You are on page 1of 4

Tuồng ( miền Nam )

Tuồng còn gọi là hát bội, hát bộ, bộ môn nghệ thuật cổ
điển và bác học bậc nhất Việt Nam. Ðến cuối thế kỷ XVIII,
Tuồng đã phát triển một cách hoàn chỉnh về mọi mặt từ
kịch bản văn học đến nghệ thuật biểu diễn. Nếu như
Trung Quốc có Kinh kịch, Nhật Bản có kịch Noh thì người
Việt có nghệ thuật Tuồng, đến ngày nay môn nghệ thuật
này vẫn được coi là “quốc hồn, quốc túy” của Việt Nam.
Có nhiều thể loại Tuồng, như Tuồng thầy (mẫu mực),
Tuồng ngự (diễn cho vua xem), Tuồng đô (phóng tác,
tưởng tượng, không có trong sử sách), Tuồng cung đình
(diễn trong hoàng cung), tuồng pho (nhiều hồi diễn nhiều
đêm), tuồng tân thời (chuyển thể từ các tiểu thuyết),
nhưng có thể phân loại thành hai loại chính là Tuồng kinh
điển và Tuồng dân gian. Đi theo cuộc sống của con người,
Tuồng có mặt khắp ba miền đất nước. Ở mỗi vùng đất
khác nhau, tập tục sinh hoạt khác nhau nên Tuồng phải có
những thay đổi để phù hợp và hòa nhập với văn hóa vùng
đó.
Trong kho tàng nghệ thuật dân tộc, nghệ thuật Tuồng có
một phong cách rất riêng. Khác với các loại hình sân khấu
khác như Chèo, Cải lương, Tuồng mang theo âm hưởng
hùng tráng với những tấm gương nhân vật tận trung báo
quốc, xả thân vì đại nghĩa, những bài học về lẽ ứng xử
của con người giữa cái chung và cái riêng, giữa gia đình
và Tổ quốc, chất bi hùng là một đặc trưng thẩm mỹ của
nghệ thuật Tuồng. Có thể nói Tuồng là sân khấu của
những người anh hùng. Tùy theo các giai đoạn mà nghệ
thuật Tuồng có những chủ đề khác nhau. Nhưng chủ đề
nổi trội là “phò vua, diệt ngụy”. Con người với những
phẩm chất tốt đẹp đấu tranh vì chính nghĩa trong giai đoạn
này rất được yêu thích và tồn tại rất lâu sau đó vì nó chứa
đựng những nội dung đạo đức và tính nhân dân.
Những yếu tố biểu diễn chính trong Tuồng bao gồm Múa
Tuồng, Hát Tuồng và Diễn xuất. Múa Tuồng được hình
thành từ những động tác sinh hoạt và hành động tâm lý
trong cuộc sống xã hội của con người. Các thế hệ diễn
viên đã chắt lọc những động tác trong sinh hoạt, lao động
hàng ngày, tiếp thu những tinh hoa của những hình thái
múa dân gian, múa tín ngưỡng, tôn giáo, trong tế lễ, hội
hè, trong múa cung đình và trong võ thuật dân tộc để xây
dựng vũ đạo Tuồng theo một hệ thống động tác từ đơn
giản đến phức tạp. Người diễn viên Tuồng sử dụng vũ
đạo (múa), hệ thống nói lối, bài bản, làn điệu (hát) là hai
phương tiện chính để lột tả tính cách, tâm trạng của nhân
vật để cho khán giả thấy được, hiểu được... Hát Tuồng
xuất phát trên cơ sở tế lễ, tụng niệm trong nhà chùa, trong
lối kể chuyện, hát xướng dân gian; được viết theo các thể
thơ lục bát, tứ tuyệt, song thất lục bát... Hát Tuồng có một
hệ thống nhịp điệu từ nói thường chuyển sang nói lối. Nói
lối Tuồng viết theo văn biền ngẫu từ 4 đến 8 từ. Diễn xuất
trong Tuồng thường được khuếch đại hơn sự thật ngoài
đời để khán giả dễ cảm nhận. Các động tác càng nhỏ
càng nhanh, khi lên sân khấu càng cần tăng cường điệu
thì khán giả mới kịp nhận thấy. Kiểu cách đi đứng còn
dùng để biểu lộ cái “tâm” của nhân vật thiện, ác.
Nghệ thuật Tuồng mang đậm tính tượng trưng, ước lệ,
không có xu hướng tả thực mà chú trọng lột tả cái thần, là
lột tả cái cốt lõi cơ bản, không đi sâu vào những chi tiết
vụn vặt không có hiệu quả nghệ thuật. Chính vì muốn lột
tả cái thần nên phải dung thủ pháp khoa trương, cách
điệu từng lời nói cho đến động tác nhưng phải có nguyên
tắc, quy luật cụ thể. Một trong những ấn tượng của khán
giả khi xem các vở Tuồng là sự khoa trương và cách điệu,
được thể hiện trong âm nhạc và hóa trang. Việc hóa trang
khuôn mặt hay hóa trang mặt nạ của diễn viên là rất quan
trọng. Sự khoa trương, cách điệu thể hiện trên từng
đường nét, nếp nhăn trên khuôn mặt và tuân theo quy luật
âm dương. Một số mẫu chung như: vai trung mặt đỏ râu
dài, vai nịnh mặt răn râu ngắn... Kép là diễn viên nam gồm
có kép văn, kép võ, kép rừng... Đào là diễn viên nữ gồm
có đào chiên, đào lắng... Nghệ thuật Tuồng không tả chân
thật mà chỉ toàn tượng trưng, hóa trang diện mạo cho
diễn viên trong từng vai diễn. Chính nhờ sự hóa trang đó
nên khan giả nhìn sẽ biết tính cách, tâm lý, giai cấp của
từng nhân vật.
Trong dòng chảy khốc liệt của nghệ thuật giải trí hiện nay
với sự du nhập của các loại hình nghệ thuật mới được
giới trẻ hào hứng tiếp nhận, nghệ thuật Tuồng đang đi
xuống, đánh mất dần những ảnh hưởng trong đời sống
tinh thần của người Việt. Có lẽ giờ đã rất thưa thớt, những
thế hệ lớn tuổi, lớp người già ở đâu đó vẫn dành tình yêu
cho các đào kép, cho tiếng trống chầu một thời đã làm
cho họ đắm say.
Loại hình sân khấu độc đáo của dân tộc - Nghệ thuật
Tuồng, chứa đựng biết bao nét đẹp văn hóa, tinh hoa
người Việt, từng là người bạn tri âm, tri kỷ của rất nhiều
thế hệ, liệu sẽ tiếp tục tồn tại và vươn xa trong cuộc sống
hiện đại, hay sẽ trở nên xa lạ, lạc lõng giữa thế giới tinh
thần của người trẻ hiện nay, điều đó phụ thuộc vào khả
năng thích ứng và tự làm mới của bộ môn nghệ thuật này
trong ngôi nhà nghệ thuật thời đại của dân tộc.

You might also like