những dòng
thứ nhất được bỏ qua và chuyển tiếp đến dây 4a.Ở module thứ 2, máy đóng gói thứ hai
được kích hoạt, dòng sản phẩm thứ ba nằm trên dây 4d được chuyển đến máy đóng gói
1c.Mỗi máy đóng gói 1a, 1b, 1c nhận 1 dòng sản phẩm thứ ba 10 và ko có thành phẩm
nào dự trữ trên dây 1d. Tất cả các thành phẩm 10 sẽ được đóng gói trực tiếp tại máy 1a,
1b,1c.Chúng ko đc dự trữ ngay lập tức và ko đi lệch hướng ổ đệm 2a.Ví dụ với 1 hàng
gồm 18 sản phẩm đc vận hành với dây chuyền sản xuất 120 hàng / phút.Mỗi máy 1a, 1b ,
1c sẽ đóng gói 40 hàng/ ph.Chúng ta sẽ thấy ngay lập tức, khi máy 1a, 1b, 1c hạ xuống ,
dòng sản phẩm 10 thứ ba sẽ được chuyển tới máy 1d mà ko dự trữ bất cứ thứ j ở ổ đệm
2.Nó có thể thay thế 1 guồng quay trống nguyên liệu trong một máy đóng gói khi cần loại
những sản phẩm bị hư.
Có thể thấy đc, tuy nhiên, hơn 1 máy đóng gói có thể không hoạt động đc đồng
thời cùng 1 lúc.Trong trường hợp này, các thành phẩm được dự trữ tạm thời ở ổ đệm
2.Hình 7 minh họa cách mà các máy 2a, 2b,2c được nâng lên ở những mức độ khác nhau,
trong trường hợp ổ đệm 2c đã quá đầy.Hình 7 biểu diễn quá trình vận hành từ máy 1a đến
1d.Tất cả các máy đều đang vận hành và những thành phẩm 10 được đến từ các máy sản
xuất sẽ được phân phối cho các máy 1a, 1b, 1d, trong khi ổ đệm 2c ko thể nâng lên cùng
lúc vì quá đầy, với 1 số thành phẩm đã đc loại bỏ từ đó cung cấp đến máy 1c bằng dây
đệm ra 9c và kết hợp với dây 7c.Thủ tục của qui trình này đc quản lý bởi hệ thống kiểm
soát 12.Ví dụ nó có thể xảy ra một cách dễ dàng như ổ đệm 2c sẽ không nâng lên cho đến
khi nó chứa ít thành phẩm hơn ổ đệm 2a.Khi trường hợp này xảy ra, máy đóng gói 1a và
1c được dự trữ, những thành phẩm thay vì sẽ đc chuyển đến máy 1a đóng gói sản phẩm
bây giờ đc chuyển đến máy 1c, trong khi đó ổ đệm 2a không nâng đến máy 1a. Ổ đệm đc
phân cấp theo mức độ đầy của chúng, các cấp bậc đc so sánh và giữ ở mức càng giống
nhau càng tốt.Có thể thấy đc cách vận hành theo module C đc miêu tả bằng ví dụ trên đều
có thể xảy ra ở module a,b,d với những trường hợp giống nhau.
Hình 8 miêu tả ví dụ của hai máy đóng gói 1a,1d trong trường hợp đều hạ xuống,
đc nhấn mạnh bằng dấu hoa thị trong biểu đồ.Kể từ lúc hai máy ngưng vận hành, vì vậy,
những thành phẩm 10 đc trực tiếp đóng gói lần thứ 3 cùng một thời điểm trong máy đóng
gói 1a, 1b.Ổ đệm 2a đi qua 2b, sẵn sàng tiếp nhận thành phẩm 10, tại thời điểm này thì ổ
đệm 2a trở nên rỗng.Hệ thống kiểm soát 12 sẽ kích hoạt ổ đệm 2a, 1/s lần thứ 3 sẽ đc
nâng lên bằng mạch 6a thứ hai và dây đệm vào 8a.Dây đệm ra 9a sẽ không di chuyển.Ổ
đệm 2 tiếp tục tiếp nhận sản phẩm đến khi đạt đến mức độ kế tiếp, khi đầy 50%.Ngay lúc
này hệ thống kiểm soát so sánh các hoạt động bên trong của các ổ đệm và kiểm tra mức
rỗng của ổ đệm 2c.Hệ thống kiểm soát sẽ giả đinh rằng máy 1a và 1d hạ xuống, bật từ ổ
đệm 2a qua 2c.
Hình 9 miêu tả một trường hợp mà trong đó máy đóng gói 1c và 1d hạ xuống.Máy
1a và 1b nhận mỗi lần 5/8 spham đến, với 5.8 lần thứ ba sẽ đc nâng lên phần ổ đệm rỗng
nhất.Có thể nhận thấy hệ thống kiểm soát 12 phân phối thep hệ thống hàng ngang một
cách tự động và sẽ kiểm soát những thiết bị thậm chí khi không có trục trặc mới xảy ra.Sự
bật lên sẽ diễn ra ngay lập tức khi máy đóng gói bật xuống và khởi động lại.Đóng gói trực
tiếp, không dự trữ ngay tức khắc, thường đc áp dụng trong những trường hợp này.
Hình 10 miêu tả trường hợp mà trong đó ba máy 1b,1c,1d hạ xuống, chỉ vận hành
máy 1a.Đôi khi xảy ra nhìu trục trặc kỹ thuật nghiêm trọng thậm chí phải dừng hoạt động
của máy sản xuất.Hình 10 cho thấy 5/8 sản phẩm đến đc điều tiết bằng máy 1a và 2/3 tạm
thời đc lưu trữ tạm thời, để hệ thống kiểm soát kích hoạt 2 ổ đệm bị rỗng, trong trường
hợp này là 2a và 2b.Ngay sau khi ổ đệm 2b tiếp nhận đc nhìu thành phẩm 10 hơn 2c,hệ
thống kiểm soát sẽ thoát ra ổ đệm 2b và đi đến ổ đệm 2c.
Hình 11 miêu tả trường hợp mà trong đó tất cả các máy đóng gói từ 1a đến 1d đều
hạ xuống, ví dụ thường xảy ra trong suốt những kì nghỉ dài.mặc dù các máy sản xuất vẫn
hoạt động có sự hỗ trợ của con người, các máy đóng gói thì bị ngưng hoạt động.Các
thành phẩm đến đc tiếp nhận và phân phối đều giữa các máy 2a, 2b,2c và 1 ổ đệm khác
rỗng nhất. Có thể thấy đc từ những ví dụ đã nêu thì mỗi ổ đệm có thể tiếp nhận 40
dòng/ph, có thể vận hành cùng một tốc độ ở cùng 1 dây chuyền phân phối.
Hình 12 miêu tả trường hợp mà trong đó các máy đóng gói vừa khởi động lại sau
1 kì ngỉ lễ hoặc các dịp ngỉ cuối tuần.Giả định rằng nhà máy vừa sx sản phẩm một cách
khó khăn vì hệ thống máy sx chậm chạp.Giả thuyết rằng chỉ có 100 dòng / ph thay vì 120
dòng/ph. Tuy nhiên, máy đóng gói 1a vẫn có khả năng tiếp nhận và đóng gói 40 dòng/ph.
Trong trường hợp này sẽ có 5/8 sp và 33 5/8 dòng/ ph, đc chuyển trực tiếp đến máy đóng
gói 1b.Lần thứ hai 5/8 này đc đưa vào ổ đệm 2a với mức 33 5/8 dòng/ph.Lần thứ ba 5/8
đc đưa vào ổ đệm 2c với cùng một mức độ.Thành phẩm 10 sẽ ko đc nâng lên cùng 1 lúc
từ ổ đệm 2a,2c và 2d vào trong các máy 1a, 1c,1d và đặc biệt với mức độ cao hơn là 40
dòng/ph.Điều đó cho thấy theo kiểu vận hành này chỉ nâng lên đc 33 5/8 dòng/ph và ko
thể nâng lên 40 dòng/ph, nếu vận hành như ví dụ trên thì sẽ làm giảm hoạt động của máy
2a,2c,2d và có thể gây ra trục trặc kĩ thuật và làm gián đoạn qui trình.Nếu như ko có j trục
trặc xảy ra, hệ thống kiểm soát sẽ tiếp tục hoạt động theo từng bước và đóng gói sản
phẩm trực tiếp theo minh họa của H 6.Mặc dù các ổ đệm trong hình được chia thành 2
cấp và đc nâng lên ở 2 mức độ, nó vẫn có thể hoàn thành công việc đúng mong muốn.Tuy
nhiên cách phân chia 4/4 vẫn hợp lý và hiệu quả hơn.
H.13 minh họa một dạng vận hành khác với khối lượng sp thấp hơn 100
dòng/ph.Giả thiết rằng máy 1b và 1c hạ xuống.Các sp đc chia thành dạng 5/8 cho mỗi
máy, máy 1a và ổ đệm 2a và 2b.Mức độ của 3 phần này là 33 5/8 dòng/ph.Ổ đệm 2c là
đầy nhất và có thể rỗng hơn nếu vận hành 40 dòng/ph, các thành phẩm đc đóng gói ở máy
1c.
Hình 14 minh họa một dạng khác của trục trặc kĩ thuật, là 1b, 1c ,1d đều hạ xuống
và ko vận hành.5/8 thành phẩm đc đóng gói trực típ qua máy 1a.Hai phần còn lại đc đưa
vào ổ đệm 8a, 8b.Giả thiết rằng ổ đệm 2a đi xuống nhưng đã đc sửa chữa và lau chùi có
định kì.Ổ đệm 2a đc xem như bị khóa và hệ thống kiểm soát chỉ có thể kiểm tra 3 ổ đệm
còn lại.Mỗi lần ổ đệm 2a đc bảo trì và vận hành trở lại thì ta cũng phải khởi động lại toàn
bộ hệ thống.
Sáng chế này liên quan đến phương pháp đóng gói và nhiều phương pháp nữa, đặc
biệt là phương pháp đóng gói bánh kẹo, như kẹo và các loại tương tự. Một trong những
điều quan tâm là cung cấp một phương pháp mới và cải tiến phương pháp bao gói có qui
trình đóng gói nhỏ.Mục đích khác cung cấp một phương pháp bao gói với những cách
đóng gói riêng. Còn mục đích nữa là cung cấp những phương pháp bao gói mới một cách
liên tục, bằng cách sử dụng các đường băng vận chuyển vật liệu bao gói lấy từ các cuộn
tròn. Mục đích đặc biệt hơn nữa là cung cấp các phương pháp bao gói mới và phát triển
bằng cách phân vùng ở cuối dây chuyền của vật liệu bao gói như giấy, sau đó vật liệu
cung cấp cho máy hay chèn thêm các dây chuyền bao gói kẹo, khoảng trống giữa các
viên kẹo hoàn thành việc bao gói trên dây chuyền và chấm dứt giai đoạn đóng gói kích
thước bánh kẹo ở cuối dây chuyền. Các mục đích khác và lợi thế của sáng chế được mô tả
bằng các bản vẽ kèm theo, như hình 1 dây chuyền bao gói bằng giấy hay vật liệu bao bì
khác.A vật liệu cung cấp vào máy lấy từ cuộn 2 trên bề mặt vật liệu cung cấp cho máy ở
cuộn 4 và từ đó qua một tấm hỗ trợ 6. Máy phụ có một mảnh giấy ở vị trí B thì vận
chuyển vật liệu từ máy phụ lấy từ cuộn 8 từ đầu đến cuối được thiết bị kiểm soát 10 sao
cho phù hợp với máy móc vận chuyển và cuộn lại ở mép dưới vị trí 12 xảy ra cùng lúc
với mảnh giấy A. Phân chia với mảnh B và tiếp tục đóng gói ở mảnh giấy A có lớp bọc
sáp, vì vậy khi cuộn lại ở mép dưới vị trí 12 của việc phân chia với mảnh B bỏ qua sự ảnh
hưởng của nhiệt ở vị trí 14 chúng được đảm bảo mảnh giấy A và sau đó được vận chuyển
vật liệu vào máy như mảnh giấy ở vị trí A ở cuối băng chuyền hay chuyển xuống vị trí 18
từ đầu đến cuối được thiết bị kiểm soát lần 2.
Trong trường hợp này viên kẹo được vận chuyển vào vị trí 28 và phân thành viên
B và cứ tiếp tục như vậy. cách phân loại này phù hợp với các loại máy móc và thiết bị
vận chuyển vật liệu.
Ở đầu mảnh giấy D được vận chuyển vật liệu lên trên đầu viên kẹo C cung cấp
cho lớp bao gói. Ở đỉnh lớp D cũng được tiếp tục vận chuyển vật liệu ở cuộn giấy hay
nguyên liệu bao gói, không chỉ vậy nó còn phù hợp với thiết bị vận chuyển vật liệu bao
gồm vận chuyển vật liệu cuộn ở 22. Sau đó, đường mép 24 và 26 của miếng giấy A thay
thế cho lớp D rồi gói lại ở vị trí 28 và 30, phù hợp với thiết bị gói và bao gói kẹo nén chặt
các mép thành từng khúc ở vị trí 32 và 34 để viên kẹo không bị méo mó khi bao gói.
Nó thì không phù hợp với đỉnh lớp D của việc bao gói của viên ở vị trí 28 và 30
của mảnh giấy A và hoàn thành việc bao gói này, ví dụ như sự phù hợp ảnh hưởng nhiệt
độ ở vị trí 44 khi bao gói.
Sau đó việc bao gói tiếp tục công đoạn dán nhãn, việc bao gói đã được định trước
kích thước đòi hỏi hình thức cuối cùng phải phù hợp, như dao cắt ở vị trí 46 mà làm việc
ngay tức khắc vì vậy nó không cản trở động tác bao gói ở đoạn cuối của lưỡi dao. Thay vì
di chuyển lưỡi dao qua lại để tiếp tục cắt, hay phù hợp với thiết bị đang dùng.
Cũng dễ hiểu, việc bao gói ở vị trí E hoàn tất với việc dán nhãn phù hợp với kiểu
dáng. sáng chế này thì đặc biệt thích hợp để sản xuất các thanh kẹo từ nguyên liệu có tính
chất linh hoạt có thể dễ dàng cắt thành dải liên tục C và đưa vào các kênh hay không gian
được hình thành bởi các phân vùng B.
Phương pháp nói chung được mô tả có thể được thao tác trên các loại thiết bị hay
chi tiết máy khác nhau, trong đó sẽ được dễ dàng nhận ra bởi những người có kỹ năng
trong nghệ thuật.
Kết luận
Để kết thúc đề tài tìm hiểu các dạng bao bì và phương pháp bao gói kẹo em xin
trích dẫn một bài báo nói lên tình trạng sử dụng bao bì bao gói kẹo ở nước ta hiện nay,
một vấn đề tưởng chừng như đơn giản vì xưa nay khi mua một sản phẩm người tiêu dùng
chỉ quan tâm đến chất lượng, giá cả, màu sắc kiểu dáng của bao bì chứ ít ai lại quan tâm
rằng sản phẩm đó làm từ vật liệu gì, nó có tác dụng gì đối với thời gian bảo quản cũng
như tác hại ra sao khi quá hạn… cũng như phương pháp bao gói nó.
(Hiện nay các bao bì nhựa đựng bánh kẹo, thực phẩm là dùng nhựa có cấu trúc
OPP hoặc MCPP. Loại bao bì này thông thường hạn bảo quản là một năm. Tuy nhiên, các
nhà sản xuất bánh kẹo, thực phẩm thường thông tin về hạn sử dụng sản phẩm rất dài (1-2
năm). Như vậy, nếu người tiêu dùng giữ sản phẩm lâu, khả năng những thực phẩm bên
trong có an toàn do bao bì không còn tác dụng bảo quản?
Về vấn đề này, ông Nguyễn Văn Thường, Phó tổng giám đốc Công ty cổ phần
nhựa Rạng Đông - trả lời như sau:
Việc dùng bao bì để đóng gói thực phẩm có tác dụng đảm bảo an toàn cho thực
phẩm. Nếu sử dụng bao bì không phù hợp hoặc chất lượng kém có thể làm không khí
thẩm thấu vào bên trong bao bì, làm thực phẩm bị ôxy hóa, bị ẩm gây mất độ giòn, biến
mùi, hư, mốc... Tùy loại vật liệu, cấu trúc ghép màng mà quá trình thẩm thấu này có thể
nhiều hay ít, nhanh hay chậm và ảnh hưởng đến thời gian bảo quản thực phẩm. Ngoài ra,
với cùng một loại vật liệu nhưng thời gian bảo quản sẽ khác nhau tùy chất lượng vật liệu
hoặc độ dày vật liệu.
Ví dụ: Với loại bao bì OPP ghép MCPP thì thời gian bảo quản thực phẩm an toàn
nhất khoảng sáu tháng và chỉ kéo dài tối đa một năm. Trường hợp muốn bảo quản lâu hơn
phải dùng vật liệu khác. Chẳng hạn loại bao bì ghép với màng nhôm thì thời gian bảo
quản thực phẩm có thể kéo dài trên một năm, thậm chí hai năm nếu dùng màng nhôm
dày.
Tuy nhiên, thời gian bảo quản thực phẩm không chỉ phụ thuộc loại bao bì mà còn
tùy thuộc loại thực phẩm. Với một số loại thực phẩm đặc biệt (chẳng hạn có chứa chất
chua, chất dầu...) cần dùng loại bao bì phù hợp, nếu không thì chính thực phẩm sẽ ảnh
hưởng đến bao bì làm bao bì mất khả năng bảo vệ và thực phẩm bị hư.
Chính vì vậy, bao bì phải phù hợp với thực phẩm và phải được quy định chặt chẽ.
Các nhà sản xuất, chế biến tùy loại thực phẩm của mình mà chọn bao bì cũng như nhà
cung cấp bao bì phù hợp với yêu cầu, nhằm đảm bảo thời gian sử dụng thực phẩm đúng
cam kết. Người tiêu dùng nên chọn loại thực phẩm an toàn từ những nhà sản xuất có uy
tín và sử dụng theo đúng hướng dẫn. Khi mua hàng nên tránh những bao bì bị xì, rách
hoặc nhàu nát dù còn trong hạn sử dụng).[5]
Qua đây, chúng ta cũng thấy được việc lựa chọn và sử dụng bao bì rất quan trọng
không chỉ ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm mà còn là sức khỏe người tiêu dùng, thiết
nghĩ cơ quan nhà nước phải quản lý chặt chẽ hơn nữa và cần có tinh thần nhân đạo của
các nhà sản xuất kẹo nói riêng và các nhà sản xuất thực phẩm nói chung.
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
Chương 1:Tổng quan về bao bì thực phẩm.............................................................2
1.1 Định nghĩa bao bì...............................................................................................2
1.2 Chức năng của bao bì thực phẩm.......................................................................2
1.3 Phân lọai bao bì..................................................................................................4
1.4 Các yêu cầu đối với bao bì sử dụng bao gói thực phẩm.....................................5
1.5 Các căn cứ để lựa chọn bao bì thực phẩm..........................................................9
1.6 Quy cách của bao bì vận chuyển......................................................................10
Chương 2: Nguyên vật liệu sản xuất bao bì cho bánh kẹo.....................................17
2.1 Bao bì giấy.......................................................................................................17
2.2 Bao bì kim loại.................................................................................................18
2.3 Cellophan.........................................................................................................20
2.4 Bao bì nhiều lớp...............................................................................................23
2.5. Bao bì plastic...................................................................................................27
2.6. Vật liệu phụ.....................................................................................................42
Chương 3: Phương pháp đóng gói kẹo...................................................................44
3.1 Nền tảng của phát minh....................................................................................44
3.2 Tóm tắt về phát minh.......................................................................................45
3.3 Mô tả tóm tắt bằng bản vẽ................................................................................48
3.4 Mô tải các điểm được ưu tiên...........................................................................51
Lời mở đầu
2.Trần Lê Ngọc Nghĩa 1.4 Các yêu cầu đối với bao bì sử dụng bao
gói thực phẩm
1.5 Các căn cứ để lựa chọn bao bì thực
phẩm
1.6 Quy cách của bao bì vận chuyển
2.1 Bao bì giấy
Tổng hợp bài
5.Trần Thiện Nguyên Phương Chương 3: Phương pháp đóng gói kẹo