You are on page 1of 13

Ôn tập Triết học Mác- Lênin

Câu 1: Vấn đề cơ bản của triết học?

Triết học, khác với một số loại hình nhận thức khác, trước khi giải quyết các vấn đề cụ thể của
mình, nó buộc phải giải quyết một vấn đề có ý nghĩa nền tảng và là điểm xuất phát để giải quyết tất
cả những vấn đề còn lại – vấn đề về mối quan hệ giữa vẩ chất với ý thức. Đây chính là vấn đề cơ bản
của triết học.

Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt nhằm trả lời hai câu hỏi lớn:

- Mặt thứ nhất: Giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định
cái nào? Nói cách khác, khi truy tìm nguyên nhân cuối cùng của hiện tượng, sự vật, hay sự
vận động đang cần phải giải thích, thì nguyên nhân vật chất hay nguyên nhân tinh thần đóng
vai trò là cái quyết định.

- Mặt thứ hai: Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không? Nói cách khác, khi
khám quá sự vật và hiện tượng, con người có dám tin rằng mình sẽ nhận thức được sự vật
và hiện tượng hay không.

Cách trả lời hai câu hỏi trên quy định lập trường của nhà triết học và của trường phái triết học, xác
định việc hình thành các trường phái lớn của triết học.

Câu 2: Vật chất và ý thức?

Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ biện chứng. Trong mối quan hệ này, vật chất có
trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức, song ý thức không hoàn
toàn thụ động mà nó có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.

a)                Vai trò của vật chất đối với ý thức

Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của
ý thức, quyết định ý thức vì:

Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người nên chỉ khi có con người
mới có ý thức. Trong mối quan hệ giữa con người với thế giới vật chất thì con người là kết quả quá
trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, là sản phẩm của thế giới vật chất. Kết luận này đã được
chứng minh bởi sự phát triển hết sức lâu dài của khoa học về giới tự nhiên; nó là một bằng chứng
khoa học chứng minh quan điểm: vật chất có trước, ý thức có sau.

Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của ý thức (bộ óc người, thế giới khách
quan tác động đến bộ óc gây ra các hiện tượng phản ánh, lao động, ngôn ngữ), hoặc là chính bản
thân thế giới vật chất (thế giới khách quan), hoặc là những dạng tồn tại của vật chất (bộ óc người,
hiện tượng phản ảnh, lao động, ngôn ngữ) đã khẳng định vật chất là nguồn gốc của ý thức.

Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh chủ quan về thế giới vật chất nên nội dung của ý
thức được quyết định bởi vật chất. Sự vận động và phát triển của ý thức, hình thức biểu hiện của ý
thức bị các quy luật sinh học, các quy luật xã hội và sự tác động của môi trường sống quyết định.
Những yếu tố này thuộc lĩnh vực vật chất nên vật chất không chỉ quyết định nội dung mà còn quyết
định cả hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý thức.

b)  Vai trò của ý thức đối với vật chất

Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn
của con người.

Vì ý thức là ý thức của con người nên nói đến vai trò của ý thức là nói đến vai trò của con người. Bản
thân ý thức tự nó không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực. Muốn thay đổi hiện thực, con
người phải tiến hành những hoạt động vật chất. Song, mọi hoạt động của con người đều do ý thức
chỉ đạo, nên vai trò của ý thức không phải trực tiếp tạo ra hay thay đổi thế giới vật chất mà nó trang
bị cho con người tri thức về thực tại khách quan, trên cơ sở ấy con người xác định mục tiêu, đề ra
phương huớng, xây dựng kế hoạch, lựa chọn phương pháp, biện pháp, công cụ, phương tiện, v.v. để
thực hiện mục tiêu của mình. Ở đây, ý thức đã thể hiện sự tác động của mình đối với vật chất thông
qua hoạt động thực tiền của con người.

Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng: tích cực hoặc tiêu cực. Nếu
con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có tình cảm cách mạng, có nghị lực, có ý chí thì
hành động của con người phù hợp với các quy luật khách quan, con người có năng lực vượt qua
những thách thức trong quá trình thực hiện mục đích của mình, thế giới được cải tạo - đó là sự tác
động tích cực cúa ý thức. Còn nếu ý thức của con người phản ánh không đúng hiện thực khách quan,
bản chất, quy luật khách quan thì ngay từ đầu, hướng hành động của con người đã đi ngược lại các
quy luật khách quan, hành động ấy sẽ có tác dụng tiêu cực đổi với hoạt động thực tiễn, đối với hiện
thực khách quan.

Như vậy, bằng việc định hướng cho hoạt động của con người, ý thức có thế quyết định hành động
của con người, hoạt động thực tiễn của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại, hiệu quả
hay không hiệu quả.

Tìm hiểu về vật chất, về nguồn gốc, bản chất của ý thức, về vai trò của vật chất, của ý thức có thể
thấy: vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định nội dung và khả năng sáng tạo ý thức; là điều kiện
tiên quyết để thực hiện ý thức; ý thức chỉ có khả năng tác động trở lại vật chất, sự tác động ấy không
phải tự thân mà phải thông qua hoạt động thực tiễn (hoạt động vật chất) của con người. Sức mạnh
của ý thức trong sự tác động này phụ thuộc vào trình độ phản ánh của ý thức, mức độ thâm nhập
của ý thức vào những người hành động, trình độ tổ chức của con người và những điều kiện vật chất,
hoàn cảnh vật chất, trong đó con người hành động theo định hướng của ý thức.

Câu 3: Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật.

Với tư cách là khoa học về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển của tất cả mọi sự vật, hiện
tượng trong giới tự nhiên, xã hội và tư duy, nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật bao gồm:

1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.

 Khái niệm:
- Trong phép biện chứng, khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự tác động và
chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng, hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự
vật, hiện tượng trong thế giới.

- Còn khái niệm mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ của các sự
vật, hiện tượng của thế giới, đồng thời cũng dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự
vật, hiện tượng của thế giới, trong đó những mối liên hệ phổ biến nhất là những mối liên hệ
tồn tại ở mọi sự vật, hiện tượng của thế giới, nó thuộc đối tượng nghiên cứu của phép biện
chứng. Đó là các mối liên hệ giữa các mặt đối lập, lượng và chất, khẳng định và phủ định, cái
chung và cái riêng, bản chất và hiện tượng,… .

Ví dụ: Mối liên hệ giữa sự vật và sự vật “một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”.

 Tính chất của mối liên hệ:

- Tính khách quan: Theo quan điểm biện chứng duy vật, các mối liên hệ của các sự vật, hiện
tượng của thế giới là có tính khách quan. Theo quan điểm đó, sự quy định, tác động và làm
chuyển hóa lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng (hoặc trong bản thân chúng) là cái vốn có
của nó, tồn tại độc lập không phụ thuộc vào ý chí của con người; con người chỉ có thể nhận
thức và vận dụng các mối liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn của mình.

- Tính phổ biến: Theo quan điểm biện chứng thì không có bất cứ sự vật, hiện tượng hay quá
trình nào tồn tại tuyệt đối biệt lập với các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác. Đồng thời,
cũng không có bất cứ sự vật, hiện tượng nào không phải là một cấu trúc hệ thống, bao gồm
những yếu tố cấu thành với những mối liên hệ bên trong của nó, tức là bất cứ một tồn tại
nào cũng là một hệ thống, hơn nữa là hệ thống mở, tồn tại trong mối liên hệ với hệ thống
khác, tương tác và làm biến đổi lẫn nhau.

- Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ được thể hiện ở chỗ:

+ Các sự vật hiện tượng hay quá trình khác nhau đều có mối liên hệ cụ thể khác nhau giữ vị trí vai trò
khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của nó.

+ Mặt khác cùng một mối liên hệ nhất định của sự vật nhưng trong những điều kiện cụ thể khác
nhau ở những giai đoạn khác nhau trong quá trình vận độn phát triển của sự vật thì cũng có những
tính chất và vai trò khác nhau.

+ Sự vật hiện tượng bao gồm nhiều mối quan hệ bên trong, bên ngoài, không cơ bản, cơ bản; mối
liên hệ chủ yếu, thứ yếu; trực tiếp, gián tiếp.

 Ý nghĩa phương pháp luận:

Từ tính khách quan và phổ biển của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt động nhận thức và thực
tiễn cần phải có quan điểm toàn diện.

Quan điểm toàn diện đòi hỏi trong nhận thức và xử lý các tình huống thực tiễn cần phải xem xét sự
vật, hiện tượng trong mối quan hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các
mặt của chính sự vật, hiện tượng và trong sự tác động qua lại giữa sự vật, hiện tượng đó với các sự
vật, hiện tượng khác. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật, hiện tượng và xử lý có
hiệu quả các vấn đề của đời sống thực tiễn. Như vậy, quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm
phiến diện, siêu hình trong nhận thức và thực tiễn.

V.I.Lênin cho rằng: "Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các
mặt, tất cả các mối liên hệ và "quan hệ gián tiếp" của sự vật đó". Từ tính chất đa dạng, phong phú
của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, khi thực hiện quan điểm
toàn diện thì đồng thời cũng cần phải kết hợp với quan điểm lịch sử - cụ thể.

Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu trong việc nhận thức và xử lý các tình huống trong hoạt động
thực tiễn cần phải xét đến những tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức và tình huống phải giải
quyết khác nhau trong thực tiễn. Phải xác định rõ vị trí, vai trò khác nhau của mỗi mối liên hệ cụ thể
trong những tình huống cụ thể để từ đó có được những giải pháp đúng đắn và có hiệu quả trong việc
xử lý các vấn đề thực tiễn. Như vậy, trong nhận thức và thực tiễn không những cần phải tránh và
khắc phục quan điểm phiến diện, siêu hình mà còn phải tránh và khắc phục quan điểm chiết trung,
ngụy biện. 

2. Nguyên lý về sự phát triển

 Khái niệm phát triển:

Trong lịch sử triết học, quan điểm siêu hình xem sự phát triển chỉ là sự tăng, giảm thuần túy về
lượng, không có sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng; đồng thời, nó cũng xem sự phát triển là
quá trình tiến lên liên tục, không trải qua những bước quanh co phức tạp.

Phát triển cũng là quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn khách quan vốn có của sự vật, hiện
tượng; là quá trình thống nhất giữa phủ định các nhân tố tiêu cực và kế thừa, nâng cao nhân tố tích
cực từ sự vật, hiện tượng cũ trong hình thái của sự vật, hiện tượng mới.

 Tính chất của sự phát triển

Các quá trình phát triển đều có tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú.

- Tính khách quan của sự phát triển biểu hiện trong nguồn gốc của sự vận động và phát triển. Đó là
quá trình bắt nguồn từ bản thân sự vật, hiện tượng; là quá trình giải quyết mâu thuẫn của sự vật,
hiện tượng đó. Vì vậy, phát triển là thuộc tính tất yếu, khách quan, không phụ thuộc vào ý thức của
con người.

 - Tính phổ biến của sự phát triển được thể hiện ở các quá trình phát triển diễn ra trong mọi lĩnh vực
tự nhiên, xã hội và tư duy; trong tất cả mọi sự vật, hiện tượng và trong mọi quá trình, mọi giai đoạn
của sự vật, hiện tượng đó. Trong mỗi quá trình biến đổi đã có thể bao hàm khả năng dẫn đến sự ra
đời của cái mới, phù họp với quy luật khách quan.

 - Tính đa dạng, phong phú của sự phát triển được thể hiện ở chỗ: phát triển là khuynh hướng chung
của mọi sự vật. hiện tượng, song rnỗi sự vật, mỗi hiện tượng, mỗi lĩnh vực hiện thực lại có quá trình
phát triển không hoàn toàn giống nhau. Tồn tại ở những không gian và thời gian khác nhau sự vật,
hiện tượng phát triển sẽ khác nhau. Đồng thời, trong quá trình phát triển của mình, sự vật, hiện
tượng còn chịu nhiều sự tác động của các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác, của rất nhiều yếu tố
và điều kiện lịch sử, cụ thể. Sự tác động đó có thể làm thay đổi chiều hướng phát triển của sự vật,
hiện tượng, thậm chí có thể làm cho sự vật, hiện tượng thụt lùi tạm thời, có thể dẫn tới sự phát triển
về mặt này và thoái hóa ở mặt khác... Đó đều là những biểu hiện của tính phong phú, đa dạng của
các quá trình phát triển.

 Ý nghĩa phương pháp luận

- Khi nhận thức giải quyết một vấn đề nào đó con người phải đặt chúng ở trạng thái động nằm
trong khuynh hướng chung là phát triển

- Phải thấy được những biến đổi đi lên cũng như những biến đổi có tinh chất thụt lùi xong đều
cơ bản là phải khái quát những biến đổi để ra khuynh hướng biến đổi chính của sự vật.

- Khắc phục tư tưởng bảo thủ trì trệ định kiến trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn.

Câu 4: Cặp phạm trù chung riêng, nguyên nhân – kết quả

Phạm trù triết học là hình thức hoạt động trí óc phổ biến của con người, là những mô hình tư tưởng
phản ánh những thuộc tính và mối liên hệ vốn có ở tất cả các đối tượng hiện thực.

Khái niệm:

Cái riêng: là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình, tồn tại như
một chỉnh thể tương đối độc lập.

Cái chung: là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính không những có ở một sự
vật, hiện tượng, kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng, kết
cấu vật chất khác.

Cái đơn nhất: là phạm trù triết học dùng để chỉ những nét, những mặt, những thuộc tính v.v. chỉ có
ở một sự vật, một hiện tượng, một kết cấu vật chất nhất định mà không lặp lại ở sự vật hay kết cấu
vật chất khác.

Quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung:

Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa
đến cái chung, bất cứ cái riêng nào cũng có những cái chung giống nhau. Cái chung là một bộ phận
của cái riêng, cái riêng phong phú hơn cái chung, nhưng cái chung sâu sắc hơn cái riêng. Cái đơn nhất
và cái chung có thể chuyển hoá lẫn nhau trong quá trình phát triển của sự vật.

Câu 5: Quy luật Lượng chất, quy luật phủ định:

Quy luật lượng chất là quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi
về chất và ngược lại, đây là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật trong triết
học Mac – Lênin. ... Chất là một phạm trù của triết học, dùng để xác định tính quy luật khách quan
vốn có của sự vật, hiện tượng
- Vị trí, vai trò của quy luật trong phép biện chứng: Đây là một trong ba quy luật cơ bản của phép
biện chứng duy vật. Quy luật này chỉ ra khuynh hướng phát triển của sự vật, hiện tượng: tiến lên,
nhưng theo chu kỳ, quanh co…

- Nội dung:

* Khái niệm phủ định biện chứng

Phủ định: nói chung là sự thay thế một sự vật, hiện tượng này bởi một sự vật, hiện tượng khác: A =>
B

Phủ định biện chứng: là tự phủ định, tự phát triển của sự vật, hiện tượng; là “mắt xích” trong “sợi
dây chuyền” dẫn đến sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới, tiến bộ hơn so với sự vật, hiện tượng cũ

*Đặc trưng của phủ định biện chứng:

+ Tính khách quan: Sự phủ định là do nguyên nhân bên trong, là kết quả đấu tranh giữa các mặt đối
lập bên trong sự vật.

+ Tính phổ biến: Diễn ra trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy

+ Tính đa dạng, phong phú: Thể hiện ở nội dung, hình thức của phủ định

=> Đặc điểm cơ bản của phủ định biện chứng là sau một số lần phủ định, có tính chu kỳ theo đường
xóay ốc, trong đó giai đoạn sau không chỉ phát huy những gì tích cực, khắc phục hạn chế của sự vật,
hiện tượng cũ; mà còn gắn chúng với sự vật, hiện tượng mới.

+ Tính kế thừa: Sự vật, hiện tượng mới ra đời có chọn lọc và cải tạo yếu tố còn thích hợp; loại bỏ các
yếu tố gây cản trở cho sự phát triển của sự vật, hiện tượng mới. Các yếu tố chọn giữ lại sẽ được cải
tạo, biến đổi để phù hợp với sự vật, hiện tượng mới. Sự vật, hiện tượng mới có chất giàu có hơn,
phát triển cao hơn, tiến bộ hơn. Kế thừa biện chứng có sự liên hệ thông suốt bền chặt giữa cái mới
với cái cũ, giữa nó với quá khứ của chính nó

*Quy luật phủ định của phủ định khái quát sự phát triển tiến lên nhưng không theo đường thẳng,
mà theo đường “xoáy ốc”: Sự phát triển của sự vật, hiện tượng là giải quyết mâu thuẫn bên trong; là
kết quả của sự đấu tranh và chuyển hóa giữa những mặt đối lập. Qua 2 lần phủ định cái cũ chuyển
thành cái đối lập với nó, dẫn đến sự ra đời của cái mới mang nhiều nội dung tích cực của cái cũ,
nhưng cũng đã mang không ít nội dung đối lập với cái cũ. Quy luật phủ định của phủ định phản ánh
mối liên hệ, sự kế thừa thông qua khâu trung gian giữa cái bị phủ định và cái phủ định.

Câu 6: Thực tiễn và vai trò của thực tiễn

- Thực tiễn và các hình thức cơ bản của thực tiễn

+ Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử-xã hội của con người
nhằm cải biến tự nhiên và xã hội. Thực tiễn là hoạt động khi con người sử dụng công cụ tác động vào
đối tượng vật chất làm cho đối tượng đó thay đổi theo mục đích của mình. Là hoạt động đặc trưng
của bản chất con người, thực tiễn không ngừng phát triển bởi các thế hệ của loài người qua các quá
trình lịch sử. Như vậy, thực tiễn có ba đặc trưng là hoạt động vật chất cảm tính, lịch sử-tự nhiên và
tính mục đích.
+ Các hình thức của thực tiễn. Thực tiễn bao gồm những hình thức hoạt động khác nhau của xã hội
như 1) Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức cơ bản, quan trọng nhất của thực tiễn. Lao động là
cơ sở vật chất cho các loại hoạt động khác của con người; là hoạt động đã đưa con người từ trạng
thái thú vật lên trạng thái con người, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của con người nói riêng và
xã hội loài người nói chung. 2) Hoạt động cải tạo xã hội (chính trị-xã hội) là hoạt động nhằm cải tạo
hiện thực xã hội, cải biến những quan hệ xã hội nên có tác dụng trực tiếp đối với sự phát triển xã hội,
đặc biệt là thực tiễn cách mạng xã hội. 3) Hoạt động thực nghiệm là hình thức đặc biệt của thực tiễn.
Thực nghiệm bao gồm thực nghiệm sản xuất, thực nghiệm khoa học và thực nghiệm xã hội được tiến
hành trong điều kiện nhân tạo nhằm rút ngắn thời gian của các quá trình biến đổi để dựa trên cơ sở
đó nhận thức thế giới, chứng minh tính chân thực của nhận thức.

- Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức

+ Thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức. Thông qua hoạt động thực tiễn, con người
nhận biết được cấu trúc; tính chất và các mối quan hệ giữa các đối tượng để hình thành tri thức về
đối tượng. Hoạt động thực tiễn bổ sung và điều chỉnh những tri thức đã được khái quát. Thực tiễn
đề ra nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức và khuynh hướng vận động và phát triển của nhận thức. Chính
nhu cầu giải thích, nhận thức và cải tạo thế giới buộc con người tác động trực tiếp vào đối tượng
bằng hoạt động thực tiễn của mình. Chính sự tác động đó đã làm cho các đối tượng bộc lộ những
thuộc tính, những mối liên hệ và các quan hệ khác nhau giữa chúng đem lại cho con người những tri
thức, giúp cho con người nhận thức được các quy luật vận động và phát triển của thế giới. Trên cơ
sở đó hình thành các lý thuyết khoa học.

+ Thực tiễn là mục đích của nhận thức. Nhận thức không chỉ thoả mãn nhu cầu hiểu biết mà còn đáp
ứng nhu cầu nâng cao năng lực thực tiễn để đưa lại hiệu quả cao hơn, đáp ứng nhu cầu ngày càng
tăng của con người. Thực tiễn luôn vận động, phát triển nhờ đó, thực tiễn thúc đẩy nhận thức vận
động, phát triển theo. Thực tiễn đặt ra những vấn đề mà lý luận cần giải quyết.

+ Thực tiễn là động lực thúc đẩy quá trình vận động, phát triển của nhận thức. Hoạt động thực tiễn
góp phần hoàn thiện các giác quan, tạo ra khả năng phản ánh nhạy bén, chính xác, nhanh hơn; tạo ra
các công cụ, phương tiện để tăng năng lực phản ánh của con người đối với tự nhiên. Những tri thức
được áp dụng vào thực tiễn đem lại động lực kích thích quá trình nhận thức tiếp theo.

+ Thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra chân lý. Trong thực tiễn con người chứng minh chân lý. Mọi sự
biến đổi của nhận thường xuyên chịu sự kiểm nghiệm trực tiếp của thực tiễn. Thực tiễn có vai trò là
tiêu chuẩn, thước đo giá trị (chân lý) những tri thức đã đạt được; đồng thời bổ sung, điều chỉnh,
phát triển và hoàn thiện nhận thức.

Như vậy, thực tiễn không những là yếu tố đóng vai trò quy định đối với sự hình thành và phát
triển của nhận thức, mà còn là nơi nhận thức phải luôn hướng tới để thể nghiệm tính đúng đắn của
mình. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức đòi hỏi chúng ta quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan
điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, từ nhu cầu thực tiễn; lấy thực tiễn làm
tiêu chuẩn (thước đo) nhận thức; coi trọng công tác tổng kết thực tiễn. Việc nghiên cứu lý luận phải
liên hệ với thực tiễn; nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc,
quan liêu; ngược lại, nếu tuyệt đối hoá vai trò của thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng, kinh
nghiệm chủ nghĩa.
Câu 7: Sản xuất vật chất và vai trò:

Sản xuất vật chất

Sản xuất là một loại hình hoạt động đặc trưng của con người và xã hội loài người, bao gồm: sản xuất
vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra bản thân con nguời. Ba quá trình đó gắn bó chặt chẽ với
nhau, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã
hội. Theo Ph.Ăngghen, "Điểm khác biệt căn bản giữa xã hội loài người với xã hội loài vật là ở chỗ: loài
vật may lắm chỉ hái lượm trong khi con người lại sản xuất". Nhưvậy, sản xuất vật chất là một trong
những loại hoạt động đặc trưng của con người - đó cũng chính là một loại hình hoạt động thực tiễn
với mục đích cải biến các đối tượng của giới tự nhiên theo nhu cầu tồn tại, phát triển của con người
và xã hội. Với nghĩa như vậy, sản xuất vật chất là một loại hoạt động có tính khách quan, tính xã hội,
tính lịch sử và tính sáng tạo. Bất cứ một quá trình sản xuất vật chất nào cũng được tiến hành với mục
đích nhất định và được tiến hành theo những cách thức xác định. Cách thức tiến hành đó chính là
phương thức sản xuất. Vậy, khái niệm phương thức sản xuất dùng để chỉ những cách thức mà con
người sử dụng để tiến hành quá trình sản xuất của xã hội ở những giai đoạn lịch sử nhất định

Vai trò

Vai trò của sản xuất vật chất và phương thức sản xuất đối với sự tồn tại, phát triển của xã hội

Theo quan điểm duy vật lịch sử, sản xuất vật chất giữ vai trò là nhân tố quyết định sự sinh tồn, phát
triển của con người và xã hội: là hoạt động nền tảng làm phát sinh, phát triển những mối quan hệ xã
hội của con người; nó chính là cơ sở của sự hình thành, biến đổi và phát triển của xã hội loài người.

Khác với các quan điểm duy tâm về lịch sử, C.Mác đã xuất phát từ "con người hiện thực" và đi đến
kết luận rằng: "... tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của con người, và do đó là tiền đề của mọi lịch
sử, đó là: người ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể "làm ra lịch sử". Nhưng muốn sống được
thì trước hết cần phải có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ khác nữa. Như vậy, hành
vi lịch sử đầu tiên là việc sản xuất ra những tư liệu để thỏa mãn những nhu cầu ấy, việc sản xuất ra
bản thân đời sống vật chất". Cũng vì vậy, có thể khẳng định: con người với tư cách "người", được bắt
đầu bằng tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của
mình.

Để tiến hành quá trình sản xuất vật chất - tức quá trình cải biến giới tự nhiên, con người tất yếu phải
thiết lập nên những mối quan hệ nhất định với nhau, đó chính là những quan hệ sản xuất và trên cơ
sở những quan hệ sản xuất này mà làm phát sinh những mối quan hệ xã hội khác: chính trị, đạo đức,
pháp luật,... Theo C.Mác, "việc sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt vật chất trực tiếp và chính, mỗi
một giai đoạn phát triền kinh tế nhất định của một dân tộc hay một thời đại tạo ra một cơ sở. Từ đó
mà người ta phát triển các thể chế nhà nước, các quan điểm pháp quyền, nghệ thuật và thậm chí cả
những quan niệm tôn giáo của con người ta".

Trong quá trình sản xuất vật chất, con người không ngừng làm biến đổi tự nhiên, biến đổi xã hội,
đồng thời làm biến đổi bản thân mình. Sản xuất vật chất không ngừng phát triển. Sự phát triển của
sản xuất vật chất quyết định sự biến đổi, phát triển các mặt của đời sống xã hội, quyết định phát
triển xã hội từ thấp đến cao. Như vậy, sự vận động, phát triển của toàn bộ đời sống xã hội,suy đến
cùng có nguyên nhân từ tình trạng phát triển của nên sản xuất của xã hội. Do đó, để giải thích và giải
quyết đủng đắn các vấn đề của đời sống xã hội thì cần phải tìm nguyên nhân cuối cùng của nó từ tình
trạng phát triển của nền sản xuất vật chất của xã hội đó, mà căn bản là từ trình độ phát triển phương
thức sản xuất của nó. Nền sản xuất tư bản chủ nghĩa ở trình độ cao hơn nền sản xuất phong kiến
chính là vì nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là nền sản suất dựa vào trình độ phát triển của phương
thức sản xuất, công nghiệp và hình thức tổ chức kinh tế thị trường ngày càng hiện đại, cũng nhớ đó
mà nó có thế tạo ra năng suất lao động cao hơn rất nhiều phương thức sản xuất phong kiến với trình
độ lao động căn bản là thủ công, với hình thức tổ chức kinh tế tự cấp tự túc, khép kín. Chính vì vậy,
có thể nói: các thời đại kinh tế khác nhau căn bản không phải ở chỗ nó sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ
nó được tiến hành bằng cách nào, với công cụ gì.

Với việc phát hiện ra vai trò quyết định của phương thức sản xuất đối với trình độ phát triển của nền
sản xuất xã hội và do đó, với trình độ phát triển của đời sống xã hội nói chung, chủ nghĩa Mác —
Lênin đã phân tích sự phát triển của lịch sử nhân loại theo lịch sử thay thế và phái triển của các
phương thức sản xuất. Sự thay thế và phát triển của các phương thức sản xuảt phản ánh xu hướng
tất yếu khách quan của quá trình phát triển xã hội loài người từ trình độ thấp đến trình độ ngày càng
cao hơn: phương thức sản xuất Châu Á, cổ đại, phong kiến và tư sản hiện đại. V.V.. Tính chất tuần tự
trong quá trình thay thế và phát triển của các phương thức sản xuất cũng chính là quy luật chung
trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại nhưng với mỗi cộng đồng xã hội nhất định, tùy theo
điều kiện khách quan và chủ quan mà có thể có những biểu hiện đa dạng về con đường phát triển
của nó: có tính chất đan xen giữa các phương thức sản xuất trong một thời kỳ phát triển hoặc có
những bước nhỏ qua một hay một vài phương thức sản xuất nào đó (với tư cách là phương thức sản
xuất có tính chất phổ biến, giữ vai trò chủ đạo) và tiến thẳng lên phương thức sản xuất cao hơn. Đó
chính là sự hiểu hiện của tính thống nhất trong tính đa dạng về con đường phát triển của mỗi cộng
đồng người nhất định, tạo nên tính chất phong phú của lịch sử nhân loại. Tuy nhiên, dù lịch sử của
mỗi cộng đồng người có phát triển phong phú, đa dạng như thế nào, thậm chí có những giai đoạn
phát triển phải trải qua những con đường vòng nhưng rốt cuộc lịch sử vẫn tuân theo xu hướng
chung là phát triển theo chiều hướng đi lên từ phương thức sản xuất ở trình độ thấp lên trình độ cao
hơn.

Câu 8: Quan niệm biện chứng LLSX và QHSX:

Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại không
tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành quy luật sự phù hợp của
quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất – quy luật cơ bản nhất của sự vận
động, phát triển xã hội.

Tác động của lực lượng sản xuất đến quan hệ sản xuất là:

+ Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất
cho phù hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

+ Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho quan hệ sản xuất từ chỗ
phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Yêu cầu khách quan của
sự phát triển lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất
mới phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp
tục phát triển. Thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là phương
thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời thay thế.

Bên cạnh đó, quan hệ sản xuất lại tác động trở lại lực lượng sản xuất như sau:

+ Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập
tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất.

+ Quan hệ sản xuất quy định mục đích, cách thức của sản xuất, phân phối. Do đó nó trực tiếp ảnh
hưởng đến thái độ của người lao động, năng suất, chất lượng, hiệu quả của quá trình sản xuất và cải
tiến công cụ lao động.Sự tác động của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất diễn ra theo hai
hướng, hoặc là tích cực, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển khi nó phù hợp hoặc tiêu cực, kìm
hãm lực lượng sản xuất khi nó không phù hợp.

Với những thông tin trên đây, chúng tôi tin rằng Quý khách hàng đã phần nào nắm được nội dung
Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Trong trường hợp Quý khách
hàng có bất cứ thắc mắc gì về bài viết cũng như vấn đề có liên quan, đừng ngần ngại liên hệ với
chúng tôi để được tư vấn và hỗ trợ thực hiện.

Câu 9: Biện chứng giữa CSHT và KTTT:

- Khái niệm cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng

+ Cơ sở hạ tầng là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ những quan hệ sản xuất tạo nên cơ cấu kinh tế của
một xã hội nhất định.

Các yếu tố của cơ sở hạ tầng. Các yếu tố cơ bản của một cơ sở hạ tầng cụ thể gồm: Quan hệ sản xuất
tàn dư của phương thức sản xuất trước đó. Quan hệ sản xuất chính thống của phương thức sản xuất
đang tồn tại chủ đạo. Quan hệ sản xuất mầm mống của phương thức sản xuất tương lai.

+ Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm xã hội (chính trị, pháp luật, triết học, đạo đức,
tôn giáo, nghệ thuật, khoa học v.v.) với những thiết chế tương ứng (nhà nước, đảng phái, giáo hội,
các đoàn thể xã hội v.v.) và những mối quan hệ nội tại giữa của chúng được xây dựng trên một cơ sở
hạ tầng nhất định.

- Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng

Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng

+) Tính chất của kiến trúc thượng tầng do tính chất của cơ sở hạ tầng quy định. Trong các quan hệ xã
hội, quan hệ vật chất, kinh tế (cái thứ nhất) quy định quan hệ tinh thần, tư¬ tưởng (cái thứ hai). Mâu
thuẫn trong đời sống vật chất, kinh tế, xét cho đến cùng, quy định mâu thuẫn trong đời sống tinh
thần, tư tưởng.

+) Những biến đổi trong cơ sở hạ tầng sẽ dẫn đến những biến đổi trong kiến trúc thượng tầng. Sự
phát triển của lực lượng sản xuất làm biến đổi quan hệ sản xuất, kéo theo sự biến đổi của cơ sở hạ
tầng và thông qua sự biến đổi này, làm biến đổi kiến trúc thượng tầng. Trong đó quan điểm chính trị,
pháp luật v.v thay đổi trước; tôn giáo, nghệ thuật v.v biến đổi sau, thậm chí chúng còn được kế thừa
trong kiến trúc thượng tầng mới. Sự biến đổi đó diễn ra trong từng hình thái kinh tế - xã hội cụ thể
cũng như trong quá trình chuyển hoá từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội
khác, có nghĩa là mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều có kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng của
riêng mình (là tính lịch sử - cụ thể của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng).

+) Sự phụ thuộc của kiến trúc thượng tầng vào cơ sở hạ tầng phong phú và phức tạp. Bên trong kiến
trúc thượng tầng cũng có những mối liên hệ tác động lẫn nhau, đôi khi dẫn đến những biến đổi trong
kiến trúc thượng tầng mà không do cơ sở hạ tầng gây nên. Nhưng suy cho đến cùng, mọi sự biến đổi
của kiến trúc thượng tầng đều có cơ sở từ những sự biến đổi trong cơ sở hạ tầng.

+ Kiến trúc thượng tầng tác động trở lại cơ sở hạ tầng. Trong đời sống xã hội, các yếu tố của kiến trúc
thượng tầng đều tác động, bằng nhiều hình thức khác nhau, theo những cơ chế khác nhau, ở mức
độ này hay ở mức độ kia, ở vai trò này hoặc vai trò khác đối với cơ sở hạ tầng.

Trong mỗi kiến trúc thượng tầng còn kế thừa một số yếu tố của kiến trúc thượng tầng trước. Các
yếu tố chính trị, pháp luật tác động trực tiếp, còn triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, khoa học
v.v. tác động gián tiếp đối với cơ sở hạ tầng, bị các yếu tố chính trị, pháp luật chi phối.

Trong xã hội có giai cấp, nhà nước là yếu tố vật chất có tác động mạnh nhất đối với cơ sở hạ tầng.
Nhà nước kiểm soát xã hội và sử dụng bạo lực, bao gồm những yếu tố vật chất như cảnh sát, toà án,
nhà tù để tăng cư¬ờng sức mạnh kinh tế của giai cấp thống trị. Sự tác động tích cực của kiến trúc
thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng được thể hiện ở chức năng xã hội của kiến trúc thượng tầng là
bảo vệ, duy trì, củng cố và phát triển cơ sở hạ tầng sinh ra nó; đấu tranh xoá bỏ cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng cũ. Trong đó, nhà nước, dựa trên hệ tư tưởng, kiểm soát xã hội và sử dụng
bạo lực, bao gồm những yếu tố vật chất nh¬ư quân đội, cảnh sát, toà án, nhà tù, để tăng cường sức
mạnh kinh tế của giai cấp thống trị

Tác động của kiến trúc thượng tầng lên cơ sở hạ tầng sẽ là tích cực khi tác động đó cùng chiều với sự
vận động của các quy luật kinh tế khách quan, nếu trái lại, thì sẽ gây trở ngại cho sự phát triển sản
xuất, cản đ¬ường phát triển của xã hội. Kiến trúc thượng tầng có tác động mạnh, nhưng không thay
thế được yếu tố vật chất, kinh tế; nếu kiến trúc thượng tầng kìm hãm sự phát triển của kinh tế-xã hội
thì sớm hay muộn, bằng cách này cách khác, kiến trúc thượng tầng đó sẽ được thay thế bằng kiến
trúc thượng tầng mới, thúc đẩy kinh tế - xã hội tiếp tục phát triển.

- Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng ở Việt Nam hiện nay

+ Về cơ sở hạ tầng

Cơ sở hạ tầng ở Việt Nam hiện nay gồm nhiều hình thức sở hữu khác nhau, thậm chí đối lập nhau
nhưng cùng tồn tại trong một cơ cấu kinh tế thống nhất - đó là nền kinh tế nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.

+ Về kiến trúc thượng tầng

Đảng ta xác định lấy CNM-LN và tư tưởng HCM làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành
động.

Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì
Câu 10: Nguồn gốc, bản chất của Nhà nước

Bản chất của nhà nước

Bản chất là khái niệm diễn đạt những đặc tính bên trong của sự vật, cái cốt lõi của sự vật gắn liền với
quá trình hình thành và phát triển của sự vật đó. Theo quan điểm của CN Mac-Lênin, thì bản chất
nhà nước có 02 thuộc tính

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin nhà nước và pháp luật không phải là những hiện tượng
vĩnh cữu, bất biến. Nhà nước và pháp luật chỉ xuất hiện khi xã hội loài người đã phát triển đến một
giai đoạn nhất định. Chúng luôn vận động, phát triển và sẽ tiêu vong khi những điêù kiện khách quan
cho sự tồn taị và phát triển của chúng không còn nữa.

Câu 11: Tồn tại xh và YTXH

Tồn tại xã hội là toàn bộ đời sống vật chất của XH và những điều kiện sinh hoạt vật chất của nó. Đây
là hình thức biểu hiện của vật chất trong lĩnh vực XH, bao gồm 3 yếu tố cơ bản:

+ Phương thức SX: đầu tiên nhất, quyết định nhất.

+ Môi trường tự nhiên

+ Điều kiện dân số * Ý thức xã hội là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng, những tâm tư, tình cảm,
những tập tục truyền thống, những thiên hướng, hứng thú… của XH phản ánh lại tồn tại XH ở từng
giai đoạn phát triển lịch sử nhất định.

– Nếu phân chia theo chiều ngang (tạo các cấp độ cao thấp) thì ý thức xã hội XH bao gồm 2 cấp độ
cơ bản:

+ Ý thức xã hội thông thường

+ Ý thức lý luận (ý thức xã hội khái quát từ kinh nghiệm hoạt động thực tiễn) Trong hai cấp độ trên,
thì vai trò quan trọng nhất thuộc về hai yếu tố là tâm lý XH và hệ tư tưởng.

+ Tâm lý XH là bộ phận của ý thức xã hội thông thường, nó bao gồm những tâm tư tình cảm, những
tập tục truyền thống, những thói quen, tập quán… của XH phản ánh trực tiếp những điều kiện sinh
hoạt vật chất hàng ngày của XH, đây là bộ phận có tính bền vững và bảo thủ cao.

+ Hệ tư tưởng là bộ phận của ý thức lý luận, nó bao gồm những quan điểm tư tưởng đã được hệ
thống hóa thành chỉnh thể học thuyết để phản ánh những lợi ích cơ bản và địa vị của một giai cấp
nhất định.

– Nếu phân chia ý thức xã hội theo chiều dọc thì ý thức xã hội bao gồm các hình thái ý thức xã hội
khác nhau: ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức, ý thức tôn giáo, ý thức thẩm mỹ,
triết học, khoa học…

Câu 12: Bản chất con người theo qđ Mác- xít

Quan niệm Mác xít về con người


- Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội

+ Về mặt tự nhiên (sinh vật), tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con người là giới tự nhiên.
Cũng do đó, bản tính tự nhiên của con người bao hàm trong nó tất cả bản tính sinh học, tính loài của
nó. Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con người. Vì vậy,
có thể nói: Giới tự nhiên là "thân thể vô cơ của con người"; con người là một bộ phận của tự nhiên;
là kết quả của quá trình phát triển và tiến hoá lâu dài của môi trường tự nhiên.

+ Về mặt xã hội, cần khẳng định rằng, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất quy định bản chất
con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người với thế giới loài vật là phương diện xã hội
của nó. Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức vấn đề con người một cách
toàn diện, cụ thể, trong toàn bộ tính hiện thực xã hội của nó, mà trước hết là lao động sản xuất ra
của cải vật chất. Thông qua hoạt động sản xuất vật chất; con người đã làm thay đổi, cải biến giới tự
nhiên: "Con vật chỉ sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự
nhiên".Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất; hoạt động sản xuất
vật chất biểu hiện một cách căn bản tính xã hội của con người. Thông qua hoạt động lao động sản
xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần, phục vụ đời sống của mình; hình thành và
phát triển ngôn ngữ và tư duy; xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình
thành bản chất xã hội của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã
hội

You might also like