Professional Documents
Culture Documents
TT CHUYÊN ĐỀ
1
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011)
2
Xem Đảng Cộng sản Việt Nam (2011): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. NXB. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt được yêu cầu đề ra.
Quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện tinh vi,
phức tạp, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, gây bức xúc xã hội.
Những nhược điểm nói trên đặt ra yêu cầu khách quan phải đổi mới, nâng
cao chất lượng hoạt động của bộ máy nhà nước để phát huy dân chủ xã hội chủ
nghĩa, thực hiện tốt quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, phát triển kinh tế thị
trường tạo cơ sở vật chất cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội và giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa.
b. Những định hướng cơ bản trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam
Đổi mới hệ thống chính trị là một vấn đề phức tạp và khó khăn, tuy cấp bách
nhưng không thể chủ quan, nóng vội dễ dẫn tới sai lầm. Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VII đã chỉ rõ: “Việc đổi mới hệ thống chính trị nhất thiết phải
trên cơ sở nghiên cứu và chuẩn bị rất nghiêm túc, không cho phép gây mất ổn định
chính trị dẫn đến sự rối loạn. Nhưng không vì vậy mà tiến hành chậm trễ đổi mới
hệ thống chính trị, nhất là về tổ chức bộ máy và các bộ; mối quan hệ giữa Đảng,
Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, bởi đó là điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế,
xã hội và thực hiện dân chủ” 3. Do vậy, về nhận thức cũng như hành động thực tiễn
cần quán triệt quan điểm: đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam là một quá trình
lâu dài, tuy khẩn trương và với quyết tâm đổi mới cao nhưng không thể nóng vội và
đơn giản hoá trong nhận thức, quan niệm cũng như trong triển khai thực hiện4.
Bên cạnh việc đổi mới tổ chức và phương thức lãnh đạo của Đảng theo
hướng giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và xã hội và
đổi mới cách thức tổ chức và hoạt động của các tổ chức quần chúng, trước hết là
các tổ chức chính trị-xã hội, đổi mới và nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý của
nhà nước theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự
lãnh đạo cuả Đảng là một yêu cầu cấp bách và quan trọng.
Nhà nước là bộ máy cơ bản nhất để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân,
là công cụ quan trọng nhất để phát huy dân chủ XHCN, do đó cần phải trở thành bộ
máy phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân
3
Đảng Cộng sản Việt Nam (1991): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. NXB. Sự
thật, Hà Nội, tr.54
4
Lê Minh Thông (2011): Tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị đáp ứng các yêu cầu phát triển mới
của đất nước.
chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của
nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu,
tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền dân chủ của
công dân; giữ nghiêm kỷ cương xã hội, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi
ích của Tổ quốc và của nhân dân.
Trong tình hình hiện nay, cần tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm Nhà nước ta thực sự là của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo; thực hiện tốt chức năng quản
lý kinh tế, quản lý xã hội; giải quyết đúng mối quan hệ giữa Nhà nước với các tổ
chức khác trong hệ thống chính trị, với nhân dân, với thị trường. Nâng cao năng lực
quản lý và điều hành của Nhà nước theo pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa và kỷ luật, kỷ cương. Nhà nước chăm lo, phục vụ nhân dân, bảo đảm quyền,
lợi ích chính đáng của mọi người dân5.
5
Đảng Cộng sản Việt Nam (2011): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thức XI. NXB. Chính
trị Quốc gia, tr.70.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày 30/10/2016 về tăng cường
xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2016.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Điều lệ Đảng, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của
Đảng thông qua ngày 19 tháng 01 năm 2011.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (khóa XII) về đổi mới,
sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị.
8. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Hiến pháp nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
9. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Luật Tổ chức Quốc hội 2014.
10. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Luật Tổ chức Chính phủ 2015.
11. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014.
12. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Luật Tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân 2014
13. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Luật Tổ chức chính quyền địa
phương, năm 2015.
14. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Luật cán bộ, công chức năm 2008.
Chuyên đề 2
HỆ THỐNG PHÁP LUẬT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM VÀ NHÀ
NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
6
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển
năm 2011)
7
Xem Đảng Cộng sản Việt Nam (2011): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. NXB.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa
là động lực của sự phát triển đất nước, cần xây dựng và từng bước hoàn thiện nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống
ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải
được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm.
Nhà nước phải bảo đảm và phát huy được quyền làm chủ thực sự của người
dân, nhất là quyền tham gia xây dựng chính sách, quyền lựa chọn người đại diện
cho mình và quyền sở hữu tài sản hợp pháp. Quyền làm chủ phải đi đôi với trách
nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân mà trước hết là phải tuân thủ pháp luật. Nâng
cao ý thức về quyền và nghĩa vụ công dân, năng lực làm chủ, tham gia quản lý xã
hội của nhân dân. Có cơ chế cụ thể để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
chính trị - xã hội thực hiện việc phản biện xã hội và giám sát xã hội. Nhà nước
phải quan tâm hơn nữa việc chăm lo hạnh phúc và sự phát triển tự do, toàn diện
của con người, bảo vệ quyền và lợi ích họp pháp của con người, tôn trọng và thực
hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam ký kết.
Cần tăng cường tương tác giữa cơ quan trong bộ máy nhà nước và giữa bộ
máy nhà nước với các tổ chức chính trị - xã hội và người dân. Mở rộng đối thoại
với người dân và doanh nghiệp bằng nhiều hình thức để Nhà nước, cán bộ, công
chức gần dân hơn và chủ trương, chính sách, pháp luật sát với thực tiễn hơn. Sự
phối hợp giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp phải trên cơ sở bảo đảm
tính độc lập theo chức năng được phân công và yêu cầu kiểm soát lẫn nhau, bổ trợ
cho nhau theo quy định của pháp luật. Đẩy mạnh phân cấp, phát huy chủ động,
sáng tạo của cấp dưới, đồng thời bảo đảm quản lý thống nhất của cả hệ thống.
- Tăng cường dân chủ ở cơ sở; mở rộng các hình thức dân chủ trực tiếp để
người dân tham gia vào công việc của Nhà nước một cách thiết thực, phù hợp,
trọng tâm là ở địa phương, trước hết bắt đầu từ những công việc liên quan thiết
thực, trực tiếp đến đời sống nhân dân. Tạo cơ chế, điều kiện cho người dân tham
gia thực chất vào hoạt động quản lý nhà nước, từ việc tham gia ý kiến trong giai
đoạn xây dựng chính sách, pháp luật đến việc tham gia giám sát cán bộ, công chức
và cơ quan nhà nước trong việc thực hiện chính sách, pháp luật. Tăng cường quyền
giám sát của các cơ quan dân cử, quyền giám sát, kiểm tra của công dân đối với
hoạt động của các cơ quan, cán bộ, công chức.
b. Đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước
Nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị. Việc đổi mới, hoàn thiện Nhà
nước có ý nghĩa quan trọng, quyết định đến hiệu quả tổ chức và hoạt động của
toàn bộ hệ thống chính trị. Để làm rõ vị trí trụ cột của Nhà nước trong hệ thống
chính trị cần đổi mới cần tập trung vào các vấn đề sau đây:
- Về vai trò, chức năng của Nhà nước:
Nhà nước là một thiết chế chính trị trung tâm có vai trò đặc biệt quan trọng
trong mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nước.
Tuy nhiên, dù vai trò của Nhà nước quan trọng, to lớn đến nhường nào cũng không
thể tạo ra một nhà nước toàn trị, quyết định mọi vấn đề và bao cấp toàn xã hội. Vai
trò của Nhà nước luôn có giới hạn trong mối quan hệ với các thiết chế chính trị -
xã hội thuộc hệ thống chính trị, mối quan hệ với kinh tế thị trường, xã hội và mối
quan hệ với công dân. Vì vậy, một mặt cần tăng cường xã hội hội hóa và khả năng
độc lập của các thiết chế xã hội, giải phóng họ khỏi sự phụ thuộc (bảo trợ) của Nhà
nước, mặt khác, bản thân Nhà nước cũng phải tự hạn chế, giảm thiểu các biện
pháp can thiệp trực tiếp vào thị trường và các quan hệ dân sự thông qua việc ban
hành pháp luật và tăng cường các biện pháp kiểm tra, giám sát, kiểm soát.
Để phát huy tốt nhất quyền làm chủ của nhân dân, Nhà nước phải làm tốt
chức năng kiến tạo phát triển. Nhà nước không làm thay dân mà phải tập trung xây
dựng khuôn khổ thể chế phù hợp và tạo điều kiện cần thiết để mọi người phát huy
năng lực và sức sáng tạo vì lợi ích của chính mình và đóng góp cho xã hội. Chỉ khi
dân giàu thì nước mới mạnh. Xã hội hóa không chỉ để huy động các nguồn lực mà
còn tạo điều kiện cho xã hội thực hiện những chức năng, những công việc mà xã
hội có thể làm tốt hơn. Chỉ như vậy mới có thể xây dựng được một bộ máy hành
chính nhà nước tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả.
Nhà nước phải tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng theo cơ chế thị trường;
kiểm soát chặt chẽ và xóa bỏ độc quyền doanh nghiệp cũng như những cơ chế
chính sách dẫn đến bất bình đẳng trong cạnh tranh. Pháp luật và cơ chế chính sách
phải tạo thuận lợi nhất cho mọi người dân và doanh nghiệp phát triển sản xuất,
kinh doanh. Tài nguyên, nguồn lực của quốc gia phải được phân bổ tới những chủ
thể có năng lực sử dụng mang lại hiệu quả cao nhất cho đất nước.
Nhà nước phải có chính sách đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và huy
động các nguồn lực đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đáp ứng yêu
cầu phát triển. Phải chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, tạo môi trường và điều
kiện thuận lợi để xây dựng và bảo vệ đất nước.
- Về tổ chức bộ máy nhà nước:
Trên cơ sở Cương lĩnh và các văn kiện khác của Đảng qua 30 năm đổi mới,
Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã kế thừa các bản Hiến pháp trước
đây của Nhà nước ta để có những quy định cụ thể về tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước. Vì vậy, trong thời gian tới, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước tiếp tục thực hiện theo quy định của Hiến pháp và các đạo luật về tổ chức bộ
máy nhà nước cần tiếp tục cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp mới cho phù
hợp với từng thiết chế cụ thể. Việc đổi mới về tổ chức bộ máy đề nghị cần tập
trung vào một số vấn đề sau đây:
- Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội theo hướng chuyên
nghiệp, hiệu quả trong các hoạt động lập pháp, giám sát và quyết định những vấn
đề quan trọng của đất nước. Hoạt động lập pháp của Quốc hội phải chuyển trọng
tâm từ quy định quyền của bộ máy nhà nước sang xác định nghĩa vụ và trách
nhiệm của các cơ quan này, từ quyền cho phép của công quyền sang quyền của
công dân trong mối quan hệ với nhà nước. Phát huy dân chủ hơn nữa phương thức
hoạt động của Quốc hội, tăng cường tranh luận, phản biện, giám sát, đưa ra các
quyết định dưới hình thức luật. Phát huy vai trò quan trọng của Hội đồng dân tộc,
Ủy ban của Quốc hội trong việc xem xét để Quốc hội thông qua các dự án luật và
quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước.
- Tiếp tục nghiên cứu làm rõ hơn trách nhiệm của Chủ tịch nước để thực
hiện đầy đủ chức năng nguyên thủ quốc gia theo yêu cầu Nhà nước pháp quyền,
thay mặt Nhà nước về đối nội, đối ngoại và thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân
dân, góp phần bảo đảm sự cân bằng trong thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp.
- Tiếp tục kiện toàn tổ chức Chính phủ theo hướng tinh gọn, hợp lý, hiệu
lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu xây dựng nền hành chính dân chủ, hiện đại. Phân
định cụ thể nhiệm vụ và quyền hạn của tập thể và cá nhân trong tổ chức và hoạt
động của Chính phủ theo hướng: Thủ tướng Chính phủ phải chịu trách nhiệm
chung về hoạt động điều hành, quản lý nhà nước của Chính phủ; từng Bộ trưởng
chịu trách nhiệm về lĩnh vực quản lý nhà nước do mình phụ trách. Tập trung đẩy
mạnh cải cách thủ tục hành chính, tạo sự chuyển biến căn bản trong mối quan hệ
giữa cơ quan hành chính với người dân và doanh nghiệp, phát huy mạnh mẽ dân
chủ, tạo điều kiện để người dân và xã hội tham gia vào hoạt động quản lý của
Chính phủ và các cơ quan trong bộ máy hành chính.
- Xác định cơ chế bảo đảm tính độc lập của hoạt động tư pháp theo hướng
khẳng định Tòa án có quyền và có trách nhiệm chỉ căn cứ vào Hiến pháp và pháp
luật để ra các phán quyết, không chịu bất kỳ sự can thiệp nào từ phía các cơ quan
nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước. Trong Nhà nước pháp quyền, chỉ duy nhất
Tòa án có chức năng xét xử, mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức phải có trách nhiệm tôn
trọng phán quyết của Tòa án. Đồng thời, cần nghiên cứu để tiếp tục đổi mới tổ
chức lại hoạt động kiểm sát, điều tra, thi hành án tương ứng với chức năng, nhiệm
vụ được phân định rõ để vừa có sự phân công, phối hợp, vừa kiểm soát lẫn nhau.
-Cụ thể hóa các quy định của luật chính quyền địa phương, tiếp tục nghiên
cứu để đổi mới mô hình chính quyền địa phương theo đúng yêu cầu của Hiến pháp
là đa dạng hóa mô hình chính quyền địa phương với quy định định Hiến pháp về
cấp chính quyền. Xác định rõ cơ chế phân cấp, phân quyền giữa trung ương và địa
phương trên từng ngành, lĩnh vực nhằm phát huy tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm
của địa phương trong phạm vi được phân cấp, phân quyền.
- Về cơ chê kiểm soát quyền lực nhà nước:
Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung nguyên tắc kiểm soát quyền lực nhà nước
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp. Vì vậy, trong các luật về tổ chức bộ máy nhà nước, cần nghiên cứu, cụ thể
những cơ chế kiểm soát quyền lực song song với việc tiếp tục duy trì cơ chế giám
sát, kiểm tra giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, giữa cơ quan trung ương
và địa phương. Đồng thời, nghiên cứu xây dựng cơ chế, thực hiện luật trưng cầu ý
dân để bảo đảm vai trò của nhân dân trong việc quyết định những vấn đề quan trọng
của đất nước, qua đó kiểm soát quyền lực nhà nước.
- Về bảo đảm vị trí tối thượng của Hiến pháp và pháp luật
Hiến pháp là đạo luật cơ bản của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, có hiệu
lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp. Mọi
hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý. Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ
tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác
của Nhà nước và toàn thể Nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp. Vì vậy, các
đạo luật về tổ chức bộ máy nhà nước cần xây dựng cơ chế bảo vệ Hiến pháp một
cách hiệu quả, phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội ở nước ta.
Cần tăng cường kỷ luật, kỷ cương, trong đó hoàn thiện thể chế, chính sách
và tăng cường pháp chế XHCN là yêu cầu quan trọng. Phê phán và nghiêm trị
những hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, những hành vi lợi dụng dân
chủ để làm mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội; chống tập trung quan liêu, khắc
phục dân chủ hình thức.
- Về đội ngũ cán bộ, công chức:
Nhà nước phải xây dựng cho được bộ máy tinh gọn, hiệu lực hiệu quả với
đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất, năng lực và tính chuyên nghiệp cao. Mọi
cơ quan, công chức đều phải được giao nhiệm vụ rõ ràng. Việc đánh giá tổ chức,
cán bộ, công chức phải căn cứ vào kết quả hoàn thành nhiệm vụ. Phải hoàn thiện
tiêu chí đánh giá và cơ chế kiểm soát thực thi công vụ. Người đứng đầu cơ quan
hành chính phải chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện chức năng nhiệm vụ được
giao và phải được trao quyền quyết định tương ứng về tổ chức cán bộ. Cần có quy
hoạch, kế hoạch tổng thể về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức; thực hiện việc
quản lý cán bộ, công chức theo hướng quản lý nguồn nhân lực công vụ. Cần nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cả về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo
đức, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, quản lý nhà nước. Có chính sách đãi
ngộ, động viên, khuyến khích cán bộ, công chức hoàn thành nhiệm vụ và có cơ
chế loại bỏ, bãi miễn những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật,
mất uy tín đối với nhân dân.
c. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Tiếp tục đổi mới mô hình tổ chức, hình thức, phương thức hoạt động của các
cơ quan nhà nước ở trung ương, địa phương nhằm hướng tới một bộ máy nhà nước
gọn về tổ chức, hiệu quả trong hoạt động, đáp ứng ngày càng tích cực hơn các yêu
cầu của sự phát triển kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, bảo đảm, bảo vệ quyền
con người, quyền công dân phù hợp với các chuẩn mực của chế độ pháp quyền.
Trên những định hướng này, Luật tổ chức Quốc hội (sửa đổi), Luật tổ chức
Tòa án nhân dân (sửa đổi), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (sửa đổi) đã được
Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 8 vừa qua. Các Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ
chức chính quyền địa phương, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng
nhân dân (trong đó quy định về Hội đồng bầu cử quốc gia theo hướng quy định của
Hiến pháp 2013), Luật kiểm toán nhà nước, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã
được Quốc hội khóa XIII thông qua.
- Để thể chế hóa các quy định của Hiến pháp 2013 về quyền con người, quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cần tập trung ưu tiên trên các phương diện sau:
+ Về cơ bản, việc quy định các quyền con người, quyền công dân phải được
thực hiện ở tầm các đạo luật. Những quyền con người, quyền công dân hiện tại
đang được quy định tại các văn bản dưới luật, kể cả trong pháp lệnh cần được
nghiên cứu để chuyển sang quy định tại các đạo luật. Việc luật hóa các quy định về
quyền con người, quyền công dân vừa tạo cho các quyền này giá trị pháp lý cao,
ổn định, khắc phục được sự tùy tiện hay các nguy cơ hạn chế các quyền con người
trong quá trình thực hiện. Tuy nhiên để luật hóa được tất cả các quyền con người,
quyền, nghĩa vụ của công dân được Hiến pháp quy định đòi hỏi phải có lộ trình
phù hợp. Do vậy đối với việc thực hiện một số quyền, trước mắt vẫn cần duy trì
cách tiếp cận “theo quy định của pháp luật”. Nhưng cách tiếp cận này chỉ áp dụng
cho việc quy định trình tự, thủ tục thực hiện một số ít quyền và không thể áp dụng
để quy định nội dung các quyền này.
+ Việc hoàn thiện, bổ sung, sửa đổi các quy định về quyền con người, quyền
công dân phải đặc biệt tuân thủ quy định tại khoản 2 Điều 14 Hiến pháp 2013.
Theo đó, “quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định
của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an
toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”.
Như vậy chỉ có các đạo luật mới có thể quy định việc hạn chế các quyền con
người, và việc hạn chế này luôn bị giới hạn trong những trường hợp thật sự cần
thiết như đã xác định tại khoản 2 Điều 14 nêu trên. Điều khoản hiến định này đòi
hỏi phải rà soát để kịp thời loại bỏ những quy định trong các văn bản dưới luật
đang hạn chế quyền con người, quyền công dân ngoài các trường hợp thật sự cần
thiết như Hiến pháp 2013 quy định.
+ Trong lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và
môi trường: 38 đạo luật quan trọng đã được đưa vào chương trình sửa đổi, bổ sung,
hoàn thiện theo Kế hoạch triển khai thi hành Hiến pháp được ban hành kèm theo
Nghị quyết 718/NQ-UBTVQH13 ngày 02/01/2014. Các đạo luật điều chỉnh các
quan hệ kinh tế cần bám sát các quy định của Hiến pháp về nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa để tập trung sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện cơ sở
pháp lý đồng bộ cho nền kinh tế thị trường, tạo các đột phá trong cải cách thể chế
kinh tế theo đúng các quy luật của thị trường. Theo đó việc sửa đổi, bổ sung, hoàn
thiện các quy định pháp luật trong lĩnh vực kinh tế tập trung vào việc loại bỏ các
cơ chế, các thủ tục hành chính đang gò bó sự phát triển kinh tế, gây khó khăn, ách
tắc trong sự vận hành và phát triển các quan hệ thị trường.
Quán triệt tư tưởng này của Hiến pháp 2013, việc sửa đổi, hoàn thiện pháp
luật trong lĩnh vực kinh tế tập trung vào các mục tiêu:
- Tạo môi trường pháp lý ổn định và an toàn cho việc xây dựng, vận hành và
phát triển các loại thị trường, đặc biệt là các thị trường hàng hóa, thị trường vốn,
thị trường lao động và thị trường khoa học công nghệ, huy động được mọi nguồn
lực xã hội tham gia phát triển các loại hình thị trường.
- Quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên đất đai, các nguồn
vốn nhà nước, vốn vay, minh bạch hóa các mối quan hệ sử dụng đất, thu hồi đất,
phù hợp với chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai, quyền và lợi ích hợp pháp của
người được giao quyền sử dụng đất, thuê đất theo đúng quan hệ thị trường.
- Đơn giản hóa các quy trình, thủ tục thành lập, giải thể, phá sản doanh
nghiệp, tạo hành lang pháp lý thông thoáng cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh
và tiêu dùng.
- Đổi mới quan hệ giữa Nhà nước và thị trường, xác định rõ quyền hạn và
trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc xử lý các vấn đề liên quan đến
doanh nghiệp nhà nước, vốn đầu tư của Nhà nước trong các loại hình doanh
nghiệp, đảm bảo quyền bình đẳng, quyền cạnh tranh của tất cả các doanh nghiệp
theo đúng quy định của pháp luật, ngăn ngừa có hiệu quả việc can thiệp trái pháp
luật của các cơ quan, công chức nhà nước vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của
tổ chức kinh tế và cá nhân công dân; nâng cao năng lực, vai trò và trách nhiệm của
các cơ quan nhà nước trong việc cung cấp các dịch vụ công, hướng dẫn, giúp đỡ,
hỗ trợ doanh nghiệp và người dân trong việc tiếp cận các nguồn vốn, các thị trường
và bảo vệ lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp khi bị vi phạm.
Sự gắn kết các quy định về kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục đào tạo, khoa học
công nghệ và môi trường tại Chương III của Hiến pháp 2013 đòi hỏi phải sửa đổi, bổ
sung đồng bộ các quy định pháp luật trong các lĩnh vực quan trọng này. Do vậy, các
văn bản pháp luật trong các lĩnh vực văn hóa, xã hội, giáo dục đào tạo, khoa học công
nghệ và môi trường đều phải được nghiên cứu, đánh giá lại để có những sửa đổi, bổ
sung thích hợp, tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi cho việc tiếp tục các giải pháp cải
cách kinh tế - xã hội trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.
Trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc và đối ngoại, việc sửa
đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy định pháp luật để điều chỉnh các quan hệ quan
trọng này theo đúng tinh thần của Hiến pháp 2013 cũng đang được triển khai đồng
bộ với các lĩnh vực điều chỉnh pháp luật khác. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật sĩ quan quân đội và nhân dân, Luật công an nhân dân (sửa đổi) được
Quốc hội xem xét, thông qua tại kỳ họp thứ 8 vừa qua đã hoàn thiện một bước
quan trọng các cơ sở pháp lý để xây dựng lực lượng quân đội nhân dân, công an
nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Với Hiến pháp mới – Hiến pháp 2013, hệ thống pháp luật Việt Nam đang
từng bước được đổi mới, hoàn thiện, đáp ứng ngày càng tốt hơn các yêu cầu, nhiệm
vụ xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ
động hợp tác quốc tế. Tuy nhiên, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật theo yêu cầu
mới của Hiến pháp 2013 là một công việc hệ trọng, phức tạp cần được triển khai
một cách khoa học, có lộ trình thích hợp, huy động được trí tuệ, kinh nghiệm của cả
xã hội cùng tham gia đóng góp cho việc hoàn thiện từng dự thảo văn bản trước khi
Quốc hội, các cơ quan có thẩm quyền xem xét, thông qua. Thực tiễn hơn hai năm thi
hành Hiến pháp 2013 đã đem lại cho chúng ta những kinh nghiệm ban đầu quý giá
để thực hiện thành công nhiệm vụ này.
Quy định cụ thể về quyền và trách nhiệm của công dân trong việc thực hiện
quyền tự do dân chủ; đồng thời, xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức
trong việc duy trì, bảo đảm kỷ cương, trật tự công cộng, kịp thời phát hiện và xử lý
nghiêm minh các hành vi lợi dụng quyền tự do, dân chủ của công dân để xâm hại
an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội...
Tiếp tục nghiên cứu luật hoá các quyền hiến định của công dân theo hướng:
nghiên cứu xây dựng các luật để thể chế hoá các quy định của Hiến pháp về quyền
tự do lập hội, quyền tự do hội họp, quyền biểu tình, quyền được trưng cầu dân ý...
theo lộ trình phù hợp với điều kiện thực tiễn của đất nước; bảo đảm để vừa tạo
điều kiện thuận lợi cho người dân thực hiện các quyền của mình, vừa tăng cường
hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong từng lĩnh vực đời sống xã hội.
Thứ ba, xây dựng và hoàn thiện pháp luật kinh tế, trọng tâm là hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hoàn thiện thể chế về sở
hữu toàn dân theo hướng tách bạch vai trò của Nhà nước với tư cách là bộ máy
công quyền quản lý toàn bộ nền kinh tế - xã hội với vai trò đại diện chủ sở hữu tài
sản thuộc sở hữu toàn dân; tách chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước
và chức năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. Tạo cơ sở pháp lý
để công dân tích cực huy động mọi tiềm năng, nguồn lực và phát triển sản xuất,
kinh doanh, nâng cao chất lượng cuộc sống của bản thân, gia đình và góp phần làm
giàu cho đất nước. Tạo lập môi trường pháp lý cho cạnh tranh lành mạnh, bình
đẳng, phù họp với nguyên tắc của WTO và các cam kết quốc tế khác. Xoá bỏ đặc
quyền và độc quyền kinh doanh, những sự phân biệt đối xử theo thành phần kinh
tế, cải thiện môi trường đầu tư, hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Anh (chị) hãy nêu bản chất, chức năng của pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam
2. Anh (chị) hãy trình bày những nội dung cơ bản về Luật Hiến Pháp năm 2013
3. Anh (chị) hãy tính tất yếu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam
4. Anh (chị) hãy nêu đặc điểm và phương hướng cơ bản để xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh, hoạt động có
hiệu quả.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trương Quốc Chính: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam theo quan điểm
Mácxít, Sách chuyên khảo, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2013.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 Hội nghị lần
thứ 6, Ban Chấp hành Trung ương khóa XII: Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp
xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
5. Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 2013.
6. Luật tổ chức Quốc hội năm 2014.
7. Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.
8. Luật tổ chức Chính phủ năm 2015.
9. Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015.
10. Trần Ngọc Liêu: Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước với việc xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Sách chuyên khảo, NXB.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2013.
11. Đào Trí Úc: Giáo trình Nhà nước pháp quyền, NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2015.
12. Viện Khoa học xã hội nhân văn quân sự: Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng, NXB. Chính trị Quốc
gia, Sự thật, 2017.
Chuyên đề 3
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ Y TẾ
- Thứ hai, đầu tư cho bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân là đầu
tư cho phát triển. Nhà nước ưu tiên đầu tư ngân sách và có cơ chế, chính sách huy
động, sử dụng hiệu quả các nguồn lực để bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ
nhân dân; tổ chức cung cấp dịch vụ công, bảo đảm các dịch vụ cơ bản, đồng thời
khuyến khích hợp tác công - tư, đầu tư tư nhân, cung cấp các dịch vụ theo yêu cầu.
- Thứ ba, phát triển nền y học Việt Nam khoa học, dân tộc và đại chúng. Xây
dựng hệ thống y tế công bằng, chất lượng, hiệu quả và hội nhập theo phương châm
phòng bệnh hơn chữa bệnh; y tế dự phòng là then chốt, y tế cơ sở là nền tảng; y tế
chuyên sâu đồng bộ và cân đối với y tế cộng đồng; gắn kết y học cổ truyền với y học
hiện đại, quân y và dân y. Phát triển dược liệu, công nghiệp dược và thiết bị y tế.
- Thứ tư, hướng tới thực hiện bao phủ chăm sóc sức khoẻ và bảo hiểm y tế
toàn dân; mọi người dân đều được quản lý, chăm sóc sức khoẻ; được bảo đảm bình
đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tham gia bảo hiểm y tế và thụ hưởng các dịch vụ
y tế. Tính đúng, tính đủ giá dịch vụ y tế và có cơ chế giá, cơ chế đồng chi trả nhằm
phát triển vững chắc hệ thống y tế cơ sở.
- Thứ năm, nghề y là một nghề đặc biệt. Nhân lực y tế phải đáp ứng yêu cầu
chuyên môn và y đức; cần được tuyển chọn, đào tạo, sử dụng và đãi ngộ đặc biệt.
Hệ thống mạng lưới y tế phải rộng khắp, gần dân; được chỉ đạo thống nhất, xuyên
suốt về chuyên môn, nghiệp vụ theo ngành từ Trung ương tới địa phương trong
phạm vi cả nước, đồng thời bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ
1.2. Chiến lược quốc gia bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân giai
đoạn 2011 - 2020, tầm nhìn đến năm 2030
Ngày 10 tháng 1 năm 2013, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số
122/QĐ - TTg: Phê duyệt Chiến lược quốc gia bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức
khỏe nhân dân giai đoạn 2011 - 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Chiến lược có
những vấn đề cơ bản sau:
Xử lý kỷ luật đối với công chức, viên chức là một trong những công cụ,
biện pháp quản lý của Nhà nước trong quá trình xây dựng, phát triển và sử dụng
đội ngũ công chức, viên chức. Việc xử lý kỷ luật đối với công chức, viên chức phải
bảo đảm theo đúng các hình thức kỷ luật, bảo đảm khách quan, công bằng, nghiêm
minh, đúng thời hiệu và theo đúng các trình tự, thủ tục quy định của pháp luật về
công chức, viên chức.
III. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ Y TẾ TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC VỀ Y TẾ
3.1. Quản lý nhà nước về y tế trong giai đoạn đẩy mạnh phân cấp, giao quyền
tự chủ và trách nhiệm xã hội cao hơn cho các cơ sở y tế
Chính phủ đã ban hành Nghị định 16/2015/NĐ-CP quy định cơ chế tự chủ
của đơn vị sự nghiệp công lập8, kịp thời đáp ứng yêu cầu đổi mới, phát triển trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nghị định 16/2015/NĐ-CP điều chỉnh cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính đối
với đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng tăng cường trao quyền tự chủ, tự chịu
8
Nguyễn Quyết: Một số vấn đề về triển khai cơ chế tự chủ tài chính tại đơn vị sự nghiệp công
lập, Tạp chí Tài chính, cập nhật 02/9/2017
trách nhiệm, khuyến khích các đơn vị có điều kiện vươn lên tự chủ ở mức cao. So
với Nghị định 43/2006/NĐ-CP Chính phủ, Nghị định 16/2015/NĐ-CP có những
điểm mới nổi bật như sau:
Thứ nhất, việc phân loại đơn vị sự nghiệp công lập được dựa trên mức độ tự
chủ về tài chính của các đơn vị cả về chi thường xuyên và chi đầu tư. Theo đó, căn
cứ vào mức độ tự đảm bảo kinh phí chi đầu tư và chi thường xuyên, đơn vị sự
nghiệp công lập được phân chia thành 4 loại: (1) Đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm
chi thường xuyên và chi đầu tư; (2) Đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm chi thường
xuyên; (3) Đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm một phần chi thường xuyên; (4) Đơn
vị sự nghiệp công do Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên.
Thứ hai, việc tự chủ về tài chính của các đơn vị được quy định tương ứng với
từng loại hình đơn vị sự nghiệp công lập, trên nguyên tắc các đơn vị tự đảm bảo
kinh phí hoạt động càng nhiều thì mức độ tự chủ càng cao. Quy định này nhằm
khuyến khích các đơn vị tăng thu, giảm dần bao cấp từ ngân sách Nhà nước, trong
đó có bao cấp tiền lương tăng thêm, để dần chuyển sang các loại hình đơn vị tự
đảm bảo chi thường xuyên, đơn vị tự đảm bảo chi thường xuyên và chi đầu tư.
Các đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư
được giao quyền tự chủ khá rộng như: Được quyết định số lượng người làm việc;
Được vay vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước hoặc được hỗ trợ lãi suất cho các dự
án đầu tư sử dụng vốn vay của các tổ chức tín dụng theo quy định; Được tự quyết
định mức trích quỹ bổ sung thu nhập mà không bị không chế mức trích Quỹ bổ
sung thu nhập như các loại hình đơn vị sự nghiệp khác.
Giá dịch vụ sự nghiệp công được quy định tại Mục 2, Chương II của Nghị
định 16/2015/NĐ-CP bao gồm, các quy định về giá, phí dịch vụ sự nghiệp công,
cách xác định giá dịch vụ sự nghiệp công không sử dụng kinh phí ngân sách nhà
nước và giá dịch vụ sự nghiệp công sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước.
Theo đó, đối với dịch vụ sự nghiệp công không sử dụng kinh phí ngân sách
nhà nước được xác định theo cơ chế thị trường; đối với dịch vụ sự nghiệp công sử
dụng kinh phí ngân sách nhà nước được xác định trên cơ sở định mức kinh tế - kỹ
thuật, định mức chi phí theo quy định và lộ trình tính giá theo quy định tại Nghị
định 16/2015/NĐ-CP.
Đơn vị sự nghiệp được mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng thương mại hoặc
Kho bạc Nhà nước để phản ánh các khoản thu, chi hoạt động dịch vụ sự nghiệp
công không sử dụng ngân sách Nhà nước. Lãi tiền gửi đơn vị được bổ sung vào
Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp, hoặc bổ sung vào Quỹ khác theo quy định của
pháp luật chuyên ngành (nếu có), không được bổ sung vào Quỹ bổ sung thu nhập.
3.2. Phân cấp quản lý nhà nước đối với cơ sở y tế
Về tổ chức y tế trung ương
Bộ Y tế tổ chức đánh giá việc thực hiện Nghị định số 63/2012/NĐ-CP ngày
31/8/2012 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ
chức của Bộ Y tế. Trên cơ sở đó, đã xây dựng và trình Chính phủ ban hành Nghị
định số 75/2017/NĐ-CP ngày 20/06/2017 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Y tế trong nhiệm kỳ Chính phủ khóa XIV (2016 -
2021). Về cơ bản, vẫn giữ nguyên các nội dung trong Nghị định 63, theo đó Bộ Y
tế là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về y tế, bao
gồm các lĩnh vực: y tế dự phòng, khám bệnh, chữa bệnh, phục hồi chức năng, giám
định y khoa, pháp y, pháp y tâm thần, y dược cổ truyền, sức khỏe sinh sản, trang
thiết bị y tế, dược, mỹ phẩm, an toàn thực phẩm, bảo hiểm y tế, dân số, quản lý nhà
nước các dịch vụ công trong lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ. Một
số nội dung chi tiết có chỉnh sửa, cập nhật theo các văn bản quy phạm pháp luật
mới được ban hành.
Về tổ chức y tế địa phương
Bộ Y tế và Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư liên tịch số 51/2014/TTLT-
BYT-BNV ngày 11/12/2015 hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu
tổ chức của Sở Y tế và Phòng Y tế huyện. Bộ Y tế cũng đã xây dựng và ban hành
Thông tư 37/2016/TT-BYT ngày 25/10/2016 hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của TTYT huyện, Thông tư số 59/2015/TT-BYT ngày
31/12/2015 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của TTYT
tỉnh. Đây là các văn bản pháp lý quan trọng để tổ chức y tế địa phương tinh gọn,
hiệu quả, đảm bảo sự phối hợp, tính liên tục trong cung ứng dịch vụ y tế (DVYT).
Tuyến tỉnh: Thông tư 51 quy định “… thực hiện mô hình Trung tâm Kiểm
soát bệnh tật ở tuyến tỉnh trên cơ sở sáp nhập các trung tâm có cùng chức năng; các
trung tâm chuyên khoa, trung tâm có giường bệnh chuyển về bệnh viện đa khoa
tỉnh hoặc thành lập bệnh viện chuyên khoa khi có nhu cầu và có đủ điều kiện về
nguồn lực” (Hình 2). Đây là điểm mới có tính đột phá trong tổ chức hệ thống y tế
dự phòng (YTDP). Tính đến tháng 10/2016, đã có 23 tỉnh được UBND tỉnh ban
hành quyết định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của
Sở Y tế, trong đó 17 tỉnh quy định thực hiện Trung tâm kiểm soát bệnh tật ở tuyến
tỉnh. Mô hình y tế địa phương của các tỉnh khác vẫn đang trong quy trình xem xét,
phê duyệt của UBND các tỉnh.
Tuyến huyện: Thông tư 51 quy định “… TTYT huyện được tổ chức thống
nhất trên địa bàn cấp huyện, thực hiện chức năng về YTDP, KCB và PHCN; các
phòng khám đa khoa khu vực (PKĐKKV), nhà hộ sinh khu vực (nếu có) và TYT
xã, phường, thị trấn trên địa bàn huyện là đơn vị y tế thuộc TTYT huyện…”; “…
chỉ thành lập Bệnh viện đa khoa ở tuyến huyện khi thực sự có nhu cầu, điều kiện và
phải đáp ứng đủ tiêu chuẩn là bệnh viện hạng II trở lên…” (Hình 2). Đến tháng
10/2016, đã có 18 tỉnh quy định thống nhất mô hình TTYT huyện thực hiện chức
năng YTDP và KCB (14 tỉnh sáp nhập TTYT với bệnh viện huyện, 4 tỉnh đã có mô
hình TTYT huyện thực hiện 2 chức năng từ trước). Việc thực hiện tổ chức TTYT
huyện có 2 chức năng phù hợp với điều kiện thực tế, tránh đầu tư dàn trải; tập hợp
được nhân lực, có thể điều động, luân chuyển, huy động cán bộ y tế giữa các tuyến;
tăng kết nối giữa lĩnh vực YTDP và KCB; đảm bảo được sự chỉ đạo, hướng dẫn
thống nhất giữa tuyến huyện và tuyến xã.
Tuyến xã: Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 33/2015/TT-BYT hướng dẫn
chức năng, nhiệm vụ của TYT xã, phường, thị trấn. Trước đó, Chính phủ đã ban
hành Nghị định số 117/2014/NĐ-CP về y tế xã. Đến nay đã có 62/63 tỉnh đã quy
định TYT xã là đơn vị y tế thuộc TTYT huyện.
3.3. Cơ sở y tế với vấn đề tự chủ và trách nhiệm xã hội
Nghị quyết 19-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII ban hành
ngày 25-10-2017 về “Tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất
lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập” có nêu mục tiêu
tổng quát là: “Đổi mới căn bản, toàn diện và đồng bộ hệ thống các đơn vị sự nghiệp
công lập, bảo đảm tinh gọn, có cơ cấu hợp lý, có năng lực tự chủ, quản trị tiên tiến,
hoạt động hiệu lực, hiệu quả; giữ vai trò chủ đạo, then chốt trong thị trường dịch vụ
sự nghiệp công; cung ứng dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu có chất lượng
ngày càng cao.... Phát triển thị trường dịch vụ sự nghiệp công và thu hút mạnh mẽ
các thành phần kinh tế tham gia phát triển dịch vụ sự nghiệp công”. Mục tiêu cụ thể
đề ra, trong giai đoạn đến 2021 phấn đấu có 10% đơn vị tự chủ tài chính và đến
2025 có 20% đơn vị tự chủ tài chính.
Nghị quyết 20-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII ban hành
ngày 25-10-2017 về “Tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe
nhân dân trong tình hình mới” nêu rõ: “Đổi mới mạnh mẽ công tác quản lý và tổ
chức hoạt động của các đơn vị sự nghiệp y tế công lập. Đẩy mạnh thực hiện quyền
tự chủ về nhiệm vụ chuyên môn, tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính gắn với
trách nhiệm giải trình, công khai, minh bạch”.
Thực hiện Nghị quyết 19-NQ/TW và Nghị quyết 20-NQ/TW của Ban Chấp
hành Trung ương, Bộ Y tế xác định nhiệm vụ trọng tâm nâng cao chất lượng dịch
vụ y tế với mục tiêu bao phủ sức khỏe toàn dân gắn với việc trao quyền tự chủ cho
các đơn vị, đặc biệt là tự chủ về tài chính. Thời gian qua, ngành Y tế đã thực hiện
đổi mới mạnh mẽ và đạt nhiều kết quả tích cực. Năm 2019, ngành Y tế có 29 đơn
vị được giao quyền tự chủ (tăng 4 đơn vị so với năm 2018), qua đó, ước tính sẽ tiết
kiệm chi ngân sách nhà nước gần 3.000 tỷ đồng/năm đối với tuyến Trung ương và
gần 15.000 tỷ đồng đối với hệ thống y tế địa phương9.
Thực tế cho thấy, cơ chế tự chủ từng bước phát huy tính năng động của các
bệnh viện, khuyến khích và tạo điều kiện cho các bệnh viện huy động nguồn vốn
ngoài ngân sách để đầu tư, mua sắm trang thiết bị. Nhờ đó, người dân được tiếp cận
các dịch vụ kỹ thuật y tế hiện đại, đồng thời tăng nguồn thu cho bệnh viện. Thời
gian qua, các bệnh viện cũng đã thực hiện nhiều giải pháp để nâng cao chất lượng
khám chữa bệnh, rà soát, sửa đổi, bổ sung các nhiệm vụ có khả năng triển khai và
phù hợp với năng lực của mình. Trên cơ sở đó, tổ chức lại, sáp nhập, chia tách, giải
thể các đơn vị trực thuộc hoạt động không hiệu quả hoặc chưa phù hợp để thành lập
các đơn vị mới hoạt động có hiệu quả hơn. Bản thân các y, bác sĩ, nhân viên bệnh
viện cũng ý thức rõ hơn tinh thần phục vụ người bệnh, để có thái độ chuẩn mực
hơn. Từ đó, chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh ngày càng nâng cao, đáp ứng đa
dạng các nhu cầu của người bệnh.
Tuy nhiên, quá trình thực hiện vấn đề tự chủ ở các cơ sở y tế đã bộc lộ một
số vấn đề bất cập: tự chủ toàn diện cho các bệnh viện xuất hiện tình trạng lạm thu,
tăng giá dịch vụ y tế, chỉ định dịch vụ cận lâm sàng, có kéo dài thời gian nằm điều
trị, giảm chi phí tối thiểu để tăng chênh lệch thu - chi, có sự phân biệt, bất bình
đẳng giữa bệnh nhân khám, điều trị bình thường, bệnh nhân có BHYT và dịch vụ.
Tự chủ diễn ra mạnh ở khối khám và chữa bệnh, ở tuyến trên, ở khối dự phòng và
tuyến dưới vấn đề tự chủ chưa có sự đột phá…
Tự chủ để nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe cho người dân, không thể
tách rời trách nhiệm xã hội, tính nhân văn của ngành Y tế. Để tránh các hiện tượng
tiêu cực, trục lợi BHYT, tận thu, cần có cơ chế công khai, minh bạch tài chính, thể
hiện được trách nhiệm của Nhà nước đối với chăm sóc sức khỏe nhân dân, tạo
dựng niềm tin và sự an tâm cho người dân. Điều đó đòi hỏi Quốc hội phải liên tục
9
Cao Nguyên: Tự chủ bệnh viện công lập: Bảo đảm hài hòa lợi ích cơ sở y tế và người bệnh, Tạp
chí Tuyên giáo, cập nhật 24/9/2019
cập nhật và sửa đổi những điều luật liên quan. Phải khuyến khích được nguồn lực
đầu tư vào y tế, tăng khả năng cung ứng dịch vụ. Khi nhu cầu của người bệnh và
khả năng cung cấp của xã hội cân bằng thì sẽ bảo đảm tính công khai, minh bạch.
Với Luật BHYT, 90% người dân đã tham gia BHYT. Ngân hàng Thế giới đánh giá
về y tế Việt Nam cho rằng, tỷ lệ người nghèo mắc bệnh không được điều trị y tế
thấp hơn rất nhiều so với các khu vực trên thế giới nhờ vào lưới BHYT này. Đây là
một thành tựu lớn trong bảo đảm an sinh xã hội. Tuy nhiên, để bảo đảm chất lượng
y tế cao hơn thì mức đóng phải cao hơn. Do đó, Chính phủ cần có lộ trình nâng
mức đóng BHYT, mở thêm các gói BHYT để tạo cơ hội cho người dân có điều
kiện tốt nhất trong chăm sóc sức khỏe
IV. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG NGHỀ NGHIỆP VÀ
CHỨC DANH NGHỀ NGHIỆP VIÊN CHỨC Y TẾ
4.1. Cơ sở pháp lý và các khái niệm
a. Cơ sở pháp lý
Luật viên chức 2010 số 58/2010/QH12 ngày 15 tháng 11 năm 2010 quy định
về viên chức; quyền nghĩa vụ của viên chức; tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên
chức trong đơn vị sự nghiệp công lập
b. Khái niệm
- Hoạt động nghề nghiệp: Theo quy định tại Điều 4 Luật viên chức 2010 thì
hoạt động nghề nghiệp của viên chức được quy định cụ thể như sau: Hoạt động
nghề nghiệp của viên chức là việc thực hiện công việc hoặc nhiệm vụ có yêu cầu về
trình độ, năng lực, kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ trong đơn vị sự nghiệp công lập
theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
- Chức danh nghề nghiệp: Theo quy định tại Điều 8 Luật viên chức 2010 thì
chức danh nghề nghiệp của viên chức được quy định cụ thể như sau: Chức danh
nghề nghiệp là tên gọi thể hiện trình độ và năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của
viên chức trong từng lĩnh vực nghề nghiệp.
Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ có liên quan quy
định hệ thống danh mục, tiêu chuẩn và mã số chức danh nghề nghiệp.
4.2. Phân hạng chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành Bác sĩ
Thông tư liên tịch số 10/2015/TTLT-BYT-BNV ngày 27/05/2015 của Bộ Y
tế, Bộ Nội vụ Quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp bác sĩ, bác sĩ y
học dự phòng, y sĩ:
Điều 2. Mã số, phân hạng chức danh nghề nghiệp bác sĩ, bác sĩ y học dự
phòng, y sĩ:
Trong đó, mhóm chức danh bác sĩ, bao gồm:
a) Bác sĩ cao cấp (hạng I) Mã số: V.08.01.01
b) Bác sĩ chính (hạng II) Mã số: V.08.01.02
c) Bác sĩ (hạng III) Mã số: V.08.01.03
4.3. Tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp Bác sĩ (hạng III)
a. Tiêu chuẩn về đạo đức nghề nghiệp (Điều 3, Thông tư 10)
1. Tận tuỵ phục vụ sự nghiệp chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khoẻ nhân dân.
2. Hiểu biết và thực hiện đúng quy tắc ứng xử của viên chức ngành y tế.
3. Thực hành nghề nghiệp theo đúng quy chế, quy định, quy trình chuyên
môn kỹ thuật và các quy định khác của pháp luật.
4. Không ngừng học tập nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ.
5. Tôn trọng quyền của người bệnh.
6. Trung thực, khách quan, công bằng, trách nhiệm, đoàn kết, tôn trọng và
hợp tác với đồng nghiệp trong thực hành nghề nghiệp
b. Tiêu chuẩn về trình độ đào tạo, bồi dưỡng
1) Tốt nghiệp bác sĩ trở lên (trừ bác sĩ chuyên ngành y học dự phòng);
2) Có trình độ ngoại ngữ bậc 2 (A2) trở lên theo quy định tại Thông tư số
01/2014/TT-BGDĐT ngày 24 tháng 01 năm 2014 của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban
hành khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam hoặc có chứng chỉ tiếng
dân tộc đối với vị trí việc làm có yêu cầu sử dụng tiếng dân tộc;
3) Có trình độ tin học đạt chuẩn kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin cơ bản
theo quy định tại Thông tư số 03/2014/TT-BTTTT ngày 11 tháng 3 năm 2014 của Bộ
Thông tin và Truyền thông quy định chuẩn kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin.
c. Tiêu chuẩn về năng lực chuyên môn, nghiệp vụ
1) Hiểu biết quan điểm, chủ trương đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân;
nắm được định hướng phát triển chuyên môn, kỹ thuật chuyên ngành;
2) Có kỹ năng chẩn đoán, xử trí, theo dõi và dự phòng các bệnh thường gặp
và cấp cứu thông thường;
3) Áp dụng y học cổ truyền trong công tác phòng bệnh và chữa bệnh;
4) Thực hiện được công tác tư vấn, giáo dục sức khỏe nhân dân;
5) Có kỹ năng giao tiếp, cộng tác với đối tượng phục vụ và đồng nghiệp
CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN
1. Phân ngành kinh tế và phân ngành trong việc tổ chức bộ máy hành chính nhà
nước ở Việt Nam qua các giai đoạn như thế nào?
2. Những vấn đề đặt ra trong thực tiễn tổ chức bộ máy các cơ quan chuyên môn
thuộc Ủy ban nhân dân các cấp ở Việt Nam?
3. Những vấn đề đặt ra trong quản lý ngành ở địa phương Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay? Liên hệ thực tế với ngành/lĩnh vực học viên công tác.
4. Các loại hình đơn vị hành chính - lãnh thổ? Những yếu tố ảnh hưởng tới việc
phân chia đơn vị hành chính - lãnh thổ?
5. Mối quan hệ giữa quản lý nhà nước theo ngành và quản lý nhà nước theo lãnh
thổ? Chi ví dụ minh họa.
1. Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa XII Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức
bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
2. Nghị quyết số 1210/2016/UBTVQH13 ngày 25/5/2016 của UBTVQH về phân
loại đô thị.
3. Nghị định 43/2006/NĐ-CP, ngày 25/4/2006 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với
ĐVSNCL;
4. Nghị định 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ về quy định cơ chế tự chủ
của ĐVSNCL;
5. Quyết định 695/2015/QĐ-TTg, ngày 21/5/2015 của Chính phủ ban hành kế hoạch
triển khai thực hiện Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 của chính phủ quy
định cơ chế tự chủ của ĐVSNCL.
6. Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13 ngày 25/5/2016 về tiêu chuẩn của đơn vị
hành chính và phân loại đơn vị hành chính.
7. Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 2013. - Luật tổ chức Chính phủ năm
2015.
8. Luật tổ chức Chính quyền địa phương năm 2015.
9. Nghị định số 123/2016/NĐ-CP ngày 01/9/2016 của Chính phủ quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang bộ.
10.Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg ngày 06/7/2018 của Thủ tướng Chính phủ về
việc ban hành Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam.
11.Đại học Quốc gia Hà Nội - Khoa Luật: Phân cấp quản lý nhà nước ở Việt Nam,
thực trạng và triển vọng, NXB Công an nhân dân, 2011.
12.Tổng cục Thống kê: Danh mục các đơn vị hành chính Việt Nam 2010, NXB.
Thống kê, 2011.
13.Hoàng Vĩnh Giang: Giải pháp cho các tình huống quản lý hành chính cấp cơ sở,
NXB. Chính trị Quốc gia, 2014.
14.Đoàn Văn Nhuệ: Giáo trình Quản lý phát triển địa phương, NXB. Chính trị
Quốc gia, 2015.
Chuyên đề 4
CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
THÔNG TIN TRONG LĨNH VỰC Y TẾ
4.3. Thiết lập và đảm bảo sự kết nối, liên thông giữa các hệ thống thông tin y tế
Việc thiết lập và đảm bảo sự kết nối, liên thông giữa các hệ thống thông tin y
tế là một nội dung quan trọng của ứng dụng công nghệ thông tin trong hệ thống y
tế. Nội dung này đã được thể hiện ở “Tiêu chuẩn HL7”. Tiêu chuẩn HL7 là chữ viết
tắt của cụm từ tiếng Anh “Health Level 7 Standard” là tiêu chuẩn quốc tế cung cấp
giao thức về quản lý, trao đổi và tích hợp thông tin y tế điện tử giữa các hệ thống
thông tin y tế.
So với HIS (tập trung vào vấn đề quản lý bệnh viện), HL7 tập trung vào việc
kết nối, chia sẻ dữ liệu về lâm sàng, hành chính và chuyên môn giữa các đơn vị y tế
với nhau.
Nhiệm vụ của HL7 là cung cấp một chuẩn cho trao đổi, quản lý và tích hợp
thống nhất dữ liệu về trợ giúp chăm sóc lâm sàng bệnh nhân, quản lý, phân phát,
đánh giá về hoạt động y tế. Đặc biệt, HL7 giúp cho việc tiếp cận, chuẩn hoá, hướng
dẫn, phương pháp và phục vụ liên quan cho khả năng giao tiếp giữa các hệ thống
thông tin y tế. HL7 là định dạng các gói thông tin (dữ liệu) gửi đi giữa các bệnh
viện với nhau, các bệnh viện với sở y tế, với Bộ Y tế.
Như vậy, với việc xây dựng chuẩn HL7 được sử dụng dùng chung trong hệ
thống hệ thống bệnh viện trong toàn quốc sẽ giải quyết được sự đa dạng, không
thống nhất của các phần mềm quản lý ở các bệnh viện khác nhau, mà vẫn kết nối,
báo cáo, trao đổi thông tin, hình ảnh cho nhau được. Tiêu chuẩn HL7 giúp cho việc
kết nối giữa các hệ thống IT trong lĩnh vực y tế, các hệ thống này gửi đi hoặc tiếp
nhận các bản tin về việc đăng ký/nhập viện của bệnh nhân, dữ liệu xuất viện hoặc
chuyển chuyên khoa (ADT), truy vấn, nguồn tài nguyên và xếp lịch bệnh nhân, chỉ
định, kết quả, các quan sát lâm sàng, lập hóa đơn, thông tin cập nhật danh mục
dùng chung, hồ sơ bệnh án, lập lịch/kế hoạch, giới thiệu bệnh nhân (chuyển viện),
chăm sóc bệnh nhân, tự động hóa phòng xét nghiệm cận lâm sàng, quản lý ứng
dụng và quản lý nhân sự.
Chuyên đề 5
THỂ THỨC VÀ KỸ THUẬT TRÌNH BÀY, SOẠN THẢO VĂN BẢN
Đối với công văn, trích yếu được viết theo kiểu chữ thường, đứng, không
đậm, cỡ chữ từ 12 đến 13 và đặt ở vị trí dưới số và ký hiệu văn bản.
Ví dụ:
Số: 123/STP-VP
V/v đề nghị góp ý đối với dự án Luật Tiếp cận thông tin
Nội dung
Nội dung văn bản là phần quan trọng nhất của văn bản được trình bày tại ô
số 6 bằng chữ in thường, cỡ chữ từ 13-14, kiểu chữ đứng. Khi xuống dòng thì chữ
đầu dòng lùi vào 1 Tab (1cm-1,27cm). Khoảng cách giữa các đoạn văn (paragraph)
đặt tối thiểu là 6 pt, khoảng cách giữa các dòng (line) chọn tối thiểu từ cách dòng
đơn (single spacing) hoặc từ 15 pt (exactly line spacing) trở lên.
- Đối với những văn bản có phần căn cứ pháp lý để ban hành thì sau mỗi căn
cứ phải xuống dòng, cuối dòng có dấu chấm phẩy, riêng căn cứ cuối cùng kết thúc
bằng dấu phẩy;
- Nếu văn bản được bố cục theo chương, mục, điều, khoản, điểm thì trình
bày như sau:
+ Chương: Từ "chương" và số thứ tự của chương, được trình bày trên một
dòng riêng, canh giữa, bằng chữ in thường, cỡ chữ 14, kiểu chữ đứng, đậm. Số thứ
tự của chương được ghi bằng chữ số La Mã. Tiêu đề của chương được đặt ngay
dưới, canh giữa, bằng chữ in hoa, cỡ chữ 13 đến 14, kiểu chữ đứng đậm;
+ Mục: Từ "mục" và số thứ tự của mục được trình bày trên một dòng riêng,
canh giữa, bằng chữ in thường, cỡ chữ 14, kiểu chữ đứng, đậm. Số thứ tự của mục
được ghi bằng chữ số Ả-rập. Tiêu đề của mục được trình bày canh giữa, bằng chữ
in hoa, cỡ chữ từ 12 đến 13, kiểu chữ đứng, đậm;
+ Điều: Từ "điều", số thứ tự và tiêu đề của điều được trình bày trên cùng một
dòng bằng chữ in thường, cỡ chữ bằng cỡ chữ của phần lời văn (13-14), kiểu chữ
đứng, đậm. Số thứ tự của điều dùng chữ số Ả -rập, sau số thứ tự có dấu chấm;
+ Khoản: Số thứ tự các khoản trong mỗi điều được ghi bằng chữ số Ả-rập, tiếp
theo là dấu chấm, cỡ chữ số bằng cỡ chữ của phần lời văn (13-14), kiểu chữ đứng;
+ Điểm: Thứ tự các điểm trong mỗi khoản được ghi bằng chữ cái tiếng Việt
theo thứ tự abc, sau có dấu đóng ngoặc đơn, loại chữ in thường, cỡ chữ bằng cỡ
chữ của phần lời văn (13-14), kiểu chữ đứng.
- Trường hợp nội dung văn bản được phân chia thành các phần, mục từ lớn
đến nhỏ thì trình bày như sau:
+ Phần (nếu có): Từ "phần" và số thứ tự của phần được trình bày trên một
dòng riêng, canh giữa, bằng chữ in thường, cỡ chữ 14, kiểu chữ đứng, đậm. Số thứ
tự của phần dùng chữ số La Mã. Tiêu đề của phần được đặt ngay dưới, canh giữa,
bằng chữ in hoa, cỡ chữ từ 13 đến 14, kiểu chữ đứng đậm;
+ Mục: Số thứ tự các mục dùng chữ số La Mã, sau có dấu chấm. Tiêu đề của
mục được trình bày bằng chữ in hoa, cỡ chữ từ 13 đến 14, kiểu chữ đứng đậm;
+ Khoản: số thứ tự các khoản trong mỗi mục được ghi bằng chữ số Ả-rập,
sau đó có dấu chấm, số thứ tự và tiêu đề của khoản (nếu có) được trình bày bằng
chữ in thường, cỡ chữ bằng cỡ chữ của phần lời văn (13-14), kiểu chữ đứng, đậm;
+ Điểm: Thứ tự các điểm trong mỗi khoản được ghi bằng chữ cái tiếng Việt
theo thứ tự abc, sau đó có dấu đóng ngoặc đơn, loại chữ in thường, cỡ chữ bằng cỡ
chữ của phần lời văn (13-14), kiểu chữ đứng.
Quyền hạn, chức vụ ký, chữ ký, họ tên của người ký văn bản
Quyền hạn, chức vụ của người ký
Trường hợp ký thay mặt tập thể thì ghi chữ viết tắt TM. (thay mặt) vào trước
tên tập thể lãnh đạo hoặc tên cơ quan, tổ chức.
Trường hợp ký thay người đứng đầu cơ quan tổ chức thì phải ghi chữ viết tắt
KT. (ký thay) vào trước chức vụ của người đứng đầu.
Trường hợp ký thừa lệnh thì phải ghi chữ viết tắt TL. (thừa lệnh) vào trước
chức vụ của người đứng đầu cơ quan, tổ chức.
Trường hợp ký thừa uỷ quyền thì ghi chữ viết tắt TUQ. (thừa ủy quyền) vào
trước chức vụ của người đứng đầu cơ quan, tổ chức.
Chức vụ ghi trên văn bản là chức danh lãnh đạo chính thức của người có
thẩm quyền ký văn bản trong cơ quan, tổ chức ban hành. Trừ một số trường hợp
nhất định (văn bản liên tịch, văn bản do hai hay nhiều cơ quan, tổ chức ban hành,
văn bản ký thừa lệnh, thừa uỷ quyền), còn lại chỉ được ghi chức danh của người
đứng đầu cơ quan, tổ chức mà không trình bày lại tên của cơ quan, tổ chức đó trong
thành phần của yếu tố thể thức này. Quyền hạn và chức vụ người ký văn bản được
viết theo kiểu chữ in hoa, đứng, đậm, cỡ chữ từ 13 đến 14.
Chữ ký của người ký văn bản. Người có thẩm quyền ký cần kiểm tra kỹ nội
dung văn bản trước khi ký; ký đúng thẩm quyền; không được ký bằng bút chì, bút
mực đỏ hoặc loại mực dễ phai mờ.
Họ tên của người ký văn bản bao gồm họ, tên đệm (nếu có) và tên của người
ký văn bản. Đối với văn bản quy phạm pháp luật và văn bản hành chính, trước họ
tên của người ký, không ghi học hàm, học vị và các danh hiệu cao quý khác, trừ
văn bản của các tổ chức sự nghiệp giáo dục, y tế, nghiên cứu khoa học.
Họ tên của người ký văn bản viết theo kiểu chữ thường, đứng, đậm, cỡ chữ
từ 13 đến 14. Ví dụ:
TL. CHỦ TỊCH
CHÁNH VĂN PHÒNG
Nguyễn Văn A
Dấu của cơ quan ban hành văn bản
Việc đóng dấu trên văn bản được thực hiện theo quy định tại Nghị định
110/2004/NĐ-CP ngày 8 tháng 4 năm 2004 của Chính phủ về công tác văn thư,
Nghị định 99/2016/NĐ-CP về quản lý và sử dụng con dấu và các quy định có liên
quan khác. Cụ thể như sau:
Dấu đóng rõ ràng, ngay ngắn, đúng chiều và đúng mực dấu quy định;
Không đóng dấu khống chỉ;
Dấu đóng đúng vị trí: trùm lên khoảng 1/3 chữ ký về phía bên trái;
Việc đóng dấu treo do người ký ban hành văn bản quyết định.
Trong những trường hợp này, dấu được đóng lên trang đầu, trùm lên một
phần tên cơ quan, tổ chức ban hành hoặc tên của phụ lục kèm theo văn bản chính.
Nơi nhận
Nơi nhận xác định những cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc cá nhân nhận văn
bản với những trách nhiệm cụ thể như: để thực hiện, để phối hợp thực hiện, để
kiểm tra, giám sát, để biết, để lưu. Danh sách nơi nhận cụ thể do cơ quan, đơn vị
hoặc cá nhân chủ trì soạn thảo đề xuất và người ký văn bản quyết định. Việc xác
định nơi nhận văn bản phải căn cứ vào quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm
vụ quyền hạn và quan hệ công tác của cơ quan. Mặt khác, còn phải xem xét yêu cầu
công tác trong từng trường hợp cụ thể.
Nơi nhận của văn ản có tên loại bao gồm từ “nơi nhận” và phần liệt kê tên
các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân nhận văn bản. Yếu tố này được trình bày tại
góc trái, dưới cùng trang cuối của mỗi văn bản.
Từ “nơi nhận” được viết kiểu chữ thường, nghiêng, đậm, cỡ chữ 12. Tên các
cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân nhận văn bản viết theo kiểu chữ thường, đứng, cỡ
chữ 11. Sau từ “nơi nhận” có dấu hai chấm (:); trước tên các thành phần nhận văn
bản có dấu gạch ngang (-), sau tên mỗi thành phần nhận có dấu chấm phẩy (;) và
sau tên thành phần nhận cuối cùng là dấu chấm (.). Có thể viết tắt tên các thành
phần lưu văn bản.
Nơi nhận của công văn hành chính bao gồm 2 phần:
Phần thứ nhất bao gồm từ “kính gửi” và phần liệt kê tên các cơ quan, tổhức
hoặc cá nhân nhận văn bản. Phần này được trình bày ở vị trí bên trên phần nội dung
văn bản (thay vào vị trí tên loại công văn) và được viết theo kiểu chữ thường, đứng,
cỡ chữ 14. Phần thứ hai bao gồm từ “nơi nhận” và phần liệt kê các nơi nhận cụ thể,
(thành phần được liệt kê đầu tiên trong phần này là “như trên”).
Phần này cũng có vị trí và cách trình bày giống thể thức của nơi nhận trong
các văn bản có tên loại.
Định lề trang văn bản
Văn bản quản lý nhà nước được trình bày trên khổ giấy A4 với cách định lề
trang như sau:
Lề trên: cách mép trên trang giấy từ 20 đến 25 mm;
Lề dưới: cách mép dưới trang giấy từ 20 đến 25 mm;
Lề trái: cách mép bên trái trang giấy từ 30 đến 35 mm;
Lề phải: cách mép bên phải trang giấy từ 15 đến 20 mm;
Ngoài các yếu tố thể thức bắt buộc của văn bản được trình bày trên đây,
trong một số trường hợp còn xuất hiện các yếu tố bổ sung tùy thuộc vào mục đích
sử dụng văn bản trong những tình huống quản lý cụ thể. Cách thiết lập và trình bày
các yếu tố đó đều được quy định cụ thể tại các văn bản pháp luật của Nhà nước.
2.3. Yêu cầu về ngôn ngữ của văn bản
Văn bản quản lý nhà nước được viết theo phong cách ngôn ngữ hành chính -
công vụ. Phong cách ngôn ngữ này có các đặc trưng cơ bản là:
a. Tính chính xác
Để đảm bảo tính chính xác, cần lưu ý cách sử dụng từ ngữ trong văn bản:
- Không dùng từ đa nghĩa, làm phát sinh cách hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau;
- Dùng từ ngữ theo chuẩn phổ thông, không dùng từ ngữ địa phương, trừ
trường hợp sử dụng từ ngữ địa phương để chỉ những sự vật, hiện tượng mà chỉ địa
phương đó mới có hoặc những từ ngữ có nguồn gốc địa phương đã trở thành từ ngữ
phổ thông;
- Sử dụng hợp lý và chính xác các từ Hán - Việt và các từ gốc nước ngoài
Khác. Không nên lạm dụng từ Hán - Việt, từ ngoại nhập mà phải sử dụng một cách
thích hợp, phù hợp;
- Không lạm dụng thuật ngữ chuyên môn. Nếu trong văn bản buộc phải sử
dụng từ chuyên môn sâu thì phải giải thích, hoặc phải định nghĩa các thuật ngữ
không quen thuộc đối với đời sống nhân dân;
- Hạn chế đến mức tối đa các từ viết tắt để đảm bảo tính rõ ràng và nghiêm
túc của văn bản. Đối với các trường hợp cần viết tắt tránh dài dòng, cần phải viết
đầy đủ ở lần sử dụng đầu tiên, sau đó mở ngoặc và chú giải.
b. Tính phổ thông, đại chúng
Để đảm bảo tính phổ thông, văn bản phải được viết bằng ngôn ngữ trong
sáng, dễ hiểu, tức là bằng những ngôn ngữ phổ thông, các yếu tố ngôn ngữ nước
ngoài đã được Việt hóa tối ưu. Hạn chế sử dụng các thuật ngữ chuyên môn, trong
trường hợp bắt buộc phải sử dụng thì phải có giải thích rõ về nghĩa.
c. Tính khách quan, phi cá tính
Để đảm bảo tính khách quan, phi cá tính, từ ngữ sử dụng trong văn bản cần:
- Lựa chọn và sử dụng từ trung tính, không kèm theo sắc thái biểu cảm;
- Tránh sử dụng từ ngữ hoa mỹ, khoa trương;
- Không sử dụng thành ngữ, tục ngữ;
- Không dùng từ lóng, từ thông tục;
- Không dùng từ ngữ thuộc phong cách khẩu ngữ, các hư từ tình thái: “à, ư, nhỉ,
nhé, thì, là, mà, rằng... ''; các từ ngữ diễn đạt ý cầu khiến như “đi, nào, nhé, thôi”...
d. Tính khuôn mẫu
Tính khuôn mẫu thể hiện trong việc sử dụng từ ngữ hành chính - công vụ,
các quán ngữ kiểu: “Căn cứ vào…”, “Theo đề nghị của…”, “Các … chịu trách
nhiệm thi hành … này”…, hoặc thông qua việc lặp lại những từ ngữ, cấu trúc ngữ
pháp, dàn bài có sẵn,… Tính khuôn mẫu của văn bản giúp người soạn thảo đỡ tốn
công sức, đồng thời giúp người đọc dễ lĩnh hội, mặt khác, cho phép in ấn bản số
lượng lớn, trợ giúp cho công tác quản lý và lưu trữ theo kỹ thuật hiện đại.
đ. Tính trang trọng, lịch sự
Văn bản quản lý nhà nước là tiếng nói của cơ quan công quyền, nên phải thể
hiện tính trang trọng, uy nghiêm. Lời văn trang trọng thể hiện sự tôn trọng với các
chủ thể thi hành, làm tăng uy tín của cá nhân, tập thể ban hành văn bản.
Hơn nữa, văn bản phản ánh trình độ văn minh quản lý của dân tộc, của đất
nước. Muốn các quy phạm pháp luật, các quyết định hành chính đi vào ý thức của
mọi người dân, không thể dùng lời lẽ thô bạo, thiếu nhã nhặn, không nghiêm túc,
mặc dù văn bản có chức năng truyền đạt mệnh lệnh, ý chí quyền lực nhà nước. Đặc
tính này cần (và phải được) duy trì ngay cả trong các văn bản để quyết định các
biện pháp kỷ luật. Tính trang trọng, lịch sự của văn bản phản ánh trình độ giao tiếp
"văn minh hành chính” của một nền hành chính dân chủ, pháp quyền hiện đại.
3. Kỹ năng soạn thảo một số loại văn bản thông dụng
3.1. Soạn thảo Biên bản
a.Khái niệm
Biên bản là hình thức văn bản ghi lại những sự việc, vụ việc đang diễn ra để
làm chứng cứ pháp lý về sau. Biên bản phải được ghi trung thực, khách quan, chính
xác và đầy đủ. Biên bản không được ghi chép rồi chỉnh sửa mà phải được hình thành
ngay khi sự việc, vụ việc đã hoặc đang diễn ra mới đảm bảo được tính chân thực.
b. Phân loại biên bản
- Biên bản hội họp: Biên bản ghi lại tiến trình tổ chức thực hiện các cuộc họp
hay hội nghị; - Biên bản hành chính: Biên bản ghi chép cách tiến hành một công
việc theo quy định hành chính như biên bản mở đề thi, biên bản giao nhận và bàn
giao, biên bản hợp đồng; - Biên bản có tính chất pháp lý: Biên bản ghi chép những
vụ việc có liên quan đến pháp luật như biên bản phiên tòa, biên bản khám nghiệm
tử thi, biên bản tai nạn giao thông.
c. Phương pháp ghi biên bản
- Ghi biên bản thật đầy đủ và chính xác là công việc không dễ dàng, đặc biệt
là ghi biên bản cuộc họp hoặc ghi lời khai của nhân chứng, vì tốc độ nói bao giờ
cũng nhanh hơn tốc độ viết. Vì thế, nếu không có một số phương pháp, người ghi
biên bản khó thể theo kịp tiến độ của cuộc họp hoặc vụ việc đang diễn ra.
- Về nguyên tắc, ghi biên bản là ghi ý. Tuy nhiên, người ghi biên bản cần
phân loại khi tiếp nhận các thông tin. Nếu là thông tin để biết thì chỉ cần ý chính;
nếu là thông tin để biết và để thực hiện thì phải ghi đầy đủ, không được bỏ sót ý
nào, với những thông tin quan trọng cũng vậy. Trường hợp người phát biểu ý kiến
yêu cầu ghi nguyên văn thì người ghi biên bản có thể sử dụng hình thức dẫn lời nói
trực tiếp. - Cần tập trung lắng nghe và có trí nhớ tốt, vận dụng kỹ thuật ghi chép
nhanh. Có thể sử dụng các cách biến đổi câu trong tiếng Việt để có thể lựa chọn
cấu trúc câu ngắn nhất mà vẫn đảm bảo thông tin được diễn đạt đầy đủ và chính
xác. Có thể viết tắt một số từ thông dụng (UBND, TNHH, CP,…) - Chuẩn bị sẵn
các mẫu ghi biên bản để khi cuộc họp hoặc vụ việc diễn ra thì có thể ghi chép ngay.
d. Cấu trúc biên bản
Cấu trúc biên bản thường gồm 3 phần:
- Phần mở đầu
+ Thời gian, địa điểm lập biên bản;
+ Thành phần tham dự.
- Phần nội dung
+ Nếu là biên bản hội họp hoặc vụ việc đang diễn ra thì ghi theo tiến trình
của cuộc họp, hội nghị, vụ việc đó;
+ Biên bản vụ việc đã xảy ra thì mô tả lại hiện trường, ghi chép lại lời khai
của nhân chứng, đương sự hoặc nhận định của những người có liên quan.
- Phần kết thúc:
+ Ghi thời gian, địa điểm kết thúc việc lập biên bản;
+ Nếu biên bản được thông qua những người tham dự thì phải ghi rõ, hoặc
nếu biên bản được lập thành nhiều bản thì cũng phải ghi rõ số bản được lập.
+ Biên bản phải có chữ ký của cán bộ lập biên bản và chữ ký của chủ tọa
(nếu là biên bản hội họp), hoặc tùy theo tính chất của vụ việc, biên bản phải có chữ
ký của người đại diện tổ chức vi phạm, chữ ký của người làm chứng và người bị
hại (nếu có).
đ. Một số mẫu Biên bản
Biên bản hội nghị
Biên bản vụ việc
Biên
bản
thanh lý hợp đồng
3.2. Soạn thảo Quyết định
a. Khái niệm
Quyết định là loại hình văn bản dùng để quy định hay định ra chế độ, chính
sách (quyết định quy phạm pháp luật) hoặc áp dụng chế độ chính sách một lần cho
một đối tượng cụ thể (quyết định cá biệt).
Quyết định cá biệt dùng để tổ chức và điều chỉnh hoạt động của cơ quan, tổ
chức trong việc chấp hành pháp luật, thường được sử dụng trong những trường hợp
sau đây : - Quyết định ban hành các chế độ, chính sách trong cơ quan, tổ chức như
ban hành các chế độ công tác, ban hành nội quy hoạt động; - Quyết định về công
tác tổ chức nhân sự, lao động tiền lương bao gồm quyết định tiếp nhận, tăng lương,
kỷ luật, cho thôi việc, bổ nhiệm, điều động cán bộ - nhân viên, quyết định thành lập
cơ quan, đơn vị; - Quyết định về việc thực hiện các quyết định quản lý sản xuất,
kinh doanh; quản lý tài sản như thanh lý, kiểm kê, cấp phát vật tư tài sản…
b. Thẩm quyền ban hành
Thẩm quyền ban hành quyết định quy phạm pháp luật được quy định cụ thể
trong Hiến pháp năm 1992 và trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật,
bao gồm Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính
phủ, Bộ trưởng và Thủ trưởng các cơ quan ngang Bộ, Uỷ ban nhân dân các cấp.
Đối với quyết định cá biệt, thẩm quyền ban hành căn cứ theo tư cách pháp
nhân của cơ quan, doanh nghiệp trong phạm vi, chức vụ quyền hạn của chủ thể
pháp nhân đã được nhà nước quy định. Theo đó, các cơ quan, tổ chức, doanh
nghiệp có chức năng quản lý hành chính, quản lý kinh tế, quản lý nội bộ có quyền
ban hành quyết định để áp dụng pháp luật trong quá trình hoạt động.
c. Cấu trúc của quyết định
Cấu trúc của quyết định gồm hai phần: phần căn cứ ban hành quyết định và
nội dung điều chỉnh.
1-Phần căn cứ ban hành quyết định: gồm căn cứ pháp lý và căn cứ thực tế
Căn cứ pháp lý dùng để ban hành quyết định gồm căn cứ thẩm quyền và căn
cứ áp dụng.
Căn cứ thẩm quyền cần phảiđược đưa vào trong quyết định như là một
nguyên tắc để chứng minh cho quyền của chủ thể pháp nhân được ban hành văn
bản quyết định nhằm điều chỉnh các mối quan hệ trong phạm vi chức năng và
quyền hạn của mình. Căn cứ thẩm quyền được nêu dưới hình thức quyết định thành
lập cơ quan.
Căn cứ áp dụng là phần nêu cơ sở pháp lý sẽ sử dụng trong nội quy điều chỉnh.
Một quyết định nếu trái pháp luật sẽ không có giá trị pháp lý. Vì thế, trong phần căn
cứ áp dụng của quyết định, phải nêu các văn bản quy phạm pháp luật về chế độ chính
sách có liên quan đến nội dung điều chỉnh của quyết định như các loại văn bản Luật,
Pháp lệnh; Nghị định của Chính phủ; Thông tư hướng dẫn về quyết định ban hành
hoặc quy định chế độ chính sách của cơ quan cấp Bộ, các văn bản khác của cơ quan
quản lý nhà nước ở cấp địa phương về những vấn đề có liên quan.
Căn cứ thực tế là những điều kiện hay tình hình thực tiễn làm cơ sở để ban
hành quyết định. Phần này thường nêu các văn bản như công văn, tờ trình, dự án…
của các đơn vị trực thuộc có liên quan đến nội dung điều chỉnh của quyết định;
cũng có thể thông qua việc xem xét tình hình thực tế (về đối tượng, nhu cầu và tình
hình hoạt động của cơ quan) có liên quan đến đối tượng và hành vi điều chỉnh.
Quyết định cũng có thể dựa vào những cơ sở thực tế (như căn cứ năng lực, phẩm
chất của cán bộ và nhu cầu công tác của cơ quan, đơn vị).
Lưu ý: Mỗi căn cứ pháp lý và thực tế có thể dẫn nhiều văn bản liên quan.
Khi việc dân các văn bản pháp lý, người soạn thảo cần lưu ý đến tính phù
hợp của quy định trong văn bản được viện dẫn và nội dung điều chỉnh của quyết
định. Khi viện dẫn, mỗi văn bản được trình bày một dòng. Cuối mỗi căn cứ
có dấu chấm phẩy, cuối dòng căn cứ sau cùng sử dụng dấu phẩy.
2- Phần nội dung điều chỉnh bằng các điều khoản
Phần nội dung của quyết định được soạn thảo các điều khoản khác nhau thể
hiện các mệnh lệnh và các yêu cầu của cơ quan, tổ chức. Số lượng các điều phụ
thuộc vào nội dung và đối tượng điều chỉnh. Tuy nhiên, mỗi quyết định phải có tối
thiểu hai điều: một điều trình bày nội dung điều chỉnh và một điều khoản thi hành.
Các điều của quyết định được trình bày ngắn gọn, cô đọng và sắp xếp theo
trình tự logic nhất định, cụ thể như sau :
- Điều 1 phải nêu bốn nội dung: hành vi điều chỉnh, đối tượng được điều
chỉnh, mức độ điều chỉnh và thời gian điều chỉnh, ví dụ :
Tăng lương, bổ nhiệm….. ông, bà…..
Từ….. đến…… từ ngày …..tháng……năm …….
- Điều 2 nêu những vấn đề kèm theo khi thực hiện điều chinh hoặc những
điều chỉnh bổ sung cho điều 1, cụ thể như sau:
Nếu quyết định có 2 điều (như tăng lương, ban hành chế độ chính sách, cấp
phát vật tư….) thì điều 2 là điều khoản thi hành.
Nếu quyết định có 3 điều (như bổ nhiệm, điều động, cho thôi việc…) thì điều
2 quy định về lương và phụ cấp.
Nếu quyết định có 4 điều (như thành lập cơ quan, đơn vị) thì điều 2 quy định
chứ năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan đơn vị được thành lập.
- Điều 3 nêu điều khoản thi hành, cụ thể cần xác định rõ các đối tượng trực
tiếp hoặc liên quan có trách nhiệm thi hành quyết định bằng cách nêu chức danh
của các đối tượng đó, ví dụ:
Các ông (bà)….(Trưởng phòng hay Trưởng đơn vị đề nghị, Trưởng các
phòng ban có liên quan và đối tượng được điều chỉnh) chịu trách nhiệm thi hành
quyết định này.
c. Mẫu trình bày quyết định
Mẫu quyết định chung
Timely Mục tiêu phải có thời gian để biết mình cần thực
hiện cách nào nhanh nhất, thời gian chờ đợi kết
T (Thời hạn)
quả là khi nào. Nếu không có thời gian cụ thể sẽ
khiến nhanh nản lòng.
Cần phải thường xuyên xem xét (cập nhật) lại các mục tiêu sao cho phù hợp
nhiệm vụ, công vụ được giao, có thể bằng các câu hỏi:
Các mục tiêu này có còn thực tế không?
- Các mục tiêu này có còn phù hợp không?
- Các mục tiêu này có còn liên quan không?
- Nếu bỏ các mục tiêu này có ảnh hưởng đến người khác không?
b. Xác định khung thời gian làm việc tốt nhất.
Khung giờ vàng là những thời điểm trong ngày mà người ta có năng lượng
dồi dào nhất, điều này sẽ phụ thuộc theo nhịp sinh học mỗi người khác nhau. Một
khi tự mình khám phá ra thời điểm tối ưu theo nhịp sinh học của chính mình, chúng
ta có thể tái thiết lập thời gian biểu để làm các nhiệm vụ hay công việc quan trọng
và ý nghĩa nhất trong các thời điểm này. Vậy, những việc mà công chức cho là
quan trọng nhất hãy dành thực hiện vào thời điểm khi tỉnh táo và tràn đầy năng
lượng nhất, khi đó công việc sẽ được giải quyết một cách nhanh chóng và có kết
quả như mong muốn.
c. Kiểm tra cách sử dụng thời gian của cá nhân
Để quản lý thời gian tốt, một trong những biện pháp nên thường xuyên thực
hiện, đó là kiểm kê thời gian để từ đó đánh giá mức độ hiệu quả trong việc sử dụng
thời gian cá nhân của bản thân. Kiểm kê thời gian nghĩa là liệt kê tất cả công việc
từ việc lớn đến việc nhỏ, từ việc chuyên môn đến việc riêng tư... trong khoảng thời
gian từ 5, 10, 15, 20 phút...; ghi chép và thống kê chi tiết việc sử dụng thời gian liên
tiếp trong 3 ngày đến 1 tuần; và khuyến khích lặp lại ít nhất 3 lần trong 1 năm.
Cách thức mổ xẻ thời gian như vậy sẽ giúp trả lời các câu hỏi: Tôi dành thời gian
bao nhiêu để họp hành? Tôi đã làm công việc của người khác mất bao lâu? Bao
nhiều thời gian trong ngày, tôi đã dành cho việc đi tìm tài liệu, sổ sách? ... Từ đó,
công chức sẽ có phương hướng điều chỉnh thời gian cho hợp lý và hiệu quả phù
hợp với mục tiêu. Một công cụ tốt để giúp đánh giá việc sử dụng và phân bổ thời
gian của mình, đó là nhật ký thời gian. Công cụ này được trình bày cụ thể trong
phần 3 của chuyên đề.
d. Kiểm soát cảm giác căng thẳng
Kiểm soát căng thẳng hiệu quả có thể giúp công chức vượt qua áp lực của
công việc, từ đó sẽ cảm thấy yêu công việc hơn, hạnh phúc hơn, khỏe mạnh hơn và
làm việc năng suất hơn. Một số chuyên gia khuyên rằng, một cách tốt để xóa tan
căng thẳng hay áp lực công việc là vận động và tập thể dục. Bên cạnh đó, cũng có
thể giải tỏa căng thằng trong công việc bằng cách dành thời gian để thư giãn và giải
trí, đừng cố gắng theo đuổi nhịp sống vội vã đến nỗi quên đi những nhu cầu của
chính bản thân công chức.
đ. Giữ tập trung khi làm việc
Việc vận dụng các nguyên tắc để quản lý thời gian hiệu quả đòi hỏi phải có
tính kỷ luật và rèn luyện thường xuyên để tạo thói quen. Nếu đã lập kế hoạch thực
hiện cụ thể, nhưng lại không có kỷ luật tuân thủ thực hiện công việc theo thời gian
đã xác định trong kế hoạch thì kế hoạch sẽ bị phá vỡ. Điều này có nghĩa là quản lý
thời gian bị thất bại.
Để rèn tính kỷ luật và tập trung, phải luôn nghiêm khắc với chính mình. Cần xác
định công việc đó ảnh hưởng đến công chức thế nào và nếu không hoàn thành công việc
thì sẽ có một kết quả không tốt. Hôm nay không làm được việc đó, sẽ phải làm vào hôm
sau, và nó sẽ chiếm mất thời gian biểu hôm sau, cứ thế dần dần công chức sẽ không đạt
được mục tiêu đã đề ra chỉ vì một ngày không hoàn thành công việc.
e. Chuẩn bị cho sự thay đổi
Ở các cơ quan nhà nước, trong quá trình thực hiện công việc, cán bộ, công
chức có thể gặp phải những sự vụ mang tính đột xuất và khẩn cấp, sự cố... Các sự
cố này có thể làm "cháy" kế hoạch công việc đã lập sẵn. Mặc dù không thể dự đoán
được khi nào chúng xảy ra, song công chức có thể luôn sẵn sàng chuẩn bị cho sự
thay đổi này bằng cách dự trù trước một lượng thời gian nhất định để giải quyết
những sự vụ đột xuất và khẩn cấp. Dựa vào đó, công chức có thể chủ động lên kế
hoạch công việc cho mình.
2.2. Thực hành ngăn nắp
a. Dọn dẹp bàn làm việc
Sắp xếp nơi làm việc một cách gọn gàng, ngăn nắp và khoa học cũng là một
cách hiệu quả để tránh lãng phí thời gian. Điều này tuy rất nhỏ nhưng nó sẽ giúp
tiết kiệm được rất nhiều thời gian. Thay vì phải lục tung mọi thứ để tìm một văn
bản nào đó thì chỉ cần đọc danh sách tài liệu là biết ngay nó đang ở đâu. Thói quen
này sẽ giúp công chức không mất quả nhiều thời gian vào việc tìm kiếm đồ đạc hay
tổng vệ sinh đống lộn xộn trong phòng.
b. Thực hành 5S: Sàng lọc, Sắp xếp, Sạch sẽ, Săn sóc, Sẵn sàng.
5S là tên của một phương pháp quản lý, sắp xếp nơi làm việc được vận dụng
đầu tiên ở Nhật. Áp dụng 5S mang lại nhiều lợi ích như: chỗ làm việc sạch sẽ, gọn
gàng, mọi người đều cảm thấy thoải mái, vui vẻ, năng suất lao động cao, hiệu quả
tức thời, hiện ra ngay trước mắt, tạo hình ảnh tốt cho tổ chức.
S1 - Sàng lọc: Sàng lọc có nghĩa là phân loại, tổ chức các tài liệu, vật dụng
theo trật tự. Đây chính là bước đầu tiên cần làm trong thực hành 5S. Nội dung
chính của S1 là phân loại, loại bỏ những thứ không cần thiết.
S2 - Sắp xếp: Sau khi đã loại bỏ các tài liệu, vật dụng không cần thiết thì
công việc tiếp theo là tổ chức các tài liệu, vật dụng còn lại một cách hiệu quả theo
tiêu chí dễ tìm, dễ thấy, dễ lấy, dễ trả lại.
S3 - Sạch sẽ: Thường xuyên vệ sinh, giữ gìn nơi làm việc sạch sẽ thông qua
việc tổ chức vệ sinh tổng thể và tổ chức vệ sinh hàng ngày nơi làm việc. S3 hướng
tới cải thiện một môi trường làm việc sạch sẽ, thoải mái, thoáng mát... nhằm nâng
cao tinh thần và hứng thú với công việc.
S4 - Săn sóc: Luôn luôn kiểm tra, duy trì 3S ở trên. Bằng việc phát triển S4,
các hoạt động 3S sẽ được cải tiến dần dựa theo tiêu chuẩn đã đặt ra và tiến tới hoàn
thiện 5S trong cơ quan, tổ chức.
S5 - Sẵn sàng: Nghĩa là rèn luyện, tạo nên một thói quen, nề nếp, tác phong
cho mọi người trong cơ quan để thực hiện 5S thường xuyên và chủ động.
2.3. Lập kế hoạch công việc
a. Lập danh sách các công việc cần sẵn sàng
Một lỗi hay gặp về quản lý thời gian là cố gắng sử dụng trí nhớ để ghi nhớ
quá nhiều chi tiết dẫn đến việc thông tin bị quá tải. Sử dụng danh sách việc phải
làm để viết ra các việc là một cách rất hiệu quả nhằm kiểm soát dự án và các nhiệm
vụ phải thực hiện và giữ cho bản thân làm việc có tổ chức.
b. Lập kế hoạch làm việc và các bước thực hiện
Dành thời gian vào đầu tuần để lên kế hoạch công việc cho một tuần làm
việc. Điều này sẽ giúp tăng hiệu suất làm việc và cân bằng những dự án quan trọng
dài hạn với những nhiệm vụ đang cần kíp. Tất cả những gì chúng ta cần là 15 đến
30 phút mỗi tuần để lên kế hoạch cho cả tuần làm việc.
Một cách lập kế hoạch công việc khá hiệu quả, đó là vận dụng công thức STARS.
Steps - Các bước công việc (số thứ tự công việc)
Timing - Ấn định thời gian cho thực hiện công việc
Assignment - Phân công người thực hiện
Responsibility - Người chịu trách nhiệm
Success Criteria - Tiêu chí thành công, kết quả đạt được
Người chịu
Người thực Tiêu chí cần
Các bước (S) Thời gian (T) trách nhiệm
hiện (A) đạt được (S)
(R)
Điều quan trọng là phải ghi lại các công việc cùng với thời lượng đã sử dụng
một cách chính xác và theo trình tự thời gian. Không chỉ ghi lại các công việc lớn,
quan trọng chiếm nhiều thời gian hoặc đã được lên lịch trước như đến công sở, hội
họp, viết báo cáo, xử lý công việc… mà cả các việc nhỏ, không quan trọng nhưng
vẫn chiếm thời gian trong ngày của bạn như thăm hỏi, hiếu hỉ, mua sắm hay tán
gẫu với đồng nghiệp….
Để phân tích việc phân bổ và sử dụng thời gian, phải ghi lại nhật ký thời gian ít
nhất là 3 ngày, kết quả sẽ tốt hơn nếu ghi nhật ký thời gian trong một tuần.
Sau khi có nhật ký thời gian, chúng ta tiến hành phân tích nhật ký. Công việc
phân tích nhật ký thời gian gồm 2 bước:
Bước 1: Phân loại công việc theo các nhóm
Việc phân loại công việc theo nhóm dựa vào bản chất công việc. Công việc
(CV) có thể được phân loại thành 3 nhóm như sau:
Nhóm CV 1: Công việc phục vụ nhu cầu cá nhân (ăn uống, nghỉ ngơi…)
Nhóm CV 2: Công việc phục vụ cho công tác, chuyên môn
Nhóm CV 3: Công việc dành cho xã hội, gia đình và sở thích Sau khi hoàn
thành việc phân loại công việc, bạn tính tỷ lệ phần trăm (%) thời gian đã sử dụng
cho từng nhóm công việc.
Bước 2: Nhận định cách phân ổ thời gian cho từng nhóm công việc. Có thể
nhận định về cách phân bổ thời gian cho từng nhóm công việc thông qua trả lời các
câu hỏi sau:
Tôi đã dành thời gian nhiều nhất cho nhóm công việc nào?
Tôi đã dành bao nhiêu thời gian cho công việc chuyên môn?
Tôi có đang làm quá nhiều việc so với khả năng của mình không?
Bao nhiêu thời gian của tôi đã bị “đánh cắp” vào những việc không phải của
mình hoặc không thực sự cần đến sự có mặt của mình?
Phân bổ thời gian lý tưởng:
CV3: 25%
CV2: 50%
CV1: 25%
Kết quả phân tích nhật ký thời gian sẽ là cơ sở để chúng ta phân bổ lại thời
gian cho các nhóm công việc hợp lý hơn.
3.2. Lịch công việc
Để có thể kiểm soát và sử dụng thời gian của mình một cách hiệu quả, điều
quan trọng cần phải trù tính và lập kế hoạch trước cho thời gian của mình. Một
trong những công cụ để thực hiện điều đó là Lịch công việc. Lịch công việc dành
cho việc lập kế hoạch ngắn hạn (cho 1 tuần hoặc 1 ngày).
Việc lên lịch làm việc sẽ giúp theo dõi được sự tiến triển nhiều việc cùng lúc
và lập kế hoạch cho bước tiếp theo trong chuỗi các công việc. Việc lập lịch công
việc phải trải qua 3 bước theo trình tự như sau: (1) Lập danh sách các công việc cần
làm; (2) Xác định trình tự giải quyết các công việc cần làm; (3) Phân bổ thời gian
cho các công việc.
Bước 1: Lập danh sách (liệt kê) những công việc cần làm Ở bước này, hãy
ghi lại tất cả những công việc cần làm trong một khoảng thời gian cụ thể (chẳng
hạn trong 1 tuần). Trong đó, lưu ý một số công việc có tính chất lặp đi lặp lại
thường xuyên do đặc điểm công việc như họp hành định kỳ, nghiên cứu tài liệu,
soạn thảo văn bản…. vẫn phải tính đến và luôn ghi vào danh sách. Danh sách công
việc có thể được lập theo mẫu sau đây:
Công việc Thời gian hoàn thành Thời gian ước tính
………………………… …………………………… ………………………
………………………… …………………………… ………………………
………………………… …………………………… ………………………
Trong cột công việc, ghi lại tất cả những công việc muốn làm trong tuần, kể
cả những việc thường xuyên, cố định lặp lại.
Trong cột thời hạn hoàn thành, hãy ghi thời hạn (deadline) phải hoàn thành
công việc. Một số công việc có thể xác định mốc thời hạn phải hoàn thành rất rõ
ràng, song một số công việc có thời hạn hoàn thành lại phụ thuộc vào thời điểm kết
thúc công việc trước đó.
Trong cột thời gian ước tính, ghi lại lượng thời gian cần thiết để thực hiện
công việc.
Bước 2: Xác định trình tự giải quyết công việc theo danh sách
Bước tiếp theo, sắp xếp trình tự giải quyết công việc dựa trên thời hạn phải
hoàn thành công việc, cũng như căn cứ vào mức độ quan trọng của công việc;
sau đó đánh số thứ tự công việc cần thực hiện. Đây là một bước quan trọng của
Lịch công việc bởi nếu bỏ qua bước này, chúng ta sẽ có khuynh hướng giải
quyết các công việc dễ dàng, thú vị trước rồi mới đến các công việc khó khăn và
phức tạp sau.
Bước 3: Phân bổ thời gian cho các công việc
Việc phân bổ thời gian cho các công việc tùy thuộc vào tính chất công việc
(khó/dễ thực hiện) và tùy thuộc vào năng lực hoàn thành công việc . Sau khi kết
thúc bước 3, sắp xếp lại danh sách công việc cần làm ban đầu theo một trật tự mới,
theo mẫu gợi ý dưới đây:
LỊCH CÔNG VIỆC
Thời gian Kết quả
Thời gian
Số thứ tự Công việc bắt đầu –
ước tính
kết thúc
Như vậy, kết thúc 3 bước xây dựng Lịch công việc, công chức đã có trong
tay một danh mục các công việc đã được xác định chính xác thời hạn phải hoàn
thành, theo thứ tự ưu tiên, đồng thời quy định rõ ràng thời gian dự kiến bắt đầu và
kết thúc công việc. Lịch công việc sẽ là một bản kế hoạch hoàn hảo, căn cứ vào đó
chúng ta thực hiện công việc theo đúng lịch trình và tiến độ đã đặt ra.
Hiện nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, với sự
thông dụng của máy tính và điện thoại di động, có rất nhiều công cụ thông minh có
thể hỗ trợ quản lý lịch công việc một cách thuận tiện, dễ dàng đồng thời mang lại
hiệu quả cao. Ví dụ: Google calendar, Due, Any.do, Todoist...
3.3. Ma trận thời gian
Một công cụ nữa cũng rất hữu ích để giúp công chức quản lý thời gian một
cách hiệu quả đó là, ma trận quản lý thời gian của Stephen Covey.
Quản lý thời gian bằng ma trận thời gian được thực hiện theo các bước sau đây:
Bước 1: Liệt kê những công việc phải làm, kể cả những hoạt động không
quan trọng nhưng làm mất thời gian tại nơi làm việc.
Bước 2: Sắp xếp các công việc và hoạt động vào bảng ma trận, dựa trên tầm
quan trọng và tính cấp thiết của chúng.
Quan trọng là những hoạt động mà kết quả của chúng sẽ dẫn đến mục tiêu,
cho dù đó là những hoạt động của cá nhân hoặc trong công việc.
Khẩn cấp là những hoạt động không cho phép chậm trễ, đòi hỏi phải có ngay
những hành động đối phó.
Ma trận thời gian
QUAN TRỌNG I II
KHÔNG
III IV
QUAN TRỌNG
+ Phần tư (I) là dành cho những việc vừa khẩn cấp và vừa quan trọng.
Những công việc rơi vào ô này phải được thực hiện ngay và trước tiên. Quan trọng
Không quan trọng
+ Phần tư (II) là dành cho những công việc quan trọng song lại không khẩn
cấp. Những công việc rơi vào ô này cần phải xây dựng kế hoạch thực hiện một
cách thích hợp.
+ Phần tư (III) là dành cho những công việc không quan trọng nhưng lại khẩn cấp,
đòi hỏi phải thực hiện ngay. Những việc này thực hiện càng sớm càng tốt.
+ Phần tư (IV) là dành cho những hoạt động không quan trọng và cũng
không khẩn cấp. Những công việc thuộc nhóm này, công chức có thể thực hiện khi
có thời gian rảnh rỗi.
Bước 3: Đánh giá thời gian đã được sử dụng như thế nào, và nếu cần thiết,
sắp xếp lại các công việc.
+ Nếu phần lớn khối lượng công việc tập trung ở ô số I, công chức sẽ luôn
rơi vào tình trạng căng thẳng, khủng hoảng, và cảm thấy kiệt sức vì công việc.
+ Nếu hầu hết các công việc của bạn được sắp xếp vào ô số II, điều đó chứng
tỏ công chức luôn chủ động với công việc, làm việc theo kế hoạch, có tầm nhìn dài
hạn, không bị rơi vào tình trạng khủng hoảng và áp lực.
+ Nếu phần lớn công việc nằm ở ô số III, nghĩa là công chức thường xuyên phải
giải quyết các công việc vụn vặt mang tính đối phó, không tập trung vào mục tiêu dài
hạn, không hướng tới mục tiêu và sẽ luôn cảm thấy mình là nạn nhân, thụ động.
+ Nếu phần lớn công việc thuộc ô số IV, điều đó chứng tỏ công chức bị tiêu
tốn thời gian vào những việc vô ích mà không đem lại lợi ích gì đáng kể, thiếu
trách nhiệm với công việc, phụ thuộc vào người khác…
Dưới đây là cách phân bố thời gian hợp lý theo phương pháp này:
Ô số IV: dưới 5%
Ô số III: 10% - 15%
CHUYÊN ĐỀ 1
1- Ý kiến cá nhân và điểm báo, xã luận. Một số bài báo trên các tập san y
học là những ý kiến cá nhân của các giáo sư và chuyên gia trong ngành. Những ý
kiến này thường xuất hiện dưới hình thức một bài xã luận (editorial), bình luận
(commentary), hay điểm báo (review). Đây là những bài báo có giá trị thấp nhất
trong khoa học, vì chúng chẳng cung cấp một bằng chứng khách quan, mà chỉ là
những ý kiến cá nhân. Mà, ý kiến cá nhân thì thường, không ít thì nhiều, mang tính
chủ quan. Đó là chưa kể một số giáo sư chỉ là những cái loa phát thanh cho các
công ti dược, hay lợi dụng tập san để quảng cáo cho công ti của chính họ, chứ mục
đích phục vụ khoa học chỉ là thứ yếu
2-Nghiên cứu cơ bản (basic research).Trong y học, các nghiên cứu cơ bản
đóng vai trò rất quan trọng trong khám phá y khoa. Không có các nghiên cứu này,
chúng ta chắc chắn không có một nền y học hiện đại như hiện nay. Những nghiên
cứu này thường được tiến hành trên chuột hay thỏ, hay trong ống nghiệm. Đó là
những nghiên cứu khởi đầu để thử nghiệm một giả thiết khoa học cụ thể nào đó.
Bởi vì chỉ là nghiên cứu sơ khởi và không tiến hành trên bệnh nhân, cho nên đối
với y học thực chứng giá trị khoa học của các nghiên cứu này rất thấp, chỉ hơn ý
kiến cá nhân một bậc mà thôi.
3. Báo cáo trường hợp lâm sàng (case reports). Bằng chứng có giá trị cao
hơn nghiên cứu cơ bản là các phân tích về các trường hợp lâm sàng. Trong nhiều
tập san y học, giới nghiên cứu thường báo cáo trường hợp bệnh nhân rất đặc biệt,
rất hiếm, những trường hợp bệnh khó chẩn đoán, hay những trường hợp bệnh lí
chưa được mô tả trong sách giáo khoa, những ca giải phẫu ngoạn mục, v.v... Có khi
bác sĩ thành công trong chẩn đoán và điều trị (nếu không thì chắc chắn sẽ không có
bài báo!) và những thành công đó không thể xem là bằng chứng khoa học được, vì
không có giá trị khái quát hóa đến các bệnh nhân khác.
4. Nghiên cứu bệnh chứng (case-control study). Các nghiên cứu có giá trị
khoa học “trung bình” là các case-control study. Trong các nghiên cứu này, mục
đích chính là tìm hiểu mối liên hệ giữa một yếu tố nguy cơ (risk factor) và một
bệnh rất cụ thể. Để tiến hành nghiên cứu này, nhà nghiên cúu phải “đi ngược thời
gian” với những qui trình được minh họa qua một nghiên cứu tiêu biểu mối liên hệ
giữa việc sử dụng hormone (hormone therapy hay HT) và gãy xương như sau:
• Bước thứ nhất: chọn một nhóm đối tượng đã bị gãy xương (còn gọi là
cases) mà nhà nghiên cứu muốn tìm hiểu;
• Bước thứ hai: chọn nhóm đối chứng (gọi là controls) không bị gãy xương,
nhưng mỗi người trong nhóm này phải có cùng độ tuổi, cùng giới tính, và các yếu
tố lâm sàng khác với nhóm đối tượng;
• Bước thứ ba: xem xét trong mỗi nhóm đối tượng và nhóm đối chứng có
bao nhiêu người sử dụng HT và bao nhiêu người không sử dụng HT.
• Bước thứ tư: ước tính odds ratio (hay thường viết tắt OR). Khi OR thấp
hơn 1 có nghĩa là sử dụng HT giảm gãy xương; khi OR = 1 có nghĩa là HT không
có ảnh hưởng gì đến gãy xương; và nếu OR cao hơn 1 thì đó là một “tín hiệu” cho
thấy sử dụng HT có thể làm tăng nguy cơ gãy xương.
5. Nghiên cứu tiêu biểu một thời điểm (cross-sectional studies). Các
nghiên cứu có giá trị khoa học trên trung bình là nghiên cứu tiêu biểu một thời
điểm. Có người dịch “cross-sectional study” là “nghiên cứu cắt ngang”, nhưng tôi
thấy cách dịch này không nói lên thực chất của nó. Trong thực tế, nghiên cứu này
chọn một quần thể một cách ngẫu nhiên nhưng tiêu biểu cho một cộng đồng, tại
một thời điểm nào đó. Mục đích chính của các nghiên cứu này là tìm hiểu tỉ lệ hiện
hành (prevalence) của một bệnh nào đó, hay tìm hiểu mối tương quan giữa một yếu
tố nguy cơ và một bệnh. Chẳng hạn như nếu chúng ta muốn tìm hiểu có bao nhiêu
người trong độ tuổi 50 trở lên bị bệnh xơ vữa động mạch ở dân số sống trong nông
thôn và thành phố, chúng ta có thể tiến hành như sau:
• Bước thứ nhất: chọn một thành phố và một vùng nông thôn (với các tiêu
chuẩn phù hợp cho định nghĩa thế nào là thành phố và thế nào là nông thôn), tìm
hiểu xem có bao nhiêu quận và huyện;
• Bước thứ hai: lập danh sách đối tượng nghiên cứu, gồm những đàn ông và
phụ nữ trên 50 tuổi;
• Bước thứ ba: sử dụng máy tính soạn một chương trình chọn (chẳng hạn
như) 5% tổng số đối tượng đó một cách ngẫu nhiên;
• Bước thứ tư: thu thập dữ liệu các đối tượng được chọn tại một thời điểm
nào đó;
• Bước thứ năm: xác định xem có bao nhiêu người bị xơ vữa động mạch, và
phân tích mối liên hệ giữa các yếu tố lâm sàng và nguy cơ mắc bệnh.
6. Nghiên cứu theo thời gian (longitudinal studies hay prospective
study). Nghiên cứu có giá trị cao hơn nghiên cứu cross-section là các nghiên cứu
theo thời gian. Mục đích của các nghiên cứu này là tìm hiểu mối liên hệ giữa một
hay nhiều yếu tố nguy cơ và nguy cơ phát sinh bệnh tật (incidence). Khác với
nghiên cứu crosssection chỉ ghi nhận sự kiện tại một thời điểm, các nghiên cứu
longitudinal phải theo dõi đối tượng trong một thời gian có thể là nhiều năm tháng.
Do đó, nghiên cứu longitudinal thường tốn tiền hơn và công phu hơn các nghiên
cứu cross-section. Chẳng hạn như chúng ta muốn tìm hiểu mối liên hệ giữa tỉ trọng
cơ thể (body mass index - BMI) và nguy cơ tử vong, hay ước tính khả năng tiên
đoán tử vong của BMI, chúng ta có thể tiến hành nghiên cứu theo qui trình sau đây:
• Bước thứ nhất: chọn một quần thể tiêu biểu gồm N người một cách ngẫu
nhiên tại một địa phương (hay nhiều địa phương);
• Bước thứ hai: thu thập dữ liệu (như BMI chẳng hạn) ban đầu tại thời điểm t0;
• Bước thứ ba: theo dõi quần thể trong một thời gian T và trong thời gian
này, thu thập thêm dữ liệu và ghi nhận bao nhiêu người chết;
• Bước thứ tư: phân tích mối liên hệ giữa BMI tại thời điểm t0 và tỉ lệ tử
vong trong thời gian T. Kết quả của một nghiên cứu như thế có thể tóm tắt bằng
một bảng số liệu như sau:
Đến đây, chúng ta cần phải phân biệt hai chỉ số quan trọng: tỉ lệ phát sinh –
incidence và tỉ lệ hiện hành – prevalence. Tỉ lệ phát sinh chỉ có thể ước tính cho các
nghiên cứu theo thời gian (tức là prospective study), những nghiên cứu phải theo
dõi đối tượng trong một thời gian và thu thập tần số phát sinh bệnh trong thời gian
đó. Còn tỉ lệ hiện hành chỉ có thể ước tính cho các nghiên cứu cross-section mà
thôi.
Vì nghiên cứu cross-section chỉ thu thập thông tại một thời điểm nhất định, tỉ
lệ hiện hành thực chất là một chỉ số đi ngược thời gian. Trong nghiên cứu cross-
section khi phỏng vấn đối tượng, chúng ta có thể hỏi – chẳng hạn như - “anh/chị
từng bị bệnh xơ vữa động mạch bao giờ chưa”; do đó, tỉ lệ hiện hành không cung cấp
cho chúng ta nguy cơ tương lai. Nhưng tỉ lệ hiện hành cho chúng ta biết có bao nhiêu
người bị bệnh trong một quần thể, và do đó cho chúng ta biết qui mô của vấn đề.
7 - Nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên (randomized controlled
clinical trial – RCT). Các nghiên cứu vừa nêu trên (cross-section, longitudinal, và
case control studies) là những nghiên cứu quan sát (observational study), vì nhà
nghiên cứu không can thiệp vào đối tượng. Ngược lại với các nghiên cứu quan sát,
thử nghiệm RCT là những nghiên cứu nhằm thử nghiệm mức độ ảnh hưởng, mức
độ hiệu nghiệm của một sự can thiệp (intervention). “Can thiệp” ở đây phải hiểu là
những thuật điều trị, kể cả thuốc và phẫu thuật, nhưng tôi sẽ chú trọng vào các RCT
thử nghiệm thuốc. Có khá nhiều cách thiết kế nghiên cứu RCT, nhưng tôi chỉ nói
đến một dạng nghiên cứu thông thường nhất: đó là nghiên cứu gồm hai nhóm bệnh
nhân (còn gọi là parallel design). Để minh họa cho khái niệm RCT, tôi sẽ lấy ví dụ
của công trình nghiên cứu Women’s Health Initiatives làm ví dụ. Trong công trình
nghiên cứu này, các nhà nghiên cứu muốn thử nghiệm xem mức độ hiệu nghiệm
của calcium và vitamin D trong việc phòng chống gãy xương ở các phụ nữ sau thời
mãn kinh như thế nào. Họ tiến hành những bước sau đây:
Bước thứ nhất: chọn một quần thể gồm 36.282 phụ nữ sau thời mãn kinh
(tuổi từ 50 đến 79), thu thập tất cả các dữ liệu lâm sàng liên quan;
Bước thứ hai: dùng máy tính để phân chia quần thể đó thành hai nhóm một
cách ngẫu nhiên: nhóm 1 gồm có 18.176 phụ nữ được điều trị bằng calcium và
vitamin D hàng ngày (nhóm can thiệp); nhóm 2 gồm 18.106 phụ nữ cùng độ tuổi
nhưng không được bổ sung calcium hay vitamin D (còn gọi là nhóm đối chứng hay
placebo);
Bước thứ ba: theo dõi hai nhóm can thiệp và đối chưng trong thời gian 10
năm (tính trung bình là 7 năm, vì một số qua đời, một số mất liên lạc, và một số
không muốn tiếp tục tham gia công trình nghiên cứu). Trong thời gian này, các nhà
nghiên cứu tiếp tục thu thập dữ liệu lâm sàng và đo lương sinh hóa để theo dõi tình
trạng của bệnh nhân, cũng như ghi nhận số phụ nữ bị gãy xương;
Bước thứ tư: sau khi hết thời hạn theo dõi, các nhà nghiên cứu lên kế hoạch
phân tích dữ liệu xem xét hiệu quả của vitamin D và calcium đến việc giảm nguy
cơ gãy xương. Kết quả chính của công trình nghiên cứu có thể tóm lược bằng một
bảng thống kê như sau:
8 - HOPE: một nghiên cứu RCT tiêu biểu. Chẳng hạn như trong công trình
nghiên cứu HOPE (Heart Outcomes Prevention Evaluation) (3) tuyển chọn bệnh
nhân trên 55 tuổi có nguy cơ bệnh tim mạch cao (tiền sử bệnh tim mạch, đột quị,
tiểu đường, và ít nhất là một yếu tố nguy cơ như cao huyết áp, tăng cholesterol, hút
thuốc lá, v.v…) Tính chung, công trình nghiên cứu tuyển chọn được 9297 bệnh
nhân. Bệnh nhân được chia thành hai nhóm một cách ngẫu nhiên: nhóm dùng
ramipril (10 mg/ngày) và nhóm chứng (placebo). Ngoài ra, bệnh nhân còn được
ngẫu nhiên chia thành 2 nhóm: một nhóm sử dụng vitamin E và một nhóm chứng
(giả vitamin E). Nói cách khác, đây là một công trình nghiên cứu được thiết kế
theo mô hình “factorial” rất tinh vi và có hệ thống.
Bệnh nhân được theo dõi trong vòng 5 năm. Trong thời gian theo dõi, các nhà
nghiên cứu ghi nhận các biến cố lâm sàng như nhồi máu cơ tim (myocardial
infarction), đột quị, hay tử vong do bệnh tim mạch. Họ gọi chung các biến cố lâm
sàng này là “composite outcome” (chỉ số hỗn hợp lâm sàng). Kết quả có thể tóm
lược trong bảng số liệu sau đây: (bảng 2).
Chú thích: a: Số ngoài ngoặc kép là số bệnh nhân có biến cố lâm sàng; số
trong ngoặc kép là phần trăm tính trên tổng số bệnh nhân cho từng nhóm. Ví dụ:
Trong số 4645 bệnh nhân sử dụng ramipril, có 459 người hay 9.9% bị nhồi máu cơ
tim, trong số 4652 bệnh nhân nhóm chứng (placebo) có 570 người hay 12.3% bị
nhồi máu cơ tim. Do đó, tỉ số nguy cơ là 9.9 / 12.3 = 0.80, và tỉ số này dao động
trong khoảng 0.70 đến 0.90 với xác suất 95%.
Số liệu trên cho thấy, ramipril giảm nguy cơ nhồi máu cơ tim 20%, giảm
nguy cơ đột quị 32%, và giảm tử vong do bệnh tim mạch 25%. Tính chung các
biến cố lâm sàng, ramipril giảm 22%. Do những kết quả khả quan trên đây, ủy ban
thẩm định dữ liệu của công trình nghiên cứu đề nghị ngưng công trình nghiên cứu
sớm hơn dự tính lúc ban đầu. Nói cách khác, vì các nhà nghiên cứu thấy thuốc
ramipril có hiệu quả tốt, nên không có lí do để tiếp tục cho phân nửa bệnh nhân
phải uống placebo.
Về tác động toàn cầu, theo tính toán của các nhà nghiên cứu, nếu 1/4 các
bệnh nhân ở các nước phát triển (như Việt Nam chẳng hạn) và 1/2 bệnh nhân ở các
nước kĩ nghệ tiên tiến được điều trị bằng ramipril, khoảng 2 triệu biến cố lâm sàng
trên sẽ được ngăn ngừa.
Tuy nhiên, khi so sánh giữa hai nhóm vitamin E và placebo, không có khác
biệt về tử vong, nhồi máu cơ tim hay đột quị giữa hai nhóm. Nói cách khác,
vitamin E không có hiệu quả giảm các biến cố lâm sàng liên quan đến bệnh tim
mạch.
Nói chung, đối với y học thực chứng, trong tất cả các nghiên cứu lâm sàng,
kết quả từ các công trình thử nghiệm lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên (RCT) được
đánh là những nghiên cứu có giá trị khoa học cao nhất, nếu những nghiên cứu này
được tiến hành nghiêm chỉnh và tuân theo các tiêu chuẩn về thiết kế, phương pháp
phân tích, cũng như tuyển chọn đối tượng. Có thể nói không ngoa rằng công trình
nghiên cứu HOPE đánh dấu một bước ngoặc trong nghiên cứu lâm sàng và RCT vì
phương pháp thiết kế mới và logic, và kết quả của công trình này làm thay đổi thực
hành lâm sàng.
9 - Phân tích tổng hợp (Meta-analysis). Thông thường với bất cứ một
thuốc nào hay một thuật điều trị nào, một nghiên cứu RCT đơn lẻ không thể nào
giải quyết dứt khoát vấn đề hiệu nghiệm, mà thường cần phải có nhiều nghiên cứu
độc lập nhau. Nhiều nghiên cứu trên nhiều quần thể khác nhau, dù có cùng mục
đích và tiến hành với một phương pháp chuẩn, có thể cho ra nhiều kết quả khác
nhau, thậm chí trái ngược nhau. Trước sự khác biệt về kết quả như thế, vấn đề đặt
ra là làm sao hệ thống hóa tất cả các kết quả nghiên cứu này để cho ra một “đáp
số”, một “phát quyết” sau cùng. Gần đây, có một nghiên cứu mới ra đời có tên là
“meta-analysis” mà tôi tạm dịch ra “phân tích tổng hợp”, vì thực chất của các
nghiên cứu này là phân tích tất cả các kết quả nghiên cứu trong quá khứ. Trong y
học thực chứng, kết quả phân tích tổng hợp được đánh giá là có giá trị khoa học
cao nhất.
Cần phải nói thêm rằng, phân tích tổng hợp không chỉ áp dụng cho việc hệ
thống hóa các nghiên cứu RCT, mà còn có thể áp dụng để tổng hợp kết quả từ các
nghiên cứu cases-control, cross-section, và longitudinal. Trong mấy năm gần đây,
trước tình trạng các nghiên cứu đơn lẻ cho ra quá nhiều kết quả khác nhau khó diễn
dịch, phân tích tổng hợp đã trở thành một phương tiện nghiên cứu rất thông dụng.
Không chỉ trong lĩnh vực nghiên cứu y khoa, mà các lĩnh vực khác như sinh học,
nông nghiệp, tâm lí học, xã hội học, kinh tế học, v.v… đều bắt đầu sử dụng phân
tích tổng hợp rất nhiều.
Trên đây chỉ là khái quát về những nghiên cứu y học mà bạn đọc hay tìm
thấy trong các tập san y khoa trên thế giới. Hiểu biết được sự khác nhau giữa các
nghiên cứu và nấc thang giá trị khoa học của chúng là một bước đầu trong việc
thẩm định thông tin khoa học. Ngoài việc đó, người đọc còn phải đặt một số câu
hỏi thông thường như: nghiên cứu này được tiến hành ở đâu, do ai làm, đối tượng
trong nghiên cứu thuộc độ tuổi và giới tính nào, có bệnh gì, thời gian theo dõi bao
lâu, các dữ liệu được phân tích như thế nào, cách diễn dịch có phù hợp với dữ liệu
hay không, và quan trọng là nghiên cứu đã được công bố chưa, ở đâu. Tất cả các
câu hỏi này sẽ giúp cho người tiếp nhận thông tin quyết định xem các kết quả
nghiên cứu có giá trị gì hay không, và nếu có thì chúng có áp dụng cho cá nhân
mình hay không.
2. Tổng quan về cỡ mẫu cho một số nghiên cứu trong lâm sàng
2.1. Nghiên cứu lâm sàng11
Nghiên cứu lâm sàng là một nhánh của khoa học chăm sóc sức khỏe xác định
sự an toàn và hiệu quả (hiệu quả) của thuốc, thiết bị, sản phẩm chẩn đoán và chế độ
điều trị dành cho người sử dụng. Chúng có thể được sử dụng để phòng ngừa, điều
trị, chẩn đoán hoặc làm giảm các triệu chứng của bệnh. Nghiên cứu lâm sàng khác
với thực hành lâm sàng. Trong thực hành lâm sàng phương pháp điều trị đã được
thiết lập được sử dụng, trong khi trong các nghiên cứu lâm sàng các bằng chứng
được thu thập để thiết lập một điều trị.
Thuật ngữ "nghiên cứu lâm sàng" dùng để chỉ toàn bộ thư mục của thuốc /
thiết bị / sinh học, trên thực tế, bất kỳ bài viết thử nghiệm nào từ khi bắt đầu trong
phòng thí nghiệm đến khi giới thiệu về thị trường tiêu dùng và hơn thế nữa. Một
khi ứng cử viên hoặc phân tử đầy triển vọng được xác định trong phòng thí nghiệm,
11
Theo https://vi.wikipedia.org
nó phải chịu các nghiên cứu tiền lâm sàng hoặc nghiên cứu trên động vật nơi các
khía cạnh khác nhau của bài kiểm tra (bao gồm cả độc tính an toàn của nó nếu có
thể và hiệu quả, nếu có thể ở giai đoạn đầu này).
Tại Hoa Kỳ, khi một bài viết thử nghiệm chưa được phê duyệt hoặc chưa
được Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê duyệt hoặc
khi một bài viết thử nghiệm được phê duyệt hoặc xóa được sử dụng theo cách có
thể làm tăng đáng kể rủi ro (hoặc giảm khả năng chấp nhận các rủi ro), dữ liệu thu
được từ các nghiên cứu tiền lâm sàng hoặc bằng chứng hỗ trợ khác, nghiên cứu
trường hợp sử dụng ngoài nhãn, v.v... được gửi để hỗ trợ cho ứng dụng Điều tra về
Thuốc Mới (IND) cho FDA để xem xét trước tiến hành các nghiên cứu liên quan
đến ngay cả một người và một bài kiểm tra nếu kết quả dự định được đệ trình hoặc
tổ chức để FDA kiểm tra bất cứ lúc nào trong tương lai (trong trường hợp bài báo
kiểm tra đã được phê duyệt, nếu có ý định nộp hoặc giữ để được FDA kiểm tra
nhằm hỗ trợ thay đổi nhãn mác hoặc quảng cáo). Trường hợp các thiết bị liên quan
đến việc đệ trình lên FDA sẽ dành cho ứng dụng Miễn trừ thiết bị điều tra (IDE)
nếu thiết bị đó là một thiết bị rủi ro đáng kể hoặc không được miễn trừ theo cách
nào đó được đệ trình trước FDA. Ngoài ra, nghiên cứu lâm sàng có thể yêu cầu Ủy
ban đánh giá thể chế (IRB) hoặc Ủy ban đạo đức nghiên cứu (REB) và có thể các
đánh giá khác của ủy ban tổ chức, Ủy ban bảo mật, Ủy ban lợi ích, Ủy ban an toàn
bức xạ, Ủy ban nghiên cứu thuốc phóng xạ, v.v. nghiên cứu đòi hỏi phải nộp trước
cho FDA. Tiêu chí đánh giá nghiên cứu lâm sàng sẽ phụ thuộc vào quy định liên
bang mà nghiên cứu phải tuân theo (ví dụ: (Bộ Y tế và Dịch vụ Nhân sinh (DHHS)
nếu được liên bang tài trợ, FDA như đã thảo luận) và sẽ phụ thuộc vào quy định
nào mà các tổ chức đăng ký, ngoài ra cho bất kỳ tiêu chí nghiêm ngặt hơn được
thêm bởi tổ chức có thể để đáp ứng với luật pháp / chính sách của tiểu bang hoặc
địa phương hoặc khuyến nghị thực thể công nhận. Lớp đánh giá bổ sung này (đặc
biệt là IRB / REB) rất quan trọng đối với việc bảo vệ các đối tượng của con người,
đặc biệt khi bạn cho rằng việc nghiên cứu theo quy định của FDA để nộp trước
được cho phép, theo quy định tương tự của FDA, 30 ngày sau khi nộp đến FDA trừ
khi được thông báo cụ thể bởi FDA không được bắt đầu nghiên cứu.
Nghiên cứu lâm sàng thường được tiến hành tại các trung tâm y tế học thuật
và các địa điểm nghiên cứu liên kết. Các trung tâm và trang web này cung cấp uy
tín của tổ chức học thuật cũng như quyền truy cập vào các khu vực đô thị lớn hơn,
cung cấp một lượng lớn người tham gia y tế. Các trung tâm y tế học thuật này
thường có Hội đồng Đánh giá Thể chế nội bộ của họ giám sát việc thực hiện đạo
đức của nghiên cứu y tế.
Hệ sinh thái nghiên cứu lâm sàng bao gồm một mạng lưới phức tạp gồm các
khu vực, công ty dược phẩm và các tổ chức nghiên cứu học thuật. Điều này đã dẫn
đến một lĩnh vực công nghệ đang phát triển được sử dụng để quản lý dữ liệu và các
yếu tố hoạt động của nghiên cứu lâm sàng. Quản lý nghiên cứu lâm sàng thường
được hỗ trợ bởi eClinical hệ thống để giúp tự động hóa công tác quản lý và tiến
hành các thử nghiệm lâm sàng.
Tại Liên minh Châu Âu, Cơ quan Dược phẩm Châu Âu (EMA) hoạt động
theo cách tương tự đối với các nghiên cứu được thực hiện trong khu vực của họ.
Những nghiên cứu trên người được thực hiện theo bốn giai đoạn trong các đối
tượng nghiên cứu cho phép tham gia vào các thử nghiệm lâm sàng.
2.2. Cỡ mẫu trong nghiên cứu lâm sàng12
Trong nghiên cứu lâm sàng, hay nghiên cứu khoa học nói chung, cỡ mẫu có
khi đóng vai trò quan trọng. Quan trọng là vì ngân sách của công trình nghiên cứu
tuỳ thuộc vào số lượng cỡ mẫu; nghiên cứu với số đối tượng cao thì sẽ đắt tiền hơn
nghiên cứu với số đối tượng thấp. Có khi các nhà tài trợ quyết định cung cấp kinh
phí cho nghiên cứu dựa vào số lượng đối tượng cần thiết cho nghiên cứu. Tính khả
thi của một công trình nghiên cứu có thể đánh giá qua số lượng đối tượng cần tuyển
và khả năng mà nhà nghiên cứu có thể quản lí đối tượng nghiên cứu.
Hơn thế nữa, trong nghiên cứu y khoa, số cỡ mẫu còn có ý nghĩa y đức. Nếu
nghiên cứu có quá ít bệnh nhân thì sẽ rất khó đi đến một quyết định đáng tin cậy.
Nếu nghiên cứu có quá nhiều bệnh nhân thì có lẽ không cần thiết. Trong cả hai
trường hợp (nhiều và ít) đều có thể xem là vi phạm y đức. Nếu nghiên cứu nhiều
hơn cần thiết có thể gây phiền toái cho bệnh nhân và có thể họ ở trong tình huống
nguy hiểm (nếu là nghiên cứu can thiệp mang tính xâm phạm).
Nhưng cỡ mẫu là một ước tính. Phương pháp ước tính tuỳ thuộc vào nhiều
giả định và thông số. Nói một cách ngắn gọn, số cỡ mẫu tuỳ thuộc vào 5 yếu tố
chính như sau:
• Mô hình nghiên cứu. Trong nghiên cứu y khoa, có nhiều mô hình nghiên
cứu (như mô hình bệnh chứng, nghiên cứu theo thời gian, nghiên cứu cắt ngang,
12
Nguyễn Văn Tuấn (Tác giả) bài: Cỡ mẫu: huyền thoại con số 30; Nguồn:
http://vienthongke.vn/attachments/article/1644/Bai3So%205_2012.pdf?
v.v.) Mỗi mô hình có một cách tính cỡ mẫu khác nhau, và mức độ phức tạp của tính
toán càng tăng theo sự phức tạp của mô hình nghiên cứu.
• Biến đánh giá (còn gọi là evaluative outcome). Mỗi nghiên cứu đều có một
biến số hay chỉ tiêu chính để đánh giá / kiểm định giả thuyết. Nếu nghiên cứu đánh
giá hiệu quả của thuốc điều trị loãng xương, thì biến đánh giá có thể là mật độ
xương hay tình trạng gãy xương. Có hai loại biến đánh giá: biến liên tục
(continuous variable) và biến phân loại (categorical variable). Trong ví dụ vừa kể,
mật độ xương là biến liên tục, còn gãy xương là biến phân loại (hoặc là bị gãy,
hoặc là không gãy). Phương pháp ước tính cỡ mẫu cho biến liên tục rất khác với
phương pháp cho các biến phân loại.
• Mức độ ảnh hưởng. Nghiên cứu lâm sàng thường có mục đích đánh giá ảnh
hưởng của một can thiệp hay tìm mối liên quan. Mức độ ảnh hưởng cao thì số
lượng đối tượng cần thiết sẽ thấp. Nếu mức độ ảnh hưởng thấp hay mối tương quan
yếu thì số lượng đối tượng sẽ tăng.
• Độ biến thiên của độ ảnh hưởng. Biết mức độ ảnh hưởng vẫn chưa đủ, mà
còn phải biết mức độ dao động của ảnh hưởng, gọi tắt là biến thiên (variability). Độ
biến thiên thường đo bằng một chỉ số thống kê có tên là độ lệch chuẩn (standard
deviation). Độ lệch chuẩn càng cao, số cỡ mẫu càng lớn; ngược lại, độc lệch chuẩn
thấp thì số cỡ mẫu cần thiết cũng thấp.
• Mức độ sai sót mà nhà nghiên cứu chấp nhận. Đó là sai sót loại I (type I
error) và sai sót loại II (type II error). Sai sót loại I là xác suất nhà nghiên cứu kết
luận có ảnh hưởng trong khi trong thực tế thì không có, tương tự như xác suất
dương tính giả trong chẩn đoán bệnh (bệnh nhân không có bệnh, nhưng kết quả xét
nghiệm dương tính). Sai sót loại II là xác suất nhà nghiên cứu kết luận không có
ảnh hưởng nhưng trong thực tế thì có. Thông thường, sai sót loại I có thể chấp nhận
được là <5%, và sai sót loại II là <20%.
Để ước tính cỡ mẫu đúng, cần phải biết 5 thông tin vừa mô tả. Không có một
trong những thông tin trên thì không thể nào ước tính cỡ mẫu được. Do đó, không
có một con số cụ thể về cỡ mẫu. Một nghiên cứu có thể cần 20 bệnh nhân, nhưng
cũng có thể cần đến hàng ngàn bệnh nhân, tuỳ vào giả định và các thông số trên.
Sau đây là hai ví dụ để minh chứng cho phát biểu trên.
Ví dụ 1: Nhà nghiên cứu muốn đánh giá hiệu quả của một loại thuốc mới
chống loãng xương. Nghiên cứu có 2 nhóm: nhóm chứng và nhóm can thiệp. Giả
định rằng thuốc sẽ tăng mật độ xương khoảng 0,05 g/cm2, với độ lệch chuẩn là
0,12 g/cm2. Ngoài ra, nhà nghiên cứu sẵn sàng chấp nhận sai sót loại I là 5% và sai
sót loại II là 20%. Với các thông số trên, có thể ước tính rằng nhà nghiên cứu cần
180 bệnh nhân (90 cho nhóm chứng và 90 cho nhóm điều trị).
Ví dụ 2: Tiếp theo ví dụ trên, giả dụ nhà nghiên cứu nghĩ rằng thuốc có hiệu
quả rất cao. Mức độ khác biệt giữa hai nhóm là 0,15 g/cm2 (thay vì 0,05g/cm2), và
các giả định / thông số khác không thay đổi. Với kì vọng mới, nhà nghiên cứu chỉ
cần 20 bệnh nhân (10 người cho mỗi nhóm).
3. Các vấn đề đạo đức trong nghiên cứu lâm sàng13
Đạo đức trong nghiên cứu y sinh học là các nguyên tắc, các chuẩn mực áp
dụng trong nghiên cứu đặc biệt là các nghiên cứu y sinh học liên quan đến con
người.
Có 3 nguyên tắc cơ bản của đạo đức trong nghiên cứu y sinh học, đó là:
1. Từ tâm (beneficence), điều này đòi hỏi kết quả phải là điều tốt lành, tránh
điều có hại hoặc lợi ích phải vượt xa các nguy cơ hoặc điều có hại;
2. Tôn trọng quyền cá nhân (respect for rights), bao gồm quyền tự lựa chọn
của đối tượng tham gia nghiên cứu và bảo vệ những đối tượng không có khả năng
tự quyết;
3. Sự công bằng (justice), điều này đòi hỏi bảo đảm phân bố đều về trách
nhiệm và lợi ích của đối tượng tham gia nghiên cứu, nhà khoa học, nhà sản xuất,
của cá nhân cũng như của xã hội.
Những nguyên tắc về đạo đức trong nghiên cứu y sinh học đặc biệt là những
nguyên tắc đạo đức trong thực hành y dược, được đề cập từ rất sớm, nhất là các thử
nghiệm phương pháp chữa bệnh hoặc chẩn đoán mới.
Văn kiện quốc tế đầu tiên về đạo đức trong nghiên cứu là điều lệ Nuremberg.
Sau điều lệ Nuremberg, năm 1948 Hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua
tuyên bố toàn cầu về Quyền con người, Hội đồng Liên hợp quốc cũng đã thông qua
Hiệp ước quốc tế về Quyền công dân và chính trị vào năm 1966. Năm 1964, Hiệp
hội Y học thế giới (World Medical Association - WMA) đã ra tuyên ngôn Helsinki,
đó là một văn bản cơ sở trong lĩnh vực đạo đức nghiên cứu y sinh và ảnh hưởng tới
13
PGS.TS. Nguyễn Thị Kim Tiến, Thực hành tốt thử nghiệm lâm sàng và các vấn đề về đạo đức
trong nghiên cứu y sinh học, https://suckhoedoisong.vn/, cập nhật 6/02/2009
việc hình thành hệ thống luật pháp của quốc gia, khu vực và quốc tế. Tuyên bố này
được chỉnh lý nhiều lần, lần cuối cùng vào năm 2000, là một lời tuyên bố quy mô
toàn cầu về đạo đức trong nghiên cứu liên quan đến con người. Nó giúp cho việc
hình thành những hướng dẫn về đạo đức cho các bác sĩ, các nhà khoa học tham gia
vào các nghiên cứu y sinh lâm sàng và cận lâm sàng có liên quan đến con người là
đối tượng nghiên cứu.
Từ điều lệ Nuremberg 1947 đến tuyên ngôn Helsinki 1964 rồi đến các hướng
dẫn của CIOMS năm 1982, các tài liệu về đạo đức nghiên cứu trong các nghiên cứu y
sinh học có liên quan đến con người được hoàn thiện dần thông qua các lần chỉnh sửa.
Tuyên ngôn Helsinski được chỉnh sửa năm 1975 sau đó được rà soát và bổ
sung vào các năm 1980, 1983, 1989, 1996 và năm 2000.
Ngày nay, vấn đề đạo đức trong nghiên cứu y sinh học đã có các văn bản
hướng dẫn quốc tế giúp mỗi quốc gia trên cơ sở đó xây dựng quy định và hướng
dẫn thực hiện cụ thể.
Các chuẩn mực trong nghiên cứu y sinh học bao gồm những nội dung cơ bản
sau đây:
1. Nghiên cứu y sinh phải tuân theo các nguyên tắc khoa học và phải dựa
trên nghiên cứu trong phòng thí nghiệm và trên động vật một cách đầy đủ, và phải
dựa trên các kiến thức thấu đáo từ các tài liệu khoa học;
2. Thiết kế từng phép thử nghiệm trên đối tượng con người phải được hình
thành trong đề cương nghiên cứu và phải được đánh giá bởi hội đồng độc lập;
3. Nghiên cứu thử nghiệm phải được thực hiện bởi cán bộ có đủ trình độ
khoa học tương xứng và được giám sát bởi các chuyên gia y học có kinh nghiệm
lâm sàng;
4. Bất cứ nghiên cứu y sinh học nào có đối tượng nghiên cứu là con người cũng
cần phải được đánh giá cẩn thận các nguy cơ có thể lường trước so với các lợi ích có
thể đạt được cho đối tượng nghiên cứu và các đối tượng khác. Quan tâm đến lợi ích
của đối tượng nghiên cứu luôn phải đặt trên lợi ích của khoa học và của xã hội;
5. Quyền của đối tượng nghiên cứu được bảo đảm về sự toàn vẹn luôn luôn
phải được đặt lên hàng đầu. Tất cả các điều dự phòng phải được tiến hành để bảo
đảm sự bí mật riêng tư của đối tượng và hạn chế tác động của nghiên cứu lên sự toàn
vẹn về thể chất và tâm thần của đối tượng nghiên cứu và lên nhân phẩm của đối
tượng;
6. Sự chính xác của các kết quả nghiên cứu phải được bảo vệ;
7. Bất cứ một nghiên cứu nào tiến hành trên con người, mỗi một đối tượng
dự kiến tham gia nghiên cứu phải được biết thông tin đầy đủ về mục tiêu, các
phương pháp, các lợi ích có thể và các tác hại có thể gây ra cho họ trong nghiên
cứu, cũng như những phiền muộn có thể gây ra;
8. Khi đạt được sự chấp thuận tham gia trong nghiên cứu sau khi có được
thông tin của đối tượng tham gia nghiên cứu, bác sĩ phải đặc biệt thận trọng nếu đối
tượng trong tình trạng phụ thuộc vào bác sĩ. Không được gây áp lực hoặc đe dọa
bắt buộc đối tượng tham gia nghiên cứu;
9. Trong trường hợp đối tượng thiếu hành vi năng lực, việc thông tin phải đạt
được từ người có trách nhiệm pháp lý phù hợp theo luật pháp của quốc gia;
10. Các đối tượng tham gia nghiên cứu được rút khỏi nghiên cứu bất cứ lúc nào.
CHUYÊN ĐỀ 2
QUẢN LÝ TRANG THIẾT BỊ14
14
Bộ Y tế (Cục Quản lý khám, chữa bệnh) (2014), Quản lý bệnh viện (Tài liệu cơ bản), NXB Y
Học, Hà Nội
Tổng số tiết: 16 tiết
- Lý thuyết: 8 tiết
- Thảo luận, thực hành: 8 tiết
MỤC TIÊU
Sau khi học xong bài học viên có khả năng:
1. Trình bầy được khái niệm, phân loại lý trang thiết bị y tế
2 . Hiểu được vai trò, vị trí của trang thiết bị kỹ thuật y tế trong khám, chữa bệnh
3. Phân tích được thực trạng, tồn tại và thách thức của công tác trang thiết bị
kỹ thuật y tế trong bệnh viện
4. Trình bầy được nội dung quản lý trang thiết bị y tế
5. Nắm được những giải pháp nhằm tăng cường quản lý trang thiết bị y tế và
nâng cao hiệu quả đầu tư
NỘI DUNG
I. KHÁI NIỆM, PHÂN LOẠI TRANG THIẾT BỊ Y TẾ:
1. Khái niệm về trang thiết bị y tế
Trang thiết bị kỹ thuật y tế ( gọi tắt là trang thiết bị y tế) là những, thiết bị,
máy móc, dụng cụ, vật tư…dùng trong y tế, đó chính là những phương tiện ứng
dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật và công nghệ trong việc khám, chữa bệnh
Gần đây cụm từ “ Trang thiết bị y tế ” còn được gọi là “Kỹ thuật y tế” hoặc
“Công nghệ y tế” đã trở thành ngôn ngữ thường dùng trong giới y học hiện đại
2. Phân loại trang thiết bị y tế
Trang thiết bị y tế bao gồm các loại thiết bị, dụng cụ, vật tư y tế, phương tiện
vận chuyển chuyên dụng phục vụ cho hoạt động chăm sóc bảo vệ sức khỏe nhân
dân. Theo WHO ngày nay, có khoảng 10.500 chủng loại trang thiết bị y tế khác
nhau trên thị trường. Chúng bao gồm từ các thiết bị chẩn đoán và điều trị có giá trị
lớn, công nghệ cao như máy gia tốc tuyến tính giúp điều trị các bệnh ung thư, cộng
hưởng từ, chụp cắt lớp… cho đến ống nghe khám bệnh và các trang thiết bị cơ bản
khác hỗ trợ cho các bác sỹ, điều dưỡng thực hiện công việc chăm sóc sức khỏe cho
bệnh nhân hàng ngày. Trang thiết bị y tế bao gồm cả các thiết bị trợ giúp cải thiện
cuộc sống hàng triệu người dân như: xe đẩy, máy trợ thính, kính thuốc, máy điều
hòa nhịp tim và các thiết bị cấy ghép. Được Bộ Y tế ( tại Thông tư 07/ 2007/BYT)
chia làm bốn nhóm trang thiết bị sau:
a-Thiết bị y tế bao gồm: Các loại máy, thiết bị hoặc hệ thống thiết bị đồng bộ
phục vụ cho công tác chẩn đoán, điều trị, phục hồi chức năng, nghiên cứu khoa học
và đào tạo trong lĩnh vực y tế;
b-Phương tiện vận chuyển chuyên dụng bao gồm: Phương tiện chuyển
thương (Xe chuyển thương, xuồng máy, ghe máy chuyển thương, xe ôtô cứu
thương). Xe chuyên dùng lưu động cho y tế (X. Quang, xét nghiệm lưu động,
chuyên chở vắc xin…);
c-Dụng cụ, vật tư y tế, hóa chất xét nghiệm được sử dụng cho công tác
chuyên môn trong khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe
- Vật tư bằng nhựa: Bơm kim tiêm, kim luồn tĩnh mạch, dây truyền dịch,
găng tay y tế, ống thông, ống dẫn lưu, túi máu, ambu thổi ngạt, chai nhựa, đầu cone
lọc vô trùng, Cuvette…
- Vật tư bằng thủy tinh: Pipette, Micro Pipette, Lamen, Bình đong
- Dụng cụ, vật tư bằng kim loại: Dao mổ, khoan xương, mũi khoan sọ não,
đinh nẹp cố định, hệ thống cố định xương, khung đóng đinh chốt, kim chọc tuỷ
sống, mỏ vịt, bộ phẫu thuật các loại…
d-Các loại dụng cụ, vật tư cấy, ghép trong cơ thể gồm: Xương nhân tạo, nẹp
vít cố định xương, van tim, máy tạo nhịp tim, ống nong mạch, điện cực ốc tai, thủy
tinh thể...
II. VAI TRÒ, VỊ TRÍ CỦA TRANG THIẾT BỊ Y TẾ TRONG KHÁM CHỮA
BỆNH:
Muốn nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cần phải có đồng bộ ba yếu tố:
Đội ngũ bác sỹ, điều dưỡng giỏi, tận tình; đầy đủ thuốc chữa bệnh; trang thiết bị y
tế đầy đủ an toàn và hạ tầng cơ sở tốt
1. Trang thiết bị y tế đóng vai trò quan trọng trong chẩn đoán, điều trị và
phục hồi chức năng cho người bệnh. Trang thiết bị y tế là một trong những yếu tố
quan trọng quyết định hiệu quả, chất lượng của công tác y tế, hỗ trợ tích cực cho
người thầy thuốc trong công tác phòng bệnh và chữa bệnh.
2. Trang thiết bị y tế có vị trí quan trọng trong ba yếu tố: Thầy thuốc, thuốc,
Trang thiết bị y tế ( y – dược - trang thiết bị y tế trong đó y là chủ lực đóng vai trò
quyết định, dược là nòng cốt và trang thiết bị y tế là quan trọng). Ba yếu tố đó
quyết định hiệu quả, chất lượng của công tác chăm sóc bảo vệ và nâng cao sức
khỏe nhân dân
3. Tổ chức Y tế thế giới WHO đã khẳng định trang thiết bị y tế thuộc vào
một chuyên môn của Ngành y tế, nó thâm nhập và phát triển sâu rộng vào các kỹ
thuật khám chữa bệnh của tất cả các chuyên khoa, bộ môn của Ngành y tế. Trong
thời kỳ phát triển như vũ bão hiện nay của công nghệ trên thế giới chỉ sau có công
nghiệp vũ trụ, quốc phòng và an ninh, nên công nghiệp thiết bị y tế đã nhanh chóng
ứng dụng những thành tựu mới nhất vào việc chẩn đoán và điều trị để đạt được mục
tiêu cao nhất “ vì sức khỏe của con người ” .
4. Bộ Khoa học công nghệ đánh giá: “ Trong những năm qua, ngành Y tế
Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ từ việc đầu tư, ứng dụng các
trang thiết bị kỹ thuật công nghệ cao: Đã thành công trong một số lĩnh vực với trình
độ ngang tầm trong khu vực và một số nước tiên tiến, tiết kiệm cho xã hội hàng
trăm tỷ đồng mỗi năm như: phẫu thuật nội soi, kỹ thuật can thiệp nội mạch, ghép
tạng, y học hạt nhân, ứng dụng sóng siêu cao tần, laze, kỹ thuật bơm bóng đối xung
động mạch chủ, siêu lọc máu, tuần hoàn ngoài cơ thể, kỹ thuật thụ tinh trong ống
nghiệm, nuôi cấy tế bào gốc sinh tinh để điều trị vô sinh, xây dựng ngân hàng tế
bào gốc và bước đầu có những nghiên cứu cơ bản về biệt hóa tế bào gốc, ứng dụng
tế bào gốc tạo máu tự thân và đồng loại trong điều trị ung thư, tim mạch, xương
khớp” (Nguồn Bộ Khoa học công nghê - Đánh giá hoạt động KHCN 2006-2010).
Đầu tư trang thiết bị vào Bệnh viện làm tăng Chất lượng, an toàn, hiệu quả,
sự hài lòng của người bệnh từ đó góp phần cải thiện tình trạng sức khỏe của nhân
dân. Cùng với kinh nghiệm và kiến thức y học, trang thiết bị hiện đại sẽ giúp các
bệnh viện:
+ Phát hiện sớm bệnh, Chẩn đoán chính xác
+ Tăng hiệu quả điều trị
+ Rút ngắn ngày điều trị, hạn chế việc sử dụng thuốc, giảm chi phí
+ Hạn chế di chứng và góp phần giảm tỷ lệ tử vong
III. THỰC TRẠNG VỀ ĐẦU TƯ TRANG THIẾT BỊ Y TẾ, TỒN TẠI VÀ
THÁCH THỨC.
1. Thực trạng đầu tư về trang thiết bị y tế
Ngành Y tế đã đầu tư nâng cấp trang thiết bị cho các cơ sở thuộc các lĩnh
vực: y tế dự phòng, khám chữa bệnh, y dược học cổ truyền, đào tạo nghiên cứu
khoa học, chuyển giao công nghệ sản xuất thuốc và trang thiết bị y tế. Đầu tư cho
trang thiết bị y tế chiếm tỷ trọng đáng kể cả về số lượng và giá trị kinh tế từ nhiều
nguồn khác nhau như:
- Ngân sách ngành y tế 2009: 38.770 tỷ VNĐ ( chiếm 6,6% tổng chi ngân
sách nhà nước )
- Đầu tư nâng cấp các bệnh viện huyện, đa khoa khu vực liên huyện, giai
đoạn 2008-2011 là 17.000 tỷ VNĐ
- Đầu tư nâng cấp các bệnh viện chuyên khoa lao, Tâm thần, Nhi, Ung bướu và
một số bệnh viện đa khoa tỉnh vùng khó khăn, giai đoạn 2009-2013 là 45.280tỷ VNĐ
- Tính đến hết QII/2010, Bộ Y tế quản lý 64 chương trình, dự án, với tổng
kinh phí: 15.651 tỷ VNĐ
Tuy nhiên với một nước gần 90 triệu dân thì trang thiết bị y tế của Việt Nam
hiện nay nhìn chung còn thiếu, chưa đồng bộ và lạc hậu so với các nước trong khu
vực. Kinh phí giành cho đầu tư trang thiết bị y tế còn hạn hẹp. Theo báo cáo quyết
toán các bệnh viện năm 2006-2007-2008 tỷ lệ % đầu tư cho trang thiết bị y tế vấn
chưa cao, nhất là chi cho sửa chữa, bảo dưỡng duy tu, Trang thiết bị y tế còn thấp.
2. Một số tồn tại và thách thức :
2.1. Về tổ chức :
- Một số bệnh viện chưa có phòng vật tư thiết bị y tế
- Phân công quản lý trang thiết bị y tế chưa rõ ràng ở nhiều bệnh viện: Giữa
các Phòng Vật tư Trang thiết bị y tế, Khoa Dược, Khoa Chống nhiễm khuẩn, Khoa
Dịch vụ…
2.2. Về cán bộ
- Cán bộ y tế: Trình độ của đội ngũ cán bộ chuyên môn y tế chưa đủ để khai
thác hết công suất trang thiết bị hiện có.
- Cán bộ kỹ thuật về trang thiết bị thiếu và chưa đáp ứng yêu cầu:
+ Công tác tham mưu, giúp việc lập kế hoạch đầu tư, quản lý Trang thiết bị y
tế tại nhiều đơn vị còn yếu.
+ Năng lực xây dựng hồ sơ mua sắm, thực hiện quy trình dấu thầu chưa cao.
+ Năng lực của cán bộ kỹ thuật trang thiết bị y tế chưa đáp ứng kịp những
đổi mới về kỹ thuật và công nghệ. Chất lượng đào tạo, bố trí sử dụng nhân lực
chuyên sâu về kỹ thuật thiết bị y tế còn thấp so với yêu cầu.
2.3. Về Quản lý trang thiết bị y tế
- Công tác tham mưu, giúp việc lập kế hoạch đầu tư, quản lý Trang thiết bị y
tế tại nhiều bệnh viện còn hạn chế.
- Năng lực xây dựng hồ sơ mua sắm, thực hiện quy trình dấu thầu chưa chưa
đầy đủ.
- Nhiều bệnh viện chưa quan tâm đúng mức đến công tác quản lý trang thiết
bị y tế, nhất là các khâu tiếp nhận, lắp đặt, hướng dẫn sử dụng và bàn giao nghiệm
thu đưa trang thiết bị y tế mua sắm vào khai thác sử dụng có hiệu quả.
- Một số bệnh viện chưa quan tâm đến việc kiểm tra đối chiếu giữa Hợp
đồng và thực tế giao nhận các chứng từ quan trọng ...
- Nhiều bệnh viện chưa chuẩn bị tốt các điều kiện tiếp nhận, đưa Trang thiết
bị y tế vào khai thác sử dụng ngay, nhiều nơi còn có hiện tượng “ Đắp chiếu ”
không sử dụng.
- Hầu hết trang thiết bị y tế đang sử dụng tại bệnh viện chưa được định kỳ
kiểm chuẩn, bảo dưỡng và sửa chữa, không đủ nguồn vốn để đầu tư và đổi mới,
nhiều địa phương không có đủ kinh phí để mua vật tư tiêu hao.
- Vai trò của Phòng Tài chính kế toán bệnh viện trong thanh toán chi phí và
bảo hiểm y tế cho bệnh nhân sử dụng các thiết bị hiện đại còn bất cập
- Một số bệnh viện vẫn còn tình trạng sử dụng vật tư thay thế rất lớn nhưng
chưa thống nhất quản lý qua Phòng Vật tư Trang thiết bị y tế, Tài chính kế toán mà
các Hãng vẫn gửi trực tiếp tại các Khoa chuyên môn.
- Công tác theo dõi, giám sát, đánh giá và xây dựng cơ sở dữ liệu, Trang thiết
bị y tế tại đơn vị còn yếu, dẫn đến khó khăn, lúng túng trong quản lý khai thác sử
dụng trang thiết bị, công tác lập kế hoạch, báo cáo theo yêu cầu ( chậm, không đầy
đủ, thiếu chính xác ...)
2.4. Về kinh phí:
- Thiếu ngân sách và kế hoạch đảm bảo cho trang thiết bị y tế hoạt động có
hiệu quả ( Kinh phí đầu tư mới, vật tư tiêu hao, phụ tùng, linh kiện thay thế, kinh
phí bảo dưỡng, sửa chữa, kiểm định ...)
+ Trong thời gian qua, giá cả thị trường biến động, các Nhà cung ứng vật tư
tiêu hao (chỉ khâu, bơm kim tiêm, bông băng, phim X - quang…) đòi điều chỉnh
giá, nhiều mặt hàng tăng giá tới 15-20% khiến cho bệnh viện gặp nhiều khó khăn
+ Nhiều mặt hàng vật tư tiêu hao không thể dự trù chính xác về số lượng,
chủng loại, kích thước. Nếu mua sẵn có thể sẽ không sử dụng đến, tồn kho không
thu hồi được vốn vì vậy Bệnh viện nhập hàng với điều kiện sử dụng tới đâu, thanh
toán tới đó…
IV. GiỚI THIỆU MỘT SỐ NỘI DUNG CHÍNH TRONG CHÍNH SÁCH
QUỐC GIA VỀ TRANG THIẾT BỊ Y TẾ
1. Mục tiêu chung:
Ðảm bảo đủ trang thiết bị y tế cho các tuyến theo quy định của Bộ Y tế.
Từng bước hiện đại hoá trang thiết bị cho các cơ sở y tế nhằm nâng cao chất lượng
chăm sóc bảo vệ sức khỏe nhân dân. Phấn đấu đến đạt trình độ kỹ thuật về trang
thiết bị y tế ngang tầm các nước trung bình tiên tiến trong khu vực. Ðào tạo đội ngũ
cán bộ kỹ thuật chuyên ngành để khai thác sử dụng, bảo dưỡng, sửa chữa và kiểm
chuẩn trang thiết bị y tế. Phát triển công nghiệp trang thiết bị y tế nhằm nâng cao
dần tỷ trọng hàng hoá sản xuất trong nước và tiến tới tham gia xuất khẩu.
2. Một số giải pháp cụ thể liên quan tới công tác trang thiết bị bệnh viện
2.1. Phát triển nguồn nhân lực chuyên ngành trang thiết bị y tế
- Tăng cường đào tạo cán bộ đại học và sau đại học chuyên ngành trang thiết
bị y tế.
- Nâng cao chất lượng, mở rộng quy mô đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật
thiết bị y tế.
- Ban hành chính sách phù hợp để các cơ sở y tế có điều kiện tiếp nhận cán
bộ kỹ thuật đã được đào tạo như: kỹ sư y sinh học, cử nhân và công nhân kỹ thuật
thiết bị y tế.
2.2. Ðầu tư trang thiết bị y tế bằng cách huy động các nguồn vốn:
- Kết hợp các nguồn vốn bao gồm nguồn ngân sách Nhà nước, các dự án
ODA, vốn vay ưu đãi và thực hiện xã hội hoá trong công tác đầu tư trang thiết bị y
tế.
- Thực hiện lồng ghép các chương trình, dự án, các nguồn viện trợ của các tổ
chức quốc tế, quốc gia và các tổ chức phi chính phủ.
- Xây dựng cơ chế thu hồi vốn để duy trì hoạt động và tái đầu tư trang thiết
bị y tế.
- Ban hành quy định về kinh phí dành cho công tác kiểm chuẩn, bảo dưỡng
và sửa chữa trang thiết bị y tế hàng năm.
- Ðịnh hướng đầu tư trang thiết bị y tế có trọng tâm, trọng điểm nhằm đạt
được tính hiệu quả, khoa học và kinh tế.
2.3. Phát triển công nghiệp trang thiết bị y tế.
- Khuyến khích dùng trang thiết bị y tế sản xuất trong nước, giảm dần nhập
khẩu, chỉ nhập khẩu những thiết bị y tế chưa sản xuất được trong nước.
2.4. Tổ chức mạng lưới hoạt động của chuyên ngành trang thiết bị y tế.
a) Tăng cường công tác quản lý Nhà nước:
- Hoàn chỉnh và đổi mới hệ thống bộ máy quản lý Nhà nước về trang thiết bị
y tế từ Trung ương đến địa phương. Các cơ sở y tế có cán bộ nghiệp vụ theo dõi
công tác trang thiết bị y tế. Các bệnh viện, các viện Trung ương, bệnh viện đa khoa
tỉnh có phòng vật tư kỹ thuật thiết bị y tế. Các trung tâm y tế huyện có cán bộ
chuyên môn theo dõi công tác vật tư thiết bị y tế. Từng bước nâng cao năng lực
quản lý trang thiết bị y tế của các cơ sở y tế trong toàn ngành.
- Thực hiện kiểm chuẩn định kỳ trang thiết bị y tế đang sử dụng tại các cơ sở
sở y tế cũng như sản phẩm sản xuất trong nước và nhập khẩu.
Vụ Trang thiết bị và công trình y tế: Là vụ chuyên ngành tham mưu cho Bộ
trưởng Bộ Y tế quản lý nhà nước về lĩnh vực Trang thiết bị và công trình y tế:
- Quản lý danh mục, tiêu chuẩn kỹ thuật Trang thiết bị cho các tuyến y tế.
- Phối hợp chỉ đạo và xây dựng các tiêu chuẩn kỹ thuật ( Tiêu chuẩn Việt
Nam, Tiêu chuẩn cơ sở...) và hướng dẫn, kiểm tra thực hiện.
- Quản lý việc sản xuất, kinh doanh, xuất nhập khẩu Trang thiết bị y tế, dịch
vụ kỹ thuật, kiểm chuẩn... Trang thiết bị y tế.
- Đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên nghành Trang thiết bị y tế
- Thực hiện mục tiêu Chính sách quốc gia về Trang thiết bị y tế
- Tham mưu cho Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành các văn bản qui phạm pháp
luật
b) Tăng cường công tác dịch vụ kỹ thuật - thiết bị y tế:
- Từng bước xây dựng và củng cố Viện trang thiết bị và Công trình y tế. Phối
hợp với tổng cục Tiêu chuẩn - Ðo lường - Chất lượng đào tạo kiểm định viên, xây
dựng và ban hành các quy trình kiểm chuẩn trang thiết bị y tế.
- Củng cố và xây dựng cơ chế hoạt động của các trung tâm dịch vụ kỹ thuật
trang thiết bị y tế. Ðẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra chất lượng, giám sát hiệu
quả khai thác sử dụng.
V. NỘI DUNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ TRANG THIẾT BỊ Y TẾ TẠI CÁC
BỆNH VIỆN, CƠ SỞ Y TẾ TOÀN NGHÀNH
- Mục tiêu của quản lý trang thiết bị y tế là sử dụng, vận hành, bảo quản, phát
triển hệ thống trang thiết bị y tế của bệnh viện có hiệu quả nhằm nâng cao chất
lượng khám chữa bệnh cho nhân dân.
- Trang thiết bị là hàng hóa đặc biệt, chúng ta không thể coi công tác trang
thiết bị chỉ là thuộc khâu hậu cần, cung ứng đơn thuần mà phải coi là công tác đảm
bảo và đưa tiến bộ kỹ thuật vào bệnh viện để nâng cao chất lượng khám chữa bệnh.
Do vậy lãnh đạo bệnh viện cần phải tăng cường công tác quản lý trang thiết bị với
các nội dung sau
1. Quản lý trang thiết bị y tế hiện có ở bệnh viện:
1.1. Đối với thiết bị y tế hiện có trong bệnh viện:
Cần có sự quản lý toàn diện, chính xác và cập nhật về thiết bị y tế, Phải có hồ
sơ, sổ sách ghi chép về việc sử dụng thiết bị.
- Với một thiết bị phải ghi chép đầy đủ
+ Giá mua
+ Ngày mua
+ Loại hình thiết bị, nước, hãng năm sản xuất
+ Tên khoa sử dụng thiết bị, người phụ trách sử dụng
+ Ngày nhận
+ Nguồn vốn
- Theo dõi số đầu thiết bị là bao nhiêu?
- Theo dõi chất lượng, tần suất khai thác thiết bị.
1.2. Đối với vật tư y tế:
Yêu cầu điều kiện bảo quản? Hạn dùng? Số lượng hiện còn trong kho.
1.3. Thanh lý vật tư trang thiết bị
2. Quản lý sử dụng trang thiết bị y tế
- Khai thác sử dụng Trang thiết bị y tế có hiệu quả phụ thuộc vào: Nhu cầu
thăm khám, tần suất sử dụng thiết bị của đơn vị nhiều hay ít. Trình độ cán bộ
chuyên môn sử dụng và cán bộ kỹ thuật Trang thiết bị y tế ? Điều kiện lắp đặt và
hoạt động? Kinh phí đảm bảo hoạt động.
- Tìm mọi cách để đưa thiết bị vào khai thác, sử dụng, tránh “đắp chiếu” gây
lãng phí.
3. Quản lý bảo dưỡng, sửa chữa Trang thiết bị y tế
- Ưu tiên nhu cầu về thiết bị và xác định thiết bị cần thay thế;
- Xác định cách thức và thời gian tiến hành bảo dưỡng thiết bị và chi phí sẽ
là bao nhiêu
3.1. Bảo dưỡng
- Khâu này có tác dụng đảm bảo thiết bị hoạt động an toàn, chính xác, tăng
tuổi thọ, tiết kiệm kinh phí sửa chữa lớn ..
- Người quản lý phải nắm được chu kì bảo dưỡng, vật tư phụ tùng thay thế...
và lên kế hoạch thực hiện bảo dưỡng, duy tu và định kì kiểm chuẩn các Trang thiết
bị y tế có yêu cầu.
3.2. Sửa chữa
- Khâu này hiện đang và sẽ là vấn đề lớn cần có giải pháp tối ưu mang tính
khả thi cho toàn ngành. Nếu làm tốt khâu này sẽ tránh gây lãng phí, tăng hiệu quả
đầu tư.
- Các bước tiến hành:
+ Xác định hiện trạng, mức độ hỏng hóc, nguyên nhân hỏng
+ Lên kế hoạch: sửa ngay, phối hợp tiến hành sửa chữa, ký hợp đồng sửa chữa.
4. Quản lý đầu tư Trang thiết bị y tế
Là khâu quan trọng trong 4 khâu chính của công tác quản lý Trang thiết bị y
tế, quyết định đến chất lượng chuyên môn và hiệu quả đầu tư. Tránh khuynh hướng
sao lãng 3 nhiệm vụ trên mà chỉ quan tâm đến mua sắm. Trước hết chúng ta cần
nắm được vòng đời của một thiết bị y tế hoặc chu trình của một thiết bị y tế.
Chuyên đề 3
KỸ NĂNG TƯ VÁN VÀ GIÁO DỤC SỨC KHOẺ15
Có thực hiện
Chưa
Ghi
TT Nội dung thực
Chưa chú
hiện Đạt Tốt
đạt
Chuyên đề 6
BAO PHỦ SỨC KHOẺ TOÀN DÂN
THỜI LƯỢNG HỌC TẬP
Tổng số tiết: 12 tiết
- Lý thuyết: 8 tiết
- Thảo luận/thực hành: 4 tiết
MỤC TIÊU
Sau khi học xong chuyên đề, học viên cần đạt:
1- Trình bày được khái niệm, những nguyên tắc của vấn đề bao phủ sức khoẻ
toàn dân
2- Trình bày được tầm quan trọng của bao phủ sức khoẻ toàn dân
3- Hiểu được những khó khăn và thách thức trong sự nghiệp bao phủ sức
khoẻ toàn dân của Việt Nam
4- Nêu được những giải pháp cơ bản để thực hiện mục tiêu bao phủ sức khoẻ
toàn dân
NỘI DUNG
1. Khái niệm, nguyên tắc và tầm quan trọng của bao phủ sức khoẻ toàn dân
1.1. Khái niệm bao phủ sức khoẻ toàn dân
Theo Liên Hợp Quốc, "Bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân có nghĩa là tất
cả mọi người dân đều được tiếp cận các dịch vụ y tế cơ bản về nâng cao sức khoẻ,
dự phòng, điều trị, phục hồi chức năng và các loại thuốc thiết yếu, an toàn, bảo đảm
chất lượng, với mức chi phí có thể chi trả được, bảo đảm người sử dụng dịch vụ,
đặc biệt là người nghèo và các đối tượng thiệt thòi, không phải đối mặt với khó
khăn về tài chính". Quan niệm này của Liên Hợp Quốc cũng trùng hợp với quan
niệm của WHO: “Bao phủ toàn dân (Universal Coverage), hoặc bao phủ CSSK
toàn dân (Universal Health Coverage), được định nghĩa là sự bảo đảm để mọi
người dân khi cần đều có thể sử dụng các dịch vụ nâng cao sức khỏe, dự phòng,
điều trị, phục hồi chức năng và chăm sóc giảm nhẹ (palliative care) có chất lượng
và hiệu quả, đồng thời bảo đảm rằng việc sử dụng các dịch vụ này không làm cho
người sử dụng gặp phải khó khăn tài chính”.
Những quan niệm nêu trên cho thấy bao phủ CSSK toàn dân nhằm 3 mục
tiêu:
- Công bằng trong tiếp cận dịch vụ y tế: Tất cả mọi người, ai có nhu cầu đều
được sử dụng dịch vụ y tế, không phân biệt đối xử và không phụ thuộc vào khả
năng chi trả;
- Cung cấp các dịch vụ y tế cơ bản, toàn diện: Bao gồm dịch vụ y tế cơ bản
về nâng cao sức khoẻ, dự phòng, điều trị và phục hồi chức năng có chất lượng đủ
tốt để có hiệu quả nâng cao sức khỏe cho người sử dụng dịch vụ;
- Bảo vệ người sử dụng trước rủi ro tài chính: Với mức chi phí có thể chi trả
được, việc sử dụng dịch vụ không làm cho người sử dụng, đặc biệt là người nghèo
và các đối tượng thiệt thòi, gặp phải khó khăn về tài chính.
Thực hiện bao phủ CSSK toàn dân là một quá trình cần có sự tăng tiến về
nhiều mặt: về sự sẵn có các dịch vụ y tế; về các điều kiện để cung cấp dịch vụ có
chất lượng và hiệu quả (quản trị hệ thống, tài chính y tế, nhân lực y tế, thuốc, trang
thiết bị, vật tư y tế, cơ sở hạ tầng, hệ thống thông tin y tế...); về tỷ lệ dân số được
bao phủ; về mức độ bảo vệ tài chính khi sử dụng các dịch vụ y tế. Mục tiêu của bao
phủ CSSK toàn dân không chỉ là đạt được một gói dịch vụ tối thiểu cố định. Quan
điểm bao phủ toàn dân là một quá trình hoàn thiện liên tục và không có điểm “hoàn
thành” được nhiều tổ chức quốc tế công nhận.
1.2. Một số nguyên tắc chung về bao phủ CSSK toàn dân
- Bao phủ CSSK toàn dân được đánh giá theo 3 chiều: Ai được bao phủ, dịch
vụ nào được bao phủ, tỷ lệ chi phí được bao phủ.
- Nguồn thu từ thuế là nguồn tài chính chủ yếu cho tất cả các nước thực hiện
CSSK toàn dân, đặc biệt là các nước thu nhập thấp và thu nhập trung bình thấp, do
khu vực lao động phi chính thức lớn. Chính phủ cần ưu tiên sử dụng nguồn NSNN
để hỗ trợ cho khu vực lao động phi chính thức để đạt được bao phủ toàn dân.
- Chia sẻ rủi ro để người giàu hỗ trợ người nghèo, người khỏe hỗ trợ người
ốm là yếu tố thiết yếu để bao phủ dân số có hiệu quả. Xu hướng chung là giảm bớt
số lượng quỹ BHYT nhằm tăng cường khả năng chia sẻ rủi ro.
- Các nước cần chuyển sang cơ chế chi trả trước (thông qua cơ chế tài chính
y tế dựa trên thuế hoặc BHYT xã hội) và hạn chế việc thu phí dịch vụ trực tiếp từ
người bệnh.
- Công bằng là mục đích của CSSK toàn dân và thường khó đạt được, ít nhất
là ở thời kỳ đầu, do các khó khăn của khu vực lao động phí chính thức và người
nghèo.
- Bao phủ CSSK toàn dân là một mục tiêu di động (“moving target”): Quá
trình tiến tới bao phủ CSSK toàn dân là quá trình không có điểm kết thúc, do sự
biến đổi liên tục trong ứng dụng công nghệ y tế, gánh nặng bệnh tật và cơ cấu dân
số. Bao phủ CSSK toàn dân giống như một tiến trình, một mục tiêu cần hướng tới,
hơn là một mục tiêu có thể “hoàn thành”.
- Sự thỏa hiệp/đánh đổi là cần thiết để bảo đảm tính khả thi. Các quốc gia
luôn luôn phải đối mặt với thiếu hụt nguồn lực và phải cân nhắc, đánh đổi (trade
off) giữa các chiều của bao phủ toàn dân.
- Mỗi quốc gia có một đặc thù riêng: Có những chính sách giúp các quốc gia
đạt được sự bao phủ lớn hơn với chi phí thấp hơn, nhưng sự phối hợp các lựa chọn
chính sách đó là đặc thù riêng ở từng quốc gia.
- Theo đuổi mục tiêu bao phủ CSSK toàn dân là một quá trình liên tục. Tất
cả các nước, kể nước nghèo nhất, đều có thể từng bước triển khai và thực hiện bao
phủ CSSK toàn dân như một quá trình liên tục.
1.3. Tầm quan trọng của bao phủ sức khoẻ toàn dân
Trên thực tế, mặc dù công tác chăm sóc sức khỏe toàn dân được thế giới
đánh giá là nhân tố quan trọng bảo đảm phát triển bền vững, góp phần giảm gánh
nặng tài chính cho người bệnh, thực hiện dự phòng bệnh dịch, nâng cao sức khỏe
và bảo đảm điều trị tại cơ sở, song ở Việt Nam hiện nay, công tác này đang gặp
nhiều khó khăn. Bằng chứng là hiện cả nước có khoảng 11.400 trạm y tế cấp xã -
vốn là những “cánh tay nối dài” của ngành y tế nhưng chưa được tận dụng triệt để
nhằm góp phần chăm sóc sức khỏe ngay từ ban đầu cho nhân dân, do những khó
khăn về tài chính, cung ứng dịch vụ…
Nhận thức được tầm quan trọng của việc chăm sóc sức khỏe toàn dân, thời
gian qua, bên cạnh việc thiết lập hệ thống hồ sơ sức khỏe cá nhân, ngành y tế đã nỗ
lực thực hiện nhiều giải pháp như nâng cao chất lượng khám chữa bệnh theo bộ
tiêu chí chuẩn quốc tế, xây dựng môi trường bệnh viện xanh sạch đẹp thân thiện,
cải cách thủ tục hành chính, giảm phiền hà cho người bệnh, ứng dụng nhiều kỹ
thuật tiên tiến ngang tầm quốc tế để dự phòng, chẩn đoán và điều trị... Trong đó,
giải pháp then chốt là toàn ngành đã tập trung đổi mới cơ chế tài chính, đưa giá
dịch vụ về giá trị thực gắn với lộ trình BHYT toàn dân vận hành theo đúng nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tuy vậy, “việc thực hiện chính sách và kết
quả thu được chủ yếu dành cho những người dân đã bị mắc bệnh, còn đại bộ phận
người dân chưa mắc bệnh cần phải có những chính sách và giải pháp hiệu quả hơn
để bảo đảm nguyên tắc “không ai bị bỏ lại phía sau”. Theo đó, mọi người dân từ
miền núi, vùng sâu, vùng xa đều được bảo vệ, chăm sóc, quản lý, theo dõi và khám
sức khỏe định kỳ”, Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến nhấn mạnh.
Nhằm hướng tới bao phủ sức khỏe toàn dân, ngành y tế sẽ tập trung vào 3
nhóm nhiệm vụ cụ thể. Thứ nhất, tăng số trạm y tế xã thực hiện dự phòng, quản lý,
điều trị một số bệnh không lây nhiễm lên 75% cuối năm 2019, 95% năm 2025,
100% năm 2030 (hiện tại tỷ lệ người bệnh tăng huyết áp được quản lý tại cơ sở y tế
chỉ có 13,6%, tỷ lệ người bệnh đái tháo đường được quản lý tại cơ sở y tế là
28,9%). Thứ hai, mở rộng diện bao phủ bảo hiểm y tế từ 86,4% năm 2017 lên
88,5% vào cuối năm 2018, tăng nguồn tài chính công cho các dịch vụ chăm sóc sức
khỏe ban đầu. Thứ ba, huy động nguồn lực từ thuế đối với hàng hóa có hại đối với
sức khỏe: thuốc lá và rượu; tăng ngân sách công, đặc biệt là quỹ BHYT để phân bổ
cho các dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu hướng tới mục tiêu chiếm 30% trong
tổng chi tiêu cho y tế.
Rõ ràng, để bảo đảm chăm sóc sức khỏe toàn dân vốn được chính lãnh đạo
ngành y tế thừa nhận “rất nặng nề”, đòi hỏi toàn ngành phải nỗ lực hơn nữa, quyết
tâm hơn nữa thực hiện các giải pháp đề ra. Song, nói theo Phó Thủ tướng Chính
phủ Vũ Đức Đam tại Lễ kỷ niệm 63 năm Ngày Thầy thuốc Việt Nam (27/2/2018)
với chủ đề Tăng cường y tế cơ sở - Hướng tới bao phủ sức khỏe toàn dân, “việc
phát triển y tế cơ sở hướng tới bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân là nhiệm vụ hết
sức nặng nề và quan trọng, đòi hỏi sự quyết tâm cao nhất của ngành y tế cũng như
sự hỗ trợ vào cuộc của cả hệ thống chính trị”. Nói cách khác, hơn lúc nào, ngành y
tế cần được “tiếp lửa” từ cả cộng đồng. Chỉ khi đó, mục tiêu “không ai bị bỏ lại
phía sau” trong chăm sóc y tế, hướng tới phát triển bền vững mới trở thành hiện
thực.
2. Những khó khăn và thách thức hướng tới bao phủ sức khoẻ toàn dân tại
Việt Nam16
2.1. Yếu kém và nút thắt trong cung cấp dịch vụ y tế
a. Các dịch vụ y tế thiết yếu.
Việt Nam là một trong 10 quốc gia có thành tích hoàn thành nhanh chóng
các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDG) về y tế, nhưng giữa các vùng và các
nhóm dân tộc vẫn còn tồn tại khác biệt lớn. Tỷ lệ tiêm phòng đầy đủ và tỷ lệ phụ
nữ đẻ được cán bộ y tế đỡ đạt trên 90%; các khoản đầu tư của chính phủ đã mở
rộng và nâng cấp mạng lưới bệnh viện tuyến tỉnh và huyện; các trạm y tế xã bao
phủ 99% các xã, phường, thị trấn toàn quốc. Tuy nhiên vẫn tồn tại khác biệt lớn và
dai dẳng về các chỉ số sức khoẻ giữa các địa bàn, nhóm dân tộc và nhóm mức sống,
ví dụ khác biệt về suy dinh dưỡng, tỷ suất tử vong mẹ, tỷ suất tử vong trẻ em dưới
5 tuổi, khả năng tiếp cận dịch vụ thiết yếu, như dịch vụ chăm sóc trước sinh. Năng
16
WHO: Hướng tới bao phủ chăm sóc sức khoẻ toàn dân Việt Nam – Các sáng kiến quốc gia,
thách thức và vai trò của hoạt động hợp tác quốc tế, 2015
lực của cơ sở y tế tại vùng nông thôn (miền núi và hải đảo) còn hạn chế, nhất là
thiếu cán bộ y tế có năng lực và kinh nghiệm.
b. Chất lượng dịch vụ y tế.
Hệ thống đảm bảo chất lượng đã được thiết lập tại tất cả các bệnh viện;
hướng dẫn chẩn đoán và điều trị đã được ban hành cho nhiều loại bệnh khác nhau
và đang được áp dụng tại các bệnh viện; đào tạo chuyên môn đang chuyển dần sang
hướng tập trung vào năng lực ngay từ cấp đại học tới các cấp sau đại học. Tuy
nhiên, trong hệ thống y tế lấy bệnh viện làm trung tâm này, các trạm y tế xã vẫn
chưa đáp ứng được nhu cầu chăm sóc sức khỏe ban đầu của người dân: cán bộ y tế
thường không đủ năng lực chuyên môn, thiếu kỹ năng trong các lĩnh vực như sơ
cứu, khám phát hiện sớm quản lý các bệnh không lây nhiễm và ít có cơ hội được
đào tạo liên tục; danh mục thuốc cán bộ y tế xã được phép kê đơn rất hạn chế; ít có
điều kiện thực hiện xét nghiệm và chẩn đoán hình ảnh. Do vậy, bệnh nhân ít tin
tưởng vào chất lượng dịch vụ tại cơ sở chăm sóc sức khỏe ban đầu và thường chọn
lên tuyến trên mặc dù bản thân họ phải chịu chi phí cao hơn và thủ tục phiền toái
hơn rất nhiều.
c. Sẵn sàng ứng phó với đại dịch.
Đánh giá độc lập chung thực hiện Điều lệ Y tế quốc tế (IHR) năm 2016 cho
thấy Việt Nam đã thiết lập nhiều hệ thống và qui trình cần có nhưng cũng chỉ ra
nhiều lĩnh vực cần làm tốt hơn nữa và sự cần thiết phải tăng cường tính bền vững
các năng lực hiện có. Các lĩnh vực tồn tại nhiều hạn chế nhất hiện nay gồm: chống
kháng kháng sinh; xây dựng và thực hiện một kế hoạch sẵn sàng kiểm soát và ứng
phó, trong đó nêu rõ các rủi ro và nguồn lực ưu tiên; kết nối y tế công cộng với cơ
quan an ninh quốc gia; các biện pháp ứng phó về y tế và sử dụng nguồn nhân lực;
các cơ chế phát hiện và quản lý các vấn đề liên quan dến hóa chất độc hại
2.2. Hiện trạng tài chính y tế
a. Nguồn tài chính cho y tế.
Tổng chi y tế của Việt Nam tiếp tục tăng, tuy nhiên vẫn có thể nâng cao đáng
kể hiệu quả phân bổ và hiệu suất kỹ thuật nhằm tăng cường kết quả đạt được với
mức đang chi hiện nay. Trong giai đoạn 1995-2014 tổng chi y tế của Việt Nam đã
tăng đều đặn, từ 5,2% lên 7,1% GDP (WDI, 2017). Tỷ lệ chi y tế trong tổng chi
ngân sách nhà nước tăng từ 7,9% lên 14,2% trong cùng thời kỳ (WDI, 2017). Con
số tuyệt đối về chi y tế từ tiền túi hộ gia đình tiếp tục tăng, nhưng số tương đối, tức
là tỷ lệ chi từ tiền túi trong tổng chi y tế có giảm từ 63% xuống còn 37% (WDI,
2017). Mức gia tăng chi cho y tế khó duy trì do những hạn chế trong nguồn ngân
sách nhà nước và trần nợ công. Vì vậy càng cần thiết phải tăng hiệu suất chi, đặc
biệt khi xét tình trạng già hóa dân số, và sự sẵn có những công nghệ mới có chi phí
cao. Các phương thức chi trả cho bên cung ứng dịch vụ y tế hiện nay không khuyến
khích họ cấp dịch vụ có tính hiệu quả so với chi phí, dẫn đến bên cung ứng dịch vụ
y tế cấp dịch vụ công nghệ cao vượt mức cần thiết. Tăng giá dịch vụ y tế, đồng thời
mở rộng gói dịch vụ được bảo hiểm y tế thanh toán, có kết quả là tăng tổng mức
thanh toán mà quỹ bảo hiểm y tế phải gánh chịu trong khi nguồn thu vào quỹ không
tăng tương xứng. Ở cấp độ hệ thống y tế, các khoản trợ cấp lớn dành cho bệnh viện
tuyến trên lấy mất nguồn lực đáng lẽ được dành cho công tác tăng cường chăm sóc
sức khỏe ban đầu và y tế dự phòng
b. Bảo vệ tài chính và hỗ trợ có mục tiêu dành cho các nhóm khó khăn.
Việt Nam cố gắng cung cấp một gói dịch vụ y tế khá hào phóng cho đông
đảo người dân. Luật bảo hiểm y tế năm (2008 và sửa đổi 2014) quy định Nhà nước
đóng bảo hiểm y tế cho một số nhóm đối tượng gồm người nghèo, người cận nghèo
mới thoát nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi, nhóm dân tộc thiểu số tại các vùng khó khăn
và các đối tượng hưởng chính sách xã hội. Ngoài ra, học sinh, đối tượng cận nghèo,
nông dân có thu nhập thấp và thu nhập trung bình cũng được ngân sách nhà nước
đóng một phần. Gói bảo hiểm y tế thiết yếu bao gồm khá nhiều dịch vụ như khám
chữa bệnh ngoại trú, phục hồi chức năng, công nghệ chẩn đoán tiên tiến và chữa
bệnh. Tuy vậy hiện vẫn còn 20% dân số chưa có bảo hiểm y tế, chủ yếu thuộc
nhóm lao động không chính thức hoặc lao động trong các doanh nghiệp nhỏ.
Những người có thẻ bảo hiểm y tế, ngay cả nhóm không có trách nhiệm cùng chi
trả, vẫn phải chi từ tiền túi những khoản gây gánh nặng và không lường trước được,
ví dụ như giá trả cho dịch vụ sử dụng các trang thiết bị được mua từ nguồn xã hội
hóa, thuốc ngoài danh mục được bảo hiểm thanh toán, chi phí vận chuyển người
bệnh, chi phí ăn uống, chỗ ở cho người nhà chăm sóc bệnh nhân. Vẫn còn sự khác
biệt lớn trong chất lượng dịch vụ được hưởng giữa các đối tượng nghèo và không
nghèo. Một số can thiệp y tế quan trọng, ví dụ sàng lọc bệnh tật trong khi chưa có
triệu chứng, cai thuốc lá, điều trị cai nghiện còn bị bỏ qua do cả ngân sách Nhà
nước và bảo hiểm y tế đều không có trách nhiệm chi trả. Còn một rủi ro nữa—đó là
khả năng một số nhóm đối tượng của các chương trình phòng chống bệnh HIV và
phòng chống bệnh lao có thể bị bỏ quên khi chuyển nguồn nhân lực từ ngân sách
Nhà nước sang bảo hiểm y tế.
2.3. Thách thức về quản trị hệ thống
a. Thay đổi định hướng hệ thống y tế, chuyển từ mô hình tập trung vào bệnh
viện hiện nay sang mô hình lấy chăm sóc sức khoẻ ban đầu làm trung tâm.
Tuy đã có nhiều cố gắng chuyển sự tập trung của hệ thống y tế sang chăm
sóc sức khỏe ban đầu, y tế dự phòng và nâng cao sức khỏe, nhưng hiện nay nguồn
lực và các chính sách y tế vẫn dành ưu tiên cho dịch vụ khám chữa bệnh tại tuyến
trên. Các chính sách kêu gọi đầu tư cơ bản vào bệnh viện tuyến huyện và trạm y tế
xã, luân chuyển cán bộ để tăng cường năng lực cho cán bộ y tế tuyến huyện, mở
rộng phạm vi dịch vụ được bảo hiểm y tế thanh toán tại tuyến dưới đã góp phần
tăng cường chăm sóc sức khỏe ban đầu. Tuy vậy, hệ thống y tế vẫn tập trung chủ
yếu vào bệnh viện. Trong khi thiếu cơ chế nghiêm ngặt để giám sát và kiểm soát
các bệnh viện thì chính sách xã hội hóa và dự án hợp tác công tư (thực hiện để thu
hồi vốn từ các nhà đầu tư tư nhân, bao gồm cả đội ngũ y, bác sĩ) đang làm trầm
trọng thêm tình trạng chỉ định quá mức dịch vụ công nghệ cao. Đồng thời, các trạm
y tế xã lại thiếu nguồn lực: nhân viên không đủ năng lực, phạm vi dịch vụ cơ sở y
tế được phép cung cấp quá hẹp, ngân sách trạm y tế phụ thuộc vào ngân sách địa
phương (các khoản thanh toán bảo hiểm y tế được thanh toán cho tuyến huyện dù
nhiều dịch vụ được cấp tại tuyến y tế xã). Bệnh nhân thường được chuyển tuyến
trên, sau đó được giữ lại tại bệnh viện thay vì chuyển tuyến về tuyến xã để tiếp tục
theo dõi. Các biện pháp y tế dự phòng và nâng cao sức khỏe chưa được lồng ghép
đúng mức vào dịch vụ chữa bệnh do các chính sách hiện nay giao các mảng nhiệm
vụ này cho các cơ quan khác nhau; các biện pháp ưu đãi tài chính hiện nay lại chú
trọng can thiệp chữa bệnh hơn các hoạt động phòng bệnh.
b. Vai trò của Bộ Y tế và các sở y tế.
Công tác đổi mới bộ máy tổ chức ngành y tế hiện nay tập trung vào hợp nhất
các đơn vị thực hiện y tế dự phòng (ví dụ các trung tâm phòng, chống HIV/AIDS,
các trung tâm chăm sóc sức khỏe sinh sản, v.v.) và sát nhập các trung tâm y tế dự
phòng và bệnh viện tuyến huyện. Chức năng quản lý nhà nước về bảo hiểm y tế
được tách khỏi chức năng điều hành và thanh toán, theo đó Bộ Y tế thực hiện chức
năng quản lý nhà nước còn Bảo hiểm Xã hội Việt Nam chịu trách nhiệm chi trả.
Mặc dù đã thực hiện những cải cách hành chính này nhưng Bộ Y tế, vừa đóng vai
trò quản lý nhà nước vừa quản lý trực tiếp các cơ sở y tế công, nên chính sách và
phân bổ nguồn vốn của Bộ Y tế xung đột với mục tiêu tăng thu nhập của các cơ sở
y tế. Các cơ sở y tế tư nhân cũng chịu sự kiểm soát và thi hành quy định ở mức chặt
chẽ hơn (hoặc lỏng lẻo hơn) so với khu vực y tế công, tùy từng lĩnh vực. Bộ Y tế
cũng gặp nhiều khó khăn khi cần vận động các bộ ngành khác hành động để nâng
cao sức khỏe người dân; cần chú ý hoạt động nâng cao sức khỏe trong tất cả các
ngành.
c. Hệ thống thông tin y tế.
Hiện nay Bộ Y tế đang nỗ lực triển khai các ứng dụng công nghệ thông tin
phục vụ quản lý ngành và quản lý lâm sàng. Các trang web của Bộ Y tế, các sở y tế
và các cơ sở khám chữa bệnh ngày càng được sử dụng rộng rãi nhằm phổ biến
thông tin. Các cơ quan, đơn vị ngành y tế thu thập một khối lượng lớn dữ liệu hành
chính, bao gồm cấp chứng chỉ hành nghề, giám sát bệnh truyền nhiễm và giá thuốc.
Bảo hiểm xã hội Việt Nam hiện đã có một cơ sở dữ liệu giám định bảo hiểm y tế
trực tuyến từ tuyến xã trở lên. Các cơ quan liên quan đang xem xét thành lập hồ sơ
bệnh án điện tử và hồ sơ quản lý sức khỏe cho từng cá nhân. Mặc dù công nghệ
thông tin đã được đưa vào ứng dụng nhanh chóng, nhưng hiện chưa có quy định rõ
ràng về cách sử dụng, người nào được phép sử dụng, và sử dụng dữ liệu phục vụ
mục đích gì. Công tác trao đổi thông tin giữa các cơ quan vẫn còn yếu. Số liệu
thống kê do Bộ Y tế cung cấp thường bị chậm, các con số ước tính giữa các thời kỳ
không thống nhất. Do vậy, số liệu chưa được sử dụng hiệu quả phục vụ công tác
hoạch định chính sách, và lập kế hoạch. Số liệu về khu vực y tế tư nhân hầu như
không có mặc dù khu vực này đóng góp đáng kể vào khám chữa bệnh ngoại trú.
3. Những giải pháp hướng tới bao phủ sức khoẻ toàn dân tại Việt Nam
3.1. Tăng cường năng lực quản lý của ngành y tế
- Khuyến nghị Bộ Y tế tiến hành tổng kết 30 năm đổi mới hệ thống y tế và đề
xuất các định hướng và giải pháp lớn về tiếp tục đổi mới và phát triển hệ thống y tế
Việt Nam. Hoàn thiện các dự thảo Luật và Nghị định theo chương trình của Quốc
hội và Chính phủ.
- Trên cơ sở xác định Bao phủ CSSK toàn dân là một ưu tiên trong định
hướng chính sách phát triển y tế ở Việt Nam, Bộ Y tế trình các cơ quan lãnh đạo
Đảng, Nhà nước ban hành Nghị quyết/đề án về củng cố y tế cơ sở, bảo đảm cung
ứng các dịch vụ CSSK cơ bản/thiết yếu có chất lượng ở tuyến cơ sở.
- Nâng cao năng lực hoạch định chính sách cho các công chức, viên chức các
vụ, cục, viện thuộc Bộ Y tế, trước mắt thông qua đào tạo, tập huấn trong và ngoài
nước.
- Tổng kết, đánh giá mô hình tổ chức y tế địa phương để điều chỉnh tổ chức,
bộ máy, chức năng nhiệm vụ cho phù hợp. Hoàn thành xây dựng các văn bản Quy
hoạch hệ thống y tế đến năm 2020, Chiến lược phát triển mạng lưới YTDP, Nghị
định về tổ chức y tế địa phương… theo hướng nâng cao chất lượng cung ứng dịch
vụ, thu gom đầu mối, nâng cao hiệu quả đầu tư.
- Xây dựng cơ chế và hình thức phối hợp giữa các đơn vị YTDP và các cơ sở
KCB ở các tuyến. Nghiên cứu và đề xuất việc thiết lập lại hệ thống chuyển tuyến.
Xây dựng và thực hiện cơ chế phối hợp hoạt động giữa y tế công và tư.
- Giảm các đầu mối trong quản lý, chỉ đạo triển khai thực hiện các chương
trình mục tiêu phòng chống bệnh dịch và xây dựng cơ chế lồng ghép bảo đảm sự
liên kết rong cung ứng dịch vụ phòng bệnh và chữa bệnh. CSSKBĐ phải được
quản lý thống nhất và có tính lồng ghép cao.
- Khuyến khích đổi mới lập kế hoạch và lập dự toán ngân sách tại các địa
phương, thí điểm và nhân rộng mô hình cấp ngân sách tài chính dựa trên kết quả và
các cơ chế phân bổ tài chính hiệu quả khác. Cải thiện tính kịp thời và chất lượng số
liệu thống kê. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành,
cải cách thủ tục hành chính. Trong các kế hoạch/chiến lược, cần xác định rõ các
nguồn ngân sách, với các phương pháp huy động phù hợp, để bảo đảm đủ nguồn tài
chính cho việc triển khai thực hiện. Áp dụng quy trình lập kế hoạch ở tất cả các
tuyến cho phép tổng hợp thành kế hoạch của từng lĩnh vực và kế hoạch chung của
toàn ngành y tế.
Tăng cường đối thoại chính sách giữa các cơ quan hoạch định chính sách, cơ
quan thực thi chính sách, nhà nghiên cứu và người dân; xây dựng chính sách dựa
trên bằng chứng.
- Hoàn thành xây dựng và ban hành Thông tư hướng dẫn thực hiện Nghị định
số 69/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 của Chính phủ. Xây dựng hành lang pháp lý để
thúc đẩy quan hệ đối tác công tư (PPP) trong lĩnh vực y tế. Tổ chức thực hiện tốt
Thông tư số 19/2013/TT-BYT của Bộ Y tế về quản lý chất lượng dịch vụ khám
bệnh, chữa bệnh tại bệnh viện.
- Tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chính sách y tế tại trung
ương và địa phương. Xây dựng cơ chế tiếp nhận, phản hồi thông tin từ các bên liên
quan trong quá trình triển khai thực hiện chính sách. Giao nhiệm vụ cho các vụ,
cục, viện đánh giá tình hình thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm
vào báo cáo 6 tháng và hằng năm. Tăng cường giám sát và đánh giá việc áp dụng 6
cấu phần của hệ thống y tế trong lập kế hoạch y tế ở các lĩnh vực và các địa
phương.
3.2. Nhân lực y tế
- Xây dựng kế hoạch dài hạn về đổi mới toàn diện hệ thống đào tạo nhân lực
y tế. Xây dựng hệ thống kiểm định chất lượng đào tạo nhân lực y tế cũng như kiểm
chuẩn chất lượng đầu ra. Tổ chức thực hiện tốt Thông tư số 22/2013/TT-BYT về
đào tạo liên tục trong lĩnh vực y tế. Ưu tiên xây dựng kế hoạch và thực hiện đào tạo
liên tục cập nhật kiến thức cho cán bộ y tế tuyến huyện, xã.
- Đánh giá hiệu quả của các chính sách, biện pháp thu hút, duy trì và tăng
cường năng lực nguồn nhân lực y tế cho vùng sâu, vùng xa để điều chỉnh cho phù
hợp. Tăng cường hình thức đào tạo cập nhật kiến thức tại chỗ; thực hiện các chính
sách đãi ngộ và tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ y tế làm việc tại các vùng khó
khăn. Hoàn thiện chính sách đầu tư để tăng cường nguồn nhân lực cho YTDP và
tuyến CSSKBĐ. Xây dựng một cơ chế hiệu quả để bảo đảm đủ kinh phí chi trả phụ
cấp và ưu đãi cho nhân viên y tế địa phương làm việc tại TYT xã và các hoạt động
tiếp cận cộng đồng.
- Rà soát và chuẩn hóa các chương trình đào tạo bác sĩ đa khoa, YTCC, điều
dưỡng. Xây dựng tiêu chuẩn và quy trình đánh giá nhân lực dựa trên cơ sở năng
lực, kết quả, hiệu suất, năng suất lao động thực tế. Bảo đảm kinh phí để đào tạo lại
cho cán bộ y tế tuyến cơ sở theo yêu cầu của Thông tư về đào tạo y khoa liên tục,
được quy định theo Luật Khám bệnh, chữa bệnh.
- Củng cố hệ thống thông tin liên quan đến đào tạo, sử dụng nhân lực y tế ở
khu vực y tế công lập và tư nhân để thực hiện quản lý nguồn nhân lực y tế. Tăng
cường theo dõi, giám sát việc triển khai thực hiện các chính sách hiện có về nhân
lực y tế.
3.3. Hệ thống thông tin y tế
- Hoàn thiện Hệ thống thông tin y tế và kế hoạch tổng thể phát triển hệ thống
thông tin.
- Bảo đảm đủ kinh phí đầu tư cho cơ sở hạ tầng và nâng cao năng lực cho
cán bộ làm việc trong lĩnh vực hệ thống thông tin y tế để bảo đảm thực thi các kế
hoạch và chính sách.
- Ban hành danh mục chỉ số cơ bản ngành y tế, phân cấp theo tuyến tỉnh,
huyện và tuyến xã; chế độ báo cáo thống kê tổng hợp của tuyến tỉnh, huyện và
tuyến xã. Xây dựng phần mềm báo cáo thống kê tổng hợp tại các tuyến.
- Xây dựng hệ thống theo dõi các vấn đề ưu tiên; hệ thống thu thập thông tin
về tử vong và nguyên nhân tử vong; tăng cường thu thập thông tin bệnh không lây
nhiễm. Xác định các điều kiện để thực hiện đánh giá gánh nặng bệnh tật và Tài
khoản y tế quốc gia thường xuyên.
- Xây dựng Thông tư phổ biến thông tin ngành y tế. Phổ biến rộng rãi các
sản phẩm thống tin dưới nhiều hình thức khác nhau.
3.4. Dược và trang thiết bị y tế
a. Tăng khả năng tiếp cận thuốc của nhân dân
- Chỉnh sửa Luật Dược, Chính sách quốc gia về thuốc giai đoạn đến năm
2020. Xây dựng Đề án Quy hoạch phát triển sản xuất và lưu thông phân phối thuốc.
Xây dựng Chiến lược phát triển ngành dược đến năm 2020.
- Nâng cao năng lực sản xuất của các doanh nghiệp dược và trang thiết bị y
tế trong nước, bảo đảm chủ động nguồn thuốc, vắc-xin và trang thiết bị y tế.
- Ban hành danh mục thuốc thiết yếu lần thứ VI, danh mục thuốc được
BHYT chi trả. Xây dựng chính sách hỗ trợ giá thuốc thiết yếu cho các vùng khó
khăn, tăng số tên thuốc tại TYT xã. Bảo đảm đủ thuốc thiết yếu tại các cơ sở y tế ở
vùng xa xôi, hải đảo, miền núi.
- Có phương án bảo đảm thuốc cho các bệnh nhân AIDS, các bệnh nhân ung
thư, lao, viêm gan B, C…
b. Sử dụng thuốc an toàn hợp lý
- Tăng cường vai trò của Hội đồng Thuốc và điều trị ở các bệnh viện. Thực
hiện nghiêm chỉnh quy chế mua và bán thuốc theo đơn.
- Tăng cường kiểm soát sử dụng thuốc an toàn hợp lý tại các cơ sở y tế và tại
cộng đồng. Xây dựng chỉ số đánh giá sử dụng thuốc an toàn hợp lý. Xây dựng hệ
thống giám sát kháng sinh toàn quốc.
- Kiểm soát chặt chẽ việc quảng cáo thuốc. Tiến hành truyền thông, giáo dục
về sử dụng thuốc hợp lý. - Tăng cường cơ sở vật chất, nhân lực cho các labo vi sinh
của các bệnh viện bảo đảm việc thử kháng sinh đồ trước khi dùng kháng sinh. Tăng
cường quản lý nguồn gốc và chất lượng thuốc đông y và thuốc từ dược liệu.
c. Kiểm soát giá thuốc, giảm dần tỷ trọng chi phí cho thuốc trong chi tiêu y
tế
- Chỉnh sửa các bất cập trong các quy định hiện hành về đấu thầu thuốc.
Tăng cường thanh tra, kiểm tra theo Nghị định số 93/2011/NĐ-CP ngày
18/10/2011.
- Tăng tỷ lệ tiền vốn dành cho thuốc thiết yếu; tăng vốn dành cho thuốc của
TYT xã.
- Nghiên cứu kiến nghị sửa đổi, bổ sung Luật Dược năm 2005 theo hướng
quy định cụ thể chức năng nhiệm vụ của các bộ, ngành trong phối hợp quản lý giá
thuốc.
- Thực hiện chủ trương “Tăng cường khả năng sản xuất thuốc generic trong
nước với quy cách đóng gói lớn, cung ứng thẳng từ nhà sản xuất tới cơ sở khám
chữa bệnh.”
c. Lĩnh vực trang thiết bị và công trình y tế
- Đánh giá nhu cầu và cập nhật danh mục trang thiết bị y tế thiết yếu cho các
cơ sở y tế. Xây dựng cơ sở dữ liệu về trang thiết bị y tế; hình thành đơn vị “Đánh
giá công nghệ y tế”. Có chính sách ưu tiên mua sắm, sử dụng trang thiết bị y tế sản
xuất trong nước
Đẩy nhanh tiến độ giải ngân nguồn ngân sách của các đề án hỗ trợ phát triển
cơ sở hạ tầng các bệnh viện tuyến tỉnh, huyện.
3.5. Bao phủ dịch vụ YTDP, DS-KHHGĐ và CSSKSS
a. Tăng cường đầu tư cải thiện và nâng cao năng lực cho các đơn vị YTDP
và y tế cơ sở
- Đánh giá năng lực và hiệu quả quản lý cung ứng dịch vụ phòng bệnh và
CSSKBĐ của các đơn vị YTDP tuyến tỉnh, huyện và TYT xã, của các chương trình
mục tiêu y tế quốc gia. Đổi mới tổ chức YTDP theo hướng tập trung, thu gọn đầu
mối, tăng cường chất lượng và hiệu quả hoạt động phòng bệnh.
- Đánh giá hiệu quả của các chính sách đầu tư cho YTDP và y tế tuyến
huyện, xã, bao gồm chính sách đào tạo, sử dụng, thu hút và duy trì nguồn nhân lực
y tế; chính sách tài chính, hệ thống thông tin, danh mục thuốc và TTB; cơ sở vật
chất. Đẩy nhanh tiến độ đầu tư nâng cấp Trung tâm YTDP tuyến tỉnh, Trung tâm y
tế huyện, duy trì và phát triển các trung tâm YTDP tỉnh đạt chuẩn quốc gia và thực
hiện các tiêu chí quốc gia về y tế xã.
- Đổi mới phương thức dự trù và phân bổ NSNN cho TYT xã. Phân tích và
đề xuất hình thức ký kết hợp đồng phù hợp hơn trong KCB BHYT tại TYT xã. Bảo
đảm đủ nguồn ngân sách nhà nước để chi trả cho các dịch vụ YTCC.
- Ưu tiên đầu tư cao độ để tạo bước bứt phá, đổi mới toàn diện mạng lưới y
tế cơ sở (về nhà trạm, trang thiết bị y tế, đội ngũ cán bộ và các cơ chế, chính sách
hoạt động kèm theo), đặc biệt là đối với các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa,
vùng khó khăn, xa bệnh viện tuyến trên.
- Tăng cường dịch vụ ở tuyến xã để thực hiện có hiệu quả hơn vai trò là
tuyến cung cấp dịch vụ đầu tiên cho tất cả các nhóm khách hàng tập trung vào tiếp
cận CSSK toàn dân.
b. Tổ chức tốt hoạt động kiểm soát bệnh, dịch, tiến tới quản lý thống nhất
các nguy cơ bệnh tật
- Nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cấp chính quyền, các bộ, ngành, cơ
quan đoàn thể; Xây dựng cơ chế phối hợp và chỉ đạo thống nhất giữa các chương
trình phòng chống bệnh dịch, các chương trình y tế, cơ chế phối hợp giữa các đơn
vị YTDP các tuyến, với các đơn vị KCB. Thực hiện các quy định về trách nhiệm
của ngành giáo dục trong bảo đảm dinh dưỡng và nâng cao sức khỏe cho học sinh
các trường học.
- Ưu tiên đầu tư cho chương trình phòng chống các bệnh không lây nhiễm,
quản lý giám sát kiểm soát bệnh và các yếu tố nguy cơ; lồng ghép và phối hợp trong
hoạt động và cung ứng dịch vụ của các đơn vị thuộc hệ YTDP và KCB, giữa các
tuyến.
- Tiến hành nghiên cứu xác định các dịch vụ CSSK cơ bản dựa trên phân tích
đánh giá nhu cầu CSSK, tính hiệu quả chi phí và các điều kiện bảo đảm để thực
hiện.
- Với khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, cần xây dựng chính sách đào tạo
và sử dụng có hiệu quả các nhân viên y tế đã được đào tạo, bao gồm hộ sinh, nhân
viên y tế thôn bản, cô đỡ thôn bản. Với các thôn bản xa xôi hẻo lánh, cần bảo đảm
triển khai hợp lý mô hình y tá và cô đỡ thôn, bản.
- Hoàn thiện hệ thống thông tin kiểm soát bệnh dịch. Xây dựng các chỉ số,
biểu mẫu và cơ chế thu thập và xử lý thông tin trong kiểm soát bệnh dịch một các
thống nhất.
c. Củng cố công tác DS-KHHGĐ và CSSKSS
- Mở rộng để bảo đảm tiếp cận phổ cập với các dịch vụ sức khỏe sinh sản và
tình dục để giảm nhu cầu chưa được đáp ứng về các dịch vụ này, thông qua việc
tăng cường sáu cấu phần tổng thể của hệ thống y tế.
- Đánh giá lại việc tổ chức cung ứng dịch vụ DS-KHHGĐ và CSSKSS, phân
công hợp lý nhiệm vụ của các cơ quan dân số và các cơ sở y tế trong hoạt động
chuyên môn lâm sàng và phi lâm sàng.
- Vận động sự cam kết, tham gia tích cực của các cấp chính quyền, ban
ngành trong công tác kiểm soát dân số và nâng cao chất lượng dân số, kiểm chế sự
gia tăng tỷ số giới tính khi sinh.
3.6. Bao phủ dịch vụ khám, chữa bệnh, phục hồi chức năng
a. Tăng cường khả năng cung ứng dịch vụ KCB của tuyến y tế cơ sở
- Nghiên cứu thí điểm và đánh giá mô hình gắn kết TYT xã với trung tâm y
tế huyện.
- Nâng cao năng lực cho y tế xã, đặc biệt là năng lực quản lý bệnh không lây
nhiễm và thực hiện một số chương trình mục tiêu y tế quốc gia.
- Xây dựng cơ chế đãi ngộ phù hợp cho nhân viên y tế xã và cơ chế thu hút
thầy thuốc tư nhân, lương y tham gia cung ứng dịch vụ KCB ở tuyến y tế cơ sở.
Giảm quá tải bệnh viện
- Ban hành hướng dẫn phân tuyến kỹ thuật và Thông tư hướng dẫn chuyển
tuyến phù hợp. Tăng cường chuyển tuyến có phản hồi hiệu quả từ tuyến trên về
tuyến dưới.
- Triển khai các đề án giảm quá tải bệnh viện, nâng cao năng lực cho tuyến
dưới. Tăng cường điều trị ngoại trú, kiểm soát nhập viện điều trị nội trú, mở rộng
các loại hình điều trị ban ngày. Chú trọng quản lý các bệnh mạn tính, bệnh không
lây nhiễm.
b. Nâng cao chất lượng dịch vụ KCB
- Xây dựng tiêu chí, tiêu chuẩn, công cụ và cơ chế đánh giá chất lượng bệnh
viện, TYT xã, các cơ sở KCB. Hoàn thiện bộ “Tiêu chí chất lượng bệnh viện”.
Thành lập tổ chức chứng nhận chất lượng độc lập đối với các cơ sở khám, chữa
bệnh. Xây dựng Đề án Kiểm định chất lượng và Đề án Đánh giá công nhận chất
lượng bệnh viện.
- Bổ sung các quy định và hướng dẫn nâng cao chất lượng dịch vụ KCB. Đào
tạo và hướng dẫn triển khai áp dụng các phương pháp chất lượng tại các cơ sở
KCB. Chuẩn hóa kỹ thuật và tăng cường chuyển giao kỹ thuật cho tuyến dưới.
Tăng cường thanh tra, kiểm tra việc tuân thủ các quy định pháp luật về KCB tại các
cơ sở y tế.
- Xây dựng hướng dẫn về KCB theo yêu cầu, hạn chế mặt trái trong liên doanh,
liên kết giữa bệnh viện công lập và tư nhân. Nghiên cứu các hình thức phối hợp công
tư phù hợp trong lĩnh vực KCB. Tăng cường thanh tra, kiểm tra hoạt động y tế tư
nhân.
- Xây dựng và ban hành quy định về xét nghiệm thường quy đối với người
bệnh nội trú, ngoại trú, khám bệnh.
- Xây dựng Đề án phương pháp đánh giá sự hài lòng của người bệnh.
c. Chăm sóc liên tục và chuyển tuyến
- Mở rộng phạm vi quản lý bệnh mạn tính không lây nhiễm tại tuyến tỉnh,
huyện, xã với trọng tâm là quản lý tại cộng đồng. Triển khai thực hiện Thông tư số
01/2013/TTBYT về quản lý chất lượng xét nghiệm.
- Hoàn thiện và ban hành thông tư hướng dẫn thực hiện hệ thống chuyển
tuyến với mục tiêu người bệnh được tiếp cận nhanh chóng với cơ sở KCB, giảm
thủ tục phiền hà liên quan đến chuyển tuyến.
- Hoàn thiện và ban hành hướng dẫn phân tuyến kỹ thuật. Theo dõi, đánh giá
và điều chỉnh thực hiện hệ thống chuyển tuyến.
d. Hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện Luật Khám
bệnh, chữa bệnh
- Kiến nghị điều chỉnh Luật Khám bệnh, chữa bệnh: cấp chứng chỉ cho người
hành nghề có sát hạch tay nghề, cấp chứng chỉ có thời hạn và gắn với đào tạo liên
tục.
- Rà soát, lựa chọn ưu tiên và tiến hành biên soạn và ban hành hướng dẫn
chuyên môn, trước mắt đối với các bệnh phổ biến, thông thường.
- Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, nâng cao năng lực quản lý hệ
thống KCB, giảm thủ tục, phiền hà cho người bệnh. Tích cực triển khai các dự án
Bệnh án điện tử và quản lý hệ thống khám chữa bệnh, tư vấn y tế, KCB từ xa nhằm
nâng cao chất lượng và tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động KCB.
3.7. Tài chính y tế
Giảm thiểu tỷ trọng chi phí từ tiền túi của hộ gia đình cho y tế
Để đạt được bao phủ y tế toàn dân Việt Nam cần thực hiện các biện pháp
đồng bộ hơn để giảm tỷ trọng chi phí từ tiền túi của hộ gia đình xuống 30–40%
tổng chi cho y tế theo khuyến cáo của WHO.
- Kế hoạch dài hạn là phát triển hệ thống tài chính y tế dựa vào sự kết hợp
giữa nguồn ngân sách từ thuế và BHYT; mở rộng diện bao phủ của BHYT cho
khoảng 90% người dân.
- Về ngắn và trung hạn, giảm thiểu chi phí từ tiền túi của hộ gia đình có liên
quan đến việc thực hiện các chính sách mở rộng diện bao phủ BHYT; đổi mới và
áp dụng rộng rãi các phương thức chi trả tiến bộ; thực hiện tốt Quyết định số
14/2012/QĐ-TTg ngày 01/03/2012 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định
số 139/2002/QĐTTg ngày 15/10/2002 của Thủ tướng Chính phủ về khám, chữa
bệnh cho người nghèo.
- Tiến hành nghiên cứu chuyên sâu về chi phí từ tiền túi của hộ gia đình để
tìm ra xu hướng và nguyên nhân của vấn đề.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 46-NQ/TW ngày 23/2/2005 về công tác bảo vệ,
chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới, 2005: Hà Nội. Tài
liệu tham khảo 199
2. Bộ Y tế, Kế hoạch bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn
2011–2015, 2010: Hà Nội.
3. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 538/QĐ-TTg, ngày 29/3/2013, của Thủ
tướng Chính phủ “Phê duyệt Đề án thực hiện lộ trình tiến tới bảo hiểm y tế toàn
dân giai đoạn 2012 - 2015 và 2020”, 2013, Văn phòng Chính phủ: Hà Nội.
Chuyên đề 7
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG Y TẾ
17
https://dtbd.moha.gov.vn/uploads/resources/admin/chuyenvien/ChuyenDe11.pdf
Hai trường hợp trên cho thấy các y, bác sĩ và ngừơi bệnh đều đã lựa chọn
cách ứng xử phù hợp và điều đó mang lại hiệu quả cho hoạt động khám, chữa bệnh.
Văn hóa giao tiếp, ứng xử là những hành vi ứng xử được con người lựa chọn
khi giao tiếp với nhau, sao cho vừa đạt được mục đích giao tiếp ở một mức độ nhất
định, vừa mang lại sự hài lòng cho các bên, phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện cụ
thể.
Ví dụ: Khi giao tiếp, nếu các bên đều có cách ứng xử phù hợp như hai tình
huống trên, thì các y, bác sĩ và người bệnh đều là những người có văn hóa và văn
hóa cao, vì họ không chỉ lựa chọn cách đối xử phù hợp trong môi trường y tế mà
còn mang lại sự hài lòng của cả hai bên.
Trong trường hợp khác, nếu bác sĩ tỏ ra lạnh lùng, quát tháo người bệnh (ở
trường hợp 1); hoặc người bệnh không cố gắng, không biết bày tỏ sự cảm ơn (trường
hợp 2) thì có thể việc khám, chữa bệnh vẫn diễn ra, nhưng cả hai bên đều không vui
vẻ. Nếu nhiều ứng xử như thế sẽ dẫn đến không khí trong các bệnh viện trở nên căng
thẳng, lạnh lùng. Đó là nguyên nhân dẫn đến sự bực tức và những xung đột giữa hai
bên.
- Kỹ năng giao tiếp, ứng xử
Theo Từ điển Tiếng Việt “Kỹ năng là khả năng vận dụng những kiến thức
thu được trong một lĩnh vực nào đó vào thực tế”. Kỹ năng giao tiếp là quá trình sử
dụng các phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ để định hướng, điều chỉnh và điều
khiển quá trình giao tiếp đạt tới mục đích nhất định.
Kỹ năng của con người thường được đánh giá qua các thao tác, các hoạt
động cụ thể và hiệu quả thực tiễn. Nhưng để có kỹ năng tốt, con người cần có hiểu
biết đúng về những gì mình đang làm, đang thực hiện.
Một người có thể bắt chước người khác nhiều thao tác và làm nhiều lần rồi
trở nên thành thục, hoặc thành thói quen. Kỹ năng như vậy được đánh giá là đã có,
nhưng thụ động, chưa đầy đủ. Những kỹ năng này chỉ phù hợp trong một số lĩnh
vực kỹ thuật có thao tác đơn giản.
Người có kỹ năng tốt là người có khả năng làm đúng và chính xác các yêu
cầu về nghiệp vụ, nhưng đồng thời hiểu được vì sao lại cần làm như vậy. Chỉ khi
họ thao tác thành thạo với tất cả tâm huyết và sự chủ động của mình, khi đó mới
được coi là kỹ năng tốt. Điều này đặc biệt quan trọng đối với kỹ năng giao tiếp, vì
kỹ năng này không chỉ là những thao tác đơn thuần với máy móc mà là sự thể hiện
hành vi đối với con người.
Ví dụ: Nếu các cơ sở y tế bắt buộc các y, bác sĩ phải chào hỏi người bệnh khi
họ đến, cảm ơn khi họ về…và cử một bộ phận đi kiểm tra, nếu thấy ai không thực
hiện sẽ xử phạt. Vì vậy, lâu dần các y, bác sĩ có thể thực hiện được việc chào hỏi,
cảm ơn, nhưng nét mặt họ không cho thấy điều ấy được nói lên từ trái tim, từ suy
nghĩ thật. Người bệnh luôn cảm nhận được điều này.
Vì vậy, để có kỹ năng giao tiếp tốt, đội ngũ cán bộ y tế cần phải được hướng
dẫn thực hiện cách thức đối xử với lãnh đạo, đồng nghiệp và người bệnh, đồng thời
cần có sự giải thích, phân tích để mọi người đều hiểu rõ vì sao cần làm như vậy và
thực hiện bằng sự tự giác của bản thân.
1.2. Vai trò của kỹ năng giao tiếp, ứng xử
a. Đối với cơ quan, tổ chức
Giao tiếp là hoạt động diễn ra hàng ngày, hàng giờ trong cuộc sống và trong
cơ quan, công sở. Do vậy, kỹ năng giao tiếp tốt hay chưa tốt, phù hợp hay chưa phù
hợp, đều có tác động tích cực hoặc tiêu cực đến hiệu quả hoạt động của các cơ
quan, tổ chức và mỗi cá nhân.
Nếu mỗi thành viên có kỹ năng giao tiếp, ứng xử tốt sẽ góp phần tạo nên sự
thống nhất, cố kết tập thể, tạo nên sức mạnh nội lực để hoàn thành các mục tiêu, kế
hoạch đặt ra; Tạo ấn tượng tốt với khách, khẳng định thương hiệu và uy tín trong
xã hội.
Ngược lại, nếu kỹ năng giao tiếp của một số hoặc nhiều thành viên không
phù hợp sẽ đưa đến những tác động tiêu cực như: mất đoàn kết, các thành viên
không gắn bó và hết lòng vì tập thể, hiệu quả hoạt động của toàn cơ quan bị giảm
sút…
b. Đối với từng cán bộ, công chức, viên chức
Nếu có kỹ năng giao tiếp, ứng xử tốt, mỗi thành viên trong tập thể sẽ thấy sự
tự tin, luôn tìm thấy niềm vui trong công việc; luôn tích cực, hăng hái, sáng tạo. Kỹ
năng giao tiếp tốt cũng góp phần giúp mỗi người thêm yêu nghề, có trách nhiệm
với nghề để đóng góp nhiều cho cơ quan, tổ chức. Ngược lại, người có kỹ năng
giao tiếp tốt thường có tâm lý thiếu tự tin, luôn mặc cảm, chán nản, bực tức hoặc
luôn bất mãn, bất hợp tác, làm giảm hiệu quả trong công việc và gây cản trở cho
công việc chung.
c. Đối với bệnh nhân/khách hàng
Kỹ năng giao tiếp, ứng xử tốt của mỗi thành viên sẽ góp phần tạo cảm tình,
ấn tượng tốt, tạo sự tin tưởng đối với cơ quan; đồng thời, góp phần tạo dựng và duy
trì sự hợp tác lâu dài, bền vững, hiệu quả. Ngược lại, nếu kỹ năng giao tiếp, ứng xử
không phù hợp của một số thành viên sẽ làm mất cảm tình, gây cho khách sự bực
bội, bất hợp tác; gây ấn tượng không tốt, làm mất uy tín và thương hiệu của cơ
quan, tổ chức. Và chính họ, khi không có ấn tượng tốt sẽ tiếp tục tuyên truyền và
gây ảnh hưởng xấu đến uy tín và thương hiệu của cơ quan.
Liên hệ vấn đề này đến các cơ sở y tế, có thể thấy rõ vai trò của kỹ năng giao
tiếp, ứng xử. Các cán bộ y tế, dù làm ở văn phòng hay trực tiếp khám bệnh, điều trị,
nếu họ có kỹ năng giao tiếp, ứng xử tốt sẽ tạo thiện cảm đối với những người đến
giao dịch, bệnh nhân và người nhà bệnh nhân. Nếu kết hợp với trình độ chuyên
môn cao, người bệnh sẽ không chỉ dành thiện cảm mà còn dành cho cơ sở y tế sự
tin cậy. Hiện nay, người bệnh có quyền chọn bệnh viện, chọn dịch vụ để chữa
bệnh. Giá dịch vụ của các bệnh viện cơ bản là thống nhất. Vậy người bệnh sẽ chọn
nơi nào có đội ngũ y, bác sĩ giỏi và ân cần, tôn trọng, chia sẻ với bệnh nhân.
1.3. Các yếu tố tác động đến kỹ năng giao tiếp, ứng xử
a. Các yếu tố bên trong tổ chức
Nói một cách khái quát, văn hóa hay lối sống - của tổ chức ảnh hưởng mang
tính quyết định đến hiệu quả giao tiếp công vụ. Cụ thể hơn, các yếu tố của văn hóa
trong công sở là:
- Mục tiêu của tổ chức: Mục tiêu chung của tổ chức có thể được cụ thể hơn
thành các khẩu hiệu, phương châm hành động thành văn hoặc bất thành văn đang
được duy trì trong tổ chức.
- Lịch sử của tổ chức.
- Cơ cấu tổ chức: Cách thức phân công, phối hợp chức năng, nhiệm vụ; số
lượng nhân viên và năng lực của họ so với chức trách mà họ gánh vác.
- Hệ thống các quy trình, thủ tục làm việc.
- Các chuẩn mực xử sự, các nghi thức, nghi lễ.
- Nhà quản lý cấp cao nhất và nhà quản lý các cấp khác: Năng lực (về tầm
nhìn, hiểu biết, kĩ năng và mức độ thành thụ về chuyên môn, về giao tiếp), và tâm
huyết.
- Bản thân các bên tham gia giao tiếp.
- Hoàn cảnh hiện thời của tổ chức: Tổ chức đang rất thành công? Đang gặp
nhiều trở ngại? Đang trong cơn khủng hoảng? Hay đang trong giai đoạn trì trệ?...
- Điều kiện vật chất cho thực thi.
b. Các yếu tố bên ngoài tổ chức
- Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của quốc gia, địa phương, ngành, cơ
quan, đơn vị…
- Tình hình địa lý, tự nhiên, và thời tiết.
- Hệ thống các chính sách, thủ tục của ngành, của cả hệ thống trong đó tổ
chức và cá nhân là một thành viên hoặc chịu trách nhiệm phục tùng.
- Xu hướng, cách thức giao tiếp của dân tộc, của cộng đồng dân cư nơi công
sở đóng trụ sở, tiếp xúc với và trực tiếp phục vụ.
- Mức độ phát triển khoa học công nghệ, nhất là công nghệ thông tin và
truyền thông; và tính phổ biến trong ứng dụng các tiến bộ đó trong ngành, trong
cộng đồng.
c. Các yếu tố liên quan đến các bên tham gia giao tiếp
- Mức độ thành thục trong thực thi công vụ.
- Sự hiểu biết về nhiệm vụ của cá nhân, cách tổ chức trông đợi ở họ, nhiệm
vụ và năng lực của các bên liên quan, phạm vi tự quyết, giới hạn phối hợp…
- Khả năng làm việc nhóm
- Khả năng chấp nhận người khác trong đời sống làm việc.
- Một số kỹ năng giao tiếp bề mặt như nói trước đám đông và thuyết trình,
nghe, đọc cho người khác, soạn thảo văn bản, đưa ra các phản hồi phê phán với
người khác...
- Tính cách cá nhân, kiểu người trong giao tiếp.
2. Một số nguyên tắc về giao tiếp, ứng xử tại nơi làm việc.
2.1. Tôn trọng lẫn nhau và hài hòa lợi ích
2.1.1. Tôn trọng lẫn nhau
Thể hiện thái độ tôn trọng đối với các bên cùng tham gia giao tiếp là nguyên
tắc hàng đầu trong sinh tồn trong cộng đồng nói chung. Nó thỏa mãn các nhu cầu
liên quan đến nhân quyền, khẳng định nhân thân, đề cao lòng tự trọng và khẳng
định phẩm chất của chính bên thể hiện thái độ đó.
Có rất nhiều cách thể hiện thái độ tôn trọng đối với các bên cùng giao tiếp
trong quá trình thực thi công vụ cho dù đó là cuộc gặp gỡ với đối tác,với công dân
và doanh nghiệp hay với đồng nghiệp, thái độ tôn trọng đều cần được thể hiện.
Nói một cách chung nhất, thái độ tôn trọng kèm theo các yêu cầu cụ thể khác
nhau về cách diễn đạt về phẩm chất này đối với các đối tượng khác nhau bởi vì bản
chất của tôn trọng là sự thừa nhận hay ghi nhận sự tồn tại của bên kia như là chính
họ chứ không phải là họ theo kiểu mình hoặc mình mong muốn. Do vậy, với người
cao tuổi hơn và trọng trách hơn, tôn trọng cần được thể hiện như là sự kính trọng.
Đối với người ngang bằng mình dùng thuật ngữ tôn trọng là đủ và đúng. Với người
trẻ hơn, nhỏ bé hơn, tôn trọng cần được diễn tả theo cách yêu thương.
Sự có mặt đúng như lời hứa, ngôn ngữ giao tiếp đề cao nhân thân của bên kia
(ví dụ: gọi tên, gọi đầy đủ tên và chức vị, đánh giá vấn đề thay vì quy chụp về con
người,…), điệu bộ cử chỉ phù hợp (trang phục, dáng điệu khi đi đứng, ngồi, điệu bộ
tay, chân, mắt, ..) đều là những cách để thể hiện sự tôn trọng đối với người khác,
đồng thời, thể hiện sự tự trọng của chính mình.
2.1.2. Cộng tác - hài hoà lợi ích
Thái độ cộng tác từ phía đôi bên dựa trên nguyên lý thắng - thắng (winwin)
trong giao tiếp. Để có được kết quả đó, các bên cần có nỗ lực đạt đến sự hài hòa lợi
ích của mỗi bên. Chính vì vậy, giao tiếp liên cá nhân bao gồm một kỹ năng ngầm
định là kỹ năng thương thuyết, thỏa thuận.
Trong thời đại hiện nay, khi mà giao tiếp công vụ diễn ra trong một bối cảnh
mở hơn do tác động của công nghệ thông tin và sự phát triển về dân trí, giao tiếp
công vụ còn phải hướng tới sự hài hòa lợi ích của ba bên để đảm bảo phát triển lâu
dài. Đó là thỏa mãn lợi ích của cán bộ, công chức - công dân, doanh nghiệp - và
cộng đồng nói chung. Nói cách khác, hài hòa lợi ích sẽ không chỉ đạt được tại chỗ
giữa các bên trực tiếp tham gia đối thoại, mà còn là các vấn đề lâu dài hơn, trong
mối liên quan với các nhóm khác trong xã hội.
2.2. Lựa chọn giải pháp tối ưu trong giao tiếp
2.2.1. Phù hợp hoàn cảnh
Đây là nguyên tắc phản ảnh trực tiếp nhất bản chất “ứng xử”- khía cạnh
mang tính tình huống của giao tiếp. Theo đó, “ứng” với hoàn cảnh này thì các bên
tham gia giao tiếp cần “xử” trí hay “xử” lý theo cách đó.
Ngôn ngữ, điệu bộ cử chỉ, thời điểm bắt đầu và kết thúc,… đều cần phù hợp
với bối cảnh trong đó hoạt động giao tiếp diễn ra. Các hành vi giao tiếp với công
dân trong buổi tiếp dân không thể được thực hiện tương tự cách ứng xử với giao
tiếp với đồng nghiệp, lại càng không thể giống cách giao tiếp với các đối tác.
Sự cứng nhắc trong ứng xử sẽ đe dọa hiệu quả giao tiếp. Tuy nhiên, sự linh
hoạt cho muôn vàn bối cảnh khác nhau cũng chỉ đạt được hiệu quả khi hệ các giá
trị chung về giao tiếp đã được hình thành và được nhìn nhận một cách thống nhất.
2.2.2. Tôn trọng quy luật tâm, sinh lý
Có một số vấn đề về tâm lý mà các bên tham gia giao tiếp dễ mắc phải như
tâm lý chủ quan, độc quyền, gây khó dễ từ phía cán bộ, công chức và tâm lý e ngại,
lo sợ bị gây khó khăn, tặc lưỡi cho xong, mình biết việc của mình thôi,… từ phía
công dân hoặc doanh nghiệp. Thay đổi được tâm lý này đòi hỏi sự chuyển biến sâu
sắc và thực chất trong nhận thức về vai trò của Chính phủ trong đời sống xã hội, và
kèm theo đó là các chính sách, kĩ thuật cụ thể để đảm bảo sự chuyển biến.
Các hoạt động giao tiếp diễn ra trong một khoảng thời gian dài nhất định
cũng cần tính đến các phản ứng, nhu cầu nhất định về thể chất theo quy luật chung
của cơ thể. Chính vì vậy, giải lao giữa giờ, thay đổi hoạt động,… là các biện pháp
quan trọng cho phép và hỗ trợ quá trình trao đổi thông tin được diễn ra một cách
hiệu quả.
2.2.3. Thẩm mỹ hành vi
Nguyên tắc này đòi hỏi các hành vi giao tiếp sẽ không chỉ cần dừng ở đúng
mà còn phải đẹp. Lấy ví dụ, chỉ tay vào một ai đó để giới thiệu làm quen thì nên
dùng cả bàn tay chụm, hơi chúc xuống, hướng về phía người được kể đến chứ
không dùng đồ vật hay một ngón tay chỏ chỉ thẳng vào mặt họ. Một ví dụ khác là
không nên ngang nhiên ngoáy mũi, gãi lưng hay rung đùi trước mặt người khác...
Để đảm bảo giao tiếp đúng và đẹp, sự hiểu biết về giao tiếp trong bối cảnh đa
văn hóa là hết sức quan trọng. Bên cạnh đó, việc rèn luyện để các hành vi đẹp trở
thành thói quen cũng không kém phần quan trọng.
2.3. Tôn trọng sự bình đẳng và các quy luật khách quan.
2.3.1. Bình đẳng
Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Chính vì vậy, trong thực thi
công vụ, đòi hỏi thông tin hay được giải quyết công việc thuộc phạm vi thẩm
quyền, trách nhiệm của cơ quan hay cá nhân cán bộ công chức là quyền hợp pháp
của công dân. Đó là quyền được biết và được nghe. Cán bộ, công chức, tương tự,
cũng có quyền yêu cầu công dân trình bày rõ ràng, cụ thể nhu cầu, vụ việc có liên
quan, để trên cơ sở đó có cách thức đáp ứng phù hợp.
Nói một cách dễ hiểu hơn, quyền được nói, được nghe, được ‘thể hiện mình
và biết người’ ở cả hai phía công dân - công chức là bình đẳng và cần được đảm
bảo một cách phù hợp.
Trong nội bộ cơ quan cũng vậy, việc các nhà quản lý khăng khăng đòi nhân
viên cung cấp trông tin, trình bày vấn đề trong khi bản thân mình lại tìm cách che
giấu, bưng bít thông tin là một hình thức vi phạm nguyên tắc bình đẳng. Nó có thể
dẫn đến sự nghi kị, bất tín và xung đột trong nội bộ.
2.3.2. Công khai
Giao tiếp công vụ cần được diễn ra một cách công khai, ở những nơi công
cộng và liên quan đến công khai hóa thông tin về hoạt động quản lý, điều hành và
thực thi.
Vi phạm nguyên tắc này sẽ vừa là biểu hiện, vừa là nguồn gốc của sự lạm
quyền từ phía cán bộ, công chức hoặc lạm dụng tình thế để làm mất uy tín của cán
bộ, công chức, làm xấu đi hình ảnh của chính quyền trong mắt công chúng.
2.3.3. Tin cậy
Làm cho bên kia tin cậy mình và tìm kiếm các dấu hiệu để có cơ sở tin cậy ở
họ là một nỗ lực cần thiết cho phép quá trình giao tiếp diễn ra một cách có nền
tảng, có hiệu quả lâu dài.
Dân gian có câu “Quen sợ dạ, lạ sợ y”. Khi giao tiếp với người lạ, cách thức
cán bộ, công chức hay bên kia trang phục, đi đứng, nói năng lúc mới gặp mặt đóng
một vai trò quan trọng đối với việc định hình ý niệm ban đầu về người cùng giao
tiếp. Tuy nhiên, những cảm nhận ban đầu ấy cũng cần được kiểm chứng và chỉ
được kiểm chứng một cách chính xác khi các bên tham gia giao tiếp có các kỹ năng
nhất định về thử thách lòng người.
Cán bộ, công chức có thể tại nên sự tin cậy ở công dân khi tiếp xúc, giải
quyết công việc thông qua việc đúng hẹn; chuẩn bị thông tin, văn bản, hồ sơ liên
quan một cách đầy đủ, khoa học; viện dẫn các văn bản hoặc chứng cứ chính thức
khi giải thích, thuyết phục; ngôn từ chính thức, đi thẳng vào vấn đề chứ không
quanh co, ề à; nhìn thẳng vào mặt người cùng giao tiếp…
3. Một số nguyên tắc về giao tiếp ứng xử của cán bộ y tế
3.1. Với người bệnh và người nhà bệnh nhân18
Mỗi một nhân viên y tế, từ Bảo vệ cho tới Giám đốc bệnh viện cần phải học
về kỹ năng giao tiếp trong y khoa từ việc chào hỏi thế nào, thái độ, ánh mắt, cường
độ giọng nói ra sao,… để tạo sự thiện cảm với NB và thân nhân của NB; bệnh viện
cần tuyên truyền, giáo dục nhân viên của mình về những hình ảnh nào là văn minh,
lịch sự, hình ảnh nào không đẹp khi giao tiếp...
a. Giao tiếp không lời
Những giao tiếp không lời bao gồm: Tác phong, thái độ, cử chỉ, nụ cười, ánh
mắt, điệu bộ, nét mặt … cần thể hiện một sự quan tâm nhiệt tình đối với NB. Tất cả
sẽ khiến NB cảm thấy họ được chào đón, an tâm hơn và để lại trong lòng NB một
cảm giác ấm áp.
Các kỹ năng giao tiếp không lời cần phải được sử dụng thường xuyên và kết
hợp linh hoạt với giao tiếp có lời để tăng hiệu quả tối đa cho quá trình giao tiếp.
- Môi trường giao tiếp
+ Địa điểm: thường là nơi làm việc của CBYT (phòng bác sĩ, phòng khám
hoặc phòng bệnh, thủ thuật...)
+ Phòng giao tiếp phải được trang bị đầy đủ về chuyên môn: bàn làm việc
của CBYT, giường NB, ghế ngồi, xe dụng cụ, tủ thuốc, bồn rửa tay,…
+ Đèn sáng, cửa đóng kín
18
Bộ Y tế, Hướng dẫn thực hiện giao tiếp, ứng xử của can bộ y tế,
https://www.slideshare.net/VoHa1/ti-liu-v-giao-tip-ng-x-ginh-cho-cbyt-ca-byt
+ Phòng cần được cách âm để tránh tiếng ồn.
- Hình thức, tác phong
+ Nghiêm túc nhưng dễ gần, mặc đồng phục sạch đẹp đúng quy định, không
nhàu nát và đeo biển tên đầy đủ.
+ Trang phục phù hợp với chức danh theo quy định, phải được là phẳng.
+ Móng tay cắt ngắn, tóc gọn gàng, không nhuộm tóc với những màu rực rỡ.
+ Không trang điểm quá đậm khi tiếp xúc vói NB;
+ Không mang đồ trang sức quá lòe loẹt, phô trương.
- Thái độ giao tiếp,cử chỉ, động tác
Khi tiếp đón NB thái độ phải lịch sự, nhanh nhẹn, nhẹ nhàng, hòa nhã biểu
hiện sự quan tâm, yêu thương, cảm thông, chia sẻ;
CBYT cần quan sát NB một cách kín đáo và lịch sự để tìm hiểu và phát hiện
mọi biểu hiện không lời và biểu hiện phản ứng của NB. Cần phải tập trung quan sát
để phát hiện ra những điểm không phù hợp giữa ngôn ngữ không lời và có lời.
Sẵn sàng giúp đỡ NB: Luôn nhớ tới thông điệp: “Hãy để tôi giúp bạn một
tay”. Dù chỉ là những hành động, cử chỉ giúp đỡ rất nhỏ đối với NB như: dìu NB từ
trên xe xuống hay đơn giản là mở cửa giúp…
Những cử chỉ của CBYT như gật đầu, mỉm cười … sẽ có tác dụng tích cực
tới cuộc giao tiếp, vì nó thể hiện sự hài lòng, khuyến khích người bệnh cung cấp
thông tin.
Tránh những cử chỉ không tôn trọng NB (hất hàm, phẩy tay, động tác thô
bạo, không giơ tay quá đầu, không đập bàn mạnh, không khua tay trước mặt NB,
không chỉ tay vào NB, …)
- Nét mặt
Thân thiện và phù hợp với hoàn cảnh. Nét mặt vui vẻ khi NB được điều trị
và có tiến triển tốt.
Không tỏ ra cáu kỉnh, khó chịu, mệt mỏi hay thờ ơ với NB trong bất kỳ hoàn
cảnh nào. Không nên cười đùa khi NB có diễn biến xấu.
Tránh bộ mặt lạnh lùng như tiền, vô cảm xúc, hay nóng nảy, quát nạt hoạnh
họe, nguyên tắc cứng đờ máy móc.
- Ánh mắt
Ánh mắt nhìn NB phải đàng hoàng, lịch sự, chân thành, chia sẻ. CBYT cần
nhìn thẳng vào mắt NB khi giao tiếp và duy trì giao tiếp bằng ánh mắt trong suốt
cuộc nói chuyện.
Tránh những ánh mắt thiếu sự tôn trọng và chia sẻ, cảm thông với NB (nhìn
trừng trừng, nhìn chằm chằm hoặc trợn mắt …)
- Đi lại
Nhẹ nhàng, nhanh nhẹn nhưng tránh bước chân quá mạnh hoặc gây tiếng
động nhiều.
- Lắng nghe
Lắng nghe tạo cho NB thấy CBYT tôn trọng, đánh giá cao họ và quan tâm
đến họ.
Tránh ngắt lời nói chen ngang khi NB đang nói (hoặc cả khi dừng lại để suy
nghĩ);
Nghe một cách chủ động và tích cực thể hiện bằng các cách thể hiện sự tập
trung, chú ý lắng nghe: Nét mặt vui, gật đầu, trả lời các câu ngắn: vâng, nhất trí …
Nhìn về hướng người nói; không nói chuyện riêng, không làm việc khác khi
đang nghe; Nếu có ghi chép thì chỉ nên ghi chép nhanh, vắn tắt rồi tiếp tục lắng
nghe. Thể hiện sự cảm thông, đồng cảm với vui buồn, khó khăn của NB, cần lắng
nghe không chỉ bằng tai mà còn bằng cả trái tim.
Trong trường hợp người bệnh nói lan man dài dòng quá thì cần để cho NB
nói hết câu rồi khéo léo chuyển cuộc đối thoạisang hướng của CBYT mong muốn.
- Sử dụng từ tượng thanh phù hợp
Có thể kết hợp các từ tượng thanh uhm, ah thể hiện sự đồng ý và chăm chú
lắng nghe.
- Tiếp xúc về mặt thể chất khi thăm khám, chăm sóc
Trước khi thăm khám, cần phải thông báo cho NB biết là CBYT sẽ tiến hành
thăm khám, chăm sóc và đề nghị NB đồng ý(Đối với bệnh nhân nhi hoặc người mất
kiểm soát hành vi, phải có sự đồng ý của người giám hộ hoặc bố mẹ).
Tuyệt đối không được tiếp xúc thể chất với NB khi không được sự đồng ý
của NB(trừ trường hợp cấp cứu, hoặc người bệnh bắt buộc phải điều trị).
Cần thể hiện sự tôn trọng NB và tôn trọng ý kiến của NB trong giao tiếp và
thăm khám.
- Khoảng cách giữa CBYT và NB
Cần phải giữ một khoảng cách vừa phải và hợp lý giữa CBYT và NB khi
giao tiếp thông thường. Không thể hiện sự quá thân mật, hay có những cử chỉ
không lịch sự với NB.
Khi ngồi: CBYT (bác sĩ) và NB ngồi đối diện nhau ở hai cạnh bàn làm việc.
CBYT nên ngồi cách NB một khoảng cách xa hơn tầm một cánh tay (khoảng 1m).
Đây là khoảng cách an toàn, đủ để nghe và quan sát được NB, đồng thời có thể
phát hiện và tránh được những phản ứng bất lợi từ NB (nếu có).
Trong trường hợp khó nghe, CBYT có thể ngồi lại gần NB hơn, nhưng cần
chú ý giữ khoảng cách tối thiểu là 0.25m.
Khi thăm khám: CBYT có thể đứng gần NB để thăm khám tốt nhất, nếu cần
ngồi, CBYT nên có một ghế riêng để ngồi cạnh gường bệnh, CBYT không ngồi lên
giường NB, không gác chân lên giường NB, hoặc có những tư thế, cử chỉ không
nghiêm túc, làm xấu đi hình ảnh của người thầy thuốc trong khi thăm khám, chăm
sóc người bệnh.
b. Giao tiếp có lời
- Âm điệu: vừa đủ nghe, giọng nhẹ nhàng lịch sự dễ đi vào lòng người.
- Tốc độ: Nói vừa phải, không quá nhanh, quá chậm hay nói nhát gừng…
- Cách dùng từ
+ Câu nói phải có chủ ngữ, không nói trống không, cộc lốc, không nói bỏ
lửng câu nói…
+ Không dùng từ mơ hồ, chung chung, không rõ ràng: hình như là vậy,
không biết thế nào…
Khi NB cần yêu cầu giúp đỡ, tránh trả lời theo kiểu: “Việc này không có ở
bệnh viện/khoa của chúng tôi”, “Làm sao tôi biết được”. CBYT cần nhã nhặn tìm
hướng giải quyết linh hoạt trong chừng mực có thể, thay vào đó, hãy nói: tôi sẽ trả
lời Bác sau; Tôi cần kiểm tra lại thông tin này trước khi có câu trả lời chính xác cho
bác… Hãy nhớ: “Đừng để NB thất vọng”.
+ Nói đúng chỗ, đúng lúc, dùng từ phổ thông đơn giản, rõ ràng, dễ hiểu,
không nên dùng từ cầu kỳ, hoa mỹ. Tránh dùng từ, thuật ngữ trong chuyên môn.
+ Phải giới thiệu tên, chức danh của bản thân và xưng hô đại từ nhân xưng
với thái độ lịch sự và phù hợp với tuổi, quan hệ xã hội khi tiếp xúc với NB
Đặc biệt: Cố gắng nhớ tên người bệnh, luôn xưng hô với tên riêng của người
bệnh trong lúc giao tiếp, nhất là khi cán bộ y tế nới lời chào hỏi, cảm ơn, tạm biệt
- Thời gian giao tiếp: Chú ý thời gian giao tiếp cho phép để hướng người
bệnh đi vào chủ đề chính, nội dung cần thiết, nhưng tránh cáu gắt.
c. Mối liên hệ giữa giao tiếp không lời và có lời
Trong giao tiếp, đặc biệt là giao tiếp của CBYT với NB và NNNB, giao tiếp
có lời và không lời không thể tách rời nhau. Luôn luôn phải có sự kết hợp hài hòa
giữa giao tiếp có lời và giao tiêp không lời để đạt hiệu quả cao nhất cho quá trình
giao tiếp, góp phần nâng cao chất lượng khám chữa bệnh.
Cần kết hợp giữa giao tiếp có lời và không lời phù hợp. Tránh nói một ý
nhưng ánh mắt, cử chỉ, nét mặt lại thể hiện một ý khác.
Khi nghe, cần kết hợp sử dụng ngôn ngữ không lời và có lời phù hợp. Cần
lắng nghe không chỉ bằng tai mà bằng cả ánh mắt và trái tim.
Sau khi hỏi NB, phải dành thời gian cho NB trả lời. Không hỏi dồn dập
nhiều ý trong một câu hỏi, và không hỏi liên tục nhiều câu một lúc. Kết hợp sử
dụng ngôn ngữ không lời phù hợp để khuyến khích NB tiếp tục cung cấp thông tin,
hoặc dừng mạch nói chuyện của NB lại khi cảm thấy đã đủ lượng thông tin.
Sau khi trả lời các câu hỏi của NB, phải kiểm tra xem NB có hiểu và hài lòng
với câu trả lời của CBYT không ? Kết hợp sử dụng ngôn ngữ không lời phù hợp để
tăng hiệu quả giao tiếp với NB.
Lưu ý: Khi Khám và chăm sóc cho người bệnh, dặc biệt khi người bệnh là
nữ giới, nhất thiết phải thêm sự có mặt của một CBYT khác (điêu dưỡng).
32. Với cộng đồng19
19
Sổ tay hướng dẫn phát triển cộng đồng. (Tài liệu do Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA)
hỗ trợ xuất bản), Hà Nội 3-2016, NXB Thanh niên.
a. Các vào cộng đồng
Việc đầu tiên của bước hội nhập cộng đồng là gặp gỡ cán bộ, lãnh đạo địa
phương, những người có ảnh hưởng đến người dân để thông báo công khai mục
đích, nhiệm vụ công tác của tác viên tại cộng đồng. Thông thường chính quyền địa
phương giới thiệu cho tác viên một số cán bộ trực tiếp cộng tác với tác viên hoặc
đóng vai trò hướng dẫn, giới thiệu tác viên với cộng đồng.
Vào cộng đồng, cách hay nhất để có được mối quan hệ tốt với người dân và
hiểu sâu hơn về cộng đồng là tham dự những sinh hoạt, công việc của cộng đồng
chẳng hạn như đan lưới cá, làm ruộng, chăn nuôi, tham gia đan thêu, làm việc nhà
khi ở trong nhà người dân. Tóm lại có nhiều cách để sống gần gũi với dân và hoà
nhập với lối sống của họ nhưng người tác viên cần luôn giữ phẩm chất, đạo đức của
mình. Điều này có nghĩa là sống chung với họ và chia sẻ những kinh nghiệm sống
như họ, kết quả cần đạt được là tạo mối quan hệ tin cậy, hiểu biết giữa tác viên và
cộng đồng.
Tác viên cần có thời gian thâm nhập cộng đồng. Một vài điểm lưu ý tác viên
trong quá trình hội nhập cộng đồng:
+ Biết cách giới thiệu mình một cách rõ ràng, dễ chấp nhận;
+ Không phô trương hình thức thái quá;
+ Sống gần gũi với người dân;
+ Cần có kiến thức và kỹ năng tổ chức cộng đồng;
+ Có phẩm chất đạo đức;
+ Sử dụng kinh phí một cách hợp lý, đúng tiến độ.
b. Những điều nên/ không nên làm khi vào cộng đồng (đến với dân)
- Những điều nên làm
+ Tác phong: nhẹ nhàng, vui vẻ, gần gủi, chia sẻ, đoàn kết;
+ Hoà nhập, tôn trọng, tin tưởng, không có khoảng cách;
+ Tìm hiểu (quan sát) kỹ phong tục tập quán, địa lý, cơ sở hạ tầng, nhu cầu
người dân;
https://www.jica.go.jp/partner/ngo_support/japandesk/ku57pq00001xamy3-att/
jd_vietnam_05_01.pdf
+ Gặp gỡ, hiểu rõ người dân và nắm bắt tâm tư nguyện vọng của dân, tạo sự
hợp tác hoà nhập với cộng đồng.
- Những điều không nên làm
+ Nói nhiều, hứa nhiều, hứa suông;
+ Chủ quan, làm mà không lấy ý kiến cộng đồng, thiếu sự kết hợp;
+ Nóng vội, hấp tấp, nóng nảy, chạy đua theo thành tích;
+ Quan liêu, áp đặt, khoe khoang, xa cách cộng đồng;
+ Cử chỉ hành động không đẹp mắt như: thiếu tôn trọng dân, uống rượu bia
quá say, đối xử thiếu văn hoá;
+ Đụng chạm riêng tư cá nhân, gây mất đoàn kết, chia rẽ cộng đồng;
+ Chú ý hay có tình cảm thân thiết hơn với một vài người.
c. Tôn trọng giá trị, niềm tin, tín ngưỡng và phong tục tập quán của cộng đồng.
Đất nước ta có 54 dân tộc anh em cùng chung sống trên khắp 3 miền Bắc,
Trung, Nam. Mỗi nơi cũng có những nét phong tục tập quán, ngôn ngữ khác nhau.
Là một tác viên cộng đồng, khi đến một địa phương nào đó để cùng làm việc,
chúng ta nên tìm hiểu những giá trị, niềm tin, phong tục tập quán ở nơi đó để biết
mình nên cư xử với người dân những gì, như thế nào và những gì không nên làm,
nên tránh để tạo được mối quan hệ hợp tác với người dân.
Tôn trọng giá trị, niềm tin, tín ngưỡng và phong tục tập quán của cộng đồng
có nghĩa là chúng ta biết chấp nhận sự khác biệt giữa ta và cộng đồng, không khen
chê, khích bác.
d. Nhận thức về mình
Người xưa có câu “Biết người biết ta, trăm trận trăm thắng”. Biết “ta” là khi
tác viên cộng đồng đến với cộng đồng, tiếp xúc với người dân, tác viên cộng đồng
cần biết rõ về mặt mạnh của mình để phát huy, đồng thời cũng cần biết rõ về những
điểm hạn chế của mình nhằm tránh mối quan hệ với cộng đồng trở nên xấu đi.
Ngoài biết ta, tác viên cộng đồng cũng cần biết “người” nghĩa là biết điểm mạnh và
hạn chế cộng đồng, những người dân tại cộng đồng.
Với cộng đồng, tác viên cần hiểu rõ về văn hóa, giá trị, tín ngưỡng, phong
tục tập quán của cộng đồng, theo từng dân tộc, từng vùng miền.
4. Thực hành giao tiếp ứng xử trong một số tình huống cụ thể20
4.1. Thông báo tin xấu
Những khó khăn khi phải thông báo tin xấu:
- Thầy thuốc cảm thấy mình có một phần trách nhiệm trong đó và sợ bị buộc
tội.
- Không biết cách làm như thế nào là tốt nhất.
- Sợ làm thay đổi vị thế trong mối quan hệ thầy thuốc - bệnh nhân.
- Chưa hiểu hết bệnh nhân.
- Lo ngại những biến chứng, thay đổi hình dạng cơ thể, đau đớn cho bệnh nhân.
Một số nguyên tắc thông báo tin xấu
- Giải thích trước rằng bạn sẽ nói về vấn đề gì.
- Sử dụng các câu đơn giản, ngắn gọn, tránh các thuật ngữ chuyên môn khó
hiểu.
- Luôn kiểm tra xem người nghe có hiểu đúng những điều bạn nói.
Cách thức
- Cần phải có bước chuẩn bị cá nhân.
- Giao tiếp phải chậm, vừa với mức độ tiếp thu của bệnh nhân. Câu phải đơn
giản, tránh lặp đi lặp lại cụm từ nào đó.
- Lưu ý đến các kĩ năng giao tiếp phi ngôn ngữ, ví dụ: nhìn vào mắt bệnh
nhân với ánh mắt chân tình.
-Bắt đầu từ những gì mà bệnh nhân/người nhà đã biết.
- Lắng nghe một cách tích cực. Giúp bệnh nhân huy động những tiềm lực của
họ để đối phó.
- Không nên đưa ra những lời động viên không có cơ sở cốt để yên lòng
người bệnh. Tuy nhiên lại cần phải truyền cho họ niềm hi vọng thực tế.
Những điều không nên
20
PGS.TS. Nguyễn Sinh Phúc - Bộ môn Tâm thần dẫn theo
http://www.benhvien103.vn/vietnamese/bai-giang-chuyen-nganh/tam-than/giao-tiep-thay-thuoc---
benh-nhan/710/
- Không thông báo tin xấu khi vừa mới khám xong bệnh nhân, khi họ còn
chưa mặc xong quần áo.
- Không thông báo ngoài hành lang, qua điện thoại.
- Không chạy đi, chạy lại khi đang nói chuyện.
- Sau khi thông báo xong có thể thỏa thuận về việc theo dõi tiếp hoặc gợi ý
giới thiệu đến chuyên gia khác hoặc đến tư vấn tâm lí nếu bệnh nhân có nhu cầu.
4.2. Giao tiếp với bệnh nhi:
Những khó khăn thường gặp khi giao tiếp với bệnh nhi:
- Không biết nói như thế nào nếu như không dùng từ chuyên môn.
- Trẻ sợ người lạ, do vậy hoặc là chúng khóc, hoặc là chúng im lặng.
- Trước đây trẻ cũng đã bị bệnh và phải vào bệnh viện hoặc được thầy thuốc
chữa trị. Có thể chúng vẫn còn ấn tượng đau đớn. Đặc biệt có những trường hợp
hình tượng bác sĩ được đưa ra để dọa trẻ: “ăn đi, không mẹ gọi bác sĩ tiêm cho con.
Bác sĩ mà tiêm là đau lắm”.
- Thầy thuốc ngại gây đau đớn cho trẻ.
- Sợ trẻ vặn vẹo, giãy giụa khi bị đau hoặc khó chịu (ví dụ, bị đè lưỡi để soi họng).
Ngại cha mẹ trẻ sợ quá mức rằng điều xấu có thể xảy ra với con của họ.
- Cảm thấy khó hỏi khi có dấu hiệu trẻ bị lạm dụng.
Những điều nên
- Đặt mình ở vào tầm tuổi của trẻ để hiểu được những đặc điểm tâm lí của chúng.
- Tạo được sự tự tin và hợp tác của trẻ trước khi khám.
- Tìm hiểu được những ngôn từ mà trẻ sử dụng để gọi tên các bộ phận cơ thể.
- Giải thích trước những việc cần làm, chuẩn bị cho trẻ không bị bất ngờ với
tiếng ồn, mùi lạ và những kĩ thuật xét nghiệm, khám bệnh gây đau đớn hoặc những
việc khác với thường ngày.
Không nên:
- Phụ thuộc quá nhiều vào chuyện dỗ dành, cho quà. Làm như vậy dễ tạo cho
trẻ quen được quà và sẽ đòi quà sau mỗi lần, ví dụ: tiêm thuốc.
- Hứa những điều không thể, ví dụ: “Bác tiêm không đau đâu”. Trong trường
hợp như vậy dễ làm trẻ hoảng sợ và mất lòng tin.
- Sử dụng từ ngữ phức tạp hoặc thuật ngữ chuyên môn.
Nói chung khi cần thông tin cho trẻ điều gì đó thì nên kiểm tra lại xem trẻ có
hiểu đúng hay không. Trong giao tiếp với trẻ, nhất là trẻ nhỏ, có thể sự dụng sự trợ
giúp của đồ chơi, ví dụ, gấu bông nhỏ hay búp bê.
Thầy thuốc và cha mẹ của trẻ cần thống nhất và bình tĩnh. Thực tế cho thấy
những đứa trẻ được giải thích trước một cách đầy đủ những gì cần phải làm, điều gì
có thể xảy ra thì sẽ ít rơi vào trạng thái lo âu.
4.3. Giao tiếp với người già:
Người phương Đông thường nói câu: sinh, lão, bệnh, tử. Con người sinh ra ở
trên đời, đến một lúc nào đó thì cũng phải già, hay đau ốm. Tuổi già thường kéo
theo tốc độ phản xạ chậm, suy giảm độ tinh tế của các vận động, dạng như ăn cơm
hay rơi vãi. Nhịp sinh học cũng thay đổi, đêm ngủ ít, đi ngủ sớm nhưng dậy rất
sớm, hoặc có trường hợp mất ngủ, mỗi đêm chỉ ngủ được khoảng 2 - 3 tiếng, giấc
ngủ chập chờn, không sâu. Người già cũng dễ gặp các bệnh, ví dụ như về tim
mạch, khớp, cột sống…
Một số đặc điểm tâm lí thường gặp ở người già: giảm sút trí nhớ, kém tập
trung chú ý, tư duy chậm chạp, dễ thay đổi dấu của các phản ứng cảm xúc.