You are on page 1of 5

2.1.

thực trạng cơ sở hạ tầng

trong những năm qua, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã dành sự quan tâm lớn đến
đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng (CSHT) kinh tế - xã hội. Nguồn lực đầu tư
phát triển CSHT ngày càng lớn và đa dạng. Trong mười năm qua, tỷ lệ vốn đầu tư
phát triển CSHT chiếm khoảng 24,5% tổng đầu tư xã hội, bằng khoảng 9% GDP,
trong đó vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước và có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước
chiếm 65%. Cơ cấu nguồn vốn ngày càng đa dạng, ngoài nguồn lực nhà nước, đã và
đang mở rộng sự tham gia của toàn xã hội, đặt biệt là sự tham gia đóng góp tự nguyện
của nhân dân với nhiều hình thức đa dạng trong phát triển hạ tầng nông thôn. Nhiều
hình thức đầu tư phát triển CSHT cùng các mô hình, phương thức đầu tư, kinh doanh
các dịch vụ hạ tầng được đa dạng hóa, mở rộng, các doanh nghiệp đầu tư vào các dự
án giao thông theo hình thức BOT, BTO và BT ngày càng nhiều. Nhờ có sự đầu tư
trên, hệ thống CSHT ở nước ta có bước phát triển mạnh cả về chiều rộng và chiều sâu,
cơ bản đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước, góp phần bảo đảm tốc độ tăng trưởng
kinh tế nhanh, phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội, giảm nhẹ thiên tai và bảo đảm
an ninh quốc phòng, nâng cao đời sống nhân dân, rút ngắn khoảng cách giữa các
vùng, miền. Nhiều công trình hiện đại đã được đầu tư xây dựng đạt tiêu chuẩn quốc tế,
tạo diện mạo mới của đất nước trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế

2.2. Thực trạng khi chính phủ thực hiện các biện pháp can thiệp vào cơ sở hạ tầng

2.2.1. thu phí BOT

Trạm thu phí BOT là viết tắt của từ tiếng Anh: Build – Operate – Transfer, có nghĩa là
Xây dựng – Vận hành – Chuyển giao. Chính phủ có thể kêu gọi các Công ty tư nhân
bỏ xây dựng trước (Build) thông qua đấu thầu, sau đó khai thác vận hành một thời
gian (Operate) và cuối cùng chuyển lại cho nhà nước (Transfer).

Hiện nay, nhà nước mới ban hành Thông tư số 35/2016/TT-BGTVT quy định mức giá
tối đa dịch vụ sử dụng đường bộ các dự án đầu tư xây dựng đường bộ để kinh doanh
do Bộ GTVT quản lý như sau: Biểu giá tối đa cho dịch vụ sử dụng đường bộ theo lượt
(Ban hành kèm thông tư số 35/2016/TT-BGTVT ngày 15 tháng 11 năm 2016)
2.2.1. Quyết định số 355/QĐ-TTg

Cụ thể hóa các quan điểm, định hướng chỉ đạo của Đảng về phát triển KCHTGT đồng
bộ, hiện đại, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 355/QĐ-TTg và điều
chỉnh quy hoạch phát triển GTVT của năm chuyên ngành: đường bộ, đường sắt,
đường thủy nội địa, hàng không, hàng hải. Trong đó, quy hoạch các công trình giao
thông hiện đại, kết nối đồng bộ gồm:
1. Mạng lưới đường bộ cao tốc quốc gia để kết nối với các trung tâm kinh tế trọng
điểm Bắc - Nam, các cửa khẩu, các cảng hàng không, các cảng biển quốc tế,
các tuyến đường vành đai đô thị có nhu cầu vận tải lớn, với tổng chiều dài
6.411km;
2. Tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam và hệ thống đường sắt đô thị tại Hà
Nội, Thành phố Hồ Chí Minh;
3. Các cảng biển cửa ngõ quốc tế tại khu vực Bắc - Trung -  Nam (cảng Lạch
Huyện, cảng Vân Phong và cảng Cái Mép - Thị Vải);
4. Quy hoạch mạng đường bay theo mô hình nan quạt với tần suất khai thác cao,
với 2 đầu cuối hiện đại tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh;
5. Quản lý giao thông đô thị khoa học, sử dụng công nghệ hiện đại thông qua hệ
thống camera, giao thông thông minh (ITS).
Bên cạnh việc đầu tư một số công trình bảo đảm an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo,
sau bảy năm triển khai thực hiện các nghị quyết, chiến lược, quy hoạch, hệ thống
KCHTGT đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhiều công trình giao thông lớn,
hiện đại đã và đang từng bước được đầu tư xây dựng, góp phần tạo diện mạo mới cho
đất nước, tạo lập được sự kết nối giữa các vùng miền trong cả nước và với quốc tế.

Về đường bộ, đã đưa vào khai thác 1.041km đường cao tốc, đang đầu tư xây dựng hơn
160km, tiếp tục triển khai các thủ tục để đầu tư xây dựng thêm 654km đường cao tốc
Bắc - Nam phía Đông (theo Nghị quyết số 52/2017/QH14, ngày 22/11/2017, của
Quốc hội); 40km đường cao tốc đoạn thành phố Lạng Sơn - cửa khẩu Hữu Nghị
(Đồng Đăng); 92km đường cao tốc Vân Đồn - Móng Cái. Về hàng không, đã có
những bước phát triển đột phá về cả quy mô và chất lượng dịch vụ, đáp ứng kịp thời
sự bùng nổ của nhu cầu vận tải hàng không trong giai đoạn vừa qua với tốc độ tăng
trưởng bình quân đạt 16% - 18%/năm, đã nâng cấp các cảng hàng không Nội Bài, Tân
Sơn Nhất, Đà Nẵng và xây dựng mới các cảng hàng không Phú Quốc, Vân Đồn, nâng
tổng công suất mạng cảng hàng không đạt khoảng 90 triệu lượt hành khách/năm, tăng
2,5 lần so với năm 2011. Báo cáo nghiên cứu khả thi dự án Cảng hàng không quốc tế
Long Thành giai đoạn 1 đã được Quốc hội thông qua.
 

Hoàn thành đầu tư cảng cửa ngõ quốc tế Cái Mép - Thị Vải, Lạch Huyện có
khả năng tiếp nhận được tàu tải trọng lớn từ 130.000 tấn đến 200.000 tấn (DWT) đi
thẳng tới bờ tây nước Mỹ, Ca-na-đa và châu Âu; các cảng hành khách tại Phú Quốc,
Hạ Long có khả năng tiếp nhận tàu chở khách lớn nhất thế giới; thực hiện nâng cấp,
cải tạo các cảng đầu mối khu vực Nghi Sơn, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Khánh Hòa, Cần
Thơ, đưa tổng công suất các cảng từ 420 triệu tấn (năm 2011) lên khoảng 580 triệu tấn
mỗi năm. Các tuyến đường thủy chính đã được đầu tư nâng cấp, trong đó: Vùng đồng
bằng sông Cửu Long có 1.082km đường thủy, vùng đồng bằng Bắc Bộ có 462km
đường thủy được đầu tư cải tạo, nâng cao năng lực vận tải.

Hiện nay, Bộ Giao thông vận tải đang phối hợp với Ủy ban nhân dân thành phố
Hà Nội, Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tập trung triển khai 5 dự án đường
sắt đô thị; đã triển khai các dự án cải tạo cầu yếu, thông tin tín hiệu, gia cố sửa chữa
các hầm đường sắt và các hạng mục kết cấu hạ tầng thiết yếu khác, qua đó nâng cao
mức độ an toàn, rút ngắn thời gian chạy tàu trên trục Bắc - Nam; đang tập trung triển
khai các dự án đường sắt quan trọng, cấp bách nhằm nâng cao khả năng khai thác, an
toàn chạy tàu trên tuyến đường sắt Bắc - Nam và hoàn thiện nghiên cứu tiền khả thi
đường sắt Bắc - Nam tốc độ cao để trình Quốc hội chấp thuận chủ trương trong năm
2020.
Giao thông đô thị từng bước được cải tạo, nâng cấp và mở rộng, đặc biệt tại các đô thị
lớn, góp phần hạn chế tình trạng ùn tắc hành khách, hàng hóa. Tập trung đầu tư các
trục giao thông hướng tâm, các đường vành đai, các nút giao lập thể tại các giao lộ
lớn, tuyến tránh đô thị, đặc biệt ưu tiên các đường vành đai Hà Nội và Thành phố Hồ
Chí Minh, các công trình trọng điểm trong từng khu vực (các cầu lớn: Nhật Tân, Vĩnh
Thịnh, Cao Lãnh, Vàm Cống, Năm Căn, Cổ Chiên, Mỹ Lợi, Cái Tắt, An Hữu, Rạch
Sỏi...); phối hợp với Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, Ủy ban nhân dân Thành phố
Hồ Chí Minh tập trung triển khai các dự án đường sắt đô thị. Chất lượng phục vụ, dịch
vụ vận tải cũng không ngừng được đổi mới, nâng cao, bảo đảm phục vụ tốt hơn nhu
cầu đi lại của nhân dân; thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh; góp phần kiềm chế
lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, qua đó nâng cao khả năng
cạnh tranh của nền kinh tế.
Hiện nay, hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông (KCHTGT) của Việt Nam đã
được đầu tư phát triển trên tất cả các lĩnh vực chuyên ngành. Đường bộ có tổng chiều
dài khoảng 24.203 km. Trong đó: Đường cao tốc đã đưa vào khai thác sử dụng 14
tuyến với tổng chiều dài 816,671 km; Quốc lộ có tổng chiều dài 23.862 km; Đường
thủy nội địa có tổng chiều dài đang khai thác, quản lý 7.071,8 km; 220 cảng thủy nội
địa do trung ương quản lý, 3.087 bến thủy nội địa có phép trên các tuyến do trung
ương quản lý; Đường sắt: Mạng lưới đường sắt quốc gia Việt Nam có tổng chiều dài
3.159,908 km. Tổng số 216 ga đường sắt; Hàng hải: Có 32 cảng biển (trong đó có 14
cảng biển loại I và IA, 18 cảng biển loại II) ngoài ra còn có 13 cảng dầu khí ngoài
khơi là cảng biển loại III. Sản lượng thông qua năm 2016 khoảng 459,8 triệu tấn (đạt
86% công suất). Cả nước có 48 tuyến luồng hàng hải vào cảng quốc gia công cộng với
tổng chiều dài là 943,7km và 12 tuyến luồng vào cảng chuyên dùng;  Hàng không: có
21 cảng hàng không với tổng công suất đạt 77,75 triệu HK/năm và 1,01 triệu tấn hàng
hóa/năm, đáp ứng khai thác loại máy bay A320/A321; Hệ thống cảng cạn: hiện có 05
cảng cạn và 16 cảng thông quan nội địa, tập trung tại miền Bắc và miền Nam; hiện
đang khai thác khoảng 2.632.721 TEU/năm trên tổng công suất là 6.538.200
TEU/năm (đạt 40% công suất). Bên cạnh đó còn có hệ thống hạ tầng do địa phương
quản lý.
Trong giai đoạn 2011 - 2016, nhiều công trình giao thông lớn, hiện đại như: đường bộ
cao tốc, mở rộng quốc lộ 1 và đường Hồ Chí Minh đoạn qua khu vực Tây Nguyên,
cảng biển quốc tế (Cái Mép - Thị Vải, Cái Lân, Hải Phòng, Cửa Lò, Vũng Áng, Tiên
Sa, Quy Nhơn, Nha Trang, Sài Gòn, Cần Thơ; đang triển khai xây dựng cảng Lạch
Huyện, Luồng cho tàu có trọng tải lớn vào sông Hậu ), cảng hàng không quốc tế (Nội
Bài, Đà Nẵng, Tân Sơn Nhất, Cần Thơ, Cam Ranh...) đã được đầu tư xây dựng đạt
tiêu chuẩn khu vực và quốc tế, góp phần tạo diện mạo mới cho đất nước, tạo lập được
sự kết nối giữa các vùng miền trong cả nước và với quốc tế. Giao thông đô thị từng
bước được cải tạo, nâng cấp và mở rộng, đặc biệt tại các đô thị lớn.
Đối với hoạt động vận tải đã từng bước được quản lý chặt chẽ trên tất cả các lĩnh vực,
cơ bản đáp ứng tốt nhu cầu vận tải trong nước và quốc tế; hạn chế được tình trạng ùn
tắc hành khách, hàng hóa tại cảng hàng không, ga đường sắt, bến xe, bến cảng vào
mùa vận tải cao điểm; đồng thời không ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng phục vụ,
dịch vụ vận tải; điều chỉnh cơ cấu vận tải theo thành phần kinh tế, trước đây chủ yếu
chỉ có các doanh nghiệp nhà nước tham gia vận tải, nay đã xã hội hoá với nhiều thành
phần kinh tế tham gia, đặc biệt đã hình thành một số doanh nghiệp kinh doanh vận tải
tích tụ được vốn và trình độ quản lý, đảm bảo thị trường vận tải cạnh tranh lành mạnh;
giá cước vận tải cơ bản đã được kiểm soát, bảo đảm phục vụ tốt hơn nhu cầu đi lại của
nhân dân, thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh, góp phần kiềm chế lạm phát, ổn
định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội.
2.2.2. Nghị quyết số 26/2016/QH14

Nghị quyết số 26/2016/QH14 về kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020
do Quốc hội thông qua ngày 10/11/2016 đã xác định mục tiêu: Cơ cấu lại và nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công, thu hút tối đa và sử dụng có hiệu quả các nguồn
vốn đầu tư phát triển, hoàn thiện cơ bản hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thiết
yếu, phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5
năm 2016-2020 và cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020. Kế hoạch đầu tư công
trung hạn giai đoạn 2016-2020 xác định, khả năng cân đối vốn đầu tư trung hạn nguồn
ngân sách nhà nước (NSNN) tối đa là khoảng 2 triệu tỷ đồng, tức là trung bình mỗi
năm sẽ bố trí được khoảng 400.000 tỷ đồng (tương đương 20 tỷ USD) mới đáp ứng
được khoảng 30% nhu cầu đầu tư của các bộ, địa phương.
2.3. Thành công và hạn chế của các biện pháp

a. Thành công

Như vậy, thực hiện các nghị quyết của Đảng, Chính phủ, Bộ Giao thông vận tải
đã triển khai kịp thời bằng những dự án nên hệ thống KCHTGT của đất nước đã có
những chuyển biến hết sức rõ nét, năng lực hệ thống KCHTGT được nâng lên đáng
kể. Theo Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu được Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF)
công bố, trong kỳ đánh giá 2017 - 2018, năng lực và chất lượng kết cấu hạ tầng của
Việt Nam liên tục tăng bậc, từ thứ 95/144 (năm 2011) lên thứ 79/137 (năm 2016),
trong đó, chỉ số về chất lượng kết cấu hạ tầng đường bộ đứng thứ 92 (tăng 28 bậc),
cảng biển đứng thứ 82 (tăng 31 bậc). Chỉ số năng lực quốc gia về logistics (LPI) của
Việt Nam năm 2018 xếp hạng 39/160 nước, tăng 25 bậc so với 2016 (năm 2011, Việt
Nam xếp hạng 53/155 nước). Trong khu vực Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN), Việt Nam xếp hạng 3, sau Singapore (xếp hạng 7) và Thái Lan (xếp hạng
32). Tất cả các chỉ số đánh giá LPI năm 2018 đều tăng vượt bậc, trong đó, mức tăng
cao nhất là năng lực chất lượng dịch vụ (xếp hạng 33, tăng 29 bậc) và khả năng theo
dõi, truy xuất hàng hóa (xếp hạng 34, tăng 41 bậc).

b. Hạn chế

Dù đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng về phát triển KCHTGT theo hướng
đồng bộ, hiện đại, nhưng hệ thống KCHTGT của nước ta vẫn còn là điểm nghẽn đối
với nhu cầu phát triển để tiến tới mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước: Hệ
thống đường bộ cao tốc mới bước đầu hình thành, chưa đạt mục tiêu đến năm 2020
đưa vào sử dụng khoảng 2.000km đường cao tốc; hệ thống đường sắt đã lạc hậu, chưa
đầu tư được đường sắt tốc độ cao, hệ thống đường sắt đô thị mới đầu tư xây dựng
những tuyến đầu tiên; hệ thống cảng biển chưa khai thác hết công suất thiết kế; một số
cảng hàng không đã xảy ra quá tải... Vì thế, chưa hình thành được hệ thống KCHTGT
đồng bộ, hiện đại, nhất là so sánh với các tiêu chí của quốc tế (mạng đường bộ cao
tốc, đường sắt tốc độ cao, cảng hàng không, cảng biển đầu mối).

Một trong những nguyên nhân chính là khó khăn về nguồn lực, khiến cho công
tác đầu tư phát triển KCHTGT triển khai chậm so với yêu cầu, hệ thống KCHTGT
hiện hữu cũng chưa có điều kiện duy tu, bảo dưỡng đầy đủ, kịp thời, làm hạn chế năng
lực khai thác. Theo kế hoạch vốn ngân sách nhà nước được phân bổ trong giai đoạn
2016 - 2020, Bộ Giao thông vận tải được cân đối, bố trí mới chỉ đáp ứng trên 30% nhu
cầu đầu tư phát triển, cũng như công tác bảo trì KCHTGT hiện có, trong khi việc kêu
gọi đầu tư tư nhân còn khó khăn do đầu tư KCHTGT nhiều rủi ro, hệ thống văn bản
pháp lý còn chưa đồng bộ. Đây là trở ngại rất lớn trong việc thực hiện các mục tiêu,
nhiệm vụ phát triển KCHTGT đồng bộ, hiện đại, “đi trước một bước” tạo tiền đề phát
triển đất nước tới năm 2030.

You might also like